(Chủ đề 30.4)
MỘT ĐỒNG MINH PHẢN BỘI ĐÃ BỨC TỬ VNCH
Trong quá khứ có rất nhiều phim ảnh và hay chương trình TV Mỹ bóp méo
về chiến tranh VN hay cố gắng làm nặng thêm mặc cảm của người Mỹ đối
với VN nhằm mục đích che khuất hành động phản bội lại người đồng minh
VNCH của mình. Nhìn cuộc chiến bất cân xứng trước năm 1975, để cãm
thương thêm cho số phận nghiệt ngã của một quân lực, đó là QL.VNCH.
Khi được hỏi về chiến tranh của VN, G.S. Phạm Kim Vinh có những bực tức và bày tỏ với giới truyền thông Mỹ:
"Tôi muốn nhân dịp này nhắc lại rằng báo chí và truyền hình Mỹ rất bất
lương khi loan tin về chiến tranh VN. Đạo đức chuyên nghiệp thông thường
của nghề truyền thông là phải tìm sự kiện ở cả hai phía rồi hãy nói và
viết. Báo chí và truyền hình Mỹ nhất là tờ Newsweek và hãng CBS lại chỉ
dùng một phía để tường thuật. Đó không phải là một điều vẻ vang cho nước
Mỹ."
Cụm từ bức tử VNCH đã xuất hiện sau ngày ký hiệp định Paris,
số phận miền nam VN cũng từ đó đã tan hàng vào ngày 30.4.1975 vì sự phản
bội của đồng minh. Người viết xin ghi lại một vài nét chính về cuộc nói
chuyện của giáo sư Phạm Kim Vinh với giới truyền thông Mỹ vào ngày
24-7-81 tại Huntington Beach, CA.
Theo ông Bruce Palling và cô
Judy Coburn thì họ muốn phỏng vấn và thảo luận với tác giả quyển "Lịch
sử cuộc chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng Hòa" để tìm hiểu thêm trong
khi họ thực hiện đoạn phim "Chiến tranh miền Nam VN từ 1968 đến
1972."Cũng nên biết ông Phạm Kim Vinh đã phục vụ 14 năm trong quân lực
Việt Nam Cộng Hòa. Ông cũng đã từng chỉ huy một trung đoàn lục quân tại
Quảng Trị. Sau đó ông được chỉ định để diễn giảng về các đề tài chiến
thuật và chiến lược tại Trường Chỉ Huy và Tham Mưu Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa. Ông đặt trách huấn luyện tại trường đó về môn Hành Quân Trực
Thăng Vận. Ngoài ra, ông cũng là Ủy viên Ủy ban Nghiên cứu Du kích chiến
và phản Du kích chiến tại trường trên. Trước khi giải ngũ, ông Vinh là
một Ủy viên trong Ủy ban soạn thảo binh thuyết cho lục quân VNCH do Cục
Quân Huấn Tổng Tham Mưu thiết lập.
http://www.vietnamvanhien.net/PhamKimVinhnoiveCTVN.pdf
VÔ NGHĨA VÀ BẤT LƯƠNG
Khi trả lời câu hỏi ông nghĩ sao về công cuộc "Việt hóa" dưới thời Nixon, ông Phạm Kim Vinh thẳng thắn nói:
"Danh từ Việt hóa là một danh từ vô nghĩa và bất lương. Vô nghĩa vì
nhiều năm trước khi Mỹ tới VN, người Việt quốc gia đã tự lực chiến đấu
chống cộng rồi. Bất lương là vì dưới danh nghĩa Việt hóa người ta đã
buộc vài trăm ngàn quân chính qui của VNCH phải thay thế hẳn cho trên
nửa triệu quân đồng minh, nhưng lại không cho quân lực ấy được có những
phương tiện dồi dào và ghê gớm như khối quân đồng minh kia. Và cũng vì
các danh từ vô nghĩa đó, khi sự việc diễn ra không tốt đẹp nữa, người ta
đã có sẵn vật tế thần là quân lực VNCH để mà trút cho quân lực mọi lời
chê bai làm nhục."
Nói về những ngày cuối cùng của tháng tư đen
lịch sử nầy, chúng ta thấy có ông Mac Namara cựu bộ trưởng quốc phòng
Hoa Kỳ, với quyển hồi ký "Nhìn Lại Thảm Kịch và Những Bài Học Việt Nam"
(In Retrospect, The Tragedy And Lessons Of Việt Nam). Ông cho tung ra
quyển nầy vào đúng lúc cộng sản Việt Nam làm lễ lớn khắp nước ăn mừng 20
năm ngày mà họ cho là "Đại Thắng Mùa Xuân", mừng ngày chiến thắng
"Mỹ-Ngụy"!
Hồi ký của ông đã để lộ hẳn cái hèn của một chánh khách
Mỹ có tầm cỡ, vì ông không biết thẹn là đã có hành động phản bội với
đồng minh, vừa bàn giao Việt Nam Cộng Hòa cho bọn cộng sản (nếu không
muốn nói là bán đứng), vừa đổ hết trách nhiệm mất nước cho quân dân cán
chính Việt Nam Cộng Hòa.
Ông đã khóc (nước mắt cá sấu!) khi bị phỏng
vấn trên đài ABC, thật tội nghiệp ! có lẽ khóc vì quá mắc cở và vì có
quá nhiều mặc cảm tội lỗi trong chiến lược "phải để cho ta bị chiến
bại". Ông không hề khóc cho 58,000 quân nhân Mỹ các cấp dưới quyền ông
đã phải bị hy sinh oan uổng cho cái "thuyết domino" mà đến giờ nầy ông
mới cho là sai, làm tủi hổ vong linh những người đã bỏ mình cho chính
nghĩa chống Cộng của Thế Giới Tự Do (trong thời kỳ còn chiến tranh lạnh)
đồng thời làm nhục cả quân nhân các cấp thuộc đủ mọi quân binh chủng
Hoa Kỳ đã từng tham gia anh dũng trong cuộc chiến ở Việt Nam.
Dĩ
nhiên ông cũng không bao giờ nghĩ đến hay nhắc đến quân dân cán chính
miền Nam Việt Nam mà hai đời Tổng Thống Hoa Kỳ vẫn gọi và xem họ là
người đồng minh kiên cường trong nhiệm vụ chống Cộng, giữ vững tiền đồn
chống cộng của Thế Giới Tự Do ở Đông Nam Châu Á.
BỨC TỬ VNCH BẰNG VIỆC CẮT VIỆN TRỢ QUÂN SỰ
Khi Hiệp Định Paris được ký kết, ngày 29/3/73, tại Bộ Tư Lệnh MAC-V
trong phi trường Tân Sơn Nhứt, 42 quân nhân Mỹ đại diện cho các quân
binh chủng từng tham chiến tại VN làm lễ cuốn cờ dưới sự có mặt của Đại
sứ Bunker và tướng Weyand, Tự Lệnh Quân Lực Mỹ tại VN. Và trong buổi
chiều cùng ngày người quân nhân cuối cùng của quân đội Mỹ đã rời Việt
Nam dưới sự chứng kiến của Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến. Thế là
vài trò quân sự của Mỹ tại VN đã chấm dứt
Sau Hiệp định Paris hơn
nửa triệu quân Ðồng Minh đã rút đi, Quân đội VNCH một mình phải gánh vác
toàn bộ chiến trường với nhiều khó khăn thiếu thốn. Tháng 6-1973 Quốc
Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại
Ðông Dương Việt Mên lào, được áp dụng từ giữa tháng 8-1973 cấm hoạt
động quân sự trên toàn cõi Ðông Dương. Tháng 10-1973 Quốc Hội Mỹ ra Ðạo
luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (Wars Powers Act), đòi hỏi
Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham
chiến. Quân phí của Hoa kỳ trong chiến tranh Ðông Dương tăng dần từ 1967
là 20 tỷ, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên tới đỉnh cao là 29 tỷ, nhưng
năm 1970, 1971 tụt xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Cuối 1972 Hoa Kỳ rút hết
quân sau Hiệp định Ba Lê, năm 1973 viện trợ quân sự cho VNCH xuống còn 2
tỷ 1, năm 1974 chỉ còn 1 tỷ 4, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong
đó kể cả ngân khoản để trả lương cho nhân viên DAO Hoa Kỳ.
Theo Đại
tướng Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87, 92) Hậu quả
của cắt giảm quân viện khiến cho Không quân VNCH phải giải tán hơn 200
phi cơ chiến đấu, oanh tạc, vận tải thám thính, giảm giờ bay thực tập và
yểm trợ , yểm trợ giảm 50%, vận chuyễn trực thăng giảm 70%, không vận
bằng vận tải cơ bị cắt giảm 50%. Hoạt động Hải quân bị cắt giảm 50%,
hoạt động từ tháng 7-1974 ở sông ngòi giảm 70%, giải tán 600 giang
thuyền. Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một
tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hoả lực giảm 60%.
Vào tháng 2-1975, số lượng đạn tồn kho của tất cả các loại súng trường,
phóng lựu, súng cối, đại bác, lựu đạn… tuột xuống con số nguy hiểm, chỉ
còn đủ xử dụng từ 25 đến 31 ngày…Tháng 4-1975 , đạn tồn kho ở bốn kho
dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày…Kể từ
sau Hiệp định Paris VNCH không còn trông cậy vào yểm trợ của B-52 nữa.
“Quân nhân VNCH bị bắt buộc phải chiến đấu trong một nhu cầu dưới mức
bình thường khiến khả năng cũng như sự chu toàn nhiệm vụ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày đã làm sút giảm khả
năng của họ. Tình trạng này không cho phép kéo dài nếu muốn duy trì một
lực lượng quân sự có khả năng”. Người Mỹ ký hiệp định Paris với mục đích
rút ra khỏi vũng lầy VN đồng thời trao đổi tù binh Mỹ. Quyền lợi chính
của miền Nam VN không được chú trọng đến.
Việc cắt giảm viện trợ của
Hoa Kỳ cho VNCH và các con số liên hệ đã được ghi lại rất rõ ràng với
nhiều chi tiết trong các tài liệu Việt-Mỹ:
Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa (Cao văn Viên)
Khi Đổng Minh tháo chạy (Nguyễn Tiến Hưng)
The Fall of South Vietnam : Statements by Vietnamse Military and
Civilian Leaders (Stephen Hosmer & Konrad Kellen & Brian Jenkins
[RAND Corporation]
Vietnam from Cease-Fire to Capitulation (William Le Gro)
Tình trạng quân cụ của VNCH ( phần Lục quân )
Trong chương trình ‘Việt Nam Hóa’ chiến tranh, sửa soạn cho Hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã chuyển giao cho VNCH:
- Kế hoạch ENHANCE (từ thàng 5 đến tháng 10, 1972)
100 Hệ thống chống chiến xa TOW
32 giàn đôi (mỗi giàn 2 đại bác phòng không) 40 ly, gắn trên chiến xa
96 giàn đại liên (mổi giàn 4 khẩu ) phòng không 30.cal
- Kế hoạch ENHANCE PLUS (Tháng 10-11, 1972)
72 Thiết giáp M-48A3
117 Thiết vận xa M 113
8 Xe M-706
44 Đại bác 105 ly howitzer
12 Đại bác 155 ly
1302 xe vận tải 2 tấn ½
425 xe vận tải nặng loại 5 tấn
(Các con số trên dựa theo Báo cáo của Bộ QP HK gửi cho Dân biểu Paul Mc Closkey, hơi khác với tài liệu của ĐT LeGro)
Nhìn trên văn bản và cứ theo báo chí HK thì số quân cụ (gồm thêm các
phi cơ, chiến hạm, chiến thuyền..quân trang, quân dụng) thì trị giá tổn
cộng được chuyển giao lên đến cả tỷ USD! Nhưng trên thực tế có những vấn
đề.đặt ra cho QL VNCH trong việc tiếp nhận và sử dụng các quân cụ này.
Đại Tuớng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu truởng của QLVH đã ghi trong tập
sách của Ông (trang 86-94) khá nhiều chi tiết về tình trạng khó khăn về
tiếp liệu của QL VNCH:
‘Vào cuối năm 1974, tổng số nhu cầu cần được
thay thế lên đến 400 triệu mỹ kim. Những quân dụng cần thiết nhất như là
vũ khí và đạn thì chỉ được thay thế khoảng 70 %. Một vài chương trình
thay đổi quân dụng bị đình chỉ vì thiếu ngân quỹ..’
'Chỉ có 33 %
(tương đương 24 triệu mỹ kim ) tổng số quân cụ/vũ khí cần thiết được
thay thế. Thiếu phụ tùng thay thế càng tạo thêm trở ngại cho vấn đề bảo
trì. Nhiều quân cụ/vũ khí tại các đơn vị tác chiến phải chờ từ 30 đến 45
ngày để được thay thế, sửa chữa’
Tướng Viên đưa ra một bảng nhu cầu
thay thế khá chi tiết về các chiến cụ bao gồm xe tăng, đại bác, quân
xa.. Mà phần trăm cần thay thế lên đến từ 60 (cho đại bác 175) đến 95%
(cho đại bác 155ly) chưa kể hơn 4000 quân xa..nằm ụ.
Quan trọng nhất
là số lượng đạn tồn kho (tháng 2 năm 1975), giảm đến mức nguy hiểm: so
với mức dự trữ căn bản là 60 ngày chỉ còn cung ứng được 30-40 ngày!
Đạn Số ngày tồn kho
Đạn M-16 31
Phóng lựu 40 ly 29
Súng cối 60 27
Súng cối 81 30
Đại bac 105 34
Đại bac 155 31
Lựu đạn 25
‘ Với thời gian là 45 ngày từ lúc đặt hàng và chuyên chở tới VN bằng
tàu, thì thờì gian..quá lâu cho trường hợp khẩn cấp.. Sau tháng 3-1975,
với tất cả các đơn vị di tản từ Vùng I và II về, tình trạng đạn tồn kho
trở nên tuyệt vọng. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở 4 kho đạn dự trữ tuột
xuống chỉ còn đủ dùng trong 14 đến 20 ngày.
Tuớng Phillip Davidson (cựu Truởng Ban Tình báo MAC-V) nhìn việc cắt giảm viện trợ một cách bi đát hơn:
‘Từ 1974, QL VNCH đã phải đánh trận với phương tiện rất thiếu thốn. Tất
cả mọi chương trình huấn luyện đều thu hẹp. Khả năng di động do phi cơ
vận tải và trực thăng giảm hơn 50%. Thiếu cơ phận thay thế làm đủ mọi
loại phi cơ, tàu thuyền, xe cộ phải ngưng hoạt động: cách giải quyết
bằng tháo gỡ từ phương tiện này đễ tạm lắp vào phương tiện khác..chỉ làm
hư hao và hủy hoại thêm quân cụ.. Thiếu thốn đạn đưa đến thêm những tổn
thất nhân sự nơi chiến trường và người bị ảnh hưởng nhất là những
thương binh: việc di tản cấp cứu bị chậm trễ, và nhiều khi phải dùng..xe
Honda, thuyền chèo hay 4, 5 xe cứu thương, hết xăng, được kéo bằng một
xe vận tải. Thương binh được đưa đến quân y viện nơi đang thiếu thuốc
men, băng, dịch truyền và các phương tiện cấp cứu khác..’ ( VietNam at
War, trang 671-675
TÌNH TRẠNG VŨ KHÍ ĐẠN DƯỢC CỦA VNCH NĂM 1975
Một bản báo cáo ‘mật’ với tựa đề ‘ Tình trạng đạn của Nam Việt Nam’ gửi
cho Ủy Ban Quốc Hội Mỹ trong cuộc viếng thăm VN vào tháng 2,1975, ghi:
'Việt Nam tiêu thụ 131 ngàn tấn đạn trong khoảng thời gian từ 1 tháng
7, 1974 đến 31 tháng Giêng 1975, trung bình mỗi tháng khoảng 18 ngàn 700
tấn, con số tương tự như trong thời gian cuối 1973 nhưng cao hơn thời
gian Tháng 4-Tháng 9, 1973.’
Về số luợng đạn đại bác bắn mỗi tuần cũng được đưa ra với nhiều chi tiết:
‘Trong năm 1973, VNCH bắn đi 39 ngàn quả mỗi tuần (trong các tháng 4 và
5) , Tăng lên đến 63 ngàn mỗi tuần (trong các tháng 11 và 12. Năm 1974
PB VNCH bắn 76 ngàn quả/ tuần (trong các tháng 5 và 6) giảm xuống còn 63
ngàn/ tuần (trong các tháng 9, 10 và 11).
Tổng số lượng đạn cần
thiết để đủ dùng trong 2 tháng được ghi là 126 ngàn tấn; Với sự cắt giảm
ngân sách từ Quốc hội HK: lượng đạn bị cắt 30 % và số đạn ở mức ’an
toàn’ sẽ hết vào giữa năm 1975 (Defense Department Fact sheet:”GVN
Ground Ammunition Situation” to Rep. Fenwich)
Trước những thiệt hại
của QL VNCH trong khi chống trả lại các cuộc tấn công của CSBV, và để
tìm hiểu tình hình thực tế tại VN, Ngày 25 tháng 3, 1975 ,TT Ford đã gửi
một phái đoàn đặc biệt do Tuớng Frederic Weygand hướng dẫn đến VN. Phái
đoàn của Tướng Weygand đã đưa ra những nhu cầu tối thiểu và khẩn cấp
của VNCH để có thể tồn tại: ‘744 đại bác, 446 tank và thiết vận xa, trên
100 ngàn súng trường, trên 5000 súng máy, 11 ngàn súng phóng lựu,
khoảng 120 ngàn tấn bom/đạn, cùng khoảng 12 ngàn xe vận tải’ (Without
Honor: Defeat on Vietnam and Cambodia của Arnold Isaacs trang 146)
Bản báo cáo này không được Quốc Hội HK quan tâm vì lý do đơn giản: ‘No more VietNam’.
Những người..trong cuộc:
Một số sự kiện được những người trực tiếp phụ trách về tiếp liệu cho QL
VNCH như Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng cục Phó Tổng cục Tiếp vận ghi lại:
‘Sau Hiệp định Paris, chúng tôi biết là viện trợ và tiếp liệu sẽ bị cắt
giảm, Năm đầu tiên, tiền viện trợ còn 1.4 tỷ USD, nhưng qua năm thứ 2,
chỉ còn phân nửa, Do đó tại Tổng Cục Tiếp Vận (TCTV), chúng tôi đã đưa
ra khuyến cáo yêu cầu mọi ngành tiết kiệm, tìm cách để mọi người sử dụng
kỹ hơn những gì đang có. Chúng tôi chú trọng nhất đến đạn vì đạn chiếm
70-80 % ngân sách được cấp.
’Đạn càng ngày càng thiếu. Bắt đầu từ
1974, chiến sự gia tăng, những cuộc đụng độ xẩy ra thường xuyên hơn,
nhất là tại Khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nhu cầu đạn tăng thêm. Các
tiền đồn khi bị tấn công rất cần sự yểm trợ của Pháo binh.
‘Vấn đề
thiếu thốn thứ nhì, sau đạn, là nhiên liệu: Nhiên liệu cho trực thăng,
phi cơ chiến đấu, chiến hạm, chiến đỉnh và xe vận tải..Thời gian hoạt
động của các phương tiện này bị cắt giảm bớt phân nửa. Sự kiện này không
xẩy ra ngay khi HK rút quân, nhưng suy giảm từ từ , xuống còn ..phân
nửa vào năm 1974.'
TCTV với sự cố vấn của DAO tìm đủ mọi cách để
giữ cho QL VNCH ‘sống còn’: Những cuộc thuyết trình về tình trạng tiếp
liệu đã được tổ chức tại các Vùng Chiến thuật với các Tư lệnh Vùng cùng
các Sĩ quan cao cấp của Bộ Tham mưu Vùng liên hệ..Trên nguyên tác TCTV
thường chỉ đáp ứng 50% yêu cầu của ‘lượng trung bình của nhu cầu‘ và để
‘có được lượng hơi đủ..các đơn vị thường..tăng thêm con số của lượng
tiêu thụ chính thức. Riêng về đạn đại bác là một vấn đề gây khá nhiều
‘khó khăn’ cho các Bộ Tham mưu hành quân Vùng, vì không yểm bị giới hạn,
chỉ còn trông cậy vào Pháo binh..
Một thí dụ do một Tướng , Phó Tư lệnh Vùng nêu ra:
Đạn dược được cấp cho các đại bác là:
105 tỉ lệ cấp trung bình năm 1972 là 180 năm 1975 là10 viên
155 150 5
175 30 3
KẾT LUẬN:
Người đồng minh khai tử Nam Việt Nam bằng một hành động cắt viện trợ
một cách tàn độc, hèn hạ và tục tỉu, trong khi đó để cho Liên Xô và
Trung Cộng cấp cho Hà Nội một hoả lực hùng hậu. Mọi chuyện xảy ra là do
do việc cắt giảm tệ hại về tiếp liệu cho QLVNCH. Vũ khí, đạn được và đồ
phụ tùng, thuốc men, nhiên liệu, tất cả mọi thứ. Không một lực lượng Nam
Việt Nam trong tình trạng "đói" võ khí đạn dược như vậy mà có thể đẩy
lùi quân cộng sản Bắc Việt trang bi đạn dưọc vũ khí ầy đủ.
Trung
bình theo tiêu chuẩn một lính bộ binh Mỹ được phát 400 viên đạn cho khẩu
súng cơ hữu cuả anh ta, trong khi đó vào đầu năm 1975, một binh sĩ Nam
Việt Nam được phát cho có 60 viên đạn cho một tuần. Xin lập lại 60 viên
M16 trong một tuần. Đạn trọng pháo bị cắt 90%, xe tăng và phi cơ bị cho
nằm ụ vì thiếu cơ phận thay thế (chúng trở thành những bức tượng điêu
khắc bất động). Vì thế VNCH đã bị người đồng minh phản bội bức tử vào
tháng tư đen 1975.
Người viết xin mượn bài thơ " Tháng tư nhìn lại" của thi sĩ Phan Huy để thay lời kết của bài viết này.
Tháng Tư Nhìn Lại
Tháng Tư năm xưa Cờ Vàng đổ xuống
Trút lên hồn tổ quốc nỗi buồn đau
Ba sọc đỏ tuông trào theo trùng sóng
Tức tưởi nghẹn ngào biển rộng rừng sâu.
Ôi chính nghĩa giống nòi cam thất bại!
Bút mực nào tả hết nỗi hờn oan
Khi lá cờ ma Cộng tà sao máu
Trùm ách búa liềm khắp cả giang san.
Khi một dân tộc hiền hoà anh dũng
Chiến đấu bảo toàn lý tưởng tự do
Bị bạn đồng minh đem đi đổi chác
Cho thế ăn thua của một cuộc cờ.
Khi một quân đội kiêu hùng bách thắng
Buông súng bể nòng hết đạn cạn lương
Bao nhiêu tướng sĩ can trường tuẫn tiết
Mắt trợn trừng nhìn đất nước tang thương.
Khi một Sài Gòn phồn vinh nhân bản
Rực rở rạng ngời hòn ngọc Viễn Đông
Cay đắng uất hờn mang tên nghiệt súc
Bẽ bàng trôi theo số phận non sông.
Tháng Tư năm nay Cờ Vàng khởi sắc
Chính nghĩa Miền Nam toả sáng quê hương
Xin mời xem tiếp tại:
http://kimanhl.blogspot.de/
Bichthuy Ly 6/4/2016