SAU KHI CHẾT LINH HỒN CHÚNG TA SẼ ĐI VỀ ĐÂU ?
https://youtu.be/sHJj_64anxI
Sau khi chết, Linh Hồn bạn sẽ đi về đâu?
https://youtu.be/E1p0iLm86IY
" HẬU SỰ "- CỰU CHIẾN BINH QL.VNCH
Niệm Phật-Vãng sanh-Lưu xá lợi
Niệm Phật-Vãng sanh-Lưu xá lợi
Phim Tài Liệu Hồn Tử Sĩ - Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
https://youtu.be/QBENk6KkMJw
Cát Bụi Vô Thường (Sáng tác: Quý Luân)
CÁT BỤI VÔ THƯỜNG Sáng tác: Quý Luân Cuộc sống phù du sướng vui hay buồn Mai ta về đâu, cát bụi vô thường Khi bần hàn không ai xót! Xin lễ nghi khi sang giàu Ôi! cuộc đời bao đắng cay Vòng xoáy thời gian cuốn ta không ngừng An vui giờ đây chỉ còn muộn phiền Đêm về nhìn mưa hiu hắt Ta kẻ tha phương nơi này Xin đời đừng mãi thương đau. DK: Tìm về chốn, từng là ta Để được thấy lòng bình yên Vui từng tiếng kinh cầu Tâm hồn như đóa hoa sen Lặng nhìn xuống dòng thời gian Chợt bừng sáng ngọn đèn TÂM Không gì mãi bên đời Ai rồi cũng sẽ quay về! Nhìn Thấy đời kia ngỡ như còn thuyền Lênh đênh dòng trôi sóng vỗ chập chùng Danh lợi rồi như mây khói Năm tháng phiêu du bên đời Chỉ còn một chữ TÂM thôi! - Liên hệ nhạc sĩ Quý Luân - 0903.713.090 - Email: nhacsiquyluan9999@gmail.com - Web: www.nhacsiquyluan.com
https://youtu.be/7WSPf56kBEg
Cát bụi tuổi tên...
Thứ Bảy, 22/07/2017, 05:53 [GMT+7]
Ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
(Quảng Trị) có hơn một vạn mộ liệt sĩ được quy tập từ ngay sau 1975. Dù
quy tập từ rất sớm như vậy nhưng vẫn có một khu mộ với 69 ngôi mộ của
những liệt sĩ “chưa biết tên”. Gần 40 năm trước, khi quy tập về đây,
những bia mộ này ghi hai chữ “vô danh”, rồi sau này, hai chữ “vô danh”
ấy được thay bằng “liệt sĩ chưa biết tên”. Khu mộ những liệt sĩ “chưa
biết tên” ấy nằm ngay phía phải của đài Tổ quốc ghi công trung tâm nghĩa
trang.
Sông Thạch Hãn - nghĩa trang không mộ bia của hàng ngàn người lính trẻ năm 1972.Ảnh: L.Đ.D |
1. Cùng với
hành trình tìm kiếm hài cốt những liệt sĩ, khu mộ “liệt sĩ chưa biết
tên” ấy, không hiểu bằng cách nào đó, dần dần cũng được... có tên. Thay
vì những tấm bia không tên họ, gia đình những liệt sĩ bằng “ngoại cảm”,
bằng tâm linh, bằng… muôn ngàn cách để có một niềm tin rằng dưới bia mộ
không tên ấy là thân xác của thân nhân mình. Và không chỉ có thế, từ chỗ
“chưa biết tên” có ngôi mộ lại mang tên của... hai liệt sĩ.
Một lần, khi đưa nhà thơ Nguyễn Phan Quế
Mai và nhà văn Mỹ Bruce Weigl đi viếng Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn,
cả hai đã vô cùng ngạc nhiên khi đến thắp nhang ở khu mộ liệt sĩ “chưa
biết tên” này bỗng thấy có một ngôi mộ mang hai cái tên. Phía mặt bia đề
“liệt sĩ chưa biết tên” đã được thay bằng một tấm bia làm bằng đá hoa
cương đen khắc rõ ràng: “Liệt sĩ Vũ Minh Giám - sinh năm 1942, nhập ngũ
1968, hy sinh 1973, quê quán Hải Dương”. Cứ cho là bằng niềm tin tâm
linh đi, thêm một người lính được có tên có tuổi. Nhưng câu chuyện không
dừng lại ở đó, sau khi ngôi mộ được gắn bia, có một gia đình liệt sĩ
khác quê ở Thanh Hóa cũng bằng cách nào đó đã nhận rằng dưới ngôi mộ này
là hài cốt của thân nhân mình, và vì thế, không thể gắn bia ở mặt
trước, phía lưng bia được viết thêm tên tuổi một liệt sĩ khác: “Nguyễn
V. Hợi, Hoằng Anh - Hoằng Hóa - Thanh Hóa”, và dường như để mọi người
không phải băn khoăn, dưới dòng chữ tên liệt sĩ còn giải thích thêm “2
chiến sĩ chung một mộ”(!).
Cả Bruce Weigl lẫn nhà thơ Quế Mai đều
không thể hiểu được vì sao lại có hai tên liệt sĩ trên một nấm mồ, càng
không hiểu vì sao có những điều gọi là “ngoại cảm”, “gọi hồn” mà không
là ADN chính xác? Nhưng đất nước ngày đó vừa ra khỏi chiến tranh, quy
tập được về đã là may mắn , chuyện tuổi tên đâu dễ đủ cho những người
lính khi ngã xuống đã không có một dấu tích kèm theo như chiếc thẻ bài
của quân đội bên kia. Những nông dân ra trận từ đồng đất, và thân xác
sau báo đền nợ nước lại hòa vào đất đai, một vòng tròn đời người thiêng
liêng mà đạm bạc!
Tôi đã đứng rất lâu trước nầm mồ có hai
bia mộ ấy và chợt nhận ra cuộc tìm kiếm tuổi tên cho liệt sĩ là một
hành trình đầy khắc khoải, với những niềm tin vô cùng mong manh nhưng ai
cũng muốn bấu víu vào đó. Đất nước dằng dặc chiến tranh, cuộc tìm kiếm
tuổi tên cho những nấm mồ liệt sĩ chưa biết tên có lẽ là một hành trình
bất tận.
Nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai bên ngôi mộ với tên tuổi của hai liệt sĩ. | Một mặt kia của bia mộ là tên một liệt sĩ khác. Ảnh: L.Đ.D |
2. Nếu công
cuộc quy tập hài cốt liệt sĩ trên đất liền bao nhiêu năm qua với hài cốt
hàng vạn người lính nằm khắp rừng cao núi thẳm được mang về mồ yên mả
đẹp trong những nghĩa trang thì rất ít ai biết đến việc tìm kiếm những
hài cốt liệt sĩ từ biển khơi - một công việc gần như vô vọng và khó khăn
gấp bội lần so với việc cất bốc trên đất liền. Thế nhưng cái nghĩa cử
còn khó hơn cả “đáy bể mò kim” ấy đã được Bộ Tư lệnh quân chủng Hải quân
âm thầm thực hiện từ nhiều năm nay. Nhiều liệt sĩ hàng chục năm nằm
dưới lòng biển lạnh đã được về với với đất đai quê hương bản quán, sau
bao nhiêu chờ đợi tưởng như đã tuyệt vọng của người thân, đồng đội và
gia đình.
Mấy năm trước, khi đến thăm Bộ Tư lệnh
Hải quân, tôi được biết về một cuộc “đáy bể mò kim” như thế. Một ngày
cuối tháng 7 năm 2007, Bộ Tư lệnh Hải quân nhận được bức điện khẩn từ
vùng A Hải quân với nội dung: trong lúc lặn tìm phế liệu trên vùng biển
tây nam đèn biển đảo Long Châu, cách đảo Cát Bà chừng 30 hải lý, ngư dân
hai tàu Quảng Ngãi số hiệu QNg 96383 và tàu Đại Thắng 01 đã phát hiện
trong một xác tàu đắm một chứng minh thư quân nhân số hiệu 200057BD mang
tên Vũ Tài Trò và một số vật dụng khác, cùng một vài đoạn xương nghi là
hài cốt của chiến sĩ hải quân. Theo mô tả của các ngư dân, chiếc tàu
đắm dài khoảng 22 mét, rộng khoảng 5 mét, đã ngập trong bùn. Cạnh con
tàu này còn có xác một con tàu khác với kích thước tương tự.
Thông tin ban đầu ấy, cùng với tấm chứng
minh thư quân nhân mang tên Vũ Tài Trò như một sợi chỉ mỏng manh để Bộ
Tư lệnh Hải quân chỉ thị các phòng ban liên quan tìm kiếm hài cốt các
liệt sĩ trong những chiếc tàu kia. Khu vực tàu chìm được khoanh vùng tọa
độ. Những trang hồ sơ quân nhân ố vàng từ vài chục năm trước được lật
tìm. Và sau bao nhiêu nỗ lực tìm kiếm, cái tên Vũ Tài Trò được các cán
bộ Cục Chính trị Hải quân tìm thấy trong danh sách các chiến sĩ tham gia
một trận đánh tàu khu trục Mỹ từ gần 40 năm trước.
“Vũ Tài Trò - sinh 20.2.1950, quê quán
Phong Hải - Yên Hưng - Quảng Ninh, nhập ngũ tháng 8.1971, là chiến sĩ
huấn luyện kỹ thuật ngành cơ điện Trường Sĩ quan Hải quân…”. Tuy nhiên
theo hồ sơ quân nhân, anh Vũ Tài Trò đã phục vụ trong quân ngũ cho đến
tháng 2.1988 và từ trần năm 2005 do mắc bệnh hiểm nghèo. Như vậy, hài
cốt trên không phải của chiến sĩ Vũ Tài Trò mà có thể là đồng đội của
anh trên một chiếc tàu bị chìm trong trận chiến nào đó. Hồ sơ về những
trận đánh trên vùng biển này được lật lại và tọa độ mà ngư dân báo về
được xác định là nơi hai con tàu phóng lôi 319 và 349 đã bị đắm trong
trận đánh đêm 27.8.1972. Danh sách các chiến sĩ trên hai con tàu ấy được
truy xuất, tìm kiếm, những thợ lặn đặc công nước được huy động và rồi
may mắn thay, trong số hài cốt tìm được, bằng phương pháp ADN đã xác
định được tên tuổi của hai liệt sĩ: Nguyễn Quốc Quân, chiến sĩ cơ điện
của tàu 319 quê ở Hà Tĩnh và Hoàng Minh Tư, chiến sĩ rada của tàu 349
quê ở Ninh Bình...
Câu chuyện đi tìm tuổi tên cho những
liệt sĩ theo kiểu “đáy bể mò kim” còn được lặp lại trong vụ xác định
danh tính của 8 hài cốt liệt sĩ hy sinh trên con tàu HQ604 bị quân xâm
lược Trung Quốc bắn chìm tại Gạc Ma vào ngày 14.3.1988, mà nếu tường
thuật lại hành trình ấy là cả một câu chuyện quá dài, chỉ có thể nói
rằng, cùng với niềm khắc khoải của thân nhân liệt sĩ, những nỗ lực tìm
lại tuổi tên cho liệt sĩ ngày càng được quan tâm.
3. Không chỉ
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ngay cuộc chiến tranh biên
giới phía Bắc, vẫn còn rất nhiều những liệt sĩ đã tìm thấy hài cốt
nhưng tuổi tên vẫn mịt mờ. Nhưng may mắn hơn, những hài cốt được tìm
thấy gần đây dù chưa tìm được tên tuổi nhưng vẫn được lấy mẫu vật phẩm
lưu giữ xét nghiệm ADN để làm cơ sở cho việc chứng minh thân nhân liệt
sĩ sau này.
Đất nước binh đao dằng dặc, theo con số
của Bộ Quốc phòng thì vẫn còn gần 200.000 liệt sĩ chưa tìm được hài cốt
và trên cả nước vẫn còn 300.000 tấm bia ghi dòng chữ “Liệt sĩ chưa biết
tên”. (Nguồn từ đề án Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 về quy tập hài cốt liệt
sĩ). Không một nghĩa trang nào trên đất nước này không có những mộ bia
đề dòng chữ “Liệt sĩ chưa biết tên”, nhưng dù chưa biết tên đi nữa, thì
chút thân xác kia còn được nằm trên đất đai xứ sở, âu cũng là may mắn. Ở
Quảng Trị có hai nghĩa trang quốc gia là Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
và Nghĩa trang liệt sĩ Đường 9, nhưng thật ra còn có một nghĩa trang
quốc gia khác, một nghĩa trang không nấm mồ, không bia mộ, đấy là lòng
sông Thạch Hãn đoạn chảy qua Thành cổ Quảng Trị. Những người lính đêm
đêm vượt sông từ bờ Bắc sang bờ Nam, hàng ngàn người đã không qua tới
bờ, không vào được Thành cổ, họ nằm xuống đáy sông hay con nước đã đưa
những người lính ấy ra tận bể? Bao nhiêu người đã không còn tăm tích dù
là cát bụi, nói gì chuyện tuổi tên trên những nấm mồ…
Ghi chép của LÊ ĐỨC DỤC
.
Đăng lên Facebook Đưa bài viết lên linkhay Đưa bài viết lên Google Bookmarks Đăng lên Twitter Chia sẻ In bài viết này
.
Hồn ai trong gió - Chu Lynh | Vietlove
https://youtu.be/q6MlSEmcxb
CẬN TỬ NGHIỆP VÀ TÁI SINH - THUYẾT PHÁP HAY NHẤT
https://youtu.be/X6BjpkUL1MI
Thế Nào Là Cận Tử Nghiệp (Rất Hay)
https://youtu.be/KbPlUiS0e7Q
Nghi Lễ Phủ Quốc Kỳ VNCH Trên Linh Cữu Cố Trung Tá Lai Tấn Tài (06/14/2017)
https://youtu.be/It0vZ3jqcr0
Bản Tin Đặc Biệt: Lễ Phủ Cờ và Tang Lễ Cố Đại Tá ĐÀO QUAN HIỂN
https://youtu.be/7n6jx4loZns
Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: ‘Tôi chết đừng phủ cờ vàng?’
Vũ Ánh
Thời trung cổ, các chiến binh
người Mông Cổ khi ngồi trên mình ngựa ra trận tiền mà không may tử trận,
các đồng đội của họ lập tức giết chết con ngựa mà anh ta cưỡi, lột lấy
bộ da ngựa gói chặt tử thi quân nhân này rồi cho chuyển về hậu phương
hỏa táng theo tục lệ của quân đội người Mông Cổ. Ðây
là một nghi thức đầy vinh dự chỉ dành cho người lính chết trận, không
có biệt lệ dù đối với hàng tướng lãnh. Nghi thức này được lưu truyền tới
ngày nay đối với nhiều quân đội tại các quốc gia trên thế giới, nhưng
thay vì người ta dùng bộ da ngựa bọc thây người lính tử trận thì dùng lá
quốc kỳ của quốc gia đó phủ trên quan tài người đã vì đất nước mà hy
sinh.Thời quân đội Quốc Gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, quốc kỳ vàng ba sọc đỏ chỉ được phủ lên quan tài quân nhân tử trận. Nhưng sang đến thời Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa, tục lệ này được nới rộng cho cả bên lực lượng bán quân sự, cán bộ và công chức nếu họ hy sinh đang lúc thừa hành công vụ. Sở dĩ tục lệ này được nới rộng ra hàng ngũ những người không phải quân nhân là để cho công bằng vì trong chiến tranh, nếu có người hy sinh vì quân vụ thì cũng có người hy sinh vì công vụ, họ cũng phải được nhận vinh dự mà quốc gia dành cho họ. Năm (5) cuối cùng của Ðệ Nhị Cộng Hòa, các ngành công chức và cảnh sát còn được quyền tạo những huy chương riêng để vinh danh những viên chức hay nhân viên làm việc xuất sắc, chẳng hạn như ngành thông tin và chiêu hồi có Tâm Lý Chiến Bội Tinh Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Hạng. Huy chương cao quí nhất của công chức, cán bộ là Chương Mỹ Bội Tinh Ðệ Nhị và Ðệ Nhất Hạng, riêng Ðệ Nhất Hạng Chương Mỹ Bội Tinh khi gắn xong phải cử quốc thiều như Bảo Quốc Huân Chương bên quân đội.
Tôi nhắc lại một vài chi tiết để cho thấy rằng trong điều kiện nào một quân nhân hay một dân chính phục vụ quốc gia được hưởng vinh dự mà quốc gia ban cho qua người đại diện hàng đầu cho quốc gia ấy. Tổng Thống VNCH và đồng thời là tổng tư lệnh quân đội hay viên chức được ủy nhiệm là người đại diện cho quốc gia để trao gắn huy chương hay quyết định phủ lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ lên linh cữu của một quân nhân hy sinh ngoài chiến trường hay một công chức tử nạn đang lúc thi hành công vụ.
Những tài liệu báo chí được lưu trữ trong Thư Viện Quốc Gia VNCH, dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, Tướng Hồ Văn Tố chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh Thủ Ðức đã bị vị tổng tư lệnh quân đội từ chối phủ quốc kỳ lên quan tài vì lý do ông qua đời không phải là từ một nguyên nhân vinh dự. Năm 1964, phóng viên mặt trận của Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia, anh Khuất Duy Hải, tử trận tại chiến trường Ðức Cơ, Pleiku, đã không được phủ quốc kỳ chỉ vì lý do anh không phải là quân nhân. Tang lễ được hệ thống truyền thanh quốc gia đứng ra cử hành trọng thể, tổng ủy viên Thông Tin (chức vụ tương đương với tổng trưởng Thông Tin trong Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương), Tướng Nguyễn Bảo Trị đã đại diện chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đến gắn Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu trên quan tài và vào dịp này bản tuyên dương công trạng cố phóng viên mặt trận Khuất Duy Hải được đọc lên, nhưng không có quyết định phủ cờ vì trường hợp anh là trường hợp đầu tiên một phóng viên mặt trận dân sự của ngành truyền thanh quốc gia tử trận trên chiến trường khi đang thi hành công vụ. Dù phóng viên mặt trận Khuất Duy Hải với những ký sự chiến trường được viết rất nhân bản và xúc động phát thanh hàng tuần, hấp dẫn được hàng triệu thính giả, nhưng chính phủ lúc đó là chính phủ quân nhân, chưa có tiền lệ phủ cờ nào dành cho những công chức trung cấp hy sinh ngoài tiền tuyến.
Tôi nhắc lại một vài chi tiết lên quan đến nghi thức “da ngựa bọc thây” đầy xúc động và vinh dự cho người nằm xuống trong trận mạc hay phục vụ quốc gia không ngoài mục đích gì khác hơn là để nhắc lại rằng VNCH khi xưa dù chưa phải là một vùng đất dân chủ tự do hoàn toàn, nhưng những nguyên tắc liên quan đến việc ban phát ân sủng của quốc gia rất chặt chẽ. Cho nên sau này nhiều đồng hương ở đây đưa ra những lời khuyên rất chí lý: “Dù VNCH đã mất, dù quân đội, cảnh sát công chức, cán bộ đã tan hàng nhưng nên duy trì cái dấu ấn tinh thần từ những gì đã mất.” Dấu ấn tinh thần đó là gì? Nhiều người trong cộng đồng giải thích theo cách nhìn của họ “đó là tinh thần chí công vô tư, giữ gìn tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm một cách thành thực.” Ngày 30 Tháng Tư gần kề, vấn đề trách nhiệm lại được đặt ra chứ không phải chỉ là những than khóc và những lời đãi bôi nơi cửa miệng.
Năm nay, vấn đề ai là những người phải chịu trách nhiệm đã để một nửa đất nước từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau rơi vào tay những người cộng sản được đặt ra với một bài thơ, một di chúc rất xúc động của một cố tướng lãnh VNCH: “Mai tôi chết, xin cờ vàng đừng phủ.” Ðó là Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù mà thời chiến tranh Việt Nam, báo chí gọi ông là “con sói của trận mạc,” xin trích:
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Lê Quang Lưỡng
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đã cần gì?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ đây đã tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ…
Ngày về quê càng lúc càng xa mờ.
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng,
Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai??
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Bài thơ tự nó đã là những cảm xúc đầy bi hùng tráng của một bại tướng VNCH. Bài thơ được làm ít lâu trước khi ông qua đời vào ngày 21 Tháng Chín, 2005 tại thành phố Bakerfield, tiểu bang California. Việc ông di tản sang Hoa Kỳ vào ngày 29 Tháng Tư, 1975 đã trở thành vết thương và niềm u sầu suốt những năm tháng sau này qua một câu thơ mà nhiều người thích “Sầu hận tim ta ai biết được.” Nhưng chính lời trối trăn của ông đối với đồng đội, đồng hương đã làm hình ảnh của một bại tướng trở nên sáng ngời:
“Tôi làm tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đã không dám chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu cầu đừng phủ quốc kỳ lên quan tài tôi, vì tôi tự biết mình không xứng đáng được hưởng lễ nghi nầy.”Với lòng can đảm tuyệt vời, vị tướng lãnh đáng được trân trọng nói trên đã để lại lời nói cuối cùng trước khi qua đời bao hàm nỗi lòng u uẩn của dũng tướng, nhưng trong một phút chùng lòng đã không theo được gương của người xưa “thân làm tướng khi thành mất thì phải chết theo thành.” Nỗi buồn đó theo ông suốt những năm tháng còn lại của cuộc sống lưu vong trên xứ người, để rồi cuối cùng chuẩn bị cho cái chết ông đã can đảm từ chối vinh dự “da ngựa bọc thây,” khác với các tướng lãnh thời đương thời và cùng hoàn cảnh di tản như ông.
Nó là một thông điệp dứt khoát kêu gọi những người có trách nhiệm về việc mất miền Nam Việt Nam hãy can đảm nhận trách nhiệm của mình, chấm dứt những nỗ lực tìm người lãnh đạo cuối cùng phải đầu hàng để trút trách nhiệm cho họ, chấm dứt việc đòi lại danh dự cho nhà lãnh đạo này hay lãnh đạo khác mà biến cố cách đây 38 năm đã biến họ thành đào ngũ, đào nhiệm trước địch quân, chấm dứt việc đem lá quốc kỳ đã thấm máu quân, dân, cán, chính VNCH để đem phủ cho những người không đáng được hưởng vinh dự đó, hãy xét lại cho thật kỹ việc tự thêu khăn quàng, tự mang cà-vạt, đội mũ, mặc áo, tự sơn xe riêng của mình mầu cờ vàng ba sọc đỏ và nên tự hỏi: liệu mình có xứng đáng mang lá cờ này không, có đủ nhân cách, tư cách, có đủ sự trung thành với là cờ đó không hay việc ôm lấy lá quốc kỳ chỉ để che giấu những hoạt động chính trị thiếu chính trực của mình?
Tôi là phóng viên mặt trận của hệ thống truyền thanh quốc gia đã từng theo tường thuật hành quân và các trận đánh lớn từ thời Tướng Lê Quang Lưỡng còn là tiểu đoàn trưởng cho đến lúc ông trở thành lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 2 Sư Ðoàn Nhảy Dù, cho nên tôi hiểu nỗi đau của ông khi phải viết lại di chúc này. Nhưng ngay từ những năm 1964, 1965 khi chiến tranh bắt đầu lan rộng, Tướng Lê Quang Lưỡng đã là một ngôi sao sáng trong số những ngôi sao còn rất trẻ ở sư đoàn Nhảy Dù, một đại đơn vị lúc nào cũng ở tuyến đầu, nhận chịu những áp lực nặng nề nhất từ phía CSBV, nhưng họ đã vượt qua được muôn trùng khó khăn là do giữ được kỷ luật và tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm.
Riêng Tướng Lê Quang Lưỡng khi còn là tiểu đoàn trưởng đã được báo chí miền Nam gọi là “con sói của trận mạc” không có gì sai cả. Kiên trì vượt lên trên những lần thất bại, luôn luôn là tấm gương tinh thần cho những sĩ quan và binh lính thuộc cấp, gan dạ và mưu lược trong những giây phút căng thẳng và nguy hiểm nhất cho đơn vị, đối xử tốt và đúng luật đối tù binh địch, Tướng Lê Quang Lưỡng đã ngồi vào chức vụ tư lệnh của một trong những đơn vị tổng trừ bị hàng đầu của Quân Lực VNCH.
Là một người công trạng sáng chói như ông mà chỉ vì một quyết định không mấy vinh dự khi đất nước nghiêng ngửa mà tên tuổi của ông bị một vết chàm tưởng như sẽ vĩnh viễn không gột rửa. Nhưng lòng yêu nước, trọng danh dự và trách nhiệm được thể hiện qua bài thơ: “Khi tôi chết xin cờ vàng đừng phủ,” ông đã nhận lại được danh dự và sự chính trực của một người mang thân làm tướng và đang là bại tướng. Gặp lại ông trong đám cưới của một người bạn năm 2001, ông cho mời tôi lại bàn. Dù tôi không biết uống rượu, tôi đã rót đầy ly của ông để đánh dấu ngày gặp lại người lính trận mà tôi vẫn nể phục này, ông chỉ thân mật cười, giọng trầm: “Chắc Ánh chưa biết anh không còn uống rượu được nữa vì bệnh. Vả lại nhiều năm qua, anh thấy rượu sao đắng quá.” Tôi nhìn lại “con sói già,” người hùng thở nào trên các mặt trận ở Quảng Trị, Cùa, Ðông Hà, Hải Lăng, Mỹ Chánh, PK.17, Kontum, Pleiku… tự nhiên thấy mắt mình cay cay. Ðó là lần cuối cùng tôi gặp ông.
Giờ đây, chắc linh hồn Tướng Lê Quang Lưỡng đã yên ổn thênh thang ở cõi không còn chiến tranh và hận thù. Ông chắc đã gặp lại các đồng đội cũng từng hành động can đảm giống như ông. Ðó là Ðại Tá Huỳnh Thanh Sơn, tư lệnh phó Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, và cựu Trung Úy Ðoàn Bá Phụ, một trong những đại đội trưởng xuất sắc của Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù. Ðại Tá Sơn xuất thân từ Biệt Ðộng Quân, sau những năm tháng trận mạc dài dài, ông được lệnh thuyên chuyển làm tư lệnh cảnh sát vùng và những năm cuối cùng trước 30 Tháng Tư, 1975, ông được bổ nhiệm tư lệnh phó hành quân Sư Ðoàn 7 Bộ Binh do Tướng Trần Văn Hai làm tư lệnh. Khi Tướng Hai chuẩn bị tuẫn tiết thì vừa lúc ông mở đường máu dẫn quân từ Cai Lậy về Bộ Tư Lệnh ở Ðồng Tâm. Kết quả ông lãnh hơn 12 năm tù cải tạo. Ðược thả và định cư ở Mỹ theo diện HO, ông vẫn không muốn ở không để lãnh trợ cấp chính phủ nên không bao lâu sau khi định cư dù con cái ông đã khôn lớn và ổn định, cựu Ðại Tá Huỳnh Thanh Sơn vẫn nhận công việc của một nhân viên an ninh tư để thấy mình vẫn còn có ích cho xã hội.
Ông bị ung thư gan và qua đời cách đây 11 năm. Trước khi qua đời ông dặn vợ con là không nhận phủ cờ vàng vì cảm thấy mình không đáng được hưởng vinh dự ấy. Còn cựu Trung Úy Ðoàn Bá Phụ là cựu tù cải tạo ở trại A-20 và đồng thời là người tù nổi tiếng bất khuất, định cư ở Mỹ bằng cách vượt biển sau khi được thả ra khỏi trại vài tháng. Sang định cư ở Hoa Kỳ, Phụ lập gia đình, làm việc và nuôi dạy ba cô con gái sau này trở thành những sinh viên, học sinh xuất sắc và được học bổng của tỷ phú Bill Gates cũng như các học bổng khác. Trước khi qua đời anh trối trăn là đừng phủ cờ vàng vì cảm thấy mình không xứng đáng được hưởng vinh dự ấy và tôi là một trong những người chứng của lời trối trăn đầy can đảm này của người bạn tù. Những điều tôi viết ra chắc chắn có những người không đồng ý. Họ có thể có cách nhìn khác. Tôi tôn trọng và không tranh cãi. Vì theo cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng:
“Bao năm trời bao nhiêu chàng trai trẻ
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.”Lòng can đảm của Tướng Lê Quang Lưỡng là một tấm gương sáng ngời một lần nữa củng cố niềm tin cho tôi, cho chúng tôi rằng, cuối cùng danh dự và chính trực muôn đời vẫn là thước đo con người dù trong hoàn cảnh chiến thắng hay trong hoàn cảnh bại trận.
Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/newarticle/Tai-sao-Tuong-Le-Quang-Luong-dan-Toi-chet-dung-phu-co-vang-1241/
"VĂN HÓA ONLINE-CALIFORNIA" THỨ HAI 24 APRIL 2017
Kính chuyển tiếp,
Bài nhận trên diễn đàn,
Chuỗi dài gồm nhiều bài,
v/v
1)-Khi tôi chết Cờ Vàng xin ĐỪNG PHỦ,
2)- Khi tôi chết Cờ Vàng xin ĐƯỢC PHỦ,
Xin QUÝ VỊ tùy nghi, quan điểm, nhận xét, thẩm định.....
Trân trọng,
Trung Đỗ
Có nên "phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ" khi tôi chết ?
Kính chào quý Đồng hương và Quý vị quan tâm
Thiển nghĩ; Đất nước đã tạm mất về tay csvn! Những gì còn lại, chỉ còn..."LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" và "LÝ TƯỞNG TỰ DO"...!
LÝ TƯỞNG TỰ DO...thì khó biểu hiện. Nhưng "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" là để chứng tỏ..."TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA" (không cộng sản)..quyết tâm đấu tranh cho quê hương.
Do vậy; thiển nghĩ; Bất cứ người nào có "ƯỚC MONG LẦN CUỐI" được phủ "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" thì không ai có quyền cấm đoán! (kể cả sĩ quan, Tướng, Tá, Úy, Hạ sĩ quan... hay thường dân)
Ngoại trừ những thành phần đã theo gió trở cờ, hay làm lợi cho csvn...thì không xứng đáng!...
Còn những cá nhân thì gia đình vẫn có quyền phủ "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ"...(cách tự nhiên)
Ngược lại, những chức sắc trong Cộng Đồng, những bậc Vị vọng, Nhân sĩ...(trung thành với Quốc gia)...thì ... Rất mong Cộng Đồng hãy tổ chức "PHỦ CỜ VÀNG" cách nghiêm trang, trịnh trọng.
Khi tôi chết, "CỜ VÀNG" xin hãy phủ
MONG ƯỚC này, xin thoả mãn ƯỚC MONG
Dù không chết trận, nhưng CHẾT TRONG ĐẤU TRANH
Xin dâng hiến, tấm thân này cho TỔ QUỐC...
Khi tôi chết, "CỜ VÀNG" xin hãy phủ!
Trân trọng
Phạm Trung Kiên
Chuyển tiếp
Victopham
Chúc thư Cá nhân và Lòng tri ân của Tập thể.
Trong Tết Mậu thân, nhiều Quân Dân Cán Chính tại Huế bị việt cộng sát hại, tất cả các quan tài của những người xấu số nầy đều được chính quyền địa phương phủ lá quốc kỳ VNCH. Những công dân VNCH nầy, trong đó có những thường dân, không hy sinh ngoài trận tuyến, mà hy sinh trên mãnh đất của quê hương mình. (gợi ý của nhà báo Huỳnh Lương Thiện)
Chuyện chị Hạnh Nhơn ra đi, cũng vậy, dù đã 42 năm "chinh chiến tàn", nhưng đại đa số người Việt trong và ngoài nước đều ghi nhận được lý tưởng và tâm huyết của chị vẫn sáng ngời tính nhân bản và tính thủy chung của một chiến sĩ Quân lực VNCH qua việc làm gian nan nhưng đầy ý nghĩa của chị cho đến hơi thở cuối cùng...
Việc làm đó, không những xoa dịu vết thương cho các TPB và cô nhi quả phụ, mà còn mang ý nghĩa làm Rạng danh Chính nghĩa Quốc gia mà biểu tượng là lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu.
Qua đó, thân xác của chị Hạnh Nhơn RẤT XỨNG ĐÁNG được tập thể người Việt quốc gia phủ lá Quốc kỳ VNCH.
Và tập thể người Việt tị nạn hải ngoại (đồng hương & đồng đội) đang đứng trước sự chọn lựa khó khăn giữa Chúc thư và Lòng tri ân của tập thể.
Chúng tôi nêu lên thiển ý để mong các anh chị con của chị Hạnh Nhơn suy xét lại.
Thưa chị Hạnh Nhơn kính yêu,
Em tin rằng, với bản tính nhân từ đức độ, chị sẽ hỉ xả cho em về ý nghĩ đi ngược với chúc thư của chị như trên,
Sinh thời, chị như thể vị Bồ Tát sống, dù vậy, em cũng xin cầu nguyện mười phương chư Phật sớm tiếp dẫn hương linh của chị về Phương Tây cực lạc Thế giới.
Thân kính,
KQ Võ Ý
Kính Quý Huynh-Đệ,
Qua đề-nghị của NT Võ-Ý, rất có tình, có lý, chị HẠNH-NHƠN RẤT XỨNG ĐÁNG được tập thể người Việt quốc gia phủ lá Quốc kỳ VNCH.
Chúng ta đã biết tánh chị rất giản dị và khiêm nhường, di chúc không phủ cờ của chị cũng do tánh khiêm cung của chị, tập thể KQ chúng ta ủng hộ Ý-KIẾN của NT Võ-Ý, thuyết phục tang gia để chúng ta được long trọng làm Lễ phủ cờ, để Vinh Danh những việc chị đã làm, để tỏ lòng biết ơn những đóng góp của chị, chị đã hy sinh vì mọi người cho đến hơi thở cuối cùng.
Rất mong quý Huynh-Đệ lên tiếng ủng hộ ý-kiến trên.
Trân trọng thân kính chào quý Huynh-Đệ,
KQ Lê-văn-Sùng-PĐ116
Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Bạn Võ-Ý.
Nguyễn -Cầu Dupont
Sent from my iPhone
Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ”.
Sắc lệnh của Tổng Thống VNCH, những người có Bảo Quốc Huân Chương
khi chết sẽ được Phủ Quốc Kỳ VNCH.
Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn / Đệ Ngủ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng...
SHAKOPEE, Minnesota (NV) - Té ra, bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ” mà bấy lâu nay nhiều người tưởng là của cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH, lại do một tác giả khác sáng tác. Đó là cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, hiện cư ngụ tại thành phố Shakopee, Minnesota.
Sau khi nhật báo Người Việt đăng bài “Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: ‘Tôi chết đừng phủ cờ vàng?’” của tác giả Vũ Ánh, trong số báo ra ngày Thứ Bảy, 20 Tháng Tư, tòa soạn nhận được email của tác giả bài thơ cho biết về sự nhầm lẫn này.
Cũng như nhiều người khác, nhà báo Vũ Ánh tưởng Tướng Lê Quang Lưỡng là tác giả bài thơ, bởi vì “chúc thư của vị tướng và lời lẽ trong bài thơ giống nhau quá, và khắp nơi trên diễn đàn Internet ai cũng tưởng như vậy”.
Khi tiếp xúc với tác giả Nguyễn Ngọc Trân, ông cho biết sở dĩ ông sáng tác bài thơ này là vì muốn bảo vệ sự thiêng liêng của lá cờ VNCH.
Ông chia sẻ nguồn gốc sáng tác bài thơ này như sau: “Sở dĩ có bài thơ MTCCVXĐP là cũng vì đọc báo và xem tin tức thấy vào khoảng thời gian trên (lúc bài thơ sắp ra đời) thấy có nhiều vị cựu quân nhân lớn tuổi có lẽ họ không để lại di chúc hoặc dặn người nhà cho nên khi họ mất nhiều hội đoàn cựu chiến sĩ đã nghĩ ra cách phủ cờ cho họ do đó tôi không muốn làm mất sự thiêng liêng của lá cờ và tủi lòng những chiến hữu thực sự năm xuống hoặc sống lây lất bên nhà nên tôi mới cảm hứng làm bài thơ trên.”
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đã lo chi?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ đây đã tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ.
Ngày về quê càng lúc cứ xa mờ,
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng.
Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai?
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
“Bài thơ tôi chỉ làm trong một phút tình cờ khi thấy những hình ảnh phủ cờ tùm lum làm mất giá trị thiêng liêng của lá cờ,” ông cho biết tiếp qua email. “Tôi chỉ làm thơ tài tử thôi.”
Về chuyện Tướng Lưỡng và bài thơ, tác giả Ngọc Trân cho biết: “Tôi thật tình không biết Tướng Lê Quang Lưỡng đã mất năm 2005. Mãi sau này, Tháng Mười Một, 2011, tôi mới làm bài thơ này, tôi chỉ phổ biến trong nhóm Biệt Động Quân, forum Nguyễn Trãi 61-68 và đặc san Biển Khơi của hội Hải Quân OCS mà tôi có mấy người bạn phục vụ. Sau đó thì không biết vì lý do gì bài thơ trên lại được đăng trên net trong bài lời trăn trối của Tướng Lưỡng và đề tên Tướng Lưỡng là tác giả làm bạn tôi anh Trần Đức Tâm đã điện thoại cho tôi và hỏi tôi lúc đó tôi mới biết Tướng Lưỡng đã mất năm 2005.”
“Sau đó tôi có một người bạn có quen với gia đình Tướng Lưỡng và có xác nhận bài thơ đó không phải của Tướng Lưỡng làm, có thể vì một sự tình cờ giữa lời trăn trối của ông trùng hợp với bài thơ của tôi cho nên người viết đã để tên tác giả là ông,” cựu Thiếu Úy Biệt Động Quân Nguyễn Ngọc Trân viết tiếp trong email.
Theo tác giả cho biết, trước năm 1975, ông là học sinh trường trung học Nguyễn Trãi, Quận 4, Sài Gòn, niên khóa 61-68. Đầu năm 1970, ông được lệnh gọi nhập ngũ vào khóa 4/70 trường bộ binh Thủ Đức.
Cuối năm 1970 ông ra trường, về phục vụ tại Tiểu Đoàn 31 BĐQ thuộc Liên Đoàn 3 BĐQ. Cuối năm 1972, ông được thuyên chuyển về phục vụ tại Tiểu Đoàn 36 BĐQ, cũng thuộc Liên Đoàn 3, sau đổi thành Liên Đoàn 31 BĐQ cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Tác giả bị đi “cải tạo” cho đến Tháng Sáu, 1979, vượt biên Tháng Bảy cùng năm, được tàu Ý vớt, và đến Tháng Tám, 1980, định cư tại Minnesota cho đến bây giờ.
Với tinh thần “đừng” qua bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ,” tác giả Ngọc Trân cảm hứng làm bài thơ sau đây, sau khi đọc bài “Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển” của thi sĩ Du Tử Lê.
Bài thơ “Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển” của tác giả Ngọc Trân như sau:
Mai tôi chết hãy mang tôi hỏa táng.
Nắm tro tàn xin rải khắp quê hương,
Nơi hành quân xưa trên khắp núi rừng.
Để được gặp bạn bè tôi nằm đó,
Để thấy lại Kon Tum trong khói lửa
Hay Quảng Trị xưa anh dũng kiêu hùng
Rải tro tôi trên thị trấn Bình Long
Nơi đồi gió bao lính dù nằm xuống.
Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển
Sóng dập vùi thân xác biết về đâu?
Tro bụi tôi xin rải tận tuyến đầu.
Để nhìn lũ Cộng quân đang bán nước,
Thác Bản Giốc Ải Nam Quan ngày trước,
Bây giờ đây đã dâng hết cho Tàu
Tro tàn tôi xin rải tận Cà Mau.
Hay Phù Cát Bồng Sơn cùng Cửa Việt.
Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển,
Mang tro tôi về Bình Giả Phước Long,
Nhớ năm xưa cùng chiến hữu một lòng,
Vung thép súng giữ lời thề ngày trước.
Mai tôi chết xin được như mơ ước,
Để tro tàn tôi bay khắp không gian.
Quê hương ơi! Tôi xin được một lần,
Nắm tro bụi thấm vào lòng đất mẹ.
Nguyễn Vạn Bình: AI XỨNG ĐÁNG ĐƯỢC PHỦ QUỐC KỲ VNCH TẠI HẢI NGỌAI
.......Chính vì thế, nếu với quan niệm việc phủ Quốc Kỳ chỉ dành cho các quân nhận QLVNCH tử trận, thì chúng tôi e rằng việc nầy rất khó xảy ra trong tình trạng chúng ta sinh sống tại hải ngọai hiện nay.Và từ đó, việc phủ quốc kỳ VNCH sẽ bị chấm dứt và lá quốc kỳ VNCH mãi sẽ không còn nhìn thấy trong các tang lễ của người Việt tỵ nạn.....
* Bài của Nguyễn Vạn Bình, nguyên Luật Sư tòa Thượng Thẩm Sàigòn đóng góp dưới đây để tường và cho rộng đường dư luận.
Bài viết nầy chúng tôi hy vọng với những sự kiện đã xảy ra cũng như qua sự tham khảo về nghi lễ phủ quốc kỳ của Hoa Kỳ , của VNCH trước đây và hoàn cảnh hiện nay của cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản, mọi người sẽ có một cái nhìn đứng đắn và sáng suốt hơn về việc phủ quốc kỳ VNCH trên quan tài của người quá cố.
Như tất cả mọi người đều biết, quốc kỳ là một biểu tượng cao quí của quốc gia và dân tộc. Dân tộc của mỗi quốc gia bao gồm mọi giới Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Việc bảo vệ và xây dựng quốc gia không đơn thuần trông cậy vào một thành phần nào trong xã hội mà phải trông cậy vào tòan thể mọi giới, mọi người dân. Vì thế, việc phủ quốc kỳ trên quan tài của người quá cố là một hành động để ghi công về những việc làm ,những đóng góp của người quá cố đối với quốc gia.
Theo nghi lễ của Hoa Kỳ, việc phủ quốc kỳ trên quan tài là một hành vi danh dự được dành cho các quân nhân tử trận, hy sinh vì công vụ, cho các cựu quân nhân, các nhà ái quốc và cho các viên chức cao cấp tại cấp tiểu bang và liên bang của Hoa Kỳ.
Điều đó cho chúng ta thấy rõ, việc phủ quốc kỳ Hoa Kỳ không phải là việc làm đơn thuần dành riêng cho các quân nhân tử trận hoăc hy sinh vì công vụ. Đại tướng Mc Arthur dù một cựu quân nhân, không hy sinh tại mặt trận, nhưng khi ông qua đời đã được hưởng nghi thức phủ cờ để ghi ơn những chiến công hiển hách của ông trong thời đệ nhị thế chiến chống Nhật và trận chiến Triều Tiên chống lại Cộng sản Bắc Hàn và Trung Cộng. Các vị tổng thống , nghị sĩ, dân biểu tên tuổi của Hoa Kỳ, dù không là quân nhân, nhưng trong tang lễ của các vị nầy đều có nghi thức phủ cờ. Tiến sĩ Luther King, nhà tranh đấu cho quyền lợi người Da Đen , dù không là quân nhân, nhưng lúc qua đời, quan tài của ông đã được làm lễ phủ quốc kỳ một cách trang trọng.
Tại miền Nam VN trước đây trong cuộc chiến tranh khốc liệt với quân Cộng Sản Bắc Việt, nhiều quân nhân đã hy sinh. Hình ảnh phủ cờ cho các quân nhận tử trận tại các nghĩa trang quân đội đã là hình ảnh quá quen thuộc đối với mọi người dân.
Chính vì thế, nhiều người đã lầm tưởng rằng, việc phủ quốc kỳ VNCH chỉ dành riêng cho các quân nhân tử trận. Thật ra, chính phủ VNCH không có quyết định hạn hẹp như thế. Nhiều cựu quân nhận hay nhiều viên chức hành chánh cũng đã được hưởng lễ phủ cờ .Đặc biệt, trong biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, Cộng Sản Bắc Việt đã dã man giết và chôn tập thể gần 5000 người dân vô tội tại cố đô Huế. Sau khi tìm ra được thi hài các nạn nhận, chính tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho phủ quốc kỳ VNCH trên tất cả các quan tài của các nạn nhân không phân biệt quân, dân, cán, chính, đàn ông, đàn bà hay trẻ em.Việc làm nầy chính là hành động để xác định căn cước hàng ngàn nạn nhận là công dân của chế độ VNCH, đồng thời cũng nói lên hành vi dã man của chế độ bạo tàn Cộng Sản Hà Nội.
Sau ngày quốc hận 30-4-1975, hàng triệu người Việt Quốc Gia đã liều mình bỏ nước ra đi tỵ nạn cộng sản để tìm đời sống tự do tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cộng đồng người Việt hiện nay tại hải ngọai đã lên đến gần 3 triệu người.
Trong hòan cảnh sống tỵ nạn hiện nay của người Việt Quốc Gia, quê hương yêu dấu của chúng ta đã bị bọn CSVN, tay sai của Trung Cộng cưỡng chiếm, chúng ta đã không còn chính phủ để điều hành, không còn quốc hội để làm luật và không còn một cơ cấu tư pháp để phân xử ai.
Nhưng chúng ta chỉ còn lại hai biểu tượng thiêng liêng là Quốc Kỳ VNCH và bài Tiếng Gọi Công Dân làm Quốc Ca cùng một tấm lòng yêu quê hương tha thiết và một ý chí kiên trì đấu tranh cho một nước Việt Nam được vẹn toàn lãnh thổ, tòan dân được hạnh phúc, ấm no dưới một chế độ , dân chủ, tự do tôn trọng nhân quyền.
Vũ khí đấu tranh hiện nay của cộng đồng người Việt Quốc Gia tại hải ngọai, biện pháp dùng quân sự khó thực hiện. Chính vì thế, phương cách đấu tranh hữu hiệu chính là bao gồm trên mọi lãnh vực. chính trị, vận động ngọai giao, truyền thông, văn hóa, kinh tế, tôn giáo,tài chánh v.v..Mọi mũi dùi tấn công bọn độc tài CSVN đều đáng được ca ngợi và vinh danh.
Bọn CSVN ngày nay không còn sợ phương cách đấu tranh bằng quân sự do cộng đồng người Việt Quốc Gia khởi xướng, vì chúng biết việc làm nầy chúng ta không thực hiện được. Nhưng chúng lo ngại cuộc đấu tranh của người Việt Quốc Gia trên các lãnh vực chính trị, kinh tế, tài chánh ,văn hóa và truyền thông . Chúng ra sức chia rẽ mọi đòan thể, mọi đảng phái, mọi tôn giáo để làm suy yếu sức mạnh đoàn kết của tập thể người Việt Quốc Gia.Nhất là chúng tìm mọi cách để triệt hạ Quốc Kỳ VNCH cùng Quốc Ca là hai biểu tượng cao quí nhất của tập thể người Việt Quốc Gia.
Chính vì thế, nếu với quan niệm việc phủ Quốc Kỳ chỉ dành cho các quân nhận QLVNCH tử trận, thì chúng tôi e rằng việc nầy rất khó xảy ra trong tình trạng chúng ta sinh sống tại hải ngọai hiện nay.Và từ đó, việc phủ quốc kỳ VNCH sẽ bị chấm dứt và lá quốc kỳ VNCH mãi sẽ không còn nhìn thấy trong các tang lễ của người Việt tỵ nạn.
Chúng tôi tin rằng, hàng triệu quân nhân QLVNCH yêu nước và sáng suốt phải nhận thức rằng, trong cuộc đấu tranh chống Cộng Sản Bắc Việt, quân đội không là lực lượng đấu tranh duy nhất của miền Nam VN. Các quân nhận QLVNCH cần có một hậu phương yểm trợ vững mạnh do nhiều người đóng góp. Con em của các quân nhân cần có trường sở, thầy giáo dạy dỗ. Cha mẹ, vợ con của các quân nhân cần được sống trong một xã hội an bình với một nền kinh tế vững mạnh do những viên chức hành chánh tài năng quản trị v.v.
Chính vì thế, trong gần 39 năm sống lưu vong tỵ nạn cộng sản, việc duy trì hai biểu tưởng Quốc Kỳ VNCH và Quốc Ca là việc làm cần thiết nếu không muốn nói là để tránh bị tiêu diệt .
Cuộc đấu tranh của tập thể người Việt Quốc Gia cho một cộng đồng VN vững mạnh và cho quê hương VN được tự do, dân chủ là công việc chung cho mọi người .
Chúng ta phải bỏ đi mọi ý nghĩ tỵ hiềm cá nhân nông nổi, quan niệm chật hẹp lỗi thời làm nãn chí mọi người Việt QG và nhất là giới trẻ yêu nước muốn dấn thân đấu tranh
Chúng tôi vững tin sự hy sinh của anh Trần Văn Bá từ Pháp về nước đấu tranh với cộng sản. Việc cả đời đấu tranh cho đất nước của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là những việc làm yêu nước đáng ngưỡng mộ và quan tài của họ đáng được hưởng lễ phủ quốc kỳ VNCH.
Việc chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh binh chủng Nhảy Dù, đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng QLVNCH khi từ trần đã không có lễ phủ cờ là do ý tưởng trách nhiệm đối với đất nước của hai vị tướng nầy nghĩ rằng họ đã không làm tròn được phận sự giữ được miển Nam VN.
Do đó, trừ đi ý nguyện của người quá cố , trừ những người phản bội lại chính nghĩa Quốc Gia, can tâm làm tay sai của tập đòan lãnh đạo CSVN, những kẻ chủ trương hòa hợp với CSVN thiết nghĩ việc phủ quốc kỳ VNCH cho các quân, dân, cán chính, những thanh niên trẻ yêu nước đấu tranh cho cộng đồng, cho quê hương là một việc đáng làm và để chống lại âm mưu của bọn Cộng Sản Bắc Việt nhằm tiêu diệt quốc kỳ VNCH thân yêu của chúng ta vậy./.
Nguyễn Vạn Bình
+++++++++++++++++++++++++++
Vì sao những quí vị có tên dưới đây không có ý nguyện để lại trong di chúc hay không muốn thể hiện việc phủ lá cờ Vàng VNCH lên quan tài khi mất?
- Hoàng Đế Bảo Đại, người khai sinh ra lá cờ Vàng VNCH.
- Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu.
- Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ.
- Đại tướng Cao Văn Viên Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH.
- Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng Tư lệnh Sư đoàn Nhẩy dù VNCH.
- Ca nhạc sĩ Việt Dzũng.
- Trung tá Nguyễn Hạnh Nhơn Hội trưởng Hội trưởng Hội H.O. Thương phế binh VNCH.
Đây có phải là tâm tư siêu hình của lá cờ lịch sử thiêng liêng?
Hay tâm tư của những quí vị mà tên tuổi đã đi vào lịch sử và đã thấy lịch sử sang trang?
Hay vì chưa có cá nhân hay tổ chức nào xứng đáng để cử hành nghi lễ phủ cờ?
"Quá khứ không thể nào xóa mất dấu vết - chỉ mờ đi với thời gian".
Ý kiến của một người dân Bolsa
Cờ Vàng VNCH trên Google.
Những ngôi mộ chiến sĩ VNCH hy sinh trong chiến
trận được chỉnh trang ở Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Không có ai hay
tổ chức nào phủ cờ VNCH trên những ngôi mộ này. Ảnh sau 1975.
Những ngôi mộ mới của các chiến sĩ VNCH hy sinh chôn trong Nghĩa trang Biên Hòa được phủ cờ VNCH. Ảnh trước 1975.
Một quả phụ hôn lên di ảnh cuối cùng của người thân hy sinh được phủ cờ VNCH. Ảnh trước 1975.
Kính chuyển tiếp,
Bài nhận trên diễn đàn,
Chuỗi dài gồm nhiều bài,
v/v
1)-Khi tôi chết Cờ Vàng xin ĐỪNG PHỦ,
2)- Khi tôi chết Cờ Vàng xin ĐƯỢC PHỦ,
Xin QUÝ VỊ tùy nghi, quan điểm, nhận xét, thẩm định.....
Trân trọng,
Trung Đỗ
Có nên "phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ" khi tôi chết ?
Kính chào quý Đồng hương và Quý vị quan tâm
Thiển nghĩ; Đất nước đã tạm mất về tay csvn! Những gì còn lại, chỉ còn..."LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" và "LÝ TƯỞNG TỰ DO"...!
LÝ TƯỞNG TỰ DO...thì khó biểu hiện. Nhưng "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" là để chứng tỏ..."TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA" (không cộng sản)..quyết tâm đấu tranh cho quê hương.
Do vậy; thiển nghĩ; Bất cứ người nào có "ƯỚC MONG LẦN CUỐI" được phủ "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" thì không ai có quyền cấm đoán! (kể cả sĩ quan, Tướng, Tá, Úy, Hạ sĩ quan... hay thường dân)
Ngoại trừ những thành phần đã theo gió trở cờ, hay làm lợi cho csvn...thì không xứng đáng!...
Còn những cá nhân thì gia đình vẫn có quyền phủ "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ"...(cách tự nhiên)
Ngược lại, những chức sắc trong Cộng Đồng, những bậc Vị vọng, Nhân sĩ...(trung thành với Quốc gia)...thì ... Rất mong Cộng Đồng hãy tổ chức "PHỦ CỜ VÀNG" cách nghiêm trang, trịnh trọng.
Khi tôi chết, "CỜ VÀNG" xin hãy phủ
MONG ƯỚC này, xin thoả mãn ƯỚC MONG
Dù không chết trận, nhưng CHẾT TRONG ĐẤU TRANH
Xin dâng hiến, tấm thân này cho TỔ QUỐC...
Khi tôi chết, "CỜ VÀNG" xin hãy phủ!
Trân trọng
Phạm Trung Kiên
Chuyển tiếp
Victopham
Chúc thư Cá nhân và Lòng tri ân của Tập thể.
Trong Tết Mậu thân, nhiều Quân Dân Cán Chính tại Huế bị việt cộng sát hại, tất cả các quan tài của những người xấu số nầy đều được chính quyền địa phương phủ lá quốc kỳ VNCH. Những công dân VNCH nầy, trong đó có những thường dân, không hy sinh ngoài trận tuyến, mà hy sinh trên mãnh đất của quê hương mình. (gợi ý của nhà báo Huỳnh Lương Thiện)
Chuyện chị Hạnh Nhơn ra đi, cũng vậy, dù đã 42 năm "chinh chiến tàn", nhưng đại đa số người Việt trong và ngoài nước đều ghi nhận được lý tưởng và tâm huyết của chị vẫn sáng ngời tính nhân bản và tính thủy chung của một chiến sĩ Quân lực VNCH qua việc làm gian nan nhưng đầy ý nghĩa của chị cho đến hơi thở cuối cùng...
Việc làm đó, không những xoa dịu vết thương cho các TPB và cô nhi quả phụ, mà còn mang ý nghĩa làm Rạng danh Chính nghĩa Quốc gia mà biểu tượng là lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu.
Qua đó, thân xác của chị Hạnh Nhơn RẤT XỨNG ĐÁNG được tập thể người Việt quốc gia phủ lá Quốc kỳ VNCH.
Và tập thể người Việt tị nạn hải ngoại (đồng hương & đồng đội) đang đứng trước sự chọn lựa khó khăn giữa Chúc thư và Lòng tri ân của tập thể.
Chúng tôi nêu lên thiển ý để mong các anh chị con của chị Hạnh Nhơn suy xét lại.
Thưa chị Hạnh Nhơn kính yêu,
Em tin rằng, với bản tính nhân từ đức độ, chị sẽ hỉ xả cho em về ý nghĩ đi ngược với chúc thư của chị như trên,
Sinh thời, chị như thể vị Bồ Tát sống, dù vậy, em cũng xin cầu nguyện mười phương chư Phật sớm tiếp dẫn hương linh của chị về Phương Tây cực lạc Thế giới.
Thân kính,
KQ Võ Ý
Kính Quý Huynh-Đệ,
Qua đề-nghị của NT Võ-Ý, rất có tình, có lý, chị HẠNH-NHƠN RẤT XỨNG ĐÁNG được tập thể người Việt quốc gia phủ lá Quốc kỳ VNCH.
Chúng ta đã biết tánh chị rất giản dị và khiêm nhường, di chúc không phủ cờ của chị cũng do tánh khiêm cung của chị, tập thể KQ chúng ta ủng hộ Ý-KIẾN của NT Võ-Ý, thuyết phục tang gia để chúng ta được long trọng làm Lễ phủ cờ, để Vinh Danh những việc chị đã làm, để tỏ lòng biết ơn những đóng góp của chị, chị đã hy sinh vì mọi người cho đến hơi thở cuối cùng.
Rất mong quý Huynh-Đệ lên tiếng ủng hộ ý-kiến trên.
Trân trọng thân kính chào quý Huynh-Đệ,
KQ Lê-văn-Sùng-PĐ116
Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Bạn Võ-Ý.
Nguyễn -Cầu Dupont
Sent from my iPhone
Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ”.
Sắc lệnh của Tổng Thống VNCH, những người có Bảo Quốc Huân Chương
khi chết sẽ được Phủ Quốc Kỳ VNCH.
Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn / Đệ Ngủ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng...
Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ”.
(Hình: Nguyễn Ngọc Trân cung cấp)
Đỗ Dzũng/Người Việt
Đỗ Dzũng/Người Việt
SHAKOPEE, Minnesota (NV) - Té ra, bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ” mà bấy lâu nay nhiều người tưởng là của cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH, lại do một tác giả khác sáng tác. Đó là cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, hiện cư ngụ tại thành phố Shakopee, Minnesota.
Sau khi nhật báo Người Việt đăng bài “Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: ‘Tôi chết đừng phủ cờ vàng?’” của tác giả Vũ Ánh, trong số báo ra ngày Thứ Bảy, 20 Tháng Tư, tòa soạn nhận được email của tác giả bài thơ cho biết về sự nhầm lẫn này.
Cũng như nhiều người khác, nhà báo Vũ Ánh tưởng Tướng Lê Quang Lưỡng là tác giả bài thơ, bởi vì “chúc thư của vị tướng và lời lẽ trong bài thơ giống nhau quá, và khắp nơi trên diễn đàn Internet ai cũng tưởng như vậy”.
Khi tiếp xúc với tác giả Nguyễn Ngọc Trân, ông cho biết sở dĩ ông sáng tác bài thơ này là vì muốn bảo vệ sự thiêng liêng của lá cờ VNCH.
Ông chia sẻ nguồn gốc sáng tác bài thơ này như sau: “Sở dĩ có bài thơ MTCCVXĐP là cũng vì đọc báo và xem tin tức thấy vào khoảng thời gian trên (lúc bài thơ sắp ra đời) thấy có nhiều vị cựu quân nhân lớn tuổi có lẽ họ không để lại di chúc hoặc dặn người nhà cho nên khi họ mất nhiều hội đoàn cựu chiến sĩ đã nghĩ ra cách phủ cờ cho họ do đó tôi không muốn làm mất sự thiêng liêng của lá cờ và tủi lòng những chiến hữu thực sự năm xuống hoặc sống lây lất bên nhà nên tôi mới cảm hứng làm bài thơ trên.”
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đã lo chi?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ đây đã tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ.
Ngày về quê càng lúc cứ xa mờ,
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng.
Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai?
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
“Bài thơ tôi chỉ làm trong một phút tình cờ khi thấy những hình ảnh phủ cờ tùm lum làm mất giá trị thiêng liêng của lá cờ,” ông cho biết tiếp qua email. “Tôi chỉ làm thơ tài tử thôi.”
Về chuyện Tướng Lưỡng và bài thơ, tác giả Ngọc Trân cho biết: “Tôi thật tình không biết Tướng Lê Quang Lưỡng đã mất năm 2005. Mãi sau này, Tháng Mười Một, 2011, tôi mới làm bài thơ này, tôi chỉ phổ biến trong nhóm Biệt Động Quân, forum Nguyễn Trãi 61-68 và đặc san Biển Khơi của hội Hải Quân OCS mà tôi có mấy người bạn phục vụ. Sau đó thì không biết vì lý do gì bài thơ trên lại được đăng trên net trong bài lời trăn trối của Tướng Lưỡng và đề tên Tướng Lưỡng là tác giả làm bạn tôi anh Trần Đức Tâm đã điện thoại cho tôi và hỏi tôi lúc đó tôi mới biết Tướng Lưỡng đã mất năm 2005.”
“Sau đó tôi có một người bạn có quen với gia đình Tướng Lưỡng và có xác nhận bài thơ đó không phải của Tướng Lưỡng làm, có thể vì một sự tình cờ giữa lời trăn trối của ông trùng hợp với bài thơ của tôi cho nên người viết đã để tên tác giả là ông,” cựu Thiếu Úy Biệt Động Quân Nguyễn Ngọc Trân viết tiếp trong email.
Theo tác giả cho biết, trước năm 1975, ông là học sinh trường trung học Nguyễn Trãi, Quận 4, Sài Gòn, niên khóa 61-68. Đầu năm 1970, ông được lệnh gọi nhập ngũ vào khóa 4/70 trường bộ binh Thủ Đức.
Cuối năm 1970 ông ra trường, về phục vụ tại Tiểu Đoàn 31 BĐQ thuộc Liên Đoàn 3 BĐQ. Cuối năm 1972, ông được thuyên chuyển về phục vụ tại Tiểu Đoàn 36 BĐQ, cũng thuộc Liên Đoàn 3, sau đổi thành Liên Đoàn 31 BĐQ cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Tác giả bị đi “cải tạo” cho đến Tháng Sáu, 1979, vượt biên Tháng Bảy cùng năm, được tàu Ý vớt, và đến Tháng Tám, 1980, định cư tại Minnesota cho đến bây giờ.
Với tinh thần “đừng” qua bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ,” tác giả Ngọc Trân cảm hứng làm bài thơ sau đây, sau khi đọc bài “Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển” của thi sĩ Du Tử Lê.
Bài thơ “Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển” của tác giả Ngọc Trân như sau:
Mai tôi chết hãy mang tôi hỏa táng.
Nắm tro tàn xin rải khắp quê hương,
Nơi hành quân xưa trên khắp núi rừng.
Để được gặp bạn bè tôi nằm đó,
Để thấy lại Kon Tum trong khói lửa
Hay Quảng Trị xưa anh dũng kiêu hùng
Rải tro tôi trên thị trấn Bình Long
Nơi đồi gió bao lính dù nằm xuống.
Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển
Sóng dập vùi thân xác biết về đâu?
Tro bụi tôi xin rải tận tuyến đầu.
Để nhìn lũ Cộng quân đang bán nước,
Thác Bản Giốc Ải Nam Quan ngày trước,
Bây giờ đây đã dâng hết cho Tàu
Tro tàn tôi xin rải tận Cà Mau.
Hay Phù Cát Bồng Sơn cùng Cửa Việt.
Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển,
Mang tro tôi về Bình Giả Phước Long,
Nhớ năm xưa cùng chiến hữu một lòng,
Vung thép súng giữ lời thề ngày trước.
Mai tôi chết xin được như mơ ước,
Để tro tàn tôi bay khắp không gian.
Quê hương ơi! Tôi xin được một lần,
Nắm tro bụi thấm vào lòng đất mẹ.
Nguyễn Vạn Bình: AI XỨNG ĐÁNG ĐƯỢC PHỦ QUỐC KỲ VNCH TẠI HẢI NGỌAI
.......Chính vì thế, nếu với quan niệm việc phủ Quốc Kỳ chỉ dành cho các quân nhận QLVNCH tử trận, thì chúng tôi e rằng việc nầy rất khó xảy ra trong tình trạng chúng ta sinh sống tại hải ngọai hiện nay.Và từ đó, việc phủ quốc kỳ VNCH sẽ bị chấm dứt và lá quốc kỳ VNCH mãi sẽ không còn nhìn thấy trong các tang lễ của người Việt tỵ nạn.....
* Bài của Nguyễn Vạn Bình, nguyên Luật Sư tòa Thượng Thẩm Sàigòn đóng góp dưới đây để tường và cho rộng đường dư luận.
Bài viết nầy chúng tôi hy vọng với những sự kiện đã xảy ra cũng như qua sự tham khảo về nghi lễ phủ quốc kỳ của Hoa Kỳ , của VNCH trước đây và hoàn cảnh hiện nay của cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản, mọi người sẽ có một cái nhìn đứng đắn và sáng suốt hơn về việc phủ quốc kỳ VNCH trên quan tài của người quá cố.
Như tất cả mọi người đều biết, quốc kỳ là một biểu tượng cao quí của quốc gia và dân tộc. Dân tộc của mỗi quốc gia bao gồm mọi giới Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Việc bảo vệ và xây dựng quốc gia không đơn thuần trông cậy vào một thành phần nào trong xã hội mà phải trông cậy vào tòan thể mọi giới, mọi người dân. Vì thế, việc phủ quốc kỳ trên quan tài của người quá cố là một hành động để ghi công về những việc làm ,những đóng góp của người quá cố đối với quốc gia.
Theo nghi lễ của Hoa Kỳ, việc phủ quốc kỳ trên quan tài là một hành vi danh dự được dành cho các quân nhân tử trận, hy sinh vì công vụ, cho các cựu quân nhân, các nhà ái quốc và cho các viên chức cao cấp tại cấp tiểu bang và liên bang của Hoa Kỳ.
Điều đó cho chúng ta thấy rõ, việc phủ quốc kỳ Hoa Kỳ không phải là việc làm đơn thuần dành riêng cho các quân nhân tử trận hoăc hy sinh vì công vụ. Đại tướng Mc Arthur dù một cựu quân nhân, không hy sinh tại mặt trận, nhưng khi ông qua đời đã được hưởng nghi thức phủ cờ để ghi ơn những chiến công hiển hách của ông trong thời đệ nhị thế chiến chống Nhật và trận chiến Triều Tiên chống lại Cộng sản Bắc Hàn và Trung Cộng. Các vị tổng thống , nghị sĩ, dân biểu tên tuổi của Hoa Kỳ, dù không là quân nhân, nhưng trong tang lễ của các vị nầy đều có nghi thức phủ cờ. Tiến sĩ Luther King, nhà tranh đấu cho quyền lợi người Da Đen , dù không là quân nhân, nhưng lúc qua đời, quan tài của ông đã được làm lễ phủ quốc kỳ một cách trang trọng.
Tại miền Nam VN trước đây trong cuộc chiến tranh khốc liệt với quân Cộng Sản Bắc Việt, nhiều quân nhân đã hy sinh. Hình ảnh phủ cờ cho các quân nhận tử trận tại các nghĩa trang quân đội đã là hình ảnh quá quen thuộc đối với mọi người dân.
Chính vì thế, nhiều người đã lầm tưởng rằng, việc phủ quốc kỳ VNCH chỉ dành riêng cho các quân nhân tử trận. Thật ra, chính phủ VNCH không có quyết định hạn hẹp như thế. Nhiều cựu quân nhận hay nhiều viên chức hành chánh cũng đã được hưởng lễ phủ cờ .Đặc biệt, trong biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, Cộng Sản Bắc Việt đã dã man giết và chôn tập thể gần 5000 người dân vô tội tại cố đô Huế. Sau khi tìm ra được thi hài các nạn nhận, chính tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho phủ quốc kỳ VNCH trên tất cả các quan tài của các nạn nhân không phân biệt quân, dân, cán, chính, đàn ông, đàn bà hay trẻ em.Việc làm nầy chính là hành động để xác định căn cước hàng ngàn nạn nhận là công dân của chế độ VNCH, đồng thời cũng nói lên hành vi dã man của chế độ bạo tàn Cộng Sản Hà Nội.
Sau ngày quốc hận 30-4-1975, hàng triệu người Việt Quốc Gia đã liều mình bỏ nước ra đi tỵ nạn cộng sản để tìm đời sống tự do tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cộng đồng người Việt hiện nay tại hải ngọai đã lên đến gần 3 triệu người.
Trong hòan cảnh sống tỵ nạn hiện nay của người Việt Quốc Gia, quê hương yêu dấu của chúng ta đã bị bọn CSVN, tay sai của Trung Cộng cưỡng chiếm, chúng ta đã không còn chính phủ để điều hành, không còn quốc hội để làm luật và không còn một cơ cấu tư pháp để phân xử ai.
Nhưng chúng ta chỉ còn lại hai biểu tượng thiêng liêng là Quốc Kỳ VNCH và bài Tiếng Gọi Công Dân làm Quốc Ca cùng một tấm lòng yêu quê hương tha thiết và một ý chí kiên trì đấu tranh cho một nước Việt Nam được vẹn toàn lãnh thổ, tòan dân được hạnh phúc, ấm no dưới một chế độ , dân chủ, tự do tôn trọng nhân quyền.
Vũ khí đấu tranh hiện nay của cộng đồng người Việt Quốc Gia tại hải ngọai, biện pháp dùng quân sự khó thực hiện. Chính vì thế, phương cách đấu tranh hữu hiệu chính là bao gồm trên mọi lãnh vực. chính trị, vận động ngọai giao, truyền thông, văn hóa, kinh tế, tôn giáo,tài chánh v.v..Mọi mũi dùi tấn công bọn độc tài CSVN đều đáng được ca ngợi và vinh danh.
Bọn CSVN ngày nay không còn sợ phương cách đấu tranh bằng quân sự do cộng đồng người Việt Quốc Gia khởi xướng, vì chúng biết việc làm nầy chúng ta không thực hiện được. Nhưng chúng lo ngại cuộc đấu tranh của người Việt Quốc Gia trên các lãnh vực chính trị, kinh tế, tài chánh ,văn hóa và truyền thông . Chúng ra sức chia rẽ mọi đòan thể, mọi đảng phái, mọi tôn giáo để làm suy yếu sức mạnh đoàn kết của tập thể người Việt Quốc Gia.Nhất là chúng tìm mọi cách để triệt hạ Quốc Kỳ VNCH cùng Quốc Ca là hai biểu tượng cao quí nhất của tập thể người Việt Quốc Gia.
Chính vì thế, nếu với quan niệm việc phủ Quốc Kỳ chỉ dành cho các quân nhận QLVNCH tử trận, thì chúng tôi e rằng việc nầy rất khó xảy ra trong tình trạng chúng ta sinh sống tại hải ngọai hiện nay.Và từ đó, việc phủ quốc kỳ VNCH sẽ bị chấm dứt và lá quốc kỳ VNCH mãi sẽ không còn nhìn thấy trong các tang lễ của người Việt tỵ nạn.
Chúng tôi tin rằng, hàng triệu quân nhân QLVNCH yêu nước và sáng suốt phải nhận thức rằng, trong cuộc đấu tranh chống Cộng Sản Bắc Việt, quân đội không là lực lượng đấu tranh duy nhất của miền Nam VN. Các quân nhận QLVNCH cần có một hậu phương yểm trợ vững mạnh do nhiều người đóng góp. Con em của các quân nhân cần có trường sở, thầy giáo dạy dỗ. Cha mẹ, vợ con của các quân nhân cần được sống trong một xã hội an bình với một nền kinh tế vững mạnh do những viên chức hành chánh tài năng quản trị v.v.
Chính vì thế, trong gần 39 năm sống lưu vong tỵ nạn cộng sản, việc duy trì hai biểu tưởng Quốc Kỳ VNCH và Quốc Ca là việc làm cần thiết nếu không muốn nói là để tránh bị tiêu diệt .
Cuộc đấu tranh của tập thể người Việt Quốc Gia cho một cộng đồng VN vững mạnh và cho quê hương VN được tự do, dân chủ là công việc chung cho mọi người .
Chúng ta phải bỏ đi mọi ý nghĩ tỵ hiềm cá nhân nông nổi, quan niệm chật hẹp lỗi thời làm nãn chí mọi người Việt QG và nhất là giới trẻ yêu nước muốn dấn thân đấu tranh
Chúng tôi vững tin sự hy sinh của anh Trần Văn Bá từ Pháp về nước đấu tranh với cộng sản. Việc cả đời đấu tranh cho đất nước của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là những việc làm yêu nước đáng ngưỡng mộ và quan tài của họ đáng được hưởng lễ phủ quốc kỳ VNCH.
Việc chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh binh chủng Nhảy Dù, đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng QLVNCH khi từ trần đã không có lễ phủ cờ là do ý tưởng trách nhiệm đối với đất nước của hai vị tướng nầy nghĩ rằng họ đã không làm tròn được phận sự giữ được miển Nam VN.
Do đó, trừ đi ý nguyện của người quá cố , trừ những người phản bội lại chính nghĩa Quốc Gia, can tâm làm tay sai của tập đòan lãnh đạo CSVN, những kẻ chủ trương hòa hợp với CSVN thiết nghĩ việc phủ quốc kỳ VNCH cho các quân, dân, cán chính, những thanh niên trẻ yêu nước đấu tranh cho cộng đồng, cho quê hương là một việc đáng làm và để chống lại âm mưu của bọn Cộng Sản Bắc Việt nhằm tiêu diệt quốc kỳ VNCH thân yêu của chúng ta vậy./.
Nguyễn Vạn Bình
+++++++++++++++++++++++++++
Vì sao những quí vị có tên dưới đây không có ý nguyện để lại trong di chúc hay không muốn thể hiện việc phủ lá cờ Vàng VNCH lên quan tài khi mất?
- Hoàng Đế Bảo Đại, người khai sinh ra lá cờ Vàng VNCH.
- Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu.
- Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ.
- Đại tướng Cao Văn Viên Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH.
- Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng Tư lệnh Sư đoàn Nhẩy dù VNCH.
- Ca nhạc sĩ Việt Dzũng.
- Trung tá Nguyễn Hạnh Nhơn Hội trưởng Hội trưởng Hội H.O. Thương phế binh VNCH.
Đây có phải là tâm tư siêu hình của lá cờ lịch sử thiêng liêng?
Hay tâm tư của những quí vị mà tên tuổi đã đi vào lịch sử và đã thấy lịch sử sang trang?
Hay vì chưa có cá nhân hay tổ chức nào xứng đáng để cử hành nghi lễ phủ cờ?
"Quá khứ không thể nào xóa mất dấu vết - chỉ mờ đi với thời gian".
Ý kiến của một người dân Bolsa
Mai Huỳnh Mai St.88721 năm trước - Được chia sẻ công khai
CÁI CHẾT NGƯỜI LÍNH... KHÔNG BÓNG DÁNG HẬN THÙ!!
Những Hình Ảnh diễn ra trước khi chết, CHUYỆN TÂM LINH CHIẾN TRƯỜNG VN!! Cõi Tự Do vĩnh Hằng! Là những chứng nhân của những cái chết...của người lính trên chiến trường
VN. Trạng thái tinh thần của ngư...
Chết nhẹ tợ ' hồng mao '
Người lính ' hâu vệ- Sài Gòn ' luôn luôn đi sát cách trong mọi chiến trường mặt trận, trong khi xung phong chiếm lại ngọn đồi máu VinKy; anh ưởng người ném lựu đạn, để yểm trợ tôi tiến chiếm mục tiêu; rồi bổng nhiên anh nẩy ngược người...lên!. Tôi biết anh trúng đạn, trước khi anh ngả xuống?!, tôi kéo anh xuống giao thông hào... và anh đòi uống nước, vì máu ra nhiều;anh bảo thèm thuốc hút và xin ' ông thầy - cho tôi điếu thuốc lá'. Anh ta kéo một hơi thuốc, đầy sảng khoái... và thều thào bảo: ' nó hết đạn bắn rồi!...và tụi nó cũng ' biết điều'- thương em-để cho em gặp mặt vợ con... đến thăm em lần cuối...và dần dần chìm vào cơn mê ảo ảnh...!!, của tử thần.
Xin mời xem tiếp:
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2017/11/cai-chet-nguoi-linh.html
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2017/11/cai-chet-nguoi-linh.html
Mai Huỳnh Mai St.8872 qua Google+
QUỐC BẢO-QL.VNCH
Cung nghinh " XÁ LỢI " Chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!!
"Trải qua nhũng cuộc bễ dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng! "!- Nguyễn du
Thật vậy, biến cố lịch sử 3o Tháng 4/1975 đã làm cho " Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa" phải lâm cảnh khốn cùng của vật đổi sao dời... làm cho linh hồn chiến sĩ QL.VNCH không nơi yên nghĩ nơi lòng đất mẹViệt Nam, tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa...này. Với lòng thành kính " Tổ QuốcGhi Ơn ", chúng tôi là Cựu chiến binh QL.VNCH mong muốn truy tìm và sưu tầm những bộ hài cốt người chiến sĩVNCH về " NGHĨA TRANG QUỐC GIA SÀI GÒN D.C "- Nơi chốn cũ NTQĐBH '
Ngoài Ban nghi lễ- " PHỦ QUỐC kỲ VN ", còn có Ban " CUNG NGHINH XÁ LỢICHIẾN SĨ QL.VNCH ", vì lòng" Trung quân ái quốc" của họ, đã hun đúc...thành khối " Xá lợi Phật"chomọ người dân hạnh phúc TỰ DO- MAI ĐÂY HÒA BÌNH!!
P/s- Sau biến cố lịch sử 30/4/1975- Chúng tôi là những cựu tù nhân cãi tạo trong tù cộng sản: có 165.000 tù đã bỏ mạng trong rùng sâu nước độc vì đói khát...lạnh lùng. chỉ biết " Niệm Phật- Bát Nhã Ba La Mật ", và chỉ mong sao?! lựu lại một chút gì? quí báo cho đời... bằng " TINH CHẤT XÁ LỢI PHẬT/ TỰ DO "-Nếu có thất lạc hay mất xác trong tù...thì lấy nắm đất quê hương, nơi trại tù cải tạo về ép lại thành " Thạch Táng " và thờ trong tháp cao 7 tầng bên cạnh Nghĩa Dũng Đài & Gươm Thiêng Ái Quốc- Huỳnh Mai St.8872- Cựu tù binh cải tao/Tù cộng sản.
Nung 1.000 độ C không tan chảy, xá lợi Phật có gì đặc biệt?
Chủ nhật, 03/05/2015 | 06:51 GMT+7
(ĐSPL)
- Những viên được cho là “xá lợi” của người bình thường thì chỉ qua độ
nóng mấy trăm độ đã biến thành tro. Còn xá lợi của các vị tăng ni tại
sao qua nhiệt độ 1.000 độ C vẫn không tan chảy?
Hàng nghìn viên xá lợi long lanh như ngọc
Điều
khiến cho các nhà khoa học nghiên cứu về cơ thể con người hiện nay rất
chú ý là việc xuất hiện một loạt những điều bí ẩn ở di hài của các tăng ni phật tử:
Xá lợi, da thịt không rữa nát, toả ánh sáng hào quang, cuống lưỡi vẫn
còn y nguyên... Những hiện tượng trên xuất hiện ngày càng nhiều và trở
thành tư liệu nghiên cứu của các ngành khoa học duy tượng. Một vấn đề
được đề cập nhiều là bí ẩn của xá lợi.
Một số dạng tinh thể được cho là xá lợi của đức Phật và các vị cao tăng sau khi viên tịch. |
Nhiều
người định nghĩa rằng, xá lợi là những vật cứng rất khó vỡ, màu sắc
long lanh, được kết lại do những tro xương từ các di thể của các tăng ni
phật tử sau khi hoả táng. Một số hạt nhỏ có thể trông giống ngọc trai
hoặc pha lê, với màu sắc khác nhau.
Theo nghiên cứu của bà Nguyễn Thị Bình (Tháp chùa Trấn Quốc – Hà Nội),
các sách của Phật giáo có ghi rõ, sau khi đức Thích Ca Mâu Ni tạ thế,
thi thể ngài được phủ cờ phướn có ghi kinh Phật, các loại hương liệu quý
rải khắp xung quanh và được khâm liệm trong quan tài vàng. Sau khi hoả
táng, di thể ngài kết thành nhiều viên cứng như sắt, trong suốt, long
lanh như ngọc. Người ta gọi đó là xá lợi. Phật giáo Trung Quốc trong các
lịch đại đều có hiện tượng “xá lợi” của các chư tăng.
Những
thập kỷ gần đây, hiện tượng này cũng rất nhiều. Buổi chiều ngày
13/2/1975, lão pháp sư Quang Âm cao tăng đã viên tịch tại Đài Loan,
hưởng thọ 95 tuổi. Sau khi hoả táng, di thể ngài để lại hơn 1.000 viên
xá lợi màu nâu lấp lánh, viên to nhất có đường kính tới 4cm, hơn 30 viên
có đường kính 3cm. Pháp sư Hồng Thuyên cao tăng, quốc tịch Singapore
gốc Hoa, viên tịch tháng 12/1990. Sau khi hoả táng, người ta phát hiện
có tới 450 viên giống như thuỷ tinh các màu: hồng, trắng, bạc, vàng,
nâu, đen. Có viên có tới năm màu, quan sát kỹ còn thấy có viên sáng lấp
lánh như đá hoa cương.
Theo sử sách
ghi chép, trước đây, chỉ có các cao tăng viên tịch hoả táng mới để lại
xá lợi. Sau này còn pháp sư Thích Khoan Năng trụ trì tại am Tây Sơn Tiển
Trạch, huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc viên tịch tối
29/9/1989 (thọ 93 tuổi). Sau khi hoả táng được hơn 1.000 viên xá lợi màu
xanh ngọc. Đây là nữ pháp sư đầu tiên sau khi hoả táng có xá lợi. Sau
đó còn có hai ni sư là Thông Hiền, Phó Chủ tịch hội Phật giáo Quảng Tây
(hoả táng di hài thu được hơn 11.000 viên xá lợi năm màu) và ni sư Thích
Hựu Quỳnh, tỉnh Quảng Đông (sau khi hoả táng phát hiện những viên xá
lợi to bằng hạt đậu xanh có màu ngọc nhạt, lấp lánh).
Ở
Việt Nam, dân gian cũng thường đồn thổi về ngọc xá lợi với thực hư lẫn
lộn. Chẳng hạn một vị chân tu 64 tuổi đã ngồi thiền 49 ngày rồi viên
tịch tại chùa Vĩnh Bình thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình nên có nhiều xá
lợi.
Về sự hình thành của xá lợi,
nhiều học giả giải thích đó là sự kết thạch vì các vị tăng ni ăn chay
lâu ngày nên cơ thể thu nhận một lượng lớn xen-lu-lô và chất khoáng, qua
sự trao đổi chất đã hình thành một lượng lớn các loại muối. Chúng trầm
tích trong cơ thể dưới dạng kết tinh rồi từ đó dẫn đến sự kết thạch. Đó
cũng chỉ là một giả thiết. Bởi trên thế giới, lượng người ăn chay tương
đối đông, những người tu hành trong các đạo khác cũng rất kiên trì ăn
chay, song họ không có xá lợi mà chỉ các vị cao tăng mới có?
Ngọc xá lợi của Đại lão Hòa thượng Thích Từ Nhơn, nguyên Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. (Ảnh: Công an TP. HCM) |
Hơn
nữa, những viên được cho là “xá lợi” của người bình thường thì chỉ qua
độ nóng mấy trăm độ đã biến thành tro. Còn xá lợi của các vị tăng ni tại
sao qua nhiệt độ 1.000oC vẫn không tan chảy. Giả sử trong cơ thể của
một người có hàng ngàn viên cứng như sắt đá ấy thì nhất định hoạt động
sinh lý trong cơ thể sẽ rối loạn và dẫn tới bệnh tật. Còn ở các vị cao
tăng có xá lợi này, họ đều đến bệnh viện khám sức khoẻ định kỳ nhưng tại
sao khi chiếu X- quang hay siêu âm lại không phát hiện ra các dị vật
cứng này? Tại sao xá lợi có màu sắc quá long lanh.
Sự thật về xá lợi
Sự thật về xá lợi
Trên
báo Công an TP.HCM, TS. Đỗ Kiên Cường đưa ra một hướng phân tích: Hiện
có ba giả thuyết chính về xá lợi là sức mạnh tinh thần và lòng đại từ,
đại bi của các vị cao tăng kết thành xá lợi; do thói quen ăn chay, ngồi
thiền và do tình trạng bệnh lý (sỏi).
Đầu
tiên là giả thuyết sức mạnh tinh thần của các vị cao tăng biến thành xá
lợi. Nói cách khác, đó là quá trình tinh thần biến thành vật chất. Đây
là cách giải thích thường thấy khoảng vài ngàn năm trước, khi hiểu biết
của loài người còn rất hạn chế. Tuy nhiên, theo khoa học, điều đó không
đúng. Nếu như thế thì các vị cao tăng ai cũng có xá lợi, và đạo đức càng
cao thì càng nhiều xá lợi, nhưng chúng ta không thấy điều đó trong thực
tế.
Theo giả thuyết ăn chay, các cao
tăng thường xuyên sử dụng nhiều chất xơ và chất khoáng, nên quá trình
tiêu hóa và hấp thụ dễ tạo ra các muối phốt-phát và các-bo-nát. Những
tinh thể muối đó tích lũy trong cơ thể dần biến thành xá lợi.
Nhiều
người không đồng ý với giả thuyết này, cho rằng nhiều người ăn chay
nhưng không có xá lợi khi hỏa táng. Tuy nhiên nếu thêm yếu tố ngồi thiền
thì giả thuyết này cũng có một phần sự thật. Ngồi thiền nhiều (như các
cao tăng) sẽ làm tăng khả năng hình thành tinh thể muối trong cơ thể.
Người ăn chay hoặc phật tử bình thường không có nguy cơ đó, vì thời gian
ngồi thiền không nhiều.
Nhiều người
không đồng ý với giả thuyết bệnh lý (xá lợi là sỏi bệnh lý), do hỏa táng
người bị bệnh không thấy xá lợi và các cao tăng thường khỏe mạnh, ít
bệnh tật. Tuy nhiên, chỉ có thể công nhận hay bác bỏ giả thuyết này khi
tiến hành thử nghiệm hỏa táng trên rất nhiều người bệnh. Riêng TS. Cường
cho rằng, nếu có thì đây cũng chỉ là một nguyên nhân thứ yếu.
Sự thật về ngọc xá lợi
đã được hé lộ khi theo ba nhà vật lý Holden, Phakey và Clement thuộc
đại học Monash, bang Victoria, Úc, thấy rằng trong quá trình tinh thể
hóa xương do hỏa táng, các tinh thể hình dạng khác nhau sẽ được hình
thành nếu quá trình hỏa táng ở nhiệt độ thích hợp. Trên tạp chí Khoa học
pháp y quốc tế số tháng 6/1995, họ cho biết đã dùng kính hiển vi điện
tử quét để theo dõi quá trình tinh thể hóa xương đùi của những người từ 1
tới 97 tuổi trong dải nhiệt độ 200 - 1.600°C trong khoảng thời gian 2,
12, 18 và 24 giờ.
Kết quả là sự tinh
thể hóa các khoáng trong xương (chiếm 2/3 trọng lượng xương) bắt đầu
xuất hiện từ nhiệt độ 600°C với nhiều hình dạng khác nhau: hình cầu, lục
giác, hạt nhỏ và hình dạng không đều. Các hạt nhỏ đó có thể kết tinh
thành các khối lớn hơn trong khoảng 1.000 - 1.400°C. Và khi nhiệt độ đạt
tới 1.600°C, các khối tinh thể bắt đầu tan rã. Như vậy, nếu điều kiện
hỏa táng thích hợp, xá lợi có thể xuất hiện do quá trình tinh thể hóa
các khoáng vốn có rất nhiều trong xương người.
Vậy
tại sao người bình thường không có xá lợi? Chúng ta có thể trả lời bằng
cách hỏi ngược lại: Vậy tại sao không phải cao tăng nào cũng có xá lợi?
Câu trả lời là nếu nhiệt độ hỏa táng ban đầu khoảng 600°C, sau đó tăng
lên 1.000°C, nhiều khả năng các khối tinh thể sẽ xuất hiện, miễn là
nhiệt độ không quá cao. Hiện các lò hỏa táng thường có giới hạn nhiệt độ
khoảng 1.200°C, khá thích hợp để xương được tinh thể hóa. Theo Quỹ
Forshang thế giới thuộc Trung tâm Phật giáo Forshang thế giới tại Đài
Loan (hiện đã có cơ sở tại Mỹ, Canada và Hồng Kông), xá lợi chứa các yếu
tố hóa học của cả xương và sỏi.
Như
vậy việc hình thành xá lợi có thể là sự kết hợp của cả ba giả thuyết: ăn
chay và ngồi thiền; sỏi bệnh lý; và sự tinh thể hóa xương khi điều kiện
hỏa táng phù hợp. Theo TS. Cường, đây là giả thuyết thuyết phục nhất mà
chúng ta có hiện nay. Tuy nhiên cần nhấn mạnh tính “may rủi” của sự kết
hợp này: Đó là một quá trình ngẫu nhiên mà sự xuất hiện tùy thuộc vào
nhiều yếu tố đôi khi không kiểm soát được. Có lẽ vì thế mà không phải vị
cao tăng nào cũng có xá lợi.
KIM THY
Xem thêm clip: Kẻ gian “mạo phạm” cả Đức Phật
NGỌC XÁ LỢI CỦA TRUNG TÁ TÔN THẤT VIỆT SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH VNCH
Mô hình thạch táng
Xuất bản 27 thg 11, 2017
- Công ty chúng tôi chuyên chuyển đổi hũ tro cốt búp sen sang dạng thạch táng.
- Thạch táng là một hình thức của hậu táng. Nó vừa giải quyết các vấn đề tâm linh và các vấn đề môi trường. Thạch táng áp dụng thành quả của khoa học kỹ thuật biến đổi tro cốt người quá cố thành dạng rắn vững bền.
- Tên và hình ảnh người quá cố được khắc chìm vào khối pha lê, cho hình ảnh đẹp và bền mãi theo thời gian.
Quý vị muốn chuyển đỗi hủ cốt hoa sen cũ sang dạng thạch táng thì liên hệ ngay để được chúng tôi tận tình tư vấn.
Đc: Công Ty Pha Lê Hoa Sen
260/40 Nguyễn Văn Quá, P. Đông Hưng Thuận, Q12, TPHCM.
Email: phalehoasen.co@gmail.com - phalehinhtho@gmail.com
Hotline: 0917 579 589 - 0908 406 246
https://youtu.be/OoKA6vBfrlI
CHUYÊN THIẾT KẾ LÀM ẢNH THỜ PHA LÊ
Văn Phòng: 260/40, Nguyễn Văn Quá, P. Đông Hưng Thuận, Q12, TPHCM
Cửa hàng 1: 14 Nguyễn Văn Quá, P. Đông Hưng Thuận, Q12, TPHCM
Cửa hàng 2: 2 Tân Thới Nhất 17, P. Tân Thới Nhất, Q12, TPHCM
Email: phalehinhtho@gmail.com
Website: phalehinhtho.vn
Hotline: 0917 579 589 - 0908 406 246
Danh mục sản phẩm
Sản phẩm mới nhất
-
Phật Thích Ca lá bồ đề
1.200.000đ 1.000.000đ -
Pha lê in hình màu phật thích ca kt 15x21cm
1.600.000đ 1.500.000đ -
Cửu huyền thất tổ khắc laser kt 22x30
2.300.000đ 2.200.000đ -
Pha lê in hình màu kích thước 15x21cm
1.600.000đ 1.500.000đ -
Pha lê khắc laser kt 22x30x1,5cm
2.300.000đ 2.200.000đ -
Phật quan âm khắc laser tòa sen kt 12x18x7cm
3.200.000đ 3.000.000đ -
Bác Hồ khắc 3D kt 10x15x6cm
2.200.000đ 2.000.000đ -
Pha lê in màu kt 30x40cm
3.200.000đ 3.000.000đ
Dịch Vụ Ép Cốt Thạch Táng
18/11/2017
Thạch
táng là một hình thức của hậu táng. Nó vừa giải quyết các vấn đề tâm
linh và các vấn đề môi trường. Thạch táng áp dụng thành quả của khoa học
kỹ thuật biến đổi tro cốt người quá cố thành dạng rắn vững bền với thời gian. Tên và hình ảnh người quá cố được khắc chìm vào khối pha lê, cho hình ảnh đẹp và bền mãi theo thời gian.
- Hiện tại nhu cầu gửi tro cốt của người dân sống tại TP.HCM đang tăng cao, có lẽ vì vậy mà một số nơi muốn thay đổi cấu trúc hũ đựng cốt để đảm bảo về mặt thẩm mỹ và để có không gian thờ cúng được trang nghiêm và đặt được nhiều hũ cốt hơn.
- Công ty chúng tôi chuyên
chuyển đổi hủ cốt cũ búp sen và ép tro cốt sang dạng khối rắn chắc như
đá granit, dạng thạch táng hủ vuông, hình ảnh và thông tin người mất
được khắc chìm vào khối pha lê được đặt ngay bên trên hủ thạch táng.
Cho hình ảnh bền đẹp mãi với thời gian.
Quý vị muốn chuyển đỗi hủ cốt hoa sen cũ sang dạng thạch táng thì liên hệ ngay để được chúng tôi tận tình tư vấn.Đc: Công Ty Pha Lê Hoa Sen
260/40 Nguyễn Văn Quá, P. Đông Hưng Thuận, Q12, TPHCM.
Email: phalehoasen.co@gmail.com - phalehinhtho@gmail.com
Hotline: 0917 579 589 - 0908 406 246
Bình luận
CHÙA HOẰNG PHÁP | XÁ LỢI PHẬT là gì CÓ THẬT HAY KHÔNGhttps://youtu.be/gQT7eYXiH8Y
Dĩ
nhiên xá lợi Phật là có thật rồi các bác ạ. Một viên hồng ngọc hay kim
cương nếu gặp điều kiện thuận lợi thì sẽ tạo thành. Tuy hiếm nhưng trên
thế giới có biết bao nhiêu viên hồng ngọc, kim cương... Trong khi Phật
thì chỉ có một người. Người này trải qua hàng triệu năm tiến hóa tu
luyện mới thành một người như thế. Cho nên mới nói vì sao xá lợi Phật có
thật và lại quý hơn tất cả kim cương, hồng ngọc như thế.
KHÁM PHÁ VIỆT NAM : NGỌC XÁ LỢI PHẬThttps://youtu.be/rx-vxUlOmV0
Bí Mật 102: Xá Lợihttps://youtu.be/TEIvEB6o7g4#ongdaodua #thithe #hongnhutvlogs
CHÙA HOẰNG PHÁP | XÁ LỢI PHẬT là gì CÓ THẬT HAY KHÔNGhttps://youtu.be/gQT7eYXiH8Y
Dĩ
nhiên xá lợi Phật là có thật rồi các bác ạ. Một viên hồng ngọc hay kim
cương nếu gặp điều kiện thuận lợi thì sẽ tạo thành. Tuy hiếm nhưng trên
thế giới có biết bao nhiêu viên hồng ngọc, kim cương... Trong khi Phật
thì chỉ có một người. Người này trải qua hàng triệu năm tiến hóa tu
luyện mới thành một người như thế. Cho nên mới nói vì sao xá lợi Phật có
thật và lại quý hơn tất cả kim cương, hồng ngọc như thế.
KHÁM PHÁ VIỆT NAM : NGỌC XÁ LỢI PHẬThttps://youtu.be/rx-vxUlOmV0
Bí Mật 102: Xá Lợihttps://youtu.be/TEIvEB6o7g4#ongdaodua #thithe #hongnhutvlogs
Kỳ lạ thi thể "Ông Đạo Dừa" 24 năm không phân hủy ✅ Hồng Nhựt Vlogshttps://youtu.be/0_45SXtGLuM
Tịnh Độ
|
Nguồn:http://www.tuvienquangduc.com.au/tinhdo/100vangsanhluuxaloi.html THÍCH NHẤT HẠNH – TÊN VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐỘI LỐT PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG VỆT MÁU TỘI ÁC CỦA „GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT“ – KHỐI ẤN QUANG (monks)
http://vn-buddhist.blogspot.com.au/2012/11/thich-nhat-hanh-ten-viet-gian-cong-san_4.html
Sonntag, 4. November 2012HAY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG KHIỂN DỤNG VỎ BỌC PHẬT GIÁO LÀM PHƯƠNG TIỆN BÔI XÓA TỘI ÁC, CỦNG CỐ QUYỀN LỰC NHƯ THẾ NÀO.(Phần 1.) Seattle, August. 2012 Thái A Anh Đào tựa dịch từ nguyên bản tiếng Đức Original Text: Deutsch Và bản dịch TIẾNG ANH – ENGLISH với sự đồng ý của nguyên tác giả Thái A. Theo nguồn: nhabaovietthuong.com, Trân trọng Vietnam – Buddhist DẪN NHẬP ĐỀ: 1. Theo Hiệp định Genève về việc tạm thời chia cắt lãnh thổ Việt Nam vào ngày 20.07.1954 thì trong một thời gian ngắn, dân chúng hai miền Nam Bắc được tự do quyết định di cư đến hai miền Nam Bắc của đất nước. Ranh giới tạm thời chia cắt đất nước là vĩ tuyến 17, biên giới thiên nhiên là sông Bến Hải. Nguyên do của hiệp định này, một bên là âm mưu chiến lược thâm độc của Hồ Chí Minh tự nguyện làm khuyển mã theo chỉ thị của quốc tế cộng sản, được giật dây trực tiếp bởi Moskau và Bắc Kinh, và một bên là nước Pháp, sau khi thất thế tại chiến trường Điện Biên Phủ đang cố gắng để đạt được hiệp định này để rút lui khỏi Việt Nam trong một tư thế khả thi nhất. Các đảng phái quốc gia khác tại Việt Nam đương thời đều phản đối sự chia cắt đất nước một cách ngang trái này. Vào thời điểm đó dòng người dân miền Bắc tìm mọi cách chạy trốn chế độ „cộng sản“ của Hồ để di tản về phương Nam đã đột ngột dâng lên một cách chưa từng có. Trong một thời gian ngắn, với sự cố gắng nỗ lực cao cả và sự giúp đỡ của Mỹ, Pháp cùng các tổ chức từ thiện quốc tế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã tổ chức di cư thành công cho hơn một triệu đồng bào miền Bắc vào miền Nam, và ổn định cuộc sống cho đồng bào những năm sau đó. Mặc cho sự tuyên truyền một chiều, tìm cách ngăn cản và xuyên tạc tẩy não của Hồ và cái gọi là „đảng cộng sản“ của hắn lúc đó đang còn tìm cách che giấu dã tâm khát máu, đại đa số đồng bào miền Bắc đã quyết tâm từ bỏ chế độ cộng sản tại miền Bắc. Trong dòng sử Việt, đây là cuộc di cư lịch sử lớn nhất vào thời điểm đó. Nếu không bị những thủ đoạn gian manh tàn ác của Hồ để hòng ngăn cản đồng bào di cư, qua mặt các tổ chức giám sát quốc tế thì dòng người di cư đã vượt xa nhiều lần con số 1 triệu nói trên. Đại đa số đồng bào Việt Nam đã tỏ rõ thái độ phản kháng chế độ cộng sản tại miền Bắc. 2. Cái gọi là „chính phủ“ của Hồ được giàn dựng bởi đảng cộng sản, trá hình Việt Minh, thành hình bởi lừa đảo, cướp, gìết, khủng bố và mọi thủ đoạn khuynh đảo tiến đến cướp trọn chính quyền của Chính Phủ Liên Hiệp năm 1946 đã không được nhân dân miền Bắc chấp nhận. Hồ và đảng CS đã thi thố mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc và bạo lực nhằm ngăn cản dòng người đang phải dứt lòng bỏ lại xóm làng thân thương, quyết tâm vượt thoát chế độ cộng sản tìm đến bến bờ tự do nơi đất trời phương Nam. Cũng theo hiệp định Genève thì sau 2 năm, tức năm 1956 sẽ có một cuộc tổng bầu cử toàn dân để dân chúng hai miền được tự do quyết định bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử dân chủ hợp hiến với mục đích là tái thống nhất đất nước. Cuộc bầu cử sẽ được sự kiểm tra và giám sát của Liên hiệp quốc. Nhưng cả sau khi thời hạn di cư, được gia hạn thêm một thời gian ngắn, ngoài thời hạn (300 ngày) đã hết và nhiều năm sau đó, người dân bị trị miền Bắc vẫn còn tìm cách vượt thoát về phương Nam. Tất cả những lần vượt thoát từ miền Bắc của đồng bào qua sông Bến Hải vào Nam, khi bị quân đội miền Bắc phát hiện đều bị truy đuổi, chặn bắt, dùng tên tẩm chất độc và cả vũ khí sát thương hạ sát (mặc dù theo quy định của hiệp định là không được dùng vũ khí sát thương). Tình trạng thê thảm tại biên giới Nam-Bắc Việt Nam lúc đó cũng tương tự như hiện trạng nơi biên giới Đông-Tây của một nước Đức từng bị chia cắt, hoặc tại khu vực biên giới Nam-Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng về mức độ thì vượt mọi ranh giới của sự tàn ác và thê lương. Hiệp định Genève đã bị Hồ xé tan và giẫm nát bằng chân từ lúc nó chưa thành hình. 3. Để có một tầm nhìn khái quát nhưng đầy đủ về về tình hình Việt Nam sau hiệp định Genève 1954 thì văn bản „Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoàngày 26. Tháng Tư. 1958 về những vướng mắc trong vấn đề Tái thống nhất đất nước“ là một tài liệu đặc biệt hữu ích. Văn kiện ngoại giao này được công bố ngày 26.04.1958 bởi văn phòng Sứ thần Việt Nam Cộng Hoà tại Bonn, CHLB Đức. Nguyên bản hiện đang lưu trữ tại trung tâm lưu trữ Văn khố thành phố Stuttgart, tiểu bang Baden Württemberg, CHLB Đức, có thể tìm thấy dưới mã hiệu: „ J 152 D Vietnam Nr.1“. 4. Cũng trong làn sóng người di cư này đã có khoảng 3000 cán bộ cộng sản trà trộn theo vào Nam, cũng như khoảng 6000 cán bộ cộng sản khác, đều theo lệnh của Hồ cài cắm ở lại miền Nam, nằm vùng tạo dựng cơ sở cho cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà của Hồ sau này. Số cán binh nằm vùng này tăng lên không ngừng vào những năm sau đó. 5. Miền Nam Việt Nam trong trong giấc mộng xâm lăng của Hồ Chí Minh theo lệnh từ Moskau và Bắc Kinh chỉ là cái bàn đạp đầu tiên. Cái đích của sự toan tính của Hồ nằm trong giấc mộng xâm lăng của đế quốc đỏ, là chiếm cả Đông Dương, gồm cả Lào và Campuchia. 6. Nói về sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như văn hoá, kinh tế, và đặc biệt là tôn giáo trong chế độ ngụy quyền của Hồ lúc đó có thể so sánh là đã bị tụt lùi xuống ngang hàng với thời hậu trung cổ tại châu Âu. Thực trạng Bắc Việt Nam đương thời đã bị biến dạng thành một thứ ngục tù không tường vách, không khác gì với Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng thực trạng này vẫn còn đúng với cả nước Việt Nam cộng sản tới tận ngày hôm nay! Cụm từ „Kommun + ismus“ có nguồn gốc từ Âu châu ( nguyên ngữ tiếng Đức: „Kommunismus“ ) đã bị Hồ và tay sai ma mãnh và xuẩn động dịch sang tiếng Việt là „Cộng sản-chủ nghĩa“, với nghĩa chữ nước đôi của cụm từ „cộng sản“ là „tài sản chung/ tài sản cộng đồng“ („gemeinsames Vermögen“), và đi kèm theo nó nào là những „không giai cấp“, „vô sản“ và „bất sở hữu“ (riêng tư)…, sau khi đã qua tay một tập thể trí nô vong bản, lưu manh, nhưng hùng hậu, tô vẽ và tuyên truyền quảng bá cho nhân dân miền Bắc về một „thiên đường cộng sản“ sáng lạn, trong đó „không còn ai được quyền sở hữu một thứ gì riêng tư“. Sự tuyên truyền này về thực chất là một sự cưỡng bức tẩy não tập thể toàn dân. Sự cưỡng bức tuyên truyền có tích chất „cách mạng“ của Hồ và đảng cộng sản nhìn cách nào cũng chỉ là sự thừa hành lặp lại nguyên si lối hành xử tàn bạo của Stalin, và sự thừa hành, sao chép bằng máu cái gọi là „cách mạng văn hoá“ của Mao Trạch Đông, mà mổi mỗi đều dùng để chống lại chính nhân dân trong nước, triệt phá sức đề kháng của quần chúng để dễ bề cai trị. Cái gọi là „Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà“ tại miền Bắc, được giật dây, hà hơi tiếp sức trực tiếp của nước Nga Xô-viết và Tầu cộng đang gồng mình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lăng tiến về phía Nam. Sự tàn bạo của của chế độ ngụy quyền cộng sản tại Bắc Việt Nam được che đậy bằng những cụm từ tanh mùi máu như „chuyên chính vô sản“, cách mạng xã hội chủ nghiã v.v. và v.v. đã được các tác giả tên tuổi của Việt Nam và thế giới tự do lật tẩy qua vô số các tác phẩm đã được công bố ngay từ những ngày đầu chế độ này manh nha hình thành. VÀO ĐỀ: 7. Vào thời điểm này tại miền Bắc thì tất cả hoạt động tôn giáo của nhân dân đều bị bộ máy tuyên truyền CS tùy tiện kết án là „thuốc phiện của nhân dân“, „lạc hậu“, „mê tín dị đoan“, „phản động“ cho đến „phản cách mạng“ hoặc „gián điệp của các thế lực phương tây thù địch“ , tùy theo nhu cầu đàn áp của đảng, và nhất định phải bị „bạo lực chuyên chính vô sản“ tiêu diệt bài trừ. Bức tranh vẽ bôi của Hồ về một „nhà nước cộng sản“ tại miền Bắc Việt Nam trên thực tế còn đang ở thời kỳ hậu quân chủ, với nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu thô sơ và đa phần dân chúng là nông dân. Nhưng vì phải rập khuôn theo mô thức từ nước Nga và Tầu cộng sản nên đặc biệt từ những năm, khi đảng cs đã đặt được ách cai trị toàn phần đối với dân chúng miền Bắc qua bộ máy quốc hội bù nhìn, thì đảng cs cũng cho dựng lên các giáo hội giả hiệu như „Giáo hội Phật giáo“, „Giáo hội Thiên Chúa giáo“, nhưng chỉ là những hội như „hội phụ nữ“, „hội nông dân“… cùng vô số các hội tương tự, dưới sự lãnh đạo của đảng, thừa hành bởi „Mặt trận Tổ quốc“. Đảng cộng sản có một rừng biển hiệu chỉ để treo cho có như thế. Cùng chung một số phận như thế, các đảng như „đảng dân chủ“, „đảng xã hội“ đều bị các cán bộ tay sai của Hồ thâm nhập, đục khoét từ bên trong, tiến tới chỉ còn là những biển hiệu, những công cụ tay sai của đảng cộng sản. Một thực tại lịch sử là phần đông dân số Việt Nam theo đạo Phật, hoặc có những nền tảng tâm linh và thế giới quan khoan dung đủ tầm quảng đại để đồng hành với giáo lý Phật giáo. Thực tại này cũng chính là một yếu tố mà đối với chế độ độc tài ngụy quyền cộng sản không thể nào coi nhẹ, hơn thế nữa các đạo giáo có mặt tại Việt Nam đặc biệt là đạo Phật nói chung thực sự là một cơ hội béo bở, và nhất thiết phải chịu sự khiển dụng của đảng, như một trong những công cụ đa năng khác dành cho các mục tiêu của đảng cộng sản. Mưu mô hoạch định cho sự thành hình của cái gọi là „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất“ cùng những „Gia đình Phật tử Việt Nam“ tại miền Nam đầu những năm 1960 đã được toan tính từ lâu trước đó bởi „Bộ Chính trị“ đảng cộng sản tại…miền Bắc. Cũng vào thời gian này thì kế hoạch và guồng máy xâm lăng miền Nam của Hồ từ Hà nội đang hoạt động hết tốc độ. Để chuẩn bị cho cuộc thâm nhập trên „mặt trận tôn giáo“, có một số rất đông các cán bộ đảng cộng sản được tuyển chọn huấn luyện và đào tạo ngắn hạn về Phật giáo tại miền Bắc, chưa kể những số cán bộ nằm vùng trong Nam và số cơ hội bị lừa vào tròng. Tất cả những cán bộ đã được cộng sản tẩy não này đều có chung một định hướng là dùng vỏ bọc tôn giáo này để phá hoại và làm sao qua đó gây tạo cho được sự phản loạn, bất ổn định với sức ảnh hưởng chính trị càng lớn càng tốt trong quần chúng và các đô thị miền Nam. Để cuối cùng thì cái gọi là „GHPGVNTN“ đã được giật dây để thành hình, cùng vô số các tổ chức tay chân trực thuộc của nó như „Gia đình Phật tử Việt Nam“. Nhưng, như mục tiêu thâm độc của đảng CS, là những kẻ giật dây khuynh đảo và điều khiển tổ chức này muốn đạt đến vào thời điểm đó là tạo vỏ bọc để tuyên truyền ngụy trang và nhân danh nhân dân miền Nam, hậu thuẫn cho quân đội cộng sản cùng một lúc xâm lăng miền Nam. Và đến tận ngày hôm nay GHPGVNTN vẫn còn được dùng để làm cò mồi tuyên truyền cho các mục tiêu chính trị của đảng csvn. Thich Huyen Quang (geb. Le Dinh Nhan), links im Bild, der KP Kader im Mönchsgewand bei der Vollversammlung und Bekanntgabe der UBCV im Jahr 1964 in Saigon. * Trong ành: (bên trái) Thích Huyền Quang ( tức Lê Đình Nhàn), tên Việt gian tay sai cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, đọc diễn văn tại đại hội ra mắt của GHPGVNTN tại Sài gòn, năm 1964. 8. Để thực hiện mục tiêu này, tên đảng viên cộng sản đội lốt Phật giáo Thích Trí Quang đã hoạt động phá hoại một cách điên cuồng, khích động, khuynh đảo, giật giây một bộ phận lớn quần chúng và Phật tử miền Nam, tổ chức các cuộc biểu tình phản loạn, xuống đường và „tự thiêu“ v.v. nhằm phá hoại tạo bất ổn định cho chính quyền miền Nam. Hậu quả là dẫn đến cuộc đảo chính phản tặc chống lại chính phủ VNCH, Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đương nhiệm Ngô Đình Diệm cùng bào đệ của ông đã bị sát hại trong cuộc đảo chính phản tặc này. Phần chi tiết sẽ được đề cập ở các phần sau trong bài. Thích Trí Quang (geb. Phạm Văn Bồng), ein gefürchteter führender KP-Agent im Mönchsgewand, ist einer der kaltblütigsten Haupt-Täter der sog. "buddhistichen Rebellen" zugusten der nordvietn. Kommunisten im Invasions-Krieg gegen die Süd-Republik Vietnam. Im Bild: Thich Tri Quang als Titelbild des „Time“ Magazin, New York, USA 1963. * KP Kader Thich Tri Quang im Mönchsgewand und Komplizen demonstrieren vor dem Regierungsgebäude der Süd Republik Vietnam in Saigon im Jahr 1963. KP Kader Thich Tri Quang und der DDR Kommunist Erich Wulf 9. Thích Trí Quang, tức Phạm Văn Bồng, sinh tại làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, miền Trung Việt Nam. Theo tài liệu tình báo của Pháp (sau này là „Phòng Nhì“) thì hắn đã gia nhập và là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1949. Lễ gia nhập đảng được tổ chức tại mật khu Lương Miêu, Dương Hoà. kết nạp bởi Tố Hữu, tức Tôn Thất Lành, một trong những tên cán bộ cao cấp của đảng CS Vìệt Nam. Cả CIA cũng như tình báo VNCH đều nắm rõ về vụ việc này. Để có một tầm nhìn bao quát và cụ thể hơn về những cán bộ Việt gian cộng sản giả danh Phật giáo núp áo nhà sư như Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn và cái gọi là „GHPGVNTN“ thì tài liệu sau đây của CIA đặc biệt hữu ích: Nguyênvăn tiếng Anh: SituationAppraisal of Buddhism as a Political Force During Current Election PeriodExtending through September 1967 – May 4, 1967. Language: English; Document Pages: 13; Date: 04 May 1967; Collection: Central Intelligence Agency Collection; Media Type: Document (.pdf); Full Text: Full Text is available for this item. Return to the Virtual Vietnam Archive and search for Item Number: 04109128007. Go to the More Information section and change to the Full Text view.; View Item: Situation Appraisal of Buddhism as a Political Force During Current Election Period Extending through September 1967, 04 May 1967, Folder 128, Box 09, Central Intelligence Agency Collection, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Accessed 21 Aug. 2012. Và bản dịch tiếng Việt hiện đang được đăng tải > tại đây< 10. Giật dây hậu trường cuộc đảo chính này lại chính là đồng minh Hoa kỳ, qua bàn tay của CIA, muốn lợi dụng cuộc đảo chính cho mục đích của Mỹ lúc đó. Vào thời điểm này phiá Mỹ muốn trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam chứ không phải chỉ là gián tiếp cung cấp vũ khí và cố vấn quân sự. Một cuộc đảo chính triệt hạ quyền lực của chính phủ và tổng thống Ngô Đình Diệm thay thế bằng một chính quyền khác dễ bảo hơn, hợp với sự „quan tâm“ của chính quyền Hoa Kỳ lúc đó. Sau khi cuộc đảo chính lật đổ chính phủ đệ nhất Cộng Hoà có sự tiếp tay của CIA đã thành toại, tên cộng sản Thích Trí Quang vẫn tiếp tục sách lược của đảng cộng sản giao phó. Hắn vẫn tiếp tục khích động đồng bào và Phật tử miền Nam xuống đường phản đối, gây phản loạn tiếp tục chống chính quyền mới và cực lực chống luôn cả người Mỹ. Lần này chính quyền đệ nhị VNCH và CIA đã cô lập bắt gọn Thích Trí Quang, nhưng do „ảnh hưởng“ của hắn với lũ nằm vùng trong chính quyền VNCH hắn lại được tại ngoại và tiếp tục hoạt động có lợi cho cộng sản. Xin nói thêm là loại trừ một trường hợp ngoại lệ duy nhất là Thích Trí Quang đã bị đại tá Nguyễn Ngọc Loan bắt nhốt và cô lập sau khi không còn một tướng lĩnh VNCH nào trước đó giám đối đầu với tên việt gian CS này. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan sau này đã được phong tướng. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên – Huế, xuất bản năm 2010 – USA). Vụ hỏa thiêu hành quyết Thích Quảng Đức > < 11. Một trong những đỉnh điểm tội ác cuộc phản loạn này là vụ hành quyết thiêu sống Thích Quảng Đức, đã được giàn dựng để tuyên truyền là „Thích Quảng Đức tự thiêu chống lại đàn áp Phật giáo“. Sự thực là vụ này cũng như đa phần các vụ hỏa thiêu bức tử khác đã được các tên cộng sản trá hình Phật giáo chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Ban đầu Thích Quảng Đức được tẩy não là hắn sắp thực thi một „sứ mạng quan trọng“, nhiều trợ lý đệ tử có chuyên môn y khoa đã thường xuyên dùng các loại thuốc mê chuyên dụng biến cơ thể Thích Quảng Đức trở nên đờ đẫn, thần kinh bị ức chế vô cảm. Để đến khi liều thuốc mê đặc dụng cuối cùng tiêm vào cơ thể Thích Quảng Đức một cách rành nghề trước khi bị tên Nguyễn Công Hoan và đồng bọn chở và dìu vực ra nơi hành hình, thì Thích Quảng Đức bấy giờ chỉ còn là một thân xác vô cảm với hệ thần kinh đã tê liệt. Rồi chính Nguyễn Công Hoan đã dùng ít nhất là 10 Lit xăng đổ ngập lên đầu và người Thích Quảng Đức, xăng chẩy thành vũng đọng quanh chỗ ngồi của kẻ bị hành quyết, và cũng chính Thích Công Hoan dùng một bật lửa Zippo châm lửa từ xa, cái xác vô cảm đẫm đầy xăng bắt lửa cháy ngay lập tức… Và tất nhiên, một số đông các cán bộ cộng sản trá hình „tăng ni“ và cả „cảnh sát“ đã được chuẩn bị trước để dàn hàng quây vòng xung quanh nơi hành hình, để quyết thiêu cho bằng được Quảng Đức mà không bị cản trở. Quan trọng hơn cả là một vài „nhà báo quốc tế“ đã đựợc chuẩn bị trước cho cuộc hành hình này cũng được giàn xếp ngay nơi hiện trường, tức là có thể chụp hình kẻ bị thiêu và „được phép“ ghi lại hình ảnh cảnh hành quyết một cách rõ nét nhất. Với mục đích là ngay sau đó những hình ảnh sắc nét nhất thế giới này sẽ qua tay giới truyền thông tới Mỹ và phương Tây, phục vụ cho mục đích tuyên truyền của đảng cộng sản hòng lừa đảo dư luận cả thế giới. Kẻ bị hành quyết hỏa thiêu chết cháy như than tại chỗ. Nguyễn Công Hoan hiện nay (năm 2012) đang ẩn náu trong một cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại Mỹ. 12. Đảng cộng sản Việt nam, „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất – Ấn Quang“ và tất nhiên là cả Thích Nhất Hạnh cho đến tận ngày hôm nay vẫn đang tìm mọi cách bôi xóa và chối bỏ tội ác là: chính chúng đã giàn dựng và thực thi vụ hành quyết hỏa thiêu đặc biệt dã man này. Hơn thế nữa, ngay từ đầu chúng đã giàn dựng ra hàng loạt những chuyện ly kỳ nhất để loan đồn những chuyện hoang tưởng đạo đức giả, nhân danh Đạo Phật và Giáo lý Phật giáo, hòng che mắt và đánh lừa dư luận cả thế giới. Nào là „Bồ Tát tự thiêu“, "lửa từ bi", „Thánh Tử Đạo“.v.v. 13. Các vụ „Phật giáo tranh đấu“, biểu tình phản loạn triền miên, rồi vụ hành quyết hỏa thiêu Thích Quảng Đức ngày 11.06.1963, chỉ là những thủ thuật dùng để gây rối đổ thêm dầu vào lửa, nhằm tạo thêm chất nổ cho đỉnh điểm của nó, là vụ các tướng lĩnh phản tặc được sự giật dây mua chuộc trực tiếp của CIA, được thực thi bởi „đội quân thứ ba“ của đảng tức „Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam“ trong đó có giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất“, lật đổ Chính thể Đệ nhất VNCH và sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02.11.1963. Tất cả chỉ là diễn tiến một phần của một âm mưu đã được hoạch định trước. Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để lật đổ chính thể Đệ Nhất Cộng Hòa để có thể qua đó có toàn quyền quyết định thao túng trực tiếp vào „công cuộc chống cộng sản“ tại miền Nam. 14. Tất cả nhũng vụ „Phật giáo phản loạn“ cũng như tin tức chiến sự tại miền Nam vào thời điểm này và cũng gần như xuốt thời gian cuộc chiến Việt Nam, đều được giới báo chí, truyền thông bình luận chiến sự và dân sự VNCH, đồng minh phương Tây và cả khối cộng sản loan tải. Tuyên truyền theo kiểu tẩy não một chiều của khối cộng sản đông Âu và Bắc-Việt thì đã là lẽ hiển nhiên dễ hiểu. Nhưng rõ ràng là đã có một sự che chắn, thông tin một chiều có chủ ý, được định hướng bởi Hoa Kỳ. Hậu quả là tại phương Tây, đặc biệt là tại Mỹ, những bản tin về tình hình chiến sự tại Việt Nam đã bị bóp méo một cách nghiêm trọng. Thật mỉa mai vô cùng là nội dung các bản tin chiến sự đã được loan tải này lại hoàn toàn có chiều hướng làm lợi cho quân đội lê dương cộng sản của Hồ, một tập đoàn đánh thuê của Bắc Kinh và Moskau. 15. Một trường hợp cụ thể là, vì cái chiêu bài giả danh đội lốt Phật giáo do „GHPGVNTN khối Ấn Quang“, Nhất Hạnh, Võ Văn Ái và khối „thiên tả“ làm rùm beng, giật dây khích động phản loạn rồi tung tin tuyên truyền, bôi nhọ xuyên tạc rằng „chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo“, do vậy Chính phủ VNCH đã chủ động trực tiếp mời một phái đoàn quan sát của Hội đồng liên hiệp quốc tới Việt Nam Cộng Hòa để điều tra làm rõ vụ việc. Mặc dù với sự giúp đỡ tận tình của Chính Phủ VNCH trong điểu kiện thực tế, phái đoàn điều tra đã chỉ có thể đưa ra một kết luận trung thực là dưới chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt nhiên không hề có sự đàn áp tôn giáo. Những luận điệu cáo buộc bôi nhọ chính quyền VNCH đã được loan đi bởi các phương tiện truyền thông và báo chí đa phần là thân cộng sản tại phương Tây đã bị phái đoàn điều tra vạch mặt là những luận điệu tuyên truyền vu khống thâm độc ác ý. Một bản điều trần về những gì mắt thấy tai nghe tại Việt Nam Cộng Hòa nói lên sự thật trên, đã được phái đoàn chuẩn bị hoàn tất để điều trần trước dư luận thế giới trong phiên họp ấn định của hội đồng LHQ. Nhưng cũng vào giờ phút trót bản điều trần đã bị chính những nhân vật cấp cao của Nhà Trắng „điều đình“ và cản trở một cách bí mật, để hậu quả là bản điều trần đó đã bị giấu nhẹm đi và đã không được chính thức công bố. 16. Cho đến tận ngày hôm nay năm 2012, trên các phương tiện truyền thông chính thức, và cả trong các sách giáo khoa của các trường đại học tại Mỹ vẫn còn đầy rẫy những tin một chiều hoàn toàn sai lệch dường như có chủ ý về sự thật chiến tranh Việt Nam, tung hô có lợi cho đảng cs…Tầu, và đảng cs Việt Nam. Mặc dù hàng loạt những tài liệu của Lầu Năm Góc về các sự thật bí ẩn trong chiến tranh Việt Nam đã được giải mật và công bố. Mặc cho sự ra đời của bộ sách „Hồ sơ đen về chủ nghĩa Cộng sản“ đã trở nên nổi tiếng. Mặc cho sự ra đời của hàng loạt các phẩm, tác giả đã công bố, đã bạch hóa sự thật về thực chất của cuộc chiến tranh Việt Nam của chính các tác giả phương Tây đã trở nên nổi tiếng. Cụ thể nhất là trong năm 2006, chính Đại Hội đồng Quốc Hội Châu Âu (PACE) đã ra quyết nghị số 1481 về việc đặc biệt cần thiết phải truy tố tội ác các đảng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản ra trước tòa án quốc tế về tội ác dã man chống nhân loại của chúng. 17. Vụ sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm có sự bật đèn xanh từ Pentagon (Lầu Năm Góc) của Mỹ xét về thực chất cũng là một thứ lệnh bức tử Chính thể nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. Mặc dù trong hoàn cảnh thời chiến nhưng dưới Chính thể Ngô Đình Diệm, Việt Nam Cộng Hòa đã đạt được một sự phát triển đáng nể phục. Với một nền kinh tế thị trường tự do, được bảo đảm bằng một nền hiến pháp nhân bản và tôn trọng dân chủ thực sự. Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng là vị tổng thống đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được nhân dân bầu cử một cách hợp hiến pháp. Nhưng không còn gì mỉa mai và ngang trái hơn là chính Henry Alfred Kissinger và tên „trưởng đoàn ngoại giao“ của Hồ là Lê Đức Thọ sau hiệp định Paris 1973 về Việt Nam đã được xưng tụng để cùng nhận giải Nobel „Hòa bình“. Với hiệp định Paris, về thực chất đã hợp thức hóa và che đậy sự rút lui của quân đội Mỹ ra khỏi chiến trường Việt Nam một cách „danh dự“. Nhưng trên thực tế trần trụi là những tay điều hành guồng máy chiến tranh tại Nhà Trắng đã phản bội, bán rẻ VNCH và 17 triệu nhân dân miền Nam cho bàn tay đẫm máu của đội quân xâm lăng miền Bắc, tay sai của đế quốc thực dân đỏ. Thọ đã „từ chối“ nhận lãnh giải thưởng dành cho hắn, vì guồng máy bắn giết của của hắn, một bộ phận tay sai của đế quốc đỏ vẫn không hề ngừng chuyển động cho tới ngày 30. 04.1975, khi xích xe tăng Nga được quân đội của Hồ mang tới giày xéo khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu người miền Nam được biết thế nào là tắm máu kiểu đế quốc đỏ, đều tìm cách trốn chạy thoát khỏi thần chết đỏ bằng tất cả mọi cách, mọi con đường có thể có, kể cả là phải bỏ mình trên muôn trùng sóng gió đại dương mong tìm đường vượt thoát tới bến bờ tự do. Người Mỹ cũng chạy thoát thân như thế. Sự kinh hoàng khủng khiếp không bút nào tả xiết, đã vượt mọi ranh giới có thể tưởng tượng. Và cả thế giới đã ngậm ngùi nhưng câm lặng chứng kiến cảnh tượng thê lương hãi hùng kia. Chỉ 3 năm sau, cũng những vệt xích xích xe tăng Nga này lại tràn ngập đất nước Campuchia. 18. Trở lại năm 1964, GHPGVNTN được thành lập và tự nó đã là một thứ vỏ bọc lý tưởng, đủ rộng để đảng CS có thể tùy khiển dụng giật dây nó theo nhu cầu từng giai đoạn. Các miền, hệ phái và truyền thống Phật giáo khác cũng đã từng được quy tụ quanh GHPGVNTN vào thời điểm thành lập. Nhưng đã sớm nhận ra sự giàn dựng, thâm nhập của các cán bộ cộng sản và cả lũ nằm vùng (trá hình „khối Phật giáo Ấn Quang“) để hoạt động cho cộng sản, nên đều tỏ ra thất vọng và xa lánh. Thượng tọaThích Tâm Châu là một điển hình, vì đã tỏ thái độ không muốn bị mãi lôi kéo mãi vào vòng „tranh đấu“, phản loạn, nên đã bị các tên CS núp áo nhà sư, trâng tráo dùng bạo lực đe dọa sát hại, cưỡng bức phải rời khỏi trọng trách lãnh đạo tâm linh của mình. Lãnh đạo tinh thần của các hệ phái khác cũng dần xa lánh cái „tinh thần Phật giáo tranh đấu“ giả hiệu này. GHPGVNTN do vậy đã bị đảng cộng sản „rút hết ruột“, còn lại cái xác, dùng làm biển treo, như môt công cụ tay sai trá hình để tiếp tục nhân danh đại đa số quần chúng Phật giáo xuống đường đấu tranh cho các mục tiêu của đảng cộng sản. 19. Một trong những tội ác tiêu biểu đẫm máu nhất của GHPGVNTN là vụ thảm sát dân thường Huế vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Cộng sản gọi là „tổng tiến công nổi dậy“. Trong 26 ngày quân đội cộng sản Bắc-Việt đã tạm thời cưỡng chiếm thành phố Huế. Trong thời gian này có ít nhất 5327 người đã bị sát hại dã man, 1200 người bị bắt đi mất tích. Những cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo nằm vùng, biệt danh là „đội quân thứ 3“ của đảng cộng sản Việt Nam, là những thủ phạm chính thực thi tội ác trong vụ thảm sát dân thường đặc biệt man rợ này. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên – Huế, xuất bản năm 2010 – USA). http://vn-buddhist.blogspot.de/2012/12/phim-tu-lieu-to-cao-toi-ac-viet-gian.html Khai màn cho cuộc tắm máu này là tiếng súng khai hỏa bởi quân đội CS Bắc-Việt nổ đúng vào đêm giao thừa tấn công thành nội Huế, lật lọng bất ngờ phá tan quy ước đình chiến ba ngày Tết giữa hai miền Nam-Bắc. Lính cộng sản quần đùi áo đen đột ngột xuất hiện, cùng hàng loạt các cán bộ cộng sản nằm vùng xuất đầu lộ diện, đồng loạt ra mặt công khai, đi từng nhà từng nhà, lùng bắt, thẳng tay bắn giết dân thường Huế một cách dã man vô tội vạ. Lá cờ ba mảnh, xanh-đỏ-xanh, 1 sao vàng (không phải xanh, đỏ, 1 sao vàng, của lũ cộng sản nằm vùng, trá hình „Lực lượng Liên minh dân tộc dân chủ hòa bình“ do những tên Thích Đôn Hậu, Lê Văn Hảo làm chủ tịch) được cắm trên kỳ đài Thành Nội Huế trong xuốt thời gian quân cộng sản tạm cưỡng chiếm thành phố. 10 ngàn quân cộng sản trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ đã núp bóng dưới lá cờ giả hiệu của Thích Đôn Hậu để bắn giết. Hàng loạt các „ủy ban quân quản, tự vệ khu phố“, các „toàn án nhân dân“, „chính quyền cách mạng“…, do những tên giáo sư, sinh viên và đủ loại tầng lớp nằm vùng cho cộng sản được đồng loạt dựng lên chớp nhoáng trên đường phố. Và các màn xử tử hình bắn giết trả thù vô cùng dã man oan nghiệt diễn ra ngay tại chỗ, khắp nơi trong thành phố Huế. Các tên như Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, Thích Chánh Trực, Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Lê Thị Đoan Trinh…, là một trong những tên tội phạm, sát thủ khét tiếng của cộng sản trong vụ thảm sát này. Dân chúng Huế đã phải bỏ chạy trong kinh hoàng, tuyệt vọng đau thương. Hàng ngàn dân thường trong đó có cả trẻ em, người già và phụ nữ bị bắt trói từng đoàn từng nhóm bằng giây điện thoại và bị cưỡng bức giải đi ra các miền ven đô hoang vắng của Huế. Nơi đó họ đã bị các toán cán bộ cộng sản hành quyết tập thể một cách đặc biệt dã man mọi rợ. Để „tiết kiệm đạn“, phần đông trong số họ đã bị giết chết bằng các vật dụng thô sơ như cuốc xẻng, mà trước đó họ đã phải dùng để đào huyệt cho chính mình. Hàng loạt đạn bắn vào những loạt người đứng trước, họ đã ngã xuống trong tiếng gào rú rùng rợn cùng cực thê thảm của hàng loạt những người khác cùng bị trói phải ngã theo xuống huyệt, để cùng bị vùi lấp, bị chôn sống và chết thảm. Cảnh tượng thật rùng rợn thê lương, ngẹn nghào không bút mực nào tả xiết. Theo thống kê của cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa năm 1968 tại Huế thì đã có ít nhất 5365 thường dân Huế bị sát hại dã man bằng những hình thức thảm sát tập thể này. Trong đó có 3 giáo sư bác sỹ y khoa người Đức được chính phủ Tây Đức gửi đến trường đại học Y khoa Huế giảng dậy trong khuôn khổ giao tế dân sự và nhân đạo. Các giáo sư trên cũng đã bị sát hại bằng những phát súng bắn trực tiếp vào đầu sau khi họ bị cưỡng bức phải đào huyệt cho chính mình. Nơi họ bị cộng sản hành quyết chính là sân sau của chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của những cán bộ cs trá hình Phật giáo. Sau đây là tên các giáo sư bác sỹ bị sát hại: Prof. Dr. Raimund Discher, Prof. Dr. Alois Alteköster, Prof. Dr. Horst-Günter Krainick và người vợ của ông Elisabeth. "Mord an der Menschlichkeit" http://www.zeit.de/1968/15/mord-an-der-menschlichkeit http://pdfarchiv.zeit.de/1968/15/mord-an-der-menschlichkeit.pdf Ein Nachruf auf die deutschen Ärzte von Hué Von H. C. Nonnemann Zwei von vielen Massengräbern der Massaker, gefunden in Hue im Februar 1968, in dem über 5327 Hue Bewohner durch den Vietcong gewaltsam ermordet wurden. Foto von LIFE Magazin im 01. April. 1969. * Trên đây là hai trong nhiều hố chôn tập thể của của cuộc thảm sát tập thể, được tìm thấy vào tháng 2. 1968 tại Huế, trong đó hơn 5327 nạn nhân bị Việt cộng tàn sát dã man. Ảnh của thời báo LIFE Magazin ngày 01.Tháng Tư. 1969. Thích Đôn Hậu ( Diêp Truong Thuan), tên cộng sản trá hình trong áo „ tăng thống Phật giáo“ – Một trong những tên thủ phạm nguy hiểm nhất của cuộc thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Hơn 5327 thường dân đã bị tàn sát dã man bởi quân đội cộng sản trá hình , núp dưới lá cờ „ Liên minh các lực lượng đân chủ hòa bình hòa giải dân tộc“ của đảng csvn do những tên Thích Đôn Hậu và Lê Văn Hảo làm chủ tịch. Trong số nạn nhân có 4 bác sỹ giáo sư người Đức, được chính phủ Tây Đức gửi tới trường đại học y khoa Huế giảng dậy trong chương trình viện trợ giao tế dân sự. Các nạn nhân trên bị hành quyết bởi những nhát súng bắn trực tiếp vào đầu, được tìm thấy dưới hố chôn sau chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của đám cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo. Tên các vị bác sỹ bị giết hại là: Dr. Raimund Discher. Dr. Horst-Günter Krainick, và người vợ của ông Elisabeth. Dr. Alois Alteköster.
* Trong ảnh: Là các hình ảnh hiện nay của một trong những tên đầu xỏ sát thủ trực tiếp tàn ác nhất của đảng csvn trong vụ thảm sát đồng bào tại Huế năm 1968. Từ trái sang là Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan (Hoàng Ngọc Hợp), Nguyễn Đắc Xuân, 1- Linkes Bild: Ankunft in Ulan Bator, Flughafen, 1969. KP – Thich Don Hau im Mönchsgewand und KP Kader Ton That Duong Tiem schlagen die Werbetrommel für die UBCV und die verdeckten Kampffronten der KP in der kommunist. Mongolei. 2- Rechtes Bild: Thich Don Hau plaudert mit dem KP General der Volks-Befreiungsarmee Vo Nguyen Giap im Jahr 1976. 20. Sau 26 ngày chiếm đóng Huế, quân đội cộng sản bị thủy quân lục chiến Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng Hòa đẩy lui, Huế còn lại là một thành phố hoang tàn xơ xác, rùng rợn thê lương. Huế hoang tàn đổ nát, và khắp nơi tràn đầy tử khí ghê rợn. Trong các nhà thờ, chùa… máu còn lênh láng, người ta dìu kéo nhau đi tìm các hố chôn tập thể, Bãi Dâu, Khe Đá Mài…, mỗi lần một hố chôn tập thể được tìm thấy là mổi lần lại có thêm hàng trăm, hàng ngàn người dân Huế khác phải nghẹn ngào xé nát con tim, vĩnh viễn quấn lên đầu vòng tang trắng oan nghiệt, Huế giờ đã tràn ngập mầu tang. 21. Đằng sau mưu đồ hiếu chiến của cuộc tấn công chiếm đóng và thảm sát dân Huế man rợ của cộng sản Hà nội là chúng toan tính muốn một lần chớp nhoáng chiếm gọn Huế. Những tính toán của những kẻ hoạch định chủ mưu cho rằng „dân chúng Huế sẽ ủng hộ và đứng về phía bộ đội cộng sản“, đã vỡ tan tành, mỗi mỗi mảnh vỡ lộ rõ những tham vọng sặc mùi…Việt-gian cộng sản. Vì trên thực tế người dân Huế đã chạy trốn quân cộng sản để thoát thân, kinh hoàng còn hơn chạy trốn thần chết. Những tên cộng sản gỉa danh trá hình Phật giáo núp áo tu hành cùng lũ tay sai bội phản nằm vùng hoạt động cho cộng sản đã bị lộ tẩy. Để giữ cho bộ mặt những tên cộng sản trá hình Phật giáo cùng đồng bọn và lũ tay sai sát thủ này không bao giờ bị lôi ra ánh sáng, và để trả thù cho việc dân Huế phản kháng cộng sản, những kẻ chủ mưu là bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam qua tay lũ cán bộ cs trá hình Phật giáo đã ra lệnh thảm sát đồng bào Huế. Kế hoạch dùng sự nội ứng của „đội quân thứ ba“ đánh và chiếm Huế một cách chớp nhoáng đã không thành hiện thực. Quân đội Cộng sản và các tên cộng sản trá hình đã bị lật tẩy, lần lượt tìm cách tẩu thoát lên các căn cứ địa mật khu của cộng sản. 22. Huế không phải là nơi duy nhất chịu thảm nạn trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ vào dịp Tết Mậu Thân 1968 bởi tay của lũ cs trá hình Phật giáo này. Nhưng cuộc đánh lấn để chiếm Huế của cs là một trận khởi điểm có tầm mức đặc biệt quan trọng trong mưu mô của cs, vì Huế nằm sát với biên giới Bắc Việt cộng sản. Kinh thành Huế có vị trí đặc biệt quan trọng, đặc biệt là Huế đã nằm trong kế hoạch của cs, là sau khi chiếm được, Huế sẽ được dùng làm „thủ đô“ của cái gọi là „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“, hợp thức hóa con bài công cụ tay sai cò mồi của cộng sản miền Bắc trong công cuộc xâm lấn từng bước toàn bộ lãnh thổ VNCH. Cái „mặt trận“ trá hình này đã được cộng sản Bắc-Việt dùng như một bình phong, công cụ trá hình để đánh lạc hướng dư luận thế giới, che giấu sự tham chiến phi pháp của quân đội cộng sản Bắc-Việt trong cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Nên trong dịp Tết Mậu Thân, đồng bào Huế đã bị cộng sản thảm sát oan nghiệt nặng nề nhất so với các thành phố đô thị miền Nam khác cũng bị tấn công trong dịp này. 23. Tại California USA, trong năm 2010, một „Ủy ban truy tố tội ác đảng cộng sản Việt nam“ đã được thành lập do các cựu quân nhân sỹ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và các cựu tù nhân chính trị tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản khởi xướng. Thu thập dữ liệu khởi tố liên quan tới vụ cộng sản thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân1968. Địa chỉ hộp thư của Ủy ban: P.O.BOX 6147. FULLERTON, CA. 92843, USA; Tel.: 001. 626 257 1057; E-Mail: huemauthan1968 Địa chỉ tổ hợp luật sư thụ lý hồ sơ khởi tố: Tổ hợp luật sư quốc tế: OKT – OLTHUIS KLEER TOWSHED. LLP; 229 College Street, 3 Floor; Toronto, Ontario M5t 1r4; Nữ luật sư: N. Kate Kempton. Tel.: 001. (416) 981-937. E-Mail: kkempton Chủ tịch Ủy ban là ông Nguyễn Phúc Liên Thành, thiếu tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu trưởng ty cảnh sát đặc biệt tỉnh Thừa Thiên-Huế. Mục tiêu tiên khởi của ủy ban nhằm thu thập các lời khai nhân chứng, số và tư liệu nạn nhân, tất cả những dữ liệu về những kẻ chủ mưu ra lệnh, chủ phạm, tòng phạm, sát thủ trực tiếp và liên đới v.v., khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là đảng cộng sản Việt Nam và các tên cán bộ cộng sản và tay sai trá hình Phật giáo, nhằm truy tố tội ác của chúng ra tòa án quốc tế tại Den Haag. Uỷ ban này mong có được sự hợp tác giúp đỡ, cung cấp các tư liệu, lời kể, hồi ký ức của các nhân chứng còn sống xót, những người thân của nạn nhân có liên quan. Ví dụ như những thân nhân của các bác sỹ người Đức đã bị sát hại, nên viết lại những hồi ức, hoặc kỷ niệm, hoặc đã từng chứng kiến v.v. Đến nay ông Liên Thành đã hoàn thành và cho xuất bản hai tác phẩm và ít nhất là một trang blog liên quan đến vụ Thảm sát Huế Tết Mậu Thân 1968. Quyển thứ nhất là: “Biến động miền Trung”, xuất bản năm 2010, quyển thứ hai, xuất bản năm 2012, có tựa đề: ”Huế – Thảm sát Mậu Thân 1968 – Tội ác đảng cộng sản Việt Nam”. Trong 2 cuốn sách kể trên, vì là một chứng nhân đương thời, hơn nữa, trong một cương vị đặc biệt của ngành cảnh sát đặc biệt có liên quan trực tiếp tới biến cố trên, nên tác giả đã mô tả sống động, chân thực và đưa ra các chứng cớ có giá trị lịch sử đặc biệt khả tín. Tác giả đã mô tả và chứng minh mạch lạc, chi tiết diễn tiến của vụ việc, gần như từng ngày, về các cán bộ cộng sản và tay sai núp trong các vỏ bọc ngụy trang trá hình Phật giáo như “GHPGVNTN”, hoặc “Lực lượng liên minh dân tộc dân chủ hòa bình”…đã trực tiếp nhúng tay vào tội ác thảm sát dân Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968 như thế nào. 24. Những tên cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ…và GHPGVNTN trên khắp thế giới, trong đó có GHPGVNTN của Thích Như Điển tại Đức đang cuống cuồng lo sợ trước sự hiện diện của hai quyển sách trên và công việc của UBTTTADCSVN. GHPGVNTN khắp nơi trên thế giới đặc biệt là tại Mỹ, các tay chân của “giáo hội” như “gia đình Phật tử Việt Nam”, các loại “lực lượng” như cái gọi là “lực lượng cư sỹ chấn hưng Phật giáo”… được lệnh của GHPGVNTN tung ra dùng mọi cách để xuyên tạc, cản trở công việc của Ủy ban này và những cá nhân hội đoàn nói lên sự thật. Các thủ đoạn đã được tập đoàn cs trá hình “giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” này dùng đến để bôi xóa tội ác thật bẩn thỉu. Từ vu khống đến đe dọa sát hại tính mạng. Mới đây nhất, chính ông chủ tịch ủy ban đã thoát hiểm trong muôn một bởi những phát súng ám sát hụt của những kẻ thuộc hạ trên. Nội vụ đang được giới chức an ninh Mỹ điều tra. 25. Cái gọi là “GHPGVNTN” như trên đã dẫn, đã được đảng cs giật dây lèo lái từ những năm 1964, nhưng những mưu đồ thủ đoạn ma mãnh khiển dụng các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo để trá hình và làm vỏ bọc ngụy trang cho đảng cs đã được tên Hồ Chí Minh khởi xướng, hoạch định thành đường lối của đảng cs Việt Nam từ những năm 1940. Thực chất của những thủ đoạn này là tìm mọi cách để từng bước một, cướp hoặc lợi dụng các tổ chức, hội đoàn rồi trá hình tổ chức đó dùng cho những mục đích riêng càng ngày càng thâm độc hơn. Để thực thi mưu đồ đó, các cán bộ cs và các cư sỹ tay sai ban đầu phải trá hình thụ động để „thâm nhập thực tế“, sau này khi đã „say mùi hương khói“ và được đảng cs đào tạo nhiều hơn về Phật giáo, chúng có thể tùy tiện xuyên tạc Giáo lý và Kinh điển Phật giáo một cách xuẩn động tinh vi cho những mục tiêu định trước. Hàng loạt các „hội“, các „đoàn thể Phật giáo“ được các cán bộ cs đoàn ngũ hóa rồi phù phép cho thành hình để rồi lại biến mất một cách nhanh chóng, tùy ẩn hiện như những „nghị quyết“ của đảng cs. Tiền thân là những hội thanh thiếu nhi sinh viên và các loại tầng lớp „Phật giáo cứu quốc“, „Gia đình Phật tử Việt Nam“, sau này là những „Lực lượng Phật giáo tranh thủ cách mạng“, rồi „chiến đoàn Phật tử Trần Đại Thức“ có trang bị vũ khí v.v. Các thanh thiếu niên được đoàn ngũ hóa, tẩy não và huấn luyện để trở thành những „Thanh niên Phật tử„ có thể „sẵn sàng tranh đấu“, làm hậu thuẫn cho những mục đích quân sự. Để có thể đoàn ngũ hóa khối quần chúng Phật giáo rồi giật dây theo ý của đảng cs, các cán bộ cs nằm vùng đã tìm mọi cách chia rẽ ly gián, không chừa bạo lực, khủng bố để cô lập các vị chân tu với khối quần chúng, và cuối cùng là triệt hạ những vị này gần như phải xa lìa hẳn môi trường thực hành tôn giáo tâm linh truyền thống. Để cuối cùng, các chùa tự chỉ còn lại là nơi ẩn náu của đám cán bộ cs trá hình Phật giáo. Bây giờ là thời điểm để một số nhất định các cán bộ được đảng cs khoác cho những bình phong trá hình thảm thương như „Phật giáo bị đàn áp“ để đánh lừa dư luận. Đồng thời để tạo ra một màn kịch trá hình là „tại Việt Nam tôn giáo bị đàn áp“, để qua đó các cán bộ trá hình Phật giáo của đảng cs tại nước ngoài như Thích Nhất Hạnh, Võ Văn Ái, trong nước như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thich Huyền Quang, Thích Quảng Độ có thể che giấu kỹ hơn bộ mặt đểu giả của chúng trong chiêu bài „Pháp nạn“, „Đấu tranh cho hòa bình tự do, chống đàn áp tôn giáo“… Cùng lúc này, theo như hệ thống tuyên truyền của đảng cs thì tại Bắc-Việt Nam cũng như tất cả các nước cộng sản xhcn khác „tự do tôn giáo“ tràn trề, cũng như tất cả mọi thứ khác đều „không thể tốt đẹp hơn được nữa“. Đảng cs tin rằng thế giới bên ngoài, đặc biệt là phương Tây hết còn có thể nhìn thấu các ngón nghề thủ đoạn ma mãnh của chúng. Cái gọi là „GHPGVNTN“ đã bị “rút hết ruột” này, mặc dù đã nhất cử nhất động đều theo nhịp gậy chỉ huy của đảng, mà đối với đảng csvn, „giáo hội“ vẫn chẳng đáng để tin tưởng hoàn toàn, nên „GHPGVNTN“ phải là một hội viên của „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ và chịu sự „chỉ đạo“ trực tiếp của „bộ chính trị„ đảng csvn. Kinder der sog. „Buddhistischen Familie“ wurden von der UBCV und der „Süden-National Befreiungsfront“ der KP als Demonstranten für die Straßenblockade ausgenutzt, um das Vordringen der südvietnamesischen Armee zu verhindern. Vietcong´s Kindersoldaten im Dienst der „Süden – National Befreiungsfront“ * Ành bên trái: Các thanh thiếu nhi của cái gọi là „ Gia đình Phật Tử Việt Nam“, bị „GHPGVNTN“ và “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“ lợi dụng đẩy xuống đường biểu tình ngồi, tương tự như „phong trào Bàn thờ Phật xuống đường“, làm vật cản bước tiến của quân lực VNCH. Ành bên phải: Lính nhí Việt cộng, còn gọi là „bộ đội con“ bị đẩy ra bắn giết, chết thí cho lực lượng trá hình của đảng csvn là „ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“. 26. Trong mưu đồ xâm lăng của cs Bắc-Việt vào miền Nam, GHPGVNTN đã là một công cụ đắc lực để thừa hành thực thi tội ác của đảng cs vn. Một trong những tội ác tầy trời như trên đã dẫn, là vụ thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Sau khi quân cs nhận định tình hình chiến sự tại chỗ cho thấy chúng đã vỡ mộng chiếm Huế một cách chớp nhoáng, nên ngày 22.02.1968, tên Thích Đôn Hậu (tức “Diệp Trương Thuần“) trá hình trong vỏ bọc „tăng thống Phật giáo“ đã nhận mật lệnh của đảng csvn qua tay tên điệp báo viên nằm vùng Hoàng Kim Loan ra lệnh cho hơn 200 cán bộ cs bắt đầu thực thi cuộc thảm sát hàng loạt dân chúng Huế để trả thù, thủ tiêu các nhân chứng. Như trên đã dẫn tổng số người bị giết hại đã lên đến trên 5000 người và trên 1200 người khác bị bắt đi mất tích. Các nạn nhân đa phần là dân thường, cả phụ nữ và trẻ em, đã bị chúng bắt trói, cưỡng bức giải đi ra các vùng ven đô Huế và bị sát hại ở đó. Khoảng 300 thanh thiếu niên cũng bị các toán cán bộ sát thủ hành quyết của cs bắt đi theo để đào các huyệt mộ cho cuộc hành hình thảm sát này, để cuối cùng, cũng bị chúng sát hại hòng thủ tiêu xoá hết mọi tang chứng. Một tên cán binh cs đã lừng chừng thực thi lệnh hành quyết tập thể trên, vì hắn vốn quen giết người trên mặt trận chứ chưa quen giết người như thế này. Nhưng lúc đó „giết“ là tất cả những gì chúng học thuộc nhất và còn lại trong đầu, nên lệnh hành quyết của đảng csvn đã được chúng thực thi trọn vẹn. 27. Những nhân chứng, nạn nhân trực tiếp còn sống xót của vụ thảm sát này mỗi lần hồi tưởng quá khứ là mỗi lần phải ngẹn ngào trong nỗi đau xé thắt tâm can. Một nam nhân chứng hy hữu còn sống sót hồi tưởng lại cơn ác mộng kinh hoàng nhức nhối đã hành hạ anh hơn bốn mươi mùa xuân qua, khi anh còn là một thiếu niên bị toán sát thủ của cộng sản cưỡng ép bắt đi đào huyệt cho vụ thảm sát vào một ngày Tết năm xưa. Dưới sức ép của họng súng đe dọa bởi toán cán binh cs, cậu bé thiếu niên đã phải xúc đất đổ xuống huyệt, đổ lấp lên những người còn sống, bị trói và xô ngã xuống huyệt. Máu và nước mắt đã nhòa trộn cùng mỗi xẻng đất mà cậu bé phải xúc đổ xuống huyệt, dần lấp đi những ánh mắt thân thể của những con người đang vùng vẫy, gào rú, dần tắt ngấm đi vì kiệt sức, van lơn đòi sự sống. Giọng người kể lại rung lên và nghẹn đi trong nỗi oan nghiệt đến vô cùng của sức chịu đựng: „Ôi trời cao đất dầy ôi! Ôi Việt cộng dã man! Sao Việt cộng mi dã man như vầy? Sao bắt tui phải chôn sống đồng bào tui…? Ôi nghiệp quả báo nào…, ôi, tui đã chôn sống đồng bào tui…, ôi Việt cộng, sao mi man rợ như rứa…?“. Lời người kể lại hôm nay thường tắt đi trong nỗi đau oan nghiệt, nghẹn nghào, tràn nghập nước mắt như thế. Và hết huyệt này đến huyệt khác cậu bé phải làm công việc đó cho đến khi cùng một thiếu niên khác liều mình lợi dụng bóng tối tháo chạy được vào rừng, bỏ lại sau lưng là một trời mưa đạn bắn theo bởi lũ sát nhân chuyên nghiệp cộng sản. Hai đứa đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, nhưng không một ai trong số 5327 người khác sống sót trong cuộc tắm máu trả thù man rợ có một không hai trong lịch sử của lũ sát nhân tay sai đảng csvn. 28. 29. Ngày 30. 04.1975 gần 500 tên tay sai cộng sản trá hình „Tăng, Ni“ Phật giáo của cái gọi là „Đại học Phật giáo Vạn Hạnh“ kéo nhau ra ngã tư Bẩy Hiền, cửa ngõ Sài Gòn hân hoan chào đón và hướng dẫn cho xe tăng cộng sản vào chiếm giữ các vị trí quan trọng trong thành phố. Cũng theo một kế hoạch trù bị khác của cộng sản, nếu tình hình bi đát hơn dự tính thì khoảng 7000 sinh viên trực thuộc của đại học Vạn Hạnh đã cất giấu vũ khí, sẽ bắn vào sau lưng quân lực Việt Nam Cộng Hòa khi quân đội cộng sản tiến đánh thành phố. Khi quân cộng sản đã tràn ngập thành phố thì những tên cộng sản trá hình “tăng ni” này, một số có trang bị vũ khí đã trực tiếp dẫn đường chỉ lối, đưa các tên cán binh cộng sản đi lùng sục từng nhà để tìm bắt các nhân vật quan trọng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà chúng coi là nguy hiểm hoặc „người của CIA“, bắt mang đi giết và thủ tiêu ngay trong đêm, một số đông bị chúng thủ tiêu xác bằng cách thả trôi sông, số người bị giết lên đến hàng nghìn người. Cảnh bắn giết thủ tiêu này diễn ra trên khắp các đô thị miền nam. Sau đó, cũng những tên cs núp áo tu hành này đã tự xuất đầu lộ diện, nhiều tên xuất hiện trong quân phục cộng sản, có cả quân hàm, tay đeo băng đỏ, mặt mũi đằng đằng khí thế “cách mạng” công khai xuất hiện khắp nơi trong thành phố, chúng là một trong những “cán bộ” đầu tiên của chế độ ngụy quyền cộng sản tại miền nam Việt Nam. ”Đại học viện Phật giáo Vạn Hạnh” là một trong những địa điểm đầu tiên được quân cs biến thành “trụ sở trình diện” dành cho các sỹ quan quân lực nhân viên chính quyền, chính phủ VNCH ra “trình diện, khai báo”. Trực sẵn tại đây có mặt những tên cs đầu trọc nham nhở, trong những bộ đồ cà sa “tăng sỹ Phật giáo”, thâm hiểm hơn cả những tên trong quân phục “bộ đội”, súng ống đầy hăm dọa. Vì là lũ chỉ điểm nằm vùng chuyên nghiệp của đcs trong thành phố nên chúng có đầy đủ danh sách của những người chúng cần phải tìm giệt. Bổn cũ xoạn lại: những quân dân cán chính của chính quyền VNCH bị truy bắt ra trình diện, phải chuẩn bị hành trang cá nhân đi “tập trung học tập cải tạo 10 ngày”. Về thực chất, những cái gọi là “trại tập trung học tập cải tạo” này là những mồ huyệt sống, nơi cs cầm tù, tra tấn hành hình, sát hại bức tử nạn nhân dã man vô hạn định. Nếu có, hạn định này sẽ do đcsvn tùy nghi định đoạt. Auch diese KP Kader unter Mönchsgewand schwenken jetzt die KP-Parteiflagge in ihrer Hand und feiern demonstrativ den „Sieg-Feiertag“ 30.04.75 von Ho Chi Minh und der vietn. KP in Saigon. * Cũng những tên tay sai cộng sản trá hình Phật giáo này hân hoan vẫy lá cờ đỏ vấy máu của đảng cscn, diễu hành mừng „ngày đại thắng lợi“ 30.04.1975 của Hồ Chí Minh và đảng csvn tại Sài gòn. 30. Tên “tăng thống” tự phong Thích Huyền Quang (tục danh Lê Đình Nhàn), nhân dịp đại hội GHPGVNTN năm 1981 đã “lỡ mồm”, tự hào tự xác nhận những tội ác bất khả bôi xóa của chính hắn, đcsvn và GHPGVNTN như sau: “…Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ba lần có công với cách mạng (của đcsvn)…”, và “…chúng tôi (GHPGVNTN) lập ra chính phủ Phật giáo của Tổng thống Dương Văn Minh để giao cho chính quyền cách mạng (của đcsvn)”. Nguyễn Xuân Bảo – viet. KP-Agent im Mönchsgewand unter dem Namen Thich Nhat Hanh, agiert mit vorgetäuschten "Anti Vietnam Kriegs"(?) Parolen zugunsten der vietn. Kommunisten seit dem Jahr 1960, bis heute. 31. Trở lại dòng sự kiện: Vào ngày 17.10.1970, một “phái đoàn Phật giáo” gồm Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Minh và những tên cộng sản trá hình khác lên đường sang Tokyo dự hội nghị quốc tế “Tôn giáo và Hòa bình”. Tại đây chúng trơ trẽn đưa ra cái gọi là “đề nghị 5 điểm”. Cả về hình thức lẫn nội dung, nó chính là “đề nghị 5 điểm” của “Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam”, cũng tức là của đcsvn. Luận điệu xảo trá của những đòi hỏi này là “đòi quân đội Mỹ và đồng minh phải rút khỏi Việt Nam”, “để dân tộc Việt Nam tự quyết”….Những tên cs trá hình này bị các thành viên của hội nghị quốc tế chất vấn bằng những câu hỏi trực diện, là chúng đang đại diện cho ai để đưa ra những đòi hỏi đó? Tại sao chúng chỉ đòi hỏi quân đội Mỹ và đồng minh rút lui, mà không đòi hỏi quân đội Bắc-Việt ngừng ngay lập tức cuộc chiến xâm lăng của chúng chống Việt Nam Cộng Hòa? Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã đồng loạt trở nên câm ngọng một cách lạ thường vì không thể trả lời những câu hỏi. 32. Trong thời gian này Thích Đôn Hậu cùng vợ là Tuần Chi, tức Đào Thị Xuân Yến, cả hai y thị được các chi bộ đảng cs nằm vùng tổ chức cho bí mật vượt tuyến ra Bắc gặp Hồ Chí Minh. Hồ cử Thích Đôn Hậu và tên cs Tôn Thất Dương Tiềm và phái đoàn đi tháp tùng sang các nước khối Đông-Âu hoặc cs như Đông-Đức, Hungary, Mông Cổ để tuyên truyền, quảng bá các khẩu hiệu xảo ngữ trá hình cho Hồ và đảng cộng sản. 33. Qua những lần công vụ tuyên truyền cho đảng cs này, Thích Đôn Hậu và các đồng chí cs của y đã cố tình xuyên tạc bôi vẽ ra một bức tranh hoàn toàn sai lệch về chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Một mặt thì chúng xuyên tạc bôi bẩn rằng chính phủ VNCH tham nhũng, yếu kém, mặt khác chúng tán tụng Hồ Chí Minh và miền Bắc cộng sản XHCN lên tận mây xanh. Cùng một chí hướng này, cặp Thích Nhất Hạnh cùng người tình đồng chí Florett Cao Ngọc Phượng và hai tên cộng sản tay sai Võ Văn Ái, Pelelope Faulkner tổ chức các cuộc biểu tình tại Tây Âu, Đức, Pháp và Mỹ với những khẩu hiệu trá hình “ Chống chiến tranh Việt Nam” để đánh lạc hướng, lừa đảo dư luận thế giới trên tinh thần hậu thuẫn có lợi cho chế độ ngụy quyền đảng cộng sản vn. 34. Qua tay lũ cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo, được điều hành và giật dây trực tiếp bởi đcs, phát động cuộc chiến xâm lăng của Bắc-Việt vào lãnh thổ VNCH bằng các thủ đoạn “tôn giáo”, đã biến các đô thị miền nam rơi vào tình trạng biến động bất ổn thường xuyên. Cơ chế luật pháp của xã hội tại Việt Nam Cộng Hòa là một thành quả của một hiến pháp có tam pháp quyền phân lập, thực sự dân chủ tự do, nhưng đồng thời cũng lại là một cơ hội béo bở, để lũ cán bộ cộng sản thâm nhập từ miền Bắc có thể lợi dụng tối đa. Chúng đã tìm mọi cách để trà trộn rồi công khai hoạt động phá hoại, chống phá chính quyền quốc gia, nhưng luôn tìm cách ẩn náu trá hình trong những vỏ bọc ngụy trang “hợp pháp”. Những tên cộng sản đầu xỏ như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ…thường tạo mọi cơ hội có thể được, tìm cách tuyên truyền xách động động quần chúng Phật giáo bằng những khẩu hiệu trá hình, cố tình khiêu khích, nhằm châm các ngòi nổ tạo phản loạn. Vì bất kể sự đối phó nào từ phía chính quyền VNCH nhằm bảo đảm an ninh, thiết lập lại trật tự công cộng cho dân chúng, đều bị lũ cs trá hình này lợi dụng khai thác cho thủ đoạn chiến lược mà đảng csvn đang theo đuổi, là làm sao có thể đánh lừa dư luận rồi xuyên tạc là Chính quyền Ngô Đình Diệm “đàn áp Tôn giáo”. Để chúng lấy cớ tiếp tục khích động những quần chúng Phật tử nhẹ dạ châm ngòi nổ cho những cuộc xuống đường tranh đấu biểu tình lớn hơn nữa. Chúng đã dùng tất cả mọi phương cách thủ đoạn để xách động quần chúng xuống đường, từ loan đồn thất thiệt, tuyên truyền tẩy não đến khủng bố và bạo lực. Khai thác và lợi dụng sự tin tưởng một cách đặc biệt mù quáng của một số đông khối quần chúng Phật tử thuần thành, nhẹ dạ, đồng hoá tấm áo cà sa với “tăng sỹ”, với “Phật giáo”. Nên những tên cs lưu manh đầu xỏ như Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh… đã có thể dễ dàng lừa đảo giắt mũi số “Phật tử” mê muội này, để khiển dụng cho mưu mô thâm độc của chúng. Vì mê muội, nên đã có rất đông những công chức, nhân viên trong tất cả các tầng lớp của bộ máy công quyền Việt Nam Cộng Hòa từ nông thôn tới thành thị, đã bị mắc mưu, tình nguyện hùa theo lũ cộng sản trá hình này làm Việt gian phản tặc, chống lại chính quyền trung ương Việt Nam Cộng Hòa. 35. Vào thời điểm này, thanh thế của GHPGVNTN khối Ấn Quang do những tên cs trá hình đầu xỏ như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu thao túng, đã đạt đến đỉnh điểm về mức độ độc hại. GHPGVNTN về thực chất đã trở thành một lực lượng chính trị có thế lực khuynh đảo đặc biệt nguy hiểm, đáng lo ngại đối với chính quyền trung ương VNCH. Núp trong vỏ bọc Phật giáo, những tên cộng sản trá hình đầu xỏ đã hành xử một cách trâng tráo, giật dây chính trường VNCH như thể chúng là những dân biểu thượng nghị sỹ không ngai. Quyền lực đen của chúng đã có tác dụng đe dọa trực tiếp, ảnh hưởng đến tình hình chiến sự có lợi cho cộng sản. Chúng đã có thể khiển dụng lũ phản tặc nằm vùng trong bộ máy công quyền chính phủ VNCH để tùy tiện “thăng giáng” ban phát chức vụ cho đệ tử của chúng và lũ tay chân cơ hội, tùy theo những yêu cầu chiến sự được hoạch định bởi bộ chính trị đcs tại Hà Nội. 36. Sau khi nuốt trọn món bả độc tuyên truyền cộng sản của Thích Trí Quang và GHPGVNTN, một số không ít tướng tá phản tặc nằm trong quân lực VNCH đã tuyên bố ly khai, dùng chính phương tiện vũ khí của chính phủ chống lại quân đội chính phủ trung ương. Thích Trí Quang và GHPGVNTN của đảng cộng sản cũng đã chuẩn bị nhiều lực lượng trù bị trá hình và công khai, có trang bị vũ khí ở các cấp khác nhau để giao chiến đối đầu với quân đội quốc gia VNCH. Trường hợp tiêu biểu là “Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức” có trang bị vũ khí do Thích Trí Quang thành lập. (Nguyễn Đại Thức là một tên cộng sản thuộc hạ của Thích Trí Quang, đã bị bắn hạ bởi một xạ thủ trực thăng Mỹ, phần chi tiết xin xem “Biến động Miền Trung” của tác giả Liên Thành). Vì sự tuyên truyền tẩy não ma mãnh có hệ thống của cs nấp sau những vỏ bọc ngụy trang là Phật giáo, nên đội quân ly khai phản tặc này sẵn sàng quay lại bắn giết và chết cho một cuộc “chiến tranh thần thánh bảo vệ Pháp nạn” của “GHPGVNTN”, “Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam” và những tên cộng sản trá hình Phật giáo này. Theo chân đội quân ly khai phản tặc này là một số đông quần chúng, đồng bào ở tất cả mọi tầng lớp bị khích động giật dây, đã hưởng ứng một cách mù quáng các cuộc xuống đường tuần hành bạo động chống lại chính quyền, làm cho tình hình chính trị tại các đô thị miền nam càng ngày trở nên có lợi hơn cho cộng sản. Các thanh thiếu nhi ”Phật tử” cũng bị cs lợi dụng tẩy não để đẩy vào vòng lửa đạn, được trang bị vũ khí để trở thành những bia đạn sống, chết thế cho quân đội cs, khi mang bom mìn, chất nổ tham gia phá hoại các cơ sở, phương tiện quân sự và phi quân sự của Mỹ và chính quyền VNCH như: Thư viện, đại sứ quán Mỹ, chợ, cư xá và các rạp chiếu bóng v.v. 37. Đại đa phần các Chùa, Tự và các cơ sở tôn giáo bị sự khiển dụng của GHPGVNTN khối Ấn Quang đều đã bị lũ cán bộ cộng sản trá hình biến thành những hang ổ của quân đội cs. Dưới đáy các tượng Phật là những hầm bí mật chứa vũ khí chất nổ, phương tiện quân sự dự trữ cho quân đội cs. Kể cả dưới nền chuồng heo cũng là nơi cs đào hầm ẩn náu. Nhiều chùa biến thành trụ sở dã chiến, cơ sở hội họp, giao liên bí mật, được ngụy trang trá hình bởi các tên cs nằm vùng núp trong lớp áo “tăng sỹ Phật giáo”. Có chùa biến thành những nơi giam giữ và hành hình các quân dân cán chính của chính quyền VNCH. 38. Những biến động phản loạn triền miên của lũ cs trá hình Phật giáo tranh đấu này chỉ được vãn hồi tạm thời yên ổn trở lại sau nhiều cuộc phản công dẹp loạn của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Mỹ. Thích Trí Quang, tên cs khét tiếng của phong trào “Phật giáo phản loạn” đã bị thiếu tá Nguyễn Ngọc Loan tóm gọn, bắt giam và cách ly tại Sài gòn. Trước đó, hắn đã từng được chính CIA giàn dựng cho chạy trốn trong Đại sứ quán Mỹ, để tránh sự truy nã của cảnh sát đặc biệt VNCH. Nhưng rồi Thích Trí Quang cũng như hàng loạt những tên cs đầu xỏ khác bị chính quyền bắt giữ đều được đồng bọn là lũ cs nằm vùng leo sâu trèo cao trong bộ máy chính quyền trung ương VNCH tìm cách ảnh hưởng để làm giảm nhẹ, xóa tội hoặc thoát vòng truy tố của pháp luật. Để rồi được chính tay những tên làm nội gián cho cộng sản, trá hình trong chính quyền trung ương VNCH, nhân danh pháp luật VNCH “phóng thích” về với…cộng sản. Kể cả tên “tổng thống một ngày” Dương Văn Minh sau này cũng đã bị lật mặt là tay sai của cs Bắc -Việt. 39. Cuộc chiến tự vệ chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam với sự góp sức của quân đội đồng minh và Mỹ chống lại sự xâm lăng của cộng sản nhìn về cục diện, đã từ lợi thế, dần trở nên mất thế cân bằng và chịu sự tổn thất ngày càng lớn lao. Đặc biệt là từ lúc quân đội Mỹ tham chiến trực tiếp vào chiến trường Việt Nam. Hai sự kiện "sai lầm chiến thuật" nổi bật phải kể đến, ảnh hưởng nặng nề vào cuộc chiến Việt Nam có lợi cho khối cs, đánh dấu sự "sai lầm chiến lược", nhưng có tính toán rất kỹ càng, xuất phát từ lợi ích của siêu cường quốc Mỹ: Thứ nhất là: Sự đảo chính lật đổ chính phủ đệ nhất VNCH và sát hại cố tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02.11.1963, được giật dây bởi CIA và Nhà Trắng, thực thi bởi lũ tướng tá phản tặc cùng lũ cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN. Thứ hai là: Cuộc đi đêm sau hậu trường giữa Hoa Kỳ và Trung cộng qua những cuộc gặp gỡ tay đôi giữa Mao Trạch Đông/ Nixon, Chu Ân Lai và Henry Kissinger tại Bắc Kinh vào năm 1972. Qua những cuộc “đi đêm” này, Hoa Kỳ muốn làm sao có thể rút chân khỏi chiến trường Việt Nam trong “danh dự”, và quay lưng bán rẻ miền nam Việt Nam cho “khối cs” có thể toàn quyền tự do hoành hành chiếm trọn miền Nam Việt Nam. Trên thực tế, cộng sản Bắc-Việt đã thẳng tay xâm lược, bắn giết và tắm máu miền Nam không hạn chế, và cuối cùng trong cơn say máu đã biến toàn cõi Việt Nam thành một ngục tù vĩ đại không tường vách. Chúng đã tự nguyện làm tay sai thực thi khát vọng xâm lăng của lũ đế quốc thực dân đỏ cho tới ngày hôm nay. Dư luận của cả thế giới tự do và phương Tây đã bất lực, câm lặng đứng nhìn thảm cảnh trên. 40. Sự đeo bám dai dẳng, trơ trẽn và lưu manh, giả danh trá hình lợi dụng vỏ bọc tôn giáo, Phật giáo, đặc biệt là sự khiển dụng vỏ bọc ngụy trang GHPGVNTN một cách có hệ thống, làm phương tiện đánh lạc hướng, che giấu, bôi xóa tội ác xâm lăng bắn giết trong xuốt chiều dài tồn tại của đảng csvn thực sự là một thủ đoạn tội ác vô cùng tanh bẩn, nghiêm trọng có một không hai trong lịch sử Việt nam và lịch sử chiến tranh thế giới. Như vậy, những cá nhân, đội ngũ, tổ chức của những tên cs giả danh đội lốt núp áo nhà sư trá hình Phật giáo là một trong những cánh quân đắc lực, nguy hiểm và xảo quyệt nhất trực thuộc đảng cộng sản Việt Nam. 41.Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn “cánh tả” của y trong nước cũng như tại Đông và Tây Âu đã xuyên tạc, đánh lạc hướng và bóp méo sự thật một cách có hiệu quả về bản chất của cuộc chiến tranh Việt nam trước công luận thế giới. Chúng cũng đạt được mục đích tạm thời là che đậy và bôi xóa phần nào dãy núi tội ác trùng trùng chất chứa của đảng cộng sản vn trước công luận thế giới. Cũng như vậy, bộ máy truyền thông cộng sản tại phương Tây đã góp phần không nhỏ vào việc bóp méo sự thật và tô vẽ giàn dựng ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về cuộc chiến tranh tại Việt Nam là: “do phía Việt Nam Cộng Hòa, quân đội Mỹ và đồng minh khởi sự gây chiến”. Chỉ có Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn lưu manh là Đảng csvn đến giờ vẫn còn tin rằng chỉ có một mình chúng là còn có mắt mà thôi. 42. Như trên đã dẫn, với sự trợ giúp của mạng lưới tình báo, điệp báo viên cộng sản hoạt động tại nước ngoài đặc biệt là tại các nước phương Tây, Thích Nhất Hạnh và Võ Văn Ái cùng các đồng chí cộng sản của y đã thực thi những màn tuyên truyền xách động với khẩu hiệu xảo trá là “chống chiến tranh Việt nam” theo chỉ thị, có lợi cho đảng csvn. Về thực chất đảng csvn đã xé tan và giẫm nát bằng gót giầy hai hiệp định về Việt Nam tại Genève năm 1954 và Paris năm 1973, theo lệnh của quốc tế cộng sản, (là Nga xô và Tầu cộng) khởi động và theo đuổi cuộc chiến xâm lăng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. 43. Trong hậu trường chính trị của những tay lái súng vào những màn cuối cùng nổi bật nhất của cuộc chiến tại Việt Nam (1972) phải kể đến “canh bạc cửa hậu” giữa ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger/Chu Ân Lai và tổng thống Mỹ Nixon/Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh, và tất nhiên kẻ vẫy đuôi rối rít chầu rìa canh bạc này đích thị là…Việt cộng. Theo đó quân đội Mỹ và đồng minh sẽ cắt giảm vũ khí và rút lui trong tư thế khả thi nhất khỏi chến trường Nam-Việt Nam, chỉ để lại cố vấn quân sự. Về chiến lược là Hoa Kỳ đã “bàn giao” Việt Nam Cộng Hòa vào tay Bắc Kinh cộng sản, một trong những kẻ kề cận, trực tiếp hà hơi tiếp sức cho cộng sản Hà nội trong cuộc chiến xâm lăng này. Để canh bạc này cũng có “màn kết” như ai, giới truyền thông báo chí, bình luận chiến sự bất lương tại phương Tây, đặc biệt to mồm là của đảng cộng sản Mỹ đã ra sức tuyên truyền không hạn chế, xuyên tạc các bản tin tình hình chiến sự tại Việt Nam dường như rất có lợi cho kẻ đang chầu rìa canh bạc nói trên. Các bản tin trên đều thanh đồng thanh nói ngược lại với tình hình chiến sự thực tế, là “cuộc chiến Việt Nam đã đi vào bế tắc, quân đội Mỹ đã thiệt hại nặng nề và chỉ còn một cách duy nhất là rút khỏi Việt Nam”. Trên thực tế, nếu không có sự hà hơi tiếp sức của Trung cộng, Nga xô cũng như thái độ lập lờ thả lỏng có dụng ý của Nhà Trắng thì cuộc chiến xâm lăng của quân đội cộng sản Bắc-Việt đã không bao giờ có thể tiến được một bước nào hướng về phương Nam. Das „Hintertürgeschäft“ zwischen Henry A. Kissinger, Nixon und Mao´s Kanzler Chou An Lais in Peking, am 20. Juni. 1972. Der Inhalt des Gespräches ist aufgezeichnet und bereits veröffentlicht. * „Canh bạc cửa hậu“ giữa Henry Kissinger, Nixon và „thủ tướng“ của Mao là Chu Ân Lai tại Bắc kinh ngày 20.06.1972. Nội dung cuộc giàn xếp đã được ghi lại và công bố. 44. Vậy là tất cả những gì trước đó Hoa Kỳ gọi là „liên minh chống cộng sản“ tại miền Nam Việt Nam đã bỗng chốc trở thành những khái niệm mỉa mai báo trước những hệ lụy vô cùng thê thảm. Những thế lực cầm cân nẩy mực các động thái trên chiến trường Việt Nam tại Nhà Trắng về thực chất đã buông tay thả lỏng, bật đèn xanh cho khối cộng sản, Trung cộng và Bắc Việt có thể xâm lăng không hạn chế Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu người dân miền Nam đã phải chạy nạn quân đội cộng sản Bắc Việt bằng tất cả các con đường có thể có. Sự khát máu trả thù và mức độ tàn bạo kiểu Stalin của quân đội xâm lăng cộng sản Bắc Việt trên thực tế đã vượt xa ranh giới mọi sự suy tưởng. 45. Từ ngày Hồ và đảng cs của y tự nguyện làm Việt gian theo mệnh lệnh của „quốc tế 3 cộng sản“, manh động dùng các thủ đoạn bạo lực cướp chính quyền của Chính phủ Liên Hiệp vào năm 1946 (xin nhấn mạnh là: cướp!), thì bộ máy cầm quyền bù nhìn của Hồ đã hiện nguyên tà tướng là một thứ tay sai của quốc tế cộng sản, đặc biệt là cộng sản Nga-Xô. Chưa đủ, quốc tế cộng sản còn có thêm một cái Cravatte mầu đỏ nữa, nhưng Hồ quàng cả hai, nhìn kỹ là cái thòng lọng của Mao và đcs Tầu. Mà Cravatte Tầu nổi tiếng ví như cái thòng lọng thắt không chết ngay, cho nên Hồ và tay sai đã phải chịu đeo mãi đến tận ngày hôm nay. Vì phải đeo đẳng mãi cái tròng „lý tưởng cộng sản“ của những thế lực đế quốc thực dân đỏ, nên Hồ và đảng cs của y đã quyết tâm tẩy não toàn dân là: "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn" cũng phải cướp cho bằng được miền Nam. Nay Trường Sơn đã xơ xác cháy rụi, miền Nam đã quằn quại dưới xích xe tăng Nga, xanh rờn mầu áo bộ đội bằng vải khaki Tầu, nhưng cũng chưa thể đủ. Phải nhuộm đỏ cả Lào, Campuchia và bán đảo đông dương thì Hồ Chí Minh và „đảng cs đông dương“(!) mới tạm hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy, quân đội đảng cộng sản Việt nam thừa thắng tiến đánh Campuchia, vì đã dự trữ sẵn màn tuyên truyền tẩy não thanh niên là đi làm „nghĩa vụ quốc tế“. Lần này để thế chân dãy Trường Sơn đã bị đốt cháy, là vô số thanh niên miền Nam, theo danh từ của đcs là: „con của Mỹ, Ngụy“. Đó là một trong những lý do xẩy ra cuộc „chiến tranh biên giới Việt-Trung“ vào tháng 2. 1979. Về thực chất chỉ là một „bài học“ của đảng cs Tầu dành riêng trừng phạt đảng cs Việt Nam. Nhưng mỗi lần có biến, muôn lần như một, đảng csvn tùy tiện vồ lấy những gì bấy lâu nay thường cướp trắng được của nhân dân là xương máu vô hạn và lòng yêu nước có thừa, đem ra tế sống, trả giá cho những bài học muôn năm không thuộc của đảng csvn. 46.Trở lại với vấn đề truyền thông trong cuộc biến loạn đầy tội ác của GHPGVNTN vào những năm 1963 và những năm sau đó. Với sự hậu thuẫn của CIA và đảng csvn, thực thi trực tiếp bởi tay các cán bộ cs trá hình „tăng sỹ Phật giáo“ GHPGVNTN. Một kẻ thực thi tội ác, một kẻ xuyên tạc bóp méo dư luận quốc tế tại phương Tây. Cuộc hành hình hỏa thiêu đặc biệt dã man tên Thích Quảng Đức đã bị bộ máy truyền thông khối cộng sản bóp méo xuyên tạc thành: “Nhà sư tự thiêu, phản đối đàn áp tôn giáo của chính phủ VNCH“. Để góp phần lèo lái đánh lạc hướng dư luận Mỹ và phương Tây. Thích Nhất Hạnh, tên cộng sản trá hình Phật giáo và đồng bọn đã hô hào xách động giới sinh viên đông và Tây Âu qua chiêu bài „phản chiến“, xuống đường biểu tình bằng những khẩu hiệu xảo trá „phản đối chiến tranh Việt Nam“. Cộng thêm sự tuyên truyền hùng hậu của giới báo chí bất lương, từng được giật dây bởi CIA, dư luận và công luận quốc tế về cuộc chiến tranh của Mỹ tại chiến trường Việt Nam do vậy đã bị bóp méo sai lệch nghiêm trọng, nghiêng hẳn về phía có lợi cho đảng csvn. Cuộc chiến xâm lăng của khối cs và quân đội cộng sản Bắc-Việt đã được bôi trát tô hồng để biến thành cuộc „chiến tranh giải phóng dân tộc“ cùng vô số những luận điệu xảo ngữ tương tự. Cái gọi là „đại thắng lợi“ của quân đội cs chắc chắn đã phải tiêu tàn phá sản nếu không nhờ những đòn ngón im lặng phản trắc có dụng ý của Mỹ và khối đồng minh. 47. Cái gọi là “đảng cộng sản Việt nam“, mà mỗi đảng viên của nó nói cho thật đúng nghĩa của chữ đó, thì chưa từng có một tên nào, từ đầu xỏ cho đến tay sai đáng được gọi là „cộng sản“ cả. Càng chẳng thể dùng đến danh từ thông dụng „cánh tả“, „thiên tả“ (cũng hàm ý có nguồn gốc „cộng sản“) hiện đang dùng tại châu Âu và phương Tây, cụ thể là tại Đức, là một trong những nơi sản sinh ra nó. Ở đây vẫn còn phải gọi chúng là „cộng sản“ bởi vì ngoài những lý do khác…, là nhất thiết phải giữ nguyên trạng những cấu thành quan trọng làm nên tội ác không thể xóa bỏ của một can phạm, tổ chức, đã và đang nhân danh lạm dụng trá hình hết thảy mọi danh tự khái niệm để gây tội ác (đi sâu vào vấn đề này chưa phải là mục đích của bài viết này, phần chi tiết hơn sẽ đề cập trong phần 2., sau bài này). Những gợi đề chi tiết đặc biệt có giá trị chủ đạo vạch mặt „đảng cộng sản Việt nam“, về thực chất chỉ là một tập đoàn Việt gian giả danh trá hình „cộng sản“, xin xem thêm các tác phẩm „Sự tích con yêu râu xanh ở Việt Nam“ hoặc „Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, phần cập nhật mới nhất trong năm 2012 của chính tác giả Nhà báo Việt Thường, hoặc của các tác giả Việt Nam và thế giới nổi tiếng khác. Về thực chất, đảng csvn, đại diện bởi tên đầu đảng xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh, cùng những đồng đảng đồng chí tay sai kế thừa hiện nay chỉ là một tập đoàn ô hợp vong bản, đã và đang dùng tất cả mọi phương tiện và con đường tội ác, tiếp tục phản bội Tổ quốc và dân tộc Việt Nam, chỉ để nhằm thỏa mãn cơn đói khát vô độ tham vọng quyền lực thống trị. Từ ngày thành lập vào những năm 1930 đến nay là năm 2012, lịch sử tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam đồng nghĩa với chiều dài của sự bội phản và tất cả những gì là tội ác chồng chất của đảng csvn đối với đất nước, dân tộc Việt nam và nhân loại. Những di hại tổn thất do những tội ác của đcsvn gây ra là những vết thương vô cùng độc hại và nghiêm trọng. Nếu ngay bây giờ đây, hay trong một ngày mai… rất gần, cái tập đoàn phản dân bán nước này bị nhân dân Việt Nam vùng lên truy quét đập tan xóa sổ, thì những vết thương không thể chữa lành này chắc chắn sẽ còn mãi mãi để lại những hậu quả di chứng, tổn thất và mất mát vô cùng sâu đậm cho muôn đời thế hệ con cháu người Việt nam trong mai hậu. „Trúc Lam Sơn không ghi hết tội. Nước Đông Hải chẳng rửa sạch tanh hôi“: Sẽ là một phần lời kết án để đời mà muôn thế hệ người Việt Nam sẽ hằng ghi nhớ không quên, dành sẵn để kết án truy tố vĩnh viễn những tội ác tầy trời bất khả bôi xóa của đảng cộng sản vn và bè lũ tay sai. 48.Cái tập đoàn đcsvn và tay sai này đã tự nguyện làm thân khuyển mã, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng. Một điều mà đời đời những thế lực đế quốc xâm lăng Hán tộc từ phương Bắc, là những tổ tiên hiếu chiến của Mao Trạch Đông, chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ có thể thực hiện. Nhưng, những kẻ hậu duệ kế thừa hắn vẫn chưa một lần, và cũng không thể một lần muốn tự thức tỉnh, phá vỡ giấc mộng vô minh ngàn đời, đói khát quyền lực thống trị, viễn chinh xâm lăng là: dùng mọi cách, làm sao có thể thôn tính và nuốt trọn Việt Nam. Từ ngày Hồ Chí Minh còn lang thang học cách đu giây quốc tế cộng sản Nga Tầu, đặc biệt là từ khi đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho Nga-xô và Mao Trạch Đông để leo lên chức „chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa“, cho đến ngày y „chính thức“ cầu viện Mao và đcs Tầu hậu thuẫn mọi phương tiện chiến tranh từ Tầu cộng, Nga-xô và khối cs để xâm lăng VNCH, thì cũng là lúc Hồ mở cửa, rước vào miền Bắc Việt Nam một tập đoàn quân gián điệp Tầu cộng trá hình hùng hậu, dưới hình thức „cố vấn, chuyên gia nước bạn Trung Quốc“. Đến ngày hôm nay, sau mấy chục năm bám rễ, đội quân gián điệp hùng hậu này đã len lỏi có mặt trong tất cả các vị trí then chốt trong bộ máy ngụy quyền của Hồ và đảng csvn. Chế độ ngụy quyền của đcsvn ngày hôm nay đã hoàn toàn lệ thuộc đảng cs Trung cộng như một thứ thái thú chư hầu, đến nỗi, mỗi lần chúng phải quyết định những chuyện gì quan trọng thì lũ đầu đảng đều phải „đi sứ“ sang chầu tận Bắc Kinh để thỉnh lệnh của các đồng chí „Tầu Thiên tử“. 49. Cũng chính đảng cộng sản đã bóc lột đất nước và nhân dân Việt Nam một cách tàn nhẫn thậm tệ. Đại đa số quần chúng nhân đân Việt Nam đã bị đảng cs cưỡng bức trấn lột mất hết tự do, tài sản quyền lợi, nhưng thay vào đó họ bị đcs che đậy ru ngủ bằng một rừng những danh từ xảo trá như „nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ“ v.v. Tất cả đại đa số khối quần chúng đã bị biến thành giai cấp vô sản thực sự, bị đẩy xuống đáy tầng của sự ngèo nàn bất công và lạc hậu. Việt Nam hôm nay đã tụt hậu một cách thê thảm xuống hàng cuối cùng của của tất cả những gì là giá trị có thể nêu danh. Tất cả những gì là quyền tự do căn bản của nhân dân đều đã bị đảng cs cướp sạch hoặc trà đạp một cách thô bạo trắng trợn. Tất cả hệ thống „Hiến pháp“, „hành pháp“ cùng vô số các „luật định“ của bộ máy nhà nước ngụy quyền cs đã bị đục khoét rỗng, nhào nặn bóp méo từ trong ra ngoài, đã được tô vẽ bôi hồng chỉ để thực thi có một mục đích duy nhất là che đậy, ngụy biện để hòng hợp pháp hóa duy trì áp đặt quyền lực độc tôn thống trị „bất di bất dịch“ của đảng csvn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Cái gọi là „quốc hội“ của bộ máy nhà nước bù nhìn cộng sản chỉ là những cái biển hiệu dùng để lòe bịp thế giới bên ngoài. Còn đối với nhân dân Việt Nam, nó là một liều thuốc cực kỳ độc hại, hơn thế nữa, trên thực tế, còn là những cái bẫy xập chết người. 50. Các đảng viên đảng cộng sản phải học thuộc lòng những „tư tưởng và hành động“ xảo trá của Hồ Chí Minh, phải chấp nhận nhiều sự thử thách mới được ra nhập vào đảng csvn, một lần ra nhập là phải chấp hành tuân thủ đến trọn đời. Một trong những vô số những cái „nhẹ như không“ mà các đảng viên cs đều phải thuộc làu là „không gia đình, không tổ quốc, không tôn giáo, và không dân tộc“. Các đảng viên cs phải tuân thủ tuyệt đối, không được từ nan chối bỏ bất kỳ nhiệm vụ gì mà đảng cs ra lệnh, nếu đảng cần, thì dù có phải bỏ lại hoặc bán rẻ tất cả: Gia đình, tổ quốc, tôn giáo và dân tộc. Vì đối với đcs, chỉ có một thứ có thể vượt lên trên hết thảy, đó là quyền lợi và sự sống còn của đảng csvn. Cho nên một trong những khẩu hiệu quen thuộc của Hồ Chí Minh, qua ngòi bút của Tố Hữu ( tức Tôn Thất Lành), một tên đầu xỏ rành nghề với các thủ đoạn cắt lưỡi tập đoàn trí nô của đcs, đã viết thành „thơ“ cho tất cả các đảng viên cs đều có thể học thuộc lòng như sau: „Giết ! giết nữa bàn tay không phút nghỉ! Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong Cùng rập bước chung lòng, thờ Stalin bất diệt“. Ngoài ra, các đảng viên đảng cs cũng còn phải „nhập tâm“ những xảo ngữ xú danh của những tay tổ gian hùng của quốc tế cộng sản, trong đó có Lê nin như: „Không có thể phản bội, không thể làm người cộng sản“, nói cách khác: “không là kẻ phản bội, không phải là người cộng sản“. 51. Ngay từ ngày thành lập, „Tổ Quốc“ của đảng cộng sản vn và những kẻ tay sai trung thành kế thừa sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã không phải là đất nước Việt Nam mà là thế giới đại đồng của quốc tế cộng sản, đại diện bởi „Nước Nga – Liên bang chxhcn xô viết“ (UdSSR), và nước Tầu đại Hán („Trung quốc“ – China). (UdSSR: một bóng ma đỏ vừa mới bị tan rã cách đây không lâu, nhưng chưa từng biến mất). „Gia đình“ của các đảng viên cs là tập thể đảng cộng sản “các nước cs xhcn anh em“. „Tôn giáo“ của chúng là mớ vọng tưởng tà ám về một lý tưởng cộng sản không tưởng. Điều đáng nói là Hồ và đảng cộng sản của y ngay từ đầu đã thừa biết rằng: lá cờ đảng cộng sản cùng tất cả những gì là „lý tưởng cộng sản“ chỉ là mảnh cờ hiệu trá hình, một thứ phương tiện che giấu mục đích không hơn không kém. Mặc dù biết rõ ngay từ đầu như vậy, nhưng, Hồ và đảng cs vẩn phải tiếp tục giương cao mãi lá cờ đỏ sao vàng và búa liềm đó ở tất cả mọi nơi chỗ có thể được, hòng có thể mãi tiếp tục lòe bịp khối đại quần chúng nhân dân, mà phần động số họ, theo sự ước lượng của bộ chính trị đảng csvn là chẳng còn một ai lại có thể lọt lưới sau những màn tầy não toàn diện toàn phần, dưới hình thức tập thể sâu rộng trong toàn dân do đảng cộng sản đã không ngừng thực thi từ mấy chục năm qua. 52.Sau khi khối cộng sản đông Âu, đại diện bởi Liên bang xô viết xụp đổ, đảng cộng sản Việt Nam như con rắn mất đầu. Để bằng mọi giá giữ vững cho được quyền lực thống trị, những kẻ kế thừa Hồ và tay sai đã phải gồng gánh sinh mệnh thoi thóp của đảng csvn giao hẳn cho đảng cs „Trung quốc“ định đoạt gánh vác, từ nay sốt xắng tình nguyện chỉ để xin làm một chân gác cửa cho „mẫu quốc thiên triều“. 53. Nhưng, kẻ định đoạt đường hướng tinh thần Việt gian cho đcsvn cùng những kẻ kế thừa nó tại Việt Nam, theo đó phải phục tùng vô điều kiện, trước sau như một vẫn là tên muôn năm chủ tịch đảng – „cha già“ xảo quyệt Hồ Chí Minh, một tên thợ đu dây rành nghề giữa Moskau và Bắc Kinh. Sau khi một đầu dây đã đứt, đặc biệt là sau cái chết của „lão cha ghẻ nói tiếng Nga“ thì đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn lại một đầu dây là „cái váy của người mẹ người Tầu“, lại cũng ghẻ nốt, để bám víu sống còn. Tất nhiên, bất kỳ sự o bế mời chào của các nhà „chính khách thực tiễn“ đến từ các nước phương Tây khác, kể cả „kẻ thù không đội trời chung“ là Mỹ, cũng đều làm cho đám hậu sinh đảng csvn tò mò hớn hở. Miễn làm sao quyền lực thống trị của đảng csvn vẫn còn được tại vị, và dường như đáng hí hửng hơn hết là chứng giả thông manh lọc lõi của họ, sẵn sàng nhẹ tay buông thả cho những thói lưu manh ngu học của chúng. Để theo gương nước Nga "Liên bang xô viết“, qua sự truyền đạt "kinh nghiệm" có tầm nhìn xa xứng mặt gian hùng của các cố vấn đảng cộng sản Nga-xô, thì đảng csvn cùng bộ máy ngụy quyền bù nhìn của nó cũng phải nhất thiết tìm tất cả mọi phương cách để „chìm xuống“, trước khi nó bị lật chìm. “Hạ cánh an toàn“, hoặc „xuống ngựa an toàn“ là những cụm từ thường được tập đoàn trí nô cộng sản trá hình thậm thụt úp mở, tự đắc ám chỉ những thủ đoạn lưu manh hạ đẳng đã tân trang lại của đảng csvn. Beeindruckend und verhängnisvoll ist das Händeschütteln zwischen den beiden KP Genossen Nguyen Minh Triet und Thich Nhat Hanh im Jahr 2005 in Hanoi, nach dem Inhalte des Geschäftes mit dem „Opium des Volkes“ neu definiert und unter Dach und Fach waren. * Đầy ấn tượng và thật dính chết như keo sơn là cái bắt tay nặng nề đen tối ràng buộc bởi nghiệp chướng sâu dầy tội ác giữa hai đồng chí đảng viên cs Nguyễn Minh Triết và Thích Nhất Hạnh vào năm 2005 tại Hà Nội, sau khi phần nội dung kế hoạch liên minh ma quỷ sặc mùi „thuốc phiện của nhân dân“ đã được giàn xếp ngã ngũ. 54. Cùng một mục tiêu trên, đảng csvn, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và các đồng chí cs trá hình Phật giáo đang thi thố mọi thủ đoạn để thực thi cho bằng được nhiệm vụ chiến lược sống còn này. Và Thích Nhất Hạnh chưa một lần dừng lại trên hành trình tích chứa sâu dầy nghiệp nhân tội ác. Với sự trai lỳ khả ố rành nghề, y vẫn tiếp tục khai thác tối đa những nhãn hiệu xảo trá như „hòa bình, phản chiến“ mà đảng cs đang và đã từng tô vẽ cho đồng chí Thích Nhất Hạnh trong „phong trào phản chiến“ đầy tội ác năm nào. Sự tuyên truyền cò mồi trâng tráo của đảng csvn trong nước và hải ngoại, đã tạo nhiều cơ hội để những cơ sở trá hình Phật giáo của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài có thể giăng bẫy một cách tinh vi, lừa vào tròng vô số các Phật tử phương Tây nhẹ dạ. „Lực lượng“ ngoại vi mê muội này sẽ trực thuộc „đội quân thứ ba“, được Thích Nhất Hạnh trù bị trước để cứu đảng csvn khi „tình thế nguy kịch“: Trong trường hợp quyền lực của đảng cs bị đe dọa rung chuyển tận gốc rễ. Khi đó, các tên cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo núp áo nhà sư có thể tung hoành tạo biến loạn, vừa ăn cướp la làng, vừa dùng chiêu bài „tôn giáo“ để lật ngược tình thế có lợi cho đảng csvn ngay trong lòng thế giới phương Tây. Những „Phật tử“ phương Tây mê muội này, theo tính toán của Thích Nhất Hạnh, khi có biến cố, họ sẽ sẵn sàng (?) một lần nữa xuống đường biểu tình „bảo vệ Phật Pháp“ thay cho đảng csvn… được nhờ, vì đảng cộng sản vn chỉ chờ có thế. Tức là bất kỳ sự phản kháng nào từ phía chính quyền các nước phương Tây sở tại, ra tay đối phó với các „lực lượng biểu tình Phật tử“ của Thích Nhất Hạnh, sẽ là cơ hội khốn nạn nhất để các cơ quan tuyên truyền của đảng csvn đồng loạt lợi dụng khai thác tối đa và „chỉ trích, lên án“ là „kỳ thị Phật giáo“. Nhưng các „tăng sỹ“ trẻ gốc Á châu này dù trá hình với dáng vẻ cẩu thả một cách nham nhở hoặc ngây ngô cách nào thì trớ trêu thay lại càng lộ rõ hơn gấp ba gấp bẩy lần tâm địa tham sân si bất khả che giấu của chúng. Phần đông những „tăng sỹ“ trẻ này sau khi mới ra trường từ những „giảng đường Phật học“ của đảng csvn, nói cách khác là „ đại học an ninh, chuyên khoa tôn giáo“, đã được đảng cs và Thích Nhất Hạnh khai sinh vào đời bằng một rừng những xảo ngữ gượng ép như „tăng thân“, “làm mới đạo Bụt“.v.v. vừa mới ra khuôn, chưa phai mầu cờ đỏ, còn sắc cạnh như búa liềm, còn hơi hám khói thuốc phiện và nặng mùi „tôn giáo kiểu cộng sản xã hội chủ nghĩa“. Các khái niệm, danh từ „Phật Giáo“ khiên cưỡng „hiện đại“ dòng „Tiếp hiện“ này đã tự nó tố cáo tội ác và tâm địa xảo quyệt của Thích Nhất Hạnh đã dùng tất cả mọi phương cách để khai thác pha chế, xào nấu các danh từ và Giáo Lý Phật Pháp theo công thức: „cộng sản + tôn giáo + thuốc phiện“. Vì mục đích những thực đơn đặt hàng của bộ chính trị đcsvn, trong „công cuộc làm mới Đạo Bụt“ nhiều bước nhiều chặng, kéo dài nhiều thập niên của đảng đánh độc thế hệ trẻ, chưa bao giờ là để dành cho đảng cs tự tiêu hóa những sản phẩm tôn giáo sống xượng do chính các đồng chí cs của họ chế biến ra. Vì „tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân“ nên thực đơn đó chỉ để đầu độc nhân dân, để nhân dân tự đầu độc, hoặc làm sao có thể ăn được nhiều, có thể say mà không chết ngay. Còn như trên đã dẫn, đảng cộng sản vn chưa từng thiếu thốn thức ăn tinh thần dành riêng cho các đồng chí đảng viên của họ. (Chuyên sâu về vấn đề này, phần chi tiết vạch mặt những xuyên tạc Giáo Lý Phật Pháp một cách tinh vi có hệ thống của đảng csvn, GHPGVN, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn, xin xem phần 2. , Nguyên bản tiếng Đức, sau bài viết này). Quay trở lại với vụ „Tu viện Bát-Nhã“ tại Việt Nam vào năm 2005. Cùng với lực lượng an ninh tôn giáo nhà nước ngụy quyền csvn, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phải gấp rút giàn dựng một vở kịch khả ố vụng về bất cần khán giả. Miễn sao để Thích Nhất Hạnh cùng với đám trí ngủ hậu sinh nhẹ dạ người ngoại quốc đã bị xỏ mũi, có thể xênh xang cùng đảng csvn trình diễn một vở kịch xảo trá: „Tự do tôn giáo ở Việt Nam“, tạo trợ lực đáng kể cho đảng cs vào giờ chót, có thể vượt rào cấm vận ra nhập WTO. Sau màn „đụng độ tranh chấp dân sự“ đầy kịch tính được giới trí nô của đảng cs trong nước và hải ngoại làm rùm beng đánh lạc hướng, là màn „khổ nhục kế“ tiếp theo, Thích Nhất Hạnh đã nhập ngay một vai mới là „nạn nhân“, còn gọi là „dân oan“ của đảng. Theo kịch bản, thì số theo Thích Nhất Hạnh về Việt Nam khoảng 100 tên kể cả ngoại quốc để „tạo ấn tượng, trình diễn thời trang và đội hình“ bằng áo nâu nón lá trên đường phố Hà Nội, sau màn „va chạm“ ban đầu đã tạm hoàn thành nhiệm vụ và bị „trục xuất“ về lại châu Âu. Nhưng tập đoàn của Thích Nhất Hạnh được đảng cs bổ xung thay thế ngay bằng gần 400 tên cs trá hình Phật giáo khác nhập cuộc.Để cho đúng kịch bản, chúng cùng đảng cs diễn nốt vở kịch. Hết „màn trời chiếu đất“, đến bị „xã hội đen bêu riếu nhục hạ thảm thương“, rồi sau chót là màn kết quan trọng nhất: Số cán bộ an ninh tôn giáo trá hình này được đảng cs đem cài cắm tại nước ngoài bằng hình thức quen thuộc là bị „trục xuất“ khỏi Việt Nam để xin tỵ nạn…đểu tại nước ngoài. Rất đông trong số này đến Đức trong tư thế trá hình Phật giáo giả tỵ nạn, tại một trong những cơ sở lớn nhất của Thích Nhất Hạnh tại Đức, đó là Waldbröl, một thành phố nhỏ gần Köln, miền Trung Tây-Đức. Trước đó cơ sở này từng là một học viện quân sự cũ không còn sử dụng (của quân đội Phòng vệ – Liên bang Đức), được đảng csvn và Thích Nhất Hạnh qua tay lũ cs nằm vùng đứng tên mua lại, rồi cải trang thành „ Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật giáo ứng dụng châu Âu“ („EIAB“- GmbH“). Số còn lại cũng lần lượt được đảng cs và Thích Nhất Hạnh cho đi „tỵ nạn“ tại các nước phương Tây khác. Để xuất phát từ đây (những cơ sở của Thích Nhất Hạnh, GHPGVN, GHPGVNTN cùng các tổ chức ngoại vi tay sai), các cán bộ cs trá hình Phật giáo của Thích Nhất Hạnh đã và đang móc nối hoạt động tay trong tay khăng khít với „đảng Việt Tân“, một tổ chức đã bị lật mặt là một công cụ cò mồi trá hình của công an ngụy quyền Việt gian cộng sản. Đang nói trong phạm vi ở đây là, về các thủ đoạn chiến thuật, chúng tìm mọi cách tập hợp, đoàn ngũ hóa, lừa lái khống chế những người Việt Nam đặc biệt là Tây phương còn mê muội, để chuẩn bị một thứ „lực lượng trù bị“ cho những cuộc xuống đường tuần hành, dùng chiêu bài "tôn giáo", biểu tình với quy mô lớn ngay tại phương Tây, có lợi cho đảng csvn sau này. Nichts ist zutreffender als die beiden Fotokommentare aus einer vietn. Web-Site: 1. Linkes Bild:„KP Kadermönch Thich Phap An: 3. von links, (Geschäftsführer des EIAB GmbH in Waldbröl, DE) gemeinsam mit Thich Nhat Hanh und Genossen beim vietn. KP Vorsitzenden Nguyen Minh Triet zu Besuch“. Hình bên trái:Tên cán bộ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo Thích Pháp Ấn,( thứ 3 từ trái sang) chủ tịch cái gọi là „Công ty trách nhiệm hữu hạn – Trung tâm Phật giáo ứng dụng Châu Âu“tại Waldbröl – CHLB Đức, cùng Thích Nhất Hạnh và đồng bọn gặp gỡ tên đầu lãnh Đảng cộng sản vn Nguyễn Minh Triết.“ Khó có lời bình luận ảnh nào chính xác hơn lời bình luận trên một trang website tiếng Việt khi chú thích bức ảnh bên phải trên đây: 2. Rechtes Bild: „Thich Nhat Hanh und Frau Genossin Florette Cao Ngoc Phuong bei dem General der KP- Volksbefreiungsarmee Vo Nguyen Giap und Frau zu Besuch. Zwei große Führer der zwei Kampffronten von der gleichen vietn. KP treffen sich wieder. Der eine tötet mit dem Gewehr, der andere mit dem „Opium des Volkes“. Das Ergebnis lässt sich sehen: Der eine zählt die Leichen der andere das Geld.“. Hình bên phải: „Thích Nhất Hạnh cùng người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng thăm vợ chồng tên đại Việt gian Võ Nguyên Giáp. Những tên đại gian hùng của „hai mặt trận“, hai mũi giáp công“ đều cùng của gian đảng Việt-gian cộng-sản. Một tên bắn giết bắng súng đạn, một tên giết người bằng „thuốc phiện của nhân dân“. Kết quả thật đã quá rõ ràng để chúng không còn có thể chối tội ác: Một tên đếm xác chết, một tên đếm tiền, đang chất chứa thêm cao đầy tài khoản tội ác của đảng csvn. Não trạng của Thích Nhất Hạnh cũng như tất cả các loại Thích trá hình của đảng cộng sản vn như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ đều có chung một cơn mê tưởng: Một lần khoác bộ gấm bào „Quốc Sư“ („Thầy của các vị Thầy“), dù chỉ là vài giờ diện thử trong một màn kịch hóa trang. Vì sau đó, vẫn trong năm 2005 màn tổng diễn tập cho vở kịch „Biến cố Tu viện Bát Nhã“ do Thích Nhất Hạnh và an ninh nhà nước ngụy quyền Việt gian cs cùng chung giàn dựng đã đến gần. Vây quanh bởi một đoàn những tên an ninh vgcs trá hình trong lớp cà sa tăng sỹ Phật giáo theo hộ tống, Thích Nhất Hạnh & đồng bọn xênh xang rước đám diễu hành trên đường phố Hà Nội, và không hề bỏ lỡ một lịch hẹn chụp hình nào của các phó nháy chuyên nghiệp an ninh vgcs. Vì đặc biệt là trong năm 2005 này, đúng là lúc đảng csvn đang cần cần phải lôi cái bảng hiệu trá hình „Tự do tôn giáo tại Việt Nam“ ra tô vẽ lại đánh bóng „sạch đẹp“ hơn bao giờ hết, mong nhờ tấm bảng hiệu này đối phó với sự cấm vận của Mỹ và phương Tây, hòng qua đó có thể lòe bịp thế giới tự do, ra nhập WTO. Trong vụ „Tu viện Bát Nhã“, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn thủ vai „nạn nhân“ của đảng cs vn, khoảng 400 tên cs trá hình Phật giáo được an ninh vgcs „sách nhiễu“ và „trục xuất“ khỏi Việt Nam. Tại nước ngoài, Thích Nhất Hạnh và đcsvn lừa lái, móc nối “xin tỵ nạn“ cho chúng dưới danh nghĩa „tín đồ Phật giáo bị đàn áp“. Để thực thi kế sách, cả bộ máy tuyên truyền văn bút trí nô của đảng csvn trong và ngoài nước đồng loạt lên tiếng, thực hiện đúng chức năng tay sai cò mồi quảng bá cho màn kịch này. Để cùng một lúc khoảng 400 tên cán cs trá hình Phật giáo được đảng cs và Thích Nhất Hạnh „hợp thức hóa“ tư cách giả „tỵ nạn“ của chúng tại nước ngoài. „Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật giáo ứng dụng châu Âu“– („EIAB-GmbH“) trá hình của Thích Nhất Hạnh tại Waldbröl – miền Trung Tây-Đức, là một trong những địa điểm dừng chân ẩn náu đầu tiên của chúng. Thich Nhu Dien, oberster Vertreter der UBCV bzw. CVBK/ KVVBK in Deutschland, „Vien Giac Pagode Hannover“. Thích Như Điển, tên đại diện của GHPGVNTN tại „Chùa Viên Giác" – Hannover, CHLB Đức. 55. Như tất cả những chi nhánh khác tại nước ngoài, thì „Chùa Viên Giác“ tại Hannover nằm về phía Tây-Bắc CHLB Đức cũng là một trong cơ sở quan trọng của GHPGVNTN. „Chùa“ này được đại diện bởi tên Thích Như Điển. Như trên đã dẫn, hệ thống „chùa tự“ đang càng ngày được mở rộng và có mặt khắp nước Đức, về hình thức ngụy trang đa phần đều trực thuộc GHPGVNTN, nằm trong sự điều khiển của tên Thích Quảng Độ, nhưng về thực chất, đang là những cơ sở trá hình của GHPGVN tại nước ngoài, dành cho các cán bộ cộng sản giả danh đội lốt tôn giáo từ trong nước, từng bước sang thay thế và chiếm giữ. Về hình thức hay bản chất, cái gọi là „GHPGVN“ („giáo hội quốc doanh“) và „GHPGVNTN“ cả hai đều nằm dưới sự khiển dụng trực tiếp của đảng csvn, cho nên, nó là hai cái thòng lọng được thắt bởi một sợi giây duy nhất. Một cái thòng lọng thì đã được cái gọi là „Ban tôn giáo chính phủ“ của đcsvn tròng lên cổ các tín đồ Phật giáo Việt Nam trong nước một cách oan nghiệt. Cái còn lại thì đảng csvn đã tìm đủ cách mà không cách nào với tới được khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian CS tại hải ngoại cho được. Cho nên, chỗ nào có đám cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo này xuất hiện là ở đó lại có những màn dây rợ lòng thòng thê thảm. Thường thi thố giọng lưỡi của thập loại Ma tâm, cũng như có thể đồng loạt giả mắc chứng á khẩu trơ trẽn, bỉ ổi, là những đặc điểm chung của lũ cs trá hình Phật giáo này khi được hỏi đến, chúng đang tìm ai với một mớ thòng lọng trên vai như thế. Các cơ sở trá hình „chùa tự“ này, trong đó các cơ sở của Thích Nhất Hạnh đã và đang được gấp rút tạo dựng cải trang một cách tương xứng, để có thể dần biến thành những nơi chứa chấp ẩn náu trù bị của một số đông các cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo dành cho một tình huống „đặc biệt nghiêm trọng“, đó là ngày tàn xụp đổ của đảng Việt-gian cộng sản tại Việt Nam. Như trên đã dẫn, ngay trong hiện tại, xét về mặt chiến lược, đảng csvn đang tìm mọi phương cách bôi xóa chối bỏ bản mặt thật tội ác, để làm sao có thể dần dần „biến thoái“ và „chìm lặn xuống“. Chúng đang giàn dựng một cách xảo trá, hòng đánh tráo thay thế vào „chỗ bỏ trống“, là một hệ thống „dân chủ, đa nguyên đa đảng“ bù nhìn và trá hình càng ngày càng tinh vi hơn. Trong „tình hình xấu“ các tên cộng sản trá hình Phật giáo núp áo tu hành sẽ ẩn náu tại các cơ sở trá hình tôn giáo này để chờ thời. Khi một thể chế „dân chủ đa đảng“ mới được thiết lập, chúng sẽ từ đó lợi dụng tối đa các định chế hiến pháp „dân chủ“, dùng chiêu bài „tôn giáo, Pháp nạn“ để đánh lạc hướng và xách động quần chúng, tạo các cuộc biến loạn, lật ngược tình thế cướp lại chính quyền. Dành cho mục đích này, đảng csvn đã và đang đầu tư một cách ồ ạt, huy động một lượng ngân khoản rất lớn, trong nước cũng như hải ngoại cho các công trình kiến thiết „tôn giáo, Phật giáo“. Trước hết để gây ảnh hưởng thanh thế quyền lực, thu lợi trước mắt và cũng để rửa tiền bằng những tạo dựng đầu tư (kiểu… dã tràng) dưới dạng những công trình bất động sản. Ở đây (tại CHLB Đức nói riêng) phải kể đến tất cả các cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài (ở Đức là „EIAB – GmbH“ tại Waldbröl), cùng tất cả các „chùa tự“ trá hình trực thuộc GHPGVN do các tên cộng sản trá hình từ trong nước mới sang, manh nha tạo dựng như „trung tâm văn hóa Phật giáo Franken, Nürnberg“ tức „chùa Vĩnh Nghiêm“, của tên cs Thích Trí Dũng (trực thuộc „Tổ đình chùa Vĩnh Nghiêm“ – Sài gòn) và „chùa Phổ Đà“, tại Đông-Berlin v.v… Kế đến là toàn bộ hệ thống „chùa tự“ trực thuộc GHPGVNTN cùng hệ thống tay sai là các miền „Gia đình Phật tử Việt Nam“, các „khuôn hội“, các „lực lượng“, các „ban hộ niệm“ kèm theo, do tên Thích Như Điển, Thích Quảng Độ, Võ Văn Ái làm „đầu lãnh tinh thần“ như: „Chùa Viên Giác“ tại Hannover, „Linh Thứu“ – Tây Berlin, „Phật Huệ“, „Phật Đạo“ tại Frankfurt, „Tâm Giác“, „Phổ Bảo“ tại München và vô số các chùa tự khác như „Viên Đức“ tại Ravensburg .v.v. . Sau hết là vô số những „hội chân rết“ theo công thức „đoàn ngũ hóa“ để khống chế lợi dụng, như „hội chuyên gia“,“hội sinh viên“ „đồng hương“, „thân hữu“, „những người bạn“, „doanh nghiệp“,“văn nghệ“, „lớp khiêu vũ“ và … cả „lớp tiếng Việt“ v.v. 56. Hiện nay cả hai tên Thích Nhất Hạnh và Thích Như Điển đều hoạt động tay trong tay với „Việt Tân“, một công cụ trá hình của công an Việt gian cộng sản. Các thành phần đầu xỏ và lũ tay sai nòng cốt của đảng này là những tên an ninh chuyên nghiệp, điệp báo nằm vùng lâu năm của đảng Việt gian cs. Cái gọi là „đảng chính trị đối lập“ („ViệtTân“) cò mồi này chính thức khai trương ra mắt ngày 19.09. 2004 tại Berlin, thường được an ninh nhà nước ngụy quyền việt gian cs ngụy trang tạo dựng thanh thế bằng những thủ đoạn khổ nhục kế rẻ tiền, là: dùng chính các báo „công an nhân dân“ của đảng csvn trong nước và giới văn bút trí nô của chúng tại hải ngoại „chỉ trích“ hoặc khoác cho những mặt nạ trá hình hai mặt như „chống cộng, phản động“, hoặc „dân chủ, canh tân“ v.v. Chúng thường rêu rao những bảng hiệu trá hình, là đứng về phía người Việt Nam tỵ nạn chế độ Việt gian cs, nhưng về thực chất chỉ để giăng bẫy đánh lừa và tìm cách khống chế khối đồng bào Việt nam Quốc Gia tại hải ngoại. Nước Đức thực sự là „miền đất hứa“ và là một trong những „sân sau yên tĩnh“ cho những mưu ma chước quỷ của đảng csvn. Vì tại đây, bên cạnh những lý do khác, là do có một phần khá đông số người Việt Nam sinh sống tại phía Đông của nước Đức. Họ từng là những người được nhà nước ngụy quyền Việt gian cs „ban phát ân huệ“ bằng cách đẩy đi „lao động hợp tác“, để bán sức lao động, thu lợi cho đảng csvn tại „Cộng hòa Dân chủ Đức“, tức Đông-Đức cũ („GDR“ hoặc „DDR“). Họ chịu nhiều ảnh hưởng và sự khống chế trực tiếp của „đại sứ quán“ Việt gian CS tại Đông Đức, do vậy, cũng theo sự tính toán chắc mẩm của đảng csvn, là sẽ còn có thể lợi dụng tối đa phần đông khối người này. Vì trong số những „con người máy xhcn“ đã bị tẩy não toàn phần này, vẫn có thể sẽ còn xót lại đâu đó những „đoạn rễ cộng sản“ đứt thối, chưa bị cơ thể đào thải. 57. Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Thích Nhất Hạnh và tập đoàn GHPGVNTN vẫn đang tìm mọi cách làm biến tướng một cách có hệ thống các nền tảng giáo lý Phật giáo, vẫn tiếp tục chối bỏ tội ác, không ngừng xuyên tạc bôi xóa một cách đê tiện các chứng tích, dữ kiện liên quan đến các giai đoạn lịch sử cận đại và đương đại Việt Nam, trong đó có cuộc „chiến tranh Việt Nam“. Đặc biệt là các chi tiết liên quan tới tôn giáo, Đạo Phật nói chung và GHPGVN, GHPGVNTN nói riêng, được đảng cộng sản Việt Nam khiển dụng làm công cụ gây tội ác, cũng là bình phong che đậy tội ác, củng cố quyền lực, đều bị đảng cs vn bôi xóa, đổi trắng thay đen, làm thất thoát, cắt xén và xuyên tạc, bất chấp mọi di chứng nguy hại và hậu quả lịch sử cho dân tộc Việt Nam trong đương đại và tương lai. 58. Vì khuôn khổ bài viết nguyên ngữ tiếng Đức, dành cho khối đọc giả phương Tây, nói tiếng Đức, nên trước hết chỉ đơn cử ở đây những ví dụ nhỏ sơ lược liên quan tới tên Thích Như Điển và GHPGVNTN tại Đức. Với một hậu thuẫn đông đảo các giới văn bút trí nô tay sai của đảng cs vn tại Đức, một trong số đó có những tên đã có học vị tiến sỹ, giáo sư, ví dụ như Thái Kim Lan (môn Triết học, trường đại học tổng hợp Ludwig Maximilian Universität „LMU – München“), đã là những nền tảng thuận lợi để Thích Như Điển cùng các „đệ tử“ của y „chế tác“ các „luận án tiến sỹ“. Trong đó, phần „sao y bản chính“ đã trở thành một thông lệ, cũng là cơ hội mà các vị „cử nhân“ tương lai của GHPGVNTN không thể bỏ qua. Đặc biệt là những chi tiết quan trọng về giai đoạn lịch sử cận đại đầy tội ác của GHPGVNTN, cùng sự liên kết „như hai mà một“ của nó với đảng cộng sản vn, đã „được“ các „tiến sỹ“ này chép y chang như những „chủ trương đường lối“ của…đảng csvn „chỉ đạo“ GHPGVNTN từ mấy chục năm qua. 59. Một trong rất nhiều trường hợp được thống kê tường tận, sẽ đơn cử ở đây một trường hợp cụ thể: Tên Thích Hạnh Giới (tục danh Lộc Hồ, sinh ngày 01.01.1971 tại Sài gòn, đệ tử của tên Thích Như Điển) kết thúc chương trình đại học trường Đại học Hannover năm 2003, tại chuyên khoa „Khoa học -xã hội và -tâm linh“, ở bộ môn „Phật học – Triết học“, làm „Luận án tiến sỹ – triết học“ với đề tài: Tạm dịch: “Đạo Phật Việt Nam tại USA – Một nền tảng của đức tin trên quê hương mới“. (USA: „Hiệp chủng quốc“ hoặc „Liên bang quốc gia Mỹ). Trong „luận án“ này: nguyên bản tiếng Đức: („Der vietnamesischeBuddhismus in den USA – Der Stellenwert des Glaubens in derneuen Heimat“), người đọc sẽ thường gặp lại giọng lưỡi xảo trá quen thuộc của những tên cs trá hình Phật giáo GHPGVNTN, y chang các giọng điệu tuyên truyền bôi xóa lịch sử một cách trơ tráo của đảng cs vn đã từng lặp lại từ hàng chục năm nay. Nào là „ Pháp nạn“, nào là „đàn áp tôn giáo bởi chính quyền Ngô Đình Diệm“ v.v. 60. Một ví dụ khác: „Nhà sử học“ hoặc „giáo sư Nguyễn Lang“ (!) là một trong những cái mặt nạ tùy thời của tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo Thích Nhất Hạnh (tức Nguyễn Xuân Bảo). Dù cải trang dưới cái mặt nạ „Nguyễn Lang“ hay trá hình trong lớp áo cà sa Phật giáo, y tha hồ „chế tác“ các „tác phẩm văn học“ và „lịch sử Phật giáo Việt Nam“, bằng cách cho tất cả vào khuôn đúc của các nghị quyết đảng csvn để đúc chế lại, cái nào khó nấu chẩy thì mài dũa, đập vỡ hoặc bẻ cong. „Làm mới Đạo Bụt“, hoặc „dòng tu tiếp hiện“ chỉ là một trong vô số những „xảo thuật tái chế“ đó, tạo cho đảng cộng sản vn có thêm nhiều cơ hội của những vi khuẩn tâm linh bệnh hoạn, đeo đẳng ăn bám Phật giáo, mãi sống còn để đầy đọa rút máu tàn phá cơ thể dân tộc Việt Nam. Vì sức ỳ nội tại đã quá tải, đảng csvn không thể chấp nhận Phật giáo „đi chệch hướng cộng sản xhcn“. Do vậy Thích Nhất Hạnh, đảng csvn, GHPGVNTN cùng những kẻ không thể đoạn tuyệt thứ xảo nghiệp thích trí trá, đã phải thường lăng xăng tranh giành lấy bất cứ cơ hội nào để tuyên xướng, ban phát ân huệ và quảng bá phô trương những khẩu hiệu „hoành tráng và vĩ đại“ có thể cảm động chết người, như „Phật giáo đồng hành cùng dân tộc“, „mái chùa che chở hồn dân tộc“, „Phật giáo là dân tộc“, để lòe bịp nhân dân. Như một thứ bùa chú mê hoặc không thể thiếu của những kẻ cai ngục thuộc giai cấp thống trị giả nhân giả nghĩa nhưng có quyền ăn nói. Hậu quả là qua sự „chế tác“ của đám văn bút trí nô trá hình trong các nhãn hiệu „giáo sư“, „nhà sử học“, „nhà văn hóa“… kiểu Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái…, những giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam đã bị biến thoái nghiêm trọng, tùy theo những định hướng giai đoạn của đảng cs vn. Và nguy hại hơn cả là mục đích của những nỗ lực sửa sai bóp méo lịch sử này chính là: Làm sao để những vệt máu tội ác không gì lau rửa được của đảng csvn, Thích Nhất Hạnh, GHPGVNTN và tay sai được che đậy khỏa lấp đi phần nào. Bức cận ảnh của „Nguyễn Xuân Bảo ở độ tuổi 30, đầu tóc xanh rờn“ đã tự nó đấu tố cái chi tiết „đi tu từ năm 16 tuổi…“ (mười sáu tuổi) trong „tiểu sử lý lịch“ của Thích Nhất Hạnh và cũng khai ra luôn ai là tác giả của „tiểu sử lý lịch“ này. Phần chi tiết xin xem phần 2 sau bài viết này. 61. Cái nhãn hiệu „Thiền sư“ (!) của Thích Nhất Hạnh cũng như vô số những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo khác, xét về những thủ đoạn thực thi chẳng khác gì cách làm của Mao Trạch Đông và đảng cs „Trung quốc“ trong cái gọi là „cách mạng văn hóa“(!) qua bàn tay của đảng cs vn. Ngay từ những năm 1962, khi Thích Nhất Hạnh thay mặt đảng cs vn, trá hình trong lớp áo cà sa „tăng sỹ“ Phật giáo GHPGVNTN đi làm nhiệm vụ „ngoại giao tôn giáo vận“ tại nước ngoài, thì các „đồng chí chuyên trách“ của GHPGVNTN đã chọn ngay cho y một cái tước hiệu „Thiền sư“ vang như chuông, rất „thời thượng“. Loại bỏ ngay từ đầu, và „cách mạng văn hóa“ luôn cách chọn danh xưng khả xứng, cẩn trọng khiêm tốn tối thiểu, ví dụ như „Đại đức“, „chú tiểu“, „Tỳ khưu“, „Sadi“, „Sa môn“ v.v… có vẻ „quê mùa“ dành cho một người „nương náu cửa Phật“ ở độ tuổi của hắn tại Việt Nam vào thời điểm đó. Dùng „danh xưng khả xứng“ chỉ là một phần nhỏ nhưng bất khả phân, những tinh túy của Giới, Luật trong Giáo Pháp của Đức Phật do Chư Tổ sư nhiều đời hằng truyền thừa, đã trở thành truyền thống trân quý dành cho giới tăng ni, tu sỹ Phật giáo, xuất gia hoặc tại gia khắp nơi trên thế giới. Nhưng đảng cs vn và Thích Nhất Hạnh suy luận cách khác: Nếu „tấm áo cà sa không làm nên một tăng sỹ, vậy thêm cái danh hiệu chắc phải thừa đủ“. Thật là cay đắng cho một số đông giới quần chúng ưa chuộng cầu vọng Phật giáo tại phương Tây, đã từng, và vẫn còn nhẹ dạ cho tới tận hôm nay, vẫn chưa thể hiểu „vì nguyên cớ gì, cách đây trên 2500 năm, Đức Phật Thế Tôn đã không mang cái danh hiệu „Thiền sư“ kêu như chuông kia, đi „đăng ký bản quyền“ tại một sở phát minh sáng chế nào đó cho yên chuyện“. Như đã dẫn ở trên, bằng những thủ đoạn thâm nhập, đánh lạc hướng và lèo lái một cách có hệ thống những nguồn tin của giới truyền thông, học thuật… ngay trong lòng thế giới phương Tây, đảng cs vn qua tay Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phần nào từng tạo ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch của một phần không nhỏ khối quần chúng tại Phương Tây về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua. 62. Cũng như cụm từ „Kommunismus“ đã dẫn ở trên, „Đạo Bụt dấn thân“, sau này được „biến thoái“ thành „đạo Bụt nhập thế“ (!). “Engaged Buddhism“ hoặc „Engagierte Buddhismus, xuất phát bởi cụm từ gốc (ở tiếng Đức là „Engagement“ : „Trách nhiệm“, „nhiệt tình“ „dấn thân“, „hành động“…vì một „lý tưởng nào đó“). Cụm từ này đã được giọng lưỡi của Thích Nhất Hạnh và GHPGVNTN khai thác lợi dụng tối đa, từ đầu những năm 1960 cho đến tận ngày hôm nay. Cũng như vô số các „phong trào“ trá hình khác của GHPGVNTN và „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“ vào những năm 1963 và những năm sau đó, cái gọi là „đạo Bụt dấn thân“ do tên Thích Nhất Hạnh tái chế (vào thời điểm này còn là „Đạo Phật dấn thân“) thực sự là một thứ khẩu hiệu tuyên truyền tẩy não lợi hại của đảng cs vn trên „mặt trận ngoại-giao – tôn-giáo“, một trong các „mặt trận“ của đảng cs vn trong cuộc chiến xâm lăng VNCH. Món bả độc này được pha trộn kỹ trong từng xuất cơm chay tươi sắc mầu „Phật giáo“ của các miền „gia đình Phật tử Việt Nam“, dùng làm động cơ để đoàn ngũ hóa, khiển dụng các tầng lớp thanh thiếu niên Phật tử háo hức nhẹ dạ, tập hợp lực lượng trù bị này cho những cuộc xuống đường biểu tình, gây rối phản loạn của những „lực lượng PG tranh thủ cách mạng“, „Phật giáo tranh đấu, bảo vệ Pháp nạn“,“chiến đoàn Phật tử Trần Đại Thức“ v.v., đánh phá chính quyền trung ương VNCH, do những tên cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ… xách động. Theo hoạch định của „bộ chính trị“ đảng cs vn tại Hà nội, để có một lực lượng trù bị dồi dào theo sách lược „biển người“ (do các „cố vấn“ đảng cs Tầu „chỉ đạo“, gọi là „chiến tranh nhân dân“), hậu thuẫn cho „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ trong giai đoạn đó, thì sự cần thiết phải hình thành các hội đoàn, „đảng phái chính trị“ trá hình để có thêm nhiều lá phiếu „hợp pháp“, làm sao che đậy được dã tâm xâm lược của đảng cs vn, có ảnh hưởng càng mạnh càng tốt, để khống chế trực tiếp nghị trường thượng hạ viện Việt Nam Cộng Hòa là một thủ đoạn chước kế không thể thiếu. Nhưng do áp lực căm thù, khát vọng xâm lược dồn nén, „bộ chính trị“ đảng cộng sản vn đành phải tự tay cắt bớt giây thần kinh xấu hổ của chính mình và các đồng chí cs trá hình Phật giáo trước khi đẩy chúng vào „mặt trận“ này. Cho nên sự trơ trẽn bỉ ổi hết còn biết xấu hổ đã trở thành một dị chứng do khuyết tật giải phẫu, không thể và bất cần giấu diếm của đảng cs vn. Khi chúng muốn qua tay GHPGVNTN thể hiện mối „quan tâm Phật Pháp thế quyền“ tại chính trường Việt Nam Cộng Hòa, mà không quên nhấn mạnh „động cơ chính trị“ của một „đảng chính trị Phật giáo“ do chúng giàn dựng đề cử. „Đảng chính trị Phật giáo“ này đã được giàn dựng để ra mắt, đại diện bởi Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh ở bề nổi, và do tên cs trá hình Phật giáo Thích Trí Quang „chỉ đạo“. Cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“ này, tất nhiên, chỉ là xảo kế che đậy dã tâm, nằm trong chương trình xâm lăng của đảng cộng sản Bắc- Việt tại Hà Nội. Sau đây là một trong những bằng chứng cụ thể, nói về thời điểm manh nha hình thành của cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“, một trong nhữngphiên bản đầu tiên của cái gọi là „Đạo Bụt dấn thân“ hành động, vì một lý tưởng…cộng sản trá hình, do Thích Nhất Hạnh là „chế tác giả“ vào những năm 1966 – 1969: Theo nguồn: Nguyên ngữ tiếng Anh: King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York. Thich Ho Giac, Thich Thien Minh und Thich Tri Quang, die KP Agenten im Mönchsgewand, bei der Bekanntmachung der Parteigründung ihrer „Buddhistischen Politischen Partei –Vietnamese Buddhist Force“ * (Trong ành: Hàng trước, từ trái sang) Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh, và Thích Trí Quang, những tên cộng sản trá hình trong lớp áo tăng sỹ Phật giáo trong lễ ra mắt thành lập đảng: „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam – Vietnamese Buddhist Force“. Bởi vậy, xét về thực chất, cũng như tất cả các tôn giáo và truyền thống tâm linh khác tại Việt Nam bị đảng cs vn lợi dụng, „đạo Bụt dấn thân“ chỉ là cái „mặt nạ mới“ của một trong vô số những thủ đoạn cũ được tân trang, hòng làm biến thoái „Đạo Phật“ để tiếp tục khiển dụng. Bất kể được che đậy bằng những mặt nạ tinh vi như thế nào, cũng không thể che giấu được một sự thật là: Chừng nào đảng cs vn còn chưa bị đập tan, thì chừng đó các tôn giáo (ở đây là „Đạo Phật“) tại Việt Nam, hay những đại diện trá hình của nó tại nước ngoài, còn là một thứ công cụ ngụy trang hữu hiệu, che chắn bảo vệ quyền lực của đảng cộng sản vn. „Đạo“ có thể „làm“, có thể „chỉ“ chẳng phải „Đạo“ chân thật! Vậy „đạo Bụt“ („của tên Thích Nhất Hạnh“) là một thứ không những có thể „làm“, mà hơn thế, hắn và đảng cs vn cứ thả sức tùy tiện „làm mới“ được, là cái gì ? Vậy nên những cái dù „được“ hay „bị làm mới“ kia, rõ ràng là một thứ „đạo đức cách mạng“ trá hình của đảng cộng sản vn! Vì đảng cs vn hiện nay vẫn đang từng ngày cưỡng bức „chỉ đạo“ toàn dân chui vào cũi „mặt trận tổ quốc“, trong đó có GHPGVN trong nước, và, qua „viện hóa đạo“ của GHPGVNTN trá hình tại hải ngoại. Vì thế, đảng csvn „chỉ đạo“ „viện hóa đạo“ GHPGVNTN bao nhiêu, càng chất chứa thêm nhiều tội ác bấy nhiêu. Trá hình tà đạo tội ác đã không thể rửa. Trá hình Phật giáo để gây tội ác thì dù vô lượng kiếp, trời, đất, thiên, nhân bất khả dung. 63. Vì cưỡng lệnh đảng, tên Thích Thiện Minh đã bị các đồng chí của đảng cs trừng phạt loại bỏ, bị tra tấn đến chết trong tù năm 1978. Thích Hộ Giác và Thích Nhất Hạnh vẫn ngoan cố đeo đuổi sự nghiệp Việt gian của đảng cộng sản Việt Nam, là tiếp tục giăng bẫy phát triển „đường lối chính trị“ của „đảng chính trị Phật giáo“ này tại phương Tây. Cùng với người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, Thích Nhất Hạnh đã trở thành giới „lãnh đạo“ của đảng này tại phương Tây, nhưng dưới cái tên trá hình trái khoáy, khiên cưỡng: „Đạo Bụt nhập thế “. Nhưng với thế giới Phương Tây tự do thì bất kỳ thứ gì, một cơ hội để trở thành „hợp thời“, kể cả những món bả độc cộng sản mầu mè trá hình Phật giáo trên đây, cũng chỉ là vấn đề thời gian. Những toan tính thủ đoạn của đảng cộng sản vn không hề dừng lại; „Đạo Bụt nhập thế“ sẽ rất „thức thời“, và hợp với thế giới phương Tây tự do, hiện đại“. Nên đảng csvn vẫn có thể đỡ lưng Thích Nhất Hạnh tiếp tục lừa đảo rao bán Phật giáo, và đám quần chúng Phương Tây cầu vọng Phật giáo nhiệt thành nhưng mê muội kia, sẽ chẳng có thể biết được một thứ gì khác, chừng nào họ còn chưa biết, hoặc không muốn biết sự thật, khác với những gì họ bị tẩy não về cuộc chiến tranh tại Việt Nam vừa qua. Trước hết cứ bị lừa vào tròng đã, còn lại bất cần là lý luận của những kẻ hết còn biết gì là trơ trẽn nói trên. Chỉ có đảng cs vn tin rằng các vệt máu tội ác tanh bẩn đã được lau chùi sạch sẽ. Hiện nay Thích Hộ Giác vẫn thường diện thử chiếc mũ „tăng thống“ cho GHPGVNTN tại Mỹ, và Thích Nhất Hạnh lừa lái „đạo Bụt nhập thế“ của đảng csvn trồi lên thụt xuống, theo sát những dòng thời sự tại phương Tây, như „đạo Bụt và ý thức môi sinh“ hoặc „đạo Bụt và ý thức trách nhiệm chính trị“. 64. Theo nghĩa này, một „cơ hội“ đặc biệt „hợp thời“ cho Thích Nhất Hạnh cũng đã đến, khiến y không thể không lợi dụng để thi thố công khai nơi công cộng cái „ý thức, trách nhiệm chính trị“ đểu giả có một không hai của đảng cs vn qua cách thể hiện trơ trẽn khả ố của „đạo Bụt nhập thế“, là thừa dịp vụ tấn công của "quân khủng bố" vào hai tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới ngày 11. 09. 2011 tại New York, USA. Nhân một thời nói chuyện trong một Thánh đường tại New York, hắn nêu ra một „sự kiện“ khác, cố tình gán ghép „sự kiện“ đó với cuộc tấn công "khủng bố "đặc biệt nghiêm trọng này. Đó là con số „300.000 (ba trăm nghìn) nạn nhân Việt Nam“ của một thị xã, nay là thành phố Bến Tre, „bị bom Mỹ sát hại“ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trích dẫn nguyên văn: …"I wrote this poem during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300.000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound". Trích dịch, theo nguồn “Google”: “… Tôi đã viết bài thơ này trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam sau khi được nghe thành phố Bến Tre bị bỏ bom hủy diệt. Thành phố 300,000 ngàn dân đã bị hủy diệt chỉ vì bẩy du kích bắn năm ba tràng đạn phòng không một cách không hiệu quả rồi bỏ đi. Lòng đau đớn của tôi thật tột cùng.“ Trong tháng 11. 2001 này, Thích Nhất Hạnh đầu tư hàng chục nghìn Dollar (45.000 Dollar) dành để đăng tải hai kỳ quảng cáo cho một thời diễn giảng của hắn vào tối 25. 09. 2001, tại Thánh đường Riverside, trên tờ Thời báo nổi tiếng là tờ „New York Times“, trong đó có đăng đoạn trích dẫn nói trên. Vì chắc mẩm rằng cái giọng lưỡi rắn độc nói tiếng Anh bồi của hắn chỉ để dành cho những cái tai của người Anh, Mỹ và phương Tây nghe được, còn những người đang ở Việt Nam, một cái ngục tù không tường vách, đã bị đảng cộng sản vn “bịt tai rút lưỡi”, tẩy não sạch trơn rồi, thì làm sao mà nghe cho thấu những gì ở bên ngoài, nghe rồi, lấy gì mà hiểu mà nói cho được. Những người Tây phương kia ai biết được Bến Tre ở đâu? Ai hỏi lại làm gì? Nếu có thì y đã có thừa những thủ đoạn „á khẩu“ rành nghề lâu năm để đối phó. Dân số thị xã thành phố Bến Tre hôm nay (năm 2012) chưa vượt quá 143.639 người. Và tất cả người Việt Nam biết rằng cái „sự kiện“ nêu trên, do tên Thích Nhất Hạnh xúc xiểm tuyên truyền, hoàn toàn là một thứ bịa đặt trắng trợn. Ngoại trừ tập đoàn văn bút trí nô tay sai của đảng cộng sản vn và GHPGVNTN vẫn ngoan cố tìm cách bào chữa chạy tội cho tên Việt gian cộng sản Thích Nhất Hạnh trá hinh Phật giáo này. Cái lưỡi rắn nước đôi của Thích Nhất Hạnh, nhìn cách nào cũng không thể che giấu, chính là của con rắn độc đảng cộng sản vn, với nó, đồng bào Việt Nam trong nước và khắp nơi trên thế giới đã có thật nhiều kinh nghiệm cay đắng và đau thương. Cho nên, âm hưởng của người dân New York trong giờ phút kinh hoàng vì mất mát tổn thất sau vụ "khủng bố", đối lại những lời xúc xiểm đâm thọc và bịa đặt của Thích Nhất Hạnh thật rõ ràng: „Thích Nhất Hạnh, hãy cút đi! „ („Thich Nhat Hanh Go Home !“). 65. Có một thực tại trâng tráo nhưng là sự thật, đó là Phật giáo nói chung, và đặc biệt là Thiền nói riêng đã từ lâu, chỉ được đảng cộng sản vn, GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh coi như một thứ gì đó để lợi dụng, bất kể gọi nó là thứ gì. Nhưng Thiền càng ngày được coi là một thứ „thương phẩm tâm linh“ chiến lược béo bở, lợi hại, và giờ đây nhất thiết phải được „làm mới“, quảng bá rao bán theo những phương thức quản trị kinh doanh kinh tế thị trường hiện đại, tinh vi hơn, lại là một điều hoàn dễ hiểu và không có gì lạ. Vì điều này (lợi dụng Phật giáo tinh vi hơn) cũng vừa vặn nằm trong những nghị quyết, những thủ đoạn chiến lược bẩn thỉu của đảng cộng sản Việt Nam, gọi là „đảng đổi mới“ ( nói gọn là „Đổi mới“). Vi sau khi „Liên bang xô-viết“ sụp đổ, để duy trì quyền lực độc tài, đảng cs vn phải „đổi mới“,“ đổi mới“ để tiếp tục cai trị. 66. Nhưng, cái gọi là „đảng cộng sản Việt Nam“ đã từng có biết bao nhiêu lần „đổi mới“? Mỗi lần biến tướng, thay mặt nạ, chỉ để „đổi mới“ cái bản mặt, còn bản chất Việt gian cố cựu thì bất khả thay đổi. Nên đảng cs vn đều có dự trữ sẵn những cái roi để „tự trừng phạt“, luôn cả dàn ca kịch „tự tố khổ“, „vạch sai lầm“, „sám hối“ để „sửa sai“ rất khả ố, giờ đây còn thêm màn xì xụp „lên đồng rước đám“ lưu manh, mịt mù khói hương, càng thêm buồn nônngẹn thở. Mỗi lần đảng csvn „đổi mới“ các „chùa tự“ do đảng cs vn „đầu tư gửi gắm“, tạo dựng kiến thiết càng mọc thêm nhiều hơn, thêm cao hơn và thêm tầm „vĩ đại“ hơn. Nhưng người dân Việt Nam bị trị thực sự càng trở nên nghèo hơn, vì các thùng „Ai bảo cúng dường“(?) này, cũng phải tương xứng nhân lên nhiều hơn, to hơn, đầy hơn và tất nhiên kiên cố hơn. Tại những nơi mịt mù hương khói đó chưa bao bao giờ là những thùng „Tam Bảo Cúng Dường“, vì trên thực tế nó là những cái két bạc có khóa („Tresoren“), kẻ giữ chìa khóa là đảng cộng sản vn, nên việc những két bạc đó phải thuê thêm người canh gác, thật không có gì là khó hiểu. Đơn cử hai ví dụ: Một, là „Chùa Bái Đính“ mới hoàn thành tại Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam, về thực chất, chỉ là một bản sao của sự tham vọng, được thể hiện qua phong cách kiến trúc kiểu… Tầu. Đảng cộng sản vn hiện tại là kẻ „chủ đầu tư“ và „sở hữu“ nó, một khi đã học được cách „quản lý tôn giáo“ không thể chỉ dừng lại ở „khống chế“ mà phải „đầu tư tôn giáo“ để thủ lợi theo kiểu đảng cộng sản Tầu, dù „chậm lụt“, nhưng lòng tham lại vượt trội, tất nhiên cũng muốn đồng tiền đã cướp bóc được của nhân dân từ nhiều thập niên qua, bỗng chốc được nhân lên ấp bội. Cho nên ngôi „chùa“ này thực sự đã „vĩ đại“ hơn nhiều những ngôi xếp vào hàng „Đại tự“, trong „Tử Cấm Thành“, tại Bắc Kinh. Hai, là „chùa Hồ“, một trong vô số những chứng tích tội ác của đảng cộng sản vn qua những thủ đoạn „thần thánh hóa“ tên đại Việt gian Hồ Chí Minh. „Chùa Hồ“ tại tỉnh Bình Dương, miền Nam Việt Nam đã phá vỡ nhiều „cơn sốt kỷ lục Phật giáo“. „Thượng tọa“ ở hàng trước, trên bệ thờ của „chùa“ là bức tượng quá cỡ của Hồ ngồi ghế mây, tất cả đều mạ vàng ròng 24 Karat. Khách hành hương muốn tỏ lòng kính ngưỡng lễ lậy Đức Phật và các vị Thần, Anh hùng Dân tộc, ngồi ở hàng sau, xin cứ tự nhiên! Lòng thành kính qua sự lễ lậy của những người dân đã bị tẩy não này trước hết, đã được đảng cộng sản vn lợi dụng dành cho hình tượng tên „bố già“ xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh và đám hậu sinh không thể từ bỏ được thói ăn trên ngồi trước kia, còn xác Hồ thì đang phải cười nham hiểm, loại nụ cười của những cái xác chết khô không được chôn cất, tại một nơi khác, nằm về phía Bắc Hà Nội. Vì trong „lăng Hồ“ tại Ba Đình, xác hắn đã được thay thế từ lâu bởi một hình nộm bằng sáp. Phần nội thất của „Chùa Hồ“ được xây dựng đa phần bằng vật liệu quý hiếm, được bảo quản bằng máy điều hòa nhiệt độ và canh gác cẩn mật không kém cái „lăng Hồ“ nói trên tại Hà Nội. Những khách hành hương muốn giải trí và tiêu cho hết tiền sau khi lễ lậy Hồ thỏa thuê, còn muốn đi, để chiêm ngưỡng cho hết quần thể „chùa Hồ“, có loại hình „kiến trúc Disney Land“, thuộc loại kiến trúc ăn xổi ở thì của trào lưu „kiến trúc giả tạo“, nằm trong quần thể du lịch „Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến“, họ chỉ có thể dùng xe chạy điện do các công ty của đảng bao thầu, đang nhẫn nại mỉm cười, lừa lái đưa đón khách. Cứ mỗi lần đảng cộng sản vn „đổi mới“, là con số những người bị bắt giam, cầm tù, quản chế vì thực sự lên tiếng vạch mặt tố cáo đảng cộng sản vn là một lũ Việt gian, lại tăng lên nhiều hơn. Cái thòng lọng tròng lên cổ đồng bào Việt Nam đang bị cai trị sẽ thắt chặt hơn, để quyền lực thống trị và cai trị của đảng cs vn bớt bị lung lay hơn. Ho ist überall KP-Vorsitzender, auch in der „Ho Pagode“ in Binh Duong, Vietnam. Mit hochkarätigem Gold überzogen, sitzt seine Statue vor der Buddha Statue. Daneben ist die KP Flagge gehisst. * Là chủ tịch muôn năm của đảng cộng sản vn, ăn trên ngồi trước đã là một cái đặc quyền của Hồ, cho nên, trong „chùa Hồ“tại Bình Dương, Việt Nam, đảng vẫn dành cho hắn cái đặc quyền ăn trên ngồi trước cả dân tộc và hơn thế nữa. Bức tượng mạ vàng ròng 24 Karat của hắn „thượng tọa“ trước tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bên cạnh lá cờ đỏ máu của đảng cộng sản vn. 67. Theo như đã dẫn ở trên, một trong những câu để đời của tên tổ „cộng sản“ Karl Marx, được coi như những „nghị quyết“ của đảng cộng sản vn: „Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân“ (nguyên ngữ trong tiếng Đức :“Religion ist das Opium des Volkes“), và đã từng bị bài trừ loại bỏ. Nhưng thuốc phiện là một thứ thảo dược đặc biệt quý hiếm, nên trong hiện tại, theo những thủ đoạn „đổi mới“ kiểu „biến tướng“ có tên „nghị quyết này nọ“ nói trên, thứ „thuốc phiện tôn giáo“ này lại được đảng cs vn „gieo trồng“ một khối lượng lớn hơn bao giờ hết (bằng thủ đoạn „tôn giáo, lễ, hội“ triền miên, lòe loẹt, tốn kém và lố bịch). Qua bàn tay của GHPGVN, GHPGVNTN cùng Thích Nhất Hạnh và tay sai, là những tên cộng sản trá hình Phật giáo, một lũ con buôn hiện đại, dùng „thuốc phiện tôn giáo“ đầu độc nhân dân, nguồn thu lợi tức của đảng cộng sản vn từ thứ „thuốc phiện là tôn giáo của nhân dân“ này, càng ngày càng lớn hơn bao giờ hết. Thử hỏi rằng, liệu nhân dân Việt Nam đã bị „say thuốc quá liều“ cho đến có thể bị „ngộ độc“ bởi thứ „thần chết đỏ“ nói trên hay không, thì cũng nên hỏi, ở đâu và có bao giờ, những kẻ buôn bán thuốc phiện lại quan tâm đến chuyện đó. Vì một trong những cái đích đã được nhắm tới của sự mê hoặc dân chúng bằng „tôn giáo đỏ“ theo nghĩa này, chính là: Làm sao để tất cả các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trẻ, có tri thức, bị đánh lạc hướng, sẽ trở nên nông cạn, mê muội, đồi trụy, bạc nhược, sợ hãi, cầu an…, mất sức đề kháng, dẫn đến vong bản, thui trột ý thức dân tộc, quên đi nỗi nhục mất nước…. Để rồi phải chấp nhận tất cả những gì là tội ác của đảng cộng sản vn: Đã và đang làm Việt gian, cai trị dân tộc trong ngôi vị chư hầu thái thú dài hạn cho đảng cs Tầu, đồng hóa bán đứng tổ quốc, dân tộc Việt Nam cho Tầu Hán phương Bắc… Tất cả những gì thuộc về ý chí, tri thức, lòng yêu nước, và sức mạnh phản kháng của đồng bào Việt Nam… chỉ để bị đảng cs vn lợi dụng cướp trắng, hoặc hướng vào hết những „trận địa giả“ này, đến những „lễ hội tôn giáo mê hồn“ khác. Chỉ nhắc lại những luận điệu do đảng cs cò mồi, tẩy não, không thể nhận ra cái đại họa to lớn nhất của dân tộc trước mắt, chính là: Đảng cộng sản Việt Nam đã là một tập đoàn Việt-gian từ trong trứng nước và trong hiện tại! Chúng chính là kẻ nội thù số một và là kẻ thù trước mắt của dân tộc Việt Nam! Chúng đang từng ngày đàn áp nhân dân, để có thể bán hết đất nước, tài nguyên, lãnh thổ cho Tầu Hán và các thế lực tài phiệt quốc tế, giúp đảng cs Tầu đồng hóa dân tộc Việt Nam, xáp nhập Việt nam vào nước Tầu đại Hán „Trung cộng“. Chúng chính là kẻ Việt gian nội thù đại phản tặc, đáng phải bị trừng trị đập tan ngay trước nhất ! Nhưng tất cả những gì nêu ở đây, chỉ là một phần nhỏ của cái gọi là „tự do tôn giáo“ dưới ách cai trị của đảng cộng sản tại đất nước Việt Nam hôm nay. 68. Một trong những „nền tảng hạ tầng cơ sở“ của đảng cộng sản vn tại nước ngoài, dành làm môi trường ẩn náu cho các hoạt động của đám cán bộ cộng sản trong và ngoài GHPGVNTN hiện tại, phần nhiều, chính là do sự hình thành và phát triển của những „chi hội Phật tử Việt Nam tỵ nạn“ sau ngày 30.Tháng Tư. 1975 tại các nước có người Việt Nam xin tỵ nạn. Phần lớn những chi hội Phật tử này, đều có những „gia đình Phật tử“ kèm theo. Ngay từ những ngày thành lập, đã có sự trà trộn lèo lái của đám cán bộ cộng sản nằm vùng, và những tên tay sai Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, sau này còn có thêm „Việt Tân“ trá hình. Những „hạ tầng cơ sở“ này („Chùa, tự“, „niệm Phật đường“) đã được GHPGVNTN qua những vệ tinh của nó là các „Gia đình Phật Tử Việt Nam“ xây dựng, bài thiết một cách khang trang. Để sau đó mở cửa cho hàng loạt những tên cộng sản trá hình Phật giáo khác từ trong nước sang dần dần thay thế chiếm giữ. Từ trên „bàn thờ Phật“, chúng cố giữ vẻ thâm trầm giả tạo, kìm giữ những nụ cười nhạt hơn nước cất, mục kích các tầng lớp „Phật Tử“ phủ phục, quỳ lậy lễ bái chúng sát đất. Sự cung kính của các Phật tử thuần thành nhẹ dạ này thật không thua kém sự cung kính ngưỡng mộ vừa nêu trên, của những người đi hành hương „chùa Hồ“, dành cho vị „thượng tọa trụ trì“ của nó. Nhưng, tất cả những gì lũ cộng sản trá hình này, từ dáng vẻ hình thức, theo thành ngữ tiếng Đức gọi là “aalglatt“, tức là đầu mắt đều tương tựa „trơn như lươn… đỏ“ này, còn thực sự quan tâm đến, lại chính là sự đầy vơi của những cái thùng „Cúng dường Tam Bảo“ vào lúc cuối ngày. Tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“,hoặc „Tam Bảo Điền“, „Tam Bảo Nô“ là những thực trạng lịch sử không thể không nhắc đến trong dòng sử Việt. Nhưng, tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“ trá hình này thực sự đang ngày càng gia tăng một cách chóng mặt hơn trong chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại Việt Nam hôm nay. Hoặc những người Việt Nam trong nước đã bị tẩy não, hoặc những người tỵ nạn „nhẹ dạ chóng quên“ có tên „Phật tử thuần thành“ trên đây tại nước ngoài, thực sự đang là những con mồi béo bở cho những thủ đoạn tuyên truyền tẩy não, khống chế nhân dân làm nô lệ, qua chiêu bài „tôn giáo“ của đảng cộng sản Việt Nam. Tại Việt Nam trong quá khứ, những lớp người này được gọi là „Tam Bảo Nô“, trong hiện tại chỉ thêm hai chữ „hiện đại“. Theo dòng người tỵ nạn, trong những cái gọi là „Gia đình Phật tử“ và vô số các tổ chức vệ tinh tay sai của GHPGVNTN nói trên, chưa thấy phần đông những số người này có ý định muốn „từ bỏ giai cấp“ nô lệ nói trên. Vì không thể biết rằng, đảng cộng sản vn đã dầy công mang cái dịch vụ béo bở „xin được làm Tam Bảo Nô“ đó đến tận nơi nước sở tại, là nơi họ đang xin „tỵ nạn Việt gian cộng sản“. Để rồi, cũng đảng cộng sản Việt Nam, qua tay GHPGVNTN, Việt Tân và Thích Nhất Hạnh đã dùng chính công sức của những người tỵ nạn, dựng nên những ngôi „Chùa“ cho những đồng chí của đảng „trụ trì“, quảng bá khuyến khích người tỵ nạn đến „lậy lục xin xỏ“ và cứ „tùy tâm“ nộp „lệ phí“ cho cái „dịch vụ“ nêu trên qua hình thức „cúng dường tam bảo“. Thật đắt và cay đắng, cái giá của sự nô lệ tâm thức. Một trong những gợi ý nhỏ dưới đây có thể là một ví dụ góp phần nào soi sáng mối quan hệ „nhân quả nghiệp báo“ của „hiện tượng nô lệ Tam Bảo“ nói trên. Ví dụ này có hai vế, nay chỉ nói một, đại ý như sau: „Tường ngục xây bằng đá, giam mãi cũng có ngày ra. Tường ngục xây bằng tâm thức thì bất khả“. Nói gần hơn: Một người tâm thức còn ở trong ngục, dù nói hay làm, vẫn thường tự trói mình, dù bản thân họ, từ lâu đã sống dưới trời tự do. „Tam Bảo Nô“ còn gọi là „Ba lần Nô lệ“. (Phần chi tiết, xin xem phần 2, nguyên ngữ tiếng Đức, sau bài viết này). 69. Nhưng, các hội đoàn chân rết đủ loại, từ xã hội, văn hóa, từ thiện, đến tôn giáo…trá hình của đảng Việt gian cộng sản trong tay GHPGVNTN tại những quốc gia chủ nhà tại Tây phương, còn có thêm một vai trò quan trọng và nguy hiểm hơn nhiều. Được sự điều khiển trực tiếp bởi đảng Việt gian cộng sản và cả đảng cộng sản… Tầu. Thông qua các chi bộ đảng, là cánh tay tội ác nối dài của chúng cài cắm tại hải ngoại, nhân sự, danh xưng và tiềm năng của các tổ chức hội đoàn nói trên đã được đảng cs khiển dụng và lợi dụng như những phương tiện ngụy trang hữu hiệu, để thâm nhập vào các tổ chức, hội đoàn, cơ quan công quyền nhà nước và chính phủ của các nước phương Tây sở tại. Tất cả những sự thâm nhập này được lợi dụng làm bình phong ngụy trang mục đích, những mục đích ẩn náu đằng sau tất cả các mục đích khác, đó là sự „quan tâm tò mò“ của giới tình báo công nghiệp/kinh tế và quân sự của đảng cộng sản… Tầu. Để các hoạt động của đảng cộng sản Tầu, là kẻ giấu mặt, giật dây khống chế đảng Việt gian cs, không bị lộ tẩy hoặc thiệt hại, lũ cán bộ tay sai đảng cs vn đã bị đảng cs Tầu khiển dụng đẩy ra làm vật thí, trong vai trò tay sai, khi dùng các cơ sở hội đoàn người Việt đi „tiền thám“ thăm dò hộ chúng. Mặc dù là hai „đảng cộng sản anh em“ (Hán-gian, Việt-gian), nhưng lũ Việt–gian cs chỉ được học cách quỳ lậy và cầm dao đằng lưỡi. Dù có thế nào, vẫn như hai tên cướp, mỗi tên bị xích một tay bởi luật rừng của hai đảng cộng sản, nên vẫn cho phép chúng hoạt động „tay trong tay“. (Ở đây sẽ không đi vào chi tiết). Ein Bild – ersetzt tausend Worte: Die Schießübung und der Umgang mit den modernsten Tötungswaffen gehört zur „buddhistischen Ausbildung“ der Kommunistischen Kader im Mönchsgewand, übernommen durch die Armee der Kommunistischen Partei. * Một bức ảnh thay thế nghìn lời nói: Học bắn giết và xử dụng thành thạo các loại vũ khí sát thương hiện đại là „bài học căn bản“ trong chương trình „đào tạo chuyên tu Phật Giáo“ của các tên cộng sản trá hình giả danh Phật giáo này. Bài học „thực hành tác xạ“ được hướng dẫn bởi những tên sỹ quan ngụy quân đảng cộng sản đảm nhiệm. ( Trong ảnh: trên trường bắn của một học viện quân sự Tầu) 70. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của đám an ninh Việt gian cộng sản đang hoạt động trá hình tại hải ngoại (ví dụ như đảng „Việt Tân“), là cộng tác chặt chẽ với những tên Việt gian cs trá hình như Thích Nhất Hạnh và GHPGVNTN, dùng tất cả mọi phương tiện để tập hợp đoàn ngũ hóa đại khối người Việt Nam tại hải ngoại về một mối để khống chế và lợi dụng. Để thực thi thủ đoạn này, đảng Việt gian cộng sản đã cho ra nhiều „nghị quyết“, trong đó có „nghị quyết 36“. Nội dung của nó, cũng như tất cả những „văn kiện, nghị quyết„ do „bộ chính trị“ đảng Việt gian cộng sản đã từng đưa ra, là những bằng chứng tội ác cụ thể nhất của đảng Việt gian cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, và tự nó xác nhận những tội ác này đã được che đậy trâng tráo bằng những từ ngữ lừa dối xảo trá tinh vi như thế nào. Những tội ác tầy trời này, nếu liệt kê ra sẽ dài ít nhất là bằng chiều dài sự tồn tại của đảng cs vn, nhưng, những hệ lụy hậu quả tàn phá của nó gây ra thì trong muôn thế hệ mai sau cũng không gì có thể tẩy rửa cho được. 71. Đặc biệt là tại Mỹ, nơi có một số đông người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản cư ngụ, những tên cộng sản trá hình Phật giáo trong và ngoài GHPGVNTN đều biết rằng: Thật là một cơ hội có tính quyết định, nếu tất cả những „Phật tử thuần thành“ mê muội nhẹ dạ kia, được gom hết về một mối để chúng „chỉ đạo“, thì những „nghị quyết“ của đảng Việt gian cs cũng sẽ có một „cơ hội“ nào đó được thực hiện. Vì theo những toan tính thủ đoạn của đảng Việt gian cs được thể hiện ra cái „nghị quyết“ có đủ 36 mưu ma chước quỷ kia, thì bản thân con số những người kể trên thực sự đã là một khối „cử tri“ có khối lượng đầu phiếu đáng kể. Và trên chính trường dân chủ của Mỹ, đối với những vị dân biểu địa phương khi bắt đầu bước vào con đường „chính trị thực tiễn“ thì mỗi mỗi lá phiếu bầu, bất kể từ đâu đến, đều là những „cơ hội“ có sức hấp dẫn không thể bỏ qua. Những vị dân biểu địa phương, là công dân và có quốc tịch Mỹ (đa phần gốc Á Châu) được sự mồi chài giàn dựng của giới điệp báo Việt gian cs nằm vùng tại địa phương, hoặc hoạt động trên bề nổi, có an ninh Việt gian cộng sản trá hình đảng „Việt Tân“ hứa hẹn, sẽ được sự ủng hộ bởi một số lượng (không có thực) của những đông đảo cử tri Phật tử do GHPGVNTN „chỉ đạo“, nên họ có thể yên tâm ra ứng cử tại các đơn vị bầu cử chính quyền địa phương Tiểu bang. Sau đó, dù họ có thành đạt hay không, để có thể „tái tranh cử“, sẽ là những màn kịch „đi lại“ với lũ Việt gian cs trá hình Phật giáo trong những vai trò „cao tăng“ hoặc „tăng thống“ của GHPGVNTN. Có những tên „dân biểu“ trá hình, là tay sai của Việt gian cộng sản đã bị lật tẩy, còn muốn lập hẳn một tuyến hàng không quốc tế từ Mỹ tới Việt Nam, để „đàm đạo“ trực tiếp với… đảng Việt gian cộng sản. Hoặc đảng Việt gian cộng sản có thể qua đó trực tiếp thông qua luật pháp Mỹ để „nhuộm đỏ“ cộng đồng người Việt Nam ty nạn tại hải ngoại. Bằng cách này, đại khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại hải ngoại, ít nhất là tại Mỹ cũng sẽ giống như ở Việt Nam quốc nội, bị đảng cs chặn họng bóp cổ mà chết. Hàng loạt những sự móc nối câu kết giữa những tên Việt gian cộng sản trá hình và các vị tân dân biểu, nghị viên trong các cấp chính quyền địa phương tiểu bang và liên bang, tiêu biểu là tại Mỹ đều đã bị đồng bào Việt Nam tại hải ngoại tố giác và lật tẩy, cho thấy, những „nghị quyết“ trên từ xưa đến nay, chỉ là một trong vô số những thủ đoạn tội ác của đảng Việt gian cộng sản. Và cũng ở đây, sự „ăn hại đái nát“ đã là một khuyết tật bất khả chữa trị của những tay cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN tại hải ngoại. Thích Chánh Lạc tức (Lê Kim cương) bị Tòa án Mỹ phạt bồi thường 4.8 triệu Dollar về tội vu khống và lạm dụng tình dục trẻ thành niên 72. Những „hoạt động tôn giáo nổi bật“ tại các cơ sở của GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh tại hải ngoại, ví dụ như „Làng Mai“ tại Pháp, hoặc „chùa Điều Ngự“ của tên Thích Chánh Lạc, Thích Viên Lý tại Mỹ, hoặc „Viên Giác“, Phật Huệ“ .v.v. của tên Thích Như Điển, Thích Từ Trí, Thích Thiện Sơn… tại Đức, đã tập trung „chuyên tu hóa“ vào những lĩnh vực „dịch vụ xã hội“. Để có thể kiếm được thật nhiều và rửa được thật nhiều tiền cho đảng Việt gian cộng sản, tất cả các cơ sở nêu trên đều đã tập trung mọi nhân lực tiềm năng và thời gian cho „nghề làm từ thiện“. Để có thể móc thêm được nhiều tiền hơn nữa một cách „kín đáo“ từ hầu bao của người phương Tây hảo tâm nhẹ dạ, chúng đã không chừa một kế sách nào. Một trong những thủ đoạn quen thuộc mà kẻ hung thủ là đảng Việt gian cs thường khai thác tối đa, là đem các nạn nhân của nó: các trẻ em nghèo thương tật ra trình diễn sự thảm thương khốn khó, và lập lờ thêm vào sau danh từ „nạn nhân“ hai chữ „chiến tranh“ để đánh động lòng trắc ẩn. Theo những dữ liệu thống kê sơ bộ đặc biệt khiêm tốn vào năm 2010, thì mỗi năm người Việt Nam hải ngoại đã gửi về Việt Nam một số ngân khoản trên 2 tỷ Dollar. Đối với đảng Việt gian cộng sản và bộ máy nhà nước ngụy quyền bù nhìn, thì số ngân khoản trên thật như những quả sung rụng bằng vàng, vừa đủ để giữ cho nó khỏi bị chết chìm. 73. Cái gọi là “Phòng thông tin Phật giáoquốc tế“ „IBIB-InternationalBuddhist Information Bureau“ với trụ sở tại Paris là đại diện chính thức của cái gọi là „Văn phòng 2 – Viện hóa đạo GHPGVNTN“ tại nước ngoài. Chỉ một chi tiết thật nhỏ sau đây đã thừa đủ cho thấy đám tay sai của đảng cs vn là GHPGVNTN tại Đức, từ trên xuống dưới đã tự đấu tố vạch mặt cái „lý lịch“ Việt gian cs của nhau khi „dịch“ chữ „Viện Hóa Đạo“ sang tiếng Đức (trích dẫn nguyên văn) là „Propaganda Institut“. Hai cơ sở „Lá bối“ và Quê Mẹ“ là một trong những nơi phát tán, thông tin độc hại của Thích Nhất Hạnh và người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, cùng hai tên Võ Văn Ái và Penelope Faulkner. Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái không phải là một cái tên mới lạ. Hắn và Walter Fabian, một tên cộng sản Đông-Đức cũ, cả hai là những tên đầu xỏ, thường tổ chức những cuộc biểu tình phá rối ủng hộ cộng sản với những khẩu hiệu xách động trá hình „chống chiến tranh Việt Nam„ và đã từng bị cảnh sát Tây-Đức bắt giữ vào đêm ngày 8 rạng ngày 09.05.1967 tại Munich-Bavaria (München-Bayern). 74. Đeo đuổi sự nghiệp Việt gian bán nước phản dân tộc của đảng cộng sản vn, tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái vẫn sát cánh cùng lũ Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ, Thích Chánh Lạc…, GHPGVNTN và „Việt Tân“, tiếp tục cuộc „đấu tranh trường kỳ“ của đảng cộng sản vn nhắm vào khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền VGCS tại hải ngoại. Nấp sau những khẩu hiệu „đấu tranh“ trá hình, trước sau như một đầy tội ác mà như hắn đã từng gây ra từ đầu những năm 1960 đến nay, nhưng giờ đây thay vào đó là những „trận địa giả“ cùng những cái bánh vẽ cò mồi „Tự do, dân chủ, và nhân quyền cho Việt Nam“. Từ năm 2004 đến 2009 Võ Văn Ái đã nhận được một số tiền 548.000 Dollar, tài trợ cho những hoạt động phá hoại của hắn từ một tổ chức trá hình có tên: NED („The National Endowment for Democracy“). 75. Một trong những địa điểm chính, thường là nơi xuất phát các hoạt động đánh phá cộng đồng người Việt Nam ty nạn của hai tên Việt gian tay sai Võ Văn Ái và Pelelope Faulkner hiện nay là „ chùa Điều Ngự“ tại California – 92683, USA. Từ đây chúng dùng „văn phòng 2 viện hóa đạo – GHPGVNTN“ làm phương tiện phun nọc độc tuyên truyền cho đảng cộng sản vn, tô vẽ tên tuổi, đánh bóng xóa tội ác cho những tên Việt gian cộng sản trá hình „tăng thống Phật giáo“. Thích Quảng Độ hoặc Thích Nhất Hạnh thường là những tên được tập đoàn văn bút trí nô, tay sai Việt gian cộng sản tâng bốc, để mồi chài đánh lừa dư luận „đề cử“ những tên tội đồ này ra làm ứng viên „giải thưởng Nobel Hòa bình“. Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái thường rêu rao lợi dụng vai trò „phát ngôn nhân“ „đại diện cho GHPGVNTN trong nước và hải ngoại“ để lừa lái dư luận tại phương Tây, hòng „hợp thức hóa“ tư cách trá hình „tỵ nạn“ cho hàng loạt lũ cán bộ do đảng Việt gian cộng sản từ Việt Nam gửi qua cài cắm, trong những vỏ bọc „nhà sư Phật giáo tỵ nạn“ đểu, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội…trá hình. Nấp sau chiêu bài „tôn giáo“ và những cái „bẫy trận địa giả“ do đảng Việt gian cộng sản giàn dựng, Võ Văn Ái cũng như Thích Nhất Hạnh, gài bẫy, bòn rút tiền bạc, lòng tin của những người Việt Nam tỵ nạn mắc chứng „hay quên“, cùng người phương Tây hảo tâm „nhẹ dạ“, gửi về nuôi đảng Việt gian cs tại Việt Nam, qua những tổ chức „từ thiện xã hội“ trá hình. (Một trong số đó, ví dụ như „Maitreya Fond“.v.v.). 76. Tất cả những cái gọi là phong trào „đấu tranh“ trá hình, đòi hỏi „dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam“ do đảng Việt gian cs giàn dựng cho tay sai của chúng là GHPGVNTN, Nhất Hạnh, Quảng Độ, Võ Văn Ái và Việt Tân… thực thi, đều bị đại khối cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền vgcs tại hải ngoại phát giác lật tẩy, lên án và tẩy chay. Đại đa phần những vụ việc này đều đã được đăng tải công khai trên liên mạng thông tin toàn cầu „internet“ (được cập nhật từng ngày), cũng như bằng vô số những tác phẩm, ấn phẩm đủ mọi thể loại truyền thông văn hóa nghệ thuật… phong phú khác. Tất cả lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo, Thiên Chúa giáo…, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội xảo trá đủ loại và vô số tay sai, không xót một tên nào, do đảng vgcs gửi ra cài cắm bất kể là công khai hay bí mật tại hải ngoại, đều đã và sẽ cùng phải chung một số phận. Vì giọng điệu và hành tung (…) của chúng dù có ngụy trang biến tướng cách gì cũng không thể che giấu được dã tâm và tội ác Việt gian bán nước, phản dân tộc của đảng cộng sản Việt Nam. Chúng câm lặng hoặc làm ngơ, hoặc cố tình lèo lái xuyên tạc bôi xóa, khỏa lấp một sự thật lịch sử là: Chính tập đoàn đcsvn và tay sai là những kẻ nội thù phản tặc, chính là hung thủ, là kẻ chủ phạm đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho đảng cộng sản „Trung quốc“, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng. Đơn cử một ví dụ nhỏ trong hiện tại: Tất cả các phong trào, biểu tình và đòi hỏi chính đáng của đồng bào Việt Nam bị trị tại quốc nội, đặc biệt là giới trẻ vùng lên thể hiện ý chí yêu nước bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong các sự kiện biên giới, hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa do „Trung cộng“ xâm lược chiếm giữ, đều bị đảng csvn lợi dụng hoặc dùng tất cả mọi phương tiện, huy động lực lượng công an côn đồ và một số đông đảo lũ tội phạm hình sự bị khiển dụng, đàn áp khủng bố, bắt bớ, giam giữ và tra tấn một cách dã man. Không có lấy một tên Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo GHPGVNTN hoặc một tên „tăng thống“ nào có thể một lần tạm bỏ thói „á khẩu“ để nói, dù chỉ một câu cho trôi chẩy mà không biết mười mươi rằng: Những gì chúng nói ra, nếu không có đảng cs vn canh chừng bằng họng súng, thì chúng lấy chỗ nào để đứng mà nói. Nếu có thì phải „độn thổ“ ngay sau khi nói, nếu không muốn bị đồng bào Việt Nam khắp nơi trên thế giới đồng thời vả vào mồm chúng sau mỗi một câu chúng nói ra. Vì lực lượng „bảo kê“ của đảng cs vn vẫn kè kè bên cạnh, nên Thích Quảng Độ chẳng những giám liều chết dại mồm xảo ngữ kinh niên, mà còn thi thoảng chế tác ra lời kêu gọi: „Bất tuân dân sự“, “Biểu tình tại gia“. Theo đó mỗi người Việt Nam muốn thể hiện sự chống đối xin hãy „ở nhà, đóng cửa và làm việc đó ở trong chăn cho kín đáo“. Bởi vậy, tên Thích Quảng Độ vẫn thường phải khoa chân múa tay che miệng nhỡ ăn phải vả, khó toàn bộ răng tuổi già là vì thế, vì ngày „độn thổ“ của hắn đã hết hạn từ lâu. KP Kader und UBCV Oberhaupt „Patriarch“ Thich Quang Do (geb. Dang Phuc Tue) 77. „Văn phòng 2“ của tên Việt gian tay sai cộng sản Võ Văn Ái như vậy, không những là „cái loa“ mà hơn thế, còn là một thứ „Phòng Nhì“ của đảng Việt gian cộng sản tại nước ngoài. Những cơ sở „đại diện“ trá hình của đảng cộng sản vn tại nước ngoài trong thời đại thông tin toàn cầu hiện nay, trên thưc tế đã được cài đặt rộng hơn chứ không chỉ giới hạn vào GHPGVNTN. Từ những ngày „chiến tranh Việt Nam“ đã có đài BBC, hiện nay càng thêm nhiều đài khác như VOA, RFI, RFA, SBTN vào cuộc… Trong „Ban tiếng Việt“ của các đài trên đều có ít nhất là một tên cho đến cả một đám những cán bộ do đảng cs vn đào tạo gửi đi cài cắm chiếm giữ. Qua những cái „ống nhổ biết nói“ này đảng cộng sản vn có thể tùy thời rêu rao phát tán những “nghị quyết“ sặc mùi tuyên truyền một chiều của đảng cs vn ra nước ngoài, khi cần thiết thì phun nhả những tin tức độc tố bệnh hoạn, tùy theo những nhu cầu giai đoạn có lợi cho đảng Việt gian cs, tất nhiên tất cả các bản tin đều được viết nói bằng một thứ giọng điệu xảo ngữ chuyên nghiệp. Trên lĩnh vực báo chí in ấn cũng tương tự, và tác dụng độc hại của nó cũng không kém báo điện tử là bao. Tại Việt Nam hiện nay dưới sự đàn áp khống chế gắt gao của đảng cs vn trong lĩnh vực truyền thông, tất cả (hơn 600) các cơ sở truyền thông, đài, báo chí tại Việt Nam cùng các vệ tinh trá hình của nó tại nước ngoài chỉ còn là nơi phát tán các „nghị quyết“ lật lọng lừa đảo của đảng cộng sản Việt nam bằng những giọng điệu xảo trá khác nhau. Quyền được nói lên sự thật của nhân dân trong nước đã bị đảng Việt gian cộng sản bóp cổ chặn họng chết từ lâu. Như vậy, GHPGVNTN và các „văn phòng, chi nhánh đại diện“ của nó tại hải ngoại, như Võ Văn Ái, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn thật là những cấu thành quan yếu trong cấu trúc „mạng nhện đỏ“ độc hại đã được giăng ra từ hàng chục năm qua để phục vụ cho những mưu đồ của đảng Việt gian cộng sản và đảng cộng sản…Tầu. 78. Tên tiếng Anh của „Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất“ là “Unified Buddhist Church of Vietnam“ („UBCV“) đã được Thích Như Điển và tay sai dịch sang tiếng Đức: (viết tắt là: CVBK hoặc KVVBK: "Congregation der Vereinigten Vietnamesischen Buddhistischen Kirche". Sẽ trở lại phần chi tiết về danh xưng nói trên trong phần 2, sau bài viết này). Như trên đã dẫn, GHPGVNTN tại hải ngoại được „đại diện“ và giật dây bởi „Văn phòng 2, Viện hóa đạo“. Các tên cầm đầu từng là những Thích Đôn Hậu (Diệp Trương Thuần), Thích Huyền Quang (Lê Đình Nhàn), hiện nay là Thích Quang Độ ( Đặng Phúc Tuệ), Thích Hộ Giác, Thích Chánh Lạc… những tên Việt gian cộng sản trá hình hạng rành nghề xảo quyệt trong lớp áo tăng sỹ Phật giáo. Danh xưng „tăng thống“ và „ấn tín“ của lũ cộng sản trá hình Phật giáo này đang tiếm quyền sử dụng, là do những hành động khủng bố bạo lực cưỡng đoạt từ tay Thượng tọa Thích Tâm Châu từ năm 1966. Vị tăng thống tiền nhiệm chính thống trước đó là cố đại lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Bằng con dao và đĩa máu cùng những hành động đe dọa sát hại tính mạng của lũ cán binh cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo này, chúng đã cướp đoạt văn phòng trụ sở, ấn tín từ tay Thượng tọa Thích Tâm Châu. Cho nên từ năm 1966 đến nay (năm 2012), lũ „tăng thống“ tự phong này chỉ là những tên Việt gian cộng sản ăn cướp đầy tội ác, tiếm quyền, tiếm danh, trá hình trong lớp áo cà sa Phật giáo. Phần chi tiết, xin xem tham khảo „Bạch thư của Hòa thượng Thích Tâm Châu“. Về thực chất, lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN từ trên xuống dưới, trước sau như một chỉ là những công cụ tội ác trá hình Phật giáo trong tay đảng Việt gian cộng sản. Theo những giá trị nền tảng đạo lý căn bản của dân tộc Việt Nam thì tất cả những cá nhân tổ chức đã từng và đang đại diện cho danh xưng đảng cộng sản Việt Nam, dù chúng có biến tướng dưới hình thức nào, đã chất chứa thừa đủ tội ác để gọi và phải gọi chúng là một tập đoàn Việt-gian, với một trong những tội danh hàng đầu là bán nước, phản dân tộc. Chúng là Việt gian từ trứng nước và trong hiện tại. Hòa thượng Thích Tâm Châu đã tự nói lên sự thật sau gần 30 năm im lặng (1964 – 1993). Trong bạch thư nói trên ông đã bạch hóa sự việc một cách cụ thể, cho thấy những thủ đoạn tàn bạo của đám cán bộ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo đã từng cướp Viện Hóa Đạo như thế nào. Cũng theo bạch thư đã khẳng định, những tội ác mà đảng cộng sản vn và GHPGVNTN gây ra là những sự thật hết còn có thể chối tội, và cho thấy các truyền thống tâm linh đặc biệt là Phật giáo đều bị đảng Việt gian cộng sản thâm nhập, cướp đoạt và khiển dụng làm vỏ bọc ngụy trang như những phương tiện gây ra và che giấu tội ác, củng cố quyền lực. 79. Từ những năm 1963 khi nước Mỹ dưới thời tổng thống John Fitzgerald Kennedy, qua tay ngoại trưởng Henry Alfred Kissinger muốn lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm, đặc biệt là sau khi „canh bạc hậu trường“ giữa Mỹ và Tầu cộng đã ngã ngũ, thì từ đó đến nay là năm 2012, giới truyền thông tại phương Tây đại đa phần đã ngả hẳn theo hướng thông tin gần như một chiều về cuộc chiến tranh tại Việt Nam, theo chiều hướng dường như có lợi cho „khối cộng sản“. Nhưng, một phần của thực tại không thể là bản thân sự thật ! Vì họ đã im lặng dường như đồng loạt và có hệ thống về cái thực tại và cũng là sự thật về thực chất của cuộc chiến tranh do đảng cộng sản Việt Nam phát động, chỉ huy quân đội cộng sản từ Bắc-Việt, chống lại Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa: Là một cuộc chiến tranh xâm lăng đầy tội ác, đã được thực thi bởi một đội quân cộng sản Bắc-Việt xâm lược, đánh thuê theo sự giật dây, đặt hàng hứa hẹn của các quan thầy chúng là quốc tế cộng sản từ Moskau và Bắc Kinh. Và cuộc chiến tranh xâm lược này đã vi phạm một cách trắng trợn luật pháp của tất cả các Công ước, và Hiệp định quốc tế hiện hành. 80. Đại đa số giới truyền thông phương Tây cũng làm ngơ những thực tại lịch sử là tập đoàn cộng sản Bắc-Việt đứng đầu là đảng Việt gian cộng sản đã phá rối và chưa từng chấp hành đúng nghĩa theo những Hiệp định hoặc cam kết quốc tế nào mà chúng đã từng ký kết. Những Hiệp định, cam kết mà ngay từ đầu chúng đã chỉ ký kết với một dụng ý duy nhất là có thể dùng nó để lừa đảo dư luận quốc tế. Đại đa số giới truyền thông tại các nước phương Tây không những dường như đồng loạt câm lặng mà đồng thời tìm cách che đậy, giảm thiểu cho đến vô hại hóa những tội ác bẩn thỉu man rợ của đảng Việt gian cộng sản đối với nhân dân Việt Nam. Cũng như vậy, những tài liệu bình luận, những bằng chứng có giá trị lịch sử trung thực về những nỗi đau cùng tột, những tang thương mất mát của nhân dân miền Bắc từ năm 1946, và cả dân tộc Việt Nam từ 30.04.1975 đến ngày hôm nay, nỗi đau của một dân tộc đã bị đảng vgcs bóp chết sau bức tường sắt ghê rợn được sơn trét lòe loẹt kia, rất ít khi được giới truyền thông này cho quảng bá rộng rãi một cách tương xứng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cái „hiện tượng“ này cũng đang là một hiện trạng mỉa mai nghiệt ngã, lặp lại dường như tương tự, như đối với những trường hợp tiêu biểu là dân tộc Tây Tạng, Bắc-Triều Tiên hoặc Miến Điện (Tibet, Nord-Korea, Mianma hoặc Burma). Rõ ràng là các giới truyền thông có tên „Truyền thông dòng chính“ ("Main Streem Medien") tại các nước phương Tây này đang theo nhịp gậy của một tay nhạc trưởng lão luyện, cùng hòa nhịp trong một dàn đồng ca giao hưởng quen thuộc, mà các „cung điệu“ của nó đã, đang và sẽ ảnh hưởng có tính quyết định các mối quan hệ chính trị thế giới. „Thể loại chính trị“ này, hiện đang có một tên gọi thực tiễn như bản chất của nó: „Chính trị thực tiễn“. Từ „thực tiễn“ đến…„thực dụng“ là những đề tài khác, nằm ngoài phạm vi bài viết này. 81. Đối với tất cả đồng bào Việt Nam chân chính thì cuộc „chiến tranh Việt Nam“ vừa qua chưa hề kết thúc ! Vì qua cuộc chiến tranh này, họ đã bị cướp trắng tay và mất đi tất cả. Như những „công dân hạng ba“, nói cho chính xác, chỉ là những nô lệ tân thời, mặc dù đang sống trên chính mảnh đất cha ông để lại, nhưng tất cả những quyền tự do căn bản và quyền sở hữu để sống trên mảnh đất đó, thì tuyệt nhiên đã bị đảng Việt gian cộng sản cướp trắng. Chỉ có mỗi một thứ „quyền“tối thiểu nhất, đã thuộc về huyết thống tâm linh ngàn đời sâu thẳm của người dân Việt Nam, đó là quyền được yêu Tổ Quốc, mà còn bị đảng Việt gian cộng sản, là kẻ cai trị độc tài, lưu manh độc nhất vô nhị, lật lọng cướp trắng. Sự ăn cướp trấn lột trên được che đậy bằng những loại giọng điệu cai ngục, được che chắn bằng họng súng và nhà tù như sau: “Đảng cộng sản Việt Nam thay mặt nhân dân lãnh đạo Dân tộc và Tổ Quốc. Ai yêu Tổ Quốc, Dân tộc nhưng không yêu đảng là phản bội Dân tộc và Tổ Quốc“ . Những loại danh từ mà đảng Việt gian cộng sản dùng tới để đe dọa tẩy não nhân dân như „phản động“, hoặc „các thế lực thù địch quốc tế“ dài… vô tận. Vào thời điểm hiện nay, khi nghe những giọng điệu trên đây, thì có rất đông những người phương Tây vì đã từ lâu sống trong thế giới tự do, cũng đều phải đỏ tai tía mặt, mặc dù biết đó là sự thật. Và khốn nạn thay, đó lại đang là sự thật hiển nhiên tại nước Việt Nam cộng sản Xã hội chủ nghĩa hôm nay. Vì phần đông những người phương Tây này, xin nói thêm là cả những người Việt Nam, hoặc bị đảng Việt gian cộng sản che đậy tẩy não, hoặc vì nhiều lý do khác nhau…không cần biết sự thật, khi được hỏi về cái mặt trái mà cũng là cái bản mặt thật của đảng Việt gian cộng sản, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn, tay sai và nhiều nhiều nữa…, thì câu trả lời của họ chỉ là những âm thanh ú ớ nghe không rõ, nên đã thể hiện một cách rất tự nhiên bằng một cái nhún vai đầy… ấn tượng, ý nói là họ chẳng biết gì cả. Không hiếm trường hợp có người gân cổ độc thoại, nhắc lại y chang những „nghị quyết„ của đảng cs mà giới truyền thông, văn bút trí nô tay sai của đảng Việt gian cộng sản trong nước và hải ngoại đã từng rêu rao từ hàng chục năm qua. Những giọng điệu giả nhân giả nghĩa đã được che đậy bằng loại xảo ngữ tuyên truyền chuyên nghiệp, bóng bẩy bất tận. Mới chỉ đơn cử một cái „quyền tự do yêu Tổ Quốc“ đã bị cướp trắng như thế, thì những quyền khác còn đâu một chỗ đứng, lấy gì đâu nữa nói tự do? 82. Chừng nào còn một nhóm người, một cá nhân, coi chiến tranh, bất ổn định và sự chưa thống nhất của một dân tộc một quốc gia là một cơ hội, để lợi dụng và qua đó nắm đoạt được những lợi thế tài chính lớn hơn nữađể tiếp tục thủ lợi nhiều hơn nữa, thì chừng đó, tất cả những món lợi tức mà họ thu được, không chừa một thứ gì, không gì giữ được, mỗi mỗi đều theo nhau biến thành những món nợ khó trả. Vì để có thể riêng hưởng những món lợi tức loại này chỉ có thể là những kẻ, những tập đoàn cai trị độc tài lật lọng phản trắc, và đứng sau lưng hết thảy là những kẻ thống trị tài phiệt lợi dụng tất cả những kẻ đi lợi dụng kia. Ai ủng hộ chúng, cuối cùng chỉ để những kẻ độc tài kia được lợi, không phải là những người dân bị trị. Cho nên, tất cả những nhóm người này đang cố giả tạo ra một thứ "hòa bình", và không muốn cho nó có một nền tảng vững chắc, vì nếu có hòa bình thực sự, họ chẳng còn gì đề thủ lợi. Cũng vì vậy, những cá nhân này, những nhóm người này, thực sự là những người không thể hiểu biệt nghiệp quả báo của chính họ, nói gì đến cộng nghiệp quả báo của dân tộc họ. Cho nên, đã chằng có thể thực sự hiểu chính bản thân, nói gì là người bên cạnh, huống gì lại có thể hiểu được một dân tộc khác. Vì tất cả những hệ quả trên, tất cả những gì họ đang tạo dựng vun vào, dành giụm cất chứa cho đàn con cháu của họ hôm nay, thì cũng chính đám con cháu này lại phải đem nộp trả lại hết trong một ngày gần, trước sau không có hạn định, cũng không có ngoại lệ, để trả nợ cho bằng hết cho sự u muội vô minh của cha ông chúng, trả cho đến tận xu cuối cùng, lãi xuất hậu bàn. Tại Việt Nam, hay bất kỳ đâu trên thế giới, những người chân tu có đạo hạnh trong Phật giáo, đều đã và sẽ được tất cả các tầng lớp nhân dân dành cho sự tôn kính vô cùng xứng đáng. Nhưng, những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ cùng tập đoàn GHPGVNTN, và tất cả bè lũ tay sai, còn sống cũng như đã chết, là một bè lũ Việt gian, thì nhân dân Việt Nam sẽ phải vạch mặt chỉ tên chúng, để trong một ngày gần nhất, phải dẫn giải chúng ra trước tòa án quốc dân, của một đất nước Việt Nam mới, thực sự dân chủ và tự do. Và cái ngày tàn xụp đổ của đảng cộng sản vn, một tập đoàn Việt gian, vẫn đang được đếm từng ngày… Thái A *** Sẽ tiếp nối Phần 2 (nguyên bản tiếng Đức) *** Nguồn: https://vuottuongluaweb.wordpress.com/2017/09/13/thich-nhat-hanh-ten-viet-gian-cong-san-doi-lot-phat-giao-va-nhung-vet-mau-toi-ac-cua-giao-hoi-phat-giao-viet-nam-thong-nhat-khoi-an-quang-monks/
Thiền sư Thích Nhất Hạnh mới kêu gọi các phật tử về Chùa Từ Hiếu,
Huế, nơi ông xuất gia lúc 16 tuổi, để “chúng ta cùng hiến tặng sự có mặt
cho nhau và cùng nhau hàn huyên trong tình huynh đệ ấm áp”.
Nguồn:https://www.voatiengviet.com/a/thien-su-thich-nhat-hanh-muon-han-huyen-trong-tinh-huynh-de/4653623.htmlTrong lá thư có chữ ký của ông, mà VOA tiếng Việt có trong tay, nhà sư Phật giáo có ảnh hưởng trên thế giới nói rằng “niềm an lạc và hạnh phúc được sống chung hòa hợp với nhau sẽ là món quà quý nhất để chúng ta dâng lên chư vị Tổ sư của Tổ Đình [Từ Hiếu]...” Các hình ảnh được báo chí đăng tải cho thấy nhiều người đã tập trung gần nơi ông đang tịnh dưỡng, mà báo điện tử VnExpress nói đã được “phong tỏa nghiêm ngặt”. Lá thư gửi cho các tăng ni của Thiền sư Thích Nhất Hạnh có đoạn nói thêm rằng “trên 70 năm qua, kể từ khi rời khỏi Phật Học Đường Báo Quốc, tôi đã chuyên tâm và một lòng thực hiện sứ mệnh mà chư Tổ đã tin tưởng và phó thác cho tôi...” Bức thư nói rằng Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được chọn ở vị trí thứ 10, trong khi lãnh tụ tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, nằm ở vị trí thứ 12.
“Ao ước được trở về sống nơi đất Tổ và xây dựng nề nếp tu học tại Tổ Đình là thao thức thâm sâu nhất của tôi trong suốt những năm qua”. Sau khi bị đột quỵ năm 2014, theo Làng Mai, trung tâm thiền tập tại Pháp được thiền sư Thích Nhất Hạnh thành lập vào đầu năm 1982, ông “vẫn luôn hiện diện tỉnh táo và mạnh mẽ” dù ông “chưa phục hồi khả năng nói”. “Thầy vẫn đang tiếp tục sống từng phút giây trong thảnh thơi và an lạc, với sự có mặt đích thực và đầy ý nghĩa, biến những khó khăn thử thách về sức khỏe sau cơn đột quỵ bốn năm trước thành một bài pháp không lời”, theo Làng Mai. Ông cũng nói thêm rằng ông “đã quyết định trở về Việt Nam để được sống nơi đất Tổ” và để “con cháu Tổ Đình có gốc rễ và nơi chốn quay về nương tựa”.
Facebooker này viết thêm: “Hào quang của Thầy lan tỏa trên khắp cả thế giới nay hội tụ tại Việt Nam. Cho dân Việt Nam có ánh sáng của đạo Phật để xua tan bóng tối u minh màn đêm đông làm cho đất nước không an lạc được, chiến tranh luôn đe dọa con người Việt. Trên dưới không đồng lòng chỉ có phép mầu nhiệm của Phật pháp mới xoa dịu nỗi khổ của người dân Việt Nam!!!” Xin mời xem tiếp:
-PHỤC HỒI: DANH DỰ- TỔ QUỐC- TRÁCH NHIỆM QL.VNCH
|
A Di Đà Phật Phật Giáo VN Dưới Thể Chế Cộng Sản
https://youtu.be/XSnYPNpx-_U
#thienosho #từđiểnosho #tudienosho
THIENOSHO - Trước khi cái chết gõ cửa, chấp nhận bản thân bạn đi
https://youtu.be/0tQDolXbsCQ
Xem thêm:
HỘI CHỨNG CHIẾN TRANH VN
https://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/11/hoi-chung-chien-tranh-vn.html
Tịnh Độ
|