Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

Tiếp tiế[...GIỞ NHỮNG TỜ LỊCH CŨ 1975: NGÀY THỨ 31

 2e3c2eq

Tháng 4 tan hàng: GIỞ NHỮNG TỜ LỊCH CŨ 1975: NGÀY THỨ 31 – Long Khánh bùng nổ – 9-4-1975.- Bom BLU-82 (Bảo Định Nguyễn Hữu Chế)


Tháng 4 tan hàng
GIỞ NHỮNG TỜ LỊCH CŨ 1975
NGÀY THỨ 31 – Long Khánh bùng nổ – 9-4-1975.
BOM BLU-82
Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
Flag VN
Logo18Logo_Quan Doan III
Đúng 5 giờ 40 phút sáng ngày 9/4/1975, hàng ngàn trái đại bác đủ loại trút xuống thị xã nhỏ bé Xuân Lộc với diện tích vài cây số vuông. Trận mưa pháo tàn bạo và hiểm ác kéo dài trong một tiếng đồng hồ, tiếp theo sau là những đợt tấn công biễn người có xe tăng yểm trợ. Nhưng 3 sư đoàn 6, 7 và 341 của Quân Đoàn 4 do Thiếu Tướng Hoàng Cầm chỉ huy đã thất bại ngay trong những đợt tấn công đầu tiên.
Các đợt tấn công của quân CSBV đã bị chận đứng ngay bên ngoài vòng đai phòng thủ của các chiến binh dũng cảm Nỏ Thần Miền Đông, Mũ Nâu, ĐPQ & NQ tỉnh Long Khánh. Sau ba ngày liên tục pháo và tấn công, quân CSBV vẫn bị cầm chân bên ngoài, chỉ có một vài toán nhỏ bộ đội lọt được vào bên trong, nhưng bị tiêu diệt ngay, phần lớn bị bắt làm tù binh. Bọn đầu sỏ Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà phải mở cuộc họp khẩn cấp tại Lộc Ninh vào buổi chiều ngày 11/4/75 để bàn thảo một phương án mới hầu tránh bị tiêu diệt. Trong lúc đó, vào buổi sáng ngày 12/4/75, quân trú phòng lại được tămg cường Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, làm cho kế hoạch tấn chiếm Xuân Lộc càng thêm vô vọng.
Cuộc chiến vẫn trong tình trạng giằng co. CSBV điều thêm vào chiến trường Trung Đoàn 95B, rồi Sư Đoàn 325, nhưng vẫn không đạt được những gì chúng mong muốn. Sau khi phòng tuyến Phan Rang thất thủ chiều ngày 16/4/75, Quân Đoàn Duyên Hải/CSBV do Tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy đang trực chỉ Xuân Lộc. Bộ đội của hắn đã xuất hiện ở Rừng Lá.
Quân CSBV càng tập trung đông đảo, càng là miếng mồi ngon cho loại bom có sức hủy diệt lớn. Đó là Bom BLU-82.
  BẢO ĐỊNH
Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Quốc Cộng, QLVNCH được người bạn đồng minh Hoa Kỳ cung cấp cho 6 trái bom loại lớn nhất, có tên gọi là BLU-82 để QLVNCH có thể ngăn chận được làn sóng đỏ đang hung dữ tràn vào từ phương Bắc. Loại bom này xử dụng ngòi nổ “Daisy Cutter”. Nhưng có điều hôi hài, người bạn chỉ cung cấp 2 ngòi nổ!
Bom nặng 15,000 pounds, đường kính 54 inches, chiều dài 141,6 inches, trị giá khoảng $27,318 USD. Bom được đặt lên vận tải cơ C.130, bay ở cao độ 6,000 feet. Tùy theo tính chất của mục tiêu, bom BLU-82 có loại văng miểng, có loại gây hơi ép, khi nổ tạo ra áp lực 1,000 pounds/square inch. BLU-82 có công hiệu chống hầm hố bằng cách phóng ra một hổn hợp nhiên liệu khí, khi nổ gây sức ép lớn, đồng thời đốt hết dưỡng khí trong một khu vực.
Theo tài liệu của George J. Veith & Merle L. Pribbenow II trong quyển “Fighting Is An Art”, tháng 4 năm 1975, Không Lực Hoa Kỳ dùng máy bay C-130 chở những trái bom tới Phi trường Tân Sơn Nhất, trao lại cho Không Quân VNCH. Các chuyên viên của cơ quan DAO sẽ huấn luyện cho phi công QLVNCH cách xử dụng. Buổi chiều ngày Thứ Ba, 22 tháng 4 năm 1975, một chiếc C-130 của Không Quân VNCH chở một trái CBU rời Phi trường TSN, bay ra Xuân Lộc, đảo một vòng rồi nhắm hướng Đông, thả trái bom CBU xuống Chỉ Huy Sở của Sư Đoàn 341/CSBV, đặt ngay bên ngoài thị xã Xuân Lộc vừa bị bỏ ngỏ. Bom đã gây thiệt hại nặng nề cho quân CSBV. Có hơn 250 tên bộ đội xâm lăng đền tội. Nhưng ở một đoạn khác, tác giả nói vì không có những phi vụ B-52, KQ/QLVNCH đã bay thả xuống những mục tiêu quan trọng tại chiến trường Xuân Lộc những trái bom nặng 15,000 pounds gọi là “Daisy Cutter”. Ngày 14/4, trái “Daisy Cutter” đầu tiên thả xuống Chỉ Huy Sở của QĐ4/CSBV, cách Xuân Lộc 12 cây số về hướng Đông Bắc. Tin tức ghi nhận có đến 75% mục tiêu bị hủy diệt. Tuy nhiên, một nguồn tin khác cho rằng trái “Daisy Cutter” đầu tiên đã được KQ/QLVNCH thả xuống hồi tháng 11/74. Theo Quân sử của QĐ4/CSBV, KQ/QLVNCH đã thả loại bom có tầm sát hại lớn là CBU (Cluster Bomb Unit) làm cho các đơn vị của chúng bị thiệt hại nặng.
Khi Tướng Võ Nguyên Giáp được báo cáo về vụ ném bom, đã gửi ngay một công điện vào Mặt Trận, khuyến cáo bọn chỉ huy chiến trường phải tấn công TSN và các phi trường khác để máy bay của KQ/QLVNCH không thể cất cánh được. Nhưng sự việc ai đã ra lệnh cho xử dụng bom, bao nhiêu trái, mục tiêu đánh bom, và sự thiệt hại do bom gây ra thì vẫn trong vòng bí mật.
Theo tài liệu “Tuyến Thép Xuân Lộc” do Đại Tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB, biên soạn, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTTM/QLVNCH, xác nhận hai trái bom thả xuống Xuân Lộc là loại bom BLU-82 chứ không phải CBU-55, do Không Quân QLVNCH bay thả xuống vùng tập trung quân CSBV. Mục tiêu do Tư Lệnh Chiến Trường (Lê Minh Đảo) cung cấp, Tư Lệnh Quân Đoàn (Nguyễn Văn Toàn) xin BTTM, và khi Đại Tướng TTMT Cao Văn Viên chấp thuận thì chuyển qua cho Tư Lệnh Không Quân (Trung Tướng Trần Văn Minh). Và chỉ có Tư Lệnh Không Quân biết để mà thi hành.
Theo quyển “Những Ngày Cuối của VNCH” của Đại Tướng Cao Văn Viên, cuối tháng 2/1975, BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp những loại bom chiến lược không quân có thể xử dụng được. Hoa Kỳ hứa gửi 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện. Giữa tháng 4, ba trái được chở đến, cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn. Nhưng người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái máy bay thả bom thì không đến. Trong tình trạng khẩn trương của chiến trường, BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom.
“Vào một giờ sáng phi cơ thả trái “Daisy Cutter” đầu tiên cách Xuân Lộc 6 cây số về hướng tây bắc. Thành phố Xuân Lộc rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động – bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy”.
Theo quyển “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975” của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại Tá Lê Bá Khiếu, và Tiến Sĩ Nguyễn Văn, trang 255 có ghi: “Đêm 15/4/75, sau khi cộng quân tràn ngập vùng ngã ba Dầu Giây, Tướng Toàn, TL/QĐ III đã quyết định đề nghị Bộ TTM cho xử dụng hai quả bom “Daisy Cutter”. Bom Daisy Cutter thực sự dùng để phá rừng, sửa soạn bãi đáp trực thăng cho một số quân cở Trung Đoàn, cho nên từ trước đến nay, QLVNCH chưa bao giờ xử dụng đến. Kết quả hai trái bom “Daisy Cutter” đã loại khỏi vòng chiến 2 Sư Đoàn Cộng Quân (hơn 10,000 quân). Sau khi bị hai trái bom “Daisy Cutter” sát hại, Bắc Việt la hoảng phản đối, cho rằng B-52 của Hoa Kỳ đã trở lại…”
Theo Đại Tá Hoàng Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/QĐ III cho biết “khu vực đánh bom là dọc theo QL20, phía Nam Kiệm Tân”. Theo Hànội thì khu vực bị đánh bom nằm giữa Biên Hòa và Xuân Lộc. Mục tiêu được lựa chọn để đánh bom là chỉ huy sở của sư đoàn 341/CSBV.
Theo quyển Hồi Ký “Chiến Đấu Đến Cùng” của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, TL/Lực Lượng Xung Kích QĐIII, nói ông đã cho lệnh đánh hai trái bom CBU-55. Đại Úy Chi Đoàn Trưởng thuộc CĐ315 Kỵ Binh cho rằng đã chứng kiến 2 trái bom rớt xuống khu vực ngã ba Dầu Giây. Nhưng theo kinh nghiệm của người viết, là Tiểu Đoàn Trưởng của đơn vị phòng thủ Núi Thị, chỉ cách ngã ba lối 7 cây số, thì nếu bom đánh ở khu vực Ngã Ba, căn cứ Núi Thị phải bị chấn động. Và nhất là Đại Đội 43 Trinh Sát của Trung Úy Khoát, hoạt động khu vực hướng Tây Nam Núi Ma, cách Ngã Ba lối 3 cây số mà không hề hay biết gì cả! Vậy có thể mục tiêu không phải là ngã ba Dầu Giây.
Ông Nguyễn Cao Kỳ trong quyển “Buddha’s Child” (My Fight To Save Vietnam) viết chung với Marvin J. Wolf, xuất bản May 2002, cũng tuyên bố chính ông cho lệnh đánh hai trái bom. Nhưng trong thời điểm đó, ông Kỳ chỉ là Tướng “không quân”, “ngồi chơi xơi nước”, không đảm trách một nhiệm vụ gì về Hành Chánh hay Quân Đội. Đã không chức, không quyền thì ông Kỳ ra lệnh được ai? Và ai dám thi hành lệnh của ông, dù ông là cựu Phó Tổng Thống, cựu Thủ Tướng, cựu Tư Lệnh Không Quân. Ở trang 331, ông Kỳ viết: “…One day Operations called to say that an enemy division (thật ra là 3 sư đoàn 6, 7 và 341) had encircled one of our bases. Our people asked for air support, but there were so many troops that only a cluster bomb would be of any use.
I had none on hand, so I asked the air force commander. He said that he had no authority to autorize their use. I asked the chief of the joint general staff; his answer was the same. I called several generals, and each said they had no authority. I knew that if I were to ask Thieu, he would have to consider his answer for a while, so I called the prime minister, Tran Thien Khiem.
“It’s up to you,” he replied after I had explained the situation. “Tell them that I’m okay with it.”
I called the chief of operations back and said, “Okay, use it.” He accepted my authority (ông Giám Đốc Trung Tâm Hành Quân này chắc phải ra Tòa Án Quân Sự!), and the resulting air strike was the last time we inflicted major casualies on the enemy”.
Theo Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Chiến Đoàn Trưởng 43 nằm bên trong thị xã Xuân Lộc, hai trái bom được thả vào ban đêm. Ngay sau khi hai trái bom đã được thả, Đại Tá Trang, bạn cùng khóa Võ Bị, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn III, gọi cho ông hỏi có cảm nhận gì không? Đại Tá Hiếu cho biết, bom nổ đã gây chấn động mạnh, các ngọn đèn điện phụt tắt.
Về sự thiệt hại do hai trái bom gây ra thì có nhiều nguồn tin khác nhau. Từ con số vài trăm đến vài ngàn, thậm chí có tác giả đưa ra con số 10,000, và nói đã loại khỏi vòng chiến 2 Sư Đoàn CSBV! Nhưng nhiều người, kể cả Hànội, vẫn đồng ý mục tiêu là chỉ huy sở của Sư 341/CSBV, nơi tập trung nhiều xe tăng, bộ đội và hậu cần của chúng.
Trong một trận đánh tại mặt trận Trảng Bom vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, một sĩ quan cấp Tiểu Đoàn Trưởng của Sư đoàn 18BB bị bắt, được dẫn tới gặp tên E Trưởng (tức Trung Đoàn Trưởng), tên này nói: “May mắn cho anh là gặp chúng tôi, nếu anh gặp đơn vị kia (ý hắn muốn nói đơn vị bị thiệt hại nặng, hẳn là Sư 341) thì anh đã bị bắn chết tại chỗ!
Sau khi thả hai trái bom gây chấn động trong hàng ngũ CSBV, LL/XK/QĐIII của Tướng Khôi và Trung Đoàn 8 của Đại Tá Hùng vẫn tiếp tục đánh nhau với Cộng quân tại khu vực phía Tây ngã ba Dầu Giây cho đến khi Sư Đoàn 18BB có lệnh rút.
Tại căn cứ hỏa lực Núi Thị, hai chủ đồn điền cao su người Pháp, một của đồn điền Túc Trưng, và một là chủ đồn điền S.I.P., bị quân CSBV bắt giam đưa vào rừng mấy ngày, nhưng khi được xác nhận là Pháp kiều thì được thả. Họ đã đến trình diện vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng 2/43, và đã cung cấp nhiều tin tức quan trọng.. Đặc biệt họ cho biết đã chứng kiến cảnh xe bò, xe trâu tản thương suốt cả một ngày và một đêm. Mỗi xe đều chồng chất lên nhau từ 3 đến 5 thương binh hay xác chết của Cộng quân. Phải chăng đó là những tổn thất của CSBV do hai trái bom BLU-82 gây ra.
Nếu Không Quân QLVNCH có đủ 6 ngòi nổ để đánh phủ đầu quân CSBV xâm lăng thì có lẽ tình thế đã đổi khác.
Sau khi chiếm được Phan Rang chiều ngày 16/4/75, Quân Đoàn Duyên Hải của Tướng Lê Trọng Tấn liền trực chỉ Xuân Lộc. Bộ đội của hắn đã xuất hiện ở Rừng Lá. Các đoàn convoy chở đầy bộ đội và tiếp liệu thì cứ phon phon chạy trên đường QL1. Chúng đã công khai ra mặt, không cần lén lút dấu diếm.
Nhưng người bạn Mỹ chỉ cần 2 trái để làm chậm bước tiến quân của bộ đội CSBV, hầu Đại Sứ Quán của họ có đủ thời gian sắp xếp cho việc di tản nhân viên và kiều dân Mỹ ra Hạm Đội 7 đang đậu ngoài khơi thành phố Vũng Tàu. Một trang sử mới đã lật qua nhẹ nhàng đối với người bạn một thời là đồng minh của VNCH. Ngày 26/4/1975, còn 4 ngày nữa Sàigòn mới thất thủ, nhưng tại New Orleans, Louisiana, trong một bài diễn văn, Tổng Thống Gerald R. Ford tuyên bố: “…the war was ‘finished as far as America is concerned.’”
Michigan, Ngày Quốc Hận 30/4 lần thứ 33.
BẢO ĐỊNH
(Xuân Lộc, Trận Chiến Cuối Cùng mà tôi biết)
http://www.sudoan18bobinh.com/blu82-nhc/4528655350
 Nguồn: http://vuottuonglua.org/2016/04/thang-4-tan-hang-gio-nhung-to-lich-cu-1975-ngay-thu-31-long-khanh-bung-no-9-4-1975-bom-blu-82-bao-dinh-nguyen-huu-che/




Nguyễn Hữu Chế – TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG

TUYẾN THÉP XUÂN LỘC
(9 tháng Tư – 20 tháng Tư, 1975)
1
Thiếu tướng Lê Minh Đảo họp báo tại Mặt trận Xuân Lộc ngày 13.4.75
Thiếu tướng Lê Minh Đảo họp báo tại Mặt trận Xuân Lộc ngày 13.4.75
Sau khi trình bày diễn tiến trận đánh cho các phóng viên báo chí, ông Tướng nói tiếng Anh theo yêu cầu của một số phóng viên ngoại quốc, trong đó có câu nói xác định tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân sĩ: “I don’t care how many divisions the other side sends against me, I will knock them down.”
“Tôi sẽ giữ vững Long Khánh.
Tôi không cần biết phía bên kia sẽ đưa đến bao nhiêu Sư đoàn
để đánh chúng tôi,
 chúng tôi sẽ tiêu diệt họ”
Thiếu tướng Lê Minh Đảo
Tư lệnh Sư đoàn 18BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc 
CẢM TẠ
Người viết chân thành cám ơn quí Chiến hữu có bài viết liên quan đến TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG được trích dẫn hay lấy ý để soạn thảo bài viết này.
Người viết đặc biệt cảm tạ:
Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Cựu TL/SĐ18BB kiêm TL/Mặt trận Xuân Lộc,
Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB,
Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 43, SĐ18BB,
Và các Chiến hữu Sư đoàn 18BB,
đã cho ý kiến, kể chuyện, hoặc cung cấp tài liệu để người viết có dịp soạn thảo bài viết.
Người viết chỉ là một lính trận, đã chiến đấu suốt 12 ngày đêm của TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG, viết lại theo những kinh nghiệm cá nhân và đồng đội, dĩ nhiên còn nhiều thiếu sót.
Một lần nữa xin cám ơn tất cả.
Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
Cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ2/43, SĐ18BB. 
  1. VÀO ĐỀ
“Đất đỏ pha thêm màu máu đỏ
     Nghìn thu lịch sử mãi ghi tên”
     (Đăng Nguyên – Chiều Nhớ Xuân Lộc)
Xuân đã qua, Hè đang đến. Ngày trở nên dài ra và đêm thì ngắn lại. Thỉnh thoảng trời Xuân Lộc đổ cơn mưa rào. Mưa chợt đến rồi chợt đi. Mặt đất ẩm ướt, có lúc lầy lội bùn sình đất đỏ. Không lâu nữa, đất đỏ lại pha thêm màu máu đỏ. Máu của giặc, máu của ta, máu của người dân Việt của cả hai miền Nam-Bắc “da vàng máu đỏ”.
Từ một tháng nay, Xuân Lộc rộn ràng không khí chiến tranh. Tin tức loan truyền nhanh chóng việc thất thủ Ban Mê Thuột, cuộc triệt thoái thất bại của Quân đoàn II, cuộc di tản chiến thuật không thành công của Quân đoàn I. Nhiều chiến binh oai hùng của QLVNCH sa cơ thất thế tại bãi biển Thuận An (Huế), bãi biển Sơn Chà (Đànẵng). Không biết câu thơ của ai đã diễn tả rất đúng trong trường hợp này:
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
     Gặp thời một chốt cũng thành công”
Các chuyến bay vội vàng rời sân bay Đànẵng mắc nạn trên biển Đông, trong vùng biển Sa Huỳnh. Các tỉnh thành từ Thừa Thiên đến Khánh Hòa bị bỏ ngõ. Quân CSBV đã vào đến Phan Rang. Phan Rang đã trở thành vùng hỏa tuyến. Đồng bào từ ngoài Trung, từ Cao Nguyên Trung phần trốn chạy Cộng sản, ùn ùn bồng bế nhau vào Nam. Thị xã đất đỏ Xuân Lộc phút chốc trở nên náo nhiệt. Đường phố tràn ngập người dân tỵ nạn. Dân lo âu sợ hãi. Nét kinh hoàng lộ rõ trên những khuôn mặt dãi dầu mưa nắng. Lính âm thầm chịu đựng lo bố phòng. Chiến hào được đắp cao. Những vòng kẽm gai chằng chịt được nối thêm. Các ụ chống chiến xa được dựng lên hai đầu thị xã. Mìn, lựu đạn được gài cùng khắp.
Thần chiến tranh sắp vào đến cửa ngõ!
Thế rồi “Trận Chiến Cuối Cùng” đã đến! Đó là trận chiến Xuân Lộc tháng Tư năm 1975. Đây là trận đối đầu ác liệt, nhưng rất bi hùng giữa Quân và Dân VNCH với quân xâm lăng CSBV. Trận chiến kéo dài suốt 12 ngày đêm. Khởi đầu từ lúc 5 giờ 40 phút sáng ngày 9 tháng Tư năm 1975, khi Thiếu tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4/CSBV phát lệnh tấn công, và chấm dứt vào lúc 5 giờ sáng ngày 21 tháng Tư năm 1975, khi Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế, đơn vị cuối cùng xuống núi (Núi Thị), rời Xuân Lộc, và bắt đầu cuộc Hành quân Lui binh.
Xuân Lộc là chiến tuyến cuối cùng bảo vệ Thủ đô Sàigòn, bảo vệ VNCH. Mất Xuân Lộc là mất Sàigòn, mất VNCH! Ai cũng biết điều này. Nhưng làm sao để giữ được Xuân Lộc? Đó là câu hỏi mà Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo, quân và dân Xuân Lộc phải trả lời. Và họ đã trả lời bằng hành động quyết chiến quyết thắng. Chiến thắng Xuân Lộc làm ngạc nhiên mọi người, cả địch lẫn ta. Chiến thắng Xuân Lộc làm nức lòng Quân và Dân Miền Nam. Chiến thắng Xuân Lộc làm lóe lên một tia hy vọng. Dư luận của quân và dân Miền Nam: Giá như có thêm vài Xuân Lộc nữa!
Qua đánh giá của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, của Đồng Minh, và dư luận của công chúng, Sư đoàn 18BB không phải là đơn vị đánh giặc giỏi. Đã có lúc đại đơn vị này bị xem là một trong những đại đơn vị chiến đấu kém hiệu năng. Nhưng do đâu, nhờ đâu, đại đơn vị này có thời bị chế riễu là Sư đoàn “bù”! (thời còn mang danh hiệu Sư đoàn 10), với sự đánh giá không mấy thiện cảm của Bộ TTM/QLVNCH và Đồng Minh, Sư đoàn 18BB đã vươn lên như Phù Đổng Thiên Vương ngày xưa dưới thời đại Hùng Vương, khi giặc Ân bên Tàu sang xâm lăng nước ta. Từ một cậu bé ba tuổi vẫn chưa biết nói, vươn vai một cái, thành người cao lớn một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc và đã thắng giặc. Sư đoàn 18BB thật sự đã vươn lên, kể từ ngày Đại tá Lê Minh Đảo về nắm chức Tư lệnh Sư đoàn năm 1972. Một tướng lãnh Hoa Kỳ, Tướng Phillip B. Davidson đã có câu giải đáp: “…when properly led, it had the ‘right stuff’”.
Từ những cánh rừng cao su bạt ngàn xanh ngắt, từ những đồi núi trùng trùng điệp điệp, những khẩu đại pháo được ngụy trang kỹ, loại 75ly, 120ly, 130ly, và hỏa tiễn 122ly của quân Cộng sản Bắc Việt đồng loạt nã hàng ngàn trái đạn pháo vào Xuân Lộc. Trong vòng một tiếng đồng hồ, hơn 2 ngàn trái đạn pháo theo nhau đổ ập xuống thị xã.  Thị xã nhỏ bé của tỉnh Long Khánh rung chuyển như đang trong cơn địa chấn. Ánh chớp đủ màu sắc xanh đỏ tím vàng. Ánh chớp lóe lên dồn dập, trông chẳng khác nào đêm hội hoa đăng. Ánh chớp xé tan màn đêm u tịch, phá tan bầu không khí ngột ngạt đang bao phủ Xuân Lộc từ một tháng nay.
Trời vẫn chưa sáng. Sương đêm còn dày đặc. Xuân lộc đang say sưa trong giấc ngủ muộn. Bổng nhiên đất trời rung chuyển. Khói súng mịt mù. Lưới đạn đan nhau. Đạn giặc, đạn ta xuyên qua màn đêm, như hàng ngàn hàng vạn vì sao băng. Tòa lâu đài cổ hai tầng tại Núi Thị rung rinh trước cơn bão lửa. Cây anten 292 như muốn gãy sập, nhưng thật kỳ diệu, vẫn can trường đứng vững!
Lúc bấy giờ là 5 giờ 40 phút sáng thứ Tư, ngày 9 tháng Tư năm 1975. Điều mọi người chờ đợi đã đến! Trận đánh bắt đầu. Đây là trận chiến cuối cùng mang tính quyết định. Sau đó là chấm dứt cuộc chiến. Một cuộc chiến tranh tồi tệ và tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc Việt. Cuộc chiến mà phía chính nghĩa bị thua, kẻ ác và gian tà đã thắng, như lời phát biểu của Thượng Nghị Sĩ John McCain, cựu tù nhân chiến tranh bị giam cầm trong nhiều năm tại nhà lao Hỏa Lò (Hà Nội), ngay tại sào huyệt của cộng phỉ, mà không sợ mất lòng chủ nhà, nhân một lần viếng thăm. Cuộc chiến do CSBV phát động, do sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Ông ta và đồng bọn tự nguyện làm đội quân tiên phong cho Cộng sản Đệ tam Quốc tế trong mưu toan nhuộm đỏ thế giới! Cuộc chiến kéo dài gần 21 năm (tháng 7/1954-tháng 4/1975). Hồ Chí Minh và đảng cướp của ông ta đã phát động một cuộc chiến tranh vô nghĩa, đã làm tiêu hao hàng triệu sinh linh người dân Việt của cả hai miền. Chưa bao giờ mảnh đất hình chữ S, trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu bị tàn phá khủng khiếp như vậy.
Xuân Lộc là tỉnh lỵ của Long Khánh, được thành lập năm 1957, thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Xuân Lộc là cửa ngõ hướng Đông đi vào Sàigòn, Thủ đô của nước Việt Nam Cộng Hòa, là giao điểm của hai trục lộ chính: QL1 và QL20. Thị xã nằm trải dài theo đường QL1, cách Sài Gòn hơn 60 cây số. Hình thể Xuân Lộc như một ấp chiến lược, được bao quanh bằng bờ đê, với những hàng rào kẽm gai. Thị xã có khoảng 30 ngàn dân, diện tích chỉ vài cây số vuông. Phố xá nhỏ hẹp. Đất đỏ, nắng bụi, và mưa bùn. “Đi dăm phút đã về chốn cũ”. Chung quanh thị xã Xuân Lộc là rừng cao su và núi thấp, với nhiều vườn cây ăn trái. Xuân Lộc nổi tiếng loại chôm chôm, chuối và mít, đặc biệt với loại mít tố nữ. Cà phê cũng là một đặc sản của Xuân Lộc, ngon nhất là loại cà phê “cứt chồn”. Hầu hết dân cư là từ phương xa đến lập nghiệp, đa số từ Miền Trung. Mức sống người dân không cao, nhưng không phải sống cuộc đời lam lũ. Họ sinh sống trên một vùng đất màu mở, có nhiều vườn cây ăn trái, nhiều đồn điền cà phê, và đồn điền cao su, nên cũng có của ăn của để.
Từ bao đời, người dân được sống cuộc đời an lành và bình dị. Chỉ cách xa Thủ đô Sài Gòn hơn 60 cây số, nhưng thị xã Xuân Lộc của tỉnh Long Khánh vẫn chỉ là một tỉnh lẻ, với sinh hoạt bình thản, không vội vàng hối hả như Sài Gòn.
Quân CSBV tiến vào XL hoang tàn bỏ ngõ
Quân CSBV tiến vào XL hoang tàn bỏ ngõ
Vào một ngày của Tháng Tư năm 1975, một trận ba đào nổi lên, đã phủ ập xuống người dân hiền lành, biến vùng đất nhỏ hẹp chỉ vài cây số vuông thành một lò lửa hừng hực thuốc súng. Số đạn pháo quân CSBV bắn vào Xuân Lộc, tính bình quân, mỗi người dân Xuân Lộc lãnh ít nhất hơn một trái! Số đạn pháo quân CSBV bắn vào Xuân Lộc ngày nay, còn nhiều hơn số đạn pháo quân Việt Minh bắn vào Điện Biên Phủ năm xưa. Tỷ số  quân trú phòng của hai bên đối nghịch cũng tương đương như ở trận Điện Biên Phủ. Nhưng Xuân Lộc vẫn đứng vững, dù sau đó được lệnh phải triệt thoái, nên Xuân Lộc đã bị bỏ ngỏ. Quân CSBV tiến vào Xuân Lộc, chỉ là tiến vào một vùng đất hoang vắng!
Xuân Lộc là nơi đặt bản doanh của Sư đoàn 18 Bộ binh, tiền thân là Sư đoàn 10BB. Sư đoàn chính thức được thành lập ngày 16 tháng 5 năm 1965, với cơ cấu được hình thành từ các Trung đoàn Bộ binh 43, 48, 52, Thiết đoàn 5 Kỵ binh, và các Tiểu đoàn Pháo binh 105ly và 155ly, gồm có 180, 181, 182 và 183, cùng các đơn vị  kỹ thuật.
Kể từ ngày thành lập, Sư đoàn được đặt dưới quyền các vị Tư lệnh:
Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, sau này Trung tướng: 5 tháng 6 năm 1965.
Chuẩn tướng Lữ Lan, sau này Trung tướng: 20 tháng 8 năm 1965.
Đại tá Đỗ Kế Giai, sau này Thiếu tướng: 16 tháng 9 năm 1966.
Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ, sau này Thiếu tướng: 20 tháng 8 năm 1969.
Đại tá Lê Minh Đảo, từ 04.04.72 đến ngày 30.04.75. Ông được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn tướng tại mặt trận An Lộc tháng 11 năm 1972, và Tổng thống Trần Văn Hương thăng cấp Thiếu tướng ngày 25.04.75 do chiến công tại mặt trận Xuân Lộc.
Sư đoàn 18BB không phải là đơn vị đánh giặc giỏi. Trái lại là một trong vài sư đoàn kém hiệu năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Do nhu cầu quân số, lúc mới thành lập, phần lớn quân số là tân binh quân dịch, một số là lao công đào binh được phục hồi, những quân nhân vi phạm kỷ luật từ các đơn vị bị thuyên chuyển đến. Cũng có tin nhảm: Sư đoàn 10BB là Sư đoàn “Trừng giới”.
Thoạt tiên Sư đoàn mang danh hiệu Sư đoàn 10 BB, với phù hiệu 10 ngôi sao trắng bao quanh ngọn núi Chứa Chan màu xanh thẩm. Đó là ngọn núi cao nhất vùng, có cao độ 837. Núi Chứa Chan còn có tên gọi Núi Gia Ray. Trong những ngày chiến cuộc, BTL/ Tiền Phương/QĐ4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã đặt bản doanh tại đây, do Tướng Bùi Cát Vũ, TLP/QĐ chỉ huy.
Vào một ngày của Tháng Tư năm 1975, một trận ba đào nổi lên, đã phủ ập xuống người dân hiền lành, biến vùng đất nhỏ hẹp chỉ vài cây số vuông thành một lò lửa hừng hực thuốc súng. Số đạn pháo quân CSBV bắn vào Xuân Lộc, tính bình quân, mỗi người dân Xuân Lộc lãnh ít nhất hơn một trái! Số đạn pháo quân CSBV bắn vào Xuân Lộc ngày nay, còn nhiều hơn số đạn pháo quân Việt Minh bắn vào Điện Biên Phủ năm xưa. Tỷ số  quân trú phòng của hai bên đối nghịch cũng tương đương như ở trận Điện Biên Phủ. Nhưng Xuân Lộc vẫn đứng vững, dù sau đó được lệnh phải triệt thoái, nên Xuân Lộc đã bị bỏ ngỏ. Quân CSBV tiến vào Xuân Lộc, chỉ là tiến vào một vùng đất hoang vắng!
Xuân Lộc là nơi đặt bản doanh của Sư đoàn 18 Bộ binh, tiền thân là Sư đoàn 10BB. Sư đoàn chính thức được thành lập ngày 16 tháng 5 năm 1965, với cơ cấu được hình thành từ các Trung đoàn Bộ binh 43, 48, 52, Thiết đoàn 5 Kỵ binh, và các Tiểu đoàn Pháo binh 105ly và 155ly, gồm có 180, 181, 182 và 183, cùng các đơn vị  kỹ thuật.
Kể từ ngày thành lập, Sư đoàn được đặt dưới quyền các vị Tư lệnh:
  • Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, sau này Trung tướng: 5 tháng 6 năm 1965.
  • Chuẩn tướng Lữ Lan, sau này Trung tướng: 20 tháng 8 năm 1965.
  • Đại tá Đỗ Kế Giai, sau này Thiếu tướng: 16 tháng 9 năm 1966.
  • Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ, sau này Thiếu tướng: 20 tháng 8 năm 1969.
  • Đại tá Lê Minh Đảo, từ 04.04.72 đến ngày 30.04.75. Ông được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn tướng tại mặt trận An Lộc tháng 11 năm 1972, và Tổng thống Trần Văn Hương thăng cấp Thiếu tướng ngày 25.04.75 do chiến công tại mặt trận Xuân Lộc.
Sư đoàn 18BB không phải là đơn vị đánh giặc giỏi. Trái lại là một trong vài sư đoàn kém hiệu năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Do nhu cầu quân số, lúc mới thành lập, phần lớn quân số là tân binh quân dịch, một số là lao công đào binh được phục hồi, những quân nhân vi phạm kỷ luật từ các đơn vị bị thuyên chuyển đến. Cũng có tin nhảm: Sư đoàn 10BB là Sư đoàn “Trừng giới”.
Thoạt tiên Sư đoàn mang danh hiệu Sư đoàn 10 BB, với phù hiệu 10 ngôi sao trắng bao quanh ngọn núi Chứa Chan màu xanh thẩm. Đó là ngọn núi cao nhất vùng, có cao độ 837. Núi Chứa Chan còn có tên gọi Núi Gia Ray. Trong những ngày chiến cuộc, BTL/ Tiền Phương/QĐ4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã đặt bản doanh tại đây, do Tướng Bùi Cát Vũ, TLP/QĐ chỉ huy.
Theo tính dị đoan của người Việt cũng như người phương Tây, số 10 là con số bù, “number ten”, là con số tượng trưng cho sự xui xẻo, và những điều không may. Ngày 1.1.1967, theo lời đề nghị của Chuẩn tướng Đổ Kế Giai, đương kim Tư lệnh Sư đoàn, Bộ TTM/QLVNCH đã chấp thuận cho cải danh thành Sư đoàn 18BB, với phù hiệu màu xanh nhạt tượng trưng cho màu trời, màu xanh đậm tượng trưng cho màu đất, và cung tên dựa vào truyền thuyết “Nỏ Thần” đời An Dương Vương (208 B.C.) trong lịch sử cổ đại của dân tộc Việt: “bắn một phát, giặc chết hàng vạn người!” (Trần Trọng Kim – VNSL).
Tại Xuân Lộc tháng Tư năm 1975, Cổ Loa Thành là tình đoàn kết gắn bó giữa quân (Sư đoàn 18BB) và dân (cư dân Long Khánh). Nỏ Thần là những là các loại vũ khí mà quân ta được trang bị: đó là những khẩu súng M-16, M-60, M-72, súng cối 60, súng cối 81, pháo 105, và pháo 155ly,… Nỏ thần là những trái lựu đạn, những trái mìn chống chiến xa của các chiến binh Miền Đông dũng cảm, giàu kinh nghiệm chiến trường. Tất cả một lòng quyết chiến quyết thắng.
1
Tù binh CSBV tại Xuân Lộc, tháng 4.1975
Quân xâm lăng CSBV tung vào trận địa một lực lượng đông gấp 5 lần. Chúng bắn hàng chục ngàn trái đạn đại pháo, sử dụng chiến thuật biển người, liên tiếp mở nhiều đợt tấn công trong suốt 12 ngày đêm, nhưng kết quả, chỉ chuốc lấy thảm bại. Đạo quân xâm lược với hơn 40 ngàn tên, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Hoàng Cầm, đã để lại tại trận địa hơn 6 ngàn xác chết, 37 xe tăng T-54 và PT-76 bị tiêu hủy. Đại quân của chúng bị chôn chặt bên ngoài vòng đai phòng thủ, để rồi bị ăn pháo và ăn bom! Sự thiệt hại của chúng còn nhiều hơn con số đếm được. Suốt trận chiến 12 ngày, chỉ có vài toán nhỏ bộ đội CSBV đi lạc vào bên trong thị xã, nhưng ngay sau đó đều bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống làm tù binh.
  1. TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT
A/- PHƯỚC LONG: TRẬN ĐÁNH THĂM DÒ
Vào đầu tháng 1 năm 1975, sau gần một tuần lễ mở cuộc tấn công vào Phước Long, quân CSBV đã làm chủ tỉnh địa đầu miền núi của Vùng 3 Chiến thuật.
        Với chính sách “4 không” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, VNCH quyết không để mất một tấc đất nào do tiền nhân để lại. Nhưng QLVNCH trên lý thuyết có khoảng 1 triệu quân nhân phục vụ dưới cờ, chỉ có vài trăm ngàn quân thực sự chiến đấu ngoài mặt trận. QLVNCH phải rải quân giữ đất, giữ dân. Hai Sư đoàn Tổng trừ bị bị cầm chân ở vùng giới tuyến phía Bắc. Các Sư đoàn Bộ binh lo giữ đất và giữ dân vùng trách nhiệm của mình, kể cả các Liên đoàn BĐQ cũng không rảnh tay. Khi Phước Long bị uy hiếp, QLVNCH đã không có lực lượng trừ bị hùng hậu để cứu viện. Đây là điều tối kỵ trong binh pháp. BTL/QĐIII chỉ đưa được 3 Đại đội Trinh sát của 3 Sư đoàn 5, 18, 25, và 2 Đại đội 81/ Biệt Kích Dù.
“Ngày 30 tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 3 và 7/CSBV đồng loạt tấn công quận lỵ Phước Bình. Đến chiều thì Bộ Chỉ huy Chi khu bị bắn sập. Lực lượng đang đóng tại đây phải lui về đóng chung quanh phi trường Sông Bé. Bốn chiến xa của CS bị bắn hạ tại cuối vòng đai phi trường…quân CS đã chiếm được núi Bà Rá, nơi đặt trạm viễn liên làm gián đoạn tạm thời các liên lạc với tỉnh lỵ. Sau đó các tiền sát viên CS đặt tại núi này đã điều chỉnh pháo 130ly làm tê liệt hầu hết các pháo đội của QLVNCH thuộc lực lượng phòng thủ.” (Nguyễn Đức Phương – Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập).
        Khi có dấu hiệu quân CSBV điều động lực lượng chuẩn bị đánh Phước Long, Tổng Thống hỏi Đại tá Tỉnh trưởng có cần thêm quân tăng viện, vị Tỉnh trưởng trả lời chưa cần (Một sĩ quan cấp Trung tá thuộc Phòng 3 Tiểu khu cho Đại úy Phạm Hữu Đa, Đại đội trưởng Trinh sát 18 biết như vậy). Đại đội 18 Trinh sát, cùng 2 Đại đội 5 và 25 được trực thăng vận vào Phước Long thay thế Tiểu đoàn BĐQ, 3 tháng trước khi tỉnh này bước vào trận chiến.
        ĐĐ18TS hoạt động khu vực quận Bố Đức mới. Một Trung đội của đơn vị này vào phòng thủ chung với ĐĐ/ĐPQ trong căn cứ. Một Tiểu đoàn quân CSBV di chuyển bằng xe molotova đến bao vây căn cứ. Đơn vị của Đa cùng ĐĐ/ĐPQ đã chiến đấu dũng cảm. Nhờ có pháo binh yểm trợ dồi dào và hữu hiệu, đơn vị giặc bị xóa sổ. Nhưng sau đó trong một cuộc điện đàm, Đại tá Tỉnh trưởng cho biết vì tình trạng khan hiếm đạn dược, pháo binh chỉ có thể bắn tối đa 5 trái một ngày. Cuộc điện đàm bị Cộng quân bắt được (do một nhân viên kiểm thính trên núi Bà Rá nói lại với Đa). Chúng biết quân ta khan hiếm đạn dược, liền điều động 3 Tiểu đoàn vào trận để trả thù, và dứt điểm tuyến phòng thủ bên ngoài của Phước Long. Quân số ít, pháo binh yểm trợ nhỏ giọt, không quân không can thiệp kịp thời, trước nguy cơ bị tiêu diệt, đơn vị trú phòng đành phải rút chạy.
        Sáng sớm ngày 3 tháng 1, quân CSBV tấn công vào thị xã Phước Long. Để cứu viện, Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Quân đoàn III cho trực thăng vận 2 Đại đội 81 Biệt kích Dù do Trung tá Thông chỉ huy. Đơn vị cứu viện đến. Nhưng quá ít, và qúa muộn màng!
        Ngày 6 tháng 1 năm 1975, lúc 3 giờ 30 chiều, quân CSBV với chiến xa yểm trợ, đã xuất hiện khắp nơi. Nhiều xe tăng giặc bị bắn cháy. Nhiều tên lính “cụ Hồ” bị giết chết. Nhưng thế giặc mạnh, quân giặc đông, vũ khí đạn dược dồi dào, quân trú phòng  ở thế hạ phong, đành phải rút chạy.  Đến 11 giờ đêm thì không còn liên lạc được với Phước Long.
Phước Long đã thất thủ!
        Phước Long cách Sàigòn khoảng 110 cây số về hướng Đông – Bắc, bị cô lập từ nhiều tháng. Các cuộc tiếp tế cho thị xã đều phải thực hiện bằng đường hàng không. Trong lúc đó CSBV đã đưa vào đây 3 sư đoàn cùng nhiều đơn vị pháo. Đó là Sư đoàn 3, 7, 9 và bộ đội đặc công, phối hợp cùng lực lượng địa phương và du kích.
Về phương diện quân sự, việc thất thủ Phước Long không quan trọng, nhưng hậu quả tâm lý và chính trị thì thật to lớn.
Ngày 18 tháng 12 năm 1974 tại Hànội, một cuộc họp liên tịch Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, có đại diện các chiến trường Miền Nam tham gia, sau khi phân tích tình hình chính trị và quân sự trong và ngoài nước, tên Thủ tướng muôn năm của Bắc Việt Phạm Văn Đồng phát biểu: “ …Mỹ rút quân do qui định của hiệp định Paris…Ngày nay, nó đem quân can thiệp trở lại là một chuyện không thể có. Có chăng là dùng không, hải quân chi viện…”. Rồi hắn vừa cười to vừa nói: “ Nói chơi cho vui nhưng cũng đúng sự thật là cho kẹo Mỹ cũng không vào”.
Khi được tin chiếm được Phước Long, Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Cộng đảng Bắc Việt nói: “Lần đầu tiên ở Miền Nam, một tỉnh hoàn toàn được giải phóng. Tỉnh đó lại ở gần Sàigòn và mở rộng vùng căn cứ quan trọng của ta ở Miền Đông. Thực tế này nói rõ hơn hết khả năng của ta, sự phản ứng thế nào của ngụy và nhất là của Mỹ”. Ngày 8 tháng 1, trong một bài diễn văn, Lê Duẩn phát biểu: “ Tình hình đã sáng tỏ. Chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoạch hai năm. Hai năm là ngắn và cũng là dài. Cuộc chiến đấu ở Miền Nam được thực lực mạnh ở Miền Bắc đẩy lên thành sức mạnh cả nước. Bây giờ quân Mỹ đã rút ra rồi, quân đội ta có sẵn trong Nam…Đây là nội dung của thời cơ, ta phải nắm vững quân sự, chính trị, ngoại giao…”
Về phía VNCH, nguyên Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bữu Viên viết: “Cộng sản trong khi tiến hành việc thử thách ý chí của QLVNCH và đặc biệt để đo lường phản ứng của chính phủ Mỹ đã lựa chọn thật đúng một mục tiêu dễ dàng. Sự thất thủ Phước Long hết sức quan trọng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, một tỉnh đã hoàn toàn lọt vào tay cộng sản và đây là một bằng chứng hiển nhiên của sự vi phạm trắng trợn thỏa ước ngưng bắn của Cộng sản…”
Kết thúc hội nghị, Ngày 24 tháng 1 năm 1975, Phái đoàn Miền Nam do Trần Văn Trà làm trưởng đoàn lên đường trở về B2. Nhưng trước đó bọn họ phải đến chào từ giả “Thái Thượng Hoàng” Lê Đức Thọ để nhận chỉ thị cuối cùng: “ Tôi đã đến cuộc họp thường trực Quân ủy Trung ương; đã truyền đạt quyết tâm của Bộ Chính trị là đánh Ban Mê Thuột. Chỉ chấp hành lệnh không thảo luận gì nữa cả”. Trước đó trong hội nghị, Thọ đã đưa ý kiến: “ Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Man Mê Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Ban Mê Thuột là thế nào?”
Bộ Chính trị Cộng đảng Bắc Việt quyết định chọn Phước Long làm trận mở đầu cho kế hoạch tổng tấn công thôn tính Miền Nam, là chọn một mục tiêu dễ dàng, nhưng mang tính to lớn vì là một tỉnh, dù dân số ít hơn xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình của Gia Định (vào thời điểm này, xã Phú Nhuận đã có lối 50 ngàn dân). Dù chỉ cách Thủ đô Sàigòn của VNCH khoảng 110 cây số, nhưng là một tỉnh miền núi, khó phòng thủ, khó ngăn chận những đường địch xâm nhập. Dân cư thưa thớt. Tỉnh địa đầu của Vùng 3 này giáp ranh với Vùng 2 của Cao Nguyên Trung phần. Các con đường bộ dẫn tới Phước Long, từ lâu đã bị các đơn vị cộng quân đóng chốt đắp mô. Việc ra vào Phước Long chỉ còn trông nhờ vào đường hàng không. Phước Long như một ốc đảo nằm giữa biển giặc và biển rừng mênh mông.
CSBV đã chọn mục tiêu dễ, để có thể nhanh chóng thanh toán, hầu đạt được tiếng vang quốc tế.
Đánh Phước Long, CSBV muốn trắc nghiệm phản ứng của Mỹ. Thật ra chúng đã có câu trả lời, như Phạm Văn Đồng nói: “…cho kẹo Mỹ cũng không vào”. Nhưng điều quan trọng hơn hết là đo lường khả năng của QLVNCH. Có dư luận cho rằng Tổng thống Thiệu để cho mất Phước Long là tháu cáy Mỹ. Theo ngôn từ CSBV thì “Thiệu làm mình làm mẩy” với Mỹ. Nhưng có lẽ ta phải đồng ý với lời giải thích của Tổng thống: “ Phải cần tối thiểu hai trung đoàn cho cuộc hành quân nầy và các đơn vị nầy phải được không vận. Với lực lượng địch hiện diện trong vùng, chúng ta chắc chắn phải đối đầu với phản ứng mạnh của địch quân và thiệt hại do đó sẽ nặng nề. Một khi đã chiếm lại được tỉnh nầy, phải cần đến nhiều lực lượng để bảo vệ. Điều này không những làm mất đi di động tính của một số đơn vị mà đồng thời còn tạo ra khó khăn cho vấn đề tiếp liệu. Do đó tốt nhất nên tiết kiệm quân để tăng cường các nơi khác có giá trị hơn về chiến lược”.
B/- BAN MÊ THUỘT: TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN
Sau khi đánh chiếm Phước Long một cách dễ dàng, chúng đã có đáp số. Bộ Chính trị CSBV liền quyết định dứt khoát về kế hoạch thôn tính Miền Nam trong hai năm 1975-1976. Trần Văn Trà đề nghị đánh Ban Mê Thuột, với lý do: “…tấn công Ban Mê Thuột chắc chắn phải là một ngạc nhiên cho ngụy và cũng là nơi chúng không phòng bị…Nếu hậu cần bị mất, địch quân ở tuyến trước sẽ rối loạn và mất tinh thần”.
Nhận định “tấn công BMT là một ngạc nhiên cho ngụy” của Trà cũng giống phán đoán của Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn II Phạm văn Phú. Ông chỉ chú trọng phòng thủ Kontum và Pleiku. Ông không hề nghĩ rằng CSBV sẽ đánh BMT trước. Nhưng Đại tướng Cao Văn Viên và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không nghĩ như vậy. Hai vị chỉ huy cao cấp này không hề bất ngờ. Ông đã báo cho Tướng Phú biết việc Sư đoàn 320/CSBV đang tiến về phía Nam để tấn công Ban Mê Thuột, và chỉ thị Tướng Phú điều động Sư đoàn 23BB trở lại Ban Mê Thuột, đồng thời tăng cường 1 Chi đoàn chiến xa M.48.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975, từ lúc 2 giờ sáng, CSBV sử dựng 3 Sư đoàn 316, F10, và 320 tấn công Ban Mê Thuột. Trong vài ngày, Ban Mê Thuột đã thất thủ.
Khi BMT bị đánh, BTL/QĐII của Thiếu tướng Phạm Văn Phú quyết định tái chiếm. Ngày 11.3.75, hai Tiểu đoàn 72 và 96/BĐQ thuộc Liên đoàn 21/BĐQ được trực thăng vận từ Kontum xuống Chi khu Buôn Hô. Nhưng do những sai lầm của Tướng Tư lệnh Sư đoàn 23BB, và do không quân đánh bom lạc vào TTHQ/BTL mặt trận, việc giải cứu gặp nhiều trở ngại. Những ngày kế tiếp, các cuộc hành quân cứu viện của Sư đoàn 23BB cũng không khá hơn. Cuộc chiến tiếp diễn đến ngày 15.3 thì Tổng thống Thiệu ra lệnh di tản. Kế hoạch hành quân tái chiếm BMT đã thất bại.
C/- QĐII: CUỘC TRIỆT THOÁI THẤT BẠI DẪN ĐẾN  SỰ SUY SỤP
Mất Ban Mê Thuột, ngày 14 tháng 3, Tổng thống triệu tập một buổi họp tại Cam Ranh. Thành phần tham dự, ngoài Tổng thống, có Đại tướng Cao Văn Viên, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Trung tướng Đặng Văn Quang, và Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Hội đồng tướng lãnh quyết định di tản toàn bộ chủ lực quân của Quân đoàn II về vùng Duyên Hải theo lộ trình Liên tỉnh lộ 7B. Được biết kế hoạch này chỉ liên quan đến quân chủ lực. Nhưng thật là sai lầm! Trong dân có quân. Làm sao có thể bảo toàn bí mật không để cho dân biết như một cuộc hành quân bình thường. Thế là sự hỗn loạn đã có ngay từ khi đoàn quân triệt thoái chưa bắt đầu.
Cuộc Di tản chiến thuật, Triệt thoái hay Lui binh của Quân đoàn II đã thi hành quá vội vàng, thiếu sự chuẩn bị. Các cấp chỉ huy trách nhiệm đã không nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình và địa vật. Con đường 7B đã bỏ hoang phế từ lâu, bị xuống cấp. Nhiều cầu cống hư nát. Tướng Tư lệnh Quân đoàn đã điều khiển cuộc Lui binh từ Nhatrang. BTTM/QLVNCH chỉ ngồi ở Saigòn giám sát. Mặc dầu đạt được yếu tố bất ngờ lúc đầu, nhưng di chuyển chậm do sông núi ngăn trở, do thân nhân và gia đình binh sĩ, cùng dân chúng lẫn lộn giữa đoàn quân. Dân chúng dễ bỏ chạy tán loạn mỗi khi gặp địch ra chận đường hoặc bắn quấy phá. Sự hỗn độn do dân chúng làm lây lan đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Khi Tướng CSBV Văn Tiến Dũng phát hiện, đã cho Trung đoàn 95B và Sư đoàn 320 của Thiếu tướng Kim Tuấn truy kích, đánh chận. Sự tan rã của đoàn quân di tản là không tránh khỏi. Theo ước tính của Bộ TTM/QLVNCH, ít nhất Quân đoàn II bị thiết hại 75% khả năng tác chiến.
“Khoảng 60 ngàn quân chủ lực sau khi về đến Tuy Hòa, chỉ còn lại khoảng 20 ngàn. Năm Liên đoàn BĐQ với quân số khoảng 7 ngàn, chỉ còn lại 900 người. Lữ đoàn 2 Kỵ binh với hơn 100 thiết xa các loại, chỉ còn đúng 13 thiết vận xa M.113.
…Trong tổng số 400 ngàn dân vùng cao nguyên chạy lánh nạn CS chỉ có khoảng 100 ngàn người đến được Tuy Hòa”.
(Nguyễn Đức Phương – Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập”.
D/- QĐI: CUỘC TRIỆT THOÁI THẤT BẠI DẪN ĐẾN MẤT NƯỚC
“Quân khu I đã hoàn toàn rơi vào tay CS một cách dễ dàng chỉ trong khoảng 10 ngày (19 – 30.3.75). (Nguyễn Đức Phương – CTVNTT).
Cuộc triệt thoái thất bại của Quân đoàn II đã gây ảnh hưởng tai hại lên BTTM/QLVNCH và Tổng thống Thiệu. Các quyết định của vị Tư lệnh Tối cao Quân lực cho lệnh giữ Huế, bỏ Huế, rồi lại ra lệnh giữ Huế quá muộn màng, khiến vị Tư lệnh chiến trường không kịp thời thi hành, đã đưa đến sự suy sụp hoàn toàn các đơn vị thiện chiến và hùng mạnh, gồm các Lữ đoàn của Sư đoàn TQLC, các Sư đoàn Bộ binh 1, 2, 3 và các Liên đoàn BĐQ.
Phước Long chỉ là khúc nhạc dạo đầu, Ban Mê Thuột mới là trận đánh mở màn chính cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Quốc – Cộng.
Nếu chỉ tính từ trận Ban Mê Thuột, từ lúc 2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba, quân CSBV chỉ mất 50 ngày đêm đã tiến đến Sàigòn, cắm lá cờ máu, đúng ra là nửa máu, nửa bùn xanh dơ bẩn với ngôi sao vàng đã lên màu ten trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975.
III.    TRẬN ĐÁNH MỞ ĐẦU: MẶT TRẬN ĐỊNH QUÁN        
A/- TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG
1/- Địch:
  • Trung đoàn 812/QK6.
  • Sư đoàn 7/QĐ4, gồm các Trung đoàn 141, 165, và 209.
  • Đơn vị xe tăng (đếm được 10 chiếc), đơn vị cao xạ phòng không 37ly (phát hiện 2 khẩu).
  • Tiểu đoàn pháo, gồm các loại 120ly, 122ly, 130ly và 122ly.
2/- Bạn:
  • Lực lượng Chi khu Định Quán.
  • Đại đội 377/ĐPQ.
  • Tiểu đoàn 2/43, Sư đoàn 18BB
Ngày 5 tháng Ba, tại Đồng Xoài, Đảng ủy Sư đoàn 7 thuộc Quân đoàn 4 tổ chức cuộc họp mở rộng, có Lê Đức Anh, Tư lệnh phó Mặt trận, Bùi Cát Vũ, Tư lệnh phó Quân đoàn, tham dự để bàn thảo nhiệm vụ của Sư đoàn  Một trong những nhiệm vụ trọng yếu là xử dụng lực lượng lớn tiến chiếm các vị trí của ta trên đường QL.20 từ Bắc Túc Trưng đến Phương Lâm. Quan trọng hơn hết là phải tiêu diệt Chi khu Định Quán. Định Quán là vị trí chiến lược quan trọng của Vùng 3 chiến thuật. Hơn nữa quân CSBV tấn công Định Quán, tiến đánh Lâm Đồng là để hổ trợ cho chiến dịch đánh Cao Nguyên Trung phần của chúng. Chiếm được Định Quán còn mở được hành lang giao liên chiến lược quan trọng cho Quân đoàn 4.
B/- DIỄN TIẾN
Trung đoàn 141/Sư 7 làm nổ lực chính, được sự hổ trợ của Trung đoàn 209 bằng cách đánh quấy rối ở hướng Nam cầu sông La Ngà. Trung đoàn 165 tiến chiếm Phân Chi khu Phương Lâm ở hướng Bắc.
Ngày 6 tháng Ba, 35 xe vận tải molotova vận chuyển Sư đoàn 7 từ Phước Long, đến điểm tập kết tại một vị trí gần sông Đồng Nai.
Trong lúc quân CSBV rộn ràng chuẩn bị chiến trường, Sư đoàn 18BB đưa Chiến đoàn 43 của Đại tá Lê Xuân Hiếu lên Túc Trưng. Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Đổ Trung Chu hành quân hoạt động vùng phía Nam cầu sông La Ngà. Tiểu đoàn 3/43 của Thiếu tá Nguyễn Văn Dư vẫn bảo vệ Chi khu Hoài Đức, bên kia sông La Ngà. Ngày 17 tháng Ba, Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế từ Xuân Lộc, được vận chuyển lên bảo vệ Định Quán.
Định Quán nằm trên QL.20, đường đi Đàlạt. Tiểu đoàn ĐPQ/LK của Thiếu tá Làu Vĩnh Quay trấn giữ cầu sông La Ngà (Thiếu tá Quay, Khóa 10 Võ bị Đàlạt, cùng khóa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo). Phía Bắc Chi khu Định Quán là Phân Chi khu Phương Lâm, tiếp giáp với Madagui của quận Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng, do lực lượng NQ bảo vệ.
Các đơn vị ĐPQ và NQ chiếm giữ những cao điểm chung quanh để bảo vệ thị trấn. TĐ2/43 đến Định Quán vào khoảng 5 giờ chiều. Đã quá trễ! Vị Tiểu đoàn trưởng chưa có dịp nghiên cứu địa thế, chưa kịp gặp gở các cấp chỉ huy diện địa, chưa nắm rõ tình hình thực sự của địch, thì 5 giờ sáng ngày hôm sau, trận đánh đã mở màn. Thời gian vừa đúng 12 tiếng. Đơn vị chưa kịp làm quen, chưa sẵn sàng!
Tiểu đoàn bố trí quân trên một ngọn đồi ở phía Tây – Bắc quận lỵ, gần căn cứ Pháo diện địa có 2 khẩu 105ly. Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn được Đại đội Chỉ huy và Công vụ của Trung úy Võ Kim Thạch, Đại đội 2 của Trung úy Võ Văn Mười bảo vệ. Tướng Tư lệnh cho kéo theo đơn vị 1 Trung đội Pháo 105ly, 1 Toán Công binh Chiến đấu. Các Đại đội 1 của Trung úy Nguyễn Văn Hào bố trí quân trong một khu rừng chồi phía Đông, Đại đội 3 của Trung úy Nguyễn Tri Hùng chiếm những ngọn đồi ở phía Tây, và Đại đội 4 của Trung úy Hà Văn Dương ở khu rừng hướng Bắc. Trung đội Biệt kích Tiểu đoàn tăng phái cho Chi khu, bảo vệ quận.
Vào lúc trời vừa tối, toán phục kích của Trung úy Dương nổ mìn claymore và súng tiểu liên M.16. Một tiểu đội giặc lọt vào tuyến phục kích, bị tiêu diệt gọn. Tất cả mặc quân phục và mang phù hiệu cấp bậc bộ đội Bắc Việt. Có tên mang ba sao! Có thể là Hạ sĩ nhất, hay Thượng úy. Lúc quá nữa đêm, Trung úy Hào báo cáo một toán VC trên 10 tên lọt vào tuyến tiền đồn của đại đội. Chúng bảo vệ một tên có vẻ là cấp chỉ huy đi giữa. Tất cả đều bị hạ sát. Tịch thu được một khẩu súng lần đầu tiên gặp. Bình thường giống như một khẩu colt 45, khi dương ra trở thành khẩu tiểu liên. Tịch thu được nhiều tài liệu, nhưng đã không có dịp để đọc, cũng chưa kịp thời gửi về Phòng 2/SĐ!
Các Trung đoàn của Sư 7/CSBV đã vào vùng. Tiểu đoàn 2 và 3/141 vào vị trí lúc 9 giờ 30. Theo Ký sự của Sư đoàn 7 (do nhà xuất bản QĐND, Hànội xuất bản năm 1986), Tiểu đoàn 1/141 gặp phục kích, phải đi vòng. Vậy toán giặc bị Đại đội 4 của Trung úy Dương phục kích là đơn vị thuộc Tiểu đoàn 1/141. Đại đội trưởng ĐĐ7/CSBV Phạm Xuân Thiện dẫn đơn vị đột nhập căn cứ Pháo và đồi 112. Từ sáng sớm, Tiểu đoàn không liên lạc được với căn cứ Pháo bạn. Không biết tình hình bên trong như thế nào. Tiểu đoàn 9/209/CSBV hoạt động phía Nam cũng chạm súng với Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Chu.
Đúng 4 giờ 30 phút sáng, pháo địch dồn dập bắn vào BCH/Chi khu, vào quận đường, vào thị trấn. Sau đợt bắn pháo kéo dài 1 tiếng đồng hồ, quân CSBV mở cuộc tấn công.
Quân trú phòng chống cự mãnh liệt. Trung đội Biệt kích/TĐ sát cánh cùng các chiến binh ĐPQ và NQ chiến đấu rất dũng cảm. Gánh cải lương lưu động vừa đến quận trình diễn đêm hôm qua, tá túc trong quận, cũng xông xáo chiến đấu như những chiến binh thực thụ. Không có súng, họ tiếp tế đạn, thức ăn, nước uống và tải thương. Họ nhanh chóng tìm cách xử dụng súng của những quân nhân bị thương vong để lại. Họ là dân, là nghệ sĩ, không hề biết qua súng đạn, nhưng trong giờ phút lâm nguy, họ cũng bắn súng, cũng ném lựu đạn, lo việc tải thương, đã góp công trong việc chống trả quân thù. Đúng như người xưa nói: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh!”
Trung đoàn phó 141/Sư đoàn 7/CSBV Bé Ích Quan bò đến Tiểu đoàn 2, đơn vị mũi nhọn tiến công vào quận. Thấy khó “nuốt”, vì địa thế có nhiều hóc đá. Hắn liền cho tăng cường thêm quân, thêm súng SKZ, súng trọng liên, và gấp rút tổ chức đội hình tấn công.
Tiểu đoàn 2/43 đến tăng cường Định Quán vào buổi chiều, trước giờ tấn công, là một bất ngờ đối với giặc. Thông thường chúng phải học tập, thực tập trên sa bàn, lên kế hoạch hành quân chi tiết.
Suốt buổi sáng, vị trí đóng quân của Tiểu đoàn chỉ bị bắn pháo. Giặc chỉ bao vây, không tấn công. Các Đại đội 1, 3, và 4 nằm tiền đồn bên ngoài cũng trong tình trạng như thế. Chỉ bị bắn pháo. Hai khẩu pháo 105ly kéo theo đã có dịp bắn yểm trợ đắc lực cho quân bạn. Vào lúc quá trưa, các cao điểm chung quanh thị trấn đã thấy xuất hiện lá cờ máu. Tiếp theo cột cờ trong quận cũng thấy ngọn cờ đỏ được kéo lên. Thiếu tá Quận trưởng bị bắt. Trung đội Biệt kích/TĐ biệt phái bảo vệ quận, một số bị thương vong, thành phần còn lại rút chạy về đến Tiểu đoàn. Lợi dụng lúc Tiểu đoàn chưa bị tấn công, Đại đội 3/2 của Trung úy Nguyễn Tri Hùng đang nằm tiền đồn bên ngoài, được lệnh phá vòng vây kéo về phối hợp Đại đội 2 của Trung úy Mười, và Đại đội Chỉ huy của Trung úy Thạch bảo vệ BCH/TĐ. Đại 4 của Trung úy Dương vẫn nằm tại chỗ ở hướng Bắc, và Đại đội 1 của Trung úy Hào ở hướng Đông quận.
Sau khi BCH Chi khu và các cao điểm chung quanh thị trấn thất thủ, Tiểu đoàn 2/43 là vị trí cuối cùng của Định Quán còn đứng vững, nhưng nằm cô đơn giữa biển giặc. Chiếm được quận, địch chuyển hướng tấn công Tiểu đoàn. Mũi tấn công mạnh nhất xuất phát từ hướng Đông – Nam. Đó là tuyến bố phòng của Đại đội Chỉ huy, nơi đặt hai khẩu pháo. Để trả lời các đợt tấn công biển người của quân CSBV, vị Trung đội trưởng pháo cho hạ thấp nòng, trực xạ vào đội hình tấn công của chúng. Những trái đạn chống biển người với hàng ngàn mũi tên bắn chính xác, cùng với tiểu liên M.16, đại liên M.60, và lựu đạn M.26 của bộ binh, đã đốn ngã quân giặc đông như kiến. Nhưng lớp này ngã xuống, lớp khác lại tiến lên. Cảnh tượng giống như khi ta dí ngón tay, giết đàn kiến di chuyển. Một số kiến chết, chúng tản ra, rồi tụ lại tiếp tục. Chúng như những con thiêu thân lao vào ánh đèn. Địch bị sát hại rất nhiều. Cứ sau một đợt tấn công thất bại, chúng tạm ngừng, lo tản thương, tái tổ chức đơn vị, lại mở đội hình tấn công đợt khác. Giặc cố dồn quân dứt điểm vị trí kháng cự cuối cùng này. Vị sĩ quan không yểm bay trên chiếc L-19 bao vùng rất tận tụy. Những phi tuần chiến đấu A-37, F-5E, AD-6 thay nhau dội bom lên đầu quân giặc. Thật cảm động khi Tiểu đoàn trưởng hỏi sao không có người thay thế mà từ lúc sáng tới giờ, vẫn là người bạn không quân ấy. Anh bảo những người khác cũng đang bận rộn, chỉ còn lại anh. Giặc sử dụng cả Trung đoàn 141 bao vây tấn công. Tên Trung đoàn phó Bé Ích Quan trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 2/141. Vị trí phòng thủ của Tiểu đoàn 2/43 chỉ có 2 Đại đội Tác chiến và Đại đội Chỉ huy. Cứ sau một đợt bắn pháo tàn bạo, là đợt tấn công biển người. Theo Thiếu úy Nù, Trung đội trưởng pháo tăng phái, hiện định cư tại Tiểu bang Massachusetts, khi kéo pháo theo TĐ2/43, Thiếu tá Nguyễn Tiến Hạnh, Tiểu đoàn trưởng TĐ181PB đã cho mang theo nhiều trái đạn pháo chống biển người. Chính nhờ loại đạn hiếm này được xử dụng tối đa, đã ngăn chận kịp thời những đợt tấn công của giặc.
Trời về chiều, giặc điều thêm quân. Trận chiến trở nên ác liệt. Quân bạn sắp hết đạn. Tình hình trở nên nguy khốn. Vị trí có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào. Vị Trung đội trưởng pháo được mời đến:
“Anh còn bao nhiêu trái đạn chống biển người?
“Hai trái, thưa Thiếu tá.
  “Vậy chỉ xử dụng khi thấy địch quá đông. Nhớ phải bắn chính xác vào đội hình tấn công của chúng.
  “Nhận hiểu, Thiếu tá”.
Trong lúc đó máy bay vẫn thay nhau đánh bom. Tiểu đoàn trưởng xin đánh bom gần. Có lúc đã xin đánh ngay trên đầu. Người bạn không quân bay trên cao an ủi:
“Thẩm quyền đừng tuyệt vọng. Tôi sẽ cố điều chỉnh chính xác vào đầu giặc”.
Thật sự vị Tiểu đoàn trưởng cũng hơi tuyệt vọng. Nhưng trách nhiệm quá nặng nề. Là một chiến binh của QLVNCH oai hùng, anh nhất định không để đơn vị lọt vào tay giặc. Cả một Trung đoàn quân CSBV đang bao vây tiêu diệt Tiểu đoàn anh. Nếu không thoát được, nếu phải chết thì phải chết sao cho xứng đáng!
Những loạt bom đánh gần rơi trúng ngay đội hình tấn công của địch. Giặc chết vô số. Tiếng rên la dậy trời. Chúng đang cầu xin và than khóc: “Bác ơi! Đảng ơi! Con chết mất!” Tuyệt nhiên không hề nghe thấy tiếng “Trời ơi!” hay “Bố Mẹ ơi!”. Những tên lính “Sinh Bắc Tử Nam” này là đội quân tiên phong của Quốc tế Cộng sản. Chúng chiến đấu không phải cho gia đình, cho Tổ quốc Việt Nam, mà cho Bác Hồ và Đảng Cộng sản của chúng. Chúng bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, bị tẩy não để thực hiện giấc mơ thế giới đại đồng của Hồ Chí Minh. Lão Hồ khi đến thăm khu lăng mộ của Đức Trần Hưng Đạo, đã hợm hĩnh đề thơ:
“Bác đưa một nước qua nô lệ,
Tôi dắt năm châu đến đại đồng”.
Ta đừng lấy làm lạ khi Phạm Văn Đồng theo lệnh Hồ Chí Minh, thi hành chỉ thị của đảng CSVN, ký văn kiện dâng quần đảo Hoàng Sa cho Trung cộng.
Trong chiến trận, người chiến binh phải chấp nhận thương đau, chấp nhận nổi bất hạnh. Và phút bất hạnh đã đến với đơn vị khi hai trái bom cuối cùng rơi ngay tuyến phòng thủ. Ta với giặc cùng chết. Quân bạn chịu một số tổn thất. Đội hình tấn công của giặc áp sát quân bạn, bị hai trái bom tiêu diệt, tan rã. Lợi dụng lúc giặc bối rối, số sống sót tản mát vào các cụm rừng, Tiểu đoàn trưởng gọi máy gặp trực tiếp Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo, xin lệnh đưa đơn vị ra khỏi vòng vây. Phối hợp cùng hai đại đội bên ngoài, đơn vị phá vòng vây giặc, di chuyển đến bố trí quân trên một cụm đồi ở hướng Tây.
Suốt ngày chống trả đơn độc. Không có pháo yểm trợ. Tiểu đoàn chỉ trông chờ vào không quân. Mệt mỏi rã rời, đạn dược cạn, con số thương vong mỗi lúc lên cao. Đơn vị đã mất khả năng chiến đấu nhạy bén. Tại cụm đồi này, Tiểu đoàn trưởng dự định nghỉ ngơi lấy lại sức, sau đó vào lúc nửa khuya sẽ di chuyển về cầu sông La Ngà, sẽ mang theo với gần 100 thương vong.
Bản tin buổi chiều đài BBC hôm đó loan tin quận Định Quán thất thủ. Nhưng sau đó, phát ngôn viên chính phủ, Trung tá Lê Trung Hiền họp báo cải chính: “Quận Định Quán chưa mất, hiện quân chính phủ đang tổ chức phản công địch…”
Tin của đài BBC và lời đính chính của phát ngôn viên chính phủ đều đúng. Khi Tiểu đoàn 2/43 vào vùng chiều ngày 17 tháng Ba, để thống nhất chỉ huy, Tướng Đảo chỉ thị đặt tất cả lực lượng quân sự tại Định Quán dưới quyền chỉ huy của TĐT/TĐ2/43. Do đó khi Trung tá Hiền nói Định Quán chưa mất thì cũng đúng, vì TĐ2/43 vẫn còn nằm tại Định Quán.
Trong lúc đó địch vẫn bám sát, nhưng chưa có hành động nào. Trung đoàn 141 phối hợp cùng Trung đoàn 165, được tăng cường thêm 4 xe tăng. Trong đêm, chúng điều quân bao vây, vòng vây mỗi lúc một khép kín, xiết chặt dần dần.
Đêm đó bầu trời đầy sao, có vầng trăng khuyết. Ánh sáng yếu ớt tỏa xuống trần gian, một thứ ánh sáng nhợt nhạt, lạnh lẽo! Từ trên đồi cao, ta có thể thấy rõ ràng địch đang điều quân ở bên dưới. Trông chúng như những con ma đi ăn đêm. Tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng giả chim, giả thú rừng. Nhưng pháo từ Chiến đoàn bắn không tới. Ban đêm máy bay không hoạt động được. Chỉ còn một phương tiện hỏa lực yểm trợ duy nhất là 2 cây đại pháo 175ly ở Xuân Lộc. Nhưng cứ mỗi 5 phút hay lâu hơn mới bắn được một trái, mà độ sai số thì quá lớn, do đó không thể bắn yểm trợ gần quân bạn được.
Lối 9 giờ đêm, Tướng Tư lệnh gọi nói chuyện với Tiểu đoàn trưởng. Ông cho biết vì lời cải chính của phát ngôn viên chính phủ, Tướng Tư lệnh Quân đoàn Nguyễn Văn Toàn quyết định TĐ2/43 phải ở lại Định Quán. Sẽ có quân cứu viện vào ngày mai để mở cuộc hành quân tái chiếm thị trấn Định Quán. Nhưng ngày mai đó đã không bao giờ đến! Lối 5 giờ sáng, với chiến thuật cố hữu “Tiền pháo Hậu xung”, quân địch có chiến xa dẫn đầu, đông gấp bội lần, đã đè bẹp vị trí bố phòng tạm bợ của TĐ2/43 với vũ khí đã cạn hết  đạn dược. Giặc xông lên, tràn ngập ngọn đồi. Lúc đó TĐT, và vị sĩ quan tiền sát pháo binh đang cố điều chỉnh bắn pháo. Đột nhiên người lính cận vệ la lớn: “Bảo Định! Bảo Định! (danh hiệu truyền tin của TĐT)” Vị TĐT ngước nhìn lên. Một toán bộ đội cộng sản với súng AK đã gắm lưởi lê đang tiến lại gần, khoảng cách rất ngắn. Tiểu đoàn trưởng chỉ kịp hét lên: “Lăn xuống núi!” Và những người lính còn lại chỉ kịp lăn xuống triền dốc, lẫn sâu vào rừng cây. Sau đó tìm cách di chuyển về cầu sông La Ngà.
Buổi chiều ngày 19 tháng Ba, đơn vị về đến cầu sông La Ngà, được trực thăng tiếp tế lương thực và đạn dược. Trực thăng bốc đi những thương binh. Linh mục cai quản họ đạo sở tại đến thăm. Cha tự giới thiệu là cựu Trung úy Quân đội Quốc gia, từng tham dự trận Điện Biên Phủ, cha tâm sự:
“Chiều hôm kia thấy tiểu đoàn con di chuyển lên Định Quán là cha thấy không xong rồi. Lối một tuần lễ trước đây, cha bị họ đưa vào rừng cho coi một cuộc biểu dương lực lượng. Cha thấy chúng có nhiều quân, nhiều đại pháo, và lối 10 chiếc xe tăng”.
Tin tức của cha phù hợp với báo cáo của Trung úy Hào, ĐĐT/ĐĐ1/2 bố trí quân ở hướng Đông quận lỵ. Buổi sáng khi Cộng quân mở cuộc tấn công Chi khu, trước tuyến bố phòng của đại đội, xuất hiện 10 chiếc xe tăng. Những chiếc xe này chỉ nổ máy, chạy qua chạy lại, mà không tiến vào thị trấn. Hình như chỉ để thị uy, hay chúng sợ không dám vượt qua tuyến bố phóng của quân bạn. Tin này được gửi ngay về Sư đoàn.  Khi Tướng Tư lệnh Quân đoàn III Nguyễn Văn Toàn về thăm BTL/SĐ18BB tại Xuân Lộc, Trung tá Thịnh, Trưởng Phòng 2/SĐ thuyết trình cho biết có 10 chiếc xe tăng địch xuất hiện tại mặt trận Định Quán. Tướng Toàn không tin. Ông nói: “Chúng đi đường mô mà đến đó”. TĐT/TĐ 2/43 được gọi đến trình diện. Tướng Toàn đã không có lời bình luận nào khi vị TĐT trình bày những điều mắt thấy tai nghe. Sau này khi đi tù, đọc báo “Quân đội Nhân dân”, tình cờ đọc bài viết về cách vượt sông của những đoàn xe cơ giới và thiết giáp. Có thể là tác giả cường điệu. Chúng chọn những khúc sông cạn, dùng những bó chà, tre nứa và cây rừng cột lại làm cầu phao. Trần Văn Trà viết hồi ký cho biết được Liên Xô cung cấp mấy bộ cầu ghép. Phó phòng Công binh Miền Bùi Hữu Trừ, tức Sáu Nhản báo cáo:
“Tất cả xe pháo đều được đưa qua sông trên phà ứng dụng: giữa là khoang thuyền hiện đại, hai bên là vật nổi tự tạo…”    
Buổi tối hôm đó, Tiểu đoàn đóng quân ngay dưới gầm cầu La Ngà, gần căn cứ Tiểu đoàn/ĐPQ. Thiếu tá Quay rất ưu ái TĐT/TĐ2/43. Vì chỉ vài năm trước, họ đã gặp nhau tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Thiếu tá Quay là Đại đội trưởng Khoá sinh, vị TĐT bây giờ, lúc đó là khóa sinh ĐĐT. Tình thầy trò, tình chiến hữu dễ thân nhau. Nhưng rất tiếc, họ  đã không có dịp cùng nhau chống trả quân địch, khi đơn vị ĐPQ này bị đại bại vài ngày sau đó. Thiếu tá Quay đã bị bắt.
Lúc trời gần sáng, TĐ2/43 được lệnh di chuyển về Túc Trưng. Ngày hôm sau, được quân xa đưa về Xuân Lộc. Tiểu đoàn nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ ở Núi Thị.
Trong thời gian gần 20 ngày, trước khi tham gia trận chiến cuối cùng, đơn vị được bổ sung quân số. Tiểu đoàn đã đạt được con số trên 600, tương đối khá đầy đủ. Dù tình trạng khẩn trương, giặc đang gần kề, nhưng đơn vị có một số lớn là tân binh, kể cả sĩ quan từ các khóa chót của Trường Võ Bị Quốc Gia ĐàLạt, nên cần được huấn luyện bổ túc tại chỗ. Việc sinh hoạt chính huấn để hun đúc tinh thần cũng không thể bỏ sót. Dù bận rộn, Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo cũng đã đến đơn vị tâm tình với quân sĩ hai lần.
  1. TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH: MẶT TRẬN XUÂN LỘC
A/- CHUẨN BỊ CHIẾN TRƯỜNG
Thị xã Xuân Lộc như một ấp chiến lược, chiều dài vài cây số, chạy dọc theo QL.1, theo hướng Bắc – Nam; chiều ngang khoảng 1 cây số, theo hướng Đông – Tây. Hầu hết khu vực dân cư, phố xá, các cơ sở hành chánh, trường học và căn cứ quân sự đều nằm hướng Đông. Phía Tây QL.1 là rừng cao su, trải dài đến Núi Thị, xa hơn là đèo Mẹ Bồng Con. Khu vực giữa thị xã và Núi Thị không thể là con đường xâm nhập của Cộng quân, nên được giao cho lực lượng diện địa phòng thủ. Vòng cung hướng Đông tiếp giáp với rừng, do lực lượng cơ hữu Sư đoàn đảm nhận. Hai đầu thị xã, Tướng Tư lệnh cho đắp những ụ chống chiến xa. Hàng rào bao quanh thị xã được tăng cường thêm những vòng rào kẽm gai concertina. Một loại kẽm gai vòng ngăn chận xe thiết giáp rất hữu hiệu. Mìn chống chiến xa được cấp phát tối đa, được gài đặt bất cứ nơi nào xe tăng giặc có thể mò đến.
Trong kho đạn của Sư đoàn, có nhiều loại hỏa tiễn chống chiến xa của trực thăng, loại nòng cở 2.75. Đây là loại hỏa tiễn quân CSBV đã xử dụng trong trận chiến An Lộc hồi mùa hè năm 1972. Chúng lấy được từ những kho vũ khí của Quân đội Hoa Kỳ để lại tại Phi trường Quảng Lợi. Ống phóng chỉ là ống nứa chẻ làm đôi với cục pin là đủ. Tầm xa độ vài trăm mét. Đạn đạo không chính xác, nhưng cũng gây thiệt hại đáng kể khi trúng mục tiêu. Tướng Đảo cho mở kho, cung cấp loại đạn này cho quân sĩ, và huấn luyện họ cách xử dụng. Đại đội Trinh sát 18 của Đại úy Phạm Hữu Đa là đơn vị sở đắc thứ này nhiều nhất. Đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ BTL/TP và TTHQ/SĐ, bố phòng tại cửa ngõ QL.1, từ Cua Heo đi vào thị xã, và các cao ốc bên trong Xuân Lộc.
Để đề phòng tình huống xấu, Sư đoàn cho thiết lập nhiều căn cứ hỏa lực. Quan trọng hơn hết là căn cứ hỏa lực Núi Thị. Do địa thế núi cao, tầm quan sát rộng, những khẩu pháo đặt tại đây có thể khống chế khu vực ngã ba Dầu Giây và thị xã Xuân Lộc nằm bên dưới. Ngoài Trung tâm Hành quân tại BTL/SĐ cũ ở hậu cứ, 3 Trung Tâm khác được thiết lập tại Tư dinh Tướng tư lệnh, ở ngã ba Tân Phong ( số 2, gần quận đường Xuân Lộc), và Núi Thị (số 3, căn cứ Tiểu đoàn 2/43). Mỗi vị trí đều được thiết kế đầy đủ thiết bị cho một Trung tâm Hành quân cấp Sư đoàn.
        Tiểu đoàn 18 Quân Y và Bệnh xá Sư đoàn di chuyển về căn cứ Long Bình. Thân nhân và gia đình binh sĩ được khuyến khích về Biên Hòa.
“Văn ôn, võ luyện” là điều các đơn vị trưởng luôn bận tâm. Dù chiến trận đang gần kề, quân CSBV đã chiếm hết Vùng 1 và Cao Nguyên Trung phần, bộ đội của chúng đã vào đến Nhatrang, nhưng việc huấn luyện binh sĩ vẫn không hề xao lảng. Các đơn vị vẫn thường xuyên được huấn luyện tại chỗ và sinh hoạt chính huấn. Trong giai đoạn hiện tại, quân CSBV đã thường xuyên xữ dụng xe tăng và xe bọc thép phối hợp cùng bộ binh tấn công ta. Do đó binh sĩ phải được huấn luyện kỹ thuật chống chiến xa, cách sử dụng súng M.72 và XM.202 sao cho chính xác. Đây là 2 loại hỏa tiễn chống tăng rất hữu hiệu. Các đơn vị lại được cấp phát thêm loại đạn M.79 chống chiến xa. Với khẩu súng nhẹ nhàng, lối 3 kg, có tầm bắn xa hơn 300 mét, là vũ khí chống chiến xa tiện lợi.
BTL/Quân đoàn III cho tăng phái đến mặt trận Xuân Lộc 2 khẩu đại bác tự hành 175ly đặt trên bánh xe xích với tầm tác xạ trên 30 cây số.
B/- TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG
1/- Địch:
1
Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ huy.
Hoàng Cầm tên thật Đỗ Văn Cẩm, sinh năm 1920, con nhà nghèo, mù chữ, chỉ biết đọc biết viết sau khi đã vào bộ đội Việt Minh, tham gia lớp học bình dân học vụ. Năm 21 tuổi đi lính khố xanh để kiếm sống, đồn trú tại Lai Châu, sau thuyên chuyển về Hà Nội, rồi đào ngũ, sau đó tham gia Việt Minh. Cuộc đời binh nghiệp của Hoàng Cầm leo lên từ cấp Tiểu đội trưởng (1946) đến cấp Thượng tướng (1987). Trong trận Điện Biên Phủ, Hoàng Cầm là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209 (còn có tên Trung đoàn Sông Lô) thuộc Đại đoàn 312, Cầm chỉ huy đơn vị đánh chiếm Trung tâm Chỉ huy của Tướng Pháp Christian de Castries. Hoàng Cầm xâm nhập vào Nam năm 1964, được cử giữ chức chỉ huy Sư 9, là đơn vị chủ lực của quân VC, rồi làm phó cho Trần Văn Trà. Ngày 20   tháng 7 năm 1974, Quân đoàn 4 thành lập (còn gọi Binh đoàn Cửu Long), gồm sư 7 và Sư 9, Hoàng Cầm được cử kiêm Tư lệnh Quân đoàn tân lập này.
Người xưa có nói: “Nhân bất học, bất tri lý”. Học vấn là chìa khóa của tri thức. “Nhỏ không học, lớn làm Tướng” là một đại họa cho một đạo quân. Với khoảng 40 ngàn quân trong tay, tiến đánh một đối thủ chỉ có vỏn vẹn 5 ngàn quân (ngày đầu tiên, chỉ có 2 Trung đoàn thiếu là 43 và 48, và Thiết đoàn 5/KB thiếu), Thiếu tướng Hoàng Cầm đã không làm nên cơm cháo gì, lại bị thảm bại. Hắn đã nướng ít nhất 10 ngàn quân dưới quyền. Nhưng Hoàng Cầm vẫn được thăng cấp, thăng chức! Thật ra cái gọi là “Quân đội Nhân dân” của CSBV không thể làm khác. Nếu cách chức, lột lon Hoàng Cầm thì hóa ra công nhận thất bại hay sao. Chúng phải nuôi ảo tưởng chiến thắng để đánh lừa nhân dân và quân đội. Chính vì thế, mặt dầu thất bại nặng nề, hằng năm chúng vẫn trơ trẽn làm Lễ Chiến Thắng Xuân Lộc!
Một Quân đội văn minh và tiên tiến như QLVNCH thì ngược lại: Có công thì thưởng, có tội phải phạt. Đó là trường hợp của Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, cựu Tư lệnh Sư đoàn 3BB bị lột lon thành Binh Nhì, bị cách chức khi để mất tỉnh Quảng Trị hồi mùa hè đỏ lửa năm 1972. Mặc dù lúc đó Sư đoàn 3BB do ông chỉ huy không thể đối đầu với đại quân của CSBV với quân số và vũ khí vượt trội, ngang nhiên vượt sông Bến Hải đánh chiếm Quảng Trị. Nhưng vì là Tướng chỉ huy, ông phải chịu trách nhiệm về sự để mất thành. Ngày xưa, Võ Tánh và Hoàng Diệu đã chết theo thành.
Khi tham gia trận đánh Xuân Lộc, QĐ4 có các đơn vị cơ hữu và thống thuộc như sau:
  • Sư đoàn 6 do Đặng Ngọc Sĩ (Phó Tư lệnh Quân khu) chỉ huy, có các Trung đoàn 33, 274, 812.
  • Sư đoàn 7 do Lê Nam Phong (tên này tính nóng như lửa, ăn nói cộc cằn và thô lỗ) chỉ huy, có các Trung đoàn 141, 165, 209.
  • Sư đoàn 341, khi sát nhập vào QĐ4, được cải danh là Sư đoàn 1, do Trần Văn Trấn (tên này bị quân ta bắt làm tù binh, được trao trả hồi Hiệp định ngừng bắn Paris) chỉ huy, có các Trung đoàn 266, 270, 273.
  • Lữ đoàn 52 Bộ binh.
  • Một Tiểu đoàn pháo 130 ly.
  • Một Trung đoàn và tăng cường thêm 1 Tiểu đoàn pháo phòng không.
Trung đoàn 26 xe tăng, có các Tiểu đoàn 21, 22 và 1 Tiểu đoàn vừa từ Miền Bắc vào. Vào những ngày cuối, QĐ4 còn được tăng viện thêm 1 ĐĐ xe tăng.
  • Trung đoàn 95B (vào vùng trước ngày 15.4.75).
  • Sư đoàn 325, có các Trung đoàn 18, 95, 101 (vào vùng ngày 15. 4.75).
  • Liên đoàn 75 Pháo binh.
  • Quân đoàn 2 của Nguyễn Hữu An, có thêm Sư đoàn 3 của Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh (xuất hiện ở Rừng Lá ngày 21.4.75).
2/- Bạn:
Sư đoàn 18BB do Chuẩn tướng Lê Minh Đảo làm Tư lệnh.
       Tướng Lê Minh Đảo
Tướng Lê Minh Đảo
Đ/tá Ngô Văn Minh, SQ Tùy viên, Tr/tá Lê Xuân Hiếu   và Tướng Đảo tại An Lộc, 1972
Đ/tá Ngô Văn Minh, SQ Tùy viên, Tr/tá Lê Xuân Hiếu và Tướng Đảo tại An Lộc, 1972
Chuẩn tướng Lê Minh Đảo sinh năm 1933 tại Gia Định, tốt nghiệp Khoá 10 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Cuộc đời binh nghiệp của ông bắt đầu từ Sĩ quan Cán bộ Trường VBQGVN, Sĩ quan Tùy viên Tướng Lê Văn Kim, Tiểu đoàn trưởng TĐ1/31/SĐ21BB, Trung đoàn phó TrĐ31/SĐ21BB, Giám đốc TTHQ Quân đoàn IV & Quân khu 4, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng các Tiểu khu Long An, Chương Thiện và Định Tường. Từ Tháng 3/1972 đến tháng 4/1975: Tư lệnh Sư đoàn 18BB. Vinh thăng Chuẩn tướng ngày 1.11.1972, Thiếu tướng ngày 25.4.1975.
Tướng Đảo là một trường hợp hiếm có trong QLVNCH. Ông thăng quan tiến chức không dựa vào chính trị. Cấp bậc Chuẩn tướng do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gắn lên ve áo trận, do những chiến công hiển hách của Sư đoàn tại mặt trận An Lộc trong năm 1972, khi đại đơn vị của ông nhảy vào An Lộc thay thế Sư đoàn 5BB để giữ “Bình Long Anh Dũng”. Cấp bậc Thiếu tướng lại do Tổng Thống Trần Văn Hương ký vinh thăng, do những chiến công thần kỳ của Sư đoàn tại Mặt trận Xuân Lộc tháng Tư năm 1975.
Đầu năm 1972, đang là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Định Tường, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 18BB, thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thơ. Báo chí Sài Gòn dạo đó đã ồn ào về việc bổ nhiệm này. Họ cho rằng Đại tá Đảo chưa từng chỉ huy đơn vị tác chiến (họ đã nói sai), tại sao lại được chỉ huy đơn vị cấp sư đoàn? Nhưng Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Vùng 3 Chiến thuật, đã mở cuộc họp báo và tuyên bố, đại ý xin giới truyền thông báo chí hảy chờ trong 6 tháng sẽ có câu trả lời. Đại tá Đảo đã không chờ đến 6 tháng, chỉ một thời gian ngắn sau khi nắm chức Tư lệnh Sư đoàn, ông đã chứng tỏ là một cấp chỉ huy giỏi.
Theo sự đánh giá của của Bộ TTM/QLVNCH và Đồng Minh, Sư đoàn 18BB là một trong vài sư đoàn kém hiệu năng. Nhưng đơn vị này đã nhận được luồng gió mới kể từ khi Đại tá Lê Minh Đảo về giữ chức Tư lệnh. Ông đã dẫn dắt sư đoàn từ yếu kém trở thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH trong giai đoạn cuối: “…the 18th Division proved in the end to be the best division in the Republic of Vietnam Armed Forces” (Historical Atlas Of The Vietnam War). Mãi đến năm 1972, Quân kỳ Sư đoàn chỉ được tưởng thưởng 1 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, nhưng đến năm 1975, QK/SĐ đã được tưởng thưởng thêm 3 ADBT với Nhành DL, và được vinh dự mang Giây Biểu Chương màu Quân Công Bội tinh (màu xanh). Ông là một trong số các vị Tướng lên cấp không dựa vào chính trị. Ông cũng là 1 trong 4 vị Tướng được CSBV thả ra cuối cùng sau 17 năm tù cải tạo. Một người bạn Mỹ của ông, Richard Childress, Giám đốc Á châu Sự vụ trong Hội đồng An ninh Quốc gia thời Tổng thống Reagan, đặc trách về Tù binh, thường có dịp làm việc với Nguyễn Cơ Thạch, Ngoại trưởng của Hànội, đã yêu cầu Thạch phóng thích người bạn. Thạch hỏi ai, Childress nói Lê Minh Đảo. Thạch nhăn nhó và lầu bầu: “Đó là một gả cứng đầu” (That’s a tough one). Theo George J. Veith & Merle L. Pribenow II – Fighting Is An Art.
1
Thiếu tướng Lê Minh Đảo đến định cư Hoa kỳ tháng 4 năm 1993, sau 17 năm tù dưới chế độ Cộng sản bạo tàn. Ông là một trong 4 vị tướng QLVNCH được nhà cầm quyền CS Hànội thả ra cuối cùng ( Ba vị kia là Thiếu tướng Đổ Kế Giai, Chuẩn tướng Lê Văn Thân và Thiếu tướng Trần Bá Di).
Cho đến nay, trên nhiều diễn đàn, trên nhiều quyển sách viết về trận chiến Xuân Lộc (phe ta và phe cộng sản), trong đó không ít là những ngòi bút nổi tiếng, đã viết sai về lực lượng bạn tham chiến tại Xuân Lộc.
Trong suốt 12 ngày đêm của trận chiến, không hề có bóng dáng của Liên đoàn 81/BCND của Đại tá Huấn; không hề có người lính mũ xanh nào của Chuẩn tướng Lân; Trung đoàn 8/Sư đoàn 5 của Trung tá Hùng ở ngoài tuyền phòng thủ của Xuân Lộc, tận Hưng Lộc – Hưng Nghĩa, cách xa ngã ba Dầu Giây lối 3 cây số, mà Dầu Giây thì cách Xuâ Lộc hơn 10 cây số; Lữ đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Khôi có cho xe pháo và đơn vị BĐQ tùng thiết đi giải cứu Chiến đoàn 52 của Đại tá Dũng, nhưng bị chận đứng tại một ngọn đồi ở phiá Bắc Hưng Nghĩa. Tại Xuân Lộc, đơn vị BĐQ tham chiến là Tiểu đoàn 82 của Thiếu tá Vuơng Mộng Long, thuộc Liên đoàn 24, vừa di tản từ Cao Nguyên về, và chỉ còn lối 200 tay súng.
Chính xác tại thị xã Xuân Lộc, lực lượng tham chiến gồm có:
  • Trung đoàn 43 do Đại tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy.
  • Trung đoàn 48 do Trung tá Trần Minh Công chỉ huy.
  • Đại đội 18 Trinh sát do Đại úy Phạm Hữu Đa chỉ huy.
  • Biệt đội Kỹ thuật/Phòng 7/BTTM do Đại úy Phát chỉ huy.
  • Thiết đoàn 5 Kỵ binh do Trung tá Trần Văn Nô chỉ huy.
  • Pháo binh Sư đoàn: Tiểu đoàn 180 (155ly), và các TĐ/Pháo 105ly: 181, 182, 183.
  • 2 khẩu đại bác tự hành 175ly của PB/QĐIII tăng phái.
  • Tiểu đoàn 82/BĐQ do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy.
  • Lữ đoàn 1 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy (được trực thăng vận vào Xuân Lộc kể từ 12.4).
  • Các đơn vị ĐPQ và NQ/LK tại Xuân Lộc của Đại tá Phạm Văn Phúc.
            Chiến đoàn 52 do Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, gồm Trung đoàn 52 (trừ Tiểu đoàn 2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út xuất phái cho Xuân Lộc từ đêm 11.4, và đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng 43BB), Chi đoàn 2/5 TK của Đại úy Vũ Đình Lưu và 1 Chi đội Chiến xa, Tiểu đoàn 182 Pháo binh Sư đoàn của Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước, Trung đội Hỏa tiễn TOW, và 1 Toán Công binh Sư đoàn. Nhiệm vụ của CĐ52 là hoạt động bảo vệ an ninh QL20 từ ngã ba Dầu Giây đến Kiệm Tân, nằm ngoài tuyến phòng thủ Xuân Lộc.
            Đại đội Trinh sát 43 của Trung úy Dương Trọng Khoát hoạt động vùng Núi Ma, vào hệ thống truyền tin của CĐ52, nhưng hoàn toàn độc lập với Chiến đoàn. Do đó khi CĐ52 bị quân CSBV tràn ngập, phải bỏ phòng tuyến chạy về Trảng Bom, đơn vị này vẫn giữ vững vị trí cho đến đêm 20.4. Khi có lệnh triệt thoái, ĐĐ43/TS đã cùng di chuyển một lúc với TĐ2/43, nhưng theo hướng Tây về Trảng Bom.
            Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế hoạt động vùng Núi Thị, cách xa thị xã Xuân Lộc hơn 3 cây số về hướng Tây. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn là bảo vệ căn cứ hỏa lực gồm 2 Pháo đội 105ly và 1 Pháo đội 155ly, đồng thời chận đứng quân CSBV xâm nhập từ hướng Suối Tre ở phía Bắc và hướng đèo Mẹ Bồng Con ở phía Tây. Khi Xuân Lộc được lệnh triết thoái, Tiểu đoàn 2/43 có nhiệm vụ đánh nghi binh chận hậu. Do đó đơn vị này vẫn nằm tại chỗ, hoạt động bình thường cho đến khi có lệnh rút. Lúc đó là 3 giờ sáng ngày 21.4.
            Khi quân CSBV nổ súng tấn công thị xã Xuân Lộc, Tiểu đoàn 2/48 của Thiếu tá Đổ Duy Luật đang đồn trú tại tỉnh Bình Thuận của Đại tá Trần Bá Thành, bảo vệ an ninh cho thị xã Hàm Tân, và chỉ được kéo về vào buổi chiều ngày hôm sau.
C/- PHỐI TRÍ LỰC LƯỢNG
Phóng Đồ Kế Hoạch Điều Quân Mặt Trận Xuân Lộc (Trần Đỗ Cẩm) (Tại mặt trận Ngã ba Dầu Giây, chính xác là Chi đoàn 2/5/TK của Đại úy Vũ Đình Lưu)
Phóng Đồ Kế Hoạch Điều Quân Mặt Trận Xuân Lộc (Trần Đỗ Cẩm)
(Tại mặt trận Ngã ba Dầu Giây, chính xác là Chi đoàn 2/5/TK của Đại úy Vũ Đình Lưu)
1/- Địch:
  • Sư đoàn 6/CSBV do Đặng Ngọc Sĩ, Phó Tư lệnh Quân khu 7 chỉ huy. Từ những cánh rừng vùng Tánh Linh và Hoài Đức, vượt qua QL.1 (khu vực Rừng Lá), vượt qua LTL.2 (Xuân Lộc – Bà Rịa), nhanh chóng di chuyển xuyên qua đồn điền cao su Ông Quế, tiến về hướng Bắc, Sư đoàn này tung các đơn vị áp sát QL.1 tại vùng ngã ba Dầu Giây. Chỉ huy sở Sư đoàn đặt tại Suối Râm, cách ngã ba Dầu Giây 9 cây số về hướng Nam:
    • Trung đoàn 274 chiếm đèo Mẹ Bồng Con, một phần ấp Trần Hưng Đạo, tổ chức hệ thống kiềng chốt để ngăn chận quân bạn từ ngã ba Dầu Giây hay từ Xuân Lộc.
    • Trung đoàn 33 tiến chiếm ấp Phan Bội Châu, tổ chức hệ thống kiềng chốt đến xã Hưng Lộc.
    • Trung đoàn 812 làm lực lượng trừ bị.
    • Sư đoàn có 2 khẩu DKZ, 3 khẩu pháo 105ly và 2 khẩu cối 120ly, bố trí cách ngã ba Dầu Giây 5 cây số về hướng Nam, tại vùng Suối Bi, Suối Hòn.
  • Sư đoàn 7/CSBV do Lê Nam Phong chỉ huy. Từ những cánh rừng cao su vùng đồn điền An Lộc, tiến sát thị xã Xuân Lộc ở hướng Đông – Nam:
    • Trung đoàn 165 áp sát vòng đai thị xã ở hướng Đông – Bắc, tiến đánh khu vực hậu cứ Sư đoàn 18BB và các đơn vị thống thuộc.
    • Trung đoàn 209 áp sát hướng Đông – Nam. Tiến chiếm sân bay thị xã và Tòa Hành chánh Tỉnh. Đơn vị này bị Tiểu đoàn 82/BĐQ chận lại, không tiến lên được.
    • Trung đoàn 141 làm lực lượng trừ bị. Nhưng bước qua ngày 10.4, tên Tham mưu trưởng Sư đoàn đã sử dụng đơn vị trừ bị này và Tiểu đoàn Phòng không vào chiến đấu. Trung đoàn 141 phối hợp cùng Trung đoàn 165 tiến đánh hậu cứ SĐ18BB, hậu cứ Thiết đoàn 5 Kỵ binh và hậu cứ Trung đoàn 52. Nhưng chúng đã bị các chiến binh 18 chận đứng từ bên ngoài.
  • Sư đoàn 341/CSBV do Trần Văn Trấn chỉ huy. Từ những cánh rừng cao su đồn điền Bình Lộc, di chuyển áp sát thị xã ở hướng Bắc. Chỉ huy sở Sư đoàn đặt tại vùng Suối Đá Bàn trong đồn điền Bình Lộc, cách Xuân Lộc lối 6 cây số về hướng Bắc, nhưng Sư trưởng Trần Văn Trấn đi theo cánh quân Trung đoàn 266 tiến chiếm thị xã:
    • Trung đoàn 266 áp sát Cua Heo, tiến qua làng TPB, đánh khu bến xe Long Khánh, chợ Xuân Lộc, và tư dinh Tỉnh trưởng.
    • Trung đoàn 270 áp sát Núi Thị, tiến đánh TĐ2/43 đang bảo vệ căn cứ hỏa lực gồm 12 khẩu pháo binh Sư đoàn.
    • Trung đoàn 273 làm lực lượng trừ bị.
2/- Bạn:
  • Chiến đoàn 43: Phòng thủ thị xã Xuân Lộc.
    • Tiểu đoàn 3/43 do Thiếu tá Nguyễn Văn Dư chỉ huy, phối hợp với các đơn vị Chiến xa và Thiết kỵ của Thiết đoàn 5 Kỵ binh, phòng thủ từ Trại Huỳnh Văn Điền (Hậu cứ Trung đoàn 52), vòng ra phía Đông, vòng đai bên ngoài hậu cứ Sư đoàn và hậu cứ các đơn vị.
    • Tiểu đoàn 2/43 do Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy, trấn giữ cao điểm Núi Thị, cách thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây, nằm bên ngoài tuyến phòng thủ của Xuân Lộc, vào hệ thống truyền tin trực tiếp với Sư đoàn.
    • Tiểu đoàn 1/43 do Đại úy Đổ Trung Chu chỉ huy, biệt phái Trung đoàn 48 (sau khi Xuân Lộc bị tấn công, Tiểu đoàn 2/48 từ Hàm Tân (tỉnh Bình Tuy được trả về), thì đơn vị này trở lại với Trung đoàn.
    • Thiết đoàn 5 Kỵ binh (- Chi đoàn 2/5 Thiết kỵ và 1 Chi đội Chiến xa M-41).
    • Tiểu đoàn 82/BĐQ do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy, bố trí quân tại sân bay thị xã.
    • Đại đội 43 Trinh sát do Trung úy Dương Trọng Khoát chỉ huy, hoạt động vùng Tây – Nam Núi Ma, vào hệ thống truyền tin của Chiến đoàn 52.
  • Chiến đoàn 48: Hoạt động bảo vệ an ninh QL.1 từ Xuân Lộc đến Gia Ray. Ngày 12.4.75, Trung đoàn 48 bàn giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, sau đó di chuyển về bố trí dọc theo LTL.2 từ ngã ba Tân Phong đến Long Giao, làm lực lượng trừ bị cho Sư đoàn.
    • Tiểu đoàn 1/48 do Thiếu tá Trần Cẩm Tường chỉ huy.
    • Tiểu đoàn 2/48 do Thiếu tá Đổ Duy Luật chỉ huy.
    • Tiểu đoàn 3/48 do Thiếu tá Nguyễn Phúc Sông Hương chỉ huy.
    • Đại đội 48 Trinh sát.
    • Các đơn vị yểm trợ.
  • Chiến đoàn 52: Hoạt động bảo vệ an ninh QL.20 từ ngã ba Dầu Giây đến Kiệm Tân.
    • Tiểu đoàn 1/52 do Thiếu tá Cam Phú chỉ huy, bố trí quân tại ngã ba Dầu Giây.
    • Tiểu đoàn 2/52 do Đại úy Huỳnh Văn Út chỉ huy. Đêm 11.4.75, Tiểu đoàn được lệnh di chuyển vào Xuân Lộc, vào hệ thống chỉ huy của Chiến đoàn 43.
    • Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu tá Phan Tấn Mỹ chỉ huy, trấn giữ đồi Móng Ngựa.
    • Đại đội 52 Trinh sát
    • Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ và 1 Chi đội CX/M-41 do Đại úy Vũ Đình Lưu chỉ huy.
    • Tiểu đoàn 182 Pháo binh do Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước chỉ huy.
    • Trung đội Hỏa tiễn TOW.
    • Một toán Công binh
    • Đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân Long Khánh.
  • Đại đội 18 Trinh sát: do Đại úy Phạm Hữu Đa chỉ huy, bố trí quân trên các cao ốc, khu vực trường học và nhà thờ. Một Trung đội lập tuyến phòng thủ tại cổng số 1, một Trung đội bảo vệ BTL/TP và TTHQ/SĐ đặt tại Dinh Tướng Tư lệnh.
D/- DIỄN TIẾN
1/- Từ ngày 9 đến 11.4.1975:
Tờ mờ sáng ngày 9 tháng Tư năm 1975, quân CSBV bắn vào thị xã Xuân Lộc hàng ngàn trái đạn pháo. Pháo rơi vào khu dân cư và bệnh viện, khu trường học, nhà thờ và chùa chiền, khu bến xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc. Một số đạn pháo rơi vào các trại gia binh, hậu cứ các đơn vị Sư đoàn và Tiểu khu Long Khánh. Nhưng pháo giặc chỉ gây thiệt hại nhẹ cho quân trú phòng. Bởi vì tất cả các chiến binh Sư đoàn 18BB đang nằm trong các chiến hào trên tuyến phòng thủ bao quanh thị xã.
Tư dinh Tướng Tư lệnh trúng pháo. Pháo giặc rót vào như mưa, cùng khắp, kiểu như vãi trấu. Không một thước đất nào của thị xã Xuân Lộc là không bị đạn pháo giặc cày nát. Một số đạn xuyên qua mái nhà. Ngôi nhà hai tầng lầu, mái ngói. Vài trái đạn rớt xuống ngay phòng ngủ. Nhưng thật may mắn! Ông Tướng không có ở trong nhà. Ông đang ở BTL/SĐ tại Long Bình. Tưởng cũng nên biết, khi Sư đoàn 18BB nhảy vào An Lộc thay thế Sư đoàn 5BB của Tướng Lê Văn Hưng, đơn vị đã đặt BTL/Tiền Phương tại căn cứ Long Bình. Các đơn vị yểm trợ và tiếp liệu của Sư đoàn cũng dời về Long Bình để tiện việc ra vào An Lộc bằng cầu hàng không. Sau đó khi hết nhiệm vụ ở An Lộc, Sư đoàn 18BB trở thành lực lượng cơ động của Quân đoàn III, hành quân hoạt động cùng khắp lãnh thổ Vùng 3 Chiến thuật. Chuẩn tướng Lê Minh Đảo đã trình xin Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng Tham Mưu Phó Tiếp Vận, được tiếp tục xử dụng một phần căn cứ Long Bình. Từ đó Hậu cứ Sư đoàn với các Phòng Ban, và cơ sở Tiếp vận đều di chuyển về đây. Hậu cứ BTL/SĐ tại Long Bình được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Huỳnh Thao Lược, Tham Mưu Trưởng Sư đoàn. Vào những ngày biến động, chuẩn bị trận chiến, Xuân Lộc chỉ là nơi đặt BTL/Tiền Phương Sư đoàn. Tướng Lê Minh Đảo thường xuyên đi về giữa Tiền phương (Xuân Lộc) và Hậu cứ (Long Bình).
Buổi chiều ngày hôm trước, nghe tin Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn III tử nạn, ông bay về Biên Hòa để xem hư thực về cái chết của Tướng Hiếu. Đồng thời ông cũng ghé lại Hậu cứ Sư đoàn gặp Đại tá Lược, để biết rõ hơn về thực trạng tiếp liệu của đơn vị. Ông đã nghỉ qua đêm tại đây. Vào lúc quân CSBV bắn pháo và mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, ông được Đại tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Trưởng Hành quân Sư đoàn báo cáo. Ngay tức thì, ông bay vào Xuân Lộc, có mặt tại Trung tâm Hành quân Sư đoàn vừa di chuyển đến ngã ba Tân Phong, gần quận đường Xuân Lộc.
1
Quân CSBV ấn định giờ “G” tấn công là 5 giờ 30. Nhưng tại Chỉ huy sở Sư đoàn 341, 10 phút trước khi khai hỏa pháo, các Tiền sát viên pháo cộng sản thấy sương mù chưa tan, vẫn còn dày đặc. Màn sương hạn chế tầm quan sát, nên xin trễ lại 10 phút. BTL/Quân đoàn 4 của Thiếu tướng Hoàng Cầm chấp thuận. Đúng 5 giờ 40 phút sáng, Quân đoàn phát lệnh. (Theo George J. Veith & Merle L. Pribbenow II – “Fighting Is An Art”).
Các đơn vị pháo Quân đoàn 4/CSBV đồng loạt nổ súng. Hàng ngàn trái đạn pháo đủ loại trút xuống vùng đất nhỏ, diện tích chỉ vài cây số vuông. Trận mưa pháo dữ dội và tàn bạo, có tính cách hủy diệt. Pháo bắn liên tục, dồn dập đúng 1 tiếng đồng hồ. Hai trái pháo hiệu màu đỏ bắn lên trời cao, lóe lên, xuyên qua màn sương sớm. Tín hiệu tấn công đã phát đi.
a/- Góc chiến trường hướng Đông:
  • Sư đoàn 7/CSBV:
Sư đoàn để Trung đoàn 141 làm lực lượng trừ bị, đồng thời cầm chân Chiến đoàn 48 đang hoạt động trên QL.1, vùng ngã ba Tân Phong, tung 2 Trung đoàn tấn công Xuân Lộc bằng 2 mũi:
  1. Mũi tấn công của Trung đoàn 165:
Đơn vị này có xe tăng và bộ đội đặc công dẫn đường tấn công vào hướng Đông thị xã. Chiếc xe tăng T-54 đầu đàn trúng mìn, nổ tung. Quân trú phòng với M-16, M-60, đại bác 90ly của chiến xa đồng loạt nổ súng. Pháo từ Núi Thị bắn chận, ào ạt phá tan đội hình tấn công của giặc:
1
“Trúng ngay chiếc tăng T-54 rồi. bây giờ chiếc xe đã bị lật, nằm ngang trên ụ đất phía ngoài vòng đai…”
Tiếng báo cáo oang oang trên máy PRC-25 của Trung úy Pháo binh Đinh Văn Phùng tại chiến tuyến cho Đại úy Nguyễn Hữu Nhân, Pháo đội trưởng PĐA đang sát cánh cùng Trung đội 1A của Trung úy Trung tại Núi Thị, đã làm nức lòng quân bạn, làm phấn chấn tinh thần các chiến binh trong giờ phút sinh tử. (Theo Pháo thủ Nguyễn Hữu Nhân – Những Giờ Phút Sau Cùng ở Xuân Lộc Long Khánh).
Khi mặt trời lên, máy bay chiến đấu của Sư đoàn 3/KQ/QLVNCH cất cánh từ Phi trường Biên Hòa bắt đầu can thiệp. Những phi tuần A-37, F-5E thay nhau trút bom lên đầu giặc. Đám bộ đội CSBV xâm nhập, vượt qua được vài hàng rào kẽm gai thì vướng  mìn banh xác. Đám bộ đội “cụ Hồ” đang lúng túng trong các bãi đất trống trải thì bị lưới đạn dày đặc của quân trú phòng bắn chận, chết phơi thây! Đám giặc ở tuyến sau thì nằm im bất động, nét mặt sợ hãi, ngơ ngác, chỉ muốn tìm cách chém vè! Chúng như con cá nằm trên thớt, đang chờ những nhát dao thành thạo của người nội trợ! Sau những loạt đạn pháo, là những đợt bom của không quân. Bom pháo thay nhau trút lên đầu giặc. Một số xe tăng bị trúng bom đạn cháy hoặc đứt dây xích, lúng túng, quằn quọai trong vũng lầy. Quân CSBV đã bị vướng vào “hàm cá mập”, không cách nào thoát ra được. Càng cố vùng vẫy, càng bị nuốt gọn!
Đợt tấn công đầu thất bại, giặc tổ chức đội hình mở đợt tấn công lần thứ hai. Nhưng các tay súng Chiến đoàn 43 đã chờ sẵn. Với loại hỏa tiễn 2.75 gắn trên dàn phóng tự tạo, phối hợp cùng pháo binh Sư đoàn, máy bay ném bom của Sư đoàn 3/KQ, xe tăng và bộ đội CSBV đang phơi mình trên vùng đất trống trải trước phòng tuyến, chỉ là món đồ chơi trẻ con. Trong một thời gian ngắn, 4 chiếc xe tăng của giặc đã bị tiêu hủy, rất nhiều bộ đội “cụ Hồ” bị phơi thây. Mũi tấn công này của Trung đoàn 165 đã bị chận đứng, đã thất bại hoàn toàn: “Sư trưởng Nam Long hét vào điện thoại chỉ huy hết mũi tiến công này đến mũi tiến công khác. Ông đang chỉ huy trận đánh mà nói năng rất tếu. Sư trưởng điện cho anh Đình chính trị viên D2 (tiểu đoàn 2): ‘Cái chốt bằng cái l. trâu ấy mà một ngày rồi các anh không ăn được à? Tôi ra lệnh nội đêm nay phải ăn cho hết cái l. trâu đó, nghe rõ chưa!’. Câu ra lệnh làm mọi người trong hầm chỉ huy ôm bụng mà cười”. (Ngô Minh, Sư đoàn 7/QĐ4 “Kể Về Trận Tấn Công Cứ Điểm Xuân Lộc).
  1. Mũi tấn công của Trung đoàn 209:
Từ QL.1 ở hướng Đông, có xe tăng và bộ đội đặc công dẫn đường, Trung đoàn 209/Sư 7 tiến về hướng sân bay thị xã. Nhưng đơn vị này gặp Tiểu đoàn 82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long chận lại:
“Khi chiếc PT-76 vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của trại 181 Pháo binh Sư đoàn 18 thì cũng là lần đầu đoàn quân xâm lăng khựng lại hoảng hồn bởi những tiếng hô, ‘Biệt Động! Sát!’ ‘Biệt Động! Sát!’ Chiếc xe tăng đầu tiên lãnh trọn một quả M.72. Chiếc PT-76 xấu số cháy bùng. Những anh bộ đội Cộng sản tùng thiết rút lui trối chết về hướng rừng lau”.
“…Ngày qua ngày, …những tổ chống tank 3 người của TĐ82/BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T-54 này đến con cua T-54 khác.” (Thiếu tá Vương Mộng Long – Tháng Tư Lại Về).
Sau nhiều ngày vừa đi vừa chiến đấu để vượt thoát từ Cao Nguyên Miền Trung về, Tiểu đoàn 82/BĐQ chỉ còn khoảng 200 tay súng . Dù quân số ít, đang mệt mỏi, nhưng họ đã chiến đấu rất dũng cảm. Đơn vị này đã chống đở 2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 209/CSBV có xe tăng yểm trợ. Đó là TĐ5 và TĐ7 bốn lần tấn công vào sân bay, nhưng không thành công. Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã đánh giá cao đơn vị này.
“Tiên Giao (Thiếu tá Long) đây Hằng Minh (Tướng Đảo) gọi!”
   “Hằng Minh, Tiên Giao nghe”
   “Come on! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó tà đầu, hết cục cựa! Okay?”
   “Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa!”
   “Okay! You’re a man! Don’t let ‘em run away! Okay?”
   “Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy!”
   “Kill ‘em! Kill ‘em Okay!”
“Vâng! Đây là cái tank thứ hai, ba…đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé!”
    “Okay! I like the way you fight!”
    “Vâng, tôi nghe rõ 5!”
    “You’re great! You’re excellent!”
(Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long – Tháng Tư Lại Về)
Điều đặc biệt của Tướng Đảo, mỗi khi có một đơn vị chạm địch từ cấp Đại đội trở lên, ông liền bay trực thăng C&C bao vùng. Từ cao nhìn xuống, ông có cái nhìn chính xác vị trí của ta và của giặc, hầu giúp đơn vị trưởng dưới đất điều quân. Để địch kiểm thính mà không hiểu được nội dung cuộc điện đàm khẩn cấp, ông xử dụng cả ba ngôn ngữ: Việt – Pháp – Anh. Trên đây là mẫu đối thoại bình thường của Tướng Đảo với các đơn vị trưởng ngoài mặt trận. Lệnh của ông truyền ra rất thân tình, rất “Huynh đệ chi binh”, chứ không thô lỗ, cộc cằn và hách dịch như cấp chỉ huy của CS.
b/- Góc chiến trường hướng Tây – Bắc:
  1. Sư đoàn 341/CSBV:
  • Mũi tấn công của Trung đoàn 266:
Sư đoàn 341 để Trung đoàn 273 làm lực lượng trừ bị, đồng thời cầm chân Chiến đoàn 52 của Đại tá Ngô Kỳ Dũng. Tên Sư trưởng Đại tá Trần Văn Trấn theo sát Trung đoàn 266, xuất phát từ những cánh rừng cao su thuộc đồn điền Bình Lộc, vượt qua ngã ba Cua Heo, qua làng Phế Binh, tiến vào khu vực bến xe, và khu chợ. Ba Tiểu đoàn của Trung đoàn 266 xâm nhập được vào vùng ven thị xã, nhưng bị pháo binh Sư đoàn và đại liên 20ly từ chiếc C.119 của Sư đoàn 3/KQ bắn hạ. Một toán bộ đội đặc công đột nhập Tư dinh Tỉnh trưởng treo cờ. Vài toán bộ đội khác đi lạc vào khu phố, khu trường học và nhà thờ thì gặp Đại đội Trinh sát 18 của Đại úy Phạm Hữu Đa chận lại. Một số bị tiêu diệt. Những tên sống sót tìm cách ẩn núp trong các cống rãnh, để rồi sau đó lần lượt 20 tên bị bắt làm tù binh. Chúng đều ở trong độ tuổi 17, chưa được huấn luyện đã bị đưa vào Nam. Đám này như Mán về thành. Thật sự thì chúng là đám khỉ trên rừng Trường Sơn mới xuống. Sợ chết, sợ tiếng súng, không quen trận mạc, chúng trốn chui trốn nhủi, hoặc tìm cách “chém vè”. Lúc bị bắt, cấp số đạn ít ỏi 70 viên mang theo, nhưng chưa bắn một viên nào!
Đợt đầu tấn công thất bại. Sư trưởng Trần Văn Trấn cho tổ chức lại đội hình, mở đợt tấn công lần thứ hai. Hắn điều quân chuyển hướng về hướng Đông, nhưng quân giặc lại gặp các chiến sĩ ĐPQ/LK chận lại. Ta với giặc đánh nhau ác liệt.
Lúc 11 giờ sáng, Tiểu đoàn 1/48 của Thiếu tá Trần Cẩm Tường và Chi đoàn 3/5 Thiết kỵ của Đại úy Lê Sơn được lệnh phản công tái chiếm làng Thương Phế Binh ở gần Cua Heo. Dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đại úy An, Tiểu đoàn Phó, Đại đội 2/1 của Trung úy Dự, và Đại đội 3/1 của Trung úy Kiệt, cùng với hỏa lực hùng hậu của Chi đoàn 3/TK của Đại úy Lê Sơn, CĐT, quân bạn đã tiến công như vũ bão, quyết tái chiếm mục tiêu. Chúng cố thủ trong những căn nhà, cố gắng ngăn chận cuộc phản công của ta. Trận chiến diễn ra thật gay go. Nhưng do đơn vị địch quá bất ngờ trước một đối thủ thiện chiến với tinh thần quyết chiến quyết thắng, chúng đã bị đè bẹp. Đại úy Lê Văn Dự (cùng với Kiệt, được thăng cấp Đại úy sau chiến thắng này) cho biết: “Đây là một chiến thắng lớn, ta tịch thu rất nhiều vũ khí. VC chết vô số kể, không tản thương được, do ta với địch sát gần nhau. Tiếng la khóc của thương binh VC dậy trời. Số lượng vũ khí địch bị quân ta tịch thu quá nhiều, tôi đã cho bó lại từng 5 cây AK làm một, xin Lao công Đào binh vận chuyển. Điều đáng nói là quân ta hoàn toàn vô sự!”
Theo hồ sơ trận liệt, đám giặc cỏ này là Trung đoàn 266, do đích thân tên Sư trưởng Trần Văn Trấn chỉ huy. Theo báo cáo của Hạ sĩ Nhất Kim Mỹ (ĐĐ3/1, hiện định cư tại Úc): “Ta bắt sống 3 tù binh, hàng trăm tên giặc bị hạ sát, trong đó có tên Chính ủy Trung đoàn, nhiều vũ khí bị tịch thu.”
Ngày 11 tháng Tư, lúc 11 giờ 30, giặc tấn công trại Huỳnh Văn Điền (hậu cứ Trung đoàn 52), nằm trên đường Hoàng Diệu. Đây là căn cứ cũ của Trung đoàn Kỵ binh Mỹ do Đại tá Patton, con trai của cố Danh tướng Thiết giáp Mỹ Patton, chỉ huy. Lực lượng phòng thủ chỉ là quân nhân hậu cứ, những quân nhân loại 2 chờ giải ngũ, những bệnh binh đang nghỉ dưỡng sức, và một vài gia đình binh sĩ không chịu xa chồng. Nhưng Sư trưởng Sư 7 Lê Nam Phong tung Trung đoàn 141 có chiến xa yểm trợ, từ hướng ấp Bảo Vinh A tấn công. Quân nhân hậu cứ 52 đã chống trả quyết liệt. Tất cả bọn họ đã trở thành những chiến sĩ dũng cảm. Cổ nhân từng nói: “Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”. Huống hồ họ là lính, là vợ, là con của lính. Đây là trận chiến có tính cách quyết định. Họ phải chứng tỏ cho CSBV thấy rằng quân dân Miền Nam yêu chuộng Tự Do, dù phải chết, cũng chiến đấu đến cùng. Họ không bao giờ chấp nhận chế độ độc tài Cộng sản. Kết quả phe ta đã hạ sát hơn 50 tên giặc xâm lược, tịch thu 32 vũ khí đủ loại, bắn cháy 2 xe tăng T-54. Thật là một kỳ công!
Đêm 11.4.75, từ ấp Nguyễn Thái Học, tuyến phòng ngự của CĐ52 tại ngã ba Dầu Giây, Tiểu đoàn 2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út được lệnh khẩn cấp hành quân tăng viện cho Xuân Lộc. Buổi sáng ngày 12, sau khi vượt qua tuyến giặc tại đèo Mẹ Bồng Con do Trung đoàn 274 của Sư 6 đóng chốt, đơn vị của Út đã tao ngộ chiến với quân CSBV tại ấp Suối Tre, tiêu diệt một đoàn xe chở quân và đồ tiếp tế, hạ sát hơn 100 tên bộ đội “cụ Hồ”, tịch thu nhiều vũ khí, trong đó có 1 thượng liên phòng không 37ly gắn trên xe. Đơn vị của Đại úy Út tiếp tục tiến vào Xuân Lộc để bắt tay CĐ43. Lại một cuộc tao ngộ chiến nữa, khi gặp địch đang đưa lưng ra, đang chăm chăm hướng về thị xã. Đám giặc bất ngờ bị đánh tập hậu. TĐ2/52 đã tiêu diệt gọn trên 60 tên và tịch thu toàn bộ vũ khí của giặc.
  • Mũi tấn công của Trung đoàn 270:
Quyển lịch sử cái gọi là “Quân đội Nhân dân Việt Nam” (mà khẩu hiệu của quân đội này lại là chỉ trung với Đảng!), viết rằng trong đợt pháo đầu tiên bắn vào Xuân Lộc, đã làm tê liệt hệ thống truyền tin của Sư đoàn 18BB, và đánh sập cây anten 292 tại Núi Thị. Nhưng chỉ là tưởng tượng! Hệ thống truyền tin của Sư đoàn vẫn hoạt động tốt, cây anten 292 tại Núi Thị không hề bị đánh sập.
Có một điều quân CSBV không biết. Buổi trưa ngày 13 tháng Tư, sau khi phái đoàn báo chí Tây phương vừa rời Xuân Lộc, pháo CS đánh hơi được, đã pháo kích tàn bạo vào vị trí mà Tướng Đảo vừa gặp gỡ báo chí. Trận mưa pháo của giặc đã đánh sập cây cây antenna 292 của TTHQ/SĐ. Hệ thống truyền tin bị gián đoạn một lúc. Đại úy Truyền tin Sư đoàn Đặng Trần Hoa cùng các nhân viên thuộc cấp đã “đội pháo” giặc, lập tức dựng lại cây antenna. Một Thượng sĩ già, thấy pháo giặc bắn rát quá, sợ pháo giặc làm hư hỏng mấy khẩu pháo 105ly, liền cùng một vài pháo thủ, tìm cách kéo pháo ra khỏi trận địa pháo. Từ hầm chỉ huy, Tướng Đảo say sưa quan sát những hành động dũng cảm của quân nhân thuộc quyền, một mảnh đạn pháo giặc ghim vào cánh tay của ông. Rất may mắn, mảnh đạn chỉ gây thương tích nhẹ cho Tướng Đảo.
     Núi Thị, căn cứ của TĐ2/43 với tòa lâu đài cỗ
Núi Thị, căn cứ của TĐ2/43 với tòa lâu đài cỗ

Xem tiếp:
Núi Thị, căn cứ của TĐ2/43 với tòa lâu đài cỗ
 http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/tiep-theonui-thi-can-cu-cua-t243-voi.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét