Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016

Ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản Trịnh Công Sơn & Khánh Ly

Ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản Trịnh Công Sơn & Khánh Ly

Mấy hôm nay thấy quãng cáo trên TV, một chương trình ca nhạc thật “hoành tráng” với những ca khúc của Phạm Duy & Trịnh công Sơn và những giọng ca tên tuổi trong nước cũng như hãi ngoại, vào cuối tháng nầy tại San José và nam Cali. Lãng Tử tôi thấy buồn cười, tại sao không là tháng nào khác mà là tháng 4?

Chẳng qua là có một số người vẫn còn mê muội ca tụng TCS xem hắn như một thiên tài, một hiện tượng của nền âm nhạc VN…mỗi năm cứ đến đầu tháng 4 thì lại làm giổ, tổ chức tưởng niệm, vinh danh… cho tên cs nằm vùng họ Trịnh nầy.
Năm nay nhằm để tránh những chống đối nếu chỉ có tên TCS đơn độc, những tên con buôn âm nhạc ma mị kéo thêm tên lão già mất nết P.Duy vào đứng chung với TCS (thật ra cái tên P.Duy cũng chẳng thơm tho gì).

Họ ra rã nói là chúng tôi vì nghệ thuật chứ không vì tiền, chi phí tổ chức rất tốn kém, nếu vé bán không được 2/3 coi như lỗ nặng…Ha!Ha!Ha!!! biết lỗ mà vẫn bỏ ra bao công sức để làm, vì nghệ thuật hay vì muốn tiếp tục ru ngủ cộng đồng NVHN để họ bớt chống đối nhà nước csVN, như là bọn csVN đã từng dùng TCS (một thành viên trong cái gọi là Tổ chức trí vận của Thành Ủy Việt cộng Huế) để ru ngủ gây suy sụp tinh thần yêu nước của thanh niên, sinh viên, học sinh miền nam trước 1975, tạo nên phong trào chống chiến tranh (một chiều) khắp nơi để gây hổn loạn, bất mãn trong miền nam, đòi người Mỹ rút quân…tiếp tay cho bọn cs chiếm trọn miền nam Việt Nam.

Miền nam Việt Nam không mất trên chiến trường mà mất trên bàn hội nghị Ba lê, mất ngay tại thủ đô Washington DC của Mỹ, hậu quả của những cuộc biểu tình phản chiến (một chiều) khắp nơi do bọn cs quốc tế giựt dây. Không ai chịu hiểu rằng người dân miền nam chúng tôi cũng đã chịu quá nhiều đau thương từ cuộc chiến tranh triền miên đó, chúng tôi cũng mong ước có hòa bình trên đất nước mình, nhưng không thể đứng yên để kẻ cướp vào nhà cướp đi hết mọi thứ, trói tay chủ nhà và gọi đó là giãi pháp hòa bình, chúng tôi phải tự vệ mà thôi.

Thế mà bây giờ vẫn còn một số người chưa tỉnh thức, vẫn cho rằng Trịnh Công Sơn là một “thần thoại”, một “di sãn văn hóa” cần phải bảo tồn (?). Nếu là những thành phần trẻ sinh sau 1975 hay thành phần ở lại sống dưới chế độ csVN nhiều năm thì còn có thể châm chế được, tuy nhiên cũng còn một số người thuộc thành phần trí thức trước 75 mà vẫn còn u mê không nhận thức được những ngôn từ được dùng trong các bài nhạc của người ns họ Trịnh nầy chỉ là vay mượn trong các tác phẩm triết học của các triết gia hiện sinh thời bấy giờ như Jean Paul Sartre, Albert Camus…(xem bài viết của tác giả Kim Phạm người bạn học của TCS tại trường Jean-Jacques Rousseau dưới đây).

Mỗi năm vào đầu tháng 4, cùng với trong nước họ dựng cái xác TCS lên để sơn phết lại cho xứng với bản chất “siêu phàm” của một tên cs trá hình, đã từng là cánh tay đắc lực của cs để làm sụp đỗ miền nam VN. Hãy nghe những lời kêu gọi của TCS trong ngày “giải phóng” 30-4-75 dưới đây.
Cũng đừng quên cs Khánh Ly như là “cái bóng” của TCS (đó là do chính KL nói), bà ta đã tiếp tay TCS để phổ biến những ca khúc “phản chiến một chiều” của TCS như: Ca Khúc Da Vàng, Ca Khúc TCS, Kinh Việt Nam…gần đây bà ta còn hát trong một buổi tiếp tân tại nam Cali. của tên phó LS csVN  Trần như  Sơn (xem video).
Lãng Tử 75


Tài liệu âm thanh kèm theo đây là tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh vào trưa ngày 30.4.1975.
Tiếp theo là lời của ông Nguyễn Hữu Thái, cựu lãnh đạo sinh viên miền Nam,
Lời chấp nhận đầu hàng của một sĩ quan Quân đội Nhân dân.
Rồi ông Nguyễn Hữu Thái giới thiệu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trước khi nhạc sĩ phát biểu.

Nguyên văn phát biểu của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:

Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em văn nghệ sĩ ở miền nam Việt Nam này. Hôm nay là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta, đó là ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này.

Cũng như những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả những kết quả đó.

Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền nam Việt Nam hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam.
Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.
Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước chúng ta.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ đến đây với thái độ hoà giải tốt đẹp.
Các bạn không có lí do gì sợ hãi để phải ra đi cả.
Đây là cơ hội đẹp đẽ và duy nhất để đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước từ mấy chục năm nay.
Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu cũng như những người chưa quen với tôi xin ở lại và chúng ta kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng Lâm thời để góp tiếng nói xây dựng đất miền Nam Việt Nam này

(Không rõ) Gặp tất cả anh em ở trong Ủy ban Cách mạng Lâm thời.
Hiện tại chúng tôi đang ở tại đài phát thanh Sài Gòn và tôi mong các bạn chuẩn bị sãn sàng để đến đây góp tiếng nói, lên tiếng để tất cả mọi người đều yên tâm.
Và tôi xin tất cả các anh em sinh viên học sinh của miền nam Việt Nam này hãy yên ổn kết hợp lại với nhau, khóm phường đều kết hợp chặt chẽ chuẩn bị để đón chờ Ủy ban Cách mạng Lâm thời đến.
Xin chấm dứt. Và tôi xin hát một bài.
Hiện tại ở trên đài thì không có đàn ghi-ta.
Tôi xin hát lại cái bài “Nối vòng tay lớn”.
Hôm nay thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết.

Trịnh Công Sơn: Phản Chiến Hay Việt Cộng Nằm Vùng
Trước Ngày 30-4-1975?
Mường Giang

Tháng 5-1970 tại Ðại Học Kent State ở tiểu bang Ohio (Hoa Kỳ), đã trở thành trung tâm của một cuộc bạo loạn đẩm máu chưa từng có, giữa đám biểu tình phản chiến chống chiến tranh VN và lực lượng vệ binh quốc gia. Kết quả có nhiều sinh viên trúng đạn chết và bị thương. Thảm kịch trên đã tạo nên một sự chia rẽ trầm trọng trong chính quyền Mỹ và người dân Hoa Kỳ. Hậu quả sau đó khiến Tổng Thống Nixon không còn con đường nào lựa chọn, nên đã ra lệnh triệt thoái quân đội Mỹ ra khỏi VN, bỏ mặc Miền Nam cho Cộng Sản Bắc Việt cưởng chiếm vào trưa ngày 30-4-1975 bằng súng đạn mua chịu của Nga Tàu.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, tại Mạc tư Khoa, Nguyễn Hửu Thọ đã bày tỏ lòng tri ân xâu xa tới “ các phóng viên và báo chí phương tây “, trong số này quan trong nhất vẫn là Hoa Kỳ, vì đã mang lại chiến thắng “ từ trên trời rớt xuống “ cho VC một cách bất ngờ, mà ngay các chóp bu của đảng, cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn không biết đâu mà mò.
Chính bọn trí thức bất lương này, đã lợi dụng thiên chức “ báo chí “ để bẻ cong ngòi bút, đổi trắng thay đen, loan tin bừa bãi một chiều, ca ngợi Cộng Sản xâm lăng bắn giết đồng bào vô tội. Tất cả cũng chỉ với mục đích làm mất uy tín của chính phủ Miền Nam trên diễn đàn quốc tế và xuyên tạc cuộc chiến đấu chính nghĩa của QLVNCH.

Nhờ vậy, Việt Cộng dù đã bại trận khắp chiến trường Miền Nam, từ Mậu Thân 1968 tới trận chiến long trời lở đất tại Quảng Trị, An Lộc, Kon Tum năm 1972 .. nhưng cuối cùng lại “ đại thắng mùa xuân “ ngay trên bàn giấy thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, làm cho siêu cường số 1 của thế giới, phải cúi mặt nhục nhã từ ấy đến nay vẫn chưa hết nhục vì bị chính đồng bào mình đâm sau lưng mình một cách tận tuyệt.
Ðó là chuyện của nước Mỹ. Tại VN, hiệp định Genève chia đôi đất nước được cái gọi là Liên Hiệp Quốc, áp đặt vào dân tộc nhược tiểu VN từ tháng 7-1954, trong khi chính người dân cả nước đã hy sinh máu xương suốt chín năm kháng chiến, để giành lại đất nước mình trong tay thực dân Pháp. Giữa lúc chính phủ miền Nam dồn hết nhân vật lực để kiến tạo lại quê hương bị tàn phá sau 100 năm bị giặc Tây đô hộ, hầu mang ấm no hạnh phúc cho muôn dân, thì trên đất Bắc, không khí chiến tranh gần như nguyên vẹn. Bức tranh vân cẩu đã được nhà thơ Phùng Quán vào tháng 10-1956 , vẽ lên khi ông chứng kiến được những sự thật não lòng.
“ Ta đã đi qua những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt
Tôi đã gặp những bà mẹ già quấn giẽ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo giây thép gai tay máu chảy ròng
Bới đồn giặc trồng ngô tỉa lúa
Tôi đã gặp những cô gái trồng bông
Hai mươi ? ba mươi ? Tôi không nhìn ra nữa
Mồ hôi sôi trên lưng, mặt trời như mõ hàn xì lửa
Ðốt đôi vai cháy hồng .. “.

Ðiều này cũng dễ hiểu, vì Hà Nội lúc nào cũng phải trường kỳ chiến đấu trong thân phận của một mũi xung kích, do cọng đảng quốc tế giao phó. Bao nhiêu khuôn vàng thước ngọc của Mao Trạch Ðông ban truyền từ năm 1942 tại Diên An, đều đước các đảng viên cao cấp mang về VN xào nấu lại thành cái lý thuyết chỉ đạo văn nghệ tập thể vô sản chuyên chính. Sau cùng để cho hợp với hoàn cảnh từng giai đoạn chiến tranh, những lập thuyết đề cương văn nghệ mới lại tiếp tục ra đời như thi đua ái quốc và chủ nghĩa anh hùng, qua cái bình phong hội văn nghệ giải phóng miền Nam, giải văn nghệ Nguyễn đình Chiểu..
Ðọc văn biết người nhưng trong dòng văn học miền Bắc, thì chỉ cần nhìn tựa sách cũng đủ biết hết nội dung.Tất cả các văn thi sĩ đã thành danh thời tiền chiến như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn công Hoan, Thanh Tịnh, Cù huy Cận, Thế Lữ, Xuân Diệu.. cho tới những người mới nổi như Nguyễn Ngọc, Lê Lựu, Nguyễn Sáng.. kể luôn nhóm cọng sản đang nằm vùng tại miền Nam như Giang Nam, Ðoàn Giỏi, Nguyễn văn Bổng.(trong bưng) , Thái Ngọc San, Ðông Trình, Trần Duy Phiên, Trần Hồng Quang, Trường Sơn, Tần Hoài Dạ Vũ, Huỳnh Ngọc Sơn, Trần Hữu Lục, Tiêu Dao Bảo Cự, Ngụy Ngữ, Võ Quê. Bửu Chỉ, Ngô Kha..(trong mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung).. đều viết theo đơn đặt hàng, đằng đằng sát khí, cổ võ hờn căm, phân chia bạn thù , chống Mỹ, chống ngụy, để cứu nước.
Vì là nền văn học nghệ thuật chuyên chính, nên mọi người viết hay sáng tạo gần giống nhau, cách mạng đánh đâu thắng đó, còn Mỹ-Ngụy thì thua chạy bò càng, máy bay bị bắn rớt liên tục và người chết như rạ. Ðảng ta thì nhân ái vì dân vì nước, trái lại Mỹ Ngụy thì hung ác bao tàn hiếu sát.. Tóm lại người làm văn nghệ mìền Bắc hay bọn “ văn nghệ sỷ nằm vùng miền Nam “ chỉ như một cái máy hay con vẹt của đảng, không biết đau lòng trước mọi hoàn cảnh, không có cảm xúc nhưng phải biết đề cao để làm sáng chói tính đảng, tính giai cấp, tính siêu việt của xã nghĩa. Không có cái ta hiện hữu ở đây mà chỉ có tập thể, chỉ có niềm vui chung do đảng quyết định, còn mọi thứ khác phải cất giữ trong đáy lòng, hó hé , kêu than sẽ bị mút mùa cải tạo hay đi mò tôm kể luôn gia đình cũng bị liên lụy. Phải đổ hết mọi tội lỗi ‘ gây chiến tranh ‘ cho Mỹ-Ngụy, để đảng có chính nghĩa dân tộc. Ðó mới chính sự thành công của người ‘ Sáng Tạo ‘ dù viết văn, làm thơ hay kịch nhạc..
Bao nhiêu năm trời phải bịa đặt, lừa dối, từ trẻ nít cho tới kẻ bạc đầu để có tem phiếu mà sống. Rồi nhà văn, thi sĩ còn phải biết hèn cúi, nịnh nọt để yên thân, khỏi bị hạ tầng công tác hay tống vào Nam làm bia đỡ đạn. Một vài con chim lạc đàn, vô tình hay cố ý bay lệch bầu trời , sẽ bị trừng trị không thương tiếc, những Nguyễn Kiên Giang ( nằm vùng), Hoàng minh Chính, Nguyễn Duy, Phạm tiến Duật, kể cả Việt Phương, thư ký của Phạm văn Ðồng, làm thơ, viết văn lệch hướng đảng đều bị nghiêm phạt. Dòng thơ phản kháng của Nguyễn chí Thiện hay Bút Tre chẳng qua cũng chỉ là những con đom đóm , cho một chút ánh sáng le lói, rồi lại vụt tắt trong bóng đêm trùng trùng :
“..anh đi công tác Pơ Lây
Cu dài giằngđặc, biết ngày nào ra..
Anh đi công tác Buôn Me
Thuột xong một cái lại về với Em..
Chị em du kích tài thay
Bắn tầu bay Mỹ rơi ngay cửa mình.”.
( Bút Tre)
Ở miền Bắc, thiên đường xã hội chủ nghĩa là thế đó, trong khi tại miền Nam, dù bị chiến tranh, mọi người vẫn có hoàn cảnh tự do tối thiểu để sáng tạo theo ý mình, cũng như không hề có dòng văn nghệ một chiều hay chuyên chính. Bởi vậy mới có trăm hoa đua nở, từ văn chương chống cộng lúc đầu, sau đó thành chống chiến tranh dù chiến tranh được cọng sản mang từ miền Bắc vào. Cũng do chiến tranh quá dài và dai dẳng, nên ai cũng buồn phiền và chán ghét chiến tranh. Rốt cục, chính phủ và người lính miền Nam phải gồng mình ôm đồm tất cả, trong lúc hậu phương buông thả hững hờ. Mọi người gần như bế tắc và chỉ còn biết bơi lội quanh quẩn trong kiếp sống hiện sinh.
Giữa lúc thời cuộc quay cuồng theo tiếng bom đạn , thì một bọn ký sinh đứng ngoài lề cuộc sống khổ đau của miền Nam, lợi dụng tự do, nhân danh tôn giáo , khơi dậy trong lòng phiền muộn của những người trong cuộc bằng trò hề phản chiến, chống chính phủ, chấp tay cầu nguyện cho bồ câu trắng hiện hình trên bầu trời miền Nam, trong lúc xe tăng, đại pháo và cả triệu bộ đội miền Bắc đang hiện diện.

Góp phần hoàn thành “ cảnh địa ngục trần gian “ của VN ngày nay dưới cùm gông cộng sản, là công đức của những kẻ “ tu hành có lộng “ và công sức của đám phản tặc học đường, bàn giấy “ no cơm ấm cật, no lòng rửng mỡ “ trên đường phố, với bom xăng trong chiến dịch “ đốt xe Mỹ”  và dòng nhạc tuyên truyền một chiều của Trịnh Công Sơn, mới nghe tưởng là “phản chiến”. Nhưng thật sự đó là những vết dao trí mạng của kẻ thù , nhắm vào người lính trận Miền Nam, dù họ ngày đêm bán mạng, bán máu, bán cả tương lai đời mình, để tạo sự an toàn cho thiên hạ tại hậu phương nhởn nhơ đờn ca nhảy nhót, đổi vợ thay chồng..như thay áo..
Sau ngày 30-4-1975, chân tướng của họ Trịnh được phơi bày qua bia miệng. Từ đó chúng ta mới biết được nhiệm vụ của con tắc kè nửa xanh nửa đỏ, được đảng cho thay da đổi lốt tuỳ theo giai đoạn, từ vai trò “ phản chiến công khai giữa đám đông “ trước Tết Mậu Thân (1968) ,tới “ nằm vùng trong bóng tối “đến khi tàn cuộc chiến..
1 - CHÂN TƯỚNG CỦA HỌ TRỊNH QUA BIA MIỆNG LƯU TRUYỀN:
Trước năm 1960, trong cảnh thanh bình khắp chốn tại miền Nam, chiến tranh thật sự tạm vắng bóng trên chiến trường, nhưng trong văn chương chữ nghĩa miền Nam, nó vẫn hiện hữu bên cạnh các tác phẩm khác viết về tình yêu, tuổi trẻ, phong tục và triết lý. Sau đó nhóm “ Sáng Tạo”  ra đời, bắt đầu một cuộc phá phách, gây xáo trộn trong thị trường chữ nghĩa một thời, dù thực tế họ chỉ là những kẻ đi tiếp con đường vạch sẵn của phong trào thơ mới, của tiểu thuyết hiện sinh, của nhóm đệ tứ cọng sản quốc tế đả tàn lụn tại VN vì sự thanh trừng nội bộ.
Những thơ văn sáng tác của Thanh tâm Tuyền, Quách Thoại, Tô thùy Yên, Duy Thanh, .. mang cái ám ảnh của chiến tranh, dù trong tưởng tượng lúc đó, để có cái cớ sống hiện sinh, cá nhân, triết lý siêu hình.. như kiểu cách của các triết gia tây phương Albert Camus, Alain Robbegrillet, Nathalie Sarraute.. nghĩa là phải sống cho cái bản ngã riêng mình vì hoài nghi hết mọi người chung quanh.
Nhưng trong cái không khí sống chết mặc bây, may thay đã thấy xuất hiện Nhã Ca (đêm nghe tiếng đại bác, người tình ngoài mặt trận, giãi khăn sô cho Huế.), Ý Uyên (bão khô, tượng đá sườn non, ngựa tía.), Dương nghiễm Mậu ( địa ngục có thật, khi người chết có mặt..) Trang Châu (y sĩ tuyền tuyến), Văn Quang, Ðổ Tấn, Võ hữu Hanh, Phan nhật Nam, Vũ ngự Chiêu.. viết về tình yêu, tình đồng đội và thảm trạng chiến tranh, bằng lương tâm của người cầm bút trong cuộc, những người lính sống thật với lửa đạn chiến trường.
Cuộc binh biến 1-11-1963, tiếp tới ba năm xáo trộn (1964-1967) khiến xã hội miền Nam bắt đầu quây cuồng trong cơn lốc chính trị, do lòng tham lãnh tụ của bọn “ loạn tướng kiêu tăng”  tạo cơ hội cho cọng sản miền Bắc trỗi dậy và hiện diện trùng trùng khắp ngõ ngách VNCH. Những trận đánh đẫm máu, những cái chết của đồng đội, sự thương vong đổ vở của đồng bào trong vùng chiến nạn, cộng với cảnh lố lăng, tham nhũng, trò lộng hành của đám lãnh tụ sa lông cuồng ngông ở đô thành.. và cuộc sống sa đọa theo đồng đô la xanh đỏ, của gái điếm, me Mẽo, Ba Tàu, bọn quan tướng có thế lực.. làm cho tuổi trẻ và giới trí thức trở thành mất lòng tin, hoài nghi tất cả, nên lao đầu vào cuộc sống hiện sinh không bến bờ.
Tường đổ thì bìm leo, một số cọng sản nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lưu Nghi, Vân Trang, Minh Quân, Nguyễn ngọc Lan, Nhất Hạnh, Thế Nguyên .. trên các tờ Hành Trình, Ðối Diện, Tin văn, Ðất nước.. liên tục tố cáo chính quyền tham nhũng, bất công, đòi liên hiệp với cọng sản. Trong khi đó, Văn và Bách Khoa cũng đăng những bài thơ phản chiến của lớp người mới nổi sau năm 1970 như Ngụy Ngữ, Thái Ngọc San, Tần Hoài Dạ Vũ, Ngô Kha.. bôi bẩn danh dự của QLVNCH một cách không nhân nhượng.
Còn gì bi thảm hơn cho những người lính đang cầm súng chiến đấu, để bảo vệ quê hương, lại bị những tên phản chiến như Ngụy Ngữ mạt sát “chúng tôi là một thứ quân đội viễn chinh.. và quê hương bát ngát này không cần đến bọn viễn chinh.”.
Văn chương sắt máu, phản bội kiểu này, nếu sống dưới chế độ cọng sản, liệu y có còn mạng để sống, chứ đừng mơ tưởng để viết. Ðó là mặt thật của hai cảnh đời trái ngược. Người miền Nam như vậy, tại sao chúng ta không mất nước và thua trận ?
Trong cảnh tranh tối tranh sáng của ba năm xáo trộn (1964-1966), miền Nam gần như vô chính phủ vì thay đổi liên tục, bỏ ngõ phường phố cho sinh viên học sinh Sài Gòn, Huế.. tha hồ xuống đường biểu tình hoan hô đã đảo. Trong một cuộc biểu tình quanh khu vực Chợ Bến Thành (Sài Gòn) để đả đão Nguyễn Khánh và đòi xé bỏ cái gọi là ‘ Hiến Chương Vũng Tàu’, có một nữ sinh trường Bồ Ðề tên Quách Thị Trang, đã bị lạc đạn chết giữa đêm tối.
Một Quán Cà Phê “ Sinh Viên “ mang tên Văn cũng được ra đời trên khu đất trống mà Pháp dự định xây Bót Catina, giữa các đường Lê Thánh Tôn, Công Lý, Nguyễn Trung Trực.. do Nguyễn Khánh tặng, để ve vuốt bớt sự căm phẩn của giới SVHS lúc đó, sau cái chết của Quách Thị Trang. Nơi này cũng là trụ sở của tổng hội Sinh Viên Sài Gòn, lúc đó do Lê Hữu Bôi và Nguyễn Trọng Nho lãnh đạo. Quán Văn do sinh viên của trường Ðại Học Văn Khoa tạo dựng, nên hằng đêm được sự ủng hộ đông đảo của các sinh viên trên, tụ tập cả ngàn người.Trong phong trào hát du ca lúc đó, có cặp “ Trịnh Công Sơn-Khánh Ly”  tới hát, với những “Ca Khúc Da Vàng”.
Căn cứ vào tài liệu của ký giả sân khấu kịch nghệ Nguyễn Việt, viết cho tờ Tinh Hoa của Nguyễn Thạch Kiên tại Sài Gòn trước tháng 5-1975, thì cặp Sơn-Ly mới từ Ðà Lạt xuống. Lúc đó Khánh Ly rất bụi đời, đi chân đất, tay luôn kẹp điếu Salem, hát những bản nhạc của họ Trịnh, cũng là người đệm đàn cho Khánh Ly hát.
Thời gian này Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhiều bản nhạc như Ướt Mi, Lời Buồn Thánh.. nhưng không được các ca sĩ thời đó để ý vì họ chỉ hát các tác phẩm của những nhạc sĩ nổi tiếng đương thời như Lam Phương, Mạnh Phát, Châu Kỳ, Lê Dinh, Anh Bằng, Trần Thiện Thanh, Y Vân, Lan Ðài, Phạm Mạnh Cương, Duy Khánh, Trúc Phương.. mang tính cách đại chúng. Trong khi đó nhạc của Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn.. vừa mới nổi lên, lại chỉ hạn chế trong giới tuổi trẻ nên không được đón nhận nhiều.

Ngay tại Quán Cà Phê Văn, cặp Ly-Sơn cũng bị dội ngược bởi cặp Thanh Lan-Vũ Thành An với “ những bài không tên “, rồi Thanh Lan-Từ Công Phụng, Thanh Lan-Ngô Thụy Miên.. được giới sinh viên ủng hộ đông đảo.

Ðây cũng là điều dễ hiểu, vì trong lúc cặp “Ly-Sơn”  hát toàn những bài phản chiến giữa lòng đất nước đang bị Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng, dầy xéo. Còn nhạc của Sơn toàn nói chuyện trên trời dưới biển, chỉ có những kẻ ăn không ngồi rồi mới có thời giờ thấu triệt. Trong lúc đó Thanh Lan là sinh viên của Văn Khoa, lại hát nhạc của Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên.. rất ủy mị trữ tình, chỉ ca ngợi tình yêu tuổi trẻ.. được coi như là những người đã khai phóng nét mới lạ cho Văn suốt thời gian tồn tại. Vì vậy những đêm có mặt họ, được mọi người đông đảo ủng hộ hơn là thời gian có sự hiện diện của Khánh Ly và Trịnh Công Sơn.
Một biến cố lớn đã xãy ra trong đêm Giáng Sinh 1968 tại Quán Văn, khi một thanh niên lên máy vi âm tuyên bố “hôm nay văn nghệ ăn mừng ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng MN (MTGPMN)”. Nhưng sv Ngô Vương Toại lên giựt máy nên đã bị tên này bắn trọng thương. Từ đó, họ Trịnh cũng bỏ trốn luôn và sống trong bóng tối mà sau này trên tờ Ðất Việt do hội kiều bào VC xuất bản, Sơn cho biết “mình đã trở về với nhân dân từ năm 1968”.
Chiều ngày 30-4-1975, tại Ðài Phát Thanh Sài Gòn trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trịnh Công Sơn xuất hiện, kêu gọi giới văn nghệ sĩ Sài Gòn theo VC sau đó hát bài “nối vòng tay lớn” coi như một cột móc kết thúc cuộc đời của một tên đặc công văn nghệ, nằm vùng tại miền Nam VN, đang sống trên đời nhưng đã bị xã hội khai trừ nguyền rũa.
Trong tác phẩm “Theo chân những tiếng hát” nhà văn Hồ Trường An có viết về Khánh Ly và Trịnh Công Sơn: “ sự xuất hiện của Trịnh Công Sơn cùng với Khánh Ly mới từ Ðà Lạt xuống… rất mờ nhạt. Trong lúc đó Thanh Thúy hát ‘Ướt Mi’, Thái Thanh thâu dĩa ‘Diễm Xưa’, Hà Thanh trình bày ‘Hạ Trắng’. Tất cả do Trịnh Công Sơn sáng tác nhưng đã không được giới hâm mộ đón chào, dù những ca sĩ trình bày các bản nhạc trên đều là những người đang nổi tiếng và rất được ái mộ. Phải đợi đến Bạch Yến hát ‘Lời Buồn Thánh‘ và Lệ Thu qua bài ‘Xin Mặt Trời Ngủ Yên’.. thì thiên hạ mới bắt đầu dòm ngó tới họ Trịnh “.
Nhưng đây cũng không phải là lý do chính đưa Trịnh góp mặt với đám đông. Phải đợi tới năm 1967, khi Trịnh đưa hai tập nhạc của mình ‘Ca Khúc Da Vàng và Ca Khúc Trịnh Công Sơn’ cho Tô Thùy Yên nhờ viết tựa và giới thiệu.
Cũng theo Hồ Trường An, thì chính Tô Thùy Yên mới là động lực bắt thang đưa Sơn lên mây khi phóng bút ca Sơn hết cở , lại còn đem họ Trịnh so sánh với vua David qua những bài ‘ Thánh Vịnh’, ‘Diễm Tình Ca‘ của vua Salomon hay những chàng du ca (troubadour thời Trung cổ.. Nhờ những lời bốc này mà Trịnh đã bay thật xa và dính vào mắt của giới trẻ thời đó, phần đông chuộng thời thượng và ưa làm dáng trí thức dõm.

Nên không lạ gì có nhiều kẻ biết mình sẽ bị thiên hạ chữi rủa, khinh miệt khi mở miệng hát những bài do Trịnh sáng tác, trù ẻo cuộc đời, đất nước, dân tộc, theo kiểu triết lý hiện sinh nôn mữa của đám Tứ Quái nghiện ngập ‘The Beatles’ bên Mỹ, qua các bài “Xin Mặt Trời Ngủ Yên”, “Vết Lăn Trầm”. Ðây là chuyện quái gỡ ... nhưng vẫn cứ đeo mặt nạ để hát, vì kẻ đó sẽ được coi như là vĩ nhân thời thượng. Dịp này, Sơn còn ngông nghê muốn mời nhà văn Nguyễn Thị Hoàng theo mình đi du ca tứ xứ sau khi đã bị cả Thanh Thúy lẫn Lệ Thu từ chối hợp tác văn nghệ kiểu Khánh Ly...
Mới đây trên tờ Kiến Thức Ngày Nay số đặc biệt Xuân Ðinh Hợi 2007, Nguyễn Ðắc Xuân có nhắc tới “một người yêu của Trịnh Công Sơn” tên Nga My đang ở Orange County CA. Bà nay quen biết với Họ Trịnh từ giữa thập niên 60 khi còn ở Huế, nên viết hồi ký kể lại chuyện của hai người. Tình nhất là việc chàng rất ngông với tật bắn tàn thuốc lá lên nóc mùng và bất chấp có người khác nằm bên cạnh, vẫn cứ đòi nàng cho mình “một đứa con”. ( KTNN số 593, trang 58-61). Kỳ hơn là việc Trịnh đã yêu bà dì là Nga My, còn đèo thêm cô cháu là cs Hồng Nhung (đang ở Mỹ) nên đã sáng tác “mùa thu Hà Nội” để dụ khị nàng.
Chân tướng của Trịnh Công Sơn là vậy đó, thế mà cũng có người đòi tôn vinh gã, coi như là một di sản văn hóa của dân tộc Việt Cộng.
2-TRỊNH CÔNG SƠN PHẢN CHIẾN HAY NẰM VÙNG ?
Họ Trịnh đã chết từ tháng 4-2001 nhưng tới nay vẫn không yên mồ vì cái đám bợ đít cứ dựng dậy sơn phết một thây ma đã rã mục, chọc tức thiên hạ để mọi người có dịp “ đào mồ cuốc mã” một tên điếm văn nghệ, đã góp phần đem thê lương đói rách tới Dân Tộc Việt. Vì chính nó đã “ăn cơm quốc gia, thờ ma Hồ tặc“ như lời gã thú nhận lúc trưa 30-4-1975, trên đài phát thanh Sài Gòn “ rừng núi dang tay nối lại biển xa, ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà. Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay..”  trong lúc cả miền Nam đang chìm trong biển khổ .. thật đúng với cái cảnh “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày…” và cái thảm kịch đó do ai gây ra? chắc chắc Trịnh Công Sơn phải biết vì y dù gì chăng nữa cũng là một giáo chức, đã có thời gian từng đứng trên bục gổ dạy dổ học trò mình.
Rồi thì “gia tài của mẹ” quằn quại trong cảnh đau thương, tương tàn.. đã được nối tiếp, làm cho người miền Nam thêm nưc nở đau lòng trước thảm kịch chiến tranh. Ðiều này đã nói lên được tài hoa của nhạc sĩ họ Trịnh nhưng có điều gã lại quên không giải thích cho đồng bào mình biết: Chính Việt Cộng là kẻ đã mang chiến tranh và thù hận tới cho đất nước này. Nên muốn sớm có hòa bình vĩnh cửu, có tự do no ấm thật sự cho dân tộc và đất nước, mọi người phải đoàn kết một lòng “chống Cộng” để tiêu diệt chúng, chấm dứt cái cảnh “ba mươi năm nội chiến từng ngày”.
Hai mươi năm tồn tại của VNCH (1955-1975) cho dù không phải là cảnh thiên đàng hạ giới như tại các quốc gia tiền tuyến Âu Mỹ nhưng ít nhất cũng tạo cho người miền Nam một cuộc sống bình thường, có cơm ăn áo mặc nếu không bị CS từ miền Bắc xua quân xâm lăng. Riêng đối với cái đám lục bình ăn trên ngồi trước tại Huế, Sài Gòn như Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, Ngô Kha.. kể cả Trịnh Công Sơn, xét cho cùng đâu có thiếu thốn gì nếu so với dân nghèo lao động và người lính trận đói rách áo cơm. Như vậy thì tại sao lại phải “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?”  trong lúc chỉ biết chui rúc trong thành phố, để nghe “đại bác đêm đêm dội vào thành phố, người phu quét đường dừng chân đứng nghe” . Thế nhưng ai bắn đại bác và hỏa tiển vào nơi thị tứ đông người, cớ sao họ Trịnh không bao giờ nhắc tới?
Trong lúc cả triệu nam nữ thanh niên miền Nam, hàng hàng lớp lớp tiến ra sa trường để ngăn chận giặc thù CS xâm lăng cướp nước, thì Trịnh Công Sơn làm kẻ hèn nhát (trốn lính), chui rúc sống ký sinh trong các phòng trà hộp đêm tại Sài Gòn, để tiếp tục thả nọc độc vào đám đông với những giọt nước mắt cá sấu. Trong khi đó cả trăm ngàn cảnh tượng đau thương chết chóc của đồng bào vô tội bị VC tàn sát dã man trong Tết Mậu Thân tại Huế, trên đại lộ kinh hoàng Quảng Trị, Kon Tum, An Lộc năm 1972, trên đường di tản liên tỉnh lộ 7 từ Phú Bổn về Tuy Hoà và nhiều cảnh chết chóc thương tâm khác tại các bến tàu khắp miền Nam vào những ngày cuối tháng 4-1975.. đâu có bao giờ nghe thấy Trịnh Công Sơn nhắc tới một lời ?
Ngược lại lúc nào cũng ra rã gào thét kết tội chiến tranh “một chiều” để đổ tội cho VNCH gây ra chiến tranh  với mục đích “chạy tội hèn trốn lính” . Ngày nay có dịp đọc lại những lời nhạc của gã họ Trịnh như  “từng chuyến bay đêm con thơ giật mình, hầm trú tang hoang, ôi da thịt vàng từng đêm soi sáng lạ mắt quê hương.. hay từng vùng thịt xương có mẹ có em, người già co ro buồn nghe tiếng nổ, em bé lỏa lồ khóc tuổi thơ đi.” lại càng thêm thương những đồng đội đã chết oan khiên trong cuộc chiến, vì sự bất lực của chính quyền , đã đồng lỏa dung túng một tên đặc công văn nghệ, đâm sau lưng QLVNCH.
Tóm lại từ sau Tết Mậu Thân 1968, lập trường chính trị của Trịnh Công Sơn đã lột xác, không còn giữ thái độ phản chiến chung chung như trước, mà là ra mặt chống đối Miền Nam thật sự như một tên CS Bắc Việt chính hiệu, qua những ca khúc trong “kinh VN, ta phải thấy mặt trời..”. Từ đấy Trịnh đã là một tên đặc công đỏ, đứng hẳn về phía giặc Hồ. Trong phụ khúc “tình ca của người mất trí”  họ Trịnh đã lên án Mỹ qua các cuộc dội bom miền Bắc “tôi mất trong chiến tranh này, bao nhiêu bao nhiêu người tình, người tình của tôi lớn lên, từ ngày miền Bắc dội bom”. Và phản bội trắng trợn nhất là bài “Ta phải thấy mặt trời” :
“ còn sống xin các anh quyết còn cách mạng
đời ta ta lo xin xếp vũ khí
bàn tay không tiến lên
đã qua bao năm hy sinh thịt xương
nay ta quyết phải sống
toàn nước chiến đấu
ta bền vững một lòng với nhau..”
Bởi vậy không thể nói là ngẫu hứng khi Dương Văn Minh vừa ra lệnh cho toàn thể QLVNCH buông súng đầu hàng CS Bắc Việt, thì họ Trịnh đã có mặt ngay tại Ðài phát thanh Sài Gòn đễ hát bài “nối vòng tay lớn Huế, Sài Gòn, Hà Nội…” mà y nói là đã soạn sẳn từ năm năm trước. Chỉ cần một bài hát này, cũng đủ để cho mọi người vạch trần bộ mặt phản bội đồng bào miền Nam là nơi mà Trịnh đã được sinh ra và lớn lên với một cuộc sống ấm no đủ đầy.
Từ tháng 5-1975 về sau, để minh định chổ đứng của mình trong thiên đàng xã nghĩa, họ Trịnh đã viết hơn 150 ca khúc để bợ đít chế độ như  “Huyền thoại Mẹ, Em nông trường em ra biên giới, Ra chợ ngày thống nhất, Ánh sáng Mạc tư Khoa..”  như là những bằng chứng xác nhận vai trò của một tên VC nằm vùng tại Miền Nam VN.
Ðể thêm sáng tỏ vai trò của Trịnh Công Sơn tại miền Nam, trong suốt cuộc chiến từ 1965-1975, hãy nghe Y trả lời cuộc phỏng vấn trên báo Ðảng “Năm 1963 tôi lên Lâm Ðồng trốn lính nên tình cờ gặp được Khánh Ly và chúng tôi đã rủ nhau về Sài Gòn hát trong phong trào Du Ca của sinh viên Văn Khoa. Ðến khi xãy ra vụ nổ súng tại Quán Văn trong đêm Giáng Sinh 1968, thì tôi không hát trước đám đông nữa’.
Sau khi Miền Nam bị cưởng chiếm hoàn toàn, họ Trịnh được đảng thưởng công, cho đi tham quan miền Bắc “thiên đường” mà Trịnh hoài mơ ước một đời. Về Nam, Trịnh được phong chức Uỷ viên Biên chế, nắm quyền sinh sát giới văn nghệ sĩ Miền Nam lên hương từ đó.
Ðã có một ít người tới nay vẫn còn xưng tụng Trịnh Công Sơn, nào là thiên tài âm nhạc, kẽ yêu nước thương nòi. Họ còn cao hứng mở đại nhạc hội vinh danh, làm đám giổ và đòi phải lưu giữ sự nghiệp của Trịnh như là một “di tản văn hóa”.. Ðây là cái quyền của mọi người nhất là ở một nước tự do như Hoa Kỳ. Tuy nhiên muốn là một chuyện, còn thực hiện được hay không lại là một chuyện khác. Phương chi Trịnh Công Sơn ngay từ thời gian trước năm 1975, đã bị đám đông khinh miệt và phỉ nhổ như một tên hèn nhát trốn quân dịch, sống chui rúc trong bóng tối đẻ mưu sinh cầu sống.

Ðó là lúc mà mặt thật của tên bán nước, ăn chén đá bát , chưa bị phanh phui. Còn ngày nay, qua một cuộc đổi đời, hình tướng của Trịnh đã được phơi bày từ trong hang cùng ngõ hẹp cho tới trang sách, bia miệng và chốn thị phi. Hầu hết ai cũng khinh nhờn căm giận và muốn ăn tươi nuốt sống gã, thì thử hỏi, sao không giúp cho một thây ma được nằm yên vĩnh viễn trong lòng đất, để xoa dịu lòng người, nhất là lúc này ai cũng căm thù VC bán nước hại dân làm tay sai cho Trung Cộng .
 
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 5-2011
Mường Giang

TRỊNH CÔNG SƠN, NGƯỜI BẠN, KẺ ĐỐI NGHỊCH
Người chuyển bài  : KIM PHẠM

Niên khóa 1959-60, tôi lên lớp Terminale (lớp Tú Tài 2) ở trường Jean-Jacques Rousseau, Sài Gòn. Lúc ấy, trường này không mang tên Chasseloup Laubat nữa, như một ông tác giả nào đó còn gọi.

Lớp học là một phòng riêng biệt nằm ở góc đường Công Lý và Hồng Thập Tự, gần dinh Độc Lập. Trong lớp Terminale, ban Philosophie, có một số học sinh cũ từ dưới lên, có một số ở các trường ngoài vào, hoặc "học nhờ", như các nữ sinh Marie Curie. Ca sĩ Kim Tước, mà tôi rất mê tiếng hát, là nữ sinh Marie Curie, cũng "học nhờ" Philo tại Jean-Jacques Rousseau, nhưng trên tôi một, hai năm, tôi không nhớ rõ, vì chị lớn hơn tôi một, hai tuổi gì đó, nhưng hồi ấy, đâu có biết nhau, thấy chị, chỉ đứng xa mà nhìn, kính nhi viễn chi.
     
Trịnh Công Sơn là học sinh từ ngoài vào Jean-Jacques Rousseau học Philo, tôi chẳng rõ từ đâu tới mà cũng chẳng bao giờ hỏi. Lần đầu, các học sinh chọn chỗ ngồi, đâu vào đó rồi, không ai được thay đổi nữa, vì các thầy cô muốn vậy để dễ nhận diện, như thế cho đến hết năm học. Sơn đeo kính cận, gọng đồi mồi lớn, mặt mày, râu ria, và dáng dấp gầy gầy giống tôi, nên các thầy cô, nhất là Monsieur Pezeu, thầy Sử-Địa, một giáo sư vào tuổi sồn sồn (nổi tiếng dê cụ, nghĩa là lúc giảng bài cứ hay đưa mắt dòm dòm về phía các cô cười cười), thường lẫn lộn Sơn với tôi.

Nhiều lần Pezeu gọi lên khảo bài, tên thì gọi đúng của tôi, nhưng ông hất hàm, đưa mắt nhìn Sơn, hoặc ngược lại, gọi Sơn mà cứ đăm đăm ngó tôi, khiến hai đứa bối rối, nhìn nhau, tự hỏi không biết đứa nào sẽ phải "hy sanh", và có khi tôi, có khi Sơn, nếu hôm đó đứa nào thuộc bài, tự nguyện đứng lên bục trả lời thay cho đứa khác. Rủi là hai đứa đều kém Sử Địa một cách tồi tệ giống nhau, nên điểm đứa nào cũng dưới trung bình. Tôi nhớ một lần, lên "hy sanh" cho tôi, bị hỏi một câu về Địa khó quá, Sơn đứng như trời trồng, nhìn Pezeu cười trừ, vẻ rất ngây thơ vô tội, và bị ông thầy phết cho con 03 (trên 20), nhưng khổ một nỗi đó là điểm mang tên... tôi. Biết thế, nhưng chả đứa nào cải chính, vì hai đứa đều dốt và ghét Sử-Địa ngang nhau. Đó có lẽ là kỷ niệm duy nhất tôi có về Sơn.
     
Trong lớp Philo năm đó, có khoảng 40 tên. Ngoài Trịnh Công Sơn, tôi nhớ còn Nguyễn Văn Hòa, có Vương Quang Sơn, có Lê Hoàng Ân, có Trương Cam Hiển, có ba anh Tây con, mà tôi chỉ nhớ hai: Claude Desboeufs (Desboeufs có nghĩa "của những con bò", đúng ra phải đọc là Đề-Bơ, khi boeuf (bớp) ở số nhiều, nhưng chúng tôi muốn chọc anh ta gọi là thằng Đề Bớp, anh ta bực lắm, và Alain Bui (đọc là Bui, chứ không phải Bùi, Tây chính cống, đẹp trai, dễ thương, chơi thân, vì vậy nhớ đến anh ta tôi bèn lấy tên Julien Bui trên email cho có vẻ... nặc danh bí hiểm một chút). Những người bạn học này, tôi không biết tin tức gì từ ngày rời trường, năm 1960, tức đã đúng nửa thế kỷ rồi.    
Có ba người tôi biết tin chính xác. Đó là:     

1) Hoàng Văn Kim, rất đẹp trai, trắng trẻo, người Bắc, năm 1963, tôi về Nha Trang dạy học, thì bất ngờ gặp Kim đang là SVSQ tại Trung tâm Huấn Luyện Không Quân. Về sau, lúc tôi ra Thủ Đức, về đơn vị ở Ban Mê Thuột, Kim trở thành phi công lái khu trục A37 và năm nào đó, Kim lái biểu diễn tại quân trường Thủ Đức nhân dịp Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa một buổi lễ lớn.
Theo báo chí, máy bay của Kim đâm xuống đất sâu mấy thước. Khi TCS viết bản nhạc "Cho một người nằm xuống" (Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây...), tôi cứ tưởng anh ta làm để tưởng niệm Kim, một bạn học cũ. Nhưng nghĩ lại Sơn không chơi thân với Kim hay bất cứ ai trong lớp bèn thắc mắc không biết đối tượng là ai, cho đến sau này, qua cô ca sĩ "mùa chay nào cũng có nước mắt" mách trên sân khấu mới rõ là cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương, người đã chứa chấp cho Sơn trốn quân dịch và Sơn khóc để trả ơn.
        
Nhân đây tôi cũng xin mở ngoặc nói thêm về bài hát trên. Đó là một trong những bài phản chiến nặng nhất của TCS, cùng với bài "Kỷ vật cho em" của Phạm Duy, có hậu quả, hoặc mục đích, làm nhụt ý chí chiến đấu của các chiến sĩ QLVNCH. Không ai muốn chiến tranh, và phản chiến tự nó không có gì xấu. Nhưng trường hợp TCS, cái nghịch lý làm khó chịu là ở chỗ, anh ta cũng như các tay phản chiến quốc tế, mà tôi xin phép được gọi một cách bình dân là "cà chớn" hoặc nặng hơn, xuẩn động, như Bob Dylan, Jane Fonda, John Kerry, Jean-Paul Sartre, Bertrand Russell v.v... chỉ biết to mồm kết án Miền Nam mà quên, hoặc không dám, động gì đến lông chân của bọn lãnh đạo Cộng sản miền Bắc, thậm chí còn ca ngợi chúng  - thực ra mới là lũ gây chiến, hiếu chiến, đã xua hàng trăm ngàn quân, thôn tính Miền Nam, muốn nhuộm đỏ cả nước Việt Nam (điều chúng thực sự đã làm sau từ khi cưỡng chiếm đất nước ta, tháng 4, 1975), trong khi quân dân VNCH không đưa quân ra Bắc, mặc dầu dư sức làm điều ấy, chỉ thi hành nhiệm vụ tự bảo vệ. Kêu gọi chấm dứt chiến tranh một chiều như thế là tiếp tay cho VC trong mưu đồ, chiến thuật bắt Miền Nam đầu hàng mà thôi. Nếu thực sự yêu hòa bình chân chính, tại sao TCS, hay Phạm Duy, không làm bài hát nào thương khóc cho đồng bào ở Huế bị VC chôn sống vào Tết Mậu Thân, và lên án bọn đao phủ VC? Có không? Rồi, không hiểu sao, Trung tâm băng nhạc Asia, nổi tiếng hay tự cho là chống Cộng, mới đây, trong băng vinh danh người lính VNCH, lại đưa bài hát "cực kỳ" phản chiến này của TCS vào? Cẩu thả, dốt nát, hay chạy theo nhu cầu thị trường phải thỏa mãn tất cả khách hàng, thượng vàng hạ cám? Dĩ nhiên, ai thích nhạc TCS thì cứ việc mở máy thưởng thức một mình ở nhà, không ai thắc mắc, nhưng bắt người khác nghe theo mình, đó là áp chế.   
2) Phan Quang Tuệ, con của Thủ tướng Phan Quang Đán, hiện là thẩm phán Di trú tại San Francisco. Tuệ lúc còn ở trường chơi với tôi khá thân, thường nói chuyện qua lại, giọng của Tuệ hình như là Nghệ An, Hà Tĩnh lai Nam. Mấy năm trước, chị Kiều Mỹ Duyên cho tôi số điện thoại làm việc hay cell của Tuệ, tôi gọi mấy lần không được, nên bỏ luôn.    
3) Trần Quý Phong, con nhà giàu, chủ khách sạn Catinat, sau này trở thành dân biểu VNCH. Từ lâu tôi nghe tin ai nói, và đinh ninh, rằng Phong đã chết trong ngục tù cải tạo. Nhưng cách đây mấy tháng thôi, tôi đọc trên báo một bài tường thuật lễ kỷ niệm nào đó ở vùng DC hay Virginia, có nhắc rõ ràng tên "cựu dân biểu Trần Quý Phong" tham dự. Tôi dụi mắt, đọc lại cho kỹ. Té ra anh ta còn sống, mừng lắm! Không lẽ trước đây có hai ông dân biểu Trần Quý Phong? 
    
Trở lại Trịnh Công Sơn. Anh ta rất đơn độc, suốt niên học không nói chuyện với ai, trừ tôi ngồi cạnh, nhưng cũng chỉ thỉnh thoảng thôi, để hỏi bài vở. Ít nói, không thân thiện, nhưng không làm phiền ai bao giờ. Trái lại, tôi thấy vẻ ngoài Sơn dễ thương. Xong các giờ học, không thấy anh ta đâu nữa. Riết rồi chẳng ai còn nhớ sự hiện diện trong lớp của Sơn. Tôi nghĩ bây giờ những người học lớp Philo năm đó, không chắc có ai còn nhớ đến Sơn, trừ sau khi đọc bài này của tôi.

Lúc ấy, tiếng tăm của Sơn chưa nổi. Sơn sinh hoạt tại Jean-Jacques Rousseau như một bóng mờ. Khi đọc báo nghe biết anh soạn nhạc từ thời đi học, tôi rất ngạc nhiên, vì ít ra suốt thời gian còn ngồi cạnh nhau, tôi không hề thấy anh trong lớp viết lén nhạc hoặc ca âm ỉ trong miệng, trái lại học hành chăm chỉ, đôi khi tay chống cằm lơ đãng nhìn ra phía đường Công Lý, dập dìu xe cộ.    

Niên học của tôi cũng là năm đầu tiên chính phủ Pháp áp dụng thủ tục mới thi Bac II: thi hai lần, không có vấn đáp. Tháng 4 thi đợt đầu, hai tháng sau, đợt hai, tại khuôn viên trường Marie Curie. Điểm số của hai đợt được cộng lại để lấy trung bình cho đậu hay rớt. Cũng như với Bac I, bài thi từ Paris gửi đến qua Tòa đại sứ Pháp Sài Gòn. Tôi được đậu, nhờ bài Triết (số điểm ấn định cho môn này là 40 thay vì 20 cho các môn khác) mà tôi đầu tư vào tối đa, vì tôi biết mình kém về các môn khác, chủ trương "được ăn cả ngả về không", như hiện giờ thỉnh thoảng đánh phé tapis (all in) với bạn bè, em út. Năm đó, Trịnh Công Sơn, tôi dò đọc, không thấy tên trên bảng vàng. Và anh biến mất khỏi trường, khỏi trí nhớ tôi.      

Chuyện về Trịnh Công Sơn và bài viết của tôi có thể kết thúc tại đây. Nhưng thời gian phục vụ tại trường Đại Học CTCT, một đêm nào, tôi đi lang thang, tắp vào một quán cà phê, Tùng hay Domino (?), bất ngờ gặp lại Trịnh Công Sơn đang trình diễn nhạc ở đấy. Sơn không nhớ tôi, phải nhắc trường JJR, Monsieur Pezeu và chuyện "hy sanh" trả bài Histoire-Géo cho nhau, Sơn mới "à" ra, cười thành tiếng -điều rất hiếm hoi. Sơn còn nhái giọng nói của Pezeu khi gọi tên hai đứa: Ngu-y-en-Kim-Ky và Chin-Kông-Xon. Tôi cũng cười. Vì không khí ồn ào và Sơn bận tíu tít, tôi từ giã ra về, sau đó lòng thấy dửng dưng không buồn, không vui, bởi vì cả hai không thân nhau.

Rồi ngày 30/4/1975, trong lúc đất nước hấp hối, và quân trường CTCT vừa mới tan hàng, tôi và tất cả quân dân Miền Nam nghe trên radio tiếng hát của Sơn, trong bài "Nối vòng tay lớn".
Hát rồi nói, nói rồi hát tiếp, lặp đi lặp lại, giọng mỗi lúc một to hơn:
"Hôm nay ngày vinh quang của dân tộc, ngày này chúng đã mong đợi từ lâu, mời các bạn văn nghệ sĩ hãy về đây cùng ca với chúng tôi Nối Vòng Tay Lớn, vòng tay của anh em, của tình thương, của bẻ gẫy xích xiềng, của chống Mỹ, của diệt Ngụy."

Tôi ngỡ ngàng, đau xót, tức giận, buột miệng chửi thề: "Salaud, thằng khốn nạn!" Trên đường về nhà, đường Lê Văn Duyệt, thấy những chiếc xe tăng đầu tiên chở lúc nhúc những "sâu bọ" và những "đàn bò vào thành phố" (chữ của TCS), tôi nghẹn ngào, nước mắt chảy quanh.

Đọc trên báo, thấy có người "quốc gia phe ta" lên tiếng bênh vực hành động này của Sơn (ví dụ, Sơn bị bắt buộc), nhưng lập luận của họ quá ấu trĩ, không thuyết phục nổi ai. Những tài liệu tôi đọc được chứng minh rằng anh ta là VC nằm vùng thứ thiệt từ lâu. Nhưng đây không phải là chủ đích bài này.      

Rồi năm 1989, tôi đang ở Paris. Cô cháu gái tôi từ Việt Nam trở về. Cháu khoe với tôi, có ông nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đi cùng chuyến Air France, mang theo nhiều bức tranh, "bị cảnh sát phi trường Orly chận hỏi, ông ta cãi lại, bằng tiếng Pháp, cũng lưu loát lắm." Tôi nói, "ông đó học cùng lớp với cậu ở trường Jean-Jacques Rousseau Sài Gòn trước kia." Cháu reo lên, "hèn gì ổng nói giỏi tiếng Pháp."

Quả vậy, năm đó, Trịnh Công Sơn đến Paris để triển lãm tranh, hay trình diễn ca nhạc gì đó, dưới sự bảo trợ của tòa đại sứ VC. Dĩ nhiên, còn lâu tôi mới đi tìm gặp anh ta, xem tranh, hay nghe hát. Trịnh Công Sơn, một người bạn học cũ, đã chết trong tôi như một kẻ đối nghịch, một đứa phản bội, ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, kể từ ngày 30 tháng 4, 1975, trước khi chết thật, vào năm 2001.  

Những người yêu nhạc Trịnh Công Sơn ca tụng nhạc của anh hay, lời óng chuốt như thơ. Tôi không nghĩ vậy. Tôi không rành về nhạc, nhưng có thể nói mà không sợ sai rằng nhạc Trịnh Công Sơn đơn điệu (monotone), tẻ nhạt quá, bài nào cũng một âm giai, nghèo nàn, buồn rầu, nghe là biết của anh liền, so với những ca khúc của Phạm Duy, phong phú, biến đổi (varié), mỗi bài mỗi khác, hay của Văn Cao nghe sang, cổ điển, cung điệu trầm bổng, thay đổi ngay trong cùng một bài, như "Thiên Thai" hoặc "Bến Xuân".

Còn lời ca?  Những chữ như rong rêu, sỏi đá, ghế đá, đá xưa, đá ngây ngô, hòn cuội, công viên, sâu bọ, kiếp người, hư vô, tiền kiếp, cát bụi, hóa kiếp, trần gian, hiện tại, xa lạ, một ngày như mọi ngày v. v... đều là những cụm chữ lấy từ những bài học Triết dựa trên tác phẩm của Sartre, như La Nausée (Buồn nôn), và Camus, như L'Étranger (Kẻ xa lạ), chẳng hạn, mà Trịnh Công Sơn đã lấy dịch ra và được thấy nhan nhản trong Sáng Tạo của lớp nhà văn, nhà thơ hiện sinh mới. Chả có gì mới mẻ đối với văn học sử Pháp và chúng tôi, thuộc lớp Philo tại Jean-Jacques Rousseau đầu thập niên 60.     

Tại Qui Nhơn năm nào, sau một cuộc hành quân trở về, tôi cùng với anh hạ sĩ tài xế vào một tiệm kem, chuyên chơi nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi đến quán ấy không phải để nghe Trịnh Công Sơn, mà để ngắm cô chủ tiệm có mái tóc thoảng hương bưởi, nước da trắng bóc và đôi mắt tình không chịu nổi. Lúc ấy, trong băng cassette, Khánh Ly đang hát bài "Ru mãi ngàn năm". Đến câu "bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm..." anh tài xế nói nhỏ với tôi: "Bàn tay em nào chả năm ngón, ông nhạc sĩ này thiệt kỳ, còn nếu bàn tay em có sáu ngón thì làm sao đây?" Anh ta không biết rằng, bàn tay năm, sáu ngón ấy Trịnh Công Sơn lấy từ một bài thơ của một ông thi sĩ trường phái Siêu thực Pháp nào đó mà thơ thuộc loại "hũ nút" như của Thanh Tâm Tuyền, hoặc Bùi Giáng.  Hay cụm từ dài tay em mấy trong câu dài tay em mấy thuở mắt xanh xao là một cấu trúc văn phạm quen thuộc trong thơ Pháp (tĩnh từ hay trạng từ đứng trước danh từ). Những mưa hồng, nắng thủy tinh v.v... là hình ảnh, ẩn dụ rất thường gặp trong văn chương Pháp.      

Bởi vì bài của tôi không có chủ đích phê bình nhạc và lời của Trịnh Công Sơn, nên xin phép tạm ngưng ở đây. Muốn viết một bài phê bình hẳn hoi, phải nêu ra nhiều dẫn chứng, ví dụ, điều mà tôi nghĩ sẽ, hay đã, có người khác làm.      
Nhạc Trịnh Công Sơn là nhạc phản chiến nặng, cộng thêm những bức ảnh của Nick Út, một tên Việt gian khác, chẳng hạn, đã góp phần vào sự sụp đổ của đất nước Miền Nam thân yêu của chúng ta bằng cách tiếp tay cho Cộng sản Việt Nam trong mưu đồ xâm lược (kêu gọi phản chiến một chiều) của chúng, tác động ít nhiều trên tinh thần đấu tranh của toàn quân toàn dân ta trước thực trạng bi thảm của chiến tranh (một cuộc chiến tranh do chính lũ Cộng Phỉ gây nên), và nhất là trên cái đầu tăm tối, xuẩn ngu của những chính trị gia và ký giả quốc tế vô luân. Chúng ta mất nước, ra đi tỵ nạn, gia đình tan nát, cá nhân bị bắt bớ, tù đày, thân nhân bị hãm hiếp, hoặc vùi thây trong lòng đại dương, và xa hơn những đồng bào ruột thịt tại quê nhà đang rên siết dưới gông cùm Cộng sản, tất cả cũng bởi vì những món độc dược văn hoá nguy hiểm ấy.

Vả lại, nhạc và lời của Trịnh Công Sơn đâu đặc sắc gì lắm đâu, mà những kẻ đầu nhỏ như đầu chim sẻ phải khen ngợi, mê man, ca ngợi rối rít, ầm ĩ.
Tuy nhiên, tôi tôn trọng ý thích của mọi người, miễn là họ đừng viết những bài để thổi Trịnh Công Sơn và sự nghiệp âm nhạc của anh ta lên tận mây xanh, các chủ băng video đừng bắt đồng hương quyết tâm chống Cộng tới chiều, như tiện nhân đây, và những thế hệ con em lớn lên sau chiến tranh, chưa biết Cộng sản là gì, phải nghe những ca khúc Trịnh Công Sơn trong khi họ lợi dụng danh nghĩa chiến sĩ, thương phế binh, tử sĩ VNCH để bán hàng. Những việc làm vô ý thức đó rất mâu thuẫn, có tính cách phản bội, và đâm sau lưng chiến sĩ đấy.

Không ai cấm các người mê nhạc Trịnh, chúng ta đang ở trong một nước tự do, dân chủ mà! Chỉ xin các người làm ơn hát, nghe hát nó trong xe, trong phòng ngủ, phóng tắm, như khi các người làm việc cá nhân kín đáo. Đừng bắt thiên hạ mê theo các người, khổ lắm! Các người cũng đừng ngụy biện rằng nghệ sĩ, nghệ thuật là phi chính trị, và Trịnh Công Sơn là nghệ sĩ nên không cần biết lập trường của anh ta là gì. Sai, chủ trương "nghệ thuật vị nghệ thuật" là ảo tưởng.
Có giỏi cứ đem vấn đề này ra tranh luận với Việt Cộng, là bọn chuyên bắt nghệ thuật (kể cả thơ con cóc của Bác) phục vụ cho mọi ý đồ chính trị đen tối. Tranh luận đi, chúng sẽ cười cho thối mũi.          

Còn những người tỵ nạn lưu đày chân chính? Chúng ta hãy luôn tỉnh táo, đừng thấy ai khen, mình cũng vỗ tay khen theo, nức nở. Xưa rồi.

Kim Thanh Nguyễn Kim Quý, SQCH  

Nguồn: http://langtu75.blogspot.com/2012/03/com-quoc-gia-tho-ma-cong-san-trinh-cong.html

Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016

VN 'cần đẩy nhanh cải cách thể chế'

VN 'cần đẩy nhanh cải cách thể chế'

  • 15 tháng 6 2016
 
Image copyright AFP

Tình trạng tụt hậu đang ngày càng nghiêm trọng, hiện là mối đe dọa to lớn nhất cho đất nước và kéo theo "các nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển theo chiều hướng xấu nhanh hơn", cựu Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp nói.
Cuộc phỏng vấn mới đây của VietTimes với ông Lê Doãn Hợp nhắc lại "bốn nguy cơ" từng được nêu trong Hội nghị giữa kỳ Đại hội Đảng VII hồi 1994, gồm tình trạng tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và diễn biến hòa bình.
Việt Nam, theo đánh giá của ông Hợp, đang tụt hậu ở nhiều lĩnh vực.
Ông Hợp nêu các số liệu chứng minh rằng các thành tích của Việt Nam, từ thu nhập bình quân đầu người cho tới giáo dục, y tế, đều ở mức dưới trung bình, trong lúc chỉ số tham nhũng thì "thuộc nhóm một phần tư quốc gia cuối bảng".

'Cần đẩy nhanh cải cách thể chế'

Để đất nước không rơi vào tình trạng tụt hậu thì "điều quan trọng nhất là phải đẩy nhanh cải cách thể chế", VietTimes dẫn lời ông Hợp.
Về nguy cơ "chệch hướng", ông Hợp nói Việt Nam chỉ có ba lựa chọn, gồm rẽ theo chủ nghĩa phong kiến, hướng sang tư bản chủ nghĩa, hoặc chọn "chủ nghĩa tư bản thân hữu".
Việt Nam, với xu thế phát triển hiện thời, sẽ không thể quay trở về thời kinh tế phong kiến trước kia, do đó đây không phải là một mối lo thực sự.
Tuy nhiên, Việt Nam rất dễ mắc phải căn bệnh phong kiến trong việc tuyển dụng nhân sự "cha truyền con nối" và "anh xuống em lên", ông Hợp nhận xét.
 


Image copyright AFP
Ông cũng đánh giá rằng không nên coi việc hướng sang chủ nghĩa tư bản là một nguy cơ "chệch hướng", bởi đó chính là mô hình lý tưởng, là "giấc mơ của nhiều nước xã hội chủ nghĩa đương thời".
Tuy nhiên, theo ông Hợp, "chủ nghĩa tư bản thân hữu", với đặc trưng "có sự cấu kết, thâm nhập lẫn nhau giữa nhóm đặc quyền kinh tế và nhóm đặc quyền chính trị" nhằm mục đích "cùng nhau trấn lột “mềm”... thâu tóm tài chính, của cải" để hướng tới "độc quyền kinh tế kết hợp với độc quyền chính trị" sẽ "đẩy đất nước vào con đường nguy khốn".
Do vậy, ông Hợp cho rằng điều cần làm ngay vào lúc này là phải "không để Đảng bị nhóm đặc quyền nào thao túng" đối phó với khả năng hình thành các nhóm lợi ích tạo thành chủ nghĩa tư bản thân hữu.
Đối với nguy cơ tham nhũng, vị cựu bộ trưởng thông tin và truyền thông cho rằng cần có cơ chế để người dân giám sát các cơ quan, tổ chức nhà nước, và phải quy trách nhiệm cá nhân đối với các lãnh đạo, bên cạnh các biện pháp khác như có cơ chế chính sách tuyển dụng, lương bổng phù hợp, chính sách kỷ luật nghiêm minh.

'Diễn biến hòa bình'




Image copyright PhoBolsaTV
Về "diễn biến hòa bình", ông Hợp giải thích rằng về bản chất thì đây chính là "diễn biến về niềm tin của dân với Đảng".
Có lẽ đây là lần đầu tiên trên kênh chính thống một cựu quan chức có cách diễn giải này.
Ông Hợp nói: "Khi mà người dân giảm sút lòng tin vào Đảng mà Đảng lại không chịu đổi mới để vì dân, thì bản thân sự trì trệ đó sẽ đẻ ra mâu thuẫn."
"Cách mạng chỉ nổ ra khi quần chúng nhân dân không chịu được sự bảo thủ, trì trệ của lãnh đạo đương thời, khi cấp trên không xứng đáng, cấp dưới không thể chịu đựng thêm được nữa. Đấy chính là điều mà người ta hay gọi là diễn biến hòa bình," VietTimes trích lời ông Lê Doãn Hợp.
Trong lúc đó, cách lấy lại niềm tin của nhân dân, theo ông Hợp, vẫn là việc Đảng phải cải cách thể chế, được cụ thể hóa qua việc đổi mới cách tuyển dụng cán bộ và có cơ chế giám sát quyền lực tối cao.
Ông Hợp cũng nhắc tới tình trạng bè phái, cục bộ trong Đảng, với việc viện dẫn Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi đó là "căn bệnh "cánh hẩu" trong Đảng".
Ông nói chừng nào tình trạng này chưa được xử lý, sự tồn vong của Đảng Cộng sản sẽ vẫn còn bị đe dọa.
Việc loại bỏ tình trạng bè phái trong Đảng cũng chính là một phần trong công tác "đổi mới phương thức lãnh đạo" cần làm, theo ông Hợp.
Ông Lê Doãn Hợp từng làm Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông trong thời gian từ tháng 8/2007 đến 8/2011.
Hiện ông đang giữ chức Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam.

Nguồn:  http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/06/160615_viet_major_problems_ledoanhop

Ký ức người dân Sài Gòn trong ngày 30/4 lịch sử


 “Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975”
 
Người dân Sài Gòn đổ ra đường đón quân giải phóng trong ngày 30/4/1975.
 

Ảnh: Tư liệu TTXVN

Ký ức người dân Sài Gòn trong ngày 30/4 lịch sử

Trong ký ức người dân Sài Gòn hay những cán bộ từng tham gia “nội ứng”, ngày 30/4/1975 là một ngày đặc biệt với những dấu ấn không bao giờ quên trong cuộc đời.

Chuẩn bị cho “nội ứng”

Khi nhắc về thời khắc lịch sử trước ngày đất nước thống nhất, những ký ức của bà Trương Mỹ Lệ (bí danh Tư Liêm) - lúc đó được giao quyền Bí thư Thành đoàn, lại ùa về như mới diễn ra. Bà Tư Liêm cho biết: “Vào đầu tháng 3/1975, đồng chí Mai Chí Thọ triệu tập tôi lên và hỏi: Nếu Tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, liệu lực lượng sinh viên học sinh trong nội thành có khả năng phát động nổi dậy ở những nơi nào?”. Để trả lời câu hỏi này, Thành đoàn phải rà soát lại và giao quyền Bí thư Thành đoàn Trương Mỹ Lệ chịu trách nhiệm nghiên cứu.

Người dân Sài Gòn đổ ra đường đón quân giải phóng trong ngày 30/4/1975.

Sau khi rà soát, quyền Bí thư Thành đoàn đã báo cáo với ban chỉ đạo tiền phương: Lực lượng thanh niên, sinh viên nội thành có thể công khai và bán công khai phát động khởi nghĩa tại 5 khu vực. “Khu vực 1 gồm: Ngã Bảy, Bàn Cờ, Vườn Chuối (quận 3) do lực lượng sinh viên học sinh các trường Kỹ thuật Cao Thắng, Gia Long và cở sở sỹ quan ngụy do ta thực hiện binh vận thành công đã trở thành cở sở cách mạng của mình. Khu vực 2 gồm: Khánh Hội- Xóm Chiếu thuộc quận 4 và một phần quận Nhì (quận 2) do lực lượng các trường đại học Y, Nha, Dược và Nông súc sản phụ trách. Khu vực 3 gồm Cầu Kiệu - Võ Dung Nghiệp, ngã tư Phú Nhuận (nay là Phan Đình Phùng) do Đoàn Công tác xã hội sinh viên học sinh Sài Gòn phụ trách. Khu vực 4 gồm Cầu Bông - chợ Bà Chiểu (nay là đường Đinh Tiên Hoàng) do các cơ sở của các trường nữ, khối trung học tư thục phụ trách. Khu vực vùng ven Tân Sơn, Tân Phú, Bà Điểm thuộc quận Tân Bình do là nơi quy tụ nhiều đồng bào công giáo nên thanh niên công giáo cùng với các sở, cha xứ... phụ trách”, bà Tư Liêm cho biết.

Khi các khu vực đã ổn định về tổ chức, nhiệm vụ đầu tiên của những người phụ trách và lực lượng nòng cốt được khẩn trương tiến hành là điều tra nắm lại dân cư, khu xóm cũng như các trạm chốt phòng vệ, công an, chỉ điểm của địch; đồng thời vận động quần chúng để khống chế, cảnh cáo các lực lượng này. “Lực lượng nòng cốt ít nhất có 5-7 gia đình và các việc phải làm là trang bị cơ sở vật chất, cả vũ khí mang từ bên ngoài vào (các loại súng ngắn, lựu đạn...). Học sinh, sinh viên trường Cao Thắng còn chế tạo một số vũ khí để tự vệ”, bà Tư Liêm kể. Cùng với đó, các lực lượng này còn chuẩn bị tài liệu, phương tiện để in, chuẩn bị sẵn vải để may cờ Mặt trận giải phóng và làm khẩu hiệu, cùng với loa phóng thanh, máy cát-sét dùng pin và băng thu các nội dung như “Lời kêu gọi của Uỷ ban nhân dân cách mạng Sài Gòn - Gia Định”, “Bảy điều chính sách binh vận của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”. Ngoài ra, lực lượng này cũng phải chuẩn bị cả lương khô (gạo, muối, mắm) bằng hình thức thuê mướn nhà để mở tiệm bán hàng xén, trà khô để thuận tiện mua lương thực mà không bị nghi ngờ.

Ảnh: Tư liệu TTXVN

Những ngày cuối tháng 4/1975, tình hình của địch rất căng thẳng do liên tiếp thất bại trên chiến trường, mất dần các tỉnh, nhất là sau khi mất Phước Long. Tại Sài Gòn, quân địch lồng lộn, hầu như suốt đêm địch tuần tra, khám xét, thậm chí ra lệnh ai ra đường là bắn bỏ. “Đến 9 giờ sáng 30/4, vừa từ khu vực cầu Bông về trụ sở chỉ huy ở Bàn Cờ, tôi nhận được chỉ đạo của đồng chí Phạm Chánh Trực (Năm Nghị) từ người giao liên chạy từ quận 11 truyền đạt: Anh Năm Nghị yêu cầu chị Tư cho khởi nghĩa ngay. Ngay lập tức, tôi thông báo cho anh em cơ sở đồng loạt nổi dậy. Tại khu vực trụ sở chỉ huy, hai lá cờ nhanh chóng được treo lên căn nhà 115 Bàn Cờ và ở hai đầu đường Bàn Cờ băng rôn có nội dung “Hoan hô chính chủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được căng lên”, bà Tư Liêm nhớ lại.

Người dân nô nức ra đường

Bà Trương Mỹ Lệ cho biết: Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, lúc này bộ đội chủ lực chưa vào được khu vực mé Tây Nam, vì vậy lực lượng thanh niên tự vệ võ trang Sài Gòn – Gia Định đứng ra tuyên tuyền, nắm các vị trí mà quân địch bỏ lại. Dùng loa phóng thanh phát đi các thông điệp đã được ghi âm sẵn phát, đọc lời kêu gọi và treo cờ giải phóng khắp nơi.

Để phân biệt, lực lượng cách mạng đeo băng đỏ ở tay có hình hai ngôi sao vàng. Nhiều bà con thấy lực lượng cách mạng rất ngạc nhiên, ai cũng hỏi: “Tụi mày là Việt cộng hả”, bởi người dân đâu có thể hình dung được những người hôm qua là học sinh, thanh niên quen thuộc sinh sống xung quanh lại là chiến sĩ cách mạng.

Những trang sử hào hùng của Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh ghi lại sự kiện ngày 30/4/1975: Đại quân ta ồ ạt tiến vào thành phố. Quần chúng rầm rộ đổ ra đường. Thanh niên và đồng bào Sài Gòn – Gia Đình đã dẫn đường, đưa quân tiến chiếm các mục tiêu quân sự, hành chánh của địch và ngay sau đó trở thành lực lượng tiếp quản mang băng đỏ vào tay, cầm vũ khí canh gác các cơ sở trước đây còn là của nguỵ quân, nguỵ quyền. Chỉ trong vòng một buổi sáng 30/4/1975, dòng thác người xuống đường cướp chính quyền với khí thế rực lửa cách mạng đã phối hợp nhịp nhàng với các lực lượng cách mạng đang tiến vào giải phóng hoàn toàn thành phố.
Đến trưa 30/4, sau khi địch đầu hàng, lực lượng thanh niên võ trang trở thành những người nắm chính quyền lâm thời trước khi bàn giao lại cho lực lượng quân quản. “Như đã chuẩn bị từ trước, ngay sau khi khởi nghĩa thành công, lực lượng thanh niên võ trang đã tiến hành các công việc tuyên tuyền, vận động quần chúng ổn định cuộc sống. Thanh niên đứng ra tổ chức các bàn đăng ký trình diện của quân địch, tổ chức thu gom vũ khí, quân tư trang do quân địch tháo chạy bỏ lại. Khi đó, hai căn nhà bên cạnh nhà 115 Bàn Cờ, từng là trụ sở của phòng vệ quân sự của địch được trưng dụng để chứa vũ khí đã đầy ắp”, bà Tư Liêm cho biết.

Tại nhiều điểm, nhân dân đã mang máy may, vải và cùng hỗ trợ may cờ giải phóng. Nhiều thanh niên, sinh viên và người dân ra đăng ký xin tham gia công tác. Thanh niên, sinh viên đứng ra vận động người dân góp sơn để đi xóa cờ “ba que” và vẽ lên trên cờ mặt trận.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Hảo (tại khu vực Xóm Chiếu - Khánh Hội, quận 4), cho biết: “Trước khi cuộc nổi dậy nổ ra, gần một nửa cơ sở của ta đã bị địch phát hiện, bắt bớ. Tuy chỉ còn một nửa cơ sở nhưng do chuẩn bị kỹ cùng với sự giúp sức của người dân nên nổi dậy diễn ra thành công. Lúc này, ta đã quy tụ được rất nhiều lực lượng từ các Đoàn công tác xã hội, sinh viên Y, Dược, Nha và những người có tình cảm với cách mạng sáp vào giúp lực lượng cách mạng. Họ giúp lập danh sách những người ra đầu hàng, thu gom súng đạn của địch bỏ lại. Ngoài ra, bọn du đãng lợi dụng tình hình hỗn loạn để gây mất trật tự an ninh nhưng người dân đứng ra hỗ trợ nên an ninh khu vực đó đã diễn ra rất trật tự và thuận lợi”.

Là một “cựu dân” Sài Gòn, được chứng kiến những thời khắc lịch sử diễn ra trong ngày 30/4, ông Nguyễn Đức Khôi ( nhà ở quận Tân Bình) chia sẻ: “Sáng hôm đó, tôi xuống trung tâm thành phố, nghe người dân râm rang kháo nhau rằng Cách mạng đã về, Sài Gòn sắp được giải phóng, tự dưng tôi thấy bồi hồi trong lòng. Đến trưa ngày 30/4, khi tôi đang ở quận 5, thấy mọi người cùng ùa ra đường, thanh niên thì cầm cờ Giải phóng, người già thì hô vang “Sài Gòn giải phóng rồi bà còn ơi”. Thật sự lúc đó trong lòng tôi dâng lên một cảm giác khó tả. Tôi hoà vào dòng người, đi hết tuyến phố này qua tuyến phố khác, ra đến quận 1 lúc nào không hay. Khi ấy, dòng người từ các quận lại hoà vào cùng dòng người đang reo hò ở trung tâm quận 1. Đến chiều, đường phố Sài Gòn vẫn còn ngổn ngang quần áo, mũ nón của lính nguỵ vứt lại khi bỏ chạy thoát thân vì sợ quân Cách mạng bắt giữ”, ông nhớ lại.

Nhiều người dân từng sống ở Sài Gòn trước 1975 cũng cho rằng, ngày 30/4 cách đây 40 năm cũng đã để lại cho họ nhiều ấn tượng khi chứng kiến thời khắc lịch sử trọng đại của đất nước. “Chỉ cần một tin loan báo là quân giải phóng đang tiến vào Sài Gòn thì hầu như người dân nào cũng bỏ dở cả việc đang làm mà chộn rộn chờ đợi để đến khi thấy bóng quân giải phóng thì cứ như vỡ oà. Lòng dân lúc đó khao khát lắm”, bà Trần Thị Bích Liên - sinh sống ở khu vực Thị Nghè trước năm 1975, chia sẻ.

Hoàng Tuấn - M.T

Nguồn: http://baotintuc.vn/tu-lieu/ky-uc-nguoi-dan-sai-gon-trong-ngay-304-lich-su-20150428234106474.htm

Về bức ảnh xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập 

 Có mặt trong “tổ mũi nhọn” của Thông tấn xã Việt Nam, nhà báo Trần Mai Hưởng (nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam) đã có mặt tại Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975. Bức ảnh “Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975” do ông chụp vào thời khắc lịch sử trọng đại ấy đã trở thành tác phẩm tiêu biểu, có giá trị lịch sử, được nhiều báo trong nước và quốc tế đăng tải.

Sự tình cờ ngẫu nhiên

Dịp kỷ niệm 39 năm giải phóng miền Nam, nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam Đỗ Phượng trong một lần trò chuyện với chúng tôi đã kể, tháng 3/1975, tổ phóng viên mà ông cử đi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh gồm phóng viên ảnh Vũ Tạo, Lâm Hồng Long, Hứa Kiểm, Hoàng Thiểm, Ngọc Đản (sau này là Tổng Biên tập Tạp chí Truyền hình), về sau có Đinh Quang Thành và phóng viên tin là Trần Mai Hưởng - người mà ông gọi đi cuối cùng, lái xe Ngô Văn Bình, điện báo viên Lê Thái. Lực lượng dự trữ của Tổng xã đến tổ ấy là cuối cùng ném vào chiến trường.

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975.

Sau khi giải phóng Đà Nẵng ngày 29/3, tổ công tác quay trở về Huế và nhận được điện mật từ Hà Nội do Phó Tổng Biên tập Đỗ Phượng ký, nội dung là: “Đưa các phóng viên ảnh Vũ Tạo, Lâm Hồng Long, Hứa Kiểm, Đinh Quang Thành cùng phóng viên tin Mai Hưởng đi tiếp vào trong…”. Tổ mũi nhọn đã chính thức được thành lập do phóng viên ảnh Vũ Tạo, phóng viên thông tấn quân sự làm tổ trưởng, lái xe là Ngô Bình, điện báo viên Thái.

Nhưng có một sự tình cờ ngẫu nhiên là, tổ phóng viên ấy đã gặp Sư đoàn 304, đi theo xe tăng của Lữ đoàn tăng thiết giáp 203 và Trung đoàn 66 bộ binh. “Tổ phóng viên mũi nhọn được cử đi từ Huế đã gặp được Nguyên Trưởng phòng thông tấn quân sự Trần Bình, lúc đó là Chính ủy sư đoàn 304 và đi cùng đội hình của Sư đoàn 304. Cũng chính vì đi theo đội quân chủ lực mũi thọc sâu mà nhóm phóng viên này cũng là nhóm phóng viên đầu tiên vào Sài Gòn và có mặt ở Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975”, nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam Đỗ Phượng nói.


Nhắc tới sự tình cờ này, nhà báo Trần Mai Hưởng cũng khẳng định rằng, ngoài việc ông nhất quyết xin đi chiến dịch vào tháng 3/1975 khi còn đang học dở dang trường Đại học Kinh tế Quốc dân và được Phó Tổng Biên tập Đỗ Phượng khi ấy đồng ý, thì có nhiều việc sau đó, nhất là khi chụp bức ảnh “Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975” là một sự tình cờ, ngẫu nhiên và cũng đầy may mắn.

“Khoảng 10/4, tất cả đi trên chiếc xe commăngca đít vuông của Liên Xô do Ngô Bình lái rời Huế, vào Đà Nẵng rồi đi thẳng vào phía Nam. Chỉ có điều chúng tôi không thể hình dung ra rằng, chỉ vài tuần sau đó đã có mặt ở Sài Gòn vào đúng ngày chiến thắng”, nhà báo Trần Mai Hưởng kể.

Bức ảnh nổi tiếng

Trong đội hình thọc sâu của Sư đoàn 304, đêm 29/4/1975, từ khu đồn điền cao su Ông Quế (Long Thành, Đồng Nai), tổ mũi nhọn tiến vào Sài Gòn. Ban đầu, phóng viên Đinh Quang Thành và Hứa Kiểm đi cùng xe với Trung đoàn 66 bộ binh. Các phóng viên Vũ Tạo, Trần Mai Hưởng, điện báo viên Thái đi xe do Ngô Bình lái. Chiếc xe commăngca lọt thỏm giữa những chiếc tăng T54, xe thiết giáp, xe tải quân sự GMC.

Phóng viên tổ mũi nhọn của TTXVN, phóng viên Báo Quân đội Nhân dân, các chiến sĩ xe tăng 846 trong buổi gặp mặt ngày 8/3/2015. Trong ảnh: Hàng phía trước, từ trái sang: Lái xe tăng 846 Trần Bình Yên, chỉ huy xe tăng 846 Nguyễn Quang Hòa (người cầm bức ảnh), pháo thủ số 2 Nguyễn Bá Tứ. Hàng phía sau, từ trái sang: phóng viên ảnh Đinh Quang Thành, nhà báo Trần Mai Hưởng, nhà báo Nguyễn Mạnh Hùng (báo Quân đội Nhân dân), phóng viên ảnh Hứa Kiểm (hàng sau, ngoài cùng bên phải).

Rạng sáng ngày 30/4, mũi đột kích tiến thẳng vào trung tâm Sài Gòn, mục tiêu là Dinh Độc Lập. “Từng đoàn xe nối đuôi nhau, xe tăng dẫn đầu, rồi đến xe thiết giáp, xe chở bộ binh. Từ trong thành phố, từng đoàn người bị dồn ép đang bung ra, đi ngược chiều về phía Biên Hòa bằng đủ loại phương tiện”, nhà báo Trần Mai Hưởng kể.

Khoảng 10 giờ sáng 30/4, khi gần đến cầu Thị Nghè, phóng viên Đinh Quang Thành và Hứa Kiểm gặp xe của nhóm phóng viên Vũ Tạo, Trần Mai Hưởng thì lên đi cùng. Cũng chính ở cầu Thị Nghè, phóng viên Nguyễn Mạnh Hùng (báo Quân đội nhân dân) khi đang đi trên một chiếc xe mui trần của Trung đoàn 66 cũng xuống đi nhờ tổ phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam vì lúc ấy ngay giữa cầu Thị Nghè có một xe thiết giáp của địch bị ta bắn cháy, đạn trong xe nổ tung từng đợt trùm lửa lên khắp mặt cầu. Các xe to khó có thể lách qua được.

Đường phố Sài Gòn có nhiều ngả rẽ, sau nhiều lần hỏi đường, xe của tổ phóng viên cũng tới nơi. Khi vào tới Dinh Độc Lập, điều đầu tiên đập vào mắt cả nhóm phóng viên là cánh cửa sắt đã bị hất tung. Các phóng viên nhảy ra khỏi xe. Lúc đó, xe tăng và bộ binh của ta vẫn đang tiếp tục tiến vào Dinh Độc Lập. Một chiếc xe tăng trong đội hình thọc sâu đang tiến qua cổng chính.

Một hình ảnh rất đẹp, mà sau này trong hồi ký “Năm tháng xa xanh”, nhà báo Trần Mai Hưởng đã viết: “Nắng rực rỡ, xe tăng vừa vào ngang cổng, cánh cửa sắt đổ sập vẫn nằm trên mặt đất, lá cờ giải phóng trên tháp pháo tung bay. Cùng với những người lính tăng là các chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 66 cùng hành tiến hiên ngang bên tháp pháo”.

Đúng lúc đó, phóng viên Trần Mai Hưởng giơ máy lên chụp. Đấy chính là bức ảnh “Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975”, chụp xe tăng 846 (Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2). Sáng sớm 1/5/1975, toàn bộ phim của tổ phóng viên mũi nhọn với những thước phim có giá trị tư liệu lịch sử như xe tăng quân giải phóng chiếm Dinh Độc Lập, nội các Dương Văn Minh, cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập… đã được phóng viên Hứa Kiểm trực tiếp cầm lại để chuyển ra Hà Nội.

Bức ảnh “Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1075” của phóng viên Trần Mai Hưởng trong suốt những năm sau này cũng được nhiều báo lớn chọn làm biểu tượng khi tổ chức các chuyên trang, chuyên mục dịp kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam 30/4. Hiện nay, phim gốc của bức ảnh được lưu giữ tại kho Tư liệu ảnh quốc gia Thông tấn xã Việt Nam.

“Anh Vũ Tạo cũng chụp cảnh này nhưng khi xe tăng đã vào sâu hơn trong Dinh một chút. Phim này cũng được lưu giữ tại kho Tư liệu ảnh quốc gia của Thông tấn xã Việt Nam”, nhà báo Trần Mai Hưởng cho biết.

Tháng 3/2015, nhân dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tác giả của bức ảnh, những phóng viên của tổ mũi nhọn Hứa Kiểm, Đinh Quang Thành, nhà báo Nguyễn Mạnh Hùng (Báo Quân đội nhân dân) - những người có mặt tại Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975 và những chiến sĩ trên chiếc xe tăng 846 - chiếc xe tăng mà phóng viên Trần Mai Hưởng chụp trưa 30/4/1975 đã gặp lại nhau. Lúc này, các chiến sĩ xe tăng, gồm chỉ huy Nguyễn Quang Hòa, lái xe Trần Bình Yên, pháo thủ số 2 Nguyễn Bá Tứ (thiếu pháo thủ số 1 Trần Quý ở Hải Phòng do chưa liên lạc được) mới biết tác giả của bức ảnh.

Lời kể những người trong cuộc
Nguyên Tổng giám đốc TTXVN Đỗ Phượng: “Có ý kiến nói bức ảnh đó được dựng lại hiện trường là không đúng. Trong chiến tranh, chưa bao giờ có chuyện Thông tấn xã dựng lại hiện trường để chụp. Thông tấn xã không bao giờ được phép làm việc đó. Chúng ta có nhiều phóng viên và thực tế ảnh xe tăng vào Dinh Độc Lập nhiều phóng viên chụp. Hơn nữa, những chứng nhân lịch sử còn cả. Anh Phạm Xuân Thệ là người tổ chức cho tổ phóng viên ấy đi cùng Trung đoàn vào Dinh Độc Lập, anh ấy thuộc lòng chuyện đó”.

Chỉ huy xe tăng 846 Nguyễn Quang Hòa: “Khi vào Dinh Độc Lập, anh em vẫn được lệnh trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nếu như địch phản ứng lại. Đến 4 giờ chiều 30/4/1975, đội hình tăng được lệnh rút ra tập kết ở Tổng kho Long Bình. Về đến tổng kho Long Bình, anh em nhận vị trí, nhà ở và không có lúc nào quay lại Dinh Độc Lập nữa. Vì vậy, không thể có tái diễn lần nào để mà chụp lại cả”.

Pháo thủ số 2 Nguyễn Bá Tứ: “Lần vào Sài Gòn nhân kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng miền Nam, khi vào phòng truyền thống của Dinh Độc Lập, thấy bức ảnh “Xe tăng chiếm Dinh Độc Lập ngày 30/4”, tôi nhận ngay ra mình là người ngồi trên tháp pháo xe tăng trong bức ảnh. Tôi đã gọi điện cho anh Nguyễn Quang Hòa, nói rằng: Đúng ảnh xe tăng của mình anh ạ”.

Nhà báo, Đại tá Nguyễn Mạnh Hùng (Báo Quân đội nhân dân): “Khi lái xe Ngô Bình cho xe vọt qua cánh cổng vào trong, mọi người lập tức nhảy xuống. Xe tăng ta và các xe bộ binh của ta tiếp tục tiến vào Dinh Độc lập, tiến vào đường Thống Nhất. Có một chiếc xe tăng tiến qua cổng Dinh, đấy là lúc anh Trần Mai Hưởng bấm kiểu ảnh chính xác về xe tăng 846 mà sau này đã trở thành bức ảnh mà tôi cho rằng đấy là bức ảnh tiêu biểu. Tôi thấy anh Hưởng và các phóng viêc khác của tổ mũi nhọn Thông tấn xã Việt Nam chụp ảnh, nhưng bản thân tôi lúc ấy thì đang đi tìm người cắm cờ. Phần khác máy ảnh đã hết phim”.

Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng đi đầu của của Trung đoàn 66 cùng với lực lượng xe tăng lữ đoàn 203 đánh chiếm Dinh Độc Lập. Cùng đi với chúng tôi có một tổ phóng viên báo chí từ Sư đoàn đưa xuống… Khi tiến công vào Sài Gòn, bộ binh chúng tôi mỗi tiểu đội trên một chiếc xe tăng, số còn lại ngồi trên xe thiết giáp, đội hình phía sau ngồi trên các xe ô tô. Khi xe tăng húc bật cánh cửa cổng Dinh Độc Lập là các xe ào vào liên tiếp rất nhanh… Sáng 1/5/1975 toàn bộ xe tăng và bộ binh chúng tôi rút ra tập kết tại Tổng kho Long Bình… Vậy tôi khẳng định ngày 30/4 hoặc 1/5/1975 không có dựng lại cảnh xe tăng và bộ binh để chụp ảnh”.

Phóng viên ảnh Hứa Kiểm: “Đến trưa ngày 30/4/1975 chúng tôi là một trong những nhóm phóng viên đầu tiên có mặt tại Dinh Độc Lập. Tuy vậy chúng tôi vẫn không kịp chụp những tốp xe tăng đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập. Những tốp xe tăng sau vẫn tiếp tục vào dinh, anh Hưởng chụp được hình ảnh một trong những chiếc xe tăng đó. Kết quả Trần Mai Hưởng đã có tác phẩm ảnh đẹp: Xe tăng tiến vào cổng Dinh và lăn qua cánh cổng đã đổ. Tôi chứng nhận đây là tấm ảnh chụp tại chỗ xảy ra ngày 30/4/1975 tại Dinh Độc Lập, Sài Gòn. Không phải là ảnh dựng lại hay chụp lại. Vả lại nhiệm vụ của anh Hưởng là viết tin và tìm cách chuyển phát nhanh về Hà Nội”.

Phóng viên ảnh Ngọc Đản: “Tôi cũng có mặt tại Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975. Tôi khẳng định, việc bố trí lại hiện trường là không có, làm sao lúc ấy bố trí được và bố trí để làm gì? Không phóng viên nào có ý nghĩ ấy trong những giờ phút huy hoàng của cả dân tộc”.
Hoàng Linh


Xuân Phong
Nguồn:http://baotintuc.vn/tu-lieu/ve-buc-anh-xe-tang-tien-vao-dinh-doc-lap-20150428203620677.htm