Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2015

Máy bay Mỹ tiếp tế vũ khí tại sân bay Nội Bài, Hà Nội?

Máy bay lạ của Mỹ đang tiếp tế vũ khí tại sân bay Nội Bài, Hà Nội?


Đăng bởi BTV VANEWS on Thứ Ba, ngày 09 tháng 6 năm 2015




Trong vài ngày qua một số báo chí trong nước đăng hình và đưa tin “máy bay lạ” đáp ở phi trường Nội Bài, Hà Nội. Tiếp theo là những thông tin và bàn cãi Hoa Kỳ bí mật tiếp tế vũ khí cho nhà nước Việt Cộng.

Tôi gọi điện thoại cho một người bạn thân phục vụ trong sở Mật Vụ ở Washington DC (US Secret Service) để hỏi về nguồn gốc những chiếc phi cơ lạ đáp ở Hà Nội.

Được biết chiếc phi cơ màu trắng đáp ở Nội Bài (hình 1 và 2) là E-4B Advanced Airborne Command, tạm dịch là Bộ Chỉ Huy Tối Cao Lưu Động Trên Không (!) của Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Ashton B. Carter sử dụng khi công du Việt Nam trong tuần qua. Đây là loại phi cơ Boeing 747 được biến cải thành văn phòng lưu động dành cho các Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ.


Ngoài chiếc E-4B còn có các loại vận tải cơ khổng lồ C-17 và loại nhỏ hơn là C-130 (hình 2 và 3) tháp tùng với nhiệm vụ hậu cần (logistic) như chuyên chở xe các Limousine (xe hơi to sang trọng có khả năng chống lại đạn và chất nổ) cho Bộ Trưởng. Chuyên chở máy móc liên lạc, các nhân viên chuyên môn phục vụ cho phái đoàn công du v.v. Các hình đính kèm 6 – 9 chụp phía trong phòng làm việc và hình các Bộ Trưởng Quốc Phòng tiền nhiệm như Chuck Hagel và Robert M. Gates trên chiếc chiếc E-4B.

Nếu là Tổng Thống công du thì cách tổ chức bố trí phức tạp hơn. Các vận tải cơ C-17 phải đến trước mấy tuần để xe cộ, chó săn, nhân viên an ninh và kỹ thuật bung ra ở các vị trí đã chỉ định. Nhiên liệu cho máy bay tích trử ở phi trường cũng được khám xét và canh phòng cẩn mật.


Như tôi đã viết một bài ngắn mấy ngày trước, hiện nay Hoa Kỳ chưa được phép bán vũ khí sát thương cho nhà nước VC vì Quốc Hội Hoa Kỳ chưa cho phép. Vì thế tin tức Hoa Kỳ bí mật chở vũ khí đến Việt Nam là không đúng. Cung cấp vũ khí cho VC trong thời điểm này vi phạm hiến pháp Hoa Kỳ.

Nếu Quốc Hội Hoa Kỳ gở bỏ lệnh cấm vận để nhà nước VC có thể mua vũ khí sát thương. Mỹ cũng sẽ không bao giờ bán các kỹ thuật điện tử thuộc về bí mật quốc phòng cho nước ngoài, kể cả một số đồng minh.


Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ sẽ duyệt xét từng cơ phận của chiến cụ và nếu thấy không đe dọa tới nền an ninh quốc phòng Hoa Kỳ, Bộ sẽ cấp giấy phép (license) cho công ty sản xuất được phép bán bộ phận đó. Ví dụ các loại phi cơ trinh sát như P-8 Poseidon, P-3 Orion, chiến đấu cơ F-16 v.v. Việt Nam có thể chỉ mua được chiếc máy bay nhưng các cơ phận điện tử sẽ không tối tân bằng các cơ phận trên máy bay của Không Lực Hoa Kỳ.


Hảng Reuters ngày 05 thắng 06 vừa qua có viết rõ nhà nước VC muốn mua vũ khí của Hoa Kỳ và Âu Châu, và nổ lực rao hàng của các công ty sản xuất chiến cụ. Tuy nhiên đó chỉ là những cuộc hội họp dò dẫm giữa những người muốn mua và người muốn bán và chưa có một hợp đồng nào đã được ký kết.

===============


Các loại vũ khí mới này nếu mua được, có tác dụng tâm lý nhiều hơn là thực dụng. Nó làm nhiều người Việt Nam vui mừng tự tin hơn.

Sự thật chiến thắng một cuộc chiến sẽ được tính toán qua nội lực của mỗi phe. Nền kinh tế sẽ nuôi dưởng cuộc chiến được bao lâu? Quân số – vũ khí của địch gồm có những gì và bao nhiêu, đối chiếu với điều kiện quân sự của ta? Chiến cụ bị phá hủy và thiệt hại nhân mạng có được thay thế mau chóng hay không v.v.



Nhà nước Việt Cộng ngày hôm nay nghèo và cô đơn không có đồng minh trợ giúp miễn phí thì có dám đánh lại quân xâm lược Tàu, như họ đã từng vổ ngực tự xưng đạo quân bách chiến đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ?

Bông Lau
Theo FB Bông Lau 
 
Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=34448

Mất VNCH vì Do Thái


Tướng 1 sao
Mất VNCH vì Do Thái

Thứ Tư, 01 tháng Tư năm 2015 15:54 Tác Giả: Phạm Trần Hoàng Việt
Tài liệu khảo cứu do Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao văn Luận, 2010

Người ghi lại: Phạm Trần Hoàng Việt - Admin sưu lục và hiệu chỉnh

1) Mở đầu

Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy – một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ – đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.

Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được. Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.

2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận.

Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung… cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (tức hủy bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.

Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.

- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.

- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.

Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow…. với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái).

Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẫn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 – 1986) nhân dịp tái bản Hồi Ký Bên Giòng Lịch Sử của ông cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).

Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?

a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ

Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.

Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website:http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan)

Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!).
- trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton…
- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.
- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.

Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh…

Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford… (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.

Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tướng Đức Schmidt (Đức) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ ..

b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam?

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái.

Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine.

Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhận quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng“. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa.

Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết -bỏ rơi miền Nam- để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam Việt Nam.

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan!) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác.

Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines – South Vietnam 1966

Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!).

Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson.

Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây (2009), vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam!

Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines – South Vietnam 1966

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc cơ hội thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng đắc cử Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh quốc gia.

Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 – 1999)… Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.

Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam.

Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:

“Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất”. Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là:

“Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là một bãi hoang”.

Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.

4) Kết luận

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt.

Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua!) vì đang câu con cá to hơn (“has bigger fish to fry”).

Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh.

Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh “nướng quân” hàng loạt trên chiến trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland!), họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng “Đồng Minh tháo chạy” (từ ngữ của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng!) bỏ rơi VNCH.

Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận.

Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hãn!) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh ”Về miền đất hứa / Exodus” của tác giả Leon Uris) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm ”Bài học Israel (Do Thái)“.

Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.

Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay!

Phạm Trần Hoàng Việt

(SaiGonEcho)


Tướng 1 sao



Sự tàn ác của tập đoàn Do Thái đối với Việt Nam Cộng Hòa
Thứ Bảy, 02 tháng Năm năm 2015 22:21 Tác Giả: BS Đặng Vũ Ái

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1195x1600.



Kính Thưa,

Tôi ở trong nhóm ANAI (Association Nationale des Anciens de l'Indochine : Hội cuả những người đã ở Đông Dương), do Trung Tướng SIMON làm Chủ Tịch. Đa số Hội Viên là những Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan PHÁP đã từng đụng độ với Việt Minh (1946-1954). Về phiá VN, thì là những Boat People, có nhiều người chạy trốn " Bác Hồ " tới 2 lần : 1954 và 1975......

Tôi là Bắc Kỳ Di Cư, và đã được mắt thấy, tai nghe những sự tàn ác của Việt Minh : thủ tiêu, tản cư bao nhiêu lần, và mỗi lần, lại nghèo thêm, và nhất là thấy tận mắt, những điều trái với luân lý, trái với tình người (cháu thủ tiêu chú ruột, bắt qùy, đọc bản án viết tay, lấy đá đập vào đầu chú cho đến chết ( Chết trong đau đớn ) vì phải "để dành đạn bắn quân thù", theo lời dậy dỗ cuả Bác. Sau đó, cho xác chú vào bao bố, bỏ thêm vài hòn đá cho nặng. Và cho xác chú đi mò tôm.... Tất cả, chỉ vì tin đồn, chụp mũ, vu khống , cáo gian không chứng cớ rằng chú là Việt Gian !! ....

UNESCO,vào những năm 1980.... có nhiều người Phi Châu giữ những chức vụ quan trọng, rất thân phe CS, và mỗi kỳ họp là MỸ bị đem ra chửi, hoặc chế diễu. MỸ chống CS, vậy kỳ ấy, MỸ rút ra khỏi UNESCO là danh chính ngôn thuận, khác với vụ PALESTINE kỳ này.

Hơn thế nữa, trong kỳ ấy, MỸ đã báo trước cho UNESCO 1 thời gian, mãi sau khi các yêu cầu chính đáng cuả MỸ bị bọn cầm quyền UNESCO bác bỏ, thì mãi đến lúc ấy MỸ mới đường đường chính chính, rút ra khỏi UNESCO.

OBAMA được giải NOBEL hoà bình 2009 là để cố chấm dứt chiến tranh PALESTINE - DO THÁI, kéo dài từ 1948 cho đến nay. Ngay chính tên Henry KISSINGER, DO THÁI khi làm Ngoại Trưởng MỸ cũng đã phải nói : Đây là 2 bên cùng phải (cùng có lý) gặp nhau (Palestine và Do Thái) HIỂU BA đang bị TRUNG CỘNG nhốt trong tù. MỸ rút ra khỏi UNESCO 72 giờ trước Do Thái !! Tổng Thống PHÁP là người Do Thái ra lệnh cho Đại Sứ PHÁP ở UNESCO bỏ phiếu chấp thuận việc gia nhập UNESCO cuả PALESTINE. Ngoài ra, PHÁP vẫn ở lại UNESCO.

Cũng từ 1988, Trung Tướng SIMON cho biết là tụi thân CS trong UNESCO, theo lời yêu cầu của chính phủ Hà Nội sẽ cho tổ chức 100 năm Sinh Nhật Hồ Chí Minh vào năm 1990. Chúng tôi họp liên miên, và nhờ rất nhiều nhân vật có Thế Lực để phản đối. Lý do : Hồ Chí Minh làm chính trị , không làm văn hoá. Và cứ nhìn hình ảnh các Boat People ( dân VN chạy trốn Cộng Sản bằng ghe thuyền ) thì Văn Hoá , Giáo Dục và sự hiểu biết của mọi người để ở đâu ??

1990, cũng là kỷ niệm 100 năm của De GAULLE, người được dân PHÁP hết sức kính nể, vì đã 2 lần cứu nước PHÁP, vậy mà người PHÁP có bắt UNESCO làm trò hề như vậy đâu. Bọn VC thật là kỳ quặc và quái gở !! ....

Ngay từ đầu năm 1990,Tổng Giám Đốc UNESCO phải tiếp, trung bình 1 tuần 2, 3 lần, những người có quyền thế ở PHÁP, chống đối Tuồng Cải Lương Hồ Chí Minh. Sự tranh đấu kiên trì chống lại những tên PHI CHÂU thiên tả, đã đem lại kết quả : UNESCO không tổ chức Lễ trăm năm HỒ.

Tuy nhiên vì đã ghi vào chương trình nghị sự rất nhiều lần, và đã hứa, nên UNESCO đành phải cho thuê 1 cái phòng nhỏ, với tư cách tư (privé, private).

Các ép buộc của UNESCO :
- không có 1 dấu hiệu UNESCO,
- không được treo cờ Việt Cộng, và ảnh Hồ Chí Minh,
- tất cả các Thiệp Mời, dù đã in xong, cũng phải bỏ, và in lại Thiệp mới vì không được lấy danh nghiã UNESCO trên các En - Tête, mà phải in là do chính phủ HÀNỘI mời.

Nói dối , nói gian , lọc lừa là nghề của chàng : Việt Cộng khoe ầm ĩ ở trong nước rằng UNESCO tổ chức lễ tưởng niệm 100 năm Hồ Chí Minh. Tôi chỉ đóng góp 1 phần nhỏ bé để ngăn cản cái màn kịch tiếu lâm và bất xứng , gian trá này của Cộng Sản ! ...

Thiết nghĩ, VN Hải Ngoại nên ghi ơn những người Pháp có quyền thế, có đạo đức tinh thần (autorité morale) không ưa CS, không ưa Việt Cộng, đã đứng về phe VN Quốc Gia và đã nhiệt tình giúp đỡ chúng ta trong việc này. Tôi nghĩ rằng, lòng biết ơn là 1 giá trị tinh thần cao qúy, và là căn bản của Đạo Đức và tình người. Giá trị của lòng biết ơn vượt rất xa những lời xuyên tạc sự thật và những câu nói có vẻ "móc họng", khiếm nhã, không thể chấp nhận được.

Nay xin trở sang vấn đề Do Thái - Việt Nam Cộng Hòa :

1 - Do Thái không bao giờ công nhận Việt Nam Cộng Hòa.

Tất cả các đồng minh cuả Mỹ đều có tòa Đại Sứ ở Sàigòn, trừ 1 đồng minh thân cận nhất và mang ơn nước Mỹ nhiều nhất là Do Thái thì lại không có Đại Sứ. (Do Thái thiết lập bang giao cấp Đại Sứ với Việt Cộng sau 1975). Tôi còn nhớ, vào những năm 1958, 1959 ở trường CVA có 1 giáo sư Anh ngữ rất giỏi là Linh Mục Long ( ? ) GS sống ở Mỹ nhiều năm, biết rõ Mỹ và vấn đề geo - politics ( Địa Lý Chính Trị ) của Mỹ, thời ấy.

Đại khái, GS dậy chúng tôi là New York City khác với New York State, có con sông Hudson với những khu Manhattan, Bronx, Brooklyn, Queens....

Một buổi sáng, sau khi đã dậy xong giờ Anh ngữ, các bạn cùng lớp với tôi đã ra ngoài đến quá nửa, GS nói với độ 10 người còn ở lại và đứng gần GS : các anh nên biết là Do Thái mới là quan trọng nhất đối với các chính khách Mỹ chứ không phải là Việt Nam Cộng Hòa bởi vì các nhà tư bản Do Thái ( ở Mỹ ) đóng vai trò chủ chốt , mạnh mẽ trong nền tài chánh và kinh tế Mỹ quốc .

Tôi ghi nhớ điều này, vì hay có tính xấu : tò mò, và muốn kiểm chứng.

2- Moshe DAYAN, Tướng độc nhỡn Do Thái, sang thăm chiến trường VN, không thèm xin phép chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, mà xin thẳng với chính phủ Mỹ. Ông ta đi thăm vài chiến trường với 1 vài tướng của Mỹ. Mục đích duy nhất của việc viếng thăm này, là để ông ta chứng tỏ đã quan sát kỹ lưỡng, với những điều mắt thấy tai nghe trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa và những thẩm định của 1 danh tướng Do Thái, không phải là cuả 1 người ngồi trong Tháp Ngà, mà là của 1 người đã đến tận nơi quan sát. Mấy tháng sau, ông ấy viết 1 bài nhận xét, mà trên nguyên tắc chỉ cố để phổ biến ở Do Thái, nhưng vì lẽ Do Thái nắm trọn tất cả các Médias ( ngành nghề và phương tiện truyền thông ) trên thế giới cho nên nó có tiếng vang mạnh mẽ trong dư luận, và nhất là trong các chính quyền Mỹ và Đồng Minh.

Tôi xin được phép không nhắc đến những chi tiết mà chỉ nhắc lại câu kết luận hung ác (và đểu cáng đối với Việt Nam Cộng Hòa) của ông rằng : " MỸ không thể thắng được, vậy cách hay nhất là rút quân đội Mỹ khỏi South of VN " , Nam Việt Nam ...

Xin lưu ý quý vị, bản báo cáo của Moshe DAYAN (1966), gây 1 cú shock cho những nhà lãnh đạo quân sự Mỹ và Đồng Minh, xuất hiện chỉ có 1 năm, sau ngày Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh VN. Thật là khốn nạn, đê tiện và bẩn thỉu đối với Việt Nam Cộng Hòa. Mặc dầu vậy, Do Thái bất chấp, các Médias ( truyền thông ) của Do Thái bất chấp. Đối với Do Thái, Việt Nam Cộng Hòa phải chết để cho Do Thái sống (với nguyên tắc : Mỹ không thể lưỡng đầu thọ địch)... Rất may , bây giờ Henry Kissinger đã qúa già , tình thế và cảnh huống đang thay đổi . Hoa Kỳ đang cố gắng tách rời và tránh xa khỏi các chiến sự Trung Đông và đang chuyển trục sang Á Châu ....

3- Tổng Thống Lyndon Baines JOHNSON (1908-1973) là vị Tổng Thống mà tôi rất quý mến bởi vì ông là người đã ra lệnh :
- cho bỏ bom miền Bắc,
- cho Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng tháng 8 - 1965,
- gửi thường xuyên 3.000 máy bay trực thăng đến VN. Mỗi khi có những máy bay trực thăng bị phá hủy thì cho thay ngay lập tức, để cho con số máy bay trực thăng vẫn ở mức 3.000,
- gửi tới 500.000 quân Mỹ sang tham chiến tại VN, và lập rất nhiều căn cứ quân sự, nhiều phi trường ở VN.
- lập 3 căn cứ quân sự Mỹ ở Thái Lan để chi viện thêm cho chiến trường VN.
- huy động được các nước Đồng Minh gửi tổng cộng 100 000 quân sang VHCH : Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan......
- ra lệnh cho các pháo đài bay B52 từ đảo Guam hàng ngày đi bỏ bom các mật khu Việt Cộng và đường mòn Hồ Chí Minh : mối đe dọa khủng khiếp đối với Việt Cộng. Việt Cộng bị thiệt hại về quân số cũng như về võ khí rất nhiều trong những cuộc ném bom của pháo đài bay B52,
- ra lệnh cho 4 hàng không mẫu hạm Mỹ đậu thường xuyên ở ngoài khơi Việt Nam Cộng Hòa. Trong trường hợp có 1 chiếc rời đi nơi khác, thì lập tức 1 chiếc hàng không mẫu hạm khác đến thay thế, để vẫn ở mức 4 hàng không mẫu hạm,
- ra lệnh cho quân đội Mỹ mở các cuộc tấn công Việt Cộng trong chiến thuật truy lùng và tiêu diệt Việt Cộng (Searchs and Destroys)... Tưởng cũng nên nhắc lại rằng Tổng Thống Lyndon B. Johnson là người của Bang Texas, Mỹ quốc ...

Médias ( truyền thông ) Mỹ, nhưng Do Thái nắm trọn quyền, thường xuyên đả kích Tổng Thống JOHNSON và đã gọi JOHNSON là vị Tổng Thống đắt tiền nhất của Mỹ, vì đã giúp đỡ quá nhiều cho chiến tranh VN (thay vì để giúp Do Thái!). Hơn 1 lần, Tổng Thống JOHNSON đã nói với báo chí : nhiều đêm tôi không ngủ được vì nghĩ tới chiến trường VN.

Médias Do Thái và Médias Mỹ tấn công Tổng Thống liên tục, khiến ông phải từ bỏ ý định ra tái tranh cử để dành hết tâm lực cho Việt Nam Cộng Hòa mà ông coi là vấn đề chính. Tổng Thống rất trong sạch, không hề có tiếng tăm xấu trong suốt thời gian tại chức. Ngoài ra, Tổng Thống rất ngay thẳng và không ưu đãi người thân của mình : 2 con rể của ông đều bị gửi sang chiến trường VN. Hai người con gái của ông ta khóc lóc nức nở và nói về 2 người con rể của ông ta với cách dùng động từ trong thời quá khứ. Ông rất đau lòng vì khi 2 người con gái dùng những động từ trong thời quá khứ, thì có nghiã là các cô ấy coi như chồng của họ đã chết rồi. Ông nói tôi rất xúc động, tôi thông cảm với 2 con gái tôi, nhưng việc công là việc công. Thực là 1 Tổng Thống Mỹ có lòng nhất với Việt Nam Cộng Hòa (nhưng người Việt Nam Cộng Hòa lại thích NIXON, vì ông ấy chống Cộng !! ) ...

Ông gặp nhiều điều không may : sự tấn công cuả các Médias truyền thông của MỸ (tức là do bởi Do Thái), rất nhiều cuộc biểu tình phản chiến ở các nước ÂU MỸ (Do Thái giật dây), Biến Động Miền Trung do Đồng Chí THÍCH TRÍ QUANG(chắc quý vị còn nhớ bức hình Đồng Chí Tổng Thống Thích Trí Quang người mảnh khảnh,ngồi trên xích lô, nét mặt cưng cưng đăng trên trang bià tuần báo TIMES, hay NEWSWEEK ? với tựa đề : người đã làm rung chuyển nước MỸ), với dự định tách rời vùng 1 cuả Tướng NGUYỄN CHÁNH THI, sau đó là những vụ Thuyết Pháp liên tục của Phật Giáo Ấn Quang, sực mùi chống MỸ. (Viết đến đây, tôi không khỏi đau lòng, khi nghĩ tới sự thành công của Thiếu Tướng NGUYỄN CAO KỲ trong vụ đập tan các Biến Động Miền Trung, sau những thất bại của 2, 3 Tướng trước đó. Trong các cuộcTổng Công Kích têt Mậu Thân (1968) của Cộng Sản thì tướng KỲ đích thân chỉ huy các vụ phản công đánh bạt Việt Cộng , vì Tổng Tư Lệnh NGUYỄN VĂN THIỆU đi ăn tết ở MỸ THO. " Ông cao - bồi NGUYỄN CAO Kỳ ", với tính bộc trực, đã nhiều lần phản đối MỸ khi họ đi quá đà, coi thường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)...

Như đã viết ở trên : lòng biết ơn là 1 giá trị tinh thần cao qúy, và là căn bản cuả ĐẠO ĐỨC và TÌNH NGƯỜI. Tôi không muốn, và không dám thuyết phục ai về việc này. Riêng cá nhân tôi, tôi hết sức cảm tạ và ghi ơn công của Tổng Thống JOHNSON đã hết lòng chung thủy đối với Việt Nam Cộng Hòa.

4 - Do Thái đã tổ chức rất lâu việc MỸ phải bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.

Tuyên truyền cho dân chúng VN mạnh nhất thời ấy là Đài Phát Thanh. Đối với các sự viện trợ của MỸ, với những phương tiện kỹ thuật và truyền thông tối tân, nhưng Đài Phát Thanh SAIGON lại chỉ nghe được ở SAIGON mà thôi (Lệnh của Bố Mẹ Do Thái).

Khi đơn vị tôi ở HUẾ, tôi không có cách nào nghe được đài SAIGON, vì nó kêu rè rè ... Trái lại , đài HÀNỘI và đài GIẢI PHÓNG của Cộng Sản thì nghe rõ mồn một. Vì thế, đầu năm 1969, tôi được nghe thư chúc Tết của Hồ Chí Minh, với những câu như : Đánh cho MỸ cút, đánh cho NGỤY nhào....

Khi Việt Cộng có AK54, và B40, rất tối tân, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn xài súng ống thời 1945. Chúng ta rất xa với những phi đạn , phi tiển , missiles USA , súng phóng đạn pháo M72 mà MỸ cung cấp cho Do Thái năm 1973 dùng để tiêu diệt những xe tăng lớn của LIÊN XÔ và tiêu diệt tất cả những hỏa tiễn SAM của LIÊN XÔ (bán cho Ai Cập).

Trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 02 - 1968, dưới quyền chỉ huy tài ba của Tổng Tư Lệnh NGUYỄN VĂN THIỆU, 80% quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi phép, kể cả NGUYỄN VĂN THIỆU. Cuộc Tổng Công Kích rất to lớn, xẩy ra ở trên 50 tỉnh và thành phố Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là ở SAIGON và HUẾ (HUẾ bị chiếm trong gần 1 tháng với số nạn nhân 8.000 người và rất nhiều mồ chôn tập thể). Trong khi quân đội VN, theo sự cam kết nghiêm trọng của Việt Cộng và Bắc Việt là ngưng chiến trong 4 ngày Tết, nên có đến 80 % quân đội đi phép, thì không 1 người lính Mỹ nào đi phép.

Nói khác đi, quân đội Mỹ có đầy đủ trong tất cả các căn cứ quân sự Mỹ. Lệnh trên ban xuống : Mỹ không được làm gì cả trong 36 giờ, mặc sức cho lính Việt Cộng tấn công, chiếm đóng như vào chỗ không người. Tại sao là đồng minh với nhau mà lại có cái lệnh kỳ cục, quái đản, ác đức như vậy?

Thiết nghĩ đó là lệnh của Bố Mẹ Do Thái mà quyền hành, trong nhiều trường hợp, đã hơn 1 lần chứng tỏ, còn cao hơn cả quyền hành của Tổng Thống Mỹ. C'était le début de la fin (Đó là thời điểm bắt đầu của sự kết liễu của Việt Nam Cộng Hòa).

Viết đến đây, tôi rớt nước mắt, thương cảm những người chiến binh của Việt Nam Cộng Hòa, những thường dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị chết hoặc bị thương nặng do những mánh lới bất nhân, giết người, có tính toán của tập đoàn 15 triệu người Do Thái trên khắp thế giới, áp đặt lên trung tâm quyền lực quân sự Mỹ.

Xin nhắc lại, vũ khí của quân lực Việt Nam Cộng Hòa rất lỗi thời. Phải đợi cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 02 - 1968, và còn phải chờ thêm 3 tháng nữa, những khẩu M16 mới bắt đầu được trao rất từ từ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Nếu quân đội Mỹ can thiệp ngay từ phút đầu tiên thì Việt Cộng làm sao dám "múa gậy vườn hoang" như thế. Không những thế, mệnh lệnh tối cao của quân đội Mỹ ban xuống cho tướng WESTMORELAND là cấm tấn công, mà chỉ được phản ứng tự vệ mà thôi.

Lệnh gì mà kỳ cục thế, nếu không phải là của Bố Mẹ Do Thái ? Bởi lẽ quân đội Mỹ rất tài giỏi, có nhiều vũ khí tối tân và nhiều tướng lãnh tài ba. Mỹ luôn luôn thắng trận. Cái lệnh quái đản ban xuống cho tướng WESTMORELAND như thế, nếu không là áp lực của Lobby Do Thái thì do ai ?

Do Thái nắm hết các Médias truyền thông Âu Mỹ, tổ chức các cuộc xuống đường chống chiến tranh VN... Nhờ vào các cơ quan truyền thông mà Tập đoàn Do Thái làm chủ cổ võ, và xúi dục. Do Thái chịu mọi phí tổn cho rất nhiều cuộc xuống đường ở các nước Âu Mỹ chống lại chiến tranh VN.

Do Thái Henry KISSINGER khuyên NIXON bỏ Việt Nam Cộng Hòa để đi với Trung Cộng. Chính hắn chủ trương cho cuộc gặp gỡ NIXON - MAO TRẠCH ĐÔNG. NIXON đã từng nói với MAO TRẠCH ĐÔNG và CHU ÂN LAI (1972): nếu chúng tôi là bạn của 1 nước CS lớn ở Á CHÂU thì tại sao tôi lại không chấp nhận cho 1 nước CS nhỏ ở Á CHÂU (Việt Cộng). Tuy nhiên, nước chúng tôi là nước dân chủ nên không thể thay đổi ngay tức khắc, hãy để cho chúng tôi chuẩn bị trong 3 năm. Quả nhiên, 3 năm sau, 1975, Việt Nam Cộng Hòa không còn tồn tại. Do Thái rất mạnh ở trong Quốc Hội Mỹ, phản chiến và bỏ rơi VN cũng ở Quốc Hội Mỹ.

Trong hành pháp thì Do Thái KISSINGER (mà Tổng Thống CARTER gọi là Tổng Thống Mỹ về ngoại giao, tức là có ý coi xem , nói rằng Tổng Thống Gérald FORD để mặc KISSINGER toàn quyền quyết định những việc ở bên ngoài nước Mỹ, mà quan trọng nhất là VN). Để giữ đúng lời hứa với MAO TRẠCH ĐÔNG cho Việt Nam Cộng Hòa chết vào khoảng 1975, quốc Hội Mỹ do Do Thái nắm quyền, cùng với Hành Pháp Mỹ do tên Do Thái KISSINGER lèo lái lươn lẹo , thủ đoạn nham hiểm , độc ác , thế là Tổng Thống Gérald FORD chuẩn bị bức tử Việt Nam Cộng Hòa....

Ngay từ đầu năm 1974, viện trợ Mỹ về kinh tế cho VNCH bị cắt giảm 1 nửa, viện trợ về quân sự giảm 1 nửa... Đến năm 1975 lại còn cắt giảm nhiều hơn nữa. Tỉnh lỵ PHƯỚC LONG bị Việt Cộng chiếm trọn cuối năm 1974. Tên Do Thái KISSINGER khuyên Tổng Thống FORD cứ mặc kệ cho Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 10-03-1975 mất BAN MÊ THUẬT, tinh thần quân lực Việt Nam Cộng Hòa xuống thấp. Trong lúc nguy khốn, Việt Nam Cộng Hòa xin Mỹ viện trợ gấp 700 triệu USD (món tiền này chỉ là 1 khoản rất nhỏ so với số viện trợ của Mỹ cho Do Thái).

Do Thái bầy mưu để cướp không 700 triệu USD vũ khí, ưu tiên để viện trợ cho VNCH .

Đầu tiên, quốc hội Mỹ chấp thuận 700 triệu USD về viện trợ vũ khí.

Giai đoạn 2, quốc hội Mỹ bloquer (block) ngăn chặn món tiền này với lý do hết sức khốn nạn là : " cho Việt Nam Cộng Hòa bao nhiêu cũng không đủ, vậy giữ lại để tiết kiệm ". Xin nhắc lại, Quốc Hội MỸ chịu ảnh hưởng cuả Do Thái rất nhiều.

Khốn nạn thay quyết định của tập đoàn Do Thái trước 1 đồng minh gặp cơn nguy khốn hiểm nghèo. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa hết sức lo sợ vì tinh thần quân đội xuống thấp, Việt Cộng đã tới tận PHAN RANG, PHAN THIẾT.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, lạy van Mỹ đến mức, nếu Mỹ không cho 700 triệu USD đã tháo khoán thì chỉ xin các ông 1 lời nói trước báo chí để gây lại tinh thần cho quân đội và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa :
" 700 triệu USD về võ khí cho Việt Nam Cộng Hòa sẽ được chấp thuận, nhưng còn phải nghiên cứu thêm vài chi tiết ". Tức là chúng ta chỉ xin Mỹ 1 lời hứa cuội. Quốc Hội MỸ (dưới ảnh hưởng cuả Do Thái) họp báo nói "không có 1 cent ( xu ) cho Việt Nam Cộng Hòa". Đau đớn thay !

Cái bẩn thỉu , độc ác của Do Thái đối với Việt Nam Cộng Hòa ở chỗ là : đối với các nước dân chủ pháp trị, một khi 700 triệu USD võ khí đã được quốc hội tháo khoán thì chính phủ bắt buộc phải chi dùng , nhưng Quốc Hội Mỹ lại cố ý không cho gửi các võ khí đó sang VN, như đã nói ở trên.

Việt Nam Cộng Hòa mất ngày 30 - 04 - 1975.

Ba tháng sau, Lobby Do Thái biết rõ nguyên tắc ấy và quốc hội Mỹ cho Tổng Thống FORD sử dụng 700 triệu USD võ khí, không phải để gửi sang VN, vì Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, mà là để gửi sang cho Do Thái !! Khi ấy, tôi đã sang tới Pháp, và khi đọc những tin này trên báo chí, tôi giận điên người. Lính Mỹ, gỡ các nhãn hiệu gửi sang Việt Nam Cộng Hòa trên các thùng võ khí, sau đó dán lại nhãn hiệu gửi sang ISRAEL. Do Thái không có chiến tranh, và cũng không ở thế cực kỳ nguy hiểm như Việt Nam Cộng Hòa. Có cần nói thêm là cô đào cởi truồng DO THÁI Jane FONDA, là 1 trong nhũng lãnh tụ phản chiến VN rất dữ dội, đã sang tận HÀNỘI để gặp Hồ Chí Minh và tuyên bố hoàn toàn ủng hộ Việt Cộng. Tên côn đồ Do Thái Henry KISSINGER thường hay nói : Tại sao chúng nó (dân, quân Việt Nam Cộng Hòa ) không chết phứt hết đi cho rồi.

Khi tình hình Việt Nam Cộng Hòa nguy ngập, lúc ấy là 2 giờ sáng ở WASHINGTON, và Tổng Thống FORD còn đang ngủ. Kissinger cho đánh thức Tổng Thống Gerald FORD, còn đang ngái ngủ. Kissinger khuyên Tổng Thống FORD bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa. Kissinger nói gì mà Tổng Thống FORD chẳng nghe, vì Tổng Thống FORD là 1 con người rất tầm thường. Và MỸ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa như cái giẻ rách.

Độc hại hơn, Kissinger khuyên Tổng Thống FORD bỏ hẳn dự định làm hàng rào an toàn do bởi lính Marines thủy quân lục chiến MỸ cùng với các phương tiện thừa thãi cuả MỸ và cùng với các quân lính còn lại của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ... Con đường hàng rào an toàn ấy sẽ nối liền SAIGON và Vũng Tầu để cho các gia đình Việt Nam Cộng Hòa đi thoát ( tương tự như 1954-1955 , PHÁP giữ 2 thành phố Hànội và Hải Phòng trong 1 năm cho dân chúng Bắc Kỳ Di Cư di chuyển vào Nam VN ) , đi tìm tự do ....

PHÁP, mặc dầu thua to ở ĐIỆN BIÊN PHỦ, và số thương vong cao hơn MỸ, lại eo hẹp rất nhiều về phương tiện, đã cư xử với ĐỒNG MINH VNQG 1 cách rất trung hậu, có tư cách, có phong độ, và có tình. MỸ giầu hơn, mạnh hơn PHÁP rất nhiều, lại dư phương tiện, nhưng tên đồ tể Henry KISSINGER vâng lời TẬP ĐOÀN 15 triệu người DoThái, khuyên Tổng Thống FORD vứt bỏ ngay Việt Nam Cộng Hòa, không thương tiếc !!!!

Côn đồ Do Thái KISSINGER khuyên Tổng Thống FORD tài tình đến nỗi, mấy ngày trước khi SAIGON bị mất, bị thất thủ Tổng Thống FORD - trả lời 1 cuộc phỏng vấn cuả mấy ký giả trên đường đi đánh Tennis về thái độ và quyết định cuả Tổng Thống trước tình hình Việt Nam Cộng Hòa đang sụp đổ - thì FORD trả lời dứt khoát, không cần suy nghĩ : "Xin các ông tránh ra, để cho tôi đi đánh Tennis cho kịp giờ " !!! Thật là khốn nạn thay !!!

Trong khi đó, bên kia bờ Thái Bình Dương, hàng trăm ngàn gia đình, hàng triệu người Việt Nam Cộng Hòa đang than khóc, đang lo lắng , âu sầu ......

Tập Đoàn Do Thái đã thành công rực rỡ, vẻ vang (trên hàng triệu người bị chết) vì tài ba, nhưng không có đức độ của họ. Nạn nhân là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, QUÂN LỰC MỸ, các Phi Công MỸ, và QUÂN LỰC của các nước Đồng Minh.... Tuy nhiên, đối với bọn họ thì đấy chỉ là những con số, không lấy gì làm quan trọng, làm mủi lòng tiếc thương của họ . Họ dửng dưng không cần biết , không thèm để ý , không thèm quan tâm .... Họ đã trở thành thú vật vô lương tri !!!!

Vấn đề chính yếu :
1- Tập đoàn Do Thái mạnh, ISRAEL bình an, MỸ phải viện trợ cho Do Thái(hàng chục tỷ Đôla Billions USD mỗi năm, trực tiếp và gián tiếp, với tiền đóng thuế cuả dân chúng MỸ)....
2- Quốc Hội MỸ theo Do Thái, và các chính khách MỸ, CỘNG HOÀ hay DÂN CHỦ đều đặt quyền lợi Tối Cao của Do Thái trước quyền lợi tối cao của MỸ, ngay cả trong trường hợp đi ngược lại quyền lợi cuả MỸ. (Tôi được đọc nhiều tài liệu liên quan đến thái độ Phản Quốc, phục vụ ngoại bang cuả các chính khách MỸ. Xin Quý Vị ở MỸ kiểm chứng, có lẽ sẽ dễ dàng hơn) ... Họ chạy theo và phục tùng các tư bản Do Thái vì các tên tư bản nầy đã bỏ tiền của ra ủng hộ , giúp đỡ và nuôi dưỡng họ .... Tất cả chỉ vì tiền của và vật chất của các tài phiệt Do Thái . Họ chỉ biết Tiền mà thôi .

Còn nhiều chi tiết nữa, nhưng thư đã quá dài, viết thêm chỉ thêm đau lòng cho dân chúng và các quân nhân hào hùng của Việt Nam Cộng Hòa ........

** Hiện nay có một số tác giả Việt Nam đã viết rằng chính tên đồ tể Henry Kissinger và Tập Đoàn Tài phiệt Do Thái đã chủ mưu cố tình sát hại , giết chết các anh em gia đình Tổng Thống Kennedy của Mỹ để bịt miệng và tiêu diệt nhân chứng đã biết rõ về các âm mưu gian ác của bọn họ , và dĩ nhiên cũng do chính bọn ác ôn côn đồ nầy đã chủ mưu đảo chính giết chết gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm của VNCH và cũng chính bọn sát nhân nầy đã chủ mưu mọi điều để giết chết nền Đệ Nhị Cộng Hòa và quân dân cán chánh của Miền Nam Tự Do và để cho Cộng Sản Bắc Việt nhào vào đánh cướp chiếm lấy , cai trị , thống trị toàn thể Việt Nam dưới sự cai quản và chỉ huy toàn diện về mọi điều , mọi sự của đế quốc Cộng Sản Trung quốc !!!!!....

Toàn bài của BS Đặng Vũ Ái, Paris
(SaigonEcho)
Nguồn:  http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=34437

Bức ảnh chiến trường Việt Nam nổi tiếng gây tranh cãi

Tướng 1 sao

Bức ảnh chiến trường Việt Nam nổi tiếng gây tranh cãi

By on June 12, 2015
Bức ảnh nổi tiếng nhất của cựu phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính đang là chủ đề tranh cãi lan rộng trên thế giới về tính chân thực của thể loại ảnh báo chí.


Trên mạng lan truyền hai bức ảnh với những chi tiết khác nhau được các nhiếp ảnh gia, nhà nghiên cứu…so sánh
Visa pour I’Image Perpignan là festival nhiếp ảnh báo chí lớn nhất thế giới tổ chức hằng năm ở thành phố Perpignan, miền nam nước Pháp.
Năm 2014, các cựu phóng viên chiến trường Việt Nam gồm Đoàn Công Tính, Mai Nam, Chu Chí Thành, Hứa Kiểm đã được mời tham dự sự kiện này.
Trong đó bức ảnh bộ đội Trường Sơn đu dây vượt thác của nhà nhiếp ảnh Đoàn Công Tính đặc biệt gây ấn tượng ở festival. Tờ The New York Times của Mỹ đã chọn bức ảnh làm tiêu điểm cho loạt ảnh giới thiệu về ảnh chiến trường Việt Nam tại Perpignan.
Tiếp theo tiếng vang của festival, vào giữa tháng 4-2015 ban tổ chức Visa pour I’Image Perpignan tiếp tục giới thiệu triển lãm này tại Trung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội. Bức ảnh bộ đội đu dây của nhiếp ảnh gia Đoàn Công Tính một lần nữa được chọn in poster chính cho triển lãm.
Bất ngờ bùng nổ tranh cãi
Bức ảnh của Đoàn Công Tính được giới thiệu tại Festival Visa pour l’Image Perpignan 2014Tuy nhiên, hiện các nhà nhiếp ảnh, nhà nghiên cứu… trên thế giới đang tranh luận về tính chân thực của bức ảnh. Họ gây áp lực lên ban tổ chức Visa pour I’Image Perpignan đề nghị giải thích, đồng thời thông báo 
đến các tờ báo từng đăng tải bức ảnh này.

Trên trang blog cá nhân, nhà nhiếp ảnh Đan Mạch Jorn Stjerneklar đã kể lại câu chuyện ông gặp nhà nhiếp ảnh Đoàn Công Tính thế nào.
Vào một ngày cuối tháng 4-2015, ông cùng một nhà báo nữ Đan Mạch khác là Helle Maj đến gặp nhà nhiếp ảnh Đoàn Công Tính tại nhà riêng để thực hiện loạt bài phỏng vấn về các nhà nhiếp ảnh chiến trường.
Khi tác giả Đoàn Công Tính đưa cho ông quyển sách ảnh Khoảnh khắc của Đoàn Công Tính in năm 2001, Stjerneklar phát hiện ở trang thứ 162, bức ảnh bộ đội Trường Sơn đu dây khác hẳn bức ảnh ông thấy tại festival Visa pour I’Image Perpignan 2014.
Theo tường thuật của Stjerneklar, khi ông hỏi tác giả tại sao hai bức ảnh lại khác nhau, ông Đoàn Công Tính đã nhìn xuống và giải thích rằng do phim gốc bị hư nên có sự can thiệp trên.
Stjerneklar kể về ấn tượng của ông khi lần đầu tiên nhìn thấy bức ảnh ở Pháp năm 2014: “Nó là một biểu tượng. Không gì khác hơn nữa!”.
Nhưng khi nghe lời giải thích của Đoàn Công Tính ở nhà riêng một năm sau, cảm giác của Stjerneklar là: “Giây phút đó tôi như người thuộc thế giới khác!”.
Những so sánh về những điểm giống nhau, khác nhau của hai bức ảnh cũng lan đi trên mạng xã hội với nhiều cảm giác sững sờ, kinh ngạc của những người từng hâm mộ bức ảnh trên thế giới.
Tờ The New York Times sau đó đã gỡ bức ảnh xuống kèm theo lời giải thích của ban biên tập. Tác giả, nhà nghiên cứu thể loại ảnh chiến trường David Campbell (Mỹ) cũng tung lên một bài viết dài với sự nghiên cứu của các đồng nghiệp, trong đó có cả câu chuyện của Stjerneklar.
Dường như các ý kiến của David Campbell, Stjerneklar đều không chủ ý buộc tội nhà nhiếp ảnh Đoàn Công Tính. Nhưng họ chỉ trích và gây sức ép gay gắt lên ban tổ chức festival Visa pour I’Image Perpignan 2014.
Họ đặt vấn đề trách nhiệm tuyển chọn vì festival ảnh báo chí lớn nhất này có tiêu chí là không chấp nhận ảnh sắp đặt, sao lại để “vuột” một vụ mà họ gọi là xìcăngđan lớn như thế!
Bức ảnh của Đoàn Công Tính in trong sách ảnh Khoảnh khắc năm 2001
Bức ảnh đẹp là sản phẩm… Photoshop
Trao đổi với nhiếp ảnh gia Đoàn Công Tính, ông thừa nhận có buổi gặp gỡ với nhà nhiếp ảnh Đan Mạch Jorn Stjerneklar và nhà báo Helle Maj tại nhà riêng hồi cuối tháng 4-2015.Ông cũng xác nhận đã giải thích với Stjerneklar rằng do phim gốc không đạt chất lượng nên ông phải nhờ kỹ 
thuật Photoshop để tạo nên bức ảnh trên.
Đoàn Công Tính giải thích rõ hơn rằng do phim gốc không đạt chất lượng nên ngay trong thời chiến tranh ông đã không gửi đi đâu mà cất giữ ở nhà.
Sau này ông lấy ra, đem đến phòng lab nhờ họ dùng kỹ thuật Photoshop để tạo thêm phông nền là thác nước để hoàn chỉnh bức ảnh. Cả bức ảnh của năm 2002 và 2014 đều là kết quả của hai lần Photoshop khác nhau.
“Vì bức ảnh này không nổi tiếng nên tôi lưu trong đĩa cùng hàng trăm bức ảnh khác chỉ để chơi cá nhân. Đến khi ông Patrick Chavel – người tuyển chọn của Festival Visa pour I’Image Perpignan 2014 – đến thì tôi đưa họ luôn cái đĩa. Vì không trực tiếp gửi ảnh nên tôi không biết là họ chọn bức ảnh này!” – Đoàn Công Tính cho hay.
Trước đây, Đoàn Công Tính được nhiều lần mời ra nước ngoài triển lãm ảnh chiến tranh nhưng ông chưa hề đem theo bức ảnh này.
Tác giả cũng giải thích ngoài việc in trong quyển sách ảnh Khoảnh khắc xuất bản năm 2001, bức ảnh này chưa hề được công bố trên báo chí trước Festival Visa pour I’Image Perpignan 2014.
Nhưng trước những tranh cãi hiện nay do bức ảnh mang lại, tác giả của bức ảnh nổi tiếng Nụ cười thành cổ Quảng Trị đã bày tỏ sự tiếc nuối: “Khi sự việc xảy ra, người đại diện của Festival Visa pour I’Image Perpignan 2014 có đến đây đặt vấn đề tôi sẽ giải thích thế nào. Tôi cũng giải thích hoàn toàn như vậy. Tuy nhiên, vì những sai sót cá nhân của mình mà khiến họ bị lôi vào sự việc xôn xao hiện nay, tôi cũng đã gửi lời xin lỗi”.
Lời xin lỗi vì những sơ suất đã được gửi đi nên bài học khi “chơi” với thế giới càng là một kinh nghiệm nhớ đời, không chỉ cho riêng một người.
Theo Tuổi trẻ


Việt cộng một mình một chợ ,chúng nói sao cũng được ,mấy tên việt cộng chui rúc trong hầm cầu tiêu trong cống rãnh của miền nam Việt Nam để phá hoại ,ném lựu đạn đặt mìn trên quốc lộ ,nay bôi mầu,điểm hoa trát phấn khoe koang là đẹp là hào hùng ...chỉ lừa được những người ngoại quốc ngây thơ chứ dân Việt Nam ai cũng biết hết cả ,vì thế chúng vẫn cứ phải độc tài độc đảng phải dùng nhà tù ,công an kềm kẹp người dân ,đố chúng dám có Tự Do Dân Chủ như những quốc gia quanh vùng .
 
Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=34434

CSVN Muốn Ngả Theo Mỹ?

 

M&M M&M is offline
Tướng 5 sao
 

CSVN Muốn Ngả Theo Mỹ?

Vi Anh

Một số hiện tượng bên ngoài mới đây cho thấy Cộng sản Việt Nam [CSVN] bị Trung Cộng [TC] xâm lấn tới nên muốn ngả theo Mỹ. Nhưng coi vậy, chớ không phải vậy, mà có thể trái lại, CSVN bản chất không đi với TC được.

Nếu CSVN ngả theo Mỹ trước những hành động xâm lấn Biển Đông và biến quần đảo Trường sa của VN thành khu quân sự, thế là chuyện bình thường. Phàm nước nhỏ nào bị nước lớn ăn hiếp, bị xâm lấn, xăm lăng thì kiếm chỗ dựa, như VNCS muốn ngả theo Mỹ để nhờ giúp đỡ trong việc giữ gin bờ cõi, chủ quyền quốc gia là chuyện bình thường, hợp tình, hợp lý không có gì lạ. Nhưng ở đây CSVN là một chế độ CS, liệu Mỹ có thể viện trợ quân sự, có thể đưa quân qua giúp được hay không. Và CSVN kinh tế lệ thuộc, chánh trị lệ thuộc TC càng ngày càng nặng, rất khó gở. Còn ngoại giao và quân sự, VNCS luôn chủ trương ba không, “không tham gia các liên minh quân sự và không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào; không cho nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam; không dựa vào nước nào để chống nước khác“. Riêng dối với TC, CSVN trước sau như một luôn ca ngợi tình hữu nghị, tình đồng chí với TC là 16 chữ vàng, 4 tốt. Thế thì VNCS làm sao “thoát Trung” được, làm sao đi sát với Mỹ như Phi luật tân được.

Nếu Mỹ chỉ hứa bằng miệng, giúp bằng lời, ầu ơ ví dầu với CSVN thì không sao. Chớ nếu Mỹ cho cố vấn quân sự, viện trợ vũ khí, máy bay, tàu chiến không hoàn lại, cho sĩ quan, tướng lãnh VN sang Mỹ huấn luện chiến thuật, chiến lược, tham mưu, ắt TC sẽ nổi trân lôi đình. TC sẽ trừng trị kẻ CSVN đã phản bội, vô ơn đối với những cái cam kết và những viện trợ lớn lao thâm căn cố đế qua nhiều đời tổng bí thư của Đảng CSVN. TC sẽ cho CSVN một bài học nữa, bài học đáng giá hơn bài học của Đặng tiểu Bình cho CSVN thời Lê Duẫn đã nắm đuôi theo Liên xô. CSVN nhứt định sợ một bài học như thế, vì Đảng Nhà Nước sẽ sa vào cái thế lưỡng đầu thọ địch. Ngoài thì TC đánh, chỉ 2 tiếng đồng hồ thì mất Saigon, thủ dô kinh tế. Trong thì bị dân chúng VN nổi lên làm một cuộc cách mạng như các nước CS Đông Âu, Nga sô viết hay các dân tộc bị áp bức ở Bắc Phi và Ai cập, thì CSVN sẽ bi mất chánh quyền khó bảo toàn tánh mạng và tài sản.

Nên, là những người chuyên nghiệp cướp chánh quyền, CSVN sẽ nghiêng về khuynh hướng thà đi với TC mất đất mà còn được làm tự thực dân áp bức bóc lột đồng bào người dân Việt để “thu vén cuối đời”, còn hưởng được tiền hàng chục tỷ Đô la Mỹ đã tẩu tán ra gởi ở ngoại quốc. Còn hơn đi với Mỹ là mất đảng mà mất Đảng là mất tất cả.

Nhưng CSVN là những người chuyên tráo bài ba lá trong chánh trị, ngoại giao. CSVN lấy hình thức ngoại giao, tiếp đón long trọng, “lễ tân” rầm rộ và tuyên bố phát triển họp tác toàn diện với Mỹ để chánh khách Mỹ nghe rất êm tai, vui lòng. Và CSVN lấy những trò sân khấu ngoại giao ấy, dùng Mỹ như con ngáo ộp để hù doạ những nhà đấu tranh cho tự do dân chủ, nhân quyền trong nước, mặc thị nói “này nhé Mỹ đã thân với Đảng Nhà Nước chúng ông rồi, chúng bây đừng có “đấu tranh” gì nữa, không còn chỗ “tránh đâu”.

Nên CSVN mà con mắt Mỹ bằng những sự tiếp đón long trọng hơn mức cần thiết ngoại giao. Như đích thân Tổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang vai vế lớn hơn, đich thân ra đón tiếp khách chỉ là Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ thôi. Tổng Trọng khẳng định chủ trương của Việt Nam coi trọng thúc đẩy bang giao với Hoa Kỳ, vì lợi ích lâu dài của người dân hai nước. Chủ tịch Sang nói “hai bên đã khép lại quá khứ và hướng tới tương lai thể hiện bằng việc thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, đặc biệt quan trọng là trao đổi cấp cao diễn ra thường xuyên hơn”.

Bộ trưởng Quốc phòng VNCS Phùng Quang Thanh cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter ký bản Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ. Nhưng xét kỹ đây là cái nhìn lui, chớ không phải nhìn tới. Bản Tuyên bố được ký trên căn bản của bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương ký hồi năm 2011. Từ bản ghi nhớ cách 4 năm trước mãi đến 2015 mới thành bản tuyên bố thì quá trễ. Quá trễ vì hai bên đều lơ là, ầu ơ ví dầu cho qua chuyện thôi, chớ thực tâm không thiết tha gì lắm.

Xem nội dung thì chẳng có gì mới, toàn chuyện cũ, không có gì đáp ứng cho nhu cầu cấp bách của tình hình hiện tại. Tuyên bố bao gồm 5 nội dung: tăng cường tham vấn chính sách; hợp tác giải quyết hậu quả chiến tranh như rà phá bom mìn và tẩy độc dioxin; hợp tác gìn giữ hòa bình của LHQ; giải quyết hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu trợ; và hợp tác trong lĩnh vực an ninh biển trên cơ sở luật pháp quốc tế và luật pháp mỗi bên.

Bộ Trưởng QP Mỹ cho biết Mỹ sẽ cung cấp cho VN một gói 18 triệu Mỹ kim cho lực lượng tuần duyên Việt Nam để mua sắm một số tàu tuần tra. Số tiền này cũng không mới, Ngoại Trưởng Mỹ trong chuyến công du Á châu đấu tiên sang Á châu hồi năm 2013 đã công bố giúp cho VN rồi, bây giờ hai năm sau Bộ Trưởng Quốc Phòng nhắc lại. Thời gian Mỹ giải ngân và VN bó buộc phải chọn mua tàu Mỹ nhanh nhứt cuối năm 2015 cũng chưa xong. Thừa thì giờ cho TC mọc râu tới rún, bám rễ tới đáy biển ngoài khu quân sự TC đã lập trên đảo Trường sa rồi.

Đảng Nhà Nước CSVN còn sợ “Ngài” Bộ Trưởng QP Mỹ bực bội, nên dấu không cho Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng là một trong bộ tam sên của CSVN có mặt trong suốt chuyến viếng thăm VNCS của Bộ trưởng QP Mỹ. Vì TT Dũng là người đươc Đảng CSVN giao nhiệm vụ đọc bài diễn văn trong lễ duyệt binh 30/4 tại Saigon nặng lời chưởi mắng Mỹ nào là đế quốc nào là dã man và hết lời cám ơn CS Liên xô và Trung Quốc giúp CSVN đánh cho “Mỹ cút Nguỵ nhào”. Một bài diễn văn chứng tỏ Đảng Nhà Nước CSVN theo sát đuôi TC vi TT Dũng là người bạo mồm, bạo miệng, có nhiều lời bất bình chống hành đông xâm lấn VN của TC và có khuynh hướng thiên về Mỹ để phát huy kinh tế cứu vãn tinh hình VN bị TC xâm lấn. Thế mà sau chuyến đi sang Tàu triều kiến Chủ Tịch Tập cận Bình của Tổng Bí Thư CSVN trước khi công du Mỹ, Chủ Tịch TC đã định hướng ngoại giao, khiến TT Dũng phải trở cờ, đổi giọng, thì biết CSVN làm sao dám ngả theo Mỹ./.

(Việt Báo)

Thống soái
 
Quote:
Vi Anh
Một số hiện tượng bên ngoài mới đây cho thấy Cộng sản Việt Nam [CSVN] bị Trung Cộng [TC] xâm lấn tới nên muốn ngả theo Mỹ. Nhưng coi vậy, chớ không phải vậy, mà có thể trái lại, CSVN bản chất không đi với TC được.
Mới "nhập đề", đã không hiểu ông nhà báo này muốn nói gì ? Lẩm cẩm rồi chăng ?
Nguồn:  http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=34426

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

Bùi Bảo Trúc: Thư gửi bọn chó đẻ ở Hà Nội


THƯ GỬI BỌN CHÓ ÐẺ Ở HÀ NỘI – BÙI BẢO TRÚC




Tao không thể dùng bất cứ một từ ngữ nào khác hơn để gọi chúng mày. Bởi vì chúng mày chính là một bọn chó đẻ.

Càng ngày những việc chúng mày làm và những việc chúng mày không dám làm đều cho thấy chúng mày là một bọn chó đẻ không hơn không kém.Vừa có tin nói là chúng mày đang áp lực chính phủ Indonesia dẹp bỏ những di tích ở Galang, những chứng tích ghi lại thảm cảnh của mấy trăm ngàn người Việt, những người phải bỏ đất nước ra biển liều chết đi tìm sự sống. Những người tị nạn khốn khổ ấy trong khi bị chúng mày đối xử tàn tệ đến nỗi phải bỏ trốn đi thì lại được những người dân Indonesia giúp đỡ, bảo bọc trên đường lánh nạn.

Thực là đau đớn và chua xót cho người dân Việt cùng da vàng máu đỏ, cùng tổ quốc, giống nòi với chúng mày thì bị chúng mày ngược đãi đối xử như quân thù quân hằn trong khi ở Indonesia, những người xa lạ không cùng giòng máu Việt lại dành cho họ những đối xử tử tế, nhân đạo vào những lúc khốn cùng nhất.

Mấy tấm bia ghi lại những đối xử tốt đẹp ấy đã bị chúng mày tìm mọi cách để đục phá cho bằng được, để xóa hết những dấu tích xấu xa của chúng mày, nhưng lại là những ghi dấu lòng tử tế nhân đạo của người dân Indonesia không cùng huyết thống.

Chúng mày tuy phá được những tấm bia trên mấy hòn đảo năm 2005 nhưng những điều xấu xa của chúng mày thì vẫn còn nguyên. Chúng mày tưởng làm như thế là những chuyện xấu xa của chúng mày tan biến đi hết hay sao? Người dân ở các đảo nơi có những tấm bia bị phá đó sẽ còn nhớ mãi vì sao lại có những tấm bia đó, họ sẽ luôn luôn nhớ những con thuyền mỏng manh cập vào những đảo ấy, chở theo những thân tàn ma dại vì chúng mày mà phải bỏ nước ra đi.

Chúng mày phá được những tấm bia đó thì vẫn còn cả triệu người Việt ở hải ngoại ghi nhớ vì sao họ phải bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ quê hương, bỏ mồ mả tổ tiên đi tha hương tìm sống. Người Việt ở trong nước cũng sẽ còn nhớ mãi những điều đó. Chúng mày sẽ không thể xóa được những điều xấu xa đó. Không bao giờ.

Chúng mày làm đủ mọi cách để dẹp những tấm bia trên những hòn đảo xa lạ cách xa đất nước ngàn dặm, trong khi có rất nhiều điều chúng mày phải làm, nhưng lại không làm, và chắc là không dám làm ở ngay trong nước cũng như ở những nơi nằm sát cạnh Việt Nam.

Như khi những người dân Việt sinh sống bằng nghề đánh cá ở miền Trung mới đây bị một bọn vô lại khốn nạn ngang ngược cấm đánh cá ở ngay vùng biển của nước Việt Nam thì chúng mày tránh, né không dám lên tiếng. Chúng mày khiếp nhược, run sợ không dám nói tới quốc tịch của những chiếc tầu gây phiền nhiễu, tạo thiệt hại vật chất, sinh mạng cho người đánh cá Việt Nam trong khi ai cũng biết đó là những chiếc tầu của hải quân Trung Cộng, treo cờ Trung Cộng, thủy binh mặc đồng phục hải quân Trung Cộng, và chuyện đó chính báo chí Trung Cộng cũng công nhận, không thèm che giấu.

Nhưng chúng mày thì không dám hé miệng can thiệp, bênh vực cho nhũng người đánh cá Việt Nam khốn khổ đó.

Bọn tứ ngược, như chữ của Nguyễn Trãi dùng trong Bình Ngô Ðại Cáo, ngang nhiên đem quân chiếm lấy những đảo của Việt Nam thì chúng mày không dám hé môi nói được lấy một nửa tiếng để phản đối. Những hy sinh của các chiến sĩ hải quân Việt Nam Cộng Hòa can đảm đánh lại bọn bá quyền Trung quốc trong vụ quần đảo Hoàng Sa thì bị chúng mày lờ đi không dám nhắc đến.

Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, người sĩ quan hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã làm cho chữ “Ngụy” trở thành đẹp đẽ biết là bao. Ngụy như thế thì chúng tao là Ngụy hết. Chúng tao là Ngụy, là những người cùng lý tưởng, cùng dòng máu anh hùng của hạm trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ 10.

Chúng mày lờ sự hy sinh cao quí của thiếu tá Ngụy Văn Thà đi để che dấu cái thái độ hèn nhát bán nước của chúng mày và cái công hàm mà tên thủ tướng mặt chó Phạm Văn Ðồng gửi Chu Ân Lai để tặng không Trường Sa và Hoàng Sa cho Tầu đỏ. Gọi đó là bán nước thì cũng không đúng, vì đổi lại, chúng mày cũng không được bọn Tầu khốn nạn trả cho một cắc.

Ngày nay, ở Sài Gòn, chỉ cần mặc cái áo có hình quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng bị bắt vì phạm húy. Những ai lên tiếng về đất nước, về sự vẹn toàn của tổ quốc là bị đàn áp thẳng tay như đã thấy.

Sự im lặng của chúng mày, cách hành động của chúng mày trong vụ Bản Giốc, trong những tranh chấp ở biển Ðông chỉ là để che giấu những việc làm đê hèn của chúng mày.

Nay chúng mày đòi Indonesia dẹp chứng tích cuối cùng về giai đoạn bi thảm của Việt Nam trên đảo Galang cũng là vì chúng mày sợ sự thật, chúng mày sợ những dấu tích đó sẽ tiếp tục làm cho hình ảnh của chúng mày xấu đi.

Nhưng chúng mày có bao giờ tử tế và tốt đẹp đâu.

Chúng mày nhắm mắt để cho bọn chó má đem phụ nữ trẻ em Việt Nam bán cho các ổ điếm ở Campuchea, đưa đi làm tôi tớ ở các nước ngoài, tổ chức những vụ bán nô lệ như thời mọi rợ cho những thằng đàn ông Cao Ly, Ðài Loan, Malaysia … đến xem và mua về làm nô lệ tình dục, để mặc cho phụ nữ Việt bị nhốt trong những lồng kính ở Singapore cho khách mua dâm tới xem mà lựa chọn… Chúng mày táng tận lương tâm để cho bọn cai phu ngoại quốc đánh đập công nhân Việt Nam ngay ở trong nước, rồi còn để cho những thằng công nhân Tầu khốn nạn ngang nhiên kéo đến đánh đập những người dân Việt sống ở gần công trường xây cất ngay trên quê hương của mình.

Chúng mày im thin thít.

Nhưng chúng mày lại rất hăng hái, dùng đủ mọi thủ đoạn đê hèn nhất để tìm cách che giấu những việc làm chó má của chúng mày, nói là những di tích ấy bầy ra những hình ảnh không đẹp của chúng mày.

Ðể tao chỉ cho chúng mày một chỗ thực sự lăng mạ chúng mày coi chúng mày có dám làm gì không. Mới đây, tại cuộc lễ dâng đất cho bọn Tầu Cộng mà chúng mày gọi là cắm cột mốc biên giới, bọn Tầu khốn nạn dựng ngay gần nơi diễn ra cuộc lễ một bức tường với những hình ảnh của cuộc nổ súng ở biên giới miền bắc giữa hai bọn chó dại. Ðứng từ xa nhìn cũng thấy đó là những hình chụp bọn lính Tầu tiến đánh một số vị trí trong lãnh thổ Việt Nam. Trong trận này, bọn Tầu còn gây thiệt hại nặng cho cái hang chồn Păc Bó, cái mả tổ Cộng Sản của chúng mày. Ðó, có giỏi thì đòi Trung Cộng dẹp những bức hình đó coi có dám làm không.

Tao mong sao chúng mày chết đi sớm chừng nào may chừng ấy cho dân tộc Việt Nam. Chừng đó, tao bảo đảm mồ mả chúng mày sẽ không bao giờ được để cho nguyên vẹn, kể cả cái xác thối của thằng đại lưu manh chó đẻ ở Ba Ðình đang làm bẩn cái tên lịch sử Cần Vương quá đẹp của Ðinh Công Tráng và Phan Ðình Phùng này.
Lịch sử chắc chắn sẽ không nhẹ tay với bọn chó đẻ là chúng mày.

Ký tên:
Một người Việt Nam không Cộng Sản

(*) Với những đứa từng gọi “thằng Diệm” và “thằng Thiệu” thì cách gọi này dành cho chúng mày vẫn còn là nhẹ. Nếu có phải nói thêm điều gì về cách xưng hô này thì chắc phải là đôi ba lời xin lỗi mấy con chó vì cách gọi đó đã cho chúng mày được làm con những con chó ấy.

Được đăng bởi suoinguontuoitre vào lúc 15:42
 
 Nguồn:http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=34424

Áp lực quốc tế trên vấn đề nhân quyền tại Việt Nam


Áp lực quốc tế trên vấn đề nhân quyền tại Việt Nam

Hải Ninh, phóng viên RFA
2015-06-12
hn-622.jpg
Giáo sư Allen Weiner, giám đốc chương trình luật của trường đại học Stanford ở bang California trả lời phóng viên Hải Ninh tại trụ sở RFA ở Washington DC hôm 11/6/2015.
RFA

Một tháng trước chuyến thăm Hoa Kỳ của ông Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, nhóm vận động cho tù nhân lương tâm Việt Nam sẽ có buổi tường trình tại quốc hội Hoa Kỳ chiều nay. Cùng tham gia tổ chức cuộc vận động có giáo sư Allen Weiner, giám đốc chương trình luật của trường đại học Stanford ở bang California. Giáo sư Weiner đã đến trường quay của RFA hôm nay và dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

Làm sao giúp hiểu rõ việc VN vi phạm nghĩa vụ quốc tế ?

Hải Ninh: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn. Câu đầu tiên mà tôi muốn hỏi ông là, tại sao và làm thế nào ông lại tham gia vào cuộc vận động này?
Allen Weiner: Vâng, tôi rất vui được đến đây.Năm 2012 một số người bạn làm trong các tổ chức phi chính phủ (NGO) trò chuyện với tôi, và bày tỏ mối quan ngại về một loạt các vụ bắt bớ các nhà hoạt động dân sự và chính trị trẻ ở Việt Nam. Họ cũng phải đối mặt với nguy cơ bị xét xử. Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có thể làm gì không, bằng việc sử dụng các tổ chức quốc tế để thay mặt họ mà vận động. Sau khi xem xét vấn đề này, tôi quyết định trình một lá đơn lên tổ chức có tên là Nhóm làm việc của Liên Hợp Quốc về Vấn đề Giam giữ Tuỳ tiện. Chức năng của nhóm này là chống lại các việc bắt giữ người tuỳ tiện. Vào mùa hè năm 2012, tôi đã gửi đơn khiếu nại thay mặt cho 16 người, bao gồm cả nam lẫn nữ, mà tôi đại diện.
Hải Ninh: Vậy thì ông có thể nói rõ cho tôi được biết cụ thể vai trò của ông trong cuộc vận động này hay không?
Làm sao chúng ta có thể giúp các bên hiểu rõ việc Việt Nam vi phạm nghĩa vụ quốc tế, làm thế nào chúng ta thuyết phục được Mỹ và các nước khác trên thế giới gây áp lực cho Việt Nam buộc họ phải tuân theo các nghĩa vụ quốc tế.
-GS Allen Weiner
Allen Weiner: Tôi là luật sư của họ trước tổ chức quốc tế này. Tôi tham gia vào việc gom những các thông tin liên quan tới những hoàn cảnh mà họ bị bắt, cố gắng làm việc với mạng lưới các nhà hoạt động mà có thể tiếp xúc với gia đình của các tù nhân, hoặc nhà thờ của họ ở Việt Nam, tìm hiểu những hoàn cảnh liên quan tới vụ bắt giữ họ và sau đó tôi nộp đơn lên nhóm làm việc này. Nhóm có trụ sở ở Geneva. Tôi cũng cập nhật cho tổ chức này các thông tin liên quan tới hoàn cảnh của những người tù nhân nói trên. Chính phủ Việt Nam có cơ hội trả lời đơn khiếu nại này. Cuối năm 2012, họ đã trình câu trả lời của họ, và tôi cũng có cơ hội đáp lại những bình luận của họ.
Và đến tháng 8 năm 2013, khoảng hơn một năm sau khi tôi nộp đơn lần đầu, Nhóm làm việc này đưa ra quan điểm của họ. Nhóm này đã nói rõ ràng rằng chính phủ Việt Nam đã vi phạm những nghĩa vụ của họ theo luật quốc tế. Việt Nam. Đây không phải là những nghĩa vụ mà nước ngoài áp đặt lên Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tự nguyện tham gia một công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, và họ hứa sẽ tuân theo những nguyên tắc về nhân quyền trong công ước đó. Vì thế, đây không phải là những giá trị phương Tây hoặc nước ngoài áp đặt lên Việt Nam. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu chính phủ Việt Nam có giữ lời về việc đối xử với chính người dân của họ.  Nhóm làm việc này là nhóm trung dung và hiểu rõ những vấn đề trong công ước đó. Họ đã nói rất rõ ràng rằng Việt Nam đã vi phạm quyền được thể hiện quan điểm chính trị và quyền được tụ tập của những tù nhân nói trên.
Hải Ninh: Lúc trước ông có nói với tôi rằng ông chưa từng qua Việt Nam. Làm thế nào ông có thể giúp những tù nhân đó nếu ông không thể gặp mặt họ?
Allen Weiner: Rất khó. Chính Việt Nam đã tham gia công ước về các quyền dân sự và chính trị và nói rằng chúng tôi sẽ tuân theo những nghĩa vụ này. Hy vọng đầu tiên của tôi tất nhiên là khi họ nhận được những quan điểm của Nhóm làm việc kia, chính là một tổ chức độc lập và có chuyên môn về luật mà Việt Nam hiểu rõ, rằng lý luận của họ về việc bắt giữ những nhà hoạt động kia theo luật Việt Nam là không hợp lý và không đúng với luật quốc tế. Tất nhiên, phản ứng đầu tiên của chúng tôi là hy vọng Việt Nam sẽ giữ lời hứa và rằng họ sẽ tuân theo những nghĩa vụ mà họ phải thực hiện. Và đó là phần một của tiến trình.
Chính phủ Việt Nam có thể nghĩ rằng, việc bắt bớ những nhà hoạt động kia theo luật Việt Nam cũng không sai. Chúng tôi hy vọng rằng khi họ nhận thấy điều đó không tuân theo luật quốc tế, họ sẽ trả tự do cho những tù nhân kia. Nhưng họ không thả các tù nhân này.
Và vì thế, bây giờ câu hỏi đặt ra là làm sao chúng ta có thể giúp các bên hiểu rõ việc Việt Nam vi phạm nghĩa vụ quốc tế, làm thế nào chúng ta thuyết phục được Mỹ và các nước khác trên thế giới gây áp lực cho Việt Nam buộc họ phải tuân theo các nghĩa vụ quốc tế. Và đó là bước tiếp theo của tiến trình này, đó là cho lan rộng thông điệp rằng Việt Nam ngày càng có nhiều hoạt động đàn áp và từ đó yêu cầu các nhà làm luật ở Mỹ và nhiều nơi khác lên tiếng, nói rằng chúng ta sẽ đưa ra điều kiện về việc thúc đẩy quan hệ với Việt Nam bằng việc họ cải thiện vấn đề nhân quyền.
Hải Ninh: Và đó chính là điều các ông hướng tới trong buổi tường trình hôm nay?
Allen Weiner: Đúng vậy. Tôi sẽ gặp gỡ với những đại diện về vấn đề Việt Nam trong quốc hội, hy vọng chia sẻ được với họ những trải nghiệm của tôi và quan trọng hơn nữa là những kết luận từ Nhóm làm việc của Liên Hợp Quốc về Vấn đề Giam giữ Tuỳ tiện, và để nhấn mạnh rằng Việt Nam đã vi phạm những luật lệ hết sức rõ ràng. Không có gì còn chưa sáng tỏ ở đây cả. Việt Nam đã phớt lờ những nghĩa vụ của họ về việc tôn trọng quyền con người của chính công dân họ. Trong thời điểm Mỹ muốn tiến tới có quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam, chúng ta cần phải tự đặt câu hỏi cho bản thân rằng liệu ta có muốn tham gia một hiệp ước với một quốc gia mà họ không cảm thấy họ cần phải tuân theo những nghĩa vụ khi mà họ không muốn hay không. Và đó chính là điều tôi sẽ nói với các thành viên quốc hội hôm nay, giúp họ hiểu rằng Việt Nam là nước không muốn thực hiện các nghĩa vụ của họ.
Chúng ta cũng cần biết rằng Mỹ từng làm điều này trong quá khứ rồi. Chúng ta từng nhiều lần thiết lập quan hệ gần gũi với chính phủ các nước chuyên chế, không đại diện cho người dân chính họ và đàn áp người dân chính họ. Những chính phủ này rồi cũng sụp đổ, và chúng ta bị đặt vào thế cô lập đối với người dân những nước đó vì chúng ta đặt quan hệ với chính phủ đàn áp những người đó. Tôi nghĩ đấy là một điểm mà các nhà làm luật ở Mỹ cần cân nhắc liệu về có lợi ích gì dù về lâu dài hay ngắn hạn khi có quan hệ với chính phủ Việt Nam, chính phủ mà không đại diện cho người dân của họ và ngày càng đàn áp họ hay không.
Hải Ninh: Vâng tôi xin chúc ông may mắn trong các hoạt động đó và xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Allen Weiner: Tôi cũng xin cảm ơn quý vị đã dành cho tôi cơ hội này. Xin cảm ơn rất nhiều.

Áp lực quốc tế trên vấn đề nhân quyền tại Việt Nam

 https://youtu.be/TBlYo0PlYjk

Nguồn:http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/allen-weiner-interview-hn-06122015075749.html 

Tàu chiến Trung Quốc "được quyền" đâm tàu Nhật ở Biển Đông...


Thống soái
Đô đốc Trung Quốc lớn tiếng nói tàu nước mình có quyền đâm tàu Nhật ở Biển Đông
Dân trí - Nếu Nhật Bản đưa tàu chiến tới các khu vực tranh chấp tại Biển Đông, tàu chiến Trung Quốc "được quyền" đáp trả, Đô đốc Li Jie thuộc Hải quân Trung Quốc lớn tiếng tuyên bố.


Tàu sân bay Liêu Ninh trở lại căn cứ ở Thanh Đảo sau khi chạy thử nghiệm tại Biển Đông. (Ảnh: WCT)

Trong bối cảnh Nhật Bản có khả năng đưa lực lượng hải quân tới Biển Đông, Đô đốc Li Jie của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) nói rằng tàu chiến nước này có quyền đâm tàu Nhật Bản tại khu vực tranh chấp trên vùng biển giàu trữ lượng dầu khí này. Want China Times cho biết Thời báo Hoàn cầu, một tờ báo của chính phủ Trung Quốc, dẫn lại phát biểu của ông Li.

Hãng tin Kyodo News mới đây cho biết Nhật Bản đang cân nhắc thời điểm và cách thức can thiệp vào các tranh chấp lãnh thổ phức tạp tại Biển Đông - nơi Trung Quốc đòi yêu sách với hầu hết diện tích.

Chính phủ Nhật Bản cũng từng tuyên bố Biển Đông là vấn đề quan trọng với lợi ích quốc gia của nước này trong bối cảnh Tokyo đang xem xét lại hiệp ước an ninh và phòng thủ chung với Mỹ.

Hiện có nhiều khả năng, Nhật Bản có thể sẽ hỗ trợ hậu cần cho hải quân Mỹ hoạt động tại khu vực Biển Đông.

Đô đốc Li Jie trả lời phỏng vấn của tờ Thời báo Hoàn cầu rằng Nhật Bản sẽ không có rào cản kỹ thuật nào nếu muốn đưa tàu chiến và máy bay tới Biển Đông. Chiến đấu cơ chống ngầm P-3C và các máy bay cảnh báo sớm E-2C, E-767 của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (SDF) có thể trực tiếp bay từ Nhật tới Biển Đông.

Trong khi đó, máy bay tiếp dầu KC-767J có thể mở rộng phạm vi tác chiến của các chiến đấu cơ hoạt động tầm ngắn hơn, như F-15J và F-2. Các tàu chiến của Nhật Bản, trong đó có tàu khu trục trực thăng Izumo, được thiết kế hoàn hảo cho các hoạt động tại Biển Đông, ông Li nhận định.

Dù vậy, theo Đô đốc Li, Nhật Bản sẽ phải đối mặt với áp lực ngoại giao từ các nước Đông Nam Á nếu thể hiện tham vọng chính trị mạnh mẽ tại khu vực.

Vị đô đốc Trung Quốc cũng cảnh báo rằng các chính trị gia Nhật Bản cần suy nghĩ cẩn thận về việc đưa máy bay và tàu chiến tới Biển Đông bởi Trung Quốc có thể sẽ không chỉ phản đối thông qua các kênh ngoại giao.

Các tàu chiến Trung Quốc có quyền đâm các tàu xâm nhập vào vùng biển mà theo lời Đô đốc Li là thuộc chủ quyền của Bắc Kinh. Want China Times nhận định lời tuyên bố của ông Li ám chỉ Bắc Kinh có thể sẽ không công nhận sự khác biệt giữa vùng biển quốc tế và vùng lãnh hải.

Gần đây, Trung Quốc đang tiến hành đẩy mạnh yêu sách vô lý trên Biển Đông thông qua cải tạo đảo, và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại đó.

Mỹ và các đồng minh như Nhật, Úc đã thể hiện rõ ràng lập trường, kiên quyết phản đối các hành động của Bắc Kinh. Các nước này cũng cam kết sẽ hành động để bảo vệ quyền tự do hàng hải trên Biển Đông.
Thoa Phạm
Theo WCT
****
Cứ đâm thử đi, nói nhiều quá rồi, không thấy mệt à ? 
 
 
Chiến đấu cơ Nga bay cách máy bay Mỹ 3m trên bầu trời Biển Đen

Dân trí - Giới chức Mỹ ngày 11/6 cho biết một chiến đấu cơ của Nga bay với tốc độ cao từng áp sát máy bay do thám của Không quân Mỹ trên không phận quốc tế ở Biển Đen. Hai chiếc phi cơ có lúc chỉ cách nhau khoảng 3m.


Hình minh họa (Ảnh: Wiki)

Vụ Giới chức Mỹ khẳng định, trong vụ việc xảy ra hôm 30/5, máy bay do thám của Không quân nước này đã không có những biện pháp lảng tránh trước động thái bất ngờ từ máy bay chiến đấu Nga.

Theo giới chức Mỹ, chiếc máy bay chiến đấu của Nga bay ở cùng độ cao với máy bay do thám của Mỹ. Sau đó, chiếc máy bay này dừng lại, áp sát máy bay của Mỹ chỉ khoảng 3 m để theo dõi các động thái trước khi rời khỏi khu vực.

Tuy nhiên, các thông tin cụ thể về vụ "va chạm" nêu trên vẫn chưa được cung cấp thêm, trong khi chưa rõ Lầu Năm Góc hay Bộ Ngoại giao Mỹ đã có phản ứng chính thức với phía Nga hay chưa.

Vụ việc trên diễn ra chỉ vài tuần sau một vụ "va chạm" khác giữa Mỹ và Nga trên bầu trời châu Âu.

Đó là khi máy bay RC-135 U của Không quân Mỹ đang trên đường làm nhiệm vụ tại không phận quốc tế đã bị máy bay Su-27 của Nga chặn lại.

Hồi đầu tháng này, Hải quân Mỹ cũng công bố đoạn video cho thấy các hành động bất thường của một chiếc Su-27 của quân đội Nga khi bay qua mạn bên phải của tàu khu trục USS Ross trên Biển Đen.

Giới chức Mỹ cho biết lý do tại sao thời gian qua có nhiều vụ "va chạm" là do quân đội Nga và quân đội NATO tiến hành nhiều hoạt động trên biển Đen và biển Baltic.

Tuy nhiên, Lầu Năm Góc rất quan ngại về vụ việc của hai máy bay nêu trên vì những hành động của phía Nga được cho là đã đe dọa tới an toàn của binh sĩ và máy bay của Mỹ.
Ngọc Anh
Tổng hợp
Quote:
Chiến đấu cơ Nga bay cách máy bay Mỹ 3m trên bầu trời Biển Đen
Hung hăng kiểu này thì thế nào cũng có ngày phải nổ súng thôi ! Đây là Mỹ chứ không phải VC mà muốn múa sao thì múa 
 

Lại chuyện máy bay Malaysia....

Động cơ bốc cháy, máy bay Malaysia Airlines hạ cánh khẩn cấp
12/06/2015 13:41 GMT+7
TTO - Ngày 12-6, một máy bay của hãng hàng không Malaysia Airlines phải hạ cánh khẩn cấp ở Melbourne, Úc, do động cơ bốc cháy.

Chiếc Airbus A300 sau khi hạ cánh an toàn - Ảnh: 9News

Theo Reuters, chuyến bay mang số hiệu MH148 cất cánh từ sân bay Melbourne lúc 2g16 chiều (giờ địa phương) để đến Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia. Tuy nhiên chỉ vài phút sau khi cất cánh, hệ thống vi tính trong buồng lái báo động một động cơ máy bay bốc cháy.
Khi đó chiếc Airbus A330 của Malaysia Airlines chở tới 300 hành khách và nhân viên phi hành đoàn. Lập tức các phi công đã xả nhiên liệu ra khỏi máy bay rồi quay trở lại hạ cánh xuống sân bay Melbourne.
Sở Cứu hỏa Melbourne được lệnh điều động lính cứu hỏa đến sân bay vào lúc 2g22.
Các chuyến bay khác hạ cánh xuống sân bay Melbourne đều bị hoãn lại để mở đường cho chiếc MH148.
Nó đã phải bay vài vòng quanh sân bay để xả hết nhiên liệu. Rất may là máy bay đã hạ cánh an toàn vào lúc gần 3g chiều. Các nhân viên cứu hỏa đã tắt động cơ chiếc máy bay bị cháy một cách an toàn.
Trong năm 2014, Malaysia Airlines hứng chịu hai thảm họa hàng không là vụ mất tích bí ẩn của chuyến bay MH370 và chuyến bay MH17 bị bắn rơi trên bầu trời Ukraine. Mới đây lãnh đạo Malaysia Airlines thừa nhận hãng hàng không này đã phá sản.
NGUYỆT PHƯƠNG

Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=34413