Thứ Bảy, 14 tháng 10, 2017

Hoa Kỳ lập lại sự đi đêm với Hà Nội

Wednesday, June 8, 2016

Hoa Kỳ lập lại sự đi đêm với Hà Nội

(Tin vui lời tựa: Chuyện VN xem như xong khi NTD đưa cao TÔI KHÔNG XIN TÁI CỬ, bây giờ TIN NÓNG - Chiến hửu gỏ: sieu chien luoc eurasia-1 ...nó như miếng thịt bò, rồi thì các diễn đàn thẻo ra miếng nhỏ làm Beefsteak, người làm lút lắt, món bò kho, thịt bò cuốn lá lốt, ragul, phở, bánh canh cở 40 món ... )
Ngày xưa Kissinger đi đêm với TQ rồi đi đêm với Hà Nội, bây giờ Sĩ quan trực thứ 44 lại "đi đêm" với Hà Nội. Những người làm chính trị hoặc theo dõi chính trị trong giai đoạn gần cuối của hiệp định Paris năm 1973 chắc không ai mà không biết đến hai chữ "đi đêm". Đi đêm là tiếng lóng mà Dinh Độc Lập thường dùng để ám chỉ sự mờ ám và ngầm nheo mắt giữa hai nhân vật chủ chốt trong Hiệp định Paris: ông Henry Kissinger và Lê Đức Thọ.

* - Chúng ta đã biết rằng: trong giai đoạn cuối mùa, trước và sau khi Hoa Kỳ ép TT Thiệu ký vào bản hiệp định bức tử VNCH để hoàn tất "định-kiến-1" (axiom-1). Để giữ bí mật, người được tín nhiệm thay mặt Lê Đức Thọ thuộc bộ ngoại giao Hà Nội và ông Kissinger thường hay lui tới những nơi vũ trường tại Paris, nhà hàng vào những đêm cuối tuần để tiệc tùng ăn chơi. Họ thương lượng, ngã giá trên sự đau khổ, mất mát, rồi bán đứng luôn người lính Việt Nam Cộng Hòa và người dân miền Nam Việt Nam sống trong giai đoạn đó; chưa kể hơn 58.000 quân lính Mỹ đã hy sinh. Trong đó có những thằng cu pilot ưu tú như John McCain chẳng hạn bay chiếc A-4 Skyhawk mà "tháo gở" phần tự hành điều chĩnh chính xác ("Bombing system AN/APR-26") để cho phi cơ rơi như rạ - Chỉ tại cầu Hàm Rồng không thôi không biết bao nhau phi cơ (hàng tiêu dùng phải xài cho hết) mỗi pass chỉ thả 2 trái Bom gọi là thăng bằng để dễ bị bắn rơi. Đó là chưa kể 5.000 chiếc trực thăng Hueys nhứt định không đem về Mỹ ... thử ngẫm bao nhiêu sinh mạng phi hành đoàn, tất cả cũng chỉ vì lợi nhuận WIB (War Industries Board), như sắp bán cho VN những phi cơ F-16, P-3 Orion lấy từ nghĩa địa thay vì quăng xuống biển mà VN mừng húm cho là đặc ân nhúng nhường phát lờ nhân quyền.

  Rồi hơn hai năm sau thì Sài Gòn sụp đổ hoàn tất định-kiến-1 (axiom-1), là chuyện đương nhiên phải đến. Có thể, đến bây giờ chắc người Mỹ nhận ra rằng bỏ rơi đồng minh miền Nam Việt Nam và rút quân khỏi Philippines là một sai lầm lớn về chiến lược ở Đông Nam Á chăng? Không đâu chiến hửu ạ, đó là pháp hồi mả thương do tu chánh án "Cooper Church" kích thích TQ tung hoành tại Biển Đông 40 năm (1970-2010) được gọi "overhauling the damage control gài lại cái bẫy Hoàng Sa 1974 ... sẽ trở lại thăm bẫy 2010-2020 theo mưu lược "roll back" trở lại châu Á Thái Bình Dương trong thế cực mạnh.

* - Qua phần trung úy phản chiến John F Kerry "đi đêm" bài:
        John Kerry was a war hero, but for which side?
( vnchtoday.blogspot.com/2013/04/john-kerry-was-war-hero-but-for...)
Vừa báo trước cho Trinh sát Hà Nội di chuyển POW tại Sơn Tây về Hà Nội (khoảng 50 cs) ngay vào đêm ngày 20 rạng sáng ngày 21 tháng 11 năm 1970 gọi là nơi đây sắp bị lủ lụt. Chiến dịch Bờ Biển Ngà (Operation Ivory Coast) bị hoàn toàn thất bại nhờ trung úy phản chiến John F Kerry "đi đêm" là người hùng của phía Hà Nội.

Rồi làm thất bại "Việt Nam Hoá Chiến Tranh", ngày 18/1/1971 ngay sau khi Tổng tư lịnh Richard Nixon ký lịnh hành quân Operation Lam Son 719 giữa một nhóm Bonesmen vây quanh, "để đổi lại" Hà Nội gom tập trung tù binh Mỹ vào Khách sạn Hilton (nữa sau sẽ trả tiền khách sạn từng ngày bằng dollar) chớ giao cho xóm làng giam giữ POW thì ngày nào cũng cho ăn cỏ, vì tiếng Anh không có chử Rau Muống)
Thế là Kerry bí mật trao phóng đồ hành quân LS/719 về các Căn cứ Hoả lực để cho tướng Giáp đào công sự chiến đấu giăng bẩy sẳn-sàng (hình trên you tube 2011 đặc biệt Operation Lam Son 719) Các chốt phòng không 100, 85 ly sơn pháo của LX nhẹ đem lên núi bắn trực xạ xuống cầm chưn 1 chỗ để huy động nhiều trung đoàn BV bao vây "Hàng Sống Chống Chết".
Vỏ Nguyên Giáp tự hào là bất khả xâm phạm, khi những hầm miệng ếch chốt giữa lưng chừng núi dù phi cơ chiến thuật hay B-52 cũng chẳng làm gì được chúng... làm sao trái bom dù 1000 pound “thẩy lổ” vào được lổ hang núi thẳng đứng?
Tướng Giáp có niềm tin những hầm miệng ếch đất đỏ nầy như những con rắn Lục đang bò trên vách đá đứng xửng, rông rêu chằng chịch không thể bị thảm hại được, nhưng đừng quên rằng các con chim lửa Bìm-Bịp gunship- Song-Chùy là những khắc tinh đang đi tìm mỗ chúng và thề không chừa bất cứ con rắn Lục nào được ngo-ngoai sống sót!
Kết quả, khi trò chơi chiến tranh giữa trục ma/quỷ KGB và CIA qua đấu pháp CIP/NLF (Counter Insurgency Plan và National Liberation Front) kết quả một lượt “leo thang” nhịp nhàng từ 1965, nhưng qua cuộc “xuống thang” thì KGB thua CIA, Mỹ êm-ru rút 60.000 quân trong cuộc hành quân LS/719, còn Liên Xô không chở được 10.000 POW lính VNCH gọi là “chiến lợi phẩm” như trận chiến Điện Biên Phủ-II về bắc về bắc bằng những chiếc Molotova do Mỹ/Xô sản xuất thế mới đau chớ! mục đích loại bỏ hai đối lực thiện chiến nhứt của 2 bên để bàn giao Sàigòn không thành đống gạch vụn 100% như cổ thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị.
Đây là cái nhục của KGB, trong khi súng Trung Cộng cồng kềnh nặng hơn mà vác lên núi khống chế quân lính Pháp đền nỗi vị đại tá chịu trách nhiệm phải tự sát bằng lựu đạn một cách âm thầm để không xuống tinh thần binh linh.
Trong khi gần 2 thập niên sau, súng phòng không LX, nhẹ và cơ hành nhanh hơn nhưng không làm gì được QLVNCH? Có lẽ KGB phải than rằng: “Sao trời sanh KBG mà lại có Queenbee-1 làm chi để trở thành con kỳ đà cản mũi!!!!" (chiến hửu có thề xem bài dài "Operation Lam Son 719" trên diển đàn HQPD kể cả Anh/Việt để rỏ từng chi tiết)

  Chiến trận ĐBP có đạo binh TC hàng hàng lớp lớp giúp đở; Chiến trận Hạ Lào tuy có 10.000 dân công khuân vác nhưng trải rộng một vùng bao la không đủ tiếp vận đạn phòng không và luôn luôn bị gunship Song Chùy giải toả hoả lực trên các chận đường xe thồ tiếp tế đạn đến chân núi nhập kho, (Hình tài liệu do phóng viên Đông Âu chụp "Sân đá gà của Queenbee 1 Vinhtruong" bài số 5) chờ vác lên núi (mỗi dân-công chỉ vác trên lưng được 2 quả mà thôi (xem hình phóng viên đông âu chụp trong sách “The New Legion” volume-1, trang 90)

* - Lần này Sỉ quan trực sắp xuống phiên thứ 44, ông Obama lại đại diện Bonesmen... đi đêm bằng chuyên cơ đến Hà Nội chở theo khá nhiều chuyên viên mà cách đây 40 năm chúng là những đứa trẻ sơ sinh mồ côi được 5 chiếc C-5 nầy chở qua Mỹ và được đích thân vợ chồng TT Mỹ Gerald Ford trịnh trọng đón chào những mầm non "trồng người" nầy, nhưng là Baby Bald Eagle Counselors, mà tác giả hay ồn ào sẽ cố vấn cho đồng lứa với nhóm trẻ Fulbright lên ngôi cai trị. Chúng đã được rèn luyện (intelligence quotient) I.Q rất tốt cho một sự sắp xếp và tính toán trước trong nhiều năm giữa Bonesman Kerry và cái gọi là csVN đang cởi áo ra....

  Hà Nội qua tam trùng kiêm tổng tư lịnh Nguyễn Chí Vinh có "chỉ thị" (nó nằm trong chiến dịch tâm lý chiến Truyền Thông Xám) đón tiếp tổng thống Mỹ trong sự dè dặt và im lặng của tiếng đại bác thường dành cho các nguyên thủ quốc gia, chỏi lại sự trổi dậy ồn ào khi đón Tập Cận Bình có chủ mưu để tiêu biểu người dân tự phát quyết đoán thích bên nào qua một ý nghĩ sâu sắc! Nhất là một quốc gia có thể nói là đứng hàng đầu thế giới. Rồi với bộ mặt buồn nảo, cứng đờ và cặp mắt láo liên của Trần Đại Quang (dù có chí thị trước ở Mỹ nắm ngoái) ra vẻ như lạnh nhạt vì đã biết hậu quả sẽ ra sau như cầm cu chó đái, đã nhận huấn-lịnh vào quí-1/2015 khi đến Mỹ. Với vẻ mặt mất tự nhiên làm cho người ta có cảm tưởng khách chủ động đến hơn là nước chủ nhà mời. Vì không gì khó chịu khi ám ảnh trong đầu kịch bản sẽ xảy ra 6 khách mời có mặt trong khi 9 người kia phải bị công an đặc vụ chận bắt không cho có mặt; để rồi cũng dằn mặt 6 người được mời ngồi trên ghế phải trả lời với sự dè dặt bình thường. Đây là độc chiêu của Bonesman Kerry trong chiến dịch khủng bố chủ nhà trong chiến dịch Truyền Thông Xám.
Trong lăng kính của Bonesman Kerry, người Mỹ không cần đòi hỏi nghi thức đón tiếp danh dự trong cách thức ngoại giao. Cái mà họ cần là quyền lợi chiến lược của họ to lớn hơn nhiều trong tương lai nuôi dưỡng 1 quốc gia mà họ hướng tới là 1 CON TIN sau cuộc oanh tạc Hậu-Vệ-II như con Trâu bị xỏ mũi trong kín đáo. Đó là lý do videos Hà Nội xin đầu hàng vô điều kiện trong "Trang Thơi Sự Vinh Trương" post vào VOA, BBC... điều bị tự động không dính chấu !

    Qua cách thức ngoại giao, làm cho người ta biết thêm là có một sự dàn xếp ngầm từ tháng Ba năm ngoái (2015) với 3 nhân vật chủ chốt (Quang, Ngân, Vịnh). Tam đầu chế được lịnh dựng lên hoạt cảnh hoả mù như cộng sản Việt Nam sợ cộng sản Trung Quốc giống như thỏ sợ sói cho nó phù hợp với tình thế ám ảnh. Sợ đến nỗi phải tránh né, không dám gọi đúng tên nghĩa là LẠ! Và trong chuyến đi này, ông tổng thống Mỹ cũng bóng gió, nhưng không đích danh chỉ trích Trung Quốc. Không sợ sao được khi mà nếu có xung đột xảy ra giữa Trung Quốc với Việt Nam, đặt trường hợp có đầy đủ vũ khí tối tân trong tay, nhưng đối đầu với Trung Quốc trong lúc này thì cũng giống như lấy trứng chọi đá. Việt Nam sợ mất lòng Trung Quốc trong lúc thế cô là hửu lý, sức yếu vì thầy trò cs; đồng thời muốn đi đêm với Mỹ để được nhìn nhận làm đồng minh và được che chở. Biết thế nên Secret Society làm giá theo như lộ trình kịch bản nhẹ nhàng chuyển tiếp thành VNCH trong tiềm ẩn. Vì TPP có nghĩa đồng phục màu Xanh chớ không có Đỏ à nghen!?

Secret Society chơi ác sau một thời gian dài làm trời làm đất, còn một cái mà họ sợ nữa là sợ... nhục. Sợ nhục với người lính VNCH được người dân luyến tiếc thời vàng son, qua Nguyễn Viết Dũng mặc quân phục VNCH là biểu tượng người miền Nam dù sanh sau 1975 như qua internet; và đến bây giờ thì họ lại sợ nhục với cả một dân tộc mà họ đang lãnh đạo bằng lừa lọc. Đối với cộng sản, việc trở cờ theo Mỹ là một nỗi nhục của lịch sử vì đã lở cao ngạo "đánh cho Mỹ cút ngụy nhào", là một cái nhục cho những thế hệ mai sau là họ tự động đầu hàng vô điều kiện theo đúng trên trục kịch bản "Âu-Á-Sự-1" mà sau cuộc oanh tạc Hậu Vệ-II như một dinner bỏ mứa và mãi đến bầy giờ đang hợp thức hoá trong ngoạn mục, sẽ phổ biến tổng quát qua tài liệu hình ảnh vào năm 2017 do Ken Burns đạo diển.

Lần này người Mỹ lại "đi đêm", có phải bán đứng những người hoạt động về dân chủ, nhân quyền chỉ vì quyền lợi nước Mỹ ? Không, Mỹ được cả hai khi họ thực tâm ước muốn hàn gắng vết thương chiến tranh để hoà giải hoà hợp dân tộc với sự huyền biến khá mầu nhiệm ít ai hiểu nổi do phương thức dỉ độc trị độc! Tại sao phải gọi là "bán đứng". Bởi lẽ, trước đây chính quyền Mỹ lúc nào cũng đưa ra điều kiện về nhân quyền, đặt lên hàng đầu với nhà cầm quyền Việt Nam: muốn bãi bỏ cấm vận vũ khí thì trước tiên phải tôn trọng nhân quyền. Đùng một cái tổng thống Mỹ tuyên bố bãi bỏ cấm vận vũ khí, và có thể trong tương lai sẽ đi đến hợp tác quân sự giữa hai bên. Không phải đơn phương mà người mỹ dễ dàng quyết định như thế, mà là có sự cân đong đo đếm, có thăm dò và có chuẩn bị ngầm từ 50 năm qua từ ngày Harriman gieo hột giống TPP và giờ đây thành cây cổ thụ như trong sách "The New Legion" mô tả. Mỹ vẩn chơi cái trò củ là quân viện đưa bom mà giữ lại ngòi nổ khi TQ phùng mang trợn mắt thì sao?
TT Thiệu nói: "Làm kẻ thù với Mỹ thì dễ, còn làm bạn khó lắm !!!"

    [ Vietnam War by Vinh Truong, Paperback | Barnes & Noble
<www.barnesandnoble.com/w/vietnam-war-vinh-truong/1022149605>
... of the Vietnam War by Vinh Truong at Barnes & Noble. ... NOOK Books. NOOK Books ... In addition to the Harriman's Highway [Ho chi Minh Trail] ... ]

    Theo kịch bản Âu-Á-Sự-1, qua một thời gian dài, Hà Nội bị Trung Quốc đè đầu cỡi cổ, người Mỹ nắm rõ điều đó cho nên trong lúc này là đúng thời điểm, decent interval kết thúc màn diển phụ về VN để qua giai đoạn cùng VN đối đầu TQ. Sĩ quan trực thượng phiên thứ 44 TT Obama đến Việt Nam khơi dậy lòng yêu nước dân tộc là thượng sách, là đúng chỗ ngứa trong dự mưu kịch bản, và cũng để cái gọi là người cộng sản nhận ra đâu là bạn đâu là thù. Dĩ nhiên theo kịch bản là phải ôm Mỹ mà tồn tại để lấy lại biển đảo từ tay người dân vùng dậy mới có chính danh mà VNCH đang giử THẺ ĐỎ. Qua cách đón tiếp, chào đón của người dân Sài Gòn - Hà Nội thì đã trả lời rõ ràng với người Mỹ điều đó.

Điều kiện về "nhân quyền" hay giải quyết những tồn đọng trong chiến tranh của người Mỹ, hai bên đặt ra chỉ là một bước để hai nước cựu thù (con tin)tiến lại gần nhau theo danh từ ngoại giao, chớ thật ra là con trâu của Mỹ muốn dắt đi đâu phải riu ríu theo đó. Để thăm dò và có thể đi thêm những bước tiếp theo; đến khi đạt được mục đích chung (TPP) thì những cái đó trở thành thứ yếu, có phải không các chiến hửu, mưu lược Secret Society mà! Nhưng chúng ta điều biết, khi mà cái gọi là cộng sản đạt được những gì trên bình diện ngoại giao có lợi, thì họ nuốt lời cam kết rất dễ dàng; đôi khi cũng thực thi những cam kết cầm chừng chỉ để qua mắt thiên hạ mà thôi là theo sự đa nghi của người dân ... chớ thật ra Mỹ là cường quốc số 1 đâu có dại mà bị con nít dụ.

Cái hơi hướng của việc "đi đêm" còn làm cho người ta dễ nhận ra thêm nữa là lời phát biểu đại khái của tổng thống Mỹ: "Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ và không một quốc gia nào có thể áp đặt ý chí của họ lên các bạn hoặc quyết định số phận của các bạn "Tức là phải hiểu ngầm rằng người Mỹ sẽ không "áp đặt ý chí của họ", không can thiệp vào chuyện nội bộ của mỗi quốc gia; số phận (về nhân quyền) của các bạn phải tự quyết định. Thế thì tại sao trước đây người Mỹ lại can thiệp, "áp đặt ý chí của họ" lên Hà Nội về nhân quyền mà giờ đây lại phớt lờ?! Lời lẽ, đại ý của ông tổng thống Mỹ trong câu nói này, các nhà ngoại giao Hà Nội cũng thường sử dụng để trả lời về nhân quyền khi có bất cứ một quốc gia nào muốn chỉ trích, chất vấn họ vi phạm. Chủ đích Mỹ chỉ cần thế hệ sau chiến tranh đứng lên lãnh đạo nhà nước VN trước là các cán bộ của Nhóm Fulbright ngoại nhập và sau là Nhóm Fulobright nội địa mà Harriman trước khi chết đã chọn đại úy Kerrey đặc trách đại học nầy, còn McCain và Kerry cặp bài trùng lo về đòn phép nối bang giao qua bửu bối "Agent Orange # MIA"

Hà Nội biết Mỹ cần Cam Ranh hơn là điều kiện về nhân quyền, cho nên đã có sự thỏa thuận ngầm giữa hai bên. Nhưng mặt nổi quân đội và khí tài Mỹ sẽ đặt để ở phần đất đồng minh của Mỹ là Philippines. Thế thì họ đàn áp những người đấu tranh cho nhân quyền thậm tệ mà bất cần đến liêm sỉ trước mặt người Mỹ và quốc tế đang hướng về Việt Nam theo dõi trong chuyến đi này của tổng thống Mỹ là chuyện đương nhiên cố dựng lên chiến dịch Truyền Thông Xám thế "Bênh kẻ Mạnh". Và rồi đây Mỹ sẽ không còn can thiệp "áp đặt ý chí của họ" lên nhà cầm quyền Việt Nam nữa mà để cho họ tự phát!
Ý kiến trên không đúng lắm Mỹ cần quân đội và tàu chiến trên đất đồng minh có cam kết như Phlippines và VN chỉ cần thoáng qua khi có chiến tranh. VN và Cambodia chỉ thành lập những nhà thương dã chiến khi có chiến tranh bộc phát.

Việc thả cha Lý, một người tù nổi tiếng về vi phạm nhân quyền của Hà Nội là một màn kịch ngoại giao "rửa mặt", phô trương tính cách nhân đạo rẻ tiền, không thuyết phục được ai bởi vì cha Lý không còn bao lâu nữa cũng sẽ mãn hạn tù.
Người dân ai cũng biết, cộng sản Việt Nam hiện thời nợ như chúa chổm, thế thì tiền đâu cho họ mua vũ khí trang bị đủ để chống lại Trung Quốc? Trong con mắt của tác giả thì đối với Baby Bald Eagle thì như "Tình cho không biếu không" thay vì để ở nghĩa địa lộ thiên chi chờ rĩ sét thành đóng sắt vụn? Điều nầy cũng như Harriman áp lực TT Eisenhower viện trợ cho Pháp 80% quân dụng củ tồn kho sau Đê-2 thế chiến tiêu dùng dùm Mỹ vậy thôi.
Có thể Hà Nội chọn Mỹ làm đồng minh trong lúc này, sẽ đặt ra điều kiện với người Mỹ khác hơn ngày xưa Mỹ là đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa? Tất cả nằm trong kịch bản "Âu-Á-Sự-1" cứ theo đó mà thi hành huấn lịnh, nếu cải lại thì nhìn vào TT Kennedy và TT Diệm để rút kinh nghiệm như TT Thiệu khôn ngoan đành ngậm tâm 30 năm trong oan nghiệt 16 tấn Vàng cho yên.

Người cộng sản thường hay luận rằng: "Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền". Đúng, thế cho nên nếu có hợp tác với Mỹ thì cùng lắm cho mướn quân cảng Cam Ranh để đổi lấy vũ khí chứ không để "mất chủ quyền". Và người Mỹ cũng đã học được bài học lịch sử từ quá khứ: Can thiệp sâu, đổ quân vào miền Nam Việt Nam là một việc làm sai lầm, sa lầy về chính trị. Người Mỹ không chiếm lãnh thổ hay đất đai của bất cứ một quốc gia nào cả; khác với ông "bạn vàng" của Hà Nội xa lắm.

Lý luận chỉ tóm gọn vào "đáp số" mà Secret Society chưa cho GIẢI MẬT và phổ biến sâu rộng "Hà Nội là CON TIN của Mỹ kể từ ngày Mỹ không cho phép Hà Nội đầu hàng, thế nên câu chuyện vẩn còn lơ lửng trong đám mây mù !!!!!

                                QUEENBEE-1
w theme. Powered by Blogger.

Nguồn: http://csvdvnch.blogspot.com/2016/06/hoa-ky-lap-lai-su-i-em-voi-ha-noi.html

Thứ Năm, 12 tháng 10, 2017

US, UNESCO và Việt cộng

US, UNESCO và Việt cộng


1/ Mỹ rút ra khỏi UNESCO.
Hoa Kỳ cho biết hôm thứ Năm rút khỏi UNESCO, cơ quan văn hoá và giáo dục của LHQ, việc cơ quan này không dược điều hành đúng đắn và thiên vị chống Israel.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao, Heather Nauert, nói: "Quyết định nhẹ nhàng cho thấy quan tâm của Mỹ với sự cần thiết phải cải cách căn bản, những khoản nợ quá hạn tại UNESCO,.
Hoa Kỳ, quốc gia đóng góp một phần năm cho toàn ngân sách của UNESCO, làm chấn động giới cầm đầu UNESCO tại Paris. 
Tổng giám đốc Irina Bokova bày tỏ sự thất vọng với quyết định của Hoa Kỳ: 
"Vào thời điểm các cuộc xung đột tiếp tục phá vỡ xã hội trên toàn thế giới, điều đáng tiếc là Hoa Kỳ rút lui khỏi cơ quan LHQ thúc đẩy giáo dục hòa bình và bảo vệ nền văn hóa bị tấn công. Đây là một tổn thất đối với LHQ, mất mát đối với chủ nghĩa đa phương".
UNESCO đang lựa chọn lãnh đạo mới, ưu tiên là khôi phục vận may.
Theo quy tắc của UNESCO, việc rút lui có hiệu lực vào cuối tháng 12 năm 2018. Cho đến đó, Hoa Kỳ vẫn cung cấp khoảng 80 triệu USD cho UNESCO hàng năm, vẫn là hội viên chính thức.
Đại sứ Hoa Kỳ tại LHQ Nikki Haley: “Mục đích của UNESCO tốt đẹp. chính sách cực đoan trở thành một sự bối rối mãn tính. Quyết định của Mộ các tổ phụ (Tomb of the Patriarchs) trong một loạt các hành động dại dột, bao gồm việc giữ nguyên nhà độc tài Syria Bashar al-Assad Ủy ban Nhân quyền của UNESCO ngay sau khi ông ta bị cáo buộc giết người biểu tình ôn hoà".
Cơ quan này có 2000 nhân viên trên toàn thế giới, ngân sách khoảng gần 600 triệu USD hàng năm. Tất cả 195 quốc gia hội viên, 10 hội viên là các hiệp hội độc lập, phải đóng góp vào ngân quỹ UNESCO, đồng thời các cơ quan phụ thuộc Liên hiệp quốc như UNDP cũng góp phần vào ngân quỹ.
Riêng Á châu và Thái bình Dương nhận USD 26,325,509 cho các chương trình văn hóa, duy trì di tích lịch sử, truyền thống, bảo tàng trong khu vực.
Năm 1984 Tổng Thống Ronald Reagan đã ra lịnh rút khỏi UNESCO vì thấy tiền của Mỹ dùng cho các tổ chức khủng bố và thiên tả như PLO (của Palesine). 
Anh và Singapore rút lui vào ngày 1 tháng 1 năm 1986 cho rằng mặt quản trị của UNESCO quá yếu kém, các hội viên lợi dụng cơ quan này cho tuyên truyền chính trị của phe thân cộng sản thế giới.
Mãi đến 2002, thời Tổng Thống George W. Bush (con) Mỹ mới gia nhập trở lại.
2/ Việt cộng Phạm Sanh Châu cũng rút lui khỏi cuộc tranh cử chức Tổng Giám Đốc UNESCO sau vòng nhì.
Phạm Sanh Châu, ứng viên Việt Nam giữ chức vụ Tổng giám đốc UNESCO, quyết định rút tên trước cuộc bỏ phiếu lần thứ tư vào ngày Thứ Tư.
Vòng thứ ba là bước nhảy vọt của ứng viên Pháp Audrey Azouley, được 18/58 phiếu của Ban điều hành UNESCO, chia vị trí hàng đầu với ứng viên Qatar tên Hammad bin Al-Kawari.
Ứng viên Ai Cập, Moushira Khattab, chiếm vị trí thứ ba với 13 phiếu, trong khi ứng viên Trung cộng Qian Tang và Vera El Khoury người Lebanon nhận được 5 và 4 phiếu bầu tương ứng.
Vòng bầu lần thứ tư cho là tổ chức vào thứ Năm.
Ứng cử viên Việt Nam rút khỏi cuộc đua có tính cạnh tranh cao như vậy không phải là một hành động bất thường trong quan hệ quốc tế.
Trong thời gian lựa chọn ứng viên cho vị trí Tổng giám đốc UNESCO, hầu hết các quốc gia sẽ rút khỏi cuộc đua nếu ứng viên của họ không đạt 10 phiếu hoặc hơn trong hai vòng.
Phạm Sanh Châu dùng chiến dịch tranh cử tạo cơ hội cho thế giới chú ý nhiều hơn đến Việt Nam, gây uy tín vào Hội đồng Bảo An LHQ lần sau.
Xem ra hôm nay là ngày xấu cho Việt Nam cộng sản và Phạm Sanh Châu, phải rút lui trước số phiếu quá thấp. Trong tương lai, cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục vận động bằng mọi hình thức để xuất hiện trên diễn đàn chính trị quốc tế, hầu đánh trống thổi kèn cho chế độ độc tài của chúng và lấy thêm ngoại viện. 
UNESCO cũng gặp vận xấu khi anh nhà giàu Mỹ bỏ chạy. Tâm lý thời của Trump là "America first" (Nước Mỹ trước tiên), tại sao phải chi ra 80 triệu hàng năm cho bọn thiên vị, thiên tả, lấy tiền của Mỹ lại hô hào chống Mỹ (Syria, Việt Nam...). Đánh vào túi tiền luôn có hiệu quả hơn cả, đó là tử huyệt cho mỗi cá nhân, quốc gia, tổ chức.
Ngạn ngữ Việt Nam có nói:
"Vai mang túi bạc kè kè.
Nói quấy, nói quá chúng nghe rầm rầm"
Anh ngữ: 

"Money talks, everything else walks"
12/10/2017

Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2017/10/us-unesco-va-viet-cong.html#more

Phản hồi:
Thanks God . Phạm sanh Châu mà làm Tổng giám đốc Unesco thì Unesco sẽ thành cái hang Pắc bó vi các danh nhân văn hóa sẽ đuoc tuyển chọn theo kiểu Hồ ấu dâm .
Thế giới ai cũng biết csVN là lũ bù nhìn xạo chó giả dối và rất mọi rợ nên chẳng ai thèm quan tâm và bỏ phiếu cho chúng, tên súc sanh trâu (châu) này thay mặt bọn tà quyền man rợ csVN đi lấy ghế trong Hội Đồng bảo An LHQ để cố gằng vinh ranh tên hồ ấu dâm diệt chủng là "ranh nhân quoăn quá quần què thúi giái" bị cả thế giới khinh bỉ, vác cái mặt mo vào LHQ mà không biết nhục, đúng với bản chất trơ trẻn nhầy nhụa mà bọn bù nhìn thối nát dơ bẩn csVN mỗi lần đi ăn xin ăn mày các nước tư bản đang giãy hoài mà không bao giờ chết. Thật thối nát!

Phạm Sanh Châu là thằng ba tàu tình báo Hoa Nam cài vào VN từ lâu zồi hehehe

Hội Cờ Đỏ tại Việt Nam: “Hồng Vệ Binh” của thời đại internet

Hội Cờ Đỏ tại Việt Nam: “Hồng Vệ Binh” của thời đại internet

Hòa Ái, phóng viên RFA
2017-10-12
Vũ khí tang vật giáo dân Giáo xứ Thọ Hòa thu giữ ngày 04/09/2017.
Vũ khí tang vật giáo dân Giáo xứ Thọ Hòa thu giữ ngày 04/09/2017.
Courtesy: Facebook Tan Nguyen Duy
Giới ủng hộ dân chủ tại Việt Nam cho biết các dư luận viên thuộc Hội Cờ Đỏ ngày càng đông đảo và trở thành lực lượng được chính quyền sử dụng để trấn áp những tiếng nói của người dân vì xã hội công bằng và tốt đẹp hơn. Dư luận nói gì về những hoạt động của Hội Cờ Đỏ hiện nay?

Thành viên “Hội Cờ Đỏ” là ai?

Những người thuộc “Nhóm Cờ Đỏ” vào sáng ngày 4 tháng 9 mang theo súng ngắn, roi điện, bình xịt hơi cay đến Giáo xứ Thọ Hòa, ở tỉnh Đồng Nai để đe dọa “có biện pháp trừng phạt” đối với Linh mục Nguyễn Duy Tân vì ông từng kêu gọi trưng cầu dân ý cũng như lên tiếng về các vấn đề trong xã hội trên trang Facebook cá nhân của mình.
Sau hơn 1 tháng xảy ra vụ việc tại Giáo xứ Thọ Hòa, vào ngày 6 tháng 10, Công an huyện Xuân Lộc công bố kết quả điều tra với sự chứng kiến của linh mục quản hạt và linh mục văn phòng Tòa Giám Mục. Theo đó, có 11 người tham gia vụ gây rối trật tự bị phạt hành chính 750 ngàn đồng và riêng thanh niên tên Trần Hiếu Nghĩa bị phạt 8, 2 triệu đồng do “mang theo súng đồ chơi nguy hiểm”. Linh mục Nguyễn Duy Tân thuật lại với RFA rằng Công an huyện Xuân Lộc đã từ chối trao văn bản kết quả điều tra theo như yêu cầu của linh mục quản hạt:
Ông Lợi là Công an huyện Xuân Lộc, ông nói rằng ‘Đây là súng đồ chơi nguy hiểm’. Cho nên họ chỉ phạt có 8, 2 triệu đồng...Họ không ghi được mã số khẩu súng, cũng không ghi khẩu súng có bao nhiêu viên đạn và cũng không ghi nguồn gốc súng mua từ đâu về. Họ không cung cấp giáy tờ kết quả điều tra cho Đức Giám mục Giáo phận Xuân Lộc
-Linh mục Nguyễn Duy Tân
“Theo nguyên văn của ông Lợi là Công an huyện Xuân Lộc, ông nói rằng ‘Đây là súng đồ chơi nguy hiểm’. Họ dùng từ ‘súng đồ chơi nguy hiểm’. Cho nên họ chỉ phạt có 8.200.000 đồng. Phía bên Ban Hành giáo thì không có ý kiến gì cả, chỉ đòi hỏi chính quyền làm sao phải có trách nhiệm răn đe những ‘đồng chí Cờ Đỏ’ để họ mai mốt không đến quấy rối Giáo xứ Thọ Hòa nữa thôi. Đôi với tôi thì tôi cũng chê trách các đồng chí công an (huyện Xuân Lộc) làm việc kém quá. Bởi vì, họ không ghi được mã số khẩu súng, cũng không ghi khẩu súng có bao nhiêu viên đạn và cũng không ghi nguồn gốc súng mua từ Campuchia hoặc Mỹ hay từ đâu về…Họ không cung cấp giáy tờ kết quả điều tra cho Đức Giám mục Giáo phận Xuân Lộc.”
Cộng đồng cư dân mạng biết đến “Nhóm Cờ Đỏ” không chỉ qua vụ việc gây rối trật tự tại Giáo xứ Thọ Hòa, mà trước đó đã từng xảy ra những trường hợp các nhà hoạt động vì dân chủ tại Việt Nam bị côn đồ hành hung với tuyên xưng là người yêu nước, tôn trọng quốc kỳ cờ đỏ ngôi sao vàng, xử lý những kẻ phản động như vụ 3 phụ nữ bị tấn công dã man tại quận 2, thành phố Hồ Chí Minh hồi đầu tháng 5 năm nay.
Mới đây nhất, hai “Hội Cờ Đỏ” vừa được thành lập ở xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu và xã Diễn Mỹ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An hồi cuối tháng 8 và đầu tháng 9 vừa qua.
Trước khi tuyên bố chính thức thành lập “Hội Cờ Đỏ”, những thành viên của các hội, nhóm này, kể từ tháng 6, liên tục sách nhiễu, đe dọa, phá hoại tài sản, đánh đập người dân ở khu vực địa phương nêu trên. Đặc biệt, những người này nhắm vào giáo dân Công giáo với mục đích được cho là chia rẽ lương giáo.
Hồi hạ tuần tháng 9, bảy linh mục quản xứ thuộc Giáo hạt Đông tháp đồng ký tên vào Đơn tố cáo liên quan tình trạng bất ổn xảy ra liên tục trong khu vực Giáo xứ Đông Kiều, tính từ thời điểm hai “Hội Cờ Đỏ” tuyên bố thành lập. Tuy nhiên, các vị linh mục quản xứ nói với RFA rằng chính quyền địa phương luôn thoái thoát trách nhiệm và không giải quyết rốt ráo các vụ việc mà họ đã trình báo.

Do chính quyền dựng lên?

Mặc dù hầu hết các vụ việc xảy ra mà cả người bị hại lẫn dư luận đều khẳng định liên quan đến hội, nhóm “Cờ Đỏ”, thậm chí có sự thông đồng cũng như hỗ trợ từ phía chính quyền nhưng chính quyền địa phương giải thích là do người dân tự phát. Và sự tự phát ngày càng công khai, rầm rộ như thế khiến cho cộng đồng cư dân mạng gọi các thành viên của nhóm, hội “Cờ Đỏ” là các “Hồng Vệ Binh” kiểu mới, được chính quyền dựng lên để phá hoại đoàn kết dân tộc, gây chia rẽ tôn giáo với mục đích tấn công những người đấu tranh ôn hòa vì môi trường, xã hội, tự do và dân chủ tại Việt Nam.
Bây giờ họ không thể nào bịt mắt quốc tế. Họ không thể bưng bít được nữa. Họ không thể ngang nhiên như thời xưa được nữa thì đương nhiên họ càng ở trong bóng tối, càng giấu mặt bao nhiêu càng tốt
-Nhà báo Sương Quỳnh
Nhà báo tự do Sương Quỳnh, một nạn nhân từng bị côn đồ hành hung có sự trợ giúp của công an lên tiếng với Đài Á Châu Tự Do rằng nhà cầm quyền Hà Nội sử dụng chính sách dùng côn đồ để cai trị người dân trong nhiều thập niên. Và chính sách này được sao chép y khuôn từ những cách thức của Bắc Kinh đối xử với dân chúng ở Đại Lục; đồng thời những người trong lực lượng đàn áp được gửi sang Trung Quốc học hỏi và huấn luyện một cách bài bản. Nhà báo tự do Sương Quỳnh còn nhấn mạnh trong thời đại internet cùng sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, nhà cầm quyền Việt Nam càng tận dụng thành phần dư luận viên “Hồng Vệ Binh” là các hội, nhóm “Cờ Đỏ”:
“Bây giờ họ không thể nào bịt mắt quốc tế. Họ không thể bưng bít được nữa. Họ không thể ngang nhiên như thời xưa được nữa thì đương nhiên họ càng ở trong bóng tối, càng giấu mặt bao nhiêu càng tốt. Chính sách tốt đẹp nhất để họ phủi tay, đó là dùng chính người dân đánh người dân và dùng giang hồ để hành hung người dân rồi họ trút bỏ hết trách nhiệm.”
Qua một số cư dân mạng mà Đài RFA chúng tôi tiếp xúc, nhiều người cho rằng chính sách dựng lên các hội, nhóm dư luận viên “Hồng Vệ Binh” kiểu mới của chính quyền Hà Nội chẳng khác nào như con dao hai lưỡi vì sự bất ổn xã hội do các hội, nhóm này gây nên càng nhiều thì uy tín của chính quyền sẽ càng giảm đi trên trường quốc tế.

Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/red-flag-association-in-vietnam-red-guards-of-internet-age-ha-10122017113357.html

Ý kiến

Nguyen Xuân Tung

nơi gửi Vn
Đề nghị cho CA ĐN đi học khoá căn bản về vũ khí , đã là CA với nghiệp vụ nguy hiểm mà chưa phân biệt được súng thật súng giả thì nguy hiểm và tội nghiệp họ quá ! Có thể họ đang bị ép phải nói dối ? Thôi thì các anh cố nói thật một lần đi ! Dối trá hoài thối miệng lắm vc ơi !
12/10/2017 15:58

NGUY CƠ MẤT NƯỚC VÀ MẤT DÂN TỘC VIỆT NAM

Feeds:

NGUY CƠ MẤT NƯỚC VÀ MẤT DÂN TỘC VIỆT NAM

Cựu Thẩm phán Phạm Đình Hưng
tháng 9-2010




Tình hình đất nước VN hiện nay vô cùng bi đát về mọi mặt. Dưới quyền cai trị độc tài chuyên chính và toàn trị của ĐCSVN từ 34 năm nay, nước VN thống nhứt hiện là một trong 10 nước nghèo nhứt trên thế giới và đang tự nguyện đưa đầu vào ách thống trị của TQ.
Hôm nay, tôi xin nói về một chủ đề nóng bỏng. Đó là Nguy Cơ Mất Nước và Mất Dân Tộc VN đang ló dạng trên quê hương thân yêu của chúng ta. Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái, ông Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ ở Đà Lạt cũng đã nói lên nguy cơ “Mất nước và Mất dân tộc” giống như tôi. (Đinh Quang Anh Thái/Người Việt, “Mất dân tộc còn tệ hơn mất nước”, Người Việt số 8616 ngày 10 tháng 7, 2009, California, Hoa kỳ).
Nội dung bài thuyết trình của tôi hoàn toàn căn cứ vào các sự kiện cụ thể, các sách báo đứng đắn, các sử liệu chính xác và các nguồn tin khả tín của TQ.
Ngay từ năm 1962, chánh trị gia Ngô Đình Nhu, Cố vấn chánh trị của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã có một nhận định chính xác về tương lai của nước VN. Trong quyển sách biên khảo rất công phu tựa đề “Chính Đề VN”, tác giả Ngô Đình Nhu đã khẳng định rằng trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt giữa Bắc Việt CS (nước VN Dân Chủ Cộng Hòa) và Miền Nam tự do (nước VNCH), nếu Bắc Việt thắng thì cả nước VN sẽ lệ thuộc TQ. Lời tiên đoán nầy của nhà chánh trị Ngô Đình Nhu ngày nay đã trở thành một sự thật đau lòng cho tất cả người Việt, ở trong nước và ngoài nước.
I – Nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh VN.
Hai cuộc chiến tranh VN kéo dài 30 năm từ 1945 đến 1975 đã xảy ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (Cold War) giữa Thế giới Tự do và hệ thống các nưóc xã hội chủ nghĩa. Theo tác giả Ngô Đình Nhu, nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh thảm khốc nầy là sự xung đột lâu đời của nước Nga với các nước Tây Âu và sự thù hận của TQ đối với các nước trong bác quốc liên quân đã tấn công và xâu xé nước Trung Hoa trong thế kỷ 19. Thua kém các nước Tây Âu và Bắc Mỹ về mặt khoa học kỹ thuật, hai đế quốc cộng sản Liên Xô và TQ đã lợi dụng chủ nghĩa cộng sản của hai người Đức ở Tây Âu (Karl Marx và Frederic Engels) như một phương tiện để đánh phá các nước Tây phương từ trong nội bộ của các nước tư bản và từ các thuộc địa của các nước nầy ở châu Á và châu Phi.
Riêng tại VN, Liên Xô và TQ đã sử dụng một cán bộ cộng sản đệ tam quốc tế từ năm 1924 là HCM để tiến hành chiến tranh đánh phá Pháp và Hoa Kỳ nhằm mục đích bành trướng chế độ cộng sản trên khắp ba nước Đông Dương và Đông Nam Á. Hai cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng dân tộc” và “thống nhứt đất nước” thật sự là hai cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” do hai đế quốc cộng sản Nga-Hoa chỉ đạo và viện trợ vì quyền lợi của họ. Trong hai cuộc chiến tranh VN, vai trò và ảnh hưởng của TQ lớn hơn Liên Xô vì các lý do sau đây :
1) Giáp giới VN, TQ là một đại quốc luôn luôn có tham vọng xác lập địa vị mẫu quốc đối với VN. Nhưng TQ đã mất ảnh hưởng đối với VN từ giữa thế kỷ 19. Giúp đỡ cho ĐCSVN tiến hành chiến tranh sau đệ nhị Thế chiến tức là giúp đỡ cho TQ tái lập ảnh hưởng đối với VN .
2) Để tránh đụng chạm với Pháp, Liên Xô từ 1945 đến 1950 đã không công nhận chánh quyền HCM; Josef Stalin năm 1951 chỉ đồng ý cho TQ viện trợ ĐCSVN đánh Pháp nhưng từ chối viện trợ trực tiếp cho HCM. Trái lại, ngay sau khi thống nhứt nước Trung Hoa năm 1949, Mao Trạch Đông đã lập tức công nhận chánh quyền HCM năm 1950 và viện trợ dồi dào cho ĐCSVN về võ khí, lương thực, thuốc men, nhân lực (cố vấn chánh trị, cố vấn quân sự, binh sĩ) và huấn luyện đào tạo các cấp chỉ huy Việt Minh Viện trợ quân sự của Trung Hoa đã “giải tỏa Việt Minh khỏi vòng vây của quân đội Pháp”. Giải phóng quân TQ còn chủ động tham gia các trận đánh lớn ở Đông Khê, Thất khê và Điện biên phủ dưới quyền chỉ huy của hai tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Chiến thắng Điện biên phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã giúp cho ĐCSVN chiếm được nửa nước VN. (Xem tập tài liệu “Ghi Chép Thực Về Việc Đoàn Cố Vấn Quân Sự TQ Viện Trợ VN Chống Pháp”, Nhà Xuất bản Lịch sử ĐCSTQ, Bắc Kinh, 2002) Trong cuộc chiến tranh gọi là “chống Mỹ, cứu nước” từ năm 1956 đến năm 1975, TQ đã tăng cường viện trợ vô cùng hùng hậu cho Bắc Việt cộng sản về phương tiện chiến tranh và chuyên viên phòng không, đồng thời cho quân Tàu trú đóng tại các tỉnh biên giới Việt-Trung để gìn giữ an ninh lãnh thổ giúp cho quân đội Bắc Việt điều động xuống chiến trường miền Nam VN. Liên Xô chỉ viện trợ (có hoàn lại) cho Bắc Việt một số võ khí nặng ( phi cơ, chiến xa, đại pháo) trị giá 10 tỷ đô la.
3) Từ khi từ Moscowa về Diên An (thủ đô của Hồng quân TQ) năm 1938 đầu quân Mao Trạch Đông, HCM đã tận tình phục vụ TQ nhiều hơn Liên Xô vì Ông ta đã bị thất sủng trong một thời gian dài từ 1932 đến 1938 và suýt bị Stalin giết chết năm 1935. Theo tiết lộ của một nhân vật Tình báo Tàu trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN, HCM đã gia nhập ĐCSTQ. Khi trở về hoạt động tại Hoa Nam và trong hang Pác Bó ở tỉnh Cao Bằng, ông Hồ đã thi hành công tác của một đảng viên do ĐCSTQ giao phó. Ngoài viên chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam, một nhân vật cao cấp trong phái đoàn thương thuyết của TQ về ranh giới mới trên đất liền và biển cả giữa TQ và VN còn đe dọa TQ sẽ công bố các cam kết bí mật của HCM với ĐCSTQ để làm tiêu tan sự nghiệp (legacy) của HCM và ĐCSVN.
II – Tham vọng bá quyền của Trung Cộng và các hành động bán nước của ĐCSVN.
Từ ngàn xưa, Hán tộc luôn luôn nuôi tham vọng bành trướng xuống phía Nam và tìm đường đi ra biển từ hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Nhưng họ đã vấp phải sự đối kháng mãnh liệt và hữu hiệu của dân tộc VN, một dân tộc thông minh và kiêu dũng trong dòng Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử đã bẻ gãy tất cả các cuộc xâm lăng võ trang từ phương Bắc để bảo tồn độc lập của nước VN. Trước tham vọng bành trướng xuống phía Nam của TQ hiện nay, VN là nạn nhân đầu tiên của thiên triều Bắc kinh. Từ xưa đến nay, người Tàu luôn luôn xem nước VN là một quận, huyện của TQ. Trải qua 2000 năm lịch sử, nước VN chúng ta đã phải hứng chịu nhiều đau khổ và tủi nhục trong 1000 năm Bắc thuộc trước khi Ngô Quyền tranh thủ được nền độc lập của nước nhà năm 938. Tổ tiên chúng ta đã bao lần anh dũng chống ngoại xâm từ phương Bắc để gìn giữ độc lập của nước nhà và duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc VN. Tinh thần quốc gia dân tộc của tổ tiên chúng ta rất vững mạnh và kiên cường. Thành tích giữ nước vẻ vang của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung Nguyễn Huệ đã nhắc nhở người VN chúng ta đương thời nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc VN chống lại âm mưu thôn tính của TQ với sự tiếp tay của bọn tay sai bán nước là ĐCSVN.
Trong thời đại ngày nay, TQ đã áp dụng một chiến lược thôn tính VN rất tinh vi và hiểm độc. Để thực hiện dễ dàng tham vọng bành trướng xuống phía Nam của TQ, người Tàu cần phải phá tan tinh thần đoàn kết của người VN và tiêu diệt sinh lực của dân tộc Việt. Nhằm mục đích thâm độc nầy, ĐCSTQ đã sai khiến HCM và ĐCSVN liên tục tiến hành chiến tranh trong 30 năm để tàn phá nặng nề đất nước VN, giết chết cả chục triệu người dân Việt và chia rẽ dân tộc Việt về ý thức hệ, thành phần giai cấp, địa phương, tôn giáo và đảng phái. Cuộc xâm lăng VN của TQ đã thật sự bắt đầu từ năm 1950 với kế hoạch viện trợ cho HCM và đảng Cộng sản Viêt Nam đánh Pháp để chiếm đoạt quyền lãnh đạo quốc gia. Trong thời gian viện trợ cho Việt Cộng gây nội chiến dưới chiêu bài đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trung Cộng đã có đủ thời giờ điều nghiên các vị trí chiến lược trọng yếu của VN và bố trí cán bộ gốc Hoa và thân Tàu vào các chức vụ chỉ huy trong Quân đội, Công an, Tình báo, bộ máy Nhà nước và các cấp ủy đảng để sẵn sàng thực hiện âm mưu thôn tính VN. Đồng thời với việc âm thầm chỉ đạo Đảng và Nhà nước cộng sản VN, TQ đã áp dụng chiến lược “Diễn Biến Hòa Bình” để từng bước lấn chiếm lãnh thổ VN thay vì sử dụng võ lực tấn công ồ ạt như đã làm trong quá khứ. Với sự hợp tác tự nguyện của HCM, hậu duệ của ông ta và tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN, kế hoạch tầm ăn dâu nầy của TQ đã đạt nhiều kết quả trong âm mưu đô hộ VN. Theo lịnh của TQ, HCM và ĐCSVN đã đả kích chủ nghĩa quốc gia dân tộc là cục bộ địa phương cần phải gạt bỏ và thay thế bằng chủ nghĩa quốc tế đại đồng. Để phục vụ thiên triều Bắc kinh, HCM và ĐCSVN đã không ngần ngại dâng hiến quan thầy Tàu một phần đáng kể lãnh thổ do tiền nhân chúng ta dầy công xây đắp và bảo vệ. Các hành động bán nước kể sau của HCM và ĐCSVN cần phải được phơi bày ra trước ánh sáng để lịch sử và các thế hệ trẻ VN sanh sau năm 1975 cùng thế giới văn minh phán xét :
1) Chuyển nhượng cho TQ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Do quyết định của HCM và bộ Chánh trị ĐCSVN, Thủ tướng nước VN Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc cộng sản), Phạm văn Đồng đã chánh thức gởi đến Thủ tướng Quốc vụ viện TQ Chu Ân Lai giác thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 ủng hộ bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của TQ xác định chủ quyền của nước nầy trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào thời điểm nầy, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của VN Cộng Hòa (miền Nam tự do) vì nằm dưới vĩ tuyến 17. Khi Hải quân TQ tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa và bị Hải quân VN Cộng Hòa chận đánh ngày 19-01-1974 để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ VN, Hà Nội đã giữ thái độ im lặng hoàn toàn. Quyết định bán nước và thái độ bàng quang của Hà Nội đã chứng minh HCM và ĐCSVN luôn luôn đặt quyền lợi của Cộng sản quốc tế trên quyền lợi quốc gia. Đây là hành động phản bội Tổ quốc đầu tiên của ĐCSVN đã phạm trong thời bình để trả nợ chiến tranh cho TQ và đền đáp ơn nghĩa của TQ đã giúp đỡ HCM và ĐCSVN lên ngai vàng tại Bắc bộ phủ và ngự trị trên miền Bắc VN sau chiến thắng Điện biên phủ nhờ sự trợ giúp của tướng TQ Vi Quốc Thanh và pháo binh Trung Cộng. Tham vọng quyền lực đã thúc đẩy HCM và ĐCSVN tích cực phục vụ TQ, mở đường cho Hán tộc bành trướng xuống Đông Dương và Đông Nam Á, tiến chiếm biển Đông (South China Sea), đặt căn cứ hải quân trên quần đảo Hoàng Sa, khống chế con đường đi ra hải phận quốc tế của VN và kiểm soát giao lưu hàng hải quốc tế giữa Thái bình dương và Ấn độ dương. Quyết định chuyển nhượng âm thầm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho TQ chứng tỏ ĐCSVN là chủ nhân thật sự của đất nước VN có quyền cho không hay bán một phần lãnh thổ mà không cần phải thông báo Quốc Hội hay xin Quốc Hội phê chuẩn. Hậu quả của giác thư Phạm văn Đồng năm 1958 vô cùng trầm trọng. Hiện nay, chúng ta không thể biết ngày nào có thể thâu hồi quần đảo Hoàng Sa về Tổ quốc Viêt Nam. Ngày đó chỉ đến sau khi đế quốc cộng sản Trung Hoa tan rã .
2) Cắt đất ở biên giới Việt-Hoa dâng cho TQ.
Lần đầu tiên trong lịch sử VN, đảng Cộng sản là một nhà cầm quyền đã dám cắt một phần đất của Tổ Quốc để dâng cho ngoại bang bất chấp luật pháp nghiêm minh của tiền nhân: trong Quốc Triều Hình Luật do Nguyễn Trãi soạn thảo có một điều khoản phạt tử hình người dân bán đất thuộc quyền sở hữu của mình cho ngoại nhân. Sau chuyến đi năm 1992 của bộ ba Đỗ Mười-Lê Đức Anh-Phạm văn Đồng đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, cầu hòa và dập đầu xưng thần với thiên triều Bắc kinh, ĐCSVN đã chuẩn bị một cống phẩm đầu tiên để lấy lòng quan thầy: dâng hiến TQ một phần đất liền dọc theo sáu tỉnh biên giới Việt-Hoa coi như trả một phần món nợ viện trợ của TQ trong cuộc chiến tranh VN lần thứ hai để đánh chiếm miền Nam, đào sâu thêm hận thù dân tộc và giết chết thêm cả chục triệu người VN vô tội. Cống phẩm nầy đã được dâng lên Bắc kinh bằng việc ký kết hiệp ước phân định lại biên giới Việt Hoa ngày 30-12-1999 theo chỉ thị của Lê Khả Phiêu, người lãnh tụ số 1 của ĐCSVN đã bị Bắc kinh sai khiến một cách dễ dàng vì đã lở dại sa vào mỹ nhân kế của người Tàu. Được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn nhanh chóng, hiệp ước bán nước nầy đã chuyển nhượng cho TQ trên 1.000 km2 đất liền ở biên giới Việt Hoa, tách rời khỏi lãnh thổ VN một số địa danh quan trọng như phía Bắc Sa Pa, ải Nam Quan, thác Bản Giốc. Không màng đến trọng tội bán nước, nhà cầm quyền Cộng sản VN đã cùng với TQ tổ chức liên hoan ăn mừng việc hoàn thành công tác cắm cọc biên giới mới có lợi cho TQ.
3) Phân chia lại Vịnh Bắc Việt (Golf of Tonkin).
Hiệp ước 1887 ký kết giữa đại diện Pháp quốc Patenotre và đại diện Đại Thanh Lý Hồng Chương đã phân chia Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ như sau: VN: 63%, Đại Thanh: 37%. Nhưng năm 2000, TQ đòi phân chia lại Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ 50/50. Dưới tác động và ảnh hưởng của TQ, Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Chủ tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh đã thỏa hiệp ký kết hiệp ước về Vịnh Bắc Việt ngày 25-12-2000 để đáp ứng yêu sách của TQ nhưng chỉ muốn xin lại 6% mà thôi. Theo hiệp ước mới nầy, VN mất 14.000 km2 biển trong Vịnh Bắc Việt. Trước sự ngoan ngoãn của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cộng sản VN, Thủ tướng Chu Dung Cơ của TQ, người thay thế Lý Bằng, thông báo sẽ chuyển giao cho VN cộng sản 2 tỷ Mỹ kim dưới hình thức đầu tư. Số tiền lớn nầy được TQ xem như tiền mua một phần biển của VN trong Vịnh Bắc Việt. Một sự thật không thể chối cải là Cộng sản VN đã bán biển cho TQ để lấy 2 tỷ Mỹ kim và đã không bảo vệ quyền lợi của quốc gia VN bằng nhà cầm quyền thực dân Pháp. Vì vụ bán nước lần thứ ba nầy quá lớn, Quốc Hội bù nhìn của Cộng sản VN đã trì hoản đến năm 2004 mới âm thầm phê chuẩn hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Trong khi gia tăng áp lực đối với ĐCSVN để nhanh chóng ký kết hiệp ước bán biển trong Vịnh Bắc Việt, Thủ tướng Quốc vụ viện TQ Lý Bằng đã nhiều lần bộc lộ cảm tình với Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc Hội VN cộng sản, và bày tỏ ý muốn Nông Đức Mạnh sẽ là Tổng Bí thư ĐCSVN. Nông Đức Mạnh là hậu duệ của HCM được TQ hậu thuẫn mạnh mẽ để tiếp nối sự nghiệp bán nước của cha y .
4) Hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả.
Các cống phẩm “dâng đất biên giới, hiến biển Vịnh Bắc Việt” của tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN vẫn chưa thỏa mãn tham vọng thôn tính VN của TQ. Bộ Chánh trị ĐCSVN lại nhận thêm một yêu sách mới: Chuyển nhương cho TQ 22.000 (hai mươi hai ngàn) km2 biển VN từ Quảng Ninh đến Quảng Ngãi dưới hình thức hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả giữa hai nước TQ và VN. Đáp ứng yêu cầu của TQ, một hiệp ước thứ ba đã được bí mật ký kết năm 2000 để giao cho TQ trọn quyền kiểm soát và khai thác biển Đông nằm trong lãnh hải, vùng tiếp cận lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN ở phía Bắc Quảng Ngãi (vĩ tuyến 15). Căn cứ vào hiệp ước nầy, TQ đã ngang nhiên cấm đánh cá trong các vùng biển của VN, bắn giết và bắt phạt ngư dân VN vi phạm các biện pháp hành chánh của họ, xua đuổi hai công ty British Petrolium và Exxon-Mobile không được hợp tác với VN cộng sản thăm dò và khai thác dầu khí trong các vùng biển của VN. Nhà cầm quyền cộng sản VN không dám phản đối TQ để bảo vệ quyền lợi của quốc gia và ngư dân VN .
Hiệp ước hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên ký kết với TQ năm 2000 đã được nhà cầm quyền cộng sản VN xem như một hợp đồng nên khỏi cần được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn. Hiệp ước nầy đã mở đường cho đế quốc cộng sản Trung Hoa chiếm hữu biển Đông và công bố bản đồ “Lưỡi Bò”bao gồm 80% biển Đông và thu hẹp lãnh hải Viêt Nam dưới 12 hải lý.
Để chánh thức hóa sự chuyển nhượng vĩnh viễn cho TQ quần đảo Hoàng Sa (nằm trên vĩ tuyến 17) và các vùng biển VN ở phía Bắc vĩ tuyến 15 (Quảng Ngãi), nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN đã không đệ nạp Liên Hiệp Quốc hồ sơ thềm lục địa VN ở phía Bắc vĩ tuyến 15 và tuyên bố không có tranh chấp trong vùng biển nầy (vì đã chuyển nhượng cho TQ).
5) Tại 18 tỉnh giáp ranh TQ, CSVN đã cho thuê khoảng 300.000 hecta đất rừng miễn phí đến 50 năm, nhường đất biên giới Trà Cổ cho TQ thuê xây dựng sân gôn và các công trình dịch vụ trên mảnh đất địa đầu Trà Cổ đẹp nhất với chiều dài tới 3 km, lại phải dời cả đồn biên phòng, chùa chiền để cho TQ thuê trong 50 năm. CSVN cố tình hay ngu dốt cho thuê dài hạn những vùng đất địa đầu giáp liền với một TQ tham lam lúc nào cũng dã tâm nuốt chửng VN, biết bao vùng đất biên giới đã bị TQ chiếm đoạt, thậm chí ở Vũng Tàu – Côn đảo cũng thấy cột mốc «Thổ địa giới tiêu», rõ ràng sẽ tiềm ẩn biết bao bất trắc về an ninh, thế mà người ta lại có thể nhắm mắt ký và ký.
Đâu có thể đơn giản cho rằng những người cán bộ lãnh đạo kia quá đần độn ngu dốt, không hiểu biết gì hết hoặc là vì lợi lộc quá lớn, lòng tham không thể chối nổi nên nhắm mắt ký bừa ? Hay đã có một chủ trương do TQ áp đặt ?
Ông Ngô Đức Thọ nói về cách ứng xử của báo chí VN với việc TQ tuyên truyền kích động, thù hận với VN :Tôi không tin rằng các bạn không động lòng trước bầu không khí quái quỷ bài xích VN bên kia ải Bắc…Thông tin về những ngôn từ hành động lếu láo của những kẻ đó cho toàn dân ta biết thì có lỗi gì đâu mà phải kiêng kỵ ?… Các báo chí VN cố tình bưng bít, giấu giếm không cho dân biết những giọng điệu và hành động của kẻ hiếu chiến…. Chừng nào giọng điệu hung hăng ấy loang rộng ra đủ nóng thì chẳng còn chữ vàng nào nữa để mà ôm hôn”. (Thuấn NghiêuHT Mạng Bauxite VN)
6) Trung Cộng hiện nay có một chiến lược đi thuê đất, mặt biển dài hạn (30-50-99 năm) nhiều nơi trên thế giới mà VN là một địa chỉ béo bở và khá dễ dàng. Diện tích mặt nước ven bờ từ Quảng Ninh, vào đến Khánh Hòa, Ninh Thuận, Vũng Tàu, Kiên Giang, Phú Quốc đang được chuyển nhượng cho tư nhân trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, các bãi tắm ven biển rất đẹp ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Ninh Thuận, Phú Quốc, cũng được giao cho các doanh nhân trong và ngoài nước tự khoanh vùng hoặc thuê dài hạn. Nhiều đoạn bờ biển trở thành bất khả xâm phạm không chỉ với các du khách mà còn ngay cả với người địa phương. Doanh nghiệp thuê diện tích rộng nhất, lâu năm nhất là công ty ngọc trai của Đài Loan, hoạt động tại Nha Trang, với trên 440 hecta. TQ được quyền sử dụng mặt bằng vùng biển Bắc Cam Ranh, để tiến hành xây các khu nghỉ mát, resort,… đến 30-50 năm. Các ngư phủ VN khi ra khơi kiếm sống, gặp nạn ngoài biển, bị  dám mở miệng. Một ngư dân ở Nha Trang nói : “Mình yêu nước thầm lặng, chứ phát biểu ra như dùng truyền đơn, đi biểu tình, nói này kia thì mình không được quyền nói, chỉ nói bằng ánh mắt thôi, ngao ngán lắm. Ở Nha Trang đã có quá nhiều công ty thuê bãi biển, nên khi người dân muốn ra đó thì khó khăn lắm, phải băng qua mặt bằng do người ta sử dụng, nếu người ta không thích cho dân đi qua thì họ có quyền giăng hàng rào, người ta cấm. Những khắc khoải, ưu tư, sầu não thì ít khi dám biểu lộ, nói ra không có lợi gì cho mình.”
Về việc CSVN, “hết cho thuê rừng, lại cho thuê biển”, từ Hà Nội, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế, nguyên cố vấn của CS Hà Nội nhấn mạnh : “Bãi biển rất đẹp ở miền Trung, miền Nam ở Hạ Long, nhà đầu tư nước ngoài họ độc chiếm. Ở một số nơi người dân trong nước gặp khó khăn khi đi tắm ở bãi biển của mình, họ phải đi quá xa, … họ được một số ưu đãi, như là được xây dựng khu nghỉ dưỡng, khu resort, ngay sát bờ biển và họ độc chiếm nơi đó, không thuê phòng của họ thì không vào được. Nếu nhà nước VN không suy xét cẩn trọng thì cả một dân tộc phải trả giá rất đắt trong hiện tại và mãi về sau. (Nguồn RFA). (2 số 5-6 là phần bổ sung của BBT theo báo chí của VN và RFA gần đây).
7) Hợp tác khai thác bô xít (bauxite) tại Cao nguyên Trung Phần.
Dưới hình thức hợp tác khai thác bô xít để lấy Alumina, TQ đã và đang tiến hành âm mưu xâm chiếm Cao nguyên Trung phần, một vị trí chiến lược sanh tử của VN. Sau khi khống chế các vùng biển của VN ở phía Đông, TQ có khả năng thành lập một khu tự trị của người Hoa và người sắc tộc thiểu số trên Cao nguyên Trung phần ở phía Tây và tách rời nước VN ra hai miền để làm suy yếu sức mạnh của dân tộc VN. Kế hoạch “Diễn Biến Hòa Bình” sẽ giúp cho TQ thôn tính và Hán hóa VN với sự tiếp tay của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản VN hiện nay do Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang cầm đầu. Dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, VN đang đứng trước hiểm họa Bắc thuộc lần thứ hai.
Hậu quả về an ninh quốc gia của vấn đề TQ khai thác bô xít trên cao nguyên Trung phần nghiêm trọng hơn vấn đề ô nhiễm môi sinh và nhiễm độc nguồn nước của các con sông Là Ngà, Đồng Nai, Sông Bé và Sài gòn cung cấp nước tiêu dùng cho dân cư các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và thành phố Sài gòn. Hai hậu quả tai hại nầy sẽ quyết định sự sinh tồn của đất nước và dân tộc VN. Mặc dầu có sự chống đối của một số cựu tướng lãnh cộng sản như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và một số đông trí thức trong nước do giáo sư Nguyễn Huệ Chi đứng đầu, ĐCSVN vẫn nhứt quyết tiến hành dự án khai thác bauxite tại Cao nguyên Trung phần vì theo lời của viên chánh ủy cơ quan Tình báo Hoa Nam “tiền đã trao, cháo phải múc”.
III – Âm mưu sáp nhập nước VN vào TQ và Hán hóa dân tộc VN.
Tham vọng thôn tính VN của TQ đã được bộc lộ rõ rệt trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN. Tài liệu mật về cuộc họp nầy đã được công bố trên Internet và đăng tải trên nhựt báo Sài gòn Nhỏ số 226 ra ngày 03-07-2009. Tổng kết cuộc họp, viên Chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam đã nêu ra một số ý chánh, trích dẫn nguyên văn như sau :
– Hội nghị đã “bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai.”
– “Hợp kết TQ-VN có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên đường phát triển của tổ quốc.”
– “Trong tình thế hiện nay, VN không còn chọn lựa nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại.”
– “Việc VN trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Việt Nam từng là quận, huyện của TQ, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa.”
– “Sự lựa chọn (giữa TQ và Hoa kỳ) chỉ còn có một. Và ở đây, các đồng chí VN tỏ ra có lựa chọn đúng. Ngày nay, TQ vĩ đại phải dành lại vị trí đã có của mình. Có VN nhập vào, TQ đã vĩ đại lại càng thêm vĩ đại.”
– “Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công nầy là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Đức Anh), người rất biết nhìn xa trông rộng.”
– “Tăng cường viết và nói hằng ngày, hằng giờ, biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập”.
– “Một khi VN đã nhập vào TQ thì vùng Tây nguyên của VN là của chung nước ta.”
– “Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương đến địa phương để họ thấy rằng sau khi hợp nhất, mọi vị trí, quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chánh sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chánh chung của toàn quốc”.
– “Trong thời đại hiện nay…., sự sát nhập trở lại của Việt Nam và toàn bán đảo Đông Dương tiếp theo là điều tất yếu.”
– “Việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt Nam trong tổ quốc thống nhất. Tỉnh hay khu tự trị”.
Trong khi tổng kết hay hiểu thị, viên chánh ủy Tàu họ Lương còn tiết lộ hai bí mật liên quan đến HCM và Nông Đức Mạnh, nguyên văn như sau :
1) “ TQ và VN là một. Đó là chân lý đời đời. Đó cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là HCM) trong lễ tuyên thệ gia nhập ĐCSTQ. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: TQ và VN như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh. Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể”.
2) “Nông đồng chí (tức là đồng chí Nông Đức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gỡ các đại biểu trong Quốc Vụ Viện. Mà dân tộc Choang là gì ? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc TQ”.
Nông Đức Mạnh là con tư sinh của HCM đã có với người nữ cán bộ hộ lý tên Nông Thị Ngát bí danh Nông Thị Trưng trong thời gian ẩn trú trong hang Pác Bó ở Cao Bằng năm 1940. Nói tóm lại, nếu bản tổng kết cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 VN sẽ được TQ thực hiện nay mai với sự cộng tác của các Thái thú TQ trong ĐCSVN thì nước VN sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới, Dân tộc Việt sẽ bị Hán hóa và trở thành một dân tộc thiểu số trong đế quốc Cộng sản Trung Hoa giống như Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu và Hồi Cương dưới quyền thống trị của Hán tộc. Đồng bào người Việt ở trong nước và ngoài nước có lưu ý đến các vụ nhà cầm quyền TQ thẳng tay đàn áp và giết người dã man đã và đang xảy ra tại Tây Tạng và Tân Cương hay không ?
Đứng trước nguy cơ mất nước và mất dân tộc hiện nay, chỉ có Nhân dân VN mới có đủ sức mạnh cứu nước và dân tộc ra khỏi đại họa thống trị và đồng hóa của đế quốc cộng sản Hán tộc. Đã đến lúc toàn dân Việt ở trong và ngoài nước phải dũng cảm đứng dậy liên kết chiến đấu đập tan họa nội xâm và họa ngoại xâm, thành lập nền Đệ Tam Cộng Hòa VN trên nền tảng dân chủ pháp trị để bảo vệ sự sinh tồn của Tổ quốc và Dân tộc VN.
ghi lại từ: BaoToQuoc.com

Nguồn:  https://vinhdanhcovang.wordpress.com/2011/02/28/nguy-c%C6%A1-m%E1%BA%A5t-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-va-m%E1%BA%A5t-dan-t%E1%BB%99c-vi%E1%BB%87t-nam/

Thứ Ba, 10 tháng 10, 2017

Ai Giúp Cộng Sản Đánh Đổ Việt Nam Cộng Hòa

40 Năm Hải Ngoại Được Mất Những Gì? -
Ai Giúp Cộng Sản Đánh Đổ Việt Nam Cộng Hòa
Lê Xuân Nhuận
TÓM-LƯỢC SỬ-LIỆU BỨC-TỬ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA
(trích từ hồi-ký Biến-Loạn Miền Trung. Hình của Blogger Nam Giao)
LTS: Trang nhà SH chọn bài viết sau đây đáp ứng mục "40 Năm Hải Ngoại Được Mất Những Gì?" Mục đích của chúng tôi trong bài này chỉ là góp nhặt sự kiện để chứng minh rằng Giáo Hội La Mã luôn luôn len lỏi vào chính quyền để lèo lái vận mệnh của những quốc gia đối tượng theo chiều hướng nào có lợi cho họ bất chấp hậu quả tai hại cho ai khác. Bài đã được đăng năm trước với ý nghĩa khác. Ngoài ra, các từ ngữ biểu lộ quan niệm về chính trị của cá nhân tác giả, nhất là góc nhìn từ chức vụ khá lớn trong chính quyền miền Nam, không thể hiện quan điểm của trang nhà. (SH)
Lời Giới Thiệu - Từ lâu, tại hải ngoại, khi truy tầm nguyên nhân khiến Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ vào mùa Xuân năm 1975, nhiều “nhà nghiên cứu” thường cố ý giản lược hóa vào chỉ một nguyên nhân mà thôi.
Các vị cựu viên chức VNCH thì bảo vì “đồng minh tháo chạy”, các vị quân nhân vất súng trốn chạy trong 55 ngày thì bảo vì “Việt Cộng có vũ khi Nga sô Trung Cộng”, mấy ông tàn dư Cần Lao Công giáo, vốn khống chế lãnh vực truyền thông nhằm chống phá Phật giáo để trả thù cho ông Diệm, thì bảo vì “sư sải xuống đường”, v.v…
Một hiện tượng lịch sử cực kỳ phức tạp như sự sụp đổ của một chế độ, sự xóa bỏ một quốc gia không thể đến chỉ từ chỉ một nguyên nhân mà thôi, dù nguyên nhân đó có quan trọng đến mức nào.  Thế nhưng những thành phần hải ngoại kể trên thì vẫn duy trì nhận thức phi khoa học và thái độ phản lịch sử loại nầy là vì họ chỉ muốn che giấu mặc cảm thất trận.
Che giấu để vừa chạy tội cho mình, vừa đổ tội cho người khác.
Thật vậy:
■ Sao đồng minh (Mỹ) không “phản bội” ba nước tuyến đầu nóng bỏng là Tây Đức, Nam Hàn và Đài Loan mà lại phải “tháo chạy” chỉ ở Nam Việt Nam? Có phải vì chính bản thân cả hai nền Cộng hòa ở miền Nam vừa không xứng đáng để làm “đồng minh”, vừa độc tài tham nhũng, bất lực không hoàn thành nỗi “hợp đồng” chống Cộng với Mỹ không?
■ Sao khi còn bộ máy chiến tranh gồm nữa triệu quân Mỹ Cộng với 115,000 quân nhân của 8 nước đồng minh hiện diện thì 4 vùng chiến thuật vẫn còn an toàn, mà đến khi Đồng minh bắt đầu thực hiện “Việt Nam hóa” (nghĩa là, bấy giờ, mới trao trách nhiệm chiến tranh cho VNCH) thì hai năm sau, 1,5 triệu tay súng VNCH lại cởi áo tan hàng trong 55 ngày?
■ Sao trong khi vận mệnh miền Nam do hai ông Tổng thống Công Giáo với binh hùng tướng mạnh, độc quyền cai trị suốt 10 năm tại miền Nam thì không chịu trách nhiệm, mà lại đổ tội cho cuộc đấu tranh đòi dân sự hóa và dân chủ hóa của Phật tử tại miền Trung vốn đã tàn lụi từ năm 1967, tám năm trước ngày miền Nam thất thủ? Tại sao lại vu khống cho một nhóm mấy ông Sư “Phật giáo Ấn Quang” không phương tiện, không thế quốc tế mà làm “mất” miền Nam được?
Bài viết dưới đây, trích từ tác phẩm “Biến Loạn Miền Trung”, của tác giả Lê Xuân Nhuận, soi rọi một lực lượng chính trị - tôn giáo tại miền Nam Việt Nam đã từng khống chế sinh hoạt chính trị của VNCH trong suốt hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng hòa.
Lực lượng nầy là các chức sắc trong Giáo hội Công giáo Việt Nam, vốn được định hướng bởi lập trường chính trị của vị chủ chăn là Giáo hoàng Phaolồ VI tại Vatican, đã thao túng và gây hổn loạn chính trường miền Nam, lên đến cao điểm từ sau Hòa đàm Paris (1973). Họ tạo ra những cuộc khủng hoảng chính trị giữa lúc miền Nam cần ổn định nhất; tạo ra những vết dao “đâm sau lưng chiến sĩ” giữa lúc trên chiến trường, quân lực VNCH cần bàn tay yểm trợ nhất. Họ đã nối giáo cho "giặc", thậm chí có người còn là “giặc” (mà sau 1975 mới lộ diện ra cho chúng ta biết).
Vì thế, lực lượng nầy đúng là một trong những thành tố có trách nhiệm chính yếu trong biến cố sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975. / NG
… Trong lúc đó, ngay tại Thủ-Đô, trong cơn dầu sôi lửa bỏng, những tay điệp-viên chiến-lược của Cộng-Sản, từ lâu vẫn nấp dưới lớp áo tu-hành, như các Linh-Mục Thanh Lãng, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trần Du, Nguyễn Quang Lãm, Trần Ngọc Nhuận, v.v… (cùng với Trần Hữu Thanh trong “Phong Trào Chống Tham-Nhũng”), cũng sách-động quần-chúng xuống đường hằng ngày để gây thêm rối-loạn, hoang-mang trong quần-chúng, và tạo sức ép đối với Tổng-Thống Thiệu, làm nản thêm lòng người Mỹ, và tạo thêm lợi-thế về mặt chính-trị cho Bắc-Việt xâm-lăng. (trang 436)
Phong-Trào Chống Tham-Nhũng
Nói đến “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, tưởng cần nhắc lại một số hoạt-động nổi bật của giới Kitô-Giáo trong và ngoài Việt-Nam Cộng-Hòa.
Trong thời-gian diễn ra Hội-Nghị Paris từ 1968 đến 1973), Giáo-Hoàng Phaolô VI đã nhiều lần “nhân đạo” kêu gọi chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam
Tháng 12-1969, Giám-Mục Phạm Ngọc Chi, Phó Chủ-Tịch Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam, qua Hoa-Kỳ, đã tuyên-bố với báo-chí Mỹ: “Miền Nam [Việt-Nam] đồng-tình với chính-sách ‘Việt-Nam-Hóa Chiến-Tranh’ của Tổng-Thống Nixon.”
Tháng 9-1972, Đại-Hội lần 2 của tổ-chức “Kitô-Hữu Quốc-Tế” gồm hơn 20 nước họp tại Quebec (Canada), với đề-tài giải-phóng các dân-tộc Việt, Lào và Campuchia, đã “tố-cáo các cuộc xâm-lăng và ném bom vô-nhân-đạo của Mỹ, khẳng-định quyền tự-quyết, tự-do được sống hòa-bình của nhân-dân Việt-Nam.
Tức là việc Mỹ chuẩn-bị rút lui đã được Kitô-Giáo Việt-Nam, giáo-dân mấy chục nước khác, và nhất là Giáo-Hoàng Phaolô VI tán-đồng, không còn đánh nhau với Cộng-Sản nữa.
Ngày 20-9-1970, Linh-Mục Phan Khắc Từ, Tuyên-Úy Thanh Lao Công Sài-Gòn, qua Châu Âu, đã tuyên-bố tại Thành-Phố Firenze (Ý, nước có Tòa Thánh Vatican): “Kinh-nghiệm trước mắt cho chúng tôi xác tín rằng Giáo-Hội [Kitô] tại Việt-Nam hôm nay là một công-cụ hữu-hiệu của người Mỹ.”
Tháng 3-1971, Linh-Mục Nguyễn Viết Khai tuyên-bố: “Từ chính-quyền trung-ương xuống cho tận anh Trưởng Ấp, người Miền Nam không được phép giải-quyết vấn-đề của mình mà không có người nước ngoài xen vào.”
Tháng 11-1971, Linh-Mục Trương Bá Cần, Tuyên-Úy Thanh Lao Công toàn-quốc, tham-gia vụ đình-công tại Hãng Pin “Con Ó”, bị Cảnh-Sát bắt, đã viết: “Giáo Hội của tôi không biết chọn, nhất là chọn để chống lại những kẻ đang nắm quyền-hành trong xã-hội này… Giáo Hội của tôi cũng đã biết lựa chọn, nhưng không biết lựa chọn người nghèo khổ...”
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam đồng-ý với lời cáo-buộc và chiêu-bài của đối-phương.
Nhưng, sau Hiệp-Định Paris 27-1-1973 [chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam], thì Bắc-Việt gia-tăng nỗ-lực và quyết-tâm tiến-chiếm Miền Nam.
Ngày 19-9-1973, Tổng-Giám-Mục Sài-Gòn Nguyễn Văn Bình đọc diễn-văn khai-mạc “Năm Thánh”: “Chúng tôi hy vọng rằng những cuộc giết chóc và hận thù sẽ thực-sự chấm dứt trên mảnh đất này và đồng thời có được quan hệ hai chiều giữa Bắc và Nam, trong lúc đất nước tạm thời còn phân chia.”
Ngày 10-1-1974, sau cuộc Hội-Nghị toàn-thể hàng giáo-phẩm, các Giám-Mục Miền Nam đã công-bố một bản tuyên-ngôn “tha thiết kêu gọi hai chính phủ Bắc và Nam cùng đồng loạt, vì tình thương dân tộc, mà ngưng mọi hoạt động gây chiến và mọi chiến dịch bôi nhọ và thù ghét lẫn nhau.”
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam [Cộng-Hòa] không đề-cập đến việc Bắc-Việt vi-phạm Hiệp-Ước, mà chỉ muốn Miền Nam bắt tay làm hòa với Miền Bắc―đối-nghịch lập-trường “4 Không” của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Giáo-Hội Kitô-Giáo Việt-Nam ở Sài-Gòn ra “Thư Chung” phát-động cuộc tranh-đấu “chống tham nhũng”, chống Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu. Họ đòi Thiệu phải từ-chức, vận-động trưng-cầu dân-ý buộc Thiệu phải ra đi.
Lời kêu gọi đó đã dấy lên liền một “Phong-Trào” gọi là “Chống Tham-Nhũng”.
*    *
*
Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” do Linh-Mục Trần Hữu Thanh cầm đầu, các LM Đinh Bình ĐịnhNguyễn Học Hiệu cùng Bác-Sĩ Nguyễn Thị Thanh phụ-lực, qua một bản “Tuyên Ngôn” được sự bảo-trợ của 301 linh-mục khác, kể cả “Tuyên-Úy Công Giáo”, ra mắt tại Giáo-Xứ Tân Việt, Sài-Gòn, từ năm 1973, là một tập-hợp tương-đối lớn, có nhiều tín-đồ nhất, và tại nhiều địa-phương nhất―so với Nhóm các linh-mục cộng-sản nằm vùng và thân-Cộng tại Sài-Gòn.
“Phong-Trào” được sự tham-gia của các nhân-vật ngoài Kitô-Giáo, như Thượng-Nghị-Sĩ Hoàng Xuân Tửu và Dân-Biểu Nguyễn Văn Kim cùng nhiều DB thuộc Đảng Đại-Việt của Hà Thúc Ký và phía Dương Văn Minh; DB Đặng Văn Tiếp phía Nguyễn Cao Kỳ; DB Nguyễn Văn Cử chống Diệm và phía Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng; DB Vũ Công Minh phía Hòa-Hảo; DB Đỗ Sinh Tứ phía quân-đội; Bác-Sĩ Nguyễn Tuấn Anh; Luật-Sư Đặng Thị Tám; Nhân-Sĩ Nguyễn Trân; v.v…
Linh-Mục Thanh được báo-chí ngoại-quốc tặng cho danh-hiệu “Hiệp Sĩ của Người Nghèo”.
Sau đó, “Phong-Trào” công-bố các bản “Cáo Trạng” trong các cuộc biểu-tình, xuống đường rầm-rộ dữ-dội và liên-tục của các tín-đồ do các linh-mục lãnh-đạo có khi có hàng chục ngàn người tham-dự tại Huế, Đà-Nẵng, Quy-Nhơn, Nha-Trang, Cam-Ranh, Sài-Gòn, Mỹ-Tho, Cần-Thơ, v.v…
Cuối năm 1974, nhất là đầu năm 1975, những cuộc biểu-tình chống-chính-phủ của nhóm Linh-Mục Trần Hữu Thanh, có sự tham-gia của một số chính-khách, lãnh-tụ đảng-phái, cộng với việc Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam phổ-biến “Thư Chung”, kêu-gọi các Nhà Thờ toàn-quốc “chống tham nhũng”, thúc-đẩy giáo-dân xuống đường rầm-rộ, liên-tục… đã khiến cho các binh-sĩ ngoài tiền-tuyến chán-nản, mất tinh-thần, và ảnh-hưởng tai-hại đến sự sống-còn của đất-nước.
Bên cạnh “Phong-Trào” của LM Trần Hữu Thanh, còn có các Nhóm tay sai Cộng-Sản và thân-Cộng, là các LM Trương Bá Cần, Thanh Lãng, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Hồ Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh; Nhóm “Đối Diện” của 11 linh-mục phản-chiến Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Nguyễn Hữu Khai, v.v… trong mấy tháng cuối-cùng, đã lợi-dụng các buổi thuyết-giảng tại các Nhà Thờ để công-khai tuyên-truyền cho “người anh em bên kia”.
(Điển-hình là Phan Khắc Từ, từ năm 1969 đã đi dự đại-hội Thanh Lao Công Thế-Giới có xu-hướng thân-Cộng được Mạc-Tư-Khoa đỡ đầu, tại Liban. Ở Pháp thì đến hội-ý với Nguyễn Thị Bình, Trưởng Phái-Đoàn thương-thuyết của “Mặt Trận Giải Phóng”; tham-gia đình-công; biểu-tình đòi công-bằng cho giới lao-động; cùng sinh-viên và công-nhân đòi hòa-bình cho Việt-Nam. Sau này về nước thì dính vào Mặt Trận Nhân-Dân Tranh-Thủ Hòa-Bình, Phong Trào Học-Sinh Sinh-Viên Đòi Quyền Sống, Phong- Trào Chống Tăng Học-Phí, Chống Độc-Diễn; đóng vai “linh-mục hốt rác” gây sự chú ý của dư-luận; dùng Nhà-Thờ Vườn Xoài làm nơi chế-tạo bom xăng cho phong-trào đốt xe Mỹ trên đường phố; cùng công-nhân đình-công để gây trở-ngại cho các cuộc hành-quân; tiếp tay CS dựng lên Ủy-Ban Bảo-Vệ Quyền-Lợi Lao-Động Miền Nam; rồi lại giả-danh từ-thiện hoạt-động trong tổ-chức trá-hình của CS là Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói…)
Chủ-Tịch Thượng-Nghị-Viện Trần Văn Lắm lên án Tổng-Thống Thiệu “lạm quyền, tham nhũng”.
Một số lãnh-tụ đảng-phái và tôn-giáo, như Phan Bá Cầm (Hòa-Hảo), Trần Quang Vinh (Cao-Đài), Hà Thế Ruyệt (Duy-Dân), Thượng-Tọa Pháp-Tri và các Ông Ngô-Văn-Ký, Nguyễn Văn Lục, Xuân Tùng (Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng) thành-lập “Trận Tuyến Nhân Dân Cách Mạng”, kêu-gọi TT Nguyễn Văn Thiệu từ-chức và các phe liên-hệ “chấm dứt chiến-tranh, giải-quyết vấn-đề Miền Nam bằng phương-thức hòa-bình”.
Nhóm “Sóng Thần” thì tổ-chức “Ngày Ký-Giả đi Ăn Mày” rồi tiếp theo là “Ngày Công-Lý và Báo-Chí Thọ-Nạn” vào tháng 10-1974.
Các Tuyên-Úy Công-Giáo thì tổ-chức Đại-Hội tại Thủ-Đô. Họ rao giảng với giáo-dân quân-nhân rằng “cộng-sản cũng là con-cái của Chúa”, rằng “Công-Giáo và CS có thể sống chung hoà-bình”…
Bản “Cáo Trạng số 1” được ghi là ký tại Huế vào ngày 8-9-1974, khi được tung ra tại Nhà Thờ Tân-Sa-Châu, Sài-Gòn, có báo bảo là “làm lung-lay ghế Tổng-Thống Thiệu.”
Các báo Time, Newsweek; các đài BBC, VOA đều loan tin. Hậu-quả là Quốc-Hội Mỹ quá chán-ngán Chiến-Tranh Việt-Nam và mệt-mỏi vì đã yểm-trợ một đồng-minh có quá nhiều khuyết-điểm và thối-nát. Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam đã tiếp tay cho Hoa-Kỳ chấm dứt viện-trợ và phủi tay đối với Việt-Nam Cộng-Hòa.
Việc Mỹ cắt-giảm quân-viện đã làm tê-liệt hẳn khả-năng chiến-đấu của Quân-Lực VNCH, và từ đó làm suy-nhược tinh-thần kháng-cự, yếu-tố quan-trọng nhất trong bất-kỳ cuộc chiến-tranh nào.
Các chức sắc Công giáo đã làm loạn ở miền Nam, tạo bất ổn chính trị và khoảng trống an ninh, do đó đã trực tiếp đóng góp vào sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa vào mùa Xuân năm 1975.
Hình từ trái qua và trên xuống: Phaolồ Nguyễn Văn Bình, Hoàng Quỳnh, Giuse Trần Hữu Thanh,Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh, Phêrô Phan Khắc Từ, Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Thanh Lãng, Stêphanô Chân Tín,
* * *
Về phần Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu thì ông đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu tại chính-quốc Hoa-Kỳ, nhưng đã không được nghênh-đón long-trọng tại Thủ-Đô Hoa Thịnh Đốn. Năm 1968, Johnson (chủ-chiến, Dân-Chủ) chỉ tiếp Thiệu tại thành-phố đảo Honolunu, và chỉ để thảo-luận sách-lược hòa-đàm với Cộng-Sản. Năm 1969, Nixon (chủ-hòa, Cộng-Hòa) cũng chỉ tiếp Thiệu tại Đảo Midway, và cũng chỉ để thỏa-thuận về chính-sách Việt-Nam-Hóa và lịch-trình rút quân của Mỹ.
Thiệu lại đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu với Giáo-Hội Kitô La-Mã, là một trung-tâm quyền-lực chính-trị khác của thế-giới. Tuy nhiên, Giáo-Hoàng Paul VI, trong cuộc viếng-thăm lục-địa Á-Châu lần đầu-tiên, đã không ghé đến Việt-Nam là quốc-gia đang bị Cộng-Sản đe-dọa, nhất là Việt-Nam có tỷ-số giáo-dân đông thứ nhì tại lục-địa này. Thiệu đến Tòa Thánh, nhưng không được Giáo-Hoàng tiếp-kiến―dù Thiệu là một Tổng-Thống, một con chiên ―vì lập-trường của Vatican về vấn-đề Chiến-Tranh Việt-Nam là chỉ bênh-vực Hà-Nội, chỉ muốn chấm dứt chiến-tranh dù Miền Nam có rơi vào chế-độ Cộng-Sản sắt máu. Đã thế, Giáo-Hoàng còn chỉ-trích Thiệu, lại còn tiếp-kiến cặp Nguyễn Thị Bình và Xuân Thủy, trưởng phái-đoàn Cộng-Sản tại Hòa-Hội Paris.
Từ năm 1968, Giáo Hoàng Phaolồ Đệ-Lục đã lập ra “Ngày Quốc-Tế Hòa-Bình”, cổ-vũ Hòa-Bình bằng thương-thuyết tại Việt-Nam. Vatican xác-định lập-trường là chấm dứt chiến-tranh, quan-hệ tốt với Miền Bắc và Chính-Phủ Lâm-Thời Miền Nam. Chính Giáo-Hoàng trao-đổi công-điện trực-tiếp với Hồ Chí Minh.
Vào tháng 6-1971, đang lúc tên gián-điệp cộng-sản Vũ Ngọc Nhạ (kẻ được Linh-Mục Hoàng Quỳnh che-chở) bị Việt-Nam Cộng-Hòa cầm tù ở Côn-Đảo, mà Tòa Thánh và Giáo-Hoàng Phaolô VI lại tặng Bằng Khen và Huy Chương “Vì Hòa Bình” cho y.
Tức là Giáo-Hoàng Paul VI đã biến Vatican và nhiều Giáo-Hội địa-phương thành một guồng máy chính-trị, ngoại-giao, tình-báo khổng-lồ để giúp Hà-Nội tiến chiếm Miền Nam.
Lãnh đạo Đế quốc Công giáo La Mã 15 năm, từ 1963 đến 1978, Giáo hoàng Phaolồ VI (1897-1978) đã tác động lên chính sách đối ngoại của bốn Tổng thống Mỹ (Kennedy, Johnson, Nixon và Ford) sao cho quyền lợi của Vatican được bảo đảm, nhiều khi bất chấp những tác hại trên các quốc gia khác.
Thế mà Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng vẫn chưa thấy là Hoa-Kỳ sắp bỏ rơi Việt-Nam, không thay-đổi đường-lối chính-trị, vẫn cứ sử-dụng giải-pháp quân-sự, và không tin là Hà-Nội có đủ sức tấn-công đại-quy-mô.
Ông sửa-đổi Hiến-Pháp để làm Tổng-Thống thêm một nhiệm-kỳ năm năm nữa, khiến Đại-Tướng Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm phải ra mặt chống-đối, làm tình-hình chính-trị trong nước càng rối-ren thêm.
Ðầu tháng 2-1975, “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” phổ-biến tiếp bản “Cáo-Trạng số 2” tố-cáo TT Thiệu nhiều tội và hô-hào lật đổ bằng vũ-lực, khiến ông phải dùng biện-pháp mạnh, cho bắt giam nhiều chính-khách, trí-thức, lãnh-tụ đảng-phái, như các Thượng-Nghị-Sĩ Thái Lăng Nghiêm, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức; các ông Hà Minh Lý, Trần Thúc Linh, và một số ký-giả trong đó có những nhân-vật nổi tiếng chống-Cộng như Mặc Thu, Lê Trần, Vũ Bằng, Đinh Từ Thức, Trương Cam Vĩnh, Ngô Đình Vận…
Để đối-phó với “Phong-Trào”, Thiệu vận-dụng nhiều đồng-đạo ủng-hộ mình.
Có sáu linh-mục, trong đó có cả Linh-Mục Hoàng Quỳnh, sáu đêm liền, thay phiên nhau lên đài truyền-hình bênh-vực và ca-ngợi Thiệu; ngoài ra, còn có các Nghị-Quyết, Quyết-Định, Đề-Nghị, có chữ ký của 70 Dân-Biểu ủng-hộ Thiệu.
Có cả Giám-Mục Lê Văn Ấn, đặc-trách Tuyên-Úy, Giám-Mục Nguyễn Văn Thuận, Linh-Mục Cao Văn Luận, đứng ra cãi giùm cho Thiệu.
Tình-hình gay-cấn đó, do “Phong Trào Chống Tham-Nhũng” gây nên, đã tạo ra thế “nội công, ngoại kích”, quả là đã phá rối hậu-phương, làm lung-lạc tinh-thần binh-sĩ nơi tiền-tuyến, làm lợi cho Cộng-Sản, trong khi đó thì Bắc-Việt xua quân tấn-công Miền Nam…
Kết-Luận
Có người cho rằng “Phật-Tử Tranh-Đấu”, tức [số người hậu-thuẫn cho] Phái Ấn-Quang của Phật-Giáo Việt-Nam (về sau là Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất) đã liên-tục chống-đối Chính-Quyền Việt-Nam Cộng-Hòa, khiến cho Nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa sụp-đổ, rồi Nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa cũng suy-tàn theo.
Nhưng, theo như tôi đã lược-dẫn trên, thì:
“Phật-Tử Tranh-Đấu” đã chấm dứt hoạt-động từ ngày thành-lập Nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa, cuối năm 1967. Mãi đến lâu sau Hiệp-Định Paris 1973 mới tái-xuất-hiện trong “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc”.
Cả phía “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” bên giới Phật-Tử, lẫn phía “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” bên giới Giáo-Dân, đều tranh-đấu chống Thiệu để có được một Tổng-Thống trong-sạch.
Tuy nhiên, các điểm khác nhau là:
● “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” chỉ họp tại Chùa, sinh-hoạt ôn-hòa, bất-bạo-động, không đòi lật Thiệu, chỉ chờ đến ngày bầu-cử Tổng-Thống vào cuối năm 1975 sẽ sử-dụng lá phiếu hợp-Hiến và hợp-Pháp của mình. Trong khi đó thì “Phong-Trào Chống Tham Nhũng” rầm-rộ xuống đường, biểu-tình tuần-hành, đòi Thiệu từ-chức, và hô-hào dùng bạo-lực để lật đổ Thiệu tức-thời.
● “Phật-Tử Tranh-Đấu” mít-tinh ôn-hòa, không xáo-trộn trật-tự công-cộng, tiến-hành trong vòng luật-pháp cho phép, và theo truyền-thống sinh-hoạt dân-chủ tại các nước Tự-Do. Trong khi đó  thì “Giáo Dân Tranh Đấu” triệt-hạ uy-tín và hiệu-năng quyền-lực của một Tổng-Tư-Lệnh Quân-Đội đang đứng trước họng súng của quân thù, lại còn đòi dùng vũ-lực để lật đổ một Tổng-Thống dân-cử, tức là xóa bỏ Hiến-Pháp, tức là trở thành nội-phản/nội-thù của Quốc/Dân.
● Phía “Giáo-Dân Tranh Đấu” thì đòi trừng-phạt một cá-nhân tham-nhũng―mà tổng-số vật-sản bị lạm-chiếm so ra không đáng bao lăm đối với tài-nguyên quốc-gia, lại vẫn còn đó, rồi sẽ lấy lại, chưa mất đi đâu―trong lúc Phía “Phật-Tử Tranh Đấu” thì đặt “nợ nước trước thù nhà”, mọi người chung sức đồng lòng chống giặc trước đã, trước hết là để trì níu lại cái Cơ-Đồ Dân-Chủ đang trong cơ nguy bị vĩnh-viễn cướp mất đi.
Phần tôi, tôi đối-lập với chính-sách quân-phiệt của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu―cũng như với chế-độ độc-tôn của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm trước kia―nhưng tôi đã chọn trước tiên là làm tròn bổn-phận của một công-dân đối với Chính-Thể Cộng-Hòa.
Riêng về “Phong Trào Chống Tham Nhũng”, có ít nhất là ba vấn-đề quan-trọng hàng đầu mà phía “Giáo Dân Tranh Đấu” (“trả thù cho [cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm]”, theo lời trối-trăn của Diệm “Tôi chết thì trả thù cho tôi”) cố ý không đề-cập đến:
I. Việc hạ bệ Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu:
a/ Họ muốn đảo-chánh quân-sự, nhưng không thuyết-phục được ai, nên không thành-công.
b/ Họ quyết hạ Thiệu, nhưng không tìm ra được một “ứng-viên” nào của “phe ta” xứng-đáng để lên thay Thiệu. Chỉ nhắm trước mắt mà không nhìn thấy xa hơn―tình-hình hậu-Thiệu―thì tức chỉ là “không lấy thì khuấy cho hôi” mà thôi.
II. Lý-do hạ Thiệu:
1) Thiệu là thủ-phạm, đã tấn-công Dinh Gia-Long, đưa đến cái chết của Diệm.
2) Nhưng, cái tội lớn nhất của Thiệu, là đã có Đảng Dân-Chủ, lan trong quần-chúng, len trong chính-quyền, luồn trong quân-ngũ, mà lại chỉ lo gia-tăng phe-cánh cho cá-nhân mình, chứ không chịu dùng nó [như một Đảng Cần-Lao tái-sinh] để “mở-mang nước Chúa”.
III. Mục-đích đích-thực của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”:
Danh-xưng thực-thụ của Nhóm này (cái đuôi mà họ cố giấu) là: “Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hòa bình”. Toàn câu đã được ghi rõ phía dưới “Cáo Trạng số 1”, làm tại Huế, ngày 8 tháng 9 năm 1974.
Trong các hoạt-động sôi-động trước mọi người, họ cố tình nhấn mạnh mấy chữ “chống tham nhũng” mà lơ đi cái đuôi là mấy chữ “kiến tạo hòa bình”.
Thử hỏi: trong tình-thế dầu sôi lửa bỏng lúc bấy giờ, có ai còn có cách nào “kiến-tạo hòa-bình” khác hơn là tuân giữ “đức vâng lời”, tuân lệnh Giáo-Hoàng PhaoLô VI và ngoại-bang Vatican, bỏ súng, bắt tay với cộng-sản, rước địch vào nhà?
*    *
*
Sau Hiệp-Định Paris năm 1971, chậm nhất là kể từ sau “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” đã là chuyện cũ, đã lùi vào dĩ-vãng rồi.
Các ván cờ đó đã được các bên tham-dự xóa hết rồi.
Hệ-quả có chăng là sau vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” năm 1966 thì Nhóm “Phật-Tử Tranh-Đấu” đã không còn “tranh-đấu” nữa; và sau vụ VC “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” năm 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 thì tinh-thần chống-Cộng của Dân và Quân Miền Nam đã lên cao hơn.
Cho nên Biến-Động Miền Trung là chuyện đã xưa rồi.
Mới nhất, gian-xảo nhất, và nham-hiểm nhất, là chuyện Biến-Loạn Miền Trung.
Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ còn có một ván cờ mới―chung-kết và chung-quyết:
Đối-thủ chính bên phía đối-lập với Chính-Quyền là các Nhóm “Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng, “lãnh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng tình-hình. Ở trên đầu và sau lưng họ là Tòa Thánh La-Mã với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia chư-hầu của Vương-Quốc Vatican.
(Nhưng quốc-gia Việt-Nam của Kitô-Giáo đâu được làm một chư-hầu. Chư-hầu là một nước nhỏ/yếu, tùng-phục một nước lớn/mạnh, để được tồn-tại, nghĩa là vẫn còn là một nước. Đằng này, chỉ một Dòng Chúa Cứu-Thế là một giáo-đoàn/chi-phái của Giáo-Hội Kitô, mà đã tự xem là một Quốc-Gia, và thu-tóm cả nước Việt-Nam làm thành một Tỉnh nội-thuộc của Nước họ rồi:
Nguồn:<http://www.cuuthe.com/dong/dongmain.html> Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.)
Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của nội-thù đã chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho ngoại-địch hạ gục đối-thủ trong nước cờ kết-thúc giữa Bắc-Việt Xâm-Lược với Việt-Nam Cộng-Hòa.
Vận Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều dù ít đều có một phần trách-nhiệm (thất-phu hữu-trách).
Chỉ có những kẻ đầy thiên-kiến, mù lương-tri, có ác-ý, và không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ hết lỗi cho một riêng ai.
Ngày nay, mang thân-phận thất-quốc, lưu-vong, chỉ trừ những kẻ đã ở hẳn bên phía cộng-sản Việt-Nam rồi, còn thì không có “Phật-Tử Tranh-Đấu” nào mà không luyến-tiếc Việt-Nam Cộng-Hòa.
Trong lúc đó, có một số “Giáo-Dân Tranh-Đấu”, đến tận ngày hôm nay―đã gần 40 năm qua―mà vẫn còn tự-hào, hãnh-diện về những âm-mưu, toan-tính, nỗ-lực, và hành-động của cái-gọi-là “Phong-Trào Chống Tham Nhũng”, vì mình không những chỉ chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu mà đã đạp đổ cả cơ-chế Hiến-Pháp―với Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong Chính-Quyền―và các Khối, các Nhóm trong Dân-Nhân―với các Chính-Đảng và các Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể Việt-Nam Cộng-Hòa―nói chung là Việt-Nam Cộng-Hòa.
Tóm lại, nếu vì một lý-do nào đó mà phải gán riêng cho đích-danh một số người nào đó là “thủ-phạm chính” quấy-rối an-ninh trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn tình-hình chính-trị quốc-gia nhất, gây cho tinh-thần dân-chúng hoang-mang nhất, khiến cho ý-chí chống-Cộng của chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm cuối-cùng của Chiến-Tranh Việt-Nam―tức là đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam Cộng-Hòa khi đang hấp-hối―thì số người đó rõ-ràng, không thể chối-cãi được, phải là thành-phần cực-đoan trong Nhóm “Giáo-Dân Tranh-Đấu”―các linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, cùng với Ban Lãnh-Đạo của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”―dù là một bộ-phận nhỏ―của giới tín-đồ Kitô-Giáo Miền Nam Việt-Nam. (các trang 472-84)

Lê Xuân Nhuận

Nguồn: http://sachhiem.net/LICHSU/LEXNHUAN/LeXNhuan13.php