Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2018

" HẬU SỰ " CỰU CHIẾN BINH Q.L.VNCH -NIỆM PHẬT VÃNG SANH LƯU XÁ LỢI


SAU KHI CHẾT LINH HỒN CHÚNG TA SẼ ĐI VỀ ĐÂU ?

 https://youtu.be/sHJj_64anxI

Sau khi chết, Linh Hồn bạn sẽ đi về đâu?

 https://youtu.be/E1p0iLm86IY

" HẬU SỰ "- CỰU CHIẾN BINH QL.VNCH
Niệm Phật-Vãng sanh-Lưu xá lợi



Khung cảnh một trại tù 'cải tạo' dựng lại trong phim "Vượt Sóng" được nhiều người tù 'cải tạo' nhìn nhận là trung thực 80%.


Phim Tài Liệu Hồn Tử Sĩ - Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
https://youtu.be/QBENk6KkMJw

Cát Bụi Vô Thường (Sáng tác: Quý Luân)

 CÁT BỤI VÔ THƯỜNG Sáng tác: Quý Luân Cuộc sống phù du sướng vui hay buồn Mai ta về đâu, cát bụi vô thường Khi bần hàn không ai xót! Xin lễ nghi khi sang giàu Ôi! cuộc đời bao đắng cay Vòng xoáy thời gian cuốn ta không ngừng An vui giờ đây chỉ còn muộn phiền Đêm về nhìn mưa hiu hắt Ta kẻ tha phương nơi này Xin đời đừng mãi thương đau. DK: Tìm về chốn, từng là ta Để được thấy lòng bình yên Vui từng tiếng kinh cầu Tâm hồn như đóa hoa sen Lặng nhìn xuống dòng thời gian Chợt bừng sáng ngọn đèn TÂM Không gì mãi bên đời Ai rồi cũng sẽ quay về! Nhìn Thấy đời kia ngỡ như còn thuyền Lênh đênh dòng trôi sóng vỗ chập chùng Danh lợi rồi như mây khói Năm tháng phiêu du bên đời Chỉ còn một chữ TÂM thôi! - Liên hệ nhạc sĩ Quý Luân - 0903.713.090 - Email: nhacsiquyluan9999@gmail.com - Web: www.nhacsiquyluan.com

 https://youtu.be/7WSPf56kBEg

Cát bụi tuổi tên...

Thứ Bảy, 22/07/2017, 05:53 [GMT+7]
Ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn (Quảng Trị) có hơn một vạn mộ liệt sĩ được quy tập từ ngay sau 1975. Dù quy tập từ rất sớm như vậy nhưng vẫn có một khu mộ với 69 ngôi mộ của những liệt sĩ “chưa biết tên”. Gần 40 năm trước, khi quy tập về đây, những bia mộ này ghi hai chữ “vô danh”, rồi sau này, hai chữ “vô danh” ấy được thay bằng “liệt sĩ chưa biết tên”. Khu mộ những liệt sĩ “chưa biết tên” ấy nằm ngay phía phải của đài Tổ quốc ghi công trung tâm nghĩa trang.
Sông Thạch Hãn - nghĩa trang không mộ bia của hàng ngàn người lính trẻ năm 1972.Ảnh: L.Đ.D
Sông Thạch Hãn - nghĩa trang không mộ bia của hàng ngàn người lính trẻ năm 1972.Ảnh: L.Đ.D
1. Cùng với hành trình tìm kiếm hài cốt những liệt sĩ, khu mộ “liệt sĩ chưa biết tên” ấy, không hiểu bằng cách nào đó, dần dần cũng được... có tên. Thay vì những tấm bia không tên họ, gia đình những liệt sĩ bằng “ngoại cảm”, bằng tâm linh, bằng… muôn ngàn cách để có một niềm tin rằng dưới bia mộ không tên ấy là thân xác của thân nhân mình. Và không chỉ có thế, từ chỗ “chưa biết tên” có ngôi mộ lại mang tên của... hai liệt sĩ.
Một lần, khi đưa nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai và nhà văn Mỹ Bruce Weigl đi viếng Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, cả hai đã vô cùng ngạc nhiên khi đến thắp nhang ở khu mộ liệt sĩ “chưa biết tên” này bỗng thấy có một ngôi mộ mang hai cái tên. Phía mặt bia đề “liệt sĩ chưa biết tên” đã được thay bằng một tấm bia làm bằng đá hoa cương đen khắc rõ ràng: “Liệt sĩ Vũ Minh Giám - sinh năm 1942, nhập ngũ 1968, hy sinh 1973, quê quán Hải Dương”. Cứ cho là bằng niềm tin tâm linh đi, thêm một người lính được có tên có tuổi. Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó, sau khi ngôi mộ được gắn bia, có một gia đình liệt sĩ khác quê ở Thanh Hóa cũng bằng cách nào đó đã nhận rằng dưới ngôi mộ này là hài cốt của thân nhân mình, và vì thế, không thể gắn bia ở mặt trước, phía lưng bia được viết thêm tên tuổi một liệt sĩ khác: “Nguyễn V. Hợi, Hoằng Anh - Hoằng Hóa - Thanh Hóa”, và dường như để mọi người không phải băn khoăn, dưới dòng chữ tên liệt sĩ còn giải thích thêm “2 chiến sĩ chung một mộ”(!).
Cả Bruce Weigl lẫn nhà thơ Quế Mai đều không thể hiểu được vì sao lại có hai tên liệt sĩ trên một nấm mồ, càng không hiểu vì sao có những điều gọi là “ngoại cảm”, “gọi hồn” mà không là ADN chính xác? Nhưng đất nước ngày đó vừa ra khỏi chiến tranh, quy tập được về đã là may mắn , chuyện tuổi tên đâu dễ đủ cho những người lính khi ngã xuống đã không có một dấu tích kèm theo như chiếc thẻ bài của quân đội bên kia. Những nông dân ra trận từ đồng đất, và thân xác sau báo đền nợ nước lại hòa vào đất đai, một vòng tròn đời người thiêng liêng mà đạm bạc!
Tôi đã đứng rất lâu trước  nầm mồ có hai bia mộ ấy và chợt nhận ra cuộc tìm kiếm tuổi tên cho liệt sĩ là một hành trình đầy khắc khoải, với những niềm tin vô cùng mong manh nhưng ai cũng muốn bấu víu vào đó. Đất nước dằng dặc chiến tranh, cuộc tìm kiếm tuổi tên cho những nấm mồ liệt sĩ chưa biết tên có lẽ là một hành trình bất tận.
Nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai bên ngôi mộ với tên tuổi của hai liệt sĩ. Một mặt kia của bia mộ là tên một liệt sĩ khác.
Ảnh: L.Đ.D
2. Nếu công cuộc quy tập hài cốt liệt sĩ trên đất liền bao nhiêu năm qua với hài cốt hàng vạn người lính nằm khắp rừng cao núi thẳm được mang về mồ yên mả đẹp trong những nghĩa trang thì rất ít ai biết đến việc tìm kiếm những hài cốt liệt sĩ từ biển khơi - một công việc gần như vô vọng và khó khăn gấp bội lần so với việc cất bốc trên đất liền. Thế nhưng cái nghĩa cử còn khó hơn cả “đáy bể mò kim” ấy đã được Bộ Tư lệnh quân chủng Hải quân âm thầm thực hiện từ nhiều năm nay. Nhiều liệt sĩ hàng chục năm nằm dưới lòng biển lạnh đã được về với với đất đai quê hương bản quán, sau bao nhiêu chờ đợi tưởng như đã tuyệt vọng của người thân, đồng đội và gia đình.
Mấy năm trước, khi đến thăm Bộ Tư lệnh Hải quân, tôi được biết về một cuộc “đáy bể mò kim” như thế. Một ngày cuối tháng 7 năm 2007, Bộ Tư lệnh Hải quân nhận được bức điện khẩn từ vùng A Hải quân với nội dung: trong lúc lặn tìm phế liệu trên vùng biển tây nam đèn biển đảo Long Châu, cách đảo Cát Bà chừng 30 hải lý, ngư dân hai tàu Quảng Ngãi số hiệu QNg 96383 và tàu Đại Thắng 01 đã phát hiện trong một xác tàu đắm một chứng minh thư quân nhân số hiệu 200057BD mang tên Vũ Tài Trò và một số vật dụng khác, cùng một vài đoạn xương nghi là hài cốt của chiến sĩ hải quân. Theo mô tả của các ngư dân, chiếc tàu đắm dài khoảng 22 mét, rộng khoảng 5 mét, đã ngập trong bùn. Cạnh con tàu này còn có xác một con tàu khác với kích thước tương tự.
Thông tin ban đầu ấy, cùng với tấm chứng minh thư quân nhân mang tên Vũ Tài Trò như một sợi chỉ mỏng manh để Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị các phòng ban liên quan tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ trong những chiếc tàu kia. Khu vực tàu chìm được khoanh vùng tọa độ. Những trang hồ sơ quân nhân ố vàng từ vài chục năm trước được lật tìm. Và sau bao nhiêu nỗ lực tìm kiếm, cái tên Vũ Tài Trò được các cán bộ Cục Chính trị Hải quân tìm thấy trong danh sách các chiến sĩ tham gia một trận đánh tàu khu trục Mỹ từ gần 40 năm trước.
“Vũ Tài Trò - sinh 20.2.1950, quê quán Phong Hải - Yên Hưng - Quảng Ninh, nhập ngũ tháng 8.1971, là chiến sĩ huấn luyện kỹ thuật ngành cơ điện Trường Sĩ quan Hải quân…”. Tuy nhiên theo hồ sơ quân nhân, anh Vũ Tài Trò đã phục vụ trong quân ngũ cho đến tháng 2.1988 và từ trần năm 2005 do mắc bệnh hiểm nghèo. Như vậy, hài cốt trên không phải của chiến sĩ Vũ Tài Trò mà có thể là đồng đội của anh trên một chiếc tàu bị chìm trong trận chiến nào đó. Hồ sơ về những trận đánh trên vùng biển này được lật lại và tọa độ mà ngư dân báo về được xác định là nơi hai con tàu phóng lôi 319 và 349 đã bị đắm trong trận đánh đêm 27.8.1972. Danh sách các chiến sĩ trên hai con tàu ấy được truy xuất, tìm kiếm, những thợ lặn đặc công nước được huy động và rồi may mắn thay, trong số hài cốt tìm được, bằng phương pháp ADN đã xác định được tên tuổi của hai liệt sĩ: Nguyễn Quốc Quân, chiến sĩ cơ điện của tàu 319 quê ở Hà Tĩnh và Hoàng Minh Tư, chiến sĩ rada của tàu 349 quê ở Ninh Bình...
Câu chuyện đi tìm tuổi tên cho những liệt sĩ theo kiểu “đáy bể mò kim” còn được lặp lại trong vụ xác định danh tính của 8 hài cốt liệt sĩ hy sinh trên con tàu HQ604 bị quân xâm lược Trung Quốc bắn chìm tại Gạc Ma vào ngày 14.3.1988, mà nếu tường thuật lại hành trình ấy là cả một câu chuyện quá dài, chỉ có thể nói rằng, cùng với niềm khắc khoải của thân nhân liệt sĩ, những nỗ lực tìm lại tuổi tên cho liệt sĩ ngày càng được quan tâm.
3. Không chỉ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ngay cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, vẫn còn rất nhiều những liệt sĩ đã tìm thấy hài cốt nhưng tuổi tên vẫn mịt mờ. Nhưng may mắn hơn, những hài cốt được tìm thấy gần đây dù chưa tìm được tên tuổi nhưng vẫn được lấy mẫu vật phẩm lưu giữ xét nghiệm ADN để làm cơ sở cho việc chứng minh thân nhân liệt sĩ sau này.
Đất nước binh đao dằng dặc, theo con số của Bộ Quốc phòng thì vẫn còn gần 200.000 liệt sĩ chưa tìm được hài cốt và trên cả nước vẫn còn 300.000 tấm bia ghi dòng chữ “Liệt sĩ chưa biết tên”. (Nguồn từ đề án Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 về quy tập hài cốt liệt sĩ). Không một nghĩa trang nào trên đất nước này không có những mộ bia đề dòng chữ “Liệt sĩ chưa biết tên”, nhưng dù chưa biết tên đi nữa, thì chút thân xác kia còn được nằm trên đất đai xứ sở, âu cũng là may mắn. Ở Quảng Trị có hai nghĩa trang quốc gia là Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn và Nghĩa trang liệt sĩ Đường 9, nhưng thật ra còn có một nghĩa trang quốc gia khác, một nghĩa trang không nấm mồ, không bia mộ, đấy là lòng sông Thạch Hãn đoạn chảy qua Thành cổ Quảng Trị. Những người lính đêm đêm vượt sông từ bờ Bắc sang bờ Nam, hàng ngàn người đã không qua tới bờ, không vào được Thành cổ, họ nằm xuống đáy sông hay con nước đã đưa những người lính ấy ra tận bể? Bao nhiêu người đã không còn tăm tích dù là cát bụi, nói gì chuyện tuổi tên trên những nấm mồ…
Ghi chép của LÊ ĐỨC DỤC
.
.









Video đang được xem nhiều

Hồn ai trong gió - Chu Lynh | Vietlove

 https://youtu.be/q6MlSEmcxb

CẬN TỬ NGHIỆP VÀ TÁI SINH - THUYẾT PHÁP HAY NHẤT

 https://youtu.be/X6BjpkUL1MI

Thế Nào Là Cận Tử Nghiệp (Rất Hay)

https://youtu.be/KbPlUiS0e7Q














Nghi Lễ Phủ Quốc Kỳ VNCH Trên Linh Cữu Cố Trung Tá Lai Tấn Tài (06/14/2017)

https://youtu.be/It0vZ3jqcr0

Bản Tin Đặc Biệt: Lễ Phủ Cờ và Tang Lễ Cố Đại Tá ĐÀO QUAN HIỂN

 https://youtu.be/7n6jx4loZns












Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: ‘Tôi chết đừng phủ cờ vàng?’


Vũ Ánh
Thời trung cổ, các chiến binh người Mông Cổ khi ngồi trên mình ngựa ra trận tiền mà không may tử trận, các đồng đội của họ lập tức giết chết con ngựa mà anh ta cưỡi, lột lấy bộ da ngựa gói chặt tử thi quân nhân này rồi cho chuyển về hậu phương hỏa táng theo tục lệ của quân đội người Mông Cổ. Ðây là một nghi thức đầy vinh dự chỉ dành cho người lính chết trận, không có biệt lệ dù đối với hàng tướng lãnh. Nghi thức này được lưu truyền tới ngày nay đối với nhiều quân đội tại các quốc gia trên thế giới, nhưng thay vì người ta dùng bộ da ngựa bọc thây người lính tử trận thì dùng lá quốc kỳ của quốc gia đó phủ trên quan tài người đã vì đất nước mà hy sinh.

Thời quân đội Quốc Gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, quốc kỳ vàng ba sọc đỏ chỉ được phủ lên quan tài quân nhân tử trận. Nhưng sang đến thời Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa, tục lệ này được nới rộng cho cả bên lực lượng bán quân sự, cán bộ và công chức nếu họ hy sinh đang lúc thừa hành công vụ. Sở dĩ tục lệ này được nới rộng ra hàng ngũ những người không phải quân nhân là để cho công bằng vì trong chiến tranh, nếu có người hy sinh vì quân vụ thì cũng có người hy sinh vì công vụ, họ cũng phải được nhận vinh dự mà quốc gia dành cho họ. Năm (5) cuối cùng của Ðệ Nhị Cộng Hòa, các ngành công chức và cảnh sát còn được quyền tạo những huy chương riêng để vinh danh những viên chức hay nhân viên làm việc xuất sắc, chẳng hạn như ngành thông tin và chiêu hồi có Tâm Lý Chiến Bội Tinh Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Hạng. Huy chương cao quí nhất của công chức, cán bộ là Chương Mỹ Bội Tinh Ðệ Nhị và Ðệ Nhất Hạng, riêng Ðệ Nhất Hạng Chương Mỹ Bội Tinh khi gắn xong phải cử quốc thiều như Bảo Quốc Huân Chương bên quân đội.

Tôi nhắc lại một vài chi tiết để cho thấy rằng trong điều kiện nào một quân nhân hay một dân chính phục vụ quốc gia được hưởng vinh dự mà quốc gia ban cho qua người đại diện hàng đầu cho quốc gia ấy. Tổng Thống VNCH và đồng thời là tổng tư lệnh quân đội hay viên chức được ủy nhiệm là người đại diện cho quốc gia để trao gắn huy chương hay quyết định phủ lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ lên linh cữu của một quân nhân hy sinh ngoài chiến trường hay một công chức tử nạn đang lúc thi hành công vụ.

Những tài liệu báo chí được lưu trữ trong Thư Viện Quốc Gia VNCH, dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, Tướng Hồ Văn Tố chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh Thủ Ðức đã bị vị tổng tư lệnh quân đội từ chối phủ quốc kỳ lên quan tài vì lý do ông qua đời không phải là từ một nguyên nhân vinh dự. Năm 1964, phóng viên mặt trận của Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia, anh Khuất Duy Hải, tử trận tại chiến trường Ðức Cơ, Pleiku, đã không được phủ quốc kỳ chỉ vì lý do anh không phải là quân nhân. Tang lễ được hệ thống truyền thanh quốc gia đứng ra cử hành trọng thể, tổng ủy viên Thông Tin (chức vụ tương đương với tổng trưởng Thông Tin trong Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương), Tướng Nguyễn Bảo Trị đã đại diện chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đến gắn Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu trên quan tài và vào dịp này bản tuyên dương công trạng cố phóng viên mặt trận Khuất Duy Hải được đọc lên, nhưng không có quyết định phủ cờ vì trường hợp anh là trường hợp đầu tiên một phóng viên mặt trận dân sự của ngành truyền thanh quốc gia tử trận trên chiến trường khi đang thi hành công vụ. Dù phóng viên mặt trận Khuất Duy Hải với những ký sự chiến trường được viết rất nhân bản và xúc động phát thanh hàng tuần, hấp dẫn được hàng triệu thính giả, nhưng chính phủ lúc đó là chính phủ quân nhân, chưa có tiền lệ phủ cờ nào dành cho những công chức trung cấp hy sinh ngoài tiền tuyến.

Tôi nhắc lại một vài chi tiết lên quan đến nghi thức “da ngựa bọc thây” đầy xúc động và vinh dự cho người nằm xuống trong trận mạc hay phục vụ quốc gia không ngoài mục đích gì khác hơn là để nhắc lại rằng VNCH khi xưa dù chưa phải là một vùng đất dân chủ tự do hoàn toàn, nhưng những nguyên tắc liên quan đến việc ban phát ân sủng của quốc gia rất chặt chẽ. Cho nên sau này nhiều đồng hương ở đây đưa ra những lời khuyên rất chí lý: “Dù VNCH đã mất, dù quân đội, cảnh sát công chức, cán bộ đã tan hàng nhưng nên duy trì cái dấu ấn tinh thần từ những gì đã mất.” Dấu ấn tinh thần đó là gì? Nhiều người trong cộng đồng giải thích theo cách nhìn của họ “đó là tinh thần chí công vô tư, giữ gìn tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm một cách thành thực.” Ngày 30 Tháng Tư gần kề, vấn đề trách nhiệm lại được đặt ra chứ không phải chỉ là những than khóc và những lời đãi bôi nơi cửa miệng.

Năm nay, vấn đề ai là những người phải chịu trách nhiệm đã để một nửa đất nước từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau rơi vào tay những người cộng sản được đặt ra với một bài thơ, một di chúc rất xúc động của một cố tướng lãnh VNCH: “Mai tôi chết, xin cờ vàng đừng phủ.” Ðó là Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù mà thời chiến tranh Việt Nam, báo chí gọi ông là “con sói của trận mạc,” xin trích:

Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ

Lê Quang Lưỡng

Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!


Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.


Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đã cần gì?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,


Ta giờ đây đã tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ…
Ngày về quê càng lúc càng xa mờ.
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng,


Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai??
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.


Bài thơ tự nó đã là những cảm xúc đầy bi hùng tráng của một bại tướng VNCH. Bài thơ được làm ít lâu trước khi ông qua đời vào ngày 21 Tháng Chín, 2005 tại thành phố Bakerfield, tiểu bang California. Việc ông di tản sang Hoa Kỳ vào ngày 29 Tháng Tư, 1975 đã trở thành vết thương và niềm u sầu suốt những năm tháng sau này qua một câu thơ mà nhiều người thích “Sầu hận tim ta ai biết được.” Nhưng chính lời trối trăn của ông đối với đồng đội, đồng hương đã làm hình ảnh của một bại tướng trở nên sáng ngời:

“Tôi làm tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đã không dám chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu cầu đừng phủ quốc kỳ lên quan tài tôi, vì tôi tự biết mình không xứng đáng được hưởng lễ nghi nầy.”Với lòng can đảm tuyệt vời, vị tướng lãnh đáng được trân trọng nói trên đã để lại lời nói cuối cùng trước khi qua đời bao hàm nỗi lòng u uẩn của dũng tướng, nhưng trong một phút chùng lòng đã không theo được gương của người xưa “thân làm tướng khi thành mất thì phải chết theo thành.” Nỗi buồn đó theo ông suốt những năm tháng còn lại của cuộc sống lưu vong trên xứ người, để rồi cuối cùng chuẩn bị cho cái chết ông đã can đảm từ chối vinh dự “da ngựa bọc thây,” khác với các tướng lãnh thời đương thời và cùng hoàn cảnh di tản như ông.

Nó là một thông điệp dứt khoát kêu gọi những người có trách nhiệm về việc mất miền Nam Việt Nam hãy can đảm nhận trách nhiệm của mình, chấm dứt những nỗ lực tìm người lãnh đạo cuối cùng phải đầu hàng để trút trách nhiệm cho họ, chấm dứt việc đòi lại danh dự cho nhà lãnh đạo này hay lãnh đạo khác mà biến cố cách đây 38 năm đã biến họ thành đào ngũ, đào nhiệm trước địch quân, chấm dứt việc đem lá quốc kỳ đã thấm máu quân, dân, cán, chính VNCH để đem phủ cho những người không đáng được hưởng vinh dự đó, hãy xét lại cho thật kỹ việc tự thêu khăn quàng, tự mang cà-vạt, đội mũ, mặc áo, tự sơn xe riêng của mình mầu cờ vàng ba sọc đỏ và nên tự hỏi: liệu mình có xứng đáng mang lá cờ này không, có đủ nhân cách, tư cách, có đủ sự trung thành với là cờ đó không hay việc ôm lấy lá quốc kỳ chỉ để che giấu những hoạt động chính trị thiếu chính trực của mình?

Tôi là phóng viên mặt trận của hệ thống truyền thanh quốc gia đã từng theo tường thuật hành quân và các trận đánh lớn từ thời Tướng Lê Quang Lưỡng còn là tiểu đoàn trưởng cho đến lúc ông trở thành lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 2 Sư Ðoàn Nhảy Dù, cho nên tôi hiểu nỗi đau của ông khi phải viết lại di chúc này. Nhưng ngay từ những năm 1964, 1965 khi chiến tranh bắt đầu lan rộng, Tướng Lê Quang Lưỡng đã là một ngôi sao sáng trong số những ngôi sao còn rất trẻ ở sư đoàn Nhảy Dù, một đại đơn vị lúc nào cũng ở tuyến đầu, nhận chịu những áp lực nặng nề nhất từ phía CSBV, nhưng họ đã vượt qua được muôn trùng khó khăn là do giữ được kỷ luật và tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm.

Riêng Tướng Lê Quang Lưỡng khi còn là tiểu đoàn trưởng đã được báo chí miền Nam gọi là “con sói của trận mạc” không có gì sai cả. Kiên trì vượt lên trên những lần thất bại, luôn luôn là tấm gương tinh thần cho những sĩ quan và binh lính thuộc cấp, gan dạ và mưu lược trong những giây phút căng thẳng và nguy hiểm nhất cho đơn vị, đối xử tốt và đúng luật đối tù binh địch, Tướng Lê Quang Lưỡng đã ngồi vào chức vụ tư lệnh của một trong những đơn vị tổng trừ bị hàng đầu của Quân Lực VNCH.

Là một người công trạng sáng chói như ông mà chỉ vì một quyết định không mấy vinh dự khi đất nước nghiêng ngửa mà tên tuổi của ông bị một vết chàm tưởng như sẽ vĩnh viễn không gột rửa. Nhưng lòng yêu nước, trọng danh dự và trách nhiệm được thể hiện qua bài thơ: “Khi tôi chết xin cờ vàng đừng phủ,” ông đã nhận lại được danh dự và sự chính trực của một người mang thân làm tướng và đang là bại tướng. Gặp lại ông trong đám cưới của một người bạn năm 2001, ông cho mời tôi lại bàn. Dù tôi không biết uống rượu, tôi đã rót đầy ly của ông để đánh dấu ngày gặp lại người lính trận mà tôi vẫn nể phục này, ông chỉ thân mật cười, giọng trầm: “Chắc Ánh chưa biết anh không còn uống rượu được nữa vì bệnh. Vả lại nhiều năm qua, anh thấy rượu sao đắng quá.” Tôi nhìn lại “con sói già,” người hùng thở nào trên các mặt trận ở Quảng Trị, Cùa, Ðông Hà, Hải Lăng, Mỹ Chánh, PK.17, Kontum, Pleiku… tự nhiên thấy mắt mình cay cay. Ðó là lần cuối cùng tôi gặp ông.

Giờ đây, chắc linh hồn Tướng Lê Quang Lưỡng đã yên ổn thênh thang ở cõi không còn chiến tranh và hận thù. Ông chắc đã gặp lại các đồng đội cũng từng hành động can đảm giống như ông. Ðó là Ðại Tá Huỳnh Thanh Sơn, tư lệnh phó Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, và cựu Trung Úy Ðoàn Bá Phụ, một trong những đại đội trưởng xuất sắc của Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù. Ðại Tá Sơn xuất thân từ Biệt Ðộng Quân, sau những năm tháng trận mạc dài dài, ông được lệnh thuyên chuyển làm tư lệnh cảnh sát vùng và những năm cuối cùng trước 30 Tháng Tư, 1975, ông được bổ nhiệm tư lệnh phó hành quân Sư Ðoàn 7 Bộ Binh do Tướng Trần Văn Hai làm tư lệnh. Khi Tướng Hai chuẩn bị tuẫn tiết thì vừa lúc ông mở đường máu dẫn quân từ Cai Lậy về Bộ Tư Lệnh ở Ðồng Tâm. Kết quả ông lãnh hơn 12 năm tù cải tạo. Ðược thả và định cư ở Mỹ theo diện HO, ông vẫn không muốn ở không để lãnh trợ cấp chính phủ nên không bao lâu sau khi định cư dù con cái ông đã khôn lớn và ổn định, cựu Ðại Tá Huỳnh Thanh Sơn vẫn nhận công việc của một nhân viên an ninh tư để thấy mình vẫn còn có ích cho xã hội.

Ông bị ung thư gan và qua đời cách đây 11 năm. Trước khi qua đời ông dặn vợ con là không nhận phủ cờ vàng vì cảm thấy mình không đáng được hưởng vinh dự ấy. Còn cựu Trung Úy Ðoàn Bá Phụ là cựu tù cải tạo ở trại A-20 và đồng thời là người tù nổi tiếng bất khuất, định cư ở Mỹ bằng cách vượt biển sau khi được thả ra khỏi trại vài tháng. Sang định cư ở Hoa Kỳ, Phụ lập gia đình, làm việc và nuôi dạy ba cô con gái sau này trở thành những sinh viên, học sinh xuất sắc và được học bổng của tỷ phú Bill Gates cũng như các học bổng khác. Trước khi qua đời anh trối trăn là đừng phủ cờ vàng vì cảm thấy mình không xứng đáng được hưởng vinh dự ấy và tôi là một trong những người chứng của lời trối trăn đầy can đảm này của người bạn tù. Những điều tôi viết ra chắc chắn có những người không đồng ý. Họ có thể có cách nhìn khác. Tôi tôn trọng và không tranh cãi. Vì theo cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng:

“Bao năm trời bao nhiêu chàng trai trẻ
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.”
Lòng can đảm của Tướng Lê Quang Lưỡng là một tấm gương sáng ngời một lần nữa củng cố niềm tin cho tôi, cho chúng tôi rằng, cuối cùng danh dự và chính trực muôn đời vẫn là thước đo con người dù trong hoàn cảnh chiến thắng hay trong hoàn cảnh bại trận.
Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/newarticle/Tai-sao-Tuong-Le-Quang-Luong-dan-Toi-chet-dung-phu-co-vang-1241/

"VĂN HÓA ONLINE-CALIFORNIA"  THỨ  HAI  24  APRIL  2017

image040
Cờ Vàng VNCH trên Google.

image041
Những ngôi mộ chiến sĩ VNCH hy sinh trong chiến trận được chỉnh trang ở Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Không có ai hay tổ chức nào phủ cờ VNCH trên những ngôi mộ này. Ảnh sau 1975.

image042
Những ngôi mộ mới của các chiến sĩ VNCH hy sinh chôn trong Nghĩa trang Biên Hòa được phủ cờ VNCH. Ảnh trước 1975.

image043
Một quả phụ hôn lên di ảnh cuối cùng của người thân hy sinh được phủ cờ VNCH. Ảnh trước 1975.

Kính chuyển tiếp,

Bài nhận trên diễn đàn,
Chuỗi dài gồm nhiều bài,
v/v

1)-Khi tôi chết Cờ Vàng xin ĐỪNG PHỦ,

2)- Khi tôi chết Cờ Vàng xin ĐƯỢC PHỦ,

Xin QUÝ VỊ tùy nghi, quan điểm, nhận xét,  thẩm định.....

Trân trọng,

Trung Đỗ

Có nên "phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ" khi tôi chết ?

Kính chào quý Đồng hương và Quý vị quan tâm

Thiển nghĩ; Đất nước đã tạm mất về tay csvn! Những gì còn lại, chỉ còn..."LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" và "LÝ TƯỞNG TỰ DO"...!

LÝ TƯỞNG TỰ DO...thì khó biểu hiện. Nhưng "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" là để chứng tỏ..."TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA" (không cộng sản)..quyết tâm đấu tranh cho quê hương.

Do vậy; thiển nghĩ; Bất cứ người nào có "ƯỚC MONG LẦN CUỐI" được phủ "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" thì không ai có quyền cấm đoán! (kể cả sĩ quan, Tướng, Tá, Úy, Hạ sĩ quan... hay thường dân)


Ngoại trừ những thành phần đã theo gió trở cờ, hay làm lợi cho csvn...thì không xứng đáng!...

Còn những cá nhân thì gia đình vẫn có quyền phủ "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ"...(cách tự nhiên)

Ngược lại, những chức sắc trong Cộng Đồng, những bậc Vị vọng, Nhân sĩ...(trung thành với Quốc gia)...thì ... Rất mong Cộng Đồng hãy tổ chức "PHỦ CỜ VÀNG" cách nghiêm trang, trịnh trọng.

Khi tôi chết, "CỜ VÀNG" xin hãy phủ

MONG ƯỚC này, xin thoả mãn ƯỚC MONG

Dù không chết trận, nhưng CHẾT TRONG ĐẤU TRANH

Xin dâng hiến, tấm thân này cho TỔ QUỐC...

Khi tôi chết, "CỜ VÀNG" xin hãy phủ!

Trân trọng

Phạm Trung Kiên

Chuyển tiếp

Victopham

image044
Chúc thư Cá nhân và Lòng tri ân của Tập thể.

Trong Tết Mậu thân, nhiều Quân Dân Cán Chính tại Huế bị việt cộng sát hại, tất cả các quan tài của những người xấu số nầy đều được chính quyền địa phương phủ lá quốc kỳ VNCH. Những công dân VNCH nầy, trong đó có những thường dân, không hy sinh ngoài trận tuyến, mà hy sinh trên mãnh đất của quê hương mình. (gợi ý của nhà báo Huỳnh Lương Thiện)

Chuyện chị Hạnh Nhơn ra đi, cũng vậy, dù đã 42 năm "chinh chiến tàn", nhưng đại đa số người Việt trong và ngoài nước đều ghi nhận được lý tưởng và tâm huyết của chị vẫn sáng ngời tính nhân bản và tính thủy chung của một chiến sĩ Quân lực VNCH qua việc làm gian nan nhưng đầy ý nghĩa của chị cho đến hơi thở cuối cùng...

Việc làm đó, không những xoa dịu vết thương cho các TPB và cô nhi quả phụ, mà còn mang ý nghĩa làm Rạng danh Chính nghĩa Quốc gia mà biểu tượng là lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu.

Qua đó, thân xác của chị Hạnh Nhơn RẤT XỨNG ĐÁNG được tập thể người Việt quốc gia phủ lá Quốc kỳ VNCH.

Và tập thể người Việt tị nạn hải ngoại (đồng hương & đồng đội) đang đứng trước sự chọn lựa khó khăn giữa Chúc thư và Lòng tri ân của tập thể.

Chúng tôi nêu lên thiển ý để mong các anh chị con của chị Hạnh Nhơn suy xét lại.

Thưa chị Hạnh Nhơn kính yêu,

Em tin rằng, với bản tính nhân từ đức độ, chị sẽ hỉ xả cho em về ý nghĩ đi ngược với chúc thư của chị như trên,

Sinh thời, chị như thể vị Bồ Tát sống, dù vậy, em cũng xin cầu nguyện mười phương chư Phật sớm tiếp dẫn hương linh của chị về Phương Tây cực lạc Thế giới.

Thân kính,

KQ Võ Ý

Kính Quý Huynh-Đệ,

Qua đề-nghị của NT Võ-Ý, rất có tình, có lý, chị HẠNH-NHƠN RẤT XỨNG ĐÁNG được tập thể người Việt quốc gia phủ lá Quốc kỳ VNCH.

Chúng ta đã biết tánh chị rất giản dị và khiêm nhường, di chúc không phủ cờ của chị cũng do tánh khiêm cung của chị, tập thể KQ chúng ta ủng hộ Ý-KIẾN của NT Võ-Ý, thuyết phục tang gia để chúng ta được long trọng làm Lễ phủ cờ, để Vinh Danh những việc chị đã làm, để tỏ lòng biết ơn những đóng góp của chị, chị đã hy sinh vì mọi người cho đến hơi thở cuối cùng.

Rất mong quý Huynh-Đệ lên tiếng ủng hộ ý-kiến trên.

Trân trọng thân kính chào quý Huynh-Đệ,

KQ Lê-văn-Sùng-PĐ116

Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Bạn Võ-Ý.

Nguyễn -Cầu Dupont

Sent from my iPhone

Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ”.

Sắc lệnh của Tổng Thống VNCH, những người có Bảo Quốc Huân Chương

khi chết sẽ được Phủ Quốc Kỳ VNCH.

Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn / Đệ Ngủ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương

Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng... image045
Cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, tác giả bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ”.

(Hình: Nguyễn Ngọc Trân cung cấp)

Đỗ Dzũng/Người Việt

SHAKOPEE, Minnesota (NV) - Té ra, bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ” mà bấy lâu nay nhiều người tưởng là của cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH, lại do một tác giả khác sáng tác. Đó là cựu Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, hiện cư ngụ tại thành phố Shakopee, Minnesota.

Sau khi nhật báo Người Việt đăng bài “Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: ‘Tôi chết đừng phủ cờ vàng?’” của tác giả Vũ Ánh, trong số báo ra ngày Thứ Bảy, 20 Tháng Tư, tòa soạn nhận được email của tác giả bài thơ cho biết về sự nhầm lẫn này.

Cũng như nhiều người khác, nhà báo Vũ Ánh tưởng Tướng Lê Quang Lưỡng là tác giả bài thơ, bởi vì “chúc thư của vị tướng và lời lẽ trong bài thơ giống nhau quá, và khắp nơi trên diễn đàn Internet ai cũng tưởng như vậy”.

Khi tiếp xúc với tác giả Nguyễn Ngọc Trân, ông cho biết sở dĩ ông sáng tác bài thơ này là vì muốn bảo vệ sự thiêng liêng của lá cờ VNCH.

Ông chia sẻ nguồn gốc sáng tác bài thơ này như sau: “Sở dĩ có bài thơ MTCCVXĐP là cũng vì đọc báo và xem tin tức thấy vào khoảng thời gian trên (lúc bài thơ sắp ra đời) thấy có nhiều vị cựu quân nhân lớn tuổi có lẽ họ không để lại di chúc hoặc dặn người nhà cho nên khi họ mất nhiều hội đoàn cựu chiến sĩ đã nghĩ ra cách phủ cờ cho họ do đó tôi không muốn làm mất sự thiêng liêng của lá cờ và tủi lòng những chiến hữu thực sự năm xuống hoặc sống lây lất bên nhà nên tôi mới cảm hứng làm bài thơ trên.”

Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!

Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.

Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đã lo chi?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,

Ta giờ đây đã tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ.
Ngày về quê càng lúc cứ xa mờ,
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng.

Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai?
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.


“Bài thơ tôi chỉ làm trong một phút tình cờ khi thấy những hình ảnh phủ cờ tùm lum làm mất giá trị thiêng liêng của lá cờ,” ông cho biết tiếp qua email. “Tôi chỉ làm thơ tài tử thôi.”

Về chuyện Tướng Lưỡng và bài thơ, tác giả Ngọc Trân cho biết: “Tôi thật tình không biết Tướng Lê Quang Lưỡng đã mất năm 2005. Mãi sau này, Tháng Mười Một, 2011, tôi mới làm bài thơ này, tôi chỉ phổ biến trong nhóm Biệt Động Quân, forum Nguyễn Trãi 61-68 và đặc san Biển Khơi của hội Hải Quân OCS mà tôi có mấy người bạn phục vụ. Sau đó thì không biết vì lý do gì bài thơ trên lại được đăng trên net trong bài lời trăn trối của Tướng Lưỡng và đề tên Tướng Lưỡng là tác giả làm bạn tôi anh Trần Đức Tâm đã điện thoại cho tôi và hỏi tôi lúc đó tôi mới biết Tướng Lưỡng đã mất năm 2005.”

“Sau đó tôi có một người bạn có quen với gia đình Tướng Lưỡng và có xác nhận bài thơ đó không phải của Tướng Lưỡng làm, có thể vì một sự tình cờ giữa lời trăn trối của ông trùng hợp với bài thơ của tôi cho nên người viết đã để tên tác giả là ông,” cựu Thiếu Úy Biệt Động Quân Nguyễn Ngọc Trân viết tiếp trong email.

Theo tác giả cho biết, trước năm 1975, ông là học sinh trường trung học Nguyễn Trãi, Quận 4, Sài Gòn, niên khóa 61-68. Đầu năm 1970, ông được lệnh gọi nhập ngũ vào khóa 4/70 trường bộ binh Thủ Đức.

Cuối năm 1970 ông ra trường, về phục vụ tại Tiểu Đoàn 31 BĐQ thuộc Liên Đoàn 3 BĐQ. Cuối năm 1972, ông được thuyên chuyển về phục vụ tại Tiểu Đoàn 36 BĐQ, cũng thuộc Liên Đoàn 3, sau đổi thành Liên Đoàn 31 BĐQ cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975.

Tác giả bị đi “cải tạo” cho đến Tháng Sáu, 1979, vượt biên Tháng Bảy cùng năm, được tàu Ý vớt, và đến Tháng Tám, 1980, định cư tại Minnesota cho đến bây giờ.

Với tinh thần “đừng” qua bài thơ “Khi tôi chết cờ vàng xin đừng phủ,” tác giả Ngọc Trân cảm hứng làm bài thơ sau đây, sau khi đọc bài “Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển” của thi sĩ Du Tử Lê.
Bài thơ “Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển” của tác giả Ngọc Trân như sau:

Mai tôi chết hãy mang tôi hỏa táng.
Nắm tro tàn xin rải khắp quê hương,
Nơi hành quân xưa trên khắp núi rừng.
Để được gặp bạn bè tôi nằm đó,
Để thấy lại Kon Tum trong khói lửa
Hay Quảng Trị xưa anh dũng kiêu hùng
Rải tro tôi trên thị trấn Bình Long
Nơi đồi gió bao lính dù nằm xuống.

Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển
Sóng dập vùi thân xác biết về đâu?
Tro bụi tôi xin rải tận tuyến đầu.
Để nhìn lũ Cộng quân đang bán nước,
Thác Bản Giốc Ải Nam Quan ngày trước,
Bây giờ đây đã dâng hết cho Tàu
Tro tàn tôi xin rải tận Cà Mau.
Hay Phù Cát Bồng Sơn cùng Cửa Việt.

Mai tôi chết đừng mang tôi ra biển,
Mang tro tôi về Bình Giả Phước Long,
Nhớ năm xưa cùng chiến hữu một lòng,
Vung thép súng giữ lời thề ngày trước.
Mai tôi chết xin được như mơ ước,
Để tro tàn tôi bay khắp không gian.
Quê hương ơi! Tôi xin được một lần,
Nắm tro bụi thấm vào lòng đất mẹ.


Nguyễn Vạn Bình:  AI XỨNG ĐÁNG ĐƯỢC PHỦ QUỐC KỲ VNCH TẠI HẢI NGỌAI

.......Chính vì thế, nếu với quan niệm việc phủ Quốc Kỳ chỉ dành cho các quân nhận QLVNCH tử trận, thì chúng tôi e rằng việc nầy rất khó xảy ra trong tình trạng chúng ta sinh sống tại hải ngọai hiện nay.Và từ đó, việc phủ quốc kỳ VNCH sẽ bị chấm dứt và lá quốc kỳ VNCH mãi sẽ không còn nhìn thấy trong các tang lễ của người Việt tỵ nạn.....

* Bài của Nguyễn Vạn Bình, nguyên Luật Sư tòa Thượng Thẩm Sàigòn đóng góp dưới đây để tường và cho rộng đường dư luận.

Bài viết nầy chúng tôi hy vọng với những sự kiện đã xảy ra cũng như qua sự tham khảo về nghi lễ phủ quốc kỳ của Hoa Kỳ , của VNCH trước đây và hoàn cảnh hiện nay của cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản, mọi người sẽ có một cái nhìn đứng đắn và sáng suốt hơn về việc phủ quốc kỳ VNCH trên quan tài của người quá cố.

Như tất cả mọi người đều biết, quốc kỳ là một biểu tượng cao quí của quốc gia và dân tộc. Dân tộc của mỗi quốc gia bao gồm mọi giới Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Việc bảo vệ và xây dựng quốc gia không đơn thuần trông cậy vào một thành phần nào trong xã hội mà phải trông cậy vào tòan thể mọi giới, mọi người dân. Vì thế, việc phủ quốc kỳ trên quan tài của người quá cố là một hành động để ghi công về những việc làm ,những đóng góp của người quá cố đối với quốc gia.

Theo nghi lễ của Hoa Kỳ, việc phủ quốc kỳ trên quan tài là một hành vi danh dự được dành cho các quân nhân tử trận, hy sinh vì công vụ, cho các cựu quân nhân, các nhà ái quốc và cho các viên chức cao cấp tại cấp tiểu bang và liên bang của Hoa Kỳ.

Điều đó cho chúng ta thấy rõ, việc phủ quốc kỳ Hoa Kỳ không phải là việc làm đơn thuần dành riêng cho các quân nhân tử trận hoăc hy sinh vì công vụ. Đại tướng Mc Arthur dù một cựu quân nhân, không hy sinh tại mặt trận, nhưng khi ông qua đời đã được hưởng nghi thức phủ cờ để ghi ơn những chiến công hiển hách của ông trong thời đệ nhị thế chiến chống Nhật và trận chiến Triều Tiên chống lại Cộng sản Bắc Hàn và Trung Cộng. Các vị tổng thống , nghị sĩ, dân biểu tên tuổi của Hoa Kỳ, dù không là quân nhân, nhưng trong tang lễ của các vị nầy đều có nghi thức phủ cờ. Tiến sĩ Luther King, nhà tranh đấu cho quyền lợi người Da Đen , dù không là quân nhân, nhưng lúc qua đời, quan tài của ông đã được làm lễ phủ quốc kỳ một cách trang trọng.

Tại miền Nam VN trước đây trong cuộc chiến tranh khốc liệt với quân Cộng Sản Bắc Việt, nhiều quân nhân đã hy sinh. Hình ảnh phủ cờ cho các quân nhận tử trận tại các nghĩa trang quân đội đã là hình ảnh quá quen thuộc đối với mọi người dân.

Chính vì thế, nhiều người đã lầm tưởng rằng, việc phủ quốc kỳ VNCH chỉ dành riêng cho các quân nhân tử trận. Thật ra, chính phủ VNCH không có quyết định hạn hẹp như thế. Nhiều cựu quân nhận hay nhiều viên chức hành chánh cũng đã được hưởng lễ phủ cờ .Đặc biệt, trong biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, Cộng Sản Bắc Việt đã dã man giết và chôn tập thể gần 5000 người dân vô tội tại cố đô Huế. Sau khi tìm ra được thi hài các nạn nhận, chính tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho phủ quốc kỳ VNCH trên tất cả các quan tài của các nạn nhân không phân biệt quân, dân, cán, chính, đàn ông, đàn bà hay trẻ em.Việc làm nầy chính là hành động để xác định căn cước hàng ngàn nạn nhận là công dân của chế độ VNCH, đồng thời cũng nói lên hành vi dã man của chế độ bạo tàn Cộng Sản Hà Nội.

Sau ngày quốc hận 30-4-1975, hàng triệu người Việt Quốc Gia đã liều mình bỏ nước ra đi tỵ nạn cộng sản để tìm đời sống tự do tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cộng đồng người Việt hiện nay tại hải ngọai đã lên đến gần 3 triệu người.

Trong hòan cảnh sống tỵ nạn hiện nay của người Việt Quốc Gia, quê hương yêu dấu của chúng ta đã bị bọn CSVN, tay sai của Trung Cộng cưỡng chiếm, chúng ta đã không còn chính phủ để điều hành, không còn quốc hội để làm luật và không còn một cơ cấu tư pháp để phân xử ai.

Nhưng chúng ta chỉ còn lại hai biểu tượng thiêng liêng là Quốc Kỳ VNCH và bài Tiếng Gọi Công Dân làm Quốc Ca cùng một tấm lòng yêu quê hương tha thiết và một ý chí kiên trì đấu tranh cho một nước Việt Nam được vẹn toàn lãnh thổ, tòan dân được hạnh phúc, ấm no dưới một chế độ , dân chủ, tự do tôn trọng nhân quyền.

Vũ khí đấu tranh hiện nay của cộng đồng người Việt Quốc Gia tại hải ngọai, biện pháp dùng quân sự khó thực hiện. Chính vì thế, phương cách đấu tranh hữu hiệu chính là bao gồm trên mọi lãnh vực. chính trị, vận động ngọai giao, truyền thông, văn hóa, kinh tế, tôn giáo,tài chánh v.v..Mọi mũi dùi tấn công bọn độc tài CSVN đều đáng được ca ngợi và vinh danh.
Bọn CSVN ngày nay không còn sợ phương cách đấu tranh bằng quân sự do cộng đồng người Việt Quốc Gia khởi xướng, vì chúng biết việc làm nầy chúng ta không thực hiện được. Nhưng chúng lo ngại cuộc đấu tranh của người Việt Quốc Gia trên các lãnh vực chính trị, kinh tế, tài chánh ,văn hóa và truyền thông . Chúng ra sức chia rẽ mọi đòan thể, mọi đảng phái, mọi tôn giáo để làm suy yếu sức mạnh đoàn kết của tập thể người Việt Quốc Gia.Nhất là chúng tìm mọi cách để triệt hạ Quốc Kỳ VNCH cùng Quốc Ca là hai biểu tượng cao quí nhất của tập thể người Việt Quốc Gia.

Chính vì thế, nếu với quan niệm việc phủ Quốc Kỳ chỉ dành cho các quân nhận QLVNCH tử trận, thì chúng tôi e rằng việc nầy rất khó xảy ra trong tình trạng chúng ta sinh sống tại hải ngọai hiện nay.Và từ đó, việc phủ quốc kỳ VNCH sẽ bị chấm dứt và lá quốc kỳ VNCH mãi sẽ không còn nhìn thấy trong các tang lễ của người Việt tỵ nạn.

Chúng tôi tin rằng, hàng triệu quân nhân QLVNCH yêu nước và sáng suốt phải nhận thức rằng, trong cuộc đấu tranh chống Cộng Sản Bắc Việt, quân đội không là lực lượng đấu tranh duy nhất của miền Nam VN. Các quân nhận QLVNCH cần có một hậu phương yểm trợ vững mạnh do nhiều người đóng góp. Con em của các quân nhân cần có trường sở, thầy giáo dạy dỗ. Cha mẹ, vợ con của các quân nhân cần được sống trong một xã hội an bình với một nền kinh tế vững mạnh do những viên chức hành chánh tài năng quản trị v.v.

Chính vì thế, trong gần 39 năm sống lưu vong tỵ nạn cộng sản, việc duy trì hai biểu tưởng Quốc Kỳ VNCH và Quốc Ca là việc làm cần thiết nếu không muốn nói là để tránh bị tiêu diệt .

Cuộc đấu tranh của tập thể người Việt Quốc Gia cho một cộng đồng VN vững mạnh và cho quê hương VN được tự do, dân chủ là công việc chung cho mọi người .

Chúng ta phải bỏ đi mọi ý nghĩ tỵ hiềm cá nhân nông nổi, quan niệm chật hẹp lỗi thời làm nãn chí mọi người Việt QG và nhất là giới trẻ yêu nước muốn dấn thân đấu tranh

Chúng tôi vững tin sự hy sinh của anh Trần Văn Bá từ Pháp về nước đấu tranh với cộng sản. Việc cả đời đấu tranh cho đất nước của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là những việc làm yêu nước đáng ngưỡng mộ và quan tài của họ đáng được hưởng lễ phủ quốc kỳ VNCH.

Việc chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh binh chủng Nhảy Dù, đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng QLVNCH khi từ trần đã không có lễ phủ cờ là do ý tưởng trách nhiệm đối với đất nước của hai vị tướng nầy nghĩ rằng họ đã không làm tròn được phận sự giữ được miển Nam VN.

Do đó, trừ đi ý nguyện của người quá cố , trừ những người phản bội lại chính nghĩa Quốc Gia, can tâm làm tay sai của tập đòan lãnh đạo CSVN, những kẻ chủ trương hòa hợp với CSVN thiết nghĩ việc phủ quốc kỳ VNCH cho các quân, dân, cán chính, những thanh niên trẻ yêu nước đấu tranh cho cộng đồng, cho quê hương là một việc đáng làm và để chống lại âm mưu của bọn Cộng Sản Bắc Việt nhằm tiêu diệt quốc kỳ VNCH thân yêu của chúng ta vậy./.

Nguyễn Vạn Bình

+++++++++++++++++++++++++++

Vì sao những quí vị có tên dưới đây không có ý nguyện để lại trong di chúc hay không muốn thể hiện việc phủ lá cờ Vàng VNCH lên quan tài khi mất?

- Hoàng Đế Bảo Đại, người khai sinh ra lá cờ Vàng VNCH.

- Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu.

- Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ.

- Đại tướng Cao Văn Viên Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH.

- Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng Tư lệnh Sư đoàn Nhẩy dù VNCH.

- Ca nhạc sĩ Việt Dzũng.

- Trung tá Nguyễn Hạnh Nhơn Hội trưởng Hội trưởng Hội H.O. Thương phế binh VNCH.

Đây có phải là tâm tư siêu hình của lá cờ lịch sử thiêng liêng?

Hay tâm tư của những quí vị mà tên tuổi đã đi vào lịch sử và đã thấy lịch sử sang trang?

Hay vì chưa có cá nhân hay tổ chức nào xứng đáng để cử hành nghi lễ phủ cờ?

"Quá khứ không thể nào xóa mất dấu vết - chỉ mờ đi với thời gian".

Ý kiến của một người dân Bolsa
Nguồn : https://nhatbaovanhoa.com/a5562/khi-toi-chet-co-vang-xin-dung-phu-khi-toi-chet-co-vang-xin-duoc-phu-vi-sao-:












Mai Huỳnh Mai St.8872 qua Google+

1 ngày trước  -  Được chia sẻ công khai
Mai Huỳnh Mai St.88721 năm trước - Được chia sẻ công khai

 (ảnh: Shutterstock)
CÁI CHẾT NGƯỜI LÍNH... KHÔNG BÓNG DÁNG HẬN THÙ!!
Những Hình Ảnh diễn ra trước khi chết, CHUYỆN TÂM LINH CHIẾN TRƯỜNG VN!! Cõi Tự Do vĩnh Hằng! Là những chứng nhân của những cái chết...của người lính trên chiến trường
VN. Trạng thái tinh thần của ngư...

Chết nhẹ tợ ' hồng mao '
Người lính ' hâu vệ- Sài Gòn ' luôn luôn đi sát cách trong mọi chiến trường mặt trận, trong khi xung phong chiếm lại ngọn đồi máu VinKy; anh ưởng người ném lựu đạn, để yểm trợ tôi tiến chiếm mục tiêu; rồi bổng nhiên anh nẩy ngược người...lên!. Tôi biết anh trúng đạn, trước khi anh ngả xuống?!, tôi kéo anh xuống giao thông hào... và anh đòi uống nước, vì máu ra nhiều;anh bảo thèm thuốc hút và xin ' ông thầy - cho tôi điếu thuốc lá'. Anh ta kéo một hơi thuốc, đầy sảng khoái... và thều thào bảo: ' nó hết đạn bắn rồi!...và tụi nó cũng ' biết điều'- thương em-để cho em gặp mặt vợ con... đến thăm em lần cuối...và dần dần chìm vào cơn mê ảo ảnh...!!, của tử thần.
Xin mời xem tiếp:
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2017/11/cai-chet-nguoi-linh.html


 

Mai Huỳnh Mai St.8872 qua Google+











2 năm trước  -  Được chia sẻ công khai
Re : Nghĩa trang quân đội Biên Hòa.Thứ Hai, ngày 04 tháng 4 năm 2016 Re : Nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Re : Nghĩa trang quân đội Biên Hòa. 1 bài đăng của 1 tác giả thi bui 29/04/2013 Xin thắp một nén hương lòng tưởng nhớ đến các chiến sĩ - đồng bào đã hy sinh cho nền độc lập - tự do của VN...

QUỐC BẢO-QL.VNCH
Cung nghinh " XÁ LỢI " Chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!!


"Trải qua nhũng cuộc bễ dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng! "!- Nguyễn du


Thật vậy, biến cố lịch sử 3o Tháng 4/1975 đã làm cho " Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa" phải lâm cảnh khốn cùng của vật đổi sao dời... làm cho linh hồn chiến sĩ QL.VNCH không nơi yên nghĩ nơi lòng đất mẹViệt Nam, tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa...này. Với lòng thành kính " Tổ QuốcGhi Ơn ", chúng tôi là Cựu chiến binh QL.VNCH mong muốn truy tìm và sưu tầm những bộ hài cốt người chiến sĩVNCH về " NGHĨA TRANG QUỐC GIA SÀI GÒN D.C "- Nơi chốn cũ  NTQĐBH '
Ngoài Ban nghi lễ- " PHỦ QUỐC kỲ VN ",  còn có Ban "  CUNG NGHINH XÁ LỢICHIẾN SĨ QL.VNCH ", vì lòng" Trung quân ái quốc" của họ, đã hun đúc...thành khối " Xá lợi Phật"chomọ người dân hạnh phúc TỰ DO- MAI ĐÂY HÒA BÌNH!!

P/s- Sau biến cố lịch sử 30/4/1975- Chúng tôi là những cựu tù nhân cãi tạo trong tù cộng sản: có 165.000 tù đã bỏ mạng trong rùng sâu nước độc vì đói khát...lạnh lùng. chỉ biết " Niệm Phật- Bát Nhã Ba La Mật ", và chỉ mong sao?! lựu lại một chút gì? quí báo cho đời... bằng " TINH CHẤT XÁ LỢI PHẬT/ TỰ DO "-Nếu có thất lạc hay mất xác trong tù...thì lấy nắm đất quê hương, nơi trại tù cải tạo về ép lại thành " Thạch Táng " và thờ trong tháp cao 7 tầng bên cạnh Nghĩa Dũng Đài & Gươm Thiêng Ái Quốc-  Huỳnh Mai St.8872- Cựu tù binh cải tao/Tù cộng sản.














Nung 1.000 độ C không tan chảy, xá lợi Phật có gì đặc biệt?

Chủ nhật, 03/05/2015 | 06:51 GMT+7
(ĐSPL) - Những viên được cho là “xá lợi” của người bình thường thì chỉ qua độ nóng mấy trăm độ đã biến thành tro. Còn xá lợi của các vị tăng ni tại sao qua nhiệt độ 1.000 độ C vẫn không tan chảy?
Hàng nghìn viên xá lợi long lanh như ngọc
Điều khiến cho các nhà khoa học nghiên cứu về cơ thể con người hiện nay rất chú ý là việc xuất hiện một loạt những điều bí ẩn ở di hài của các tăng ni phật tử: Xá lợi, da thịt không rữa nát, toả ánh sáng hào quang, cuống lưỡi vẫn còn y nguyên... Những hiện tượng trên xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành tư liệu nghiên cứu của các ngành khoa học duy tượng. Một vấn đề được đề cập nhiều là bí ẩn của xá lợi.
Nung 1.000 độ C không tan chảy, xá lợi Phật có gì đặc biệt? - Ảnh 1

Một số dạng tinh thể được cho là xá lợi của đức Phật và các vị cao tăng sau khi viên tịch.

Nhiều người định nghĩa rằng, xá lợi là những vật cứng rất khó vỡ, màu sắc long lanh, được kết lại do những tro xương từ các di thể của các tăng ni phật tử sau khi hoả táng. Một số hạt nhỏ có thể trông giống ngọc trai hoặc pha lê, với màu sắc khác nhau.
Theo nghiên cứu của bà Nguyễn Thị Bình (Tháp chùa Trấn Quốc – Hà Nội), các sách của Phật giáo có ghi rõ, sau khi đức Thích Ca Mâu Ni tạ thế, thi thể ngài được phủ cờ phướn có ghi kinh Phật, các loại hương liệu quý rải khắp xung quanh và được khâm liệm trong quan tài vàng. Sau khi hoả táng, di thể ngài kết thành nhiều viên cứng như sắt, trong suốt, long lanh như ngọc. Người ta gọi đó là xá lợi. Phật giáo Trung Quốc trong các lịch đại đều có hiện tượng “xá lợi” của các chư tăng.
Những thập kỷ gần đây, hiện tượng này cũng rất nhiều. Buổi chiều ngày 13/2/1975, lão pháp sư Quang Âm cao tăng đã viên tịch tại Đài Loan, hưởng thọ 95 tuổi. Sau khi hoả táng, di thể ngài để lại hơn 1.000 viên xá lợi màu nâu lấp lánh, viên to nhất có đường kính tới 4cm, hơn 30 viên có đường kính 3cm. Pháp sư Hồng Thuyên cao tăng, quốc tịch Singapore gốc Hoa, viên tịch tháng 12/1990. Sau khi hoả táng, người ta phát hiện có tới 450 viên giống như thuỷ tinh các màu: hồng, trắng, bạc, vàng, nâu, đen. Có viên có tới năm màu, quan sát kỹ còn thấy có viên sáng lấp lánh như đá hoa cương.
Theo sử sách ghi chép, trước đây, chỉ có các cao tăng viên tịch hoả táng mới để lại xá lợi. Sau này còn pháp sư Thích Khoan Năng trụ trì tại am Tây Sơn Tiển Trạch, huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc viên tịch tối 29/9/1989 (thọ 93 tuổi). Sau khi hoả táng được hơn 1.000 viên xá lợi màu xanh ngọc. Đây là nữ pháp sư đầu tiên sau khi hoả táng có xá lợi. Sau đó còn có hai ni sư là Thông Hiền, Phó Chủ tịch hội Phật giáo Quảng Tây (hoả táng di hài thu được hơn 11.000 viên xá lợi năm màu) và ni sư Thích Hựu Quỳnh, tỉnh Quảng Đông (sau khi hoả táng phát hiện những viên xá lợi to bằng hạt đậu xanh có màu ngọc nhạt, lấp lánh).
Ở Việt Nam, dân gian cũng thường đồn thổi về ngọc xá lợi với thực hư lẫn lộn. Chẳng hạn một vị chân tu 64 tuổi đã ngồi thiền 49 ngày rồi viên tịch tại chùa Vĩnh Bình thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình nên có nhiều xá lợi.
Về sự hình thành của xá lợi, nhiều học giả giải thích đó là sự kết thạch vì các vị tăng ni ăn chay lâu ngày nên cơ thể thu nhận một lượng lớn xen-lu-lô và chất khoáng, qua sự trao đổi chất đã hình thành một lượng lớn các loại muối. Chúng trầm tích trong cơ thể dưới dạng kết tinh rồi từ đó dẫn đến sự kết thạch. Đó cũng chỉ là một giả thiết. Bởi trên thế giới, lượng người ăn chay tương đối đông, những người tu hành trong các đạo khác cũng rất kiên trì ăn chay, song họ không có xá lợi mà chỉ các vị cao tăng mới có?
Nung 1.000 độ C không tan chảy, xá lợi Phật có gì đặc biệt? - Ảnh 2

Ngọc xá lợi của Đại lão Hòa thượng Thích Từ Nhơn, nguyên Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. (Ảnh: Công an TP. HCM)

Hơn nữa, những viên được cho là “xá lợi” của người bình thường thì chỉ qua độ nóng mấy trăm độ đã biến thành tro. Còn xá lợi của các vị tăng ni tại sao qua nhiệt độ 1.000oC vẫn không tan chảy. Giả sử trong cơ thể của một người có hàng ngàn viên cứng như sắt đá ấy thì nhất định hoạt động sinh lý trong cơ thể sẽ rối loạn và dẫn tới bệnh tật. Còn ở các vị cao tăng có xá lợi này, họ đều đến bệnh viện khám sức khoẻ định kỳ nhưng tại sao khi chiếu X- quang hay siêu âm lại không phát hiện ra các dị vật cứng này? Tại sao xá lợi có màu sắc quá long lanh.
Sự thật về xá lợi
Trên báo Công an TP.HCM, TS. Đỗ Kiên Cường đưa ra một hướng phân tích: Hiện có ba giả thuyết chính về xá lợi là sức mạnh tinh thần và lòng đại từ, đại bi của các vị cao tăng kết thành xá lợi; do thói quen ăn chay, ngồi thiền và do tình trạng bệnh lý (sỏi).
Nung 1.000 độ C không tan chảy, xá lợi Phật có gì đặc biệt? - Ảnh 3
Đầu tiên là giả thuyết sức mạnh tinh thần của các vị cao tăng biến thành xá lợi. Nói cách khác, đó là quá trình tinh thần biến thành vật chất. Đây là cách giải thích thường thấy khoảng vài ngàn năm trước, khi hiểu biết của loài người còn rất hạn chế. Tuy nhiên, theo khoa học, điều đó không đúng. Nếu như thế thì các vị cao tăng ai cũng có xá lợi, và đạo đức càng cao thì càng nhiều xá lợi, nhưng chúng ta không thấy điều đó trong thực tế.
Theo giả thuyết ăn chay, các cao tăng thường xuyên sử dụng nhiều chất xơ và chất khoáng, nên quá trình tiêu hóa và hấp thụ dễ tạo ra các muối phốt-phát và các-bo-nát. Những tinh thể muối đó tích lũy trong cơ thể dần biến thành xá lợi.
Nhiều người không đồng ý với giả thuyết này, cho rằng nhiều người ăn chay nhưng không có xá lợi khi hỏa táng. Tuy nhiên nếu thêm yếu tố ngồi thiền thì giả thuyết này cũng có một phần sự thật. Ngồi thiền nhiều (như các cao tăng) sẽ làm tăng khả năng hình thành tinh thể muối trong cơ thể. Người ăn chay hoặc phật tử bình thường không có nguy cơ đó, vì thời gian ngồi thiền không nhiều.
Nhiều người không đồng ý với giả thuyết bệnh lý (xá lợi là sỏi bệnh lý), do hỏa táng người bị bệnh không thấy xá lợi và các cao tăng thường khỏe mạnh, ít bệnh tật. Tuy nhiên, chỉ có thể công nhận hay bác bỏ giả thuyết này khi tiến hành thử nghiệm hỏa táng trên rất nhiều người bệnh. Riêng TS. Cường cho rằng, nếu có thì đây cũng chỉ là một nguyên nhân thứ yếu.
Sự thật về ngọc xá lợi đã được hé lộ khi theo ba nhà vật lý Holden, Phakey và Clement thuộc đại học Monash, bang Victoria, Úc, thấy rằng trong quá trình tinh thể hóa xương do hỏa táng, các tinh thể hình dạng khác nhau sẽ được hình thành nếu quá trình hỏa táng ở nhiệt độ thích hợp. Trên tạp chí Khoa học pháp y quốc tế số tháng 6/1995, họ cho biết đã dùng kính hiển vi điện tử quét để theo dõi quá trình tinh thể hóa xương đùi của những người từ 1 tới 97 tuổi trong dải nhiệt độ 200 - 1.600°C trong khoảng thời gian 2, 12, 18 và 24 giờ.
Kết quả là sự tinh thể hóa các khoáng trong xương (chiếm 2/3 trọng lượng xương) bắt đầu xuất hiện từ nhiệt độ 600°C với nhiều hình dạng khác nhau: hình cầu, lục giác, hạt nhỏ và hình dạng không đều. Các hạt nhỏ đó có thể kết tinh thành các khối lớn hơn trong khoảng 1.000 - 1.400°C. Và khi nhiệt độ đạt tới 1.600°C, các khối tinh thể bắt đầu tan rã. Như vậy, nếu điều kiện hỏa táng thích hợp, xá lợi có thể xuất hiện do quá trình tinh thể hóa các khoáng vốn có rất nhiều trong xương người.
Vậy tại sao người bình thường không có xá lợi? Chúng ta có thể trả lời bằng cách hỏi ngược lại: Vậy tại sao không phải cao tăng nào cũng có xá lợi? Câu trả lời là nếu nhiệt độ hỏa táng ban đầu khoảng 600°C, sau đó tăng lên 1.000°C, nhiều khả năng các khối tinh thể sẽ xuất hiện, miễn là nhiệt độ không quá cao. Hiện các lò hỏa táng thường có giới hạn nhiệt độ khoảng 1.200°C, khá thích hợp để xương được tinh thể hóa. Theo Quỹ Forshang thế giới thuộc Trung tâm Phật giáo Forshang thế giới tại Đài Loan (hiện đã có cơ sở tại Mỹ, Canada và Hồng Kông), xá lợi chứa các yếu tố hóa học của cả xương và sỏi.
Như vậy việc hình thành xá lợi có thể là sự kết hợp của cả ba giả thuyết: ăn chay và ngồi thiền; sỏi bệnh lý; và sự tinh thể hóa xương khi điều kiện hỏa táng phù hợp. Theo TS. Cường, đây là giả thuyết thuyết phục nhất mà chúng ta có hiện nay. Tuy nhiên cần nhấn mạnh tính “may rủi” của sự kết hợp này: Đó là một quá trình ngẫu nhiên mà sự xuất hiện tùy thuộc vào nhiều yếu tố đôi khi không kiểm soát được. Có lẽ vì thế mà không phải vị cao tăng nào cũng có xá lợi.
KIM THY
Xem thêm clip: Kẻ gian “mạo phạm” cả Đức Phật

Linh cốt Xá Lợi- Trung tá Tôn Thất Việt

NGỌC XÁ LỢI CỦA TRUNG TÁ TÔN THẤT VIỆT SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH VNCH

https://youtu.be/lYo4hWOPIK4

Mô hình thạch táng

 

Xuất bản 27 thg 11, 2017
- Công ty chúng tôi chuyên chuyển đổi hũ tro cốt búp sen sang dạng thạch táng. - Thạch táng là một hình thức của hậu táng. Nó vừa giải quyết các vấn đề tâm linh và các vấn đề môi trường. Thạch táng áp dụng thành quả của khoa học kỹ thuật biến đổi tro cốt người quá cố thành dạng rắn vững bền. - Tên và hình ảnh người quá cố được khắc chìm vào khối pha lê, cho hình ảnh đẹp và bền mãi theo thời gian. Quý vị muốn chuyển đỗi hủ cốt hoa sen cũ sang dạng thạch táng thì liên hệ ngay để được chúng tôi tận tình tư vấn. Đc: Công Ty Pha Lê Hoa Sen 260/40 Nguyễn Văn Quá, P. Đông Hưng Thuận, Q12, TPHCM. Email: phalehoasen.co@gmail.com - phalehinhtho@gmail.com Hotline: 0917 579 589 - 0908 406 246

https://youtu.be/OoKA6vBfrlI





















































































Dịch Vụ Ép Cốt Thạch Táng

  18/11/2017
        Thạch táng là một hình thức của hậu táng. Nó vừa giải quyết các vấn đề tâm linh và các vấn đề môi trường. Thạch táng áp dụng thành quả của khoa học kỹ thuật biến đổi tro cốt người quá cố thành dạng rắn vững bền với thời gian.  
  Tên và hình ảnh người quá cố được khắc chìm vào khối pha lê, cho hình ảnh đẹp và bền mãi theo thời gian.

  - Hiện tại nhu cầu gửi tro cốt của người dân sống tại TP.HCM đang tăng cao, có lẽ vì vậy mà một số nơi muốn thay đổi cấu trúc hũ đựng cốt để đảm bảo về mặt thẩm mỹ và để có không gian thờ cúng được trang nghiêm và đặt được nhiều hũ cốt hơn.
- Công ty chúng tôi chuyên chuyển đổi hủ cốt cũ búp sen và ép tro cốt sang dạng khối rắn chắc như đá granit, dạng thạch táng hủ vuông, hình ảnh và thông tin người mất được khắc chìm vào khối pha lê được đặt ngay bên trên hủ thạch táng. Cho hình ảnh bền đẹp mãi với thời gian.
Quý vị muốn chuyển đỗi hủ cốt hoa sen cũ sang dạng thạch táng thì liên hệ ngay để được chúng tôi tận tình tư vấn.
Đc: Công Ty Pha Lê Hoa Sen
260/40 Nguyễn Văn Quá, P. Đông Hưng Thuận, Q12, TPHCM.
Email: phalehoasen.co@gmail.com - phalehinhtho@gmail.com
Hotline: 0917 579 589 - 0908 406 246

Bình luận


















CHÙA HOẰNG PHÁP | XÁ LỢI PHẬT là gì CÓ THẬT HAY KHÔNGhttps://youtu.be/gQT7eYXiH8Y

Dĩ nhiên xá lợi Phật là có thật rồi các bác ạ. Một viên hồng ngọc hay kim cương nếu gặp điều kiện thuận lợi thì sẽ tạo thành. Tuy hiếm nhưng trên thế giới có biết bao nhiêu viên hồng ngọc, kim cương... Trong khi Phật thì chỉ có một người. Người này trải qua hàng triệu năm tiến hóa tu luyện mới thành một người như thế. Cho nên mới nói vì sao xá lợi Phật có thật và lại quý hơn tất cả kim cương, hồng ngọc như thế.

KHÁM PHÁ VIỆT NAM : NGỌC XÁ LỢI PHẬThttps://youtu.be/rx-vxUlOmV0

Bí Mật 102: Xá Lợihttps://youtu.be/TEIvEB6o7g4#ongdaodua #thithe #hongnhutvlogs

CHÙA HOẰNG PHÁP | XÁ LỢI PHẬT là gì CÓ THẬT HAY KHÔNGhttps://youtu.be/gQT7eYXiH8Y

Dĩ nhiên xá lợi Phật là có thật rồi các bác ạ. Một viên hồng ngọc hay kim cương nếu gặp điều kiện thuận lợi thì sẽ tạo thành. Tuy hiếm nhưng trên thế giới có biết bao nhiêu viên hồng ngọc, kim cương... Trong khi Phật thì chỉ có một người. Người này trải qua hàng triệu năm tiến hóa tu luyện mới thành một người như thế. Cho nên mới nói vì sao xá lợi Phật có thật và lại quý hơn tất cả kim cương, hồng ngọc như thế.

KHÁM PHÁ VIỆT NAM : NGỌC XÁ LỢI PHẬThttps://youtu.be/rx-vxUlOmV0

Bí Mật 102: Xá Lợihttps://youtu.be/TEIvEB6o7g4#ongdaodua #thithe #hongnhutvlogs

Kỳ lạ thi thể "Ông Đạo Dừa" 24 năm không phân hủy ✅ Hồng Nhựt Vlogshttps://youtu.be/0_45SXtGLuM






Tịnh Độ








Những chuyện
NIỆM PHẬT VÃNG SANH LƯU XÁ LỢI
từ năm 1995 -2000

Tịnh Hải
(sưu tầm)








Tịnh Hải
18132 S. Third St.
Fountain Valley, CA 92708
E-Mail: LuuXaLoi@Yahoo.Com

Kính gởi

The Corporate Body of The Buddha Educational Foundation
11 F Hang Chow South Road Sec-1
Taipei, Taiwan, R0C

Kính thưa quí vị,

Tôi là một cư sĩ, tuy không phải là tu sĩ, nhưng tôi đã dành suốt 12 năm còn lại của đời tôi, với mỗi ngày 12 tiếng đồng hồ để học hỏi, nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Trong 12 năm này, tôi hầu như chấm dứt sự giao thiệp với bạn bè, hội hè, không đọc báo chí, không xem Tivi và nghe radio.

Trước tiên, tôi theo đuổi Thiền Tông, sau nghiên cứu Mật Tông và sau cùng tôi hiểu được Tịnh Độ Tông là nơi chốn mà 1000 người tu theo một cách nghiêm cẩn, 1000 người sẽ đắc sanh Cực Lạc Thế Giới.

Hai năm gần đây, mỗi ngày tôi chỉ thuần niệm Phật, trừ khi ăn cơm và nói chuyện. Tuy tôi chưa được Nhứt Tâm Bất Loạn, nhưng nhờ hiểu được: chuyên tâm niệm sáu chữ Nam-Mô A-Di-Đà Phật, tâm tôi không còn nhiều vọng tưởng mà tôi thông hiểu được các bộ kinh lớn của Đại Thừa.

Nhờ sự gia hộ của chư Phật, Bồ-Tát, Thiên-Thần Hộ-Pháp, tôi căn-cứ vào Kinh Quán Vô Lượng Thọ soạn ra pháp tu Quán Phật Trì Danh Tịnh-Độ Thiền.

Viết xong pháp tu này, tôi đưa trình cho Hòa-Thượng Thích-Đức-Niệm xem, và Hòa-Thượng đã hiệu đính.

Hẳn quí vị cũng biết, Hòa-Thượng Thích-Đức-Niệm là một Tăng-sĩ Việt-Nam du học tại Đài-Loan, đã đậu hai bằng Tiến-sĩ Phật học.

Tôi không có in pháp tu Quán Phật Trì-Danh Tịnh Độ Thiền thành sách, nhưng một trung-tâm chuyên thâu âm kinh sách Phật, mang tên Lotus Productions đã thâu băng cassette và đã phát hành trên 5000 cuốn. Hiện nay mỗi kỳ lễ Phật đều có người ấn tống để biếu Phật tử.

* * *

Kính thưa quí vị,

Hôm nay, tôi xin gởi đến quí vị bản đánh máy một quyển sách dầy trên 700 trang với trên 20 trang hình mầu, tựa đề "Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Sưu Giải".

Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật được Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán văn, vào thập niên 90 và được chùa Đức Viên tại Hoa Kỳ ấn tống đầu tiên vào 1997. Nay Hòa Thượng Thiền Tâm đã viên tịch. (Xin gởi kèm bổn kinh này).

Hiện nay rất ít Phật tử Việt-Nam biết đến Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nầy. Lần đầu tiên đọc kinh này tôi đã mừng rỡ đến rớt nước mắt và coi như là kinh gối đầu giường của tôi. Đức Bổn Sư Thích-Ca dạy pháp tu Niệm Phật thành Phật ngay trong đời, chứng đắc Niết-Bàn tại thế. Và Ngài huyền ký kinh này sẽ lưu lại 50 năm sau cùng.

Tôi thiển nghĩ, Phật tử Việt-Nam cần biết rõ kinh này để mà học tu. Vì vậy tôi đến thỉnh ý Hòa-Thượng Thích-Đức-Niệm, được Ngài khuyến-khích việc sưu giải kinh này. Trong khi sưu giải kinh, gặp 2 lần bí nghĩa, tôi đến trước bàn Phật thắp nhang cầu nguyện; nhờ sự gia hộ của Chư Phật, Bồ Tát, v.v... sau giấc ngủ tôi đạt ngộ một cách không sao giải thích được. Tôi đã viết rõ điều ấy trong sách này.

Sau khi sách viết xong, tôi mang trình cho Hòa Thượng Đức Niệm, Ngài xem xong và chứng minh. Tôi cũng đã gởi một bổn sách đến Hòa Thượng Thích-Minh-Tâm, Chủ-tịch Giáo-Hội Phật Giáo Việt-Nam Thống-Nhất tại Âu Châu, và lời giới thiệu của Hòa-Thượng Thích-Minh-Tâm được tôi đăng nguyên văn trong sách này.

Thưa quí vị,

Một người bạn của con tôi ở Đài Loan khuyên tôi nên nhờ một tu sĩ viết thơ giới thiệu cho quí vị. Tôi không muốn làm điều ấy. Ngày xưa, khi Ngài Cưu-Ma-La-Thập dịch kinh, Ngài có nguyện rằng, nếu kinh Ngài dịch không sai với chánh pháp thì khi Ngài chết đi, sau khi thiêu xin cho cái lưỡi của Ngài còn nguyên vẹn. Tôi là kẻ hậu học, không sánh với bậc Thánh Tăng. Nhưng tôi đã thầm vái với Đức Từ Phụ A-Di-Đà rằng: "Nếu sách của tôi hữu ích cho chúng sanh thời Mạt pháp" xin cho được sự tiếp sức ấn tống và phát hành rộng-rãi khắp nơi.

Kính thưa quí vị,

Với thư này, tôi chánh thức xin quí vị, nếu được sự chấp nhận cho in, thì xin in với số in tối thiểu là 50.000 cuốn. Từ lâu các chùa Việt Nam, vì quá nghèo chỉ in vài ngàn cuốn. Kinh sách in từ lâu chỉ đủ phát các Tăng Ni và một số người nhiều thiện duyên, do nhờ họ thường xuyên đến chùa. Còn đa số, Phật tử chẳng biết gì về kinh sách Phật. Tôi đã nguyện, nếu sách tôi được in, thì xin cho được in số nhiều khiến khắp Phật tử chúng sanh đều được đọc và học tu. Với con số 50.000, tuy khá lớn, nhưng vẫn không đáp ứng đúng nhu cầu của các từng lớp Phật tử. Sách in quí vị có thể chia làm nhiều đợt gởi đến cho chúng tôi, cứ 6 tháng cho một lần nếu quí vị chấp thuận. Tôi sẽ kêu gọi sự ủng hộ của Phật tử ở hải ngoại giúp cho sự phân phối khi sách quí vị gởi đến.

Và để mọi Phật tử tu theo pháp môn Niệm Phật biết sách này, tôi sẽ nhờ các trang mạng lưới điện toán toàn cầu (internet) đăng lên và nhờ Trung Tâm Lotus Productions thâu vào băng cassettes để phổ biến rộng rãi.

* * *

Và kính thưa quí vị,

Ngoài ra, tôi cũng xin trình bày thêm. Cuối quyển Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Sưu Giải này có một phần phụ lục. Đó là những chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi. Nhờ sự gia hộ của Chư Phật, Bồ Tát, khi viết sách này tôi được biết có nhiều vị tu niệm Phật (từ năm 1995 đến năm 2000) sau khi vãng sanh, làm lễ Trà Tỳ, tìm được vô số xá lợi, và tôi thu thập đầy đủ chứng liệu cùng hình ảnh. Cũng nhờ sự gia hộ mà tôi đã áp dụng kinh để chứng thấy sự đắc quả vãng sanh Cực Lạc của quí vị ấy. Trong số 7 vị này, có Ngài Tuyên-Hóa, cùng Sư Bà Đàm-Lựu và Sa-di Thích Minh Đạt. Cư sĩ có 4 vị, trong số này có 1 nam và 1 nữ cư sĩ Việt gốc Hoa.

Trong khi chờ đợi toàn bộ sách Sưu Giải được quí vị in, thân nhân của quí vị đắc vãng sanh có nhờ tôi lo việc in riêng phần phụ lục với kinh phí do các thân nhân và Phật tử đóng góp. Tôi đang lo phần in này 10.000 ấn bản với tựa riêng là: "Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi".

Thân nhân của vị nam Phật tử người Việt gốc Hoa hiện ở Chicago cho rằng tuân đúng theo hạnh tu của quí vị được kể trong sách phụ lục, thì chắc chắn được vãng sanh, nên họ đang tìm người nhờ dịch sang Anh và Hoa văn để họ ấn tống. Bởi nghĩ đến sự hữu ích ấy, tôi xin gởi kèm theo đây, bản đánh máy quyển "Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi" để tùy quí vị suy xét. Nếu quí vị chấp thuận và cho in bao nhiêu, chúng tôi cũng chấp nhận, dù là cả trăm ngàn quyển.

* * *

Trước khi dứt lời, Phật tử Việt Nam và tôi xin nghiêng mình kính phục trước việc làm cao cả vì Phật pháp của quí tổ chức. Công đức của quí vị quả thật không thể nghĩ bàn.

Trân trọng kính chào
Tịnh Hải

Phụ chú: Nguyên văn thơ này, tôi xin mạn phép đăng trong sách Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Sưu GiảiNhững Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi để Phật tử Việt-Nam hiểu rõ từ tâm của quí vị đã ban pháp thí cao cả đến cho họ.





Những năm gần đây bỗng có nhiều tin (có thật) về Người Tu-Niệm-Phật, sau khi chết làm lễ hỏa táng thấy có Xá-Lợi. Quả là chuyện khó tin đối với nhiều người. Tại sao?
Vì từ hồi chúng ta còn ở quê nhà, nghĩa là trước thời kỳ lưu vong 1975, chúng tôi không từng nghe nói, Phật tử tu hành sau khi lâm chung lưu lại Xá-Lợi. Trong thành phần Tăng sĩ thì có, nhưng cũng rất ít. Như trường hợp Xá-Lợi của Đại sư Ấn-Quang (Tổ thứ 13 Liên Tông), sau khi Trà-Tỳ 32 cái răng còn nguyên, Xá-Lợi ngũ sắc được vài ngàn hột. Chuyện nầy được trích trong "Đường về Cực-Lạc" tập 1 của Hòa-Thượng Thích-Trí-Tịnh. Nhưng có một điểm đặc biệt là vào thời trước, những vị tu được vãng sanh đều được Phật A-Di-Đà và Bồ-Tát báo trước ngày giờ. Như trong quyển "Đường về Cực Lạc" tập 2 dày trên 300 trang, đăng toàn những trường hợp vãng sanh biết trước ngày giờ Tây Phương Tam Thánh đến đón, với hào- quang chói sáng hương thơm ngào ngạt.
Theo Kinh Đại-Bát Niết-Bàn lúc Đức Phật nhập Niết-Bàn, sau lễ Trà Tỳ Xá-Lợi của Phật đựng đầy 8 ché vàng. Mỗi ché là một hộc và được phân chia cho 8 nước đem về xây Tháp thờ.
Kinh Đại-Bát Niết-Bàn tập 3 trang 785, Đức Phật bảo ngài A-Nan: "Nầy A-Nan! Nếu thấy Xá-Lợi của Như-Lai là thấy Phật...."

Có lẽ do lời nói trên mà nhiều người cho rằng chỉ có Phật mới có Xá-Lợi. Sự thật chẳng phải vậy. Chẳng những Đức Phật có Xá-Lợi mà bất cứ ai tu tinh-tấn đạt được sức định tốt, dứt được phiền não là dứt được nghiệp quá khứ, đều có Xá-Lợi (chúng tôi sẽ trình bày điểm nầy ở phần cuối bài). Chúng tôi khẳng định như thế vì điều nầy được nói trong tập 3 trang 772 Kinh Đại-Bát Niết-Bàn. Tuy nhiên, riêng đối với Đức Phật, dù khi Ngài chưa nhập Đại Niết-Bàn, móng tay và tóc của Phật vẫn được coi như là Xá-Lợi.
Tương truyền, lúc Đức Thế-Tôn vừa thành đạo dưới cội Bồ-Đề, có hai thương-gia người Miến tên là Đề-Lê Phú-Bà và Bạc-Lê-Ca đang trên đường đi ngang qua chỗ Đức Phật ngồi. Trong đêm, một trong hai người được một vị Trời là quyến thuộc trong kiếp trước, mách bảo rằng: "Đức Thế-Tôn vừa đắc quả Chánh Giác đang ngồi dưới cội Bồ-Đề, hai anh mau lo sắm sửa đồ cúng dường. Phước báu nầy sẽ đem lại cho hai anh sự an vui hạnh-phúc".

Sau lễ cúng dường hai thương-gia Miến qui y Phật. Đấy là hai người quy y Phật đầu tiên. Đức Phật liền cắt tóc và móng tay tặng để lưu niệm. Về sau Phật-giáo Miến-Điện xây Tháp thờ tóc và móng tay Phật coi như là Xá-Lợi Phật.
Theo Đại Đức Thích-Quảng-Chơn, tương truyền ngọc Xá-Lợi của Phật có thể biến hóa từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn, từ đục thành trong và tỏa sáng hào quang. Sự biến hóa kỳ diệu này phải do sự thành tâm lễ bái chí-thành của người có đạo tâm ... Thầy Abhinyana, một vị sư người Anh từng giúp đồng bào tỵ nạn tại Phi-Luật-Tân, khi đến thăm các chùa Phật-giáo Việt-Nam ở Hoa-Kỳ thường cúng dường một viên ngọc Xá-Lợi của Phật. Tôi tò mò hỏi Xá-Lợi ở đâu mà thầy có nhiều thế. Thầy Abhinyana nói rằng trong thời gian tu tập tại Ấn Độ thầy chuyên tâm lễ bái các Tháp Xá-Lợi của Phật và các viên Xá-Lợi đã hiện ra trong bình bát. Thầy có dặn thêm là nếu thờ Xá-Lợi mà không lễ bái thì Xá-Lợi sẽ biến mất (Trích Kỷ yếu Sư Bà Đàm-Lựu).
Trong Đặc San Từ Ân, thầy Đức Viên viết về Xá-Lợi của cố Sa-Di Thích-Minh-Đạt có nói: "Ai ngờ, theo kinh-nghiệm của đạo Phật, chỉ có những bậc Bồ-Tát, thật mới có Xá-Lợi".

Điều nầy Đại-Đức Đức-Viên nói không sai. Người tu Đại Thừa, dù Tăng-sĩ hay Cư-sĩ, như đã nói, tu tinh-tấn dứt hết phiền não là dứt được nghiệp quá khứ, có Xá-Lợi sau khi lâm chung.
Tại sao chúng tôi dám cả quyết Tăng-sĩ lẫn Cư-sĩ tu tinh-tấn và chí thành Niệm Phật sau khi lâm chung có Xá-Lợi!
Bởi trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật (H.T. Thích-Thiền-Tâm dịch, chùa Đức-Viên San José ấn tống) Đức Phật dạy:

Phẩm Thứ Nhứt:

Đức Phật nói: "Không có pháp nào hơn pháp Niệm Phật (trang 17). Đây là môn tu Đại Bát Nhã, Đại Thiền Định ... giúp chúng sanh mau chóng vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng Pháp Thân từng phần (trang 19)."

Theo Kinh Đại Bát Niết-Bàn phải tu đến bực Thập Trụ Bồ-Tát mới thấy Pháp Thân. Ở đây Đức Phật nói, tự chứng Pháp Thân từng phần, tức tự chứng Bồ-Tát bực thấp. Phẩm Thứ Hai Phật nói rõ hơn.

Phẩm Thứ Hai:

Đức Phật nói: "Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, thì năng lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng Sơ-Phần Pháp-Thân (trang 29)."

Chứng Sơ-Phần Pháp-Thân là chứng được quả Sơ-địa Bồ-Tát tức bực Hoan-Hỷ-Địa Bồ-Tát. Với Người Tu Niệm Phật do chí thành xưng niệm danh hiệu Phật, tự nhiên chứng quả mà không hề hay biết. Đây là điều đáng lưu ý. Đây là chúng tôi dẫn chứng lời Đức Phật nói trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật để chứng minh cho bài viết của Đại Đức Thích-Đức-Viên đăng trong Đặc San Từ Ân nói về Xá-Lợi của cố Sa-Di Thích-Minh-Đạt.
Bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết ở Dallas tu xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, bà tu chí thành và ráo riết, buông bỏ mọi tình cảm thế gian trong thời gian 1 năm, khi lâm chung có hào quang Phật và Thánh Chúng đến tiếp dẫn, có hương thơm bay tỏa khắp nơi, sau khi làm lễ Trà Tỳ lưu lại nhiều Xá-Lợi, được Pháp sư Tịnh Không (người Trung Hoa) gọi bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết là Bồ-Tát.
Bồ-Tát có hai hạng: một là Bồ-Tát Sơ-phát-tâm, người mới tu Bồ-Tát đạo; hai là Bồ-Tát hành đạo. Hành giả bắt đầu tu xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, được Phật và Đại Bồ-Tát gọi là Bồ-Tát Sơ-phát-tâm.

Phẩm Thứ Tư:

Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát nói: "Danh hiệu Phật như chiếc xe khổng lồ, vì có thể chuyển vận hết thảy Bồ-Tát Sơ-phát-tâm nhanh chóng tới Phật địa (trang 69). Danh hiệu Phật như hóa thân bất tư nghị, vì luôn hiện thân Phật ngay nơi thân và tâm người xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật (trang 71)."

Bồ-Tát Sơ-phát-tâm, tuy mới bắt đầu vào Bồ-Tát đạo, nhưng đối với hành-giả tu xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật thì con đường không quá gian nan, vì danh-hiệu Phật có nhiều uy lực, thần lực, nhiều diệu dụng trợ giúp Bồ-Tát Sơ-phát-tâm; vì danh-hiệu Phật là cỗ xe khổng lồ có thể chở tất cả Bồ-Tát Sơ-phát-tâm đến cõi Cực-Lạc. Nếu hành giả chí thành và chuyên tâm xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật trong một thời gian ngắn, từ Bồ-Tát Sơ-phát-tâm sẽ trở thành Bồ-tát hành đạo không khó khăn; vì hóa thân Phật A-Di-Đà luôn luôn hiện nơi thân và tâm của người niệm Phật.
Nếu khi xưng niệm danh-hiệu Phật, hành giả luôn luôn tin tưởng hóa thân Phật A-Di-Đà đang ở trong thân và tâm mình, thì hiệu quả không thể nghĩ bàn.

Phẩm Thứ Năm:

Quán Thế Âm Đại Bồ-Tát nói: " Các pháp ở thế gian đều như huyễn. Tiếp tục xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật mà không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự ... đó là danh-hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc ... tròn đầy chiếu suốt mười phương (trang 89). Nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội thành Bồ-Đề Thật Tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Trí Tự Chứng ... niệm niệm tương ứng với Đại Địa Bồ-Tát (trang 90)."

Như nơi Phẩm Thứ Nhứt, Đức Phật nói tu niệm Phật là tu Đại Bát-Nhã, Đại Thiền-Định nên phải biết các pháp thế gian đều là huyễn, tất cả đều không thật. Khi niệm Phật, các sự việc, các cảnh xảy ra trước mắt đều đừng phóng tâm theo nó, tự nhiên biết đó là huyễn sự, huyễn cảnh, thì danh hiệu Phật trở thành một dòng tâm tuôn chảy liên miên bất tận trong thân tâm hành giả; lâu ngày trở thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Từ đó hành giả đã có hào quang mà tự mình chưa thấy; những phiền não dữ dội của hành giả đã biến thành Bồ-Đề Thật Tướng (Bồ-Đề là giác, Thật Tướng của giác là Pháp Thân) đưa hành giả vào cảnh giới Tự Chứng của bực Thánh, tương ứng với Đại Địa Bồ-Tát tức Pháp-Vân-Địa Bồ-Tát thuộc bực thứ mười: Thập Trụ Bồ-Tát.

Trong Kinh Đại Bát Niết-Bàn (tập 3 trang 763) Tu-Bạt-Đà-La hỏi Đức Phật:

- Bạch Thế-Tôn! Thế nào là Thật Tướng?

Đức Phật trả lời:

- Nầy Thiện-Nam-Tử! Tướng vô tướng gọi là Thật Tướng!

Pháp Thân không có hình tướng, nên trong Chứng Đạo Ca, Huyền-Giác Đại sư nói: "Thân không huyễn hóa tức Pháp Thân". Đó là cái thân "tướng vô tướng". Đó là Bồ-Đề Thật Tướng vậy!

Tất cả chúng sanh đều có hào quang, nhưng bị Vô-Minh phiền não che mờ, bực giác ngộ hết phiền não hào quang hiện bày.
Khoa-học ngày nay đã chế được máy chụp hình hào quang. Cư-sĩ Minh-Giác Nguyễn-Học-Tài, khi còn sanh tiền, tu niệm Phật mười năm được người con rể dùng máy chụp hình hào quang 6000 do hãng The Progen chế tạo, thấy có hào quang trên đỉnh đầu.

Phẩm Thứ Sáu:

Đại Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói: "Bất cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu và hoan-hỷ thọ trì danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc mười pháp quyết định bất khả tư nghị (trang 111)."

Trong mười pháp quyết định có pháp thứ chín, nói: "Quyết định hòa hợp thân và tâm vào Kim Thân của chư Phật" (trang 112). Kim Thân tức là thân màu sắc vàng ròng của chư Phật. Khi niệm Phật hòa hợp thân và tâm vào Kim Thân Phật là hành giả đắc Pháp-Vân-Địa Bồ-Tát, tức niệm niệm tương ứng với Đại Địa Bồ-Tát mà Phẩm Thứ Năm đã nói.
Đến đây hành giả được đầy đủ Bát Nhã và Thiền-định, chắc-chắn được đầy đủ Xá-Lợi. Nếu hành giả hành trì thêm Thần chú tức đắc thêm pháp Tổng Trì Đà-La-Ni thì thật hoàn hảo. (Sư bà Đàm-Lựu vừa trì chú vừa niệm Phật nên Sư Bà đắc được Pháp Thân).

A-La Hán Cũng Có Xá Lợi

Bực Thánh đều có Xá-Lợi. A-La-Hán cũng là bực Thánh, nên A-La-Hán cũng có Xá-Lợi như Bồ-Tát và Phật.
Kinh Đại Bát Niết-Bàn (tập 3 từ trang 753) Đức Phật kể chuyện ông Tu-Bạt-Đà-La, một Phạm Chí, (tức Bà-La-Môn xuất gia), năm 120 tuổi tu tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng định. Vị nầy tu tới đây, kẹt lại đây, mà tưởng mình đã được Nhứt Thiết Chủng Trí, và tưởng sẽ đắc quả Niết-Bàn.
Lúc đó vào ban ngày, chỉ còn chờ tới nửa đêm là Đức Phật nhập Đại Niết-Bàn. Do duyên quá khứ, Đức Phật muốn độ Ông Tu-Bạt-Đà-La là người cuối cùng trước khi vào Đại Niết-Bàn nên sai A-Nan kêu Tu-Bạt-Đà-La đến.
Nghe Đức Phật nói pháp thậm thâm vi diệu, Tu-Bạt-Đà-La được pháp nhãn thanh tịnh bỏ tà kiến xin xuất gia. Đức Phật chấp nhận. Tu-Bạt-Đà-La vui mừng hớn hở, râu tóc tự rụng, thành tướng Sa-Môn, dứt hết phiền não được quả A-La-Hán.

Ngài Tu-Bạt-Đà-La dứt hết phiền não được quả A-La-Hán. Đây là Kinh Đại-Bát Niết-Bàn. Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Ngài Quán Thế Âm nói: "Chuyển phiền não dữ dội thành Bồ-Đề Thật Tướng" được Pháp Thân.
Phiền não quan trọng như vậy đó. Xin quí vị lưu ý chữ phiền não, chúng tôi sẽ trở lại ở đoạn sau.
Sau khi được quả A-La-Hán, Tu-Bạt-Đà-La xin Đức Phật nán lại đừng nhập Niết-Bàn. Đức Phật nín lặng chẳng hứa. Tu-Bạt-Đà-La bèn khóc thảm thiết và xin Phật cho được chết trước. Bạch xong Tu-Bạt-Đà-La liền ở trước Phật mà nhập Niết-Bàn.
Đức Phật bảo đại chúng: "Tu-Bạt-Đà-La đây đã từng cúng dường hằng hà sa chư Phật, đã trồng sâu căn lành, do sức đại-nguyện ... Đại chúng phải nên cúng dường thi hài của ông ấy và xây lập tháp miếu".
Đại chúng y lời Phật dạy, dùng gỗ thơm Trà Tỳ thi hài của Tu-Bạt-Đà-La. Trà Tỳ xong, đại chúng tìm thấy Xá-Lợi, dựng tháp cúng dường.
Tu-Bạt-Đà-La đã từng cúng dường hằng hà sa chư Phật, đó là nguyên nhân trước khi nhập Đại Niết-Bàn, Đức Phật ráng độ cho Tu-Bạt-Đà-La được quả A-La-Hán.
Dưới đây là chuyện những vị tu Niệm Phật, tại Hoa-Kỳ và Canada, sau khi lâm chung làm lễ hỏa táng, lưu lại Xá-Lợi trong thập niên 1990 đến năm 2000. Trong hàng Tăng-sĩ có Hòa-Thượng Tuyên-Hóa, Sa-Di Thích-Minh-Đạt và Sư Bà Đàm-Lựu. Cư sĩ có bà Diệu-Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết, bà Diệu-Hưng Nguyễn-Thị-Tân, cụ bà Quảng-Khánh Huỳnh-Thị-Dền và ông Chúc-Quý Lư-Nhiên-Phú.
Nhưng với người Việt-Nam-Tu-Phật, nói đến Xá-Lợi không ai có thể không nhắc đến viên Xá-Lợi độc đáo nhứt trong đạo Phật. Đó là Trái Tim Xá-Lợi Bất Diệt của Bồ-Tát Thích-Quảng-Đức.
Do vậy, chúng tôi xin cống-hiến cho quí vị về viên Xá-Lợi Đặc Biệt của Bồ-Tát Quảng-Đức, đó là Trái Tim Bất Diệt với tài liệu đặc biệt chưa từng công bố. Đây là chứng minh sự đắc quả của một bực chân tu






Hình chụp tại chùa Diệu-Thông, Cao-Hùng, Đài-Loan, lúc Hòa-Thượng Quảng-Khâm viên-tịch. Một đệ tử tại gia chụp hình lưu niệm, còn dư một phim, thấy ánh trăng liền đưa máy lên "chụp chơi". Khi rửa hình thì không thấy mặt trăng mà có hình hoa sen nhiều cánh như trên, chứng tỏ "HOA SEN của Ngài Quảng-Khââm đã nở".

HOA SEN thật độc-đáo, chỉ có HOA SEN nầy mới có thể ngồi vào khi vãng sanh cực-lạc.

Hình HOA SEN nầy được Tịnh-Trung Học Viện Dallas, Texas, biếu cho Phật tử. Trong lời chú-thích có sáu chữ "Phật Pháp Bất Khả Tư Nghị". Bên góc trái có ghi tên nhà in, địa chỉ và số điện thoại để bảo đảm giá trị; nhưng rất tiếc không thấy rõ chữ mà chỉ thấy số điện thoại: 02-9292-807 và 02-9248-720.

Theo sách Cẩm Nang Tu Đạo, HT Quảng Khâm viên tịch vào năm 1986, đại thọ 94 tuổi. Ngài theo Pháp Môn Thiền Tịnh Song Tu, từng ngồi Thiền nhập đại định và mỗi lần nhập định kéo dài nhiều tháng. Khi viên tịch Ngài ngồi giữa chánh điện, đại chúng đồng thanh niệm Phật, Ngài nhìn gật đầu mỉm cười, rồi nhắm mắt lại an nhiên theo tiếng niệm Phật mà ra đi.






Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức đi tu từ thuở nhỏ ở miền Trung. Ngài sống cuộc đời giản dị và hoằng pháp độ sanh bằng phương cách xây dựng nhiều chùa. Trong cuộc đời Ngài đã xây cất tất cả 31 ngôi chùa, gồm 14 chùa ở miền Trung và 17 chùa ở miền Nam.
Trong cuộc tranh đấu Phật Giáo chống chánh sách Kỳ thị Tôn Giáo và gia đình trị của chế độ Ngô-Đình-Diệm vào mùa Phật Đản 1963, là thời kỳ sôi nổi nhứt, Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức về ngụ tại chùa Ấn-Quang để tiện bề tham gia cuộc tranh đấu.
Ngày 30-5-63, Hòa-Thượng tham gia cuộc biểu tình tại công trường Lam Sơn trước Quốc Hội, tới 5 giờ chiều về chùa Xá-Lợi dự cuộc tuyệt thực. Dịp nầy Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức trình lên Ủy-Ban Liên-Phái Bảo Vệ Phật-Giáo một bức Tâm thư xin tình nguyện tự thiêu. Thư đề ngày 27-5-63. Ủy-Ban Liên-Phái không chấp nhận sự tự thiêu.
Nhưng đến ngày 10-6-63, tình hình không được sáng sủa, chẳng những vậy mà Phật giáo tại Huế đang bị lâm nguy. Lúc nầy Hòa-Thượng đang tụng Kinh Pháp-Hoa tại chùa Ấn-Quang. Vào 8 giờ tối 10-6-63, Thương-tọa Thích-Tâm-Châu và Thiện-Hoa đang họp ở chùa Xá-Lợi. Quí vị cho mời Đại Đức Thích-Đức-Nghiệp tới chùa để nhờ Đại Đức chuyển lời hỏi Hòa-Thượng Quảng-Đức về tâm nguyện tự thiêu nếu Hòa-Thượng không thay đổi thì tổ-chức ngay cuộc tự thiêu vào ngày hôm sau.
Hòa-Thượng Quảng-Đức trả lời Đại Đức Đức-Nghiệp rằng Ngài vẫn quyết tâm hy-sinh cho đạo pháp, tự thiêu để cúng dường Tam Bảo. Trả lời Đại Đức Đức-Nghiệp xong, Hòa-Thượng bình thản như không có chuyện gì, lúc ấy là 7 giờ 30 đêm 10-6-1963, Ngài lên chánh điện Chùa Ấn-Quang chủ lễ khóa Tịnh-Độ thường ngày. Buổi lễ cuối cùng ấy có Đại Đức Huệ-Thới đi chuông, Đại Đức Đức-Niệm đi mỏ.
Đại chúng hiện diện đều không ai biết một biến-cố quan trọng sắp xảy ra. Sau khi Phật tử về hết, tại giữa chánh điện, Hòa-Thượng Quảng-Đức mới tâm sự với hai Đại Đức rằng:
- Vì đạo pháp tôi xin hiến thân giả huyễn nầy để cho Pháp Nạn được giải thoát. Ngày mai nầy tôi sẽ từ giã cõi đời, hẹn gặp hai Thầy ở cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Sau khi tôi tự thiêu để hiến dâng cho Phật Pháp, xin các Thầy lưu ý, vì tôi không thể trực tiếp nói điều này với các Ngài lãnh đạo:
Một là, sau khi thân tôi thiêu thành tro bụi sẽ còn lưu lại một vật gì đó cho đời, thì đó là kết quả tốt đẹp về lời Phát nguyện của tôi hiến dâng thân này cho Đạo Pháp và đó cũng là thành quả đời tu hành của tôi.
Hai là, khi tôi thiêu, nếu tôi chết trong tư thế nằm ngửa thì nguyện vọng Phật-Giáo sẽ thành công, các Thầy cứ tiếp tục tranh-đấu. Ngược lại nếu tôi chết nằm sấp thì quý Thầy nên tìm cách đi ra các nước Miên, Lào, Thái, v.v... để mà tu, nguyện vọng tranh đấu của Phật-Giáo sẽ không thành.
Ba là, ngày di quan tài của tôi, nếu các Thầy có cảm thấy triệu-chứng gì lạ lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay, dời việc di quan qua ngày khác.
Nghĩ lại ba điều Hòa-Thượng Quảng-Đức nói đêm trước ngày tự thiêu đều hiển ứng:
1. Thân thể Ngài thiêu thành tro, mà quả tim của Ngài vẫn còn đỏ hồng như trái xoài chín dưới sức nóng 4.000 độ; nóng đến nỗi lò thiêu An-Dưỡng-Địa đã phải nứt nẻ.
2. Khi ngọn lửa thiêu thân vừa lặn tắt, ba lần cuối đầu xá về hướng Tây, liền ngay khi đó, Ngài bật ngửa nằm im trên mặt đất giữa ngã tư đường Phan-Đình-Phùng và Lê-Văn-Duyệt trong tiếng niệm Phật vang dội của hàng trăm chư Tăng Ni đang ngồi vây quanh chấp tay thành kính. Tư thế viên-tịch đúng như Ngài huyền ký lại, làm cho Tăng tín đồ tin tưởng vào sự thành công nguyện vọng bình đẳng tôn giáo mà quyết tâm dấn thân hơn. Chung cuộc chánh nghĩa đã thắng.
3. Ai sống trong thời 1963, nếu có lưu tâm đến thời cuộc đều nhớ ngày di quan của Hòa-Thượng Quảng-Đức ra An-Dưỡng-Địa để thiêu. Theo chương trình là 10 giờ sáng. Dân chúng ở hai bên đường Phan-Thanh-Giản và đường Minh-Mạng lập hương án để tiễn đưa Ngài; nhưng mọi người đợi mãi đến hơn 12 giờ trưa mà vẫn chẳng thấy đâu. Sau đó mới nhận được thông báo của Ủy-Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật-Giáo cho biết dời ngày di-quan. Dân chúng lúc bấy giờ vô cùng bàng-hoàng kinh ngạc. Khoảng 2 giờ chiều hôm ấy, người ta thấy năm bảy người mặc sắc phục đen lặng lẽ từ dưới bờ ruộng bước lên gở những quả mìn đã được chôn từ lúc nào trên quãng đường đất dẫn đến lò thiêu của An-Dưỡng-Địa.



Sau 3 lần cúi sấp, nhục thân của Bồ-Tát Thích-Quảng-Đức đã bật ngửa ra sau đem đến niềm tin thắng lợi cho cuộc tranh đấu vì đạo pháp của toàn thể Tăng tín đồ Phật-Giáo.
*
Nói về Hòa-Thượng Quảng-Đức, người sống rất giản-dị thật bình dân. Lúc nào tay cũng lần chuỗi, niệm Phật với gương mặt thản nhiên và miệng luôn luôn như mỉm cười. Những ngày Ngài ở chùa Ấn-Quang để chờ cấp lãnh-đạo Phật-Giáo chấp thuận tâm nguyện tự thiêu, Ngài ăn cơm với Tăng chúng, chứ không ngồi ăn cùng bàn với Ban Giám-đốc Phật-Học Đường Nam-Việt Chùa Ấn-Quang, hay các vị lãnh đạo Phật-Giáo.
Nói như thế để chúng ta thấy rằng, người mang tâm nguyện Bồ-Tát vào đời hành đạo bao giờ cũng thể hiện đời sống bình dị, pháp tu đơn giản của Phật dạy. Pháp tu đơn giản mà chúng tôi muốn nói ở đây chính là Pháp môn niệm Phật. Có lẽ vì quá đơn giản mà người đời xem thường, từ tâm lý xem thường đưa đến khó tin vào năng lực của Pháp môn niệm Phật, như Kinh A-Di-Đà Phật nói: "Nan tín chi pháp" . Có nghĩa là Pháp môn niệm Phật vãng sanh Cực Lạc thật là đơn giản mà hiệu năng thì vô cùng. Vì vậy mà người đời khó tin!
Tưởng cũng nên nhắc lại, đến đêm 20-8-63, Ngô-Đình-Diệm lại phản bội những gì đã ký kết với Phật-Giáo, rồi cho lịnh tấn-công vào các chùa, bắt giam tất cả Tăng Ni toàn quốc, kể cả các vị lãnh đạo Ủy Ban Liên Phái Bảo vệ Phật Giáo Việt-Nam tại Chùa Xá-Lợi.
Trong đêm đó cảnh-sát của Diệm Nhu dự định đoạt lấy Trái Tim Xá-Lợi, nhưng một Thiếu Tá cảnh-sát đã nhanh tay cất giấu Trái Tim Xá-Lợi ấy, toán Cảnh Sát quýnh quáng tìm kiếm mà không ra. Sau khi tình hình yên ổn vị Thiếu Tá ấy - là một Phật tử – đem hoàn lại vật thiêng cho quý vị lãnh đạo Phật-Giáo tại chùa Xá-Lợi.
Sau nầy khi Cộng Sản chiếm Sàigòn, họ đã cưỡng đoạt chiếm lấy Trái Tim Xá-Lợi Bất Diệt của Bồ-Tát Thích-Quảng-Đức để làm quốc bảo đồng thời cũng để tuyên truyền cho chế độ.
Thường niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật: sẽ được đầy đủ Sáu Ba-La-Mật

Đại Bố Thí: Trong quên mình, ngoài quên cảnh.Đại Trì Giới: Không sanh lòng tham, sân, si. Đại Nhẫn Nhục: Chẳng chấp thị phi, nhân ngã.Đại Tinh Tấn: Niệm Phật không gián đoạn.Đại Thiền Định: Vọng tưởng không móng khởi.Đại Trí Tuệ: Không bị sư khác và pháp khác làm mê lầm.





Hòa-Thượng Tuyên-Hóa không phải là một Tăng sĩ Việt-Nam, nhưng Ngài là người tu Phật giáo, vừa tu Thiền vừa Niệm Phật tức Thiền Tịnh Song Tu, khi lâm chung để lại Xá-Lợi nên chúng tôi nêu danh Ngài ở đây.
Ngài được sanh ra tại đất Mãn-Châu tức vùng Đông Bắc nước Trung-Hoa. Từ nhỏ Ngài đã có tâm tu, muốn xuất gia nhưng thân mẫu Ngài muốn khi bà chết hãy đi tu. Từ đó mỗi ngày Ngài lạy Phật, cha mẹ, trời đất.v.v... sáng 837 lạy, chiều 837 lạy.
Năm 19 tuổi mẹ chết, Ngài liền xuống tóc xuất gia. Rồi Ngài về nơi mộ mẹ cất túp lều tranh nhỏ, thủ hiếu ba năm. Suốt ngày Ngài tọa Thiền, tụng Kinh điển Đại Thừa và xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
Nhiều lần Ngài ngồi Thiền rồi nhập định liên tiếp nhiều tuần lễ. Một đêm nọ dân chúng quanh vùng hốt hoảng thấy nơi túp lều của Ngài hừng hực lửa đỏ. Họ tưởng lều Ngài cháy, nhưng đến nơi thì căn lều vẫn nguyên vẹn và lặng yên, còn Ngài thì đang nhập định.
Có lần Ngài đang tọa Thiền thì thấy Lục Tổ Huệ-Năng đến viếng dạy rằng "Tương lai Ngài sẽ đến Mỹ Quốc để độ sinh." Sau đó Ngài đi về hướng Nam nước Tàu, đến chùa Nam-Hoa, nơi Lục Tổ Huệ-Năng còn để lại nhục thân. Nơi đây Ngài gặp Hòa-Thượng Hư-Vân lúc ấy đã 109 tuổi, mà Ngài thì chỉ mới 28 tuổi. Đại lão Hòa-Thượng Hư-Vân ấn chứng Sở đắc của Ngài. Từ đó Ngài là thị giả của Hòa-Thượng Hư-Vân. Rồi Ngài chánh thức thành Tổ thứ chín của Thiền Tông Quy Ngưỡng và trở thành Viện Trưởng Viện Giới Luật của chùa Nam-Hoa.
Ngài chuyên ăn ngọ và ngủ ngồi.
Năm 1946, Ngài rời chùa Nam-Hoa sang Hong-Kong lập chùa giảng đạo. Năm 1962 Ngài sang Hoa-Kỳ thực hiện lời dạy của Lục Tổ Huệ-Năng.
Ngài đem chánh-pháp đến Bắc Mỹ, xây dựng nhiều chùa ở Hoa-Kỳ và Canada. Nhiều chùa của Hòa-Thượng Tuyên-Hóa có tầm vóc quốc tế như Vạn Phật Thánh Thành, Pháp Giới Thánh Thành. Ngài còn lập trường dạy chữ cấp Tiểu-Học và Trung-Học.
Sau cuộc lưu vong vĩ đại chưa từng có trên thế giới của mấy triệu người Việt-Nam, quí vị Tăng Ni Việt-Nam được kể là người đem Phật Giáo đến cho toàn thế giới; nhưng không ai quên được Hòa-Thượng Tuyên-Hóa, vì chính Ngài là người đơn thân độc mã đến Úc Châu và Mỹ Châu trước người Việt-Nam chúng ta, đúng như lời báo trước của Lục Tổ Huệ-Năng.
Ngài viên tịch tại Los Angeles ngày 7 tháng 6 năm 1995, đại thọ 77 tuổi. Lễ nhập quan cử hành tại Long Beach Thánh Tự vào 12 tháng 6 và Kim quan được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành vào 16-6-95. Thừa di-huấn của Ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng đều chuyên tâm trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm và Niệm Phật suốt 49 ngày.
Khi xuất gia Ngài theo Thiền Tông, nhưng từ lúc đến chùa Nam-Hoa, Ngài áp dụng Thiền-Tịnh Song Tu như Hòa-Thượng Hư-Vân. Ba mươi ba năm sống trên đất Mỹ, Ngài giảng Kinh Lăng-Nghiêm trong 96 ngày, rồi các Kinh Bát-Nhã Tâm-Kinh, Địa-Tạng, Pháp-Hoa, Pháp-Bảo Đàn và Hoa-Nghiêm Kinh.
Lễ Trà Tỳ được cử hành vào ngày 28/7/95, tức hơn 50 ngày sau khi Ngài viên tịch, tại Vạn-Phật Thánh Thành. Bồ-Tát Tuyên-Hóa đã lưu lại nhiều Xá-Lợi.
Trước khi tịch Ngài đã di giáo: "Khi tôi đến, tôi không có gì cả; Khi tôi đi tôi vẫn không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ trở về hư không!" Vì vậy tất cả tro cốt của Ngài được rải khắp địa phận Vạn-Phật Thánh Thành bằng khinh khí cầu. Trừ những viên Xá-Lợi được chia thờ ở các Chùa!



Thị tịch ngày 26-3-1999


Đàm-Lựu vừa là tên cũng là đạo hiệu của Sư Bà. Sanh năm 1933 tại xã Thanh-Oai, Hà-Đông Bắc Việt, lúc hai tuổi được cha mẹ đem tặng cho Sư Cụ Đàm-Soạn nuôi, vì khó nuôi. Năm 16 tuổi Sư Bà thọ Sa-Di Ni Giới, 19 tuổi thọ Tỳ Kheo Ni Giới.
Năm 1952 theo Sư Cụ Đàm-Soạn vào Nam. Năm 1964 được đưa du học ở Tây Đức. Năm 1970 làm Giám-đốc Cô-Nhi-Viện Lâm-Tỳ-Ni tại Sàigòn.
Năm 1977 vượt biên tại Vũng Tàu. Năm 1980 lập chùa Đức Viên tại San José, California.
Năm 1984, để sáng lập một ngôi chùa mới rộng rãi khang trang hơn, Sư Bà bắt đầu gây quỹ để xây dựng ngôi Tam-Bảo, bằng cách hướng dẫn ni chúng và Phật tử trong chùa làm thức ăn chay bán vào các ngày rằm, mùng một, cũng như chủ nhựt hằng tuần và các ngày lễ lớn.

Để mọi người đều có thể gieo trồng thiện căn với Tam Bảo, Sư Bà kêu gọi và phát động việc thu nhặt lon nhôm, giấy báo, thùng cát-tông, ... Việc làm của Sư Bà được sự ủng hộ nồng nhiệt hơn từ đó.

Phạm vi bài nầy không chú trọng về tiểu sử mà muốn nói về Pháp tu của Sư Bà. Theo Kỷ Yếu của Sư Bà thì Pháp môn hành trì của Sư Bà là Trì Chú và Niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực-Lạc mà không lúc nào Sư Bà xao lãng.

Trong tập Kỷ Yếu có đăng một bài của nữ Phật tử tên Nguyệt-Chiếu Đoàn-Thúy-Nga viết một lá thư gởi về Thế-Giới Cực-Lạc cho Sư Bà. Lời lẽ trong thơ vô cùng trung thực và cảm động khi nói về Pháp-môn của Sư Bà. Lời lẽ rất cảm động chứa đựng tình trò đối với Thầy tha thiết, nồng ấm. Chúng tôi xin trích đăng vài đoạn:

Kính bạch Thầy,

Lần đầu tiên con viết thư đến Thầy, bởi Thầy giờ đây ở rất xa, cõi Cực-Lạc, mà theo như Đức Phật Bổn Sư dạy, nơi đấy cách xa Ta Bà hơn 10 vạn ức Phật Độ, và con giờ chưa thể đến thăm Thầy được.

Thầy dặn, ngày Thầy đi không được khóc, nhưng con vẫn không cầm được nước mắt giàn giụa vì mủi lòng thương nhớ, dù trong đầu con đang quán tưởng xem nhân duyên nào kết hợp để mối thương cảm tràn đầy đến độ như thế trong con ...

Con nhớ năm cuối của Thầy, con để ý thấy Thầy tụng Kinh thường ngừng quãng như yếu hơi. Khi con quan tâm hỏi, Thầy bảo chỉ cảm xoàng thôi. Hôm con thấy tay Thầy run run con hơi ngại, Thầy bảo già rồi nên thế. Từ đấy con yên lặng để ý đến Thầy, và thường xuyên thăm hỏi mỗi lần con gặp Thầy. Con hỏi nhiều quá đến độ Thầy phải bảo át đi là: "Con chỉ lo hão, có thân là phải yếu."

...

Thầy giản-dị, khiêm-cung, nhu-hòa, nhẫn-nhục, nhưng cương-quyết thực-hành chí nguyện độ sinh, luôn lấy câu niệm Phật cầu sinh Tây Phương nằm lòng. Biết bao lần con vui mừng vì cảm nhận: con được Thầy xem con như người bạn sen đặc biệt. Năm ngoái, khi Thầy Phước-Nhơn ở Úc sang. Thầy ân cần giới thiệu con với Thượng Tọa, con là người con của Đức Phật A-Di-Đà. Thầy thường cởi mở, chân thành, tha-thiết, tán-thán Pháp môn Niệm Phật, và thân thiết tâm sự với con về Pháp môn tu của Thầy: dốc lòng tu trì câu hồng danh A-Di-Đà và nguyện vãng sinh Cực-Lạc. Mỗi lần nói đến điều nầy với con, mỗi lần kể những phương tiện giúp người niệm Phật Thầy đều hoan-hỷ, khuôn mặt rạng rỡ vì niềm tin nơi Từ Phụ ...

...

Khi chánh điện hoàn thành, Thầy tổ chức lễ an-vị Tam Thánh Tây Phương, thân kim sắc cao lớn, tướng hảo thật trang nghiêm. Có lần chỉ có hai Thầy trò đứng ngắm Tam Thánh và Thầy vô cùng hoan-hỷ, niềm hoan-hỷ đặc biệt của những người mơ ước khi bỏ thân nầy được sinh trong nụ hoa sen nơi miền Cực-Lạc.

Cá nhân chúng tôi thích và quí trọng Sư Bà ở chỗ này. Vì Sư Bà y theo Kinh Quán-Vô-Lượng Thọ mà thờ tượng Tây Phương Tam Thánh. Đa số người tu Tịnh Độ thời nay thường niệm Phật nhiều mà ít có người sử dụng pháp quán tưởng, vì cho là khó tu. Thật ra thì hành giả tu Tịnh-Độ nên học biết về Tây Phương Tam Thánh. Và bất cứ lúc nào cũng tưởng nghĩ đến Tây Phương Tam-Thánh thì khi lâm chung có nhiều điều lợi. Chính vì lẽ đó chúng tôi đã ấn tống ảnh Tây Phương Tam Thánh và thâu băng Pháp-Tu Quán Phật Trì-Danh Tịnh-Độ Thiền.

Trong lá thư gởi Sư Bà của nữ Phật tử Nguyệt Chiếu có nhắc đến sự hoan-hỷ của Sư Bà đối với Tam-Thánh và danh-hiệu của hồng danh Nam-Mô A-Di-Đà Phật.

Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật - quyển Kinh nầy do Sư Bà ấn tống đầu tiên năm 1997 tại Hoa-Kỳ - Đại Bồ-Tát Quán-Thế-Âm dạy: "Bất cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu và hoan-hỷ thọ trì danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, cho tới nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc mười pháp quyết định bất khả tư-nghị."

Nơi đây chúng tôi đăng trọn mười pháp quyết định, vì nó tối hệ trọng đối với người tu niệm Phật, như là:

1. Quyết định đời đời thọ sanh trong dòng giống Như Lai.

2. Quyết định vĩnh-viễn an trú trong cảnh giới vô lượng quang minh nghiêm sức của chư Phật.

3. Quyết định thấu triệt công hạnh, tâm nguyện của chư Bồ-Tát.

4. Quyết định an trú trong vô số Ba-La-Mật.

5. Quyết định tham dự trong những chúng hội đạo tràng của chư Như Lai.

6. Quyết định đủ năng lực hiện bày thể tánh và chủng tướng của chư Như Lai.

7. Quyết định an trú trong trí tuệ siêu việt, giải thoát của Như Lai, thâm nhập Bồ-Đề giác tánh của chư Phật.

8. Quyết định an trú trong bản nguyện vĩ đại của Đức Phật A-Di-Đà, chắc-chắn được Ngài tiếp dẫn

9. Quyết định hòa hợp thân và tâm vào trong Kim thân của chư Phật.

10. Quyết định hóa sanh tự nơi hoa sen báu, cùng một chỗ ở với chư Phật, chư Thánh Chúng.

Như chúng tôi từng nói, người đắc Mười Pháp Quyết Định chắc-chắn đắc quả Đại Địa hay Pháp Vân Địa Bồ-Tát tức Thập Địa. Trong thư Bà Nguyệt-Chiếu kính gởi Sư Bà cũng nguyện đạt đến quả vị Thập Địa Bồ-Tát, chúng tôi nghĩ bất cứ ai có thiện căn và quyết tâm đều sẽ được như nguyện.

Với một người tin hiểu và luôn luôn hoan-hỷ xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật như Sư Bà Đàm-Lựu, chắc-chắn đã đắc nhiều phần trong Mười Pháp Quyết Định mà Ngài Quán-Thế-Âm nói, khi lâm chung hẳn phải có điều lạ.

Bây giờ xin đọc tiếp bức thư của Phật tử Nguyệt-Chiếu:

"Thầy thường tâm sự là sở dĩ Thầy theo Tịnh Độ vì lòng tin sâu xa phát khởi khi chứng kiến Sư Phụ của Thầy chuyên trì câu A-Di-Đà và khi đi Sư Cụ biết trước ngày giờ, an nhiên tự tại... Và cách đây mấy năm một bà cụ già người Việt gốc Hoa ở Texas (ám chỉ bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết - Lời người sưu giải) cũng chỉ nhất tâm niệm hồng danh A-Di-Đà, khi ra đi có hương thơm và để lại hoa Xá-Lợi ...

Kính bạch Thầy,

Thầy đã biết trước lúc đi, và đã an nhiên tự tại trong tiếng niệm Phật A-Di-Đà của Tứ chúng. Từ lúc Thầy thị hiện bịnh nặng đến cuối buổi Trà Tỳ, đạo tràng Đức-Viên đã vang rền câu "Nam-Mô A-Di-Đà Phật" không dứt hơn 3 tháng trời. Câu Nam-Mô A-Di-Đà Phật đã vang lên, tỏa rộng khắp nơi, vượt cả mấy từng trời, đúng như ước nguyện của Thầy đã từng kể cho con: "Nơi đây có đạo tràng Đức-Viên, giống như của chư Tổ Tịnh-Độ, mà tiếng Niệm Phật vang rền không ngừng nghỉ". Tín tâm của tứ chúng phát khởi và tăng trưởng, nhất là sau buổi Trà Tỳ, Thầy còn để lại vô số Xá-Lợi cho người sau. Một ông cụ thường Niệm Phật bảo con: "Bây giờ không tin cũng phải tin, đấy là chứng cớ hiển nhiên nhất".
Trước khi trở lại Xá-Lợi của Sư Bà, chúng tôi xin trích vài đoạn Nhật Ký của một thị giả của Sư Bà. Đọc Nhật Ký nầy quí vị sẽ thấy rõ đức hạnh tu của Sư Bà đối với Pháp môn Niệm Phật mà Sư Bà không một giờ phút nào xao lãng.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đại Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói: Bất cứ chúng sinh nào kiên trì, dũng mãnh, xưng niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật, như mũi tên bắn thẳng tới đích nhắm, thì thành tựu những pháp Tinh Tấn, nghĩa là không mỏi nhọc, nhàm chán. Chính Sư Bà đã thành tựu những pháp Tinh Tấn do niệm Phật không mỏi nhọc không nhàm chán. Sư Bà như là mũi tên bắn thẳng tới đích. Chắc-chắn Sư Bà đã đến cõi Cực-Lạc.
Và đây những đoạn Nhật Ký đáng đọc:
* Ngày 30/9/1998
Chiều nay là lớp Luật Tỳ-Kheo-Ni. Thầy dạy gọi Sư bác Viên-Diệu (thư ký của chùa) vào, và đổi lớp học bằng phiên họp "Bất thường". Thầy dạy rằng vô-thường có thể đến với bất kỳ ai và bất cứ lúc nào, Thầy muốn chúng tôi tập điều-hành công việc của chùa. Linh cảm có chuyện không hay, rồi nước mắt lặng lẽ rơi. Thầy chỉ định và chúng tôi tán thành Ban Điều Hành mới của Chùa.
* Đêm 25/12/1998
Từ chiều đến giờ Thầy thở không được, tay chân và bụng Thầy sưng khắp. Chúng tôi sợ quá nên đưa Thầy đi emergency ... Sáng hôm sau, Bác sĩ Kuo và một nhóm Bác sĩ cho biết họ không thể nào tap nước được bởi Thầy đang uống thuốc Coumadin. Càng nghe Bác sĩ giải thích bệnh trạng của Thầy, chúng tôi như thấy đất trời tối lại. Nhưng Thầy vẫn vậy, mặt không một nét thay đổi. Nhìn Sư già Nguyên run cả giọng để thông dịch cho Thầy, trong khi sắc mặt Thầy vẫn bình thản và còn hỏi thêm chi tiết khác ... Họ để Thầy xuất viện vì không thể làm gì hơn được, Sư già Nguyên cố nài nỉ họ tìm cách. Thầy an nhiên bảo: "Con vẫn chưa thành người lớn được".
* Mồng 9/1/1999
Hơn 2 giờ khuya, Thầy thấy chúng tôi không đi ngủ nên đuổi hết ra khỏi phòng với lý do: "Các con ra đi cho Thầy niệm Phật"... Sư già Nghiêm xuống đánh thức cả chúng dậy lên chánh điện niệm Phật cho Thầy, và đồng thời gọi Thầy Vĩnh-Nghiêm, Thầy Minh-Đức và quý Thầy bên Duyên Giác. Mặc dù đang trong trạng thái hôn mê, nhưng khi nghe tiếng Niệm Phật của đại chúng. Thầy lại tỉnh hẳn và kêu chúng tôi vào dặn: "Sau này Thầy đi rồi, chị em các con phải thương yêu lẫn nhau, phải tu học và sống theo chánh pháp". Rồi lại thở thật yếu và thiếp đi. Quý Thầy sang đến nơi, vào thăm Thầy. Quý Thầy cao thanh niệm Phật trong phòng, Thầy đang trăn trở bỗng nằm yên, chấp hai tay lên ngực và niệm Phật theo ... Khoảng 5 giờ sáng, khi đại chúng đang còn niệm Phật ngoài Chính Điện, Thầy ngồi dậy và dạy đi lấy áo lễ và y cho Thầy ... Thầy đến thẳng giữa Chính Điện lễ Phật ba lễ rất thành kính và mỉm một nụ cười hoan-hỷ. (Sau này Thầy bảo khi nghe tiếng niệm Phật ngoài Chính Điện, Thầy thấy vui quá nên mới ra lễ Phật).
* Mồng 10/1/1998
Thầy trở về căn phòng đơn sơ của Thầy dưới nhà chúng. Thầy bảo tất cả chúng tôi ra ngoài để yên cho Thầy niệm Phật. Chúng tôi lấp ló ngay ngạch cửa thì Thầy quở: "Thương Thầy thì phải để cho Thầy niệm Phật chứ"... Thầy trăn trở nhiều, nhưng vẫn nghe tiếng rầm rì niệm Phật của Thầy.
Thầy Vĩnh-Nghiêm đáp máy bay lên thăm. Thầy lại nằm yên, chấp tay lên ngực nghe Thầy Vĩnh-Nghiêm nói chuyện. Khoảng một giờ sau, Thầy Quang-Nghiêm, Thầy An-Tường, quý Thầy bên Duyên-Giác, Thầy Minh-Đức, Thầy Từ-Lực và nhiều vị nữa đã vân tập trong phòng. Thầy Vĩnh-Nghiêm cho gọi tất cả chúng tôi vào và dặn không được khóc. Quý Thầy bắt đầu niệm Phật vang rền trong phòng, chúng tôi niệm Phật nhưng vẫn khóc. Ba hôm nay Thầy trăn trở là vậy, vậy mà giờ này Thầy nằm thật yên, tay chấp ngang ngực, miệng nhẩm theo tiếng niệm Phật của quý Thầy và đại chúng. Khoảng một giờ sau, Thầy ra dấu đỡ Thầy ngồi dậy. Thầy dường như tỉnh hẳn lại, nói lời cám ơn quý Thầy.
* Ngày 11/1/1999
Chúng tôi đưa Thầy vào bệnh viện để "tap" nước. Mắt Thầy lúc này cứ hướng về một cõi xa xăm nào đó, Thầy nhìn mà như không nhìn vậy. Chúng tôi sợ quá nắm bàn tay Thầy, Thầy lại nhìn chúng tôi mỉm cười ... Có một em bé đợi mẹ em khám bệnh gần đó, chúng tôi chơi trò bắt cá bằng tay với em. Em bé vòi chơi với Thầy. Thầy đưa hai tay lên cho em bắt cá, rồi bỗng buông xuống, và mắt nhắm nghiền. Chúng tôi sợ quá gọi Bác sĩ Brophy đến. Sau khi thử máu Bác sĩ cho biết Thầy bị thiếu sodium trầm trọng và phải nhập viện ngay. Nhiều Bác sĩ đến khám bệnh cho Thầy trong kinh ngạc. Bác sĩ Đỗ cho rằng tất cả bệnh nhân nào ở mức sodium của Thầy thì đều bị hôn mê mãn tính hết rồi, họ không hiểu vì sao Thầy vẫn còn tỉnh táo, và chỉ bị mê trong đôi phút như vậy? Thầy mỉm cười bảo Sư già Nguyên thông dịch: "Con nói với họ là nhờ Thầy niệm Phật hằng ngày đó".
Lần này Thầy nhập viện khá lâu. Trên một tuần lễ ở bệnh viện chỉ để truyền sodium và calcium mà vein trên cánh tay Thầy chìm quá. Y tá phải lấy máu để thử mỗi ngày, họ đâm kim nhiều đến độ họ phải xót xa xin lỗi vì hai cánh tay Thầy giống như needle spin vậy đó. Vậy mà mỗi lần họ rút kim ra chỗ này để đâm vào tay tìm vein khác thì Thầy lại: "Cám ơn cô thật khéo tay". Chúng tôi đau lòng nên càm ràm đôi câu với họ thì Thầy lại quở: "Gớm, con xem thân Thầy như là bong bóng vậy. Có sao đâu, cứ để họ làm công việc họ cần làm. Tại tay Thầy khó chứ đâu phải họ dở mà con cứ nhăn". Rồi Thầy lại cười và "thank you" họ. Lần sau y tá đến, thì họ xin cúng dàng Thầy một vein để Thầy bớt đau. Thầy mỉm cười: "cô để mà dùng". Họ ngỡ ngàng, khi đoán được ý Thầy, họ ôm tay Thầy cảm động vì họ biết Thầy không đành để họ khổ, và chỉ chịu khổ một mình. Từ đó, mỗi lần Thầy vào bệnh viện, họ lại gọi Thầy là "Mama" (Mẹ).
* Ngày 11/2/1999
Vạn pháp lại trở thành tăm tối! Thầy lại không thở được và đau thật nhiều nơi lưng và hai cạnh sườn. Chúng tôi lại đưa Thầy đi cấp cứu ... Bác sĩ vào thăm, khi họ xem bụng Thầy thì Thầy cười bảo: "bụng tôi giống như biển cả!" Bác sĩ cấp tốc xin thuốc giảm đau cho Thầy rồi quay qua hỏi chúng tôi làm sao mà Thầy còn "vui đùa" được trong nỗi đau kinh hoàng đó. Chúng tôi lại một lần lặp lại lời Thầy, "nhờ Thầy niệm Phật hằng ngày thôi!"
* Ngày 28/2/1999
Suốt ngày Thầy chỉ nằm yên, hay ngồi yên thôi, không nói chi nhiều và hay nhìn thật xa xăm. Khi chúng tôi hỏi Thầy đang nghĩ gì, Thầy thẳng thắn đáp: "Thường thì Thầy niệm Phật, nhưng cũng có lúc suy nghĩ vớ vẩn đâu đâu ..." Thầy dạy chúng tôi đi mua máy cassette nho nhỏ về để băng niệm Phật 24/24 trên đầu giường Thầy.
* Ngày 15/3/1999
Sức khỏe Thầy suy sụp nhiều, Thầy dạy chúng tôi thỉnh chư Tăng về làm lễ cầu siêu cho Thầy. Chúng tôi khóc xin Thầy đừng đi, nhưng Thầy bảo Thầy không trì hoãn được nữa. Quý Ngài đến tụng Kinh cầu nguyện, chúng tôi đẩy xe đưa Thầy lên bạch Đại Tăng. Vẫn vậy, Thầy rất tự tại và thành kính yêu cầu quý Ngài tụng chú Vãng Sinh để cầu siêu cho Thầy. Thể theo lời thỉnh cầu của Thầy quý Ngài đã tụng chú Vãng Sinh và niệm Phật trên một giờ đồng hồ. Thấy chúng tôi buồn xo, Thầy dạy chúng tôi nên nhất tâm niệm Phật cầu nguyện cho Thầy tiêu hết dư nghiệp mà được vãng sinh.
* Ngày 23/3/1999
Bác sĩ của Thầy vào thăm Thầy, Bác sĩ hỏi Thầy có biết khi đi rồi thì Thầy về đâu không? Thầy khẳng quyết: "Về cõi Cực-Lạc chứ về đâu".
* Ngày 25/3/1999
...Điệp khúc: "Dậy, Dậy, cho Thầy dậy" bỗng trở thành thân thương đối với chúng tôi trong nửa tháng nay. Có lần đang đêm Thầy muốn dậy hoài, chúng tôi thưa:
- Bạch Thầy, bây giờ là ban đêm Thầy dậy làm gì ạ?
- Cho thầy dậy để Thầy làm bổn phận người tu.
- Bạch Thầy, người tu phải làm gì ạ?
- Là phải giữ chữ Tín. Là phải dậy trước trời sáng.
Bằng những câu thật ngắn, thật đứt đoạn. Thầy luôn nhắc chúng tôi phải niệm Phật. Thầy dạy: "Các con phải dõng mãnh, tinh tiến niệm Phật khi còn khỏe. Trừ hao đến lúc bệnh, thân tâm bì quyện, niệm Phật rất khó định tâm. Mê thì nhiều mà ngộ thì ít".
Sợ Thầy bị phân tâm Sư già Phước thưa: "Bạch Thầy, mê hay ngộ con thỉnh Thầy cứ tiếp tục niệm Phật". Thầy khẻ nhẹ vào Sư già và bảo: "Không phải dễ như chị nghĩ đâu chị hai, chín cảnh mê mới có một cảnh ngộ thôi". Với Thầy, việc hành trì phải nghiêm mật lắm mới được.
Phương pháp tu của Thầy đơn giản lắm, và chỉ có vậy, chỉ cần niệm Phật không gián đoạn, không phải chỉ nơi ý, mà còn phải nơi thân nữa.
Sư Bà chánh thức ra đi vào 21 giờ 27 phút ngày 26/3/99 thọ thế 67 năm, hạ lạp 48 năm.
Đọc phần nhựt ký, chúng ta thấy đức hạnh của Sư Bà quả là hơn người. Dù chứng bịnh ung thư hành hạ dữ đội nhưng Sư Bà vẫn không than van, lúc nào cũng lấy chữ nhân và tha làm đầu. Y tá chích nát gân tay vẫn không trách mà còn "cám ơn". Lúc nào Sư Bà củng cố gắng Niệm Phật không gián đoạn, mặc dù đôi khi cơn bịnh cũng làm cho ngưng trệ và không quên dạy các nữ đệ tử rằng: "Các con phải dõng mãnh, tinh tiến niệm Phật khi còn khỏe. Trừ hao lúc bệnh, thân tâm bì quyện, niệm Phật rất khó định tâm ..."
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đại Bồ-Tát Quán-Thế-Âm dạy: "Bất cứ chúng sanh nào phục sức thân tâm bằng danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật thì sẽ đắc những năng lực giải-thoát không thể nghĩ bàn".
Niệm Phật không ngừng như Sư Bà chính là phục sức thân tâm bằng danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, Sư Bà đã đắc những năng lực giải-thoát không thể nghĩ bàn. Sư Bà đã chứng được Pháp Thân như Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật đã nói, và khi ra đi đã lưu lại nhiều trăm viên Xá-Lợi cùng trái tim màu ngọc thạch và đồng vàng. Xin đọc một đoạn bài viết của Thầy Thích-Quảng-Chơn nói về Xá-Lợi của Sư Bà:
"Sư Bà để lại rất nhiều Xá-Lợi gồm có xương, răng, tim và ngọc. Xá-Lợi xương thì nhiều lắm, lớn nhỏ, hình dạng và màu sắc khác nhau. Có mảnh trắng đục như sữa, sắc óng như ngà; có mảnh nhỏ màu đục như đất; có mảnh màu vàng nhạt như vỏ trứng gà; có mảnh ánh màu xanh như cẩm thạch; có mảnh trắng như hoa tuyết; có mảnh tím hồng như màu Kiến sen; có mảnh vàng nhạt và có nhiều đoản xương màu như đồng vàng hay thép nung. Răng của Sư Bà còn tất cả 28 chiếc, có hai chiếc ánh màu kiến sen và một chiếc màu lục. Tôi ngạc nhiên nhất khi Sư cô nói là trái tim Sư Bà vẫn còn và chỉ cho tôi một khối màu nâu đỏ, như bàn tay nắm lại của một em bé vừa mới sinh. Hơn phân nửa diện tích bề mặt của trái tim được bao phủ một lớp màu xanh cứng như thạch nhũ, nâng trong tay thật nhẹ và có một cảm giác thanh thản như được an ủi và khuyến khích. Một cảm giác tâm linh phảng-phất bóng của một Ni Sư đức hạnh như in đậm ở trong đây. Ngọc Xá-Lợi của Sư Bà thì thật là nhiều, lớn nhỏ đến gần trăm viên. Có viên đen huyền óng ánh, có viên màu lục nhạt như hạt cẩm thạch, có viên màu trắng đục như hạt gạo, có viên màu trắng như hạt san hô. Những viên ngọc Xá-Lợi hình dạng khác nhau, có hạt tròn như hạt đậu dính chặt vào một mảnh xương, có hạt hình bầu dục, cũng có những hạt tròn nhỏ đính thành một chuỗi dài trên một mảnh xương như chuỗi ngọc trai.
Rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên tôi thấy Xá-Lợi của một vị Cao Ni. Trong đời tôi chưa bao giờ nghe hoặc thấy Xá-Lợi của một vị nữ xuất gia. Theo lịch sử truyền thừa Phật giáo rất hiếm các vị Cao Ni để lại Xá-Lợi. Trong Đại Chính Tân Tu quyển Tỳ Kheo Ni Truyện chỉ viết về hai vị Cao Ni có để lại Xá-Lợi. Nói như vậy không phải là thiếu các bậc Cao Ni đắc đạo, chứng thánh quả, hay ngộ được tinh yếu của giáo lý Đại Thừa. Nhưng rất hiếm thấy Xá-Lợi của các vị Cao Ni thờ ở các Chùa hoặc Tổ Đình. Lý do dễ hiểu là ngày xưa các vị tổ khai sáng một tông môn hoặc một tổ-đình lớn ở Trung Quốc cũng như Việt-Nam đều là các bậc Cao Tăng.
..........................................................................
Xá-Lợi của Sư Bà để lại cho Ni chúng và Phật tử như những viên ngọc quý, lời dạy của Sư Bà như đài gương sáng, như bản đồ chỉ đường cho Phật tử đi theo công hạnh của Người mà huân tụ giới đức, trang-nghiêm cõi Tịnh mà Sư Bà đã khai sáng.
...........................................................................
Thích-Quảng-Chơn
Đây đúng là Sư Bà Đàm-Lựu đã thăng hóa Tây Phương vậy!
Khi đứng, khi ngồi, khi quét, khi lái xe chở báo cũ, Sư Bà Đàm-Lựu đều niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật






Nhâm Ngọc Hựu

Thị tịch rạng ngày 10/12/1997



Từ Ân, có nghĩa là cái "Ân" của lòng "Từ", là ngôi chùa "đơn côi, bất hạnh" ở vùng Ottawa, Canada. Chùa đã có, nhưng không đủ phước duyên để nghinh tiếp một vị Sư trụ trì. Chùa cần có người trông lo Kinh kệ và làm lễ cầu siêu cho những vong linh quá cố của chúng Phật tử.
Thu đi rồi đông tới. Người ta nói vắng lạnh như chùa Bà Đanh. Chùa Từ Ân tuy lạnh vào mùa đông, nhưng không vắng lạnh như chùa Bà Đanh, vì năm ấy 1997, Thầy Minh-Đạt chấp nhận đáp ứng sự mong chờ của chúng Phật tử Ottawa.
Thầy Thích-Minh-Đạt chỉ là Sa-Di, chưa thọ giới Tỳ Kheo, theo giới luật nhà Phật thì phải gọi là "Chú", chú Sa-Di Minh Đạt. Nhưng Phật tử chùa Từ-Ân biết rằng các pháp chỉ là giả danh. Tỳ Kheo, Đại Đức, Thượng Tọa hay Sa-Di, tất cả chỉ là danh tự. Danh tự chỉ là tên đặt ra để gọi, nên là giả-danh. Kinh Đại-Bát-Nhã đã dạy như vậy. Điều quan trọng là vị trụ trì phải có tâm tu và thực tâm hoàn thành vai trò của người xuất gia: lãnh đạo tinh thần của Từ Ân Tự, giảng dạy Kinh điển.
Thầy Thích-Minh-Đạt có đủ điều kiện nầy. Thầy đến chùa Từ-Ân như mang hơi nóng đến sưởi ấm lòng Phật tử vào mùa đông Canada lạnh lẽo.
Thầy Thích-Minh-Đạt đến chùa Từ Ân với ước mong hướng dẫn cho Phật tử: "Phước Huệ song tu và Tịnh nguyện cầu vãng sanh Cực-Lạc".
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, tức Pháp tu Niệm Phật thành Phật, Đức Phật dạy: "Tất cả các loài chúng sanh chết ở nơi đây, rồi sanh sang nơi kia, sống chết nối nhau không dứt. Mỗi khi sắp mạng chung thì các loại nghiệp lành dữ trong một đời hiện ra rõ ràng. Chúng sanh nào sống thuần bằng tư-tưởng, thì bay lên hóa sanh, nơi các cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả Phước Huệ và Tịnh Nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-Độ" (trang 15).

Tuy là Sa-Di, nhưng là một cựu sĩ quan Quân đội VNCH cấp bực Trung Tá, Ngài có đủ trí tuệ căn bản để tự học Kinh điển, và nhờ học Thiền nhiều năm nên có được định căn bản. Chúng tôi gọi Thầy Thích-Minh-Đạt bằng danh xưng tôn vinh "Ngài", vì thầy đã chứng đạo xứng đáng được gọi như vậy.
Quan điểm của chúng tôi tương đồng với quí vị Phật tử ở Ottawa. Chức vị không quan trọng, điều cần thiết là người đã xuất gia có chịu thực sự tu hành hay không mà thôi. Đức Phật nói trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật: (trang 17)

"Bất cứ Thiện-Nam-Tử, Thiện nữ nhân nào đủ lòng tin thì chỉ cần chuyên nhứt xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được y báo, và chánh báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cực-Lạc. Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối nhau, lập tức vào Phổ-Đẳng Tam-Muội của Đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh Độ Tây-Phương. Vĩnh-viễn xa lìa các đường ác, không còn luân-hồi sinh tử. Đó gọi là quả vị Bất-Thối-Chuyển. Từ ấy nhẫn về sau, vượt qua Thập Địa, chứng Vô-Thượng-Giác.

Trong bài Tưởng Niệm Thầy Minh-Đạt, Phật tử Quảng Trí thuật lại khóa lễ đầu tiên khi Thầy Minh-Đạt được Ban Trị Sự giới thiệu Thầy với Phật tử, Thầy nói:
- Tôi nguyên là người lính trong quân đội VNCH, cấp bậc sau cùng là Trung Tá trong ngành quân nhu. Biến cố 30-4-75, tôi di tản sang Mỹ, sống đời tạm dung hơn 20 năm, giờ đây các con tôi đã trưởng thành, tôi xuất gia nương cửa Phật để tu hành đã hơn 1 năm qua. Chúng ta, hôm nay tụ hội về đây đều là anh em cùng một cha. Đó là đấng Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật. Xin quí vị hãy tinh tấn tu học, hành trì giáo pháp của chư Phật để cầu vãng sanh, đạt giải thoát ngay trong hiện kiếp nầy. Chúng ta không chờ một sự cứu rỗi nào từ bên ngoài. Chính chúng ta quyết định đời sống tâm linh của chúng ta.
Với những lời ngắn, nhưng đủ chứng minh tinh thần quyết tâm tu, đạt giải thoát ngay trong hiện kiếp. Và trong một đoạn khác của bài Tưởng Niệm, viết:
Thầy Minh-Đạt chụp hình chung với Phật tử chùa Từ Ân
"Theo lời bác Từ Trang, người thân cận nhứt với Thầy trong thời gian lưu trú tại chùa Từ Ân: Mỗi ngày, từ khuya, Thầy đã thức dậy lễ Phật, tụng Thần Chú Lăng Nghiêm, tọa Thiền, thiền hành. Trong ngày thường chăm chú vào việc học hỏi Kinh điển. Hầu như hàng ngày "trú dạ lục thời" Thầy không giải đãi thiếu sót tụng niệm".
Thầy Thích-Minh-Đạt đã tự tu, tự độ như thế, nhưng vẫn không kém tự tha. Trong hơn hai tháng lưu trú tại chùa Từ Ân, Thầy đã tụng Kinh, niệm Phật và cầu siêu độ ít nhứt 3 vị tại Ottawa, một tại Montreal. Phật tử tại Ottawa kháo nhau: "Nếu cần một vị Tăng có giới đức thanh tịnh thì mời Thầy Thích-Minh-Đạt, còn nếu cần một vị Sư biết rập rềnh tang dẩu, tán tụng cho hay cái lỗ tai, múa may ấn quyết cho đẹp mắt, thì Thầy không có mấy thứ đó". Đặc biệt, Thầy không lấy tiền cúng dường của Phật tử.
Trong cơn bịnh hoạn nguy cấp, Thầy Minh-Đạt không từ chối việc hộ niệm cho người Phật tử sau cùng của Thầy là bà Bích-Hằng. Dù lúc ấy sức khỏe rất yếu mà Thầy không từ bỏ một khóa lễ nào. Lễ xong Thầy đi Bác sĩ, ở phòng mạch ra Thầy đi thẳng tới nhà quàn để kịp khóa lễ. Thầy lo độ cho người vừa chết, giúp cho hương linh được siêu thoát. Mỗi câu tụng là một cơn ho, nhưng Thầy lấy việc độ tha để trang-nghiêm cho hạnh Bồ-Tát của Thầy. Thầy Minh-Đạt độ người nên Phật độ Thầy.
Sau lễ hỏa táng cho bà Bích-Hằng, Thầy phải vào ngay bịnh viện. Rồi từ bịnh viện về chùa, Thầy lại lên chánh điện chủ lễ tụng niệm ngay. Thầy đã viết trên tấm bảng con treo trong phòng để tự nhắc nhở mình.

" Phải tinh tấn hôm nay

Kẻo ngày mai không kịp

Cái chết đến bất ngờ

Không thể nào mặc cả"

Đúng! cái chết đến bất ngờ không thể nào mặc cả. Thầy đã tinh tấn lo hôm nay kẻo ngày mai không kịp. Thầy đã tự độ và độ tha không ngừng nghỉ, không ngại mệt mỏi.
Đêm rạng ngày 10-12-1997. Thầy đi về cõi Phật, đắc Vô Sanh Pháp nhẫn được quả Bất-Thối-Chuyển theo như trong Kinh, Đức Phật nói. Cái chết của Thầy làm bất ngờ mọi người. Nhưng Thầy thì ra đi an nhiên tự tại.
Phật tử Chánh-Tâm-Hải viết:
Như thường lệ, sau khi ăn Thầy vào phòng nằm nghỉ. Ông Triệu về, đạo hữu Như-Hoa đến lúc 7 giờ tối, cửa phòng còn đóng, cô không dám gõ cửa, để Thầy nghĩ. Đến 12 giờ khuya, khi thức giấc thấy đèn còn sáng, bác Trang mở cửa vào. Than ôi! Thầy đã ngủ, hai mắt nhắm, hai tay chắp vào nhau để trên bụng trong tư thế thật an nhiên tự tại.

Thầy đã mãn nguyện!
Sa-Di Thích-Minh-Đạt đến nhận chức trụ trì ngày 23/9/97 và mất rạng sáng ngày 10/12/1997. Thời gian thật ngắn ngủi. Thầy thường nói, chỉ tiếc là tôi chưa làm gì được cho chùa Từ Ân.

Phật tử chùa Từ Ân đã trả lời câu nói của Thầy, được đăng trong Đặc San Đặc Biệt phát hành vào dịp Lễ Bách Nhật 15/3/98 rằng: Thầy đã để lại cho chùa Từ Ân một bảo vật vô giá là những Viên Xá-Lợi nhiều mầu mà mọi người đang kính cẩn chiêm ngưỡng. Cũng từ đây, chùa Từ Ân có cái phúc, bởi vì, sẽ là nơi được nhiều người biết, khi đến chiêm ngưỡng Xá-Lợi hay đến chiêm ngưỡng đức độ của Thầy và lấy đó để làm gương tu học.
Cũng với lời Thầy Minh-Đạt nói, chỉ tiếc là tôi chưa làm gì được cho chùa Từ Ân, Đại Đức Thích-Đức-Viên viết "Đôi Hàng Thành Kính Cảm Niệm Nhân Dự Lễ 49 Ngày Quá Vãng của Thầy Thích-Minh-Đạt", như sau:
"Quãng đời xuất gia của Thầy Thích-Minh-Đạt mà tôi có duyên may được gần gũi khiến tôi liên tưởng tới chuyện "Thoát vòng Tục Lụy", do Hòa-Thượng Quảng-Độ dịch, tả về vị Quốc Sư Ngọc Lâm:
- Khi còn trẻ được viên tể tướng mời vào dinh dự lễ đã bị cô hầu Thúy Ngọc không cho vào, chỉ vì vị Quốc Sư không có tướng Quốc Sư như cách nhìn của cô hầu...
- Khi Quốc Sư về già, lọm khọm bên sân tại một ngôi chùa cổ hoang tàn. Ngài xin tá túc với tâm nguyện dùng hơi thở cuối cùng của mình hiến dâng cho Phật pháp. Không ngờ vị Tri Khách lo sợ, tìm mọi cách khước từ: "Nếu Sư phụ không may mệnh hệ, chúng tôi không thể lo nổi!"
Nhà sư nói: "Tôi còn chiếc quạt và hai phong thư có thể bù đắp cho quí tự..."
Ai ngờ! Vài ngày sau, vị Quốc Sư viên tịch. Triều đình cho cử hành lễ Quốc Táng, và cho xây dựng lại một ngôi chùa khang trang.
Bồ-Tát Thích-Minh-Đạt đã để lại cho chùa Từ Ân những Viên Xá-Lợi giá trị. Thầy Đức-Viên nói: "Hy vọng những viên ngọc Xá-Lợi của Thầy là những tia sáng khai tâm cho hàng tại gia lẫn xuất gia". Bởi theo "thói thường" thiên hạ thường dùng cảm quan và sự hiểu biết chật hẹp của mình làm thước đo để đánh giá người khác. Tu hành ... không phải để đếm tuổi hạ. Không ai ngờ vị sư già Sa-Di, tướng cục mịch tu chưa đầy tuổi hạ mà trong nhục thân có chứa Xá-Lợi của bực Bồ-tát.
Thầy Minh-Đạt đã dùng cái "Ân" của lòng "Từ" để lại cho chùa Từ Ân những gì đáng giá hơn mọi người tưởng.
Thật ra chẳng phải chỉ thuần do công tu của những ngày xuất gia mà Thầy Minh-Đạt được như vậy, mà do cái nhân thiện căn, thiện nghiệp của Thầy đã gieo trồng từ kiếp quá khứ; kiếp này Thầy lại vun bón, tưới nước thêm, đủ duyên nên kết trái. Chúng ta không phải là bực Thánh nhơn không nhìn thấy căn lành ấy.
Bây giờ câu nói của Thầy Minh-Đạt trở thành lời vàng. Một Phật tử chùa Từ Ân, ông Tuệ-Đạt Nguyễn-Bá-Triệu đã đem lời khuyên của Thầy Thích-Minh-Đạt dùng làm phương châm xử thế, như sau:

"Ai mắng chửi, nguyền rủa anh, anh đừng giận. Anh hãy thành tâm niệm Phật và tôn người ấy làm sư phụ vì chính người ấy đã dạy anh một bài học nhẫn nhục".

Thật sự, Thầy Minh-Đạt đạt được sự chứng ngộ nhờ vào bài học "nhẫn nhục". Khởi đầu, Thầy đến một ngôi chùa ở bên Pháp xin xuất gia. Vị Hòa-Thượng chấp nhận đặt pháp danh là Minh-Trí. Nhưng sau đó một số tu sĩ lân cận Hòa-Thượng, chê Thầy già, tướng cục mịch, không có giọng tụng kinh tốt, cản trở không để Thầy thọ giới Tỳ Kheo.
Thầy Minh-Trí lặng lẽ ra đi, tìm đến một vị Thiền sư, nhưng vị nầy chỉ thu nhận với điều kiện, nếu có sự giới thiệu của Hòa-Thượng. Muốn tiếp tục tu và đạt thành chánh quả, Thầy Minh-Trí phải học tu nhẫn nhục. Trong nhà Phật, những người gây chướng duyên cho người khác có khi được coi là chứng duyên Bồ-Tát.
Như Đề-Bà Đạt-Đa luôn luôn phá hoại Phật pháp, làm hại Đức Phật, nhưng Đức Phật vẫn thọ ký cho Đề-Bà Đạt-Đa sẽ thành Phật. Nếu người tu hành được gặp may mắn luôn, thì làm sao học tập nhẫn nhục, tinh tấn để diệt cái ngã của mình? Nếu những ngày gặp khó khăn, Thầy Minh-Trí thoái Bồ Đề Tâm thì làm sao có thành quả của ngày hôm nay!? Có lẽ trên đường tu Thầy Minh-Trí đã âm thầm cám ơn những chướng duyên Bồ-Tát kia. Bởi vậy mọi việc chỉ nên nói tới đây.
Từ ngày lìa Âu Châu, Pháp danh Minh-Trí được đổi là Minh-Đạt. Minh là quang-minh, tức hào quang sáng chói; còn Đạt là chứng đắc quả. Thường thì danh-hiệu cũng ảnh hưởng đến sự-nghiệp của một người, dù là sự nghiệp tu hành. Tất cả đều do nhơn và duyên, và cuối cùng là quả.
Thầy Minh-Đạt tiền kiếp đã tu và hiện kiếp Thầy tên Nhâm-Ngọc-Hựu, từ hai mươi tuổi đã biết thương người. Nhơn thời kháng-chiến chống Pháp, một người bạn bị Tây bắn chết không quần áo chôn, Hựu đã lột quần áo cho bạn. Lớn lên Hựu đi lính, làm sĩ quan quân nhu, nơi đơn vị mà bao sĩ quan quân nhu khác làm giàu còn Hựu thì liêm-khiết trong sạch, sẵn-sàng giúp đỡ cho binh sĩ trực thuộc và bạn nghèo. Lúc Sàigòn sắp mất, Hựu cõng cha bị tê liệt chạy xuống tàu ra khơi theo làn sóng người lưu vong. Ở hải ngoại, nuôi nấng cho bảy đứa con trưởng thành, Hựu xuất gia để tự giải thoát. Có người xuất gia tu Thiền chủ trương không tụng kinh, không cầu siêu cầu an cho bá tánh; còn Hựu tức Thầy Minh-Đạt vì bá tánh quên mình, trong cơn bịnh hoạn không cần lo sự sống chết của chính bản thân mình, mà lo đi hộ niệm cho người sắp lâm chung. Hành động đó là hành động của bực Bồ-Tát; đó là Bồ-Tát hạnh vậy. Một bực tu như vậy, ắt là phải đắc quả.
Thầy Minh-Đạt kiếp nầy đầy đủ tứ ân. Đi quân đội là đền ơn đất nước; khi cõng cha lưu vong là đền ơn cha mẹ; lúc xuất gia là đền ơn Tam Bảo; lo hộ niệm cứu khổ chúng sanh là đền ơn đồng bào. Làm quân nhu không tham lam; đi tu bị từ chối thọ giới Tỳ Kheo mà không giận là không sân; xuất gia để tự giải thoát là không si, lại thêm đầy đủ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ.
Tóm lại Thầy Thích-Minh-Đạt có đầy đủ Thiền-Tịnh Song Tu, đủ Tứ Ân và Sáu Ba-La-Mật, dứt được Tham-Sân-Si, cho nên dù tuổi hạ ít mà Thầy vẫn đạt đạo. Theo chúng tôi, sau khi lâm chung Thầy lưu lại Xá-Lợi là lẽ đương nhiên.
Trong "lời nói đầu" của tác phẩm Từ Người Lên Phật do chính tay Thầy Minh-Đạt viết, Thầy có trích lời Phật khuyên dân Kalamas rằng: "Chúng ta hãy dùng trí tuệ như một ống thí-nghiệm để soi nhìn nơi ta còn tham lam sân hận không? Khi tham lam sân hận không còn trong tâm ta thì niềm an lạc hạnh phúc hiện bày".
Chính Thầy Minh-Đạt không còn tham lam sân-hận nên Thầy được an lạc hạnh phúc và tự tại khi ra đi vĩnh-viễn. Đúng như lời Phật dạy. Đây chính là Niết-Bàn tại thế.
Bây giờ nói về Xá-Lợi của Thầy Thích-Minh-Đạt.
Xin hãy đọc bài của ông Chánh-Tâm-Hải, một Phật tử của chùa Từ Ân và cũng là người tìm thấy Xá-Lợi đầu tiên:
"Sau lễ Trà Tỳ, con và anh Nhâm-Trung-Quang, con trưởng nam của Thầy đến nơi hỏa táng lúc 12 giờ 10 để nhận tro mang về chùa. Nơi đây, Bác sĩ Lý-Văn-Kim (rể của Thầy Minh-Đạt, đang ngụ tại New York) cho biết khi hỏa táng, nhìn vào trong lò thiêu thấy Thầy nằm trong tư thế giang hai tay ra hai bên, một hiện tượng rất lạ mà người phụ trách hỏa thiêu chưa bao giờ thấy. Trước khi tro cốt màu trắng của Thầy được đưa sang máy nghiền, chúng con và nhân viên phụ trách cẩn thận nhặt hết những mãnh sắt vụn và than đen còn lẫn lộn trong đó. Con khấn thầm trong bụng mong Thầy cho con được thấy sự mầu nhiệm. Con rất vui mừng là người đầu tiên phát hiện một viên ngọc quý mầu xanh, sau đó anh Quang và Kim cũng phát hiện những miếng than xương hình thù khác nhau, to nhỏ đủ cỡ và đặc biệt nhiều màu khác nhau đủ cả xanh, tím, vàng và hồng, đỏ.v.v... Hết đỗi vui mừng trước sự kiện lạ nầy, tin vui được báo về chùa, gia đình và Phật tử rủ nhau xuống nơi hỏa táng để được chứng kiến hiện tượng lạ".
Hiện nay tất cả những đốt than xương có hình thù đặc biệt và mang nhiều màu sắc và tro cốt của Thầy Minh-Đạt được thờ tại chùa Từ Ân. Sau khi được Tăng đoàn xác nhận đó là Xá-Lợi của một vị tu hành đắc quả. @
Ngoài Tăng đoàn Việt-Nam (trong số này có cả Thượng-Tọa Thích-Như-Điển ở Đức mà chúng tôi biết tiếng và tin tưởng ở đức hạnh), còn có quí sư Tây Tạng (như hình trên đây) chiêm ngưỡng và công nhận Xá-Lợi của Thầy Minh-Đạt (ảnh trích trong quyển Từ Người Lên Phật của Thầy Minh-Đạt, được in lần thứ hai).





Bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết, Pháp danh Diệu Âm theo chúng tôi biết, là nữ cư sĩ đầu tiên ở hải ngoại, sau khi lâm chung làm lễ hỏa táng lưu lại Xá-Lợi. Cái chết của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết có nhiều điều lạ lùng đáng được cho người chuyên tu Tịnh Độ tìm hiểu tường tận, để áp dụng cho mình, nếu thật sự người ấy quyết tâm vãng sanh Cực-Lạc.
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật là Kinh Tịnh Độ sau cùng Đức Phật dạy pháp môn Niệm Phật thành Phật. Bà Diệu Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết thực hành đúng theo Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, với lời dạy của Đức Phật: "Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, thì uy lực bất-khả tư-nghị của danh-hiệu khiến Tâm thể thanh-tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ-Phần Pháp-Thân, âm thầm ứng hợp với Bi-Trí Trang-Nghiêm của Phật".
Như vậy chắc-chắn bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết đã chứng nhập chẳng những Sơ-Phần Pháp-Thân, được Phật và Thánh Chúng tiếp dẫn về Thế-Giới Cực-Lạc. Vì Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật có nói thêm:

"Chúng sanh nào sống thuần bằng tư tưởng, thì bay lên hóa sanh nơi các cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm có phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyên lực của mình mà sanh về Tịnh Độ".

Như đã nói bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết tu đúng với ý nghĩa thâm sâu của Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật. Chẳng những bà sống thuần tưởng và còn dứt cả mọi tình cảm ở thế gian nầy.

Cái chết đau đớn của chồng!

Bà Diệu Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết qua đời để lại ba đứa con gái và ba đứa cháu ngoại. Cô con gái lớn của bà tên Huệ-Nghi đã kể lại với chúng tôi:
"Bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết sanh tại Việt-Nam, người Hoa ở Chợ Lớn, chồng là Trần Hòa Bình, khi còn ở Việt-Nam cư ngụ tại đường Hai Bà Trưng, nguyên chủ trại chim bồ câu Đông Phương Thủ Đức và Công Ty Đông Phương Mật Ong. Vào năm 1979 ông Bình đưa vợ và 3 con gái sang Mỹ định cư theo diện di dân được sự bảo lãnh của em trai, và ngụ tại Dallas, Texas.

Ở Dallas, vài năm sau ông ta mở tiệm buôn bán, với kinh nghiệm sẵn có, ông đạt được thành tựu, nhưng không may mắn, vào một hôm buổi trưa tiệm ông bị cướp, ông bị giết tại hiện trường bởi con dao bé nhỏ đâm vào ngực. Ông Bình qua đời hưởng thọ 55 tuổi. Thế rồi từ đó vì cái chết đột ngột của chồng, bà Tuyết trở nên buồn chán. Rất đau khổ, bà ta không chấp nhận sự thật, và bà đi tìm câu hỏi tại sao thế gian này có nhiều đau khổ như vậy?

Sau khi an táng chồng, do sự giúp đỡ của Chùa Pháp-Quang. T.T. Thích-Trí-Hiền nhìn thấy cảnh đau thương của gia đình bà, Thầy tặng cho bà Tuyết và 3 đứa con gái mỗi người một quyển kinh "Địa Tạng" bằng Hán văn và khuyên đừng khóc nữa, hãy về đọc kinh và hồi hướng cho ông Bình. Từ ngày đó bà Tuyết bắt đầu tụng kinh thường xuyên, lần lần tâm sám hối bắt đầu trổ ra và tâm bố thí được mở rộng. Thế rồi bà thường lui tới những ngôi Chùa ở vùng phụ cận Dallas. Và cuối cùng bà quy y tại Chùa Tịnh Độ với Pháp sư Tịnh-Không được đặt pháp danh Diệu Âm.

Vào năm 1991 chùa Tịnh Độ tại Dallas chỉ là một tu viện rất nhỏ của người Đài Loan chỉ niệm Phật và tụng kinh Vô Lượng Thọ, nhưng bên trong tu viện là một kho tàng đựng nhiều sách kinh, đặc biệt chỉ cho không có bán. Được biết mỗi lần sách tới là được phân phát đi khắp mọi nơi trên toàn thế giới.

Hãy sống với chánh nghiệp

Và từ đó bà Tuyết bắt đầu vui vẻ, ăn chay trường, mỗi ngày đến chùa tụng kinh niệm Phật chung với các Sư, làm công quả cho chùa, cạo tóc giùm cho các cư sĩ, may vá cho các Sư. Khi Sư đau chăm sóc và đưa đi bác sĩ, nấu ăn chay cho bữa trưa, giúp thâu những cuốn băng thuyết pháp, đóng sách gởi đi, v.v..., có khi mãi đến tối mới về. Có một hôm tôi thắc mắc và hỏi mẹ: Ở chùa buồn quá có gì vui đâu, sau mẹ đi hoài vậy? Mẹ tôi trả lời nói rằng: "Bây giờ là lúc vui nhất, sống một cuộc đời có nghĩa, bố con vô lộn nghề rồi, con đọc kinh nhiều rồi sẽ thấy sự thật" và mẹ tôi khuyên 3 đứa tôi nên tụng kinh niệm Phật. Chị em chúng tôi nghe vì chiều mẹ cho vui thôi.

Trong khoảng thời gian đó, là năm 1991 cho tới năm 1996, nếu ai có đi chợ VN Market hay chợ Tàu, phố Tàu, những tiệm bán sách hay là tiệm bán bánh, ở trong tiệm sẽ thấy có kệ đựng sách kinh và những cuốn băng thuyết pháp được chất gọn với nhau để chúng sanh được thỉnh free về đọc, đây là một trong những công việc của mẹ tôi thường làm.

Quyển kinh Địa Tạng đầu tiên do Sư Thích-Trí-Hiền biếu, khiến cho tâm mẹ tôi được khai mở và từ đó về sau, mẹ tôi thường tới thăm Thầy, giúp Thầy những gì khi cần, ví như ấn tống tượng Phật, sách kinh, tu sửa Chùa, hay với những gì mà mẹ tôi học được ở Chùa Tàu mà cảm thấy có thể giúp ít được, hoặc là những cụ khí trợ duyên khi ngồi niệm Phật. Cái gì hay thì mẹ tôi sẽ kể cho các cư sĩ nghe để cùng nhau học hỏi chung.

Vào năm 1992 chùa Tịnh Độ được khai mạc tên là Tịnh Trung Học Viện, do sư Ua Sieng đảm nhiệm và Bà quản lý tên Hàn-Anh. Bà Hàn-Anh là người phụ trách đại sự của tu viện ở nội địa hay ở các nước ngoài, và bà cũng là người duy nhất hộ pháp cho pháp sư Tịnh Không đã hơn 30 năm qua. Mẹ tôi hợp với bà quản lý, mỗi lần bà về đây đều phải gặp mặt ăn cơm trò chuyện với nhau. Chắc là đồng cảnh ngộ quả phụ, và đồng tâm hướng về đạo pháp. Bà Hàn-Anh chỉ dạy mẹ tôi đủ thứ, cách dùng pháp khí, các phương thức khi làm lễ, nghi thức tụng niệm, và thường khuyên mẹ tôi hãy giúp đỡ các sư, cư sĩ, cùng nhau tu hành làm phước, tạo phước để vượt thoát luân hồi cùng vãng sanh chung. Được sự khuyến khích của bà Hàn-Anh, mẹ tôi thường ở lại tu viện. Mẹ tôi rất thông minh, chỉ học một lần là nhớ, ví dụ như cách dùng pháp khí khi tụng kinh, cái nào cần đánh cần gõ, trước hay sau; phương thức làm lễ Phật thất, đại lễ khai kinh, quy y; mẹ tôi đều nhớ hết cho nên bà Hàn-Anh thường kêu mẹ tôi làm giùm. Tịnh Trung Học Viện thời đó rất vui, vì sư và cư sĩ hòa đồng với nhau cùng đọc kinh, cùng làm Phật sự. Lúc bấy giờ chủ trì Ua Sieng, hướng dẫn niệm Phật cho những người lâm chung. Lần lần Tịnh Trung Học Viện tổ chức thành một "phái đoàn niệm Phật". Ai cần thì họ sẽ tới hộ niệm, trong đó có mẹ tôi. Nghe bà Âu Thục Anh thuật lại rằng: "mẹ của con có cái gan to lắm, tụi tôi thì nhát gan, khi mà tới hộ niệm thì mình phải đứng xung quanh người chết, rồi niệm A-Di-Đà Phật, cũng ớn ghê lắm chớ, tôi thì sợ lắm chỉ đứng ở đằng sau, mẹ của con luôn luôn được đứng hàng đầu, mẹ con nói sợ gì niệm Phật rồi một hồi sẽ quên thôi, cho nên ngày nay bác bạo hơn xưa nhiều, cũng chính nhờ mẹ con đó".

Bà Tuyết lâm bịnh ung thư

Huệ-Nghi kể tiếp:

Rồi một ngày kia, tự nhiên mẹ tôi bị xuất huyết, liền chở vào nhà thương, thí nghiệm xong, kết quả cho biết bị ung thư tử cung. Nhớ ngày đó, mẹ từ nhà thương gọi điện thoại về cho tôi biết, y bị ung thư, hai chữ ung thư tôi vừa được nghe tự nhiên nghẹn ngào không nói ra lời, tôi chỉ yên lặng tay cầm điện thoại, rồi nghe tiếng mẹ tôi khóc và nói: "Tuấn nó còn nhỏ quá, mẹ ráng sống cho tới ngày nó được đi học, để con đỡ khổ"

Sau khi mổ xong xuất viện được về nhà dưỡng bệnh, vài tháng sau, mẹ tôi lại trở về tu viện tụng kinh niệm Phật, làm công quả như những ngày cũ. Lần nầy mẹ tôi chỉ đi có 5 ngày ở chùa, còn 2 ngày kia thì đi làm việc xã hội từ thiện cho hội "tzu chi". Cháu Tuấn được 2 tuổi, không được theo ngoại đi chùa thường xuyên nữa, trong 1 tuần chỉ đi được hai ba bửa thôi. Tôi không muốn mẹ tôi cứ lo cho cháu hoài, vì tôi thường nghe Sư ông Tịnh Không thuyết pháp trong băng, nên tôi cũng hiểu được chút đỉnh, mặt khác vì sợ mẹ tôi yếu sức. Nhờ vậy chiều thứ năm nào mẹ cũng tới thăm và kể cho tôi nghe thật nhiều chuyện về hội từ thiện, mẹ đi theo những bà cụ già đã về hưu đến thăm viếng các nhà dưỡng lão, làm từ thiện hỏi thăm sức khỏe, vô trong bệnh viện viếng thăm bịnh nhân, đi xin người quen cho quần áo cũ đem về giặt rồi xếp lại để phát cho những người nghèo, đi quyên tiền cho nạn bão lụt, có khi mẹ tôi đi xuyên bang phát lương thực giùm cho các hội từ thiện, v.v... đủ thứ. Đôi lúc tôi nào có để ý tới, chỉ thấy mẹ vui, lạc quan hơn. Ngày tháng trôi qua mau, vào năm 1994, có một hôm mẹ tôi vừa nói, tay vừa chỉ cái cổ của y cho coi, thấy có cụt nhỏ nhỏ, không biết là cái gì, rồi đi bác sĩ khám lại thì cho biết triệu chứng ung thư bộc phát, từ từ đi lên, đây là chu kỳ thứ hai, cục hạch rất nhỏ cần phải đốt quang tuyến, nhưng không biết mẹ tôi nghĩ sao, y không chịu, lại nói để vậy được rồi, không sao. Từ đó, mẹ tôi sống rất bình thường, nhưng ốm hơn xưa, ít đi ra ngoài, bớt đi chùa, ở nhà tụng kinh Vô Lượng Thọ, niệm Phật, lạy Phật, và nghe băng giảng mỗi ngày. Có một ngày, Sư cô Mãn Ya (chủ trì của chùa Tây Lai Dallas) tới thăm và hướng dẫn cách ăn uống. Mỗi sáng mẹ tôi uống nước cỏ, mỗi ngày chỉ uống có một muỗng canh là đủ, loại cỏ nầy do mẹ tôi tự trồng lấy. Cọng rất nhỏ có màu xanh đậm, cắt ra bỏ vào máy vắt ra uống. Tôi thử qua, thơm thơm thanh thanh dễ uống không có mùi, vì mẹ tôi thường quảng cáo cho mọi người biết. Các đạo hữu rất từ bi, thường tới nhà thăm chỉ cách thức ăn uống để trị liệu, và đem những tài liệu giúp ít cho ung thư được chậm lại. Nói chung đa số là lương thực và uống nước trái cây. Mẹ tôi làm theo, khi tái khám lại, bác sĩ khuyên nên làm quang tuyến, nếu không sẽ bộc phát ra nhiều không được tốt đâu.

Quyết xả bỏ nhục thân !

Mẹ tôi từ chối, cả ba đứa tôi thật là đau lòng. Chắc có lẽ mẹ tôi hiểu, nên mẹ nói: "tất cả đều là chúng sanh, cùng một nhà, nếu tôi có nợ gia đình họ, thì tôi sẽ trả, tôi không muốn cảnh chia ly, tôi đã nói với họ rồi, tôi sẽ không làm gì hết, hãy an tâm".

Thế rồi từ đó, ba đứa chúng tôi không nói, cũng không hỏi gì cả, chỉ chiều theo mẹ, không cãi nhau nữa.
Nhớ lại, có một bữa chiều thứ năm, đi làm về nhà, thấy mẹ tôi đang trò chuyện với chồng tôi, lúc tôi bước vào bàn định ngồi thì thấy chồng tôi đứng dậy đi ra, không vui cho lắm. Một hồi mẹ nói với tôi: "2 năm nữa mẹ đi vãng sanh". Và mẹ cười, còn tôi thì la lên "trời ơi, khổ quá má ơi".
Đầu năm 1995, mẹ tôi bị ho, bác sĩ nói trong phổi mẹ có những đốm nhỏ, nên bị ho, có cho thuốc uống nhưng không hết. Mặt khác mẹ tôi có đi bác sĩ Tàu. Và cũng vào thời gian nầy, mẹ tôi bắt đầu sắp xếp công việc, chuẩn bị hành trang. Từ từ mẹ tôi lại ho thêm, khạc ra đờm, nên trở nên ít nói; không có ra ngoài, chỉ ở trong nhà, thân lại hơi yếu và ốm; bạn bè, bà con cũng thường tới thăm. Rồi một hôm, sau cơn ho dữ dội thì nghe mẹ nói: "vạn duyên buông xuống, vạn ngữ buông xuống, nhất tâm niệm Phật".

Từ đó về sau, ba chị em tôi thay phiên nhau săn sóc mẹ, Út thì nghĩ làm ở nhà canh giữ không cho ai đến thăm. Theo lời mẹ dặn từ chối tất cả các điện thoại, kể cả người thân ruột thịt, chỉ khi nào cần ra ngoài như là đi bác sĩ, hay những chuyện cần thiết. Chị em chúng tôi làm phật lòng rất nhiều người, thân nhân, ruột thịt, bà con, họ hàng, bạn bè xa gần trong thời gian nầy. Chỉ trừ những Pháp sư, Sư cô Mãn Ya, Thầy Trí-Hiền được vô nhà thăm mẹ tôi.
Có một đêm khuya, nửa đêm thì phải, nghe tiếng mẹ kêu, giựt mình thức dậy chạy qua coi, thì thấy mẹ đang nằm ở dưới đất, y nói: "mắc tiểu quá, muốn tự mình đi, ai dè bị té, không ngờ chân yếu, không có sức, mẹ không muốn phiền các con, không muốn cũng không được nữa, hết cách rồi". Từ đêm đó trở đi, hai em tôi ngủ chung phòng, một người bên trái, một người bên phải, rồi mẹ tôi dặn khi đêm về thì mặt tả giùm cho y.

Mua quà từ tạ bác sĩ

Cuối năm 1995, mùa Giáng Sinh sắp đến, mẹ bảo em tôi đi mua tấm thiệp Giáng Sinh, hộp kẹo chocolat và viết lên vài chữ "rất cám ơn bác sĩ, từ trước tới nay đều do ông săn sóc trị bịnh cho tôi, từ nay trở đi, tôi sẽ không tới nữa" và mẹ dặn là phải đem tới phòng mạch tận tay giao cho ông và nói, tôi rất là cám ơn. Rồi ngày hôm sau, phái đoàn hospice tới, do bác sĩ gởi tới, cô y tá nói bác sĩ dặn là 1 tuần phải tới 5 lần, mẹ tôi từ chối, mỗi tuần đến 1 lần là đủ, bác sĩ không chịu, ít nhất cũng phải 2 lần, sau đó mẹ đồng ý, thôi 2 lần cũng được. Mỗi lần cô y tá đến, cô mang theo thuốc đau, thuốc ho, băng, thuốc dán, đủ thứ, và nghe mạch, đo máu, kiểm soát thân thể, lần nào cũng vậy, y cũng nói "rất bình thường", có điều mẹ không có nói cho cô ấy biết là mẹ tôi không có uống thuốc, và mẹ căn dặn, "lấy thuốc cất đi để dành, mai sau mẹ đi rồi mới đem trả lại cho cô y tá, vì thuốc nầy có thể trị bịnh được cho người khác, còn mẹ tự biết, bệnh mình không còn cách nào chữa được nữa".

Tôi phải công nhận rằng hội hospice của Mỹ thật là tốt, rất đạo đức, chăm sóc tận tình, chu đáo, cô y tá cứ đòi tắm rửa, lau phòng giùm mẹ tôi, tất cả đều được từ chối, sau đó cô ta dẫn người Việt-Nam tới, mẹ nói không cần đâu, con tôi làm được rồi, không sao. Từ từ mẹ yếu đi, càng ốm hơn nữa, quần áo mặc hết vừa, nhưng triệu chứng ho cũng lạ thất thường, có khi to, có khi không có, có lúc tưởng là vì nói chuyện mới bị ho, rồi có khi nói tới 1, 2 tiếng mà lại không bị ho. Trong khoảng thời gian nầy, mẹ chỉ nói chuyện trong bữa cơm trưa, mỗi ngày chỉ được một lần, ngày nào cũng vậy, chỉ được nghe đừng có hỏi. Mẹ nói: "Hãy lo Niệm Phật. Niệm Phật sẽ giúp ít cho các con về sau, lúc đó sẽ hiểu không cần phải nói". Mỗi ngày mẹ kể chuyện đều khác nhau, nhưng mỗi lần trước khi đi vô phòng nằm nghỉ, thì mẹ đều nói giống nhau "các con đi niệm Phật, tụng kinh, lạy Phật, lúc nầy là lúc tốt nhất cho các con, hãy giữ lấy cơ hội nầy, về sau thời gian nầy sẽ không có nữa". Cả ba đều nghe lời làm theo.
Ngày xưa Tổ Triệu-Châu, năm 90 tuổi Ngài ngộ Thiền. Từ đó suốt 30 năm mỗi ngày ngài Triệu-Châu đều vào thường định, chỉ có 2 thời cơm cháo Ngài mới xuất định để cầu nguyện hầu đền ơn cho đàn na thí chủ; còn thì Ngài luôn luôn ở trong định. Bà Ngọc-Tuyết cố gắng niệm Phật giữ tâm được định, một ngày bà nói chuyện với con 2 lần (Lời người sưu giải).
Tết sắp đến, mẹ tôi rất yếu, phải dùng máy thở oxygen, nhưng lại không có ho, chỉ là thở không được. Có một hôm, cô y tá hỏi tôi, mẹ tôi có phải đang chờ, mong mỏi chuyện gì đó không? Ý cô muốn nói mẹ tôi còn nắm nuối diều gì đó nên chưa chết. Tôi trả lời không có, cô nói "thông thường một người bị ung thư không thể kéo dài lâu vậy đâu, da của mẹ cô màu vàng hết cả rồi!"
Tôi nói, có thể do mẹ tôi ngồi Thiền và niệm Phật nên có sức chịu đựng lâu dài. Cô y tá không sao hiểu được điều nầy.
Trong dòng họ của Huệ-Nghi có 3 người bị ung thư là bà nội, cậu hai và mẹ Huệ-Nghi. Hai vị kia đều rên la kêu gào ngày đêm. Chỉ có mẹ của Huệ-Nghi bình thản niệm Phật.

Sống trong lo âu ... chờ đợi

Đã qua hết ba ngày rồi, phải sống trong sự lo âu, hồi hộp, chờ đợi. Mẹ tôi phải thở bằng oxygen, mẹ ngủ hơi nhiều, lúc thức dậy, bỗng nghe mẹ nói một câu: "Tôi không cần phải niệm Phật nữa". Vừa dứt lời, cả ba đứa tôi sợ đến muốn đứng tim, nhưng rồi không thấy gì thay đổi. Cuộc sống trở lại bình thường, có khi lại nghe mẹ nói: "đừng có lo nấu nướng chi cho nhiều, hãy tập ăn uống giản dị là tốt nhất, mẹ thích nhất là các con cùng niệm Phật chung với mẹ là mẹ vui sướng nhất". Thế là cả ba đều chung vô phòng với mẹ và ngồi niệm Phật hoài, giống như mấy ông Sư.
Ngày hôm sau. lúc đi làm về, em nó gọi điện thoại cho biết, "cả ngày hôm nay tự nhiên mẹ muốn gặp cậu Đức (em trai của y) nên em tìm cậu biểu cậu tối nay qua nhà thăm mẹ, vì mẹ muốn gặp cậu, nhưng cậu nói bận để ngày mai, bây giờ phải làm sao chị hả? Vừa nghe xong, tôi liền quát trong điện thoại "đồ ngu, sao không điện cho tao trước"? Em nó nói "mẹ muốn tìm, cả ngày rồi, gấp lắm" tôi vừa tức vừa khóc chửi "mầy ngu quá, coi chừng tao, tao qua nhà bây giờ". Bỏ điện thoại xuống, tôi qua nhà mẹ tôi tức thì, vừa bước vô nhà, Út chận lại nói, chị làm gì, nếu chị khóc thì đừng có vô thăm mẹ. Tôi đẩy út ra nói "đi chỗ khác", Út chạy theo đi vô phòng. Lúc đó tôi khóc tức tưởi và nói với mẹ con có chuyện muốn nói riêng với mẹ, sau đó Út ra ngoài, chỉ còn tôi với mẹ trong phòng, tôi vừa khóc vừa nói "con xin mẹ đừng có gặp cậu"; mẹ nói: "tôi rất muốn gặp y". Tự nhiên tôi khóc nức nở, một hồi sau tôi lại nói "đừng, đừng làm vậy, xin mẹ hãy giao cho con". Mẹ nói tiếp: "tôi có phương pháp". Tôi vội trả lời "mẹ không đủ sức, con còn trẻ, con đủ sức chống, đời mà khổ lắm, xin mẹ hãy buông xuống, đây là duyên cuối cùng, giao cho con, tụi con sẽ làm được "Rồi tôi khóc tiếp, vì tôi hiểu mẹ tôi rõ lắm, cũng chỉ vì chuyện bà ngoại. Ngoại tôi đang ở với cậu Đức. Chưa bao giờ tôi được khóc trước mặt mẹ tôi. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi vừa khóc vừa nói, tôi không nhớ tôi nói những gì, đã gần hai tiếng, khi ngửng mặt nhìn lên, thấy mẹ tôi mặt bình thản đang nhìn, làm tôi có cảm giác mẹ tôi không có nghe gì cả. (Huệ-Nghi linh cảm mẹ cháu sắp mất).
Rồi mẹ hỏi "con gặp sư phụ có một hai lần, mà sao con tin tưởng ông vậy"? Tôi đáp liền "con thích vì Sư ông thật thà và thành thật". Một lát sau mẹ nói "bảo cậu ấy khỏi tới nữa, không có gì hết, con gắng lo nhá". Và mẹ đi ngủ, ngủ hoài, làm cho em tôi thật là lo.
2/26/96, sáng thứ hai, em út tôi gọi điện thoại cho Sư ông Tịnh Không và hỏi "sao mẹ con ngủ nhiều quá, không biết có lỡ mất cơ hội đi vãng sanh không?"
Sư ông trả lời "không thể", rồi Út hỏi tiếp" thưa sư phụ, khi nào con mới có thể cho mẹ con uống cái hột Xá-Lợi"?
Em tôi nói "bị sư phụ chửi cho một trận".
Chuyện là như vầy, hồi tháng 12 có một người cư sĩ rất tốt bụng từ Houston lên thăm mẹ và biếu cho mẹ tôi một hột Xá-Lợi, viên tròn tròn nhỏ, dặn là bỏ vào một cái tách và đựng nước để ở trên bàn thờ, mỗi ngày đổ nước ra dâng cho mẹ uống, tới khi nào cần thì hãy uống hột Xá-Lợi vô, thì rất tốt. Nghe vậy em tôi làm theo, nhưng vì không biết khi nào mới có thể uống được, nên mới hỏi Sư ông, ai ngờ bị Sư ông la "học Phật pháp tại sao không biết tôn trọng hột Xá-Lợi" và Sư ông nói tiếp: "nhắn với mẹ là, Tây Phương Tam Thánh đang ở ngoài cửa, mẹ con hãy an tâm mà đi, bất cứ lúc nào cũng được".

2/27/96, như thường lệ, sau khi tan sở, qua thăm mẹ tôi. Hôm nay mẹ tôi rất khôi hài, ăn cơm xong, súc miệng, thay quần áo sạch sẽ, nhưng sao mẹ tôi có vẻ thích chọc tôi. Mỗi ngày những công việc nhà thường là do em tôi nó làm. Hôm nay lạ ghê, không hiểu sao, cái gì mẹ tôi cũng nói hãy để Huệ-Nghi làm, rồi tối đến trong lúc thay tã cho mẹ, mẹ lại nói với em tôi "kêu Huệ-Nghi thay tã giùm", làm cho hai em tôi cười lăng ra khoái chí, rồi mẹ nói: "cười vui quá, mai mốt mẹ đi rồi, ba đứa con sẽ khóc chết luôn, sau nầy nếu có ai nhớ tới mẹ thì nhớ niệm A-Di-Đà Phật; tối nay kêu Huệ-Nghi, nó ở lại niệm Phật đừng có về". Nghe vậy tôi liền chạy "thôi má ơi, bye bye, con phải đi về, có hai đứa nó được rồi, ngày mai còn phải đi làm", và sau đó tôi đi về ngay.

Vong hồn đến đòi nợ?

Trên đây là lời của cháu Huệ-Nghi. Văn nói của cô gái Việt gốc Hoa thật chân chất. Chúng tôi ghi nguyên văn; nếu để ý quí vị sẽ thấy. Ông Trần-Hòa-Bình, chồng của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết sống bằng nghề nuôi bồ câu bán cho người ta ăn thịt và nuôi ong lấy mật bán. Sau khi ông Bình chết, Thượng-Tọa Thích-Trí-Hiền tặng cho mẹ con mấy cuốn Kinh Địa Tạng bằng chữ Tàu. Bà Ngọc-Tuyết xem qua biết rõ tại sao chồng mình chết thảm! Từ đó bà lo sám hối, cầu nguyện cho chồng được siêu-thoát và tự mình niệm Phật cầu vãng sanh. Bà hiểu rõ luật nhơn quả. Bà luôn luôn nhắc các con niệm Phật và nói: - Bố các con vô lộn nghề rồi. Các con đọc kinh nhiều rồi sẽ thấy sự thật!

Ý bà muốn nói sẽ thấy luật nhơn quả. Có vay là có trả. Đức Phật cấm sát sanh. Ông Bình sống bằng nghề nuôi sinh vật bán cho người ta ăn thịt, lấy mật của loài ong bán cho người dùng. Dù ông Bình đã chết đi; nhưng bà Ngọc-Tuyết vẫn phải chung cộng nghiệp, nên giữa ban ngày thường thấy những vong hồn hiện đến. Cháu Huệ-Nghi kể về việc nầy như sau:
"Tháng hai, vào một buổi chiều, Thầy Trí-Hiền dẫn 2 đệ tử đến thăm mẹ tôi, lúc đó mẹ tôi nói với thầy "Họ đứng ở ngoài cửa đông lắm, tụi nó đứng chen nhau đầy cả phòng". Rồi đôi khi lại nghe mẹ nói "có khi đang ngủ trông thấy những người xưa, mẹ gặp cô tài tử, nhưng mà mẹ cũng biết y chết đã mấy chục năm rồi, ủa sao không quen mà lại gặp? Tự nhiên mẹ ngộ rồi, niệm A-Di-Đà Phật là tất cả biến mất". Nhiều khi nghe mẹ nói, có những lúc "không có nghĩ mà họ cũng tới; có khi đang ngồi niệm Phật mà họ vẫn cứ đứng đó, đến nỗi mẹ phải nói "A-Di-Đà Phật, xin ngài hãy đuổi họ đi hết, để tôi niệm Phật, tức thì họ biến mất hết". Mẹ nói đó là "Phật độ", các con gắng niệm Phật, chuyện gì cũng qua hết.
Kinh nói "Niệm Phật ác ma tránh xa 40 dặm", chắc đúng như vậy. Đó là chuyện nhân quả mà chúng ta cần phải biết đến.

Dấu hiệu sắp vãng sanh

Lúc nầy bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết dùng ý niệm Phật chứ không còn sức niệm Phật nữa, nhưng vẫn không quên nhắc các con gái niệm Phật.
Cháu Nghi nói:
Nghĩ lại cũng vui, vì trong cái khổ lại có cái vui, mấy ngày trước khi mẹ tôi đi, trong nhà như có sự thay đổi bất thường. Mẹ tôi rất là yên lặng, bình thản, dễ chịu, nhìn hiền như cục bột, làm sao cũng được, y không có la nữa, mặc sức mấy con muốn làm gì thì làm. Nhìn mẹ tôi rất tội nghiệp ốm như cây tăm, da lại vàng, nhưng tay chân sạch sẽ bóng lưởng. Chúng tôi thường hay đấm bóp cho mẹ, để máu thông, cứ nấn nấn tay và chân. Tay mẹ tôi vừa cầm lên thì đụng tới xương, vừa lấy tay ra thì thấy cả dấu tay của mình, phải đợi chút mới bung lên được. Em tôi thì nấn tay phải, còn tôi thì cầm tay trái, đùa giỡn với nhau, tay mầy thì mập quá, vừa bóp một cái thì lủng cả tay, đúng là tay voi, còn mầy thì làm sao, tay thon đẹp quá há, rồi cũng phải lủng tới xương. Chị em tôi khoái bóp bóp tay và chân mẹ tuy là nói để máu thông, thật ra thì để được gần gũi mẹ, và cũng tò mò hiếu kỳ. Có lần tôi đưa cánh tay của mẹ, đưa qua đưa lại, lên lên xuống xuống, đưa tới đẩy lui, sao cánh tay cứ xuôi theo mình, không có cảm giác gì cả. Thấy hơi kỳ, mấy đứa tôi nói chuyện với nhau lia lịa, kể nhau nghe chuyện vui và cười. Một hồi nhìn lên coi mẹ tôi có phản ứng gì không, nhưng mẹ tôi ngồi im ru mắt nhắm lại, không biết có nghe không, tôi cảm giác mẹ tôi chỉ có cái đầu không có cái thân. Mỗi lần trước mặt mẹ, mẹ không thích ai nói chuyện, sao hôm nay mẹ hiền ghê, không có một lời! Rồi đêm nay tôi dìu mẹ đi cầu, lúc trở về tới giường, tôi hơi vô tình, để thân mẹ ngồi trên giường trước, tính quay thân mình lại rồi mới đỡ mẹ lên sau. Ai dè toàn thân mẹ tôi được tâng lên theo thế ngồi 2 cái, thật nhẹ hửng. Tôi giựt mình khiếp sợ, đây cũng là lần đầu, thường do em tôi săn sóc, không biết sao tôi đứng yên như chết, suy nghĩ và nhìn mẹ. Tại sao thân thể không còn tự giác được. Rồi em nó nói: "không phải ngồi, thân mẹ rất nhẹ, đỡ chút rồi ẵm lên giường là được".
Mẹ quay lại nhìn tôi một cái và nhắm mắt cười mỉm chi. Còn tôi thì sợ, từ lần đó không dám đụng thân mẹ nữa. Chắc mẹ tôi biết tôi sợ, nên cứ kêu tôi hoài, sai tôi làm đủ chuyện, làm cho 2 đứa em tôi cười lăn ra đắc chí, đã quá. Nói chung tôi rất là hồi hộp, cứ lo sợ mình làm sai chuyện, còn mẹ tôi thì bình thản như không có gì hết. Những hiện tượng sẽ đi ngược lại với cái gì mình đang nghĩ và thật là khó mà giải thích được. Đôi lúc ngôn ngữ quá thừa thãi cho đến lúc mình cần dùng tới thì không tài nào mà diễn tả được. Nói tóm lại, trong cái khổ sẽ có cái vui, tôi rất cám ơn mẹ, ... vì mẹ cho chúng con sống, ... Nam-Mô A-Di-Đà Phật.

Biết trước ngày vãng sanh

Cháu Nghi kể, mẹ nói với chồng con rằng: "2 năm nữa mẹ đi vãng sanh!" Huệ Nghị nói, chồng Huệ-Nghi không có đạo. Có lẽ vì thế mà bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết báo trước cho chồng Huệ-Nghi để sau này sự thật diễn ra thì y sẽ triệt để tin tưởng nơi Phật Pháp Nhiệm Mầu.
Chẳng những bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết biết trước mình sẽ vãng sanh mà còn biết mẹ của bà cũng sẽ vãng sanh. Tất cả đều đúng như bà Tuyết nói.
Vào tháng 8 năm 1995, bà Ngọc-Tuyết viết một di-chúc bằng chữ Hán giao cho Huệ-Nghi giữ.
Một trăm ngày sau khi tang mẹ, Huệ-Nghi nhớ lại lá thơ, liền đem ra xem, thì kêu lên: "Hỡi ơi là trời ... tại sao tôi đọc thơ này mà lúc đó tôi không tin điều mẹ đã nói trước. Tôi liền tìm sư Tịnh Không hỏi: "Thưa Sư ông, sao mẹ con biết trước được là y sẽ vãng sanh!?" Sư Ông trả lời rằng: "người vãng sanh có thể biết trước được 2 năm".

Huệ-Nghi tự trách mình: Tôi thật ngu xuẩn quá!

Cắt đứt mọi tình cảm thế gian

Trở lại việc bà Diệu Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết cắt đứt mọi tình cảm thế gian - Như đã nói, thuần là tình sẽ chìm xuống như Kinh Lăng-Nghiêm và Niệm Phật Ba-La-Mật dạy.
Bà quyết cắt đứt mọi tình cảm thế gian để vượt thoát khỏi Tam giới, vãng sanh nơi hoa sen Cực-Lạc. Bà không có cháu nội, nên tình thương đặt vào cháu ngoại 2 tuổi tên Tuấn. Bây giờ bà phải cương quyết rời cháu cưng. Một năm trước ngày lìa thế gian, bà ôm Tuấn vào lòng và nói: "Bà có bịnh phải đi, không phải chết. Cháu đừng có buồn mà khóc. Khi nào nhớ bà thì cứ niệm một câu A-Di-Đà Phật, vì bà bị ung thư phải ngủ thật nhiều. Cháu ráng học cho giỏi để sau này giúp các sư dịch Kinh sách".

Từ đó cháu bà không đến thăm bà nữa.
Rồi bà đến thăm mẹ lần chót. Lúc từ giã bà nói: "Vú gắng niệm Phật (Vú là tiếng mẹ mà bà thường gọi) tôi về nhá, từ nay tôi không đến thăm vú nữa. Nam-Mô A-Di-Đà Phật!"

Phần với bà con, anh em, bạn bè, bà Tuyết từ giã bằng cách mua tặng hình Phật, xâu chuỗi, đèn, chuông mõ. Bà gởi hình Tây Phương Tam Thánh về Việt-Nam tặng cho anh em và gởi qua Cali cho đứa em trai út tên là Huỳnh-Hớn-Vinh và viết thơ như sau:
"Lúc nầy chị ho dữ lắm. Nhưng không sao, chị vui vẻ chấp nhận, nghiệp chướng sẽ chuyển. Người càng ngày càng ốm (còn 39 ký lô), nhưng lòng chị càng ngày càng sáng, cũng nhờ Phật độ cho mình đã biết đường hướng nào phải đi cho đúng.
Vài lời thăm gia đình em.

Chị Huỳnh-Ngọc-Tuyết




Trên đây di bút của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết
với dòng chữ cuối cùng cũng nhớ tới Phật.
Đúng là, thuần tưởng thì bay về cõi Cực-Lạc.



Bà Tuyết đắc được pháp gì?

Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật có các đoạn:

"Bất cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu hoan-hỷ thọ trì danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, cho tới nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc mười pháp quyết định bất khả tư nghị. Như là:

1. Quyết định an trụ trong bản nguyện vĩ đại của Đức Phật A-Di-Đà, chắc-chắn được Ngài tiếp dẫn.

2. Quyết định hòa hợp thân và tâm vào trong Kim thân của chư Phật."

Trên đây chúng tôi chỉ trích đăng hai pháp trong mười pháp quyết định bất khả tư nghị, mà Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nói.
Lấy Kinh để ấn chứng thì chắc-chắn bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết đã được Phật A-Di-Đà tiếp dẫn. Nhưng nếu nói bà Tuyết đắc được pháp gì, thì phàm phu như chúng tôi không dám nói chắc.
Hãy nói đến việc bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết sống thuần bằng tưởng. Bà luôn luôn sống bằng sự tưởng nhớ đến Đức Phật A-Di-Đà. Đại Đức Wu-Kai, cùng ở Tịnh Trung Học Viện tại Dallas với Pháp sư Tịnh-Không, viết ký sự sau khi bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết mất, có đoạn:
Mấy tháng cuối cùng chỉ có sáu vị Pháp sư của Tịnh Trung Học Viện Dallas (Hoa-Kỳ) đến nhà niệm Phật, Bà quyết tâm vãng sanh Cực-Lạc. Bà chặt dứt tất cả tình cảm, vật chất. Ngoài con đường giải thoát bà không còn mong muốn gì nữa: "Nếu như không dứt tất cả thì mình sẽ đi không kịp nữa".

Bà dứt hết tất cả tình cảm gia đình, tình bằng hữu, bạn đạo, cho dù họ muốn tụng kinh cho bà, bà cũng từ chối. Bà nhứt quyết ra đi. Bà không tiếc một điều gì. Bà chỉ biết bố thí. Trong phòng của bà chỉ có một bàn thờ, một tượng Phật, một giường, một ghế. Người nào đến hộ niệm thì ngồi vào chiếc ghế duy nhứt ấy.

Cần Niệm Phật liên tiếp 8 giờ đồng hồ

Trước khi bà trút hơi thở cuối cùng chỉ có Pháp sư của Tịnh Trung Học Viện, Dallas, đến nhà của bà. Bà muốn như vậy, bà không muốn người ngoài đến hộ niệm.
Bà Tuyết từng nhắc các con gái hãy đọc kỹ và nhớ quyển sách "lâm chung, những điều cần biết" vì bà mong rằng quí Sư cùng các con bà niệm Phật trong suốt 8 gờ đồng hồ. Sau đó thì tùy các con xử lấy, bà Tuyết có nói với con gái của bà là chỉ cần 8 tiếng thôi, sau đó thì không có nghĩa lý gì hết. Nhớ đừng có mua cái hòm loại đắt tiền, đừng phí tiền mà mua hoa đẹp; tất cả chỉ làm cho người ta coi thôi, còn đối với mẹ chỉ là cái xác vô nghĩa. Bà đã xin bác sĩ được phép để nhục thân của bà trong nhà trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, bác sĩ đã đồng ý và đã ký giấy phép, vì về phương diện luật pháp, có thể được. Trong nước Mỹ, người chết được đưa vào nhà xác lập tức. Trong Phật Giáo, sau khi chết, linh hồn chưa rời khỏi thân thể cho nên ít nhứt sau tám tiếng đồng hồ mới được di chuyển xác. Trong tám tiếng đồng hồ ấy, không thay quần áo, không tắm rửa, không đưa vào phòng lạnh nghĩa là không chạm tới nhục thân. Không đưa vào phòng lạnh để tránh cho người chết không đau khổ, lúc ấy tâm sân nổi lên, thần thức sẽ xuống địa ngục.

Phật A-Di-Đà đến rước!

Ngày 28/2/1996, vào lúc 7 giờ sáng, cháu Ái Nhi gọi điện thoại cho Pháp sư của Tịnh Trung Học Viện cho hay mẹ của cháu sắp mất. Đến 8 giờ 30 Pháp sư vào phòng của bà bắt đầu hộ niệm. Lúc bấy giờ bà chỉ còn thở rất yếu, không nhúc nhích nữa. Sau mười một giờ trưa, ánh sáng giống màu hạt gạo hơi vàng chiếu qua cửa sổ, xuyên qua bức màn màu trắng khiến cho nguyên cả phòng đều sáng rực. Ánh sáng ấy xuyên qua như thế thì khuôn mặt của bà thay đổi. Hôm ấy là một ngày u ám, không có ánh sáng mặt trời. Ngôi nhà kế bên thật cao cho nên suốt cả năm không có ánh sáng chiếu vào nhà của bà, căn nhà của bà thường âm u. Nhưng bấy giờ tất cả căn nhà của bà đều sáng rực, hoàn toàn sáng rực, không có bóng của vật, cũng không có bóng của người. Ánh sáng ấy sáng hơn ánh sáng mặt trời, không thể nói được, chữ nghĩa dân gian không thể tả được ánh sáng ấy. Ánh sáng ấy tỏa xuống làm mất tiêu hết tất cả các bóng.
Nói chuyện với chúng tôi, cháu Huệ-Nghi bổ túc vào bài của Đại-Đức Wu-Kai: Khoảng 10 giờ sáng hôm đó, tự nhiên ngửi được một mùi thơm thoáng không biết từ đâu tới, đang niệm Phật bỗng nhiên phải trố mắt ra nhìn tìm coi chuyện gì sao thơm quá, rồi chị em tôi đổ thừa cho nhau ai xức dầu thơm đó, có bị khùng không, đang niệm Phật lại đi xức dầu thơm. Khi bước ra phòng ngoài thì không ngửi thấy mùi.
Đại Đức Wu-Kai viết tiếp:
11 giờ 23 phút bà đi vào thế giới Cực-Lạc, đi trong ánh hào quang của Phật một cách an nhàn, thanh thản. Sau đó con của bà bắt đầu báo tin cho những bạn đạo biết để đến hộ niệm cho bà. Có tất cả khoảng chừng từ 50 đến 60 người bạn đạo đến thay phiên nhau trợ niệm suốt 26 tiếng đồng hồ.
Cháu Nghi thêm:
Và buổi tối hôm đó, mùi thơm lại tỏa thoáng từ phòng mẹ ra tới ngoài phòng khách, cư sĩ đang ngồi niệm Phật ở hành lang và phòng ngoài đều ngửi được. Về sau có hỏi Sư ông Tịnh-Không, Ngài cho biết đó là "Chư Thiên xuống coi, vì có người vãng sanh".

Niệm Phật được 8 giờ, sau đó mới gọi bác sĩ tới để làm chứng. Cô y tá tới lập tức vào phòng bà Tuyết, sư Wu-Kai nhấc nhẹ tấm khăn phủ mặt để cô y tá coi, cô ấy chỉ nhìn không có đụng, gật đầu đồng ý. Tôi đem trả lại những hộp thuốc được để dành lúc trước, cô ta rất ngạc nhiên cầm lên coi, những cái bao ni lông còn nguyên chưa có mở. Cô nhìn mẹ tôi, trong lúc đó có một người đang đứng lạy, cô ta cũng bắt chước làm theo, y lạy một lạy và bắt chước đọc A-Mi Thò-Phò một câu và cô ấy đi về.
Đại Đức Wu-Kai thuật tiếp:
Sau 26 tiếng đồng hồ phải di chuyển nhục thân của bà, nhục thân ấy vẫn còn mềm, không có mùi hôi. Thực sự, trong vòng một tháng trước bà không tắm, không gội vậy mà lúc ấy nhục thân của bà vẫn không hôi.
Thân nhân của bà lúc bấy giờ không khóc lóc, ngược lại rất vui vẻ, Ba đứa con gái của bà biết được rằng mẹ của họ đã vãng sanh, họ rất đỗi vui mừng. Tình mẫu tử như thế, người ngoài khó hiểu được. Bạn bè của bà cũng lộ vẻ vui mừng.

Bà Tuyết lưu lại Xá-Lợi

Vào ngày 4 tháng 3 năm 1996 đoàn xe tang đưa linh cữu của bà Tuyết vào nghĩa trang Restland thị xã Garland để làm lễ hỏa táng. Lễ cáo biệt, mọi người cùng nhau tụng Kinh A-Di-Đà để đưa Bồ-Tát ra đi. Lễ xong, đưa nhục thân của Bồ-Tát đến chỗ hỏa thiêu, một đoàn xe đưa tiễn vừa đi vừa niệm Phật bỗng từ trên không trung tỏa xuống mùi thơm không rõ từ đâu tới. Ngày 5 tháng 3 năm 1996, chúng tôi tới phòng thiêu để lấy tro, trong mớ tro ấy có ngọc Xá-Lợi gồm có hạt Xá-Lợi và hoa Xá-Lợi. Những ngọc Xá Lợi nầy được đưa về Tịnh Trung Học Viện, Dallas để mọi người chiêm ngưỡng.
Từ giã Bồ-Tát, xin chúc mừng Bồ-Tát đã thoát khỏi một đêm dài luân hồi. Chúng tôi không để cho Bồ-Tát đợi lâu, chúng ta sẽ cùng gặp nhau trên cõi Tây Phương Cực-Lạc.

Đại Đức Wu-Kai

Lý Tuyết Mai (Dallas) và Châu Gia Vu (Colony) dịch sang Việt Ngữ
Cuối bài viết, Đại Đức Wu-Kai gọi bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết là Bồ-Tát, gởi lời từ giã và xin chúc mừng Bồ-Tát Huỳnh-Ngọc-Tuyết đã thoát khỏi một đêm dài luân hồi. Quý sư chùa Tàu cũng thừa nhận bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết chứng quả vị Bồ-Tát, do chỗ Đức Phật và Thánh Chúng đến tiếp dẫn nên đã có hào quang của Phật và Bồ-Tát, có mùi hương thơm tỏa khắp nhà, khắp trời và sau lễ Trà Tỳ Huỳnh-Ngọc-Tuyết đã lưu lại Xá-Lợi. Cái chết của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết, đối với chúng tôi, là một bài học rất cần thiết và có giá trị. Đó là, người ở xứ Mỹ nầy, khi già và đau yếu có thể chết ở tại nhà và được kéo dài 24 tiếng đồng hồ, mới đưa nhục thể đến nhà quàn, nếu có giấy của Bác sĩ. Nhờ vào việc nầy, chúng tôi có nói chuyện với bác sĩ Nguyễn Đức Bỉnh-Khiêm, bác sĩ Khiêm nói; vì lý do tôn giáo có thể lưu xác lại 72 tiếng đồng hồ. Điều cần thiết là phải xin giấy của bác sĩ.
Trong Kinh và sách nhà Phật, như trong cuốn Tạng Thư Sống Chết, Lạt Ma Sogyal Rinpoche khuyên nên chết ở tại nhà, vì không nên lay động di chuyển thân xác người chết trong vòng từ 7 đến 8 giờ đồng hồ. Trong sách Liễu Sanh Thoát Tử của Thầy Thích-Quang-Phú và sách Bí Mật Thân Trung Ấm của Nguyễn Pram (thuộc về Mật Tông); cũng nói như vậy. Vì chết ở nhà thương, sẽ bị người nhà quàn đến mang xác đi bất cứ lúc nào, khiến nhục thể bị chuyển động.
Sách Liễu Sanh Thoát Tử, do thầy Thích-Quang-Phú dịch, có nói rõ: "Không nên gấp rút động đậy như dọn dẹp mền nệm, chùi rửa thay đổi quần áo, cần phải để yên tám tiếng đồng hồ, rồi sẽ tắm rửa thân thể, thay đổi quần áo và nhập liệm. Nếu không theo như thế, thì khi nghiệp thức chưa hoàn toàn bỏ thân, bị xúc động phải cảm thọ sự đau đớn nhân đó mà sinh ra sân hận tức phải đọa vào ác đạo", tức có thể rơi vào Địa Ngục, Ngã Quỷ hay Súc Sanh.

Theo sự chứng đắc Pháp-Thân của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết, ông Nguyễn Pram viết trong sách Bí-Mật Thân Trung-Ấm rằng: "Người mà ngộ cao thì thân thể không hôi thúi lại tỏa ra hương thơm ngạt ngào, thế gian ít có mùi hương nào có thể sánh bằng. Đó là bực đã ngộ Pháp-Thân Viên Mãn, vì chính nó là Kim Cang Thân".

Giống như trường hợp của Bà Diệu-Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết vậy.



Cổ-Đức nói:Có mười hạng người lâm chung không niệm Phật được

  1. Không gặp bạn lành (Thiện Tri Thức), nên chẳng ai khuyên niệm Phật.
  2. Bịnh hoạn khổ đau bức bách, không yên ổn để niệm Phật.
  3. Trúng phong cứng họng, không thể xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
  4. Cuồng loạn mất trí, không thể giữ chánh niệm để niệm Phật.
  5. Bất ngờ gặp nạn nước lửa, hay tai nạn xe cộ máy bay, không thể niệm danh hiệu Phật.
  6. Bổng gặp cọp beo, ác thú bất ngờ làm hại, không sao niệm danh hiệu Phật được.
  7. Khi lâm chung bị bạn ác phá hoại lòng tin.
  8. Bạo bệnh hôn mê bất tỉnh mà qua đời.
  9. Bị bom đạn chết giữa quân trận.
  10. Từ trên cao té xuống mà vong mạng.

Tất cả đều không niệm Phật được. Do đó nên tập niệm Phật, khiến lúc nào cũng giữ chánh niệm.

MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM

Thứ Nhất:

nghĩ đến thân thể thì đừng cầu mong không bệnh tật, vì không bệnh tật thì dục vọng dễ sinh.
Thứ Hai:

ở đời đừng cầu không khó-khăn, vì không khó khăn thì kiêu sa nổi dậy.
Thứ Ba:

cứu xét tâm-tánh đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu triệt.
Thứ Tư:

sự nghiệp đừng cầu không trở ngại, vì không bị trở ngại thì chí nguyện không kiên-cường.
Thứ Năm:

làm việc đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng thường kiêu-ngạo.
Thứ Sáu:

giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
Thứ Bảy:

với người đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất tự kiêu.
Thứ Tám:

thi ân thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân mà ý có mưu đồ.
Thứ Chín:

thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì hắc ám tâm trí.
Thứ Mười:

oan ức không cần biện-bạch, vì làm như vậy là hèn nhát mà oán thù càng tăng thêm.




Vãng sanh ngày 29/7/1999




Nữ Cư sĩ Diệu-Hưng, thế danh Nguyễn-Thị-Tân, quê tại Trà-Vinh. Năm 24 tuổi chồng mất, trong khi đứa con trai duy nhất vừa mới sanh 10 tháng, bà ở vậy nuôi con suốt 54 năm.
Bà quy y năm 40 tuổi và đã thọ Bồ-Tát giới tại gia. Trước kia bà ăn chay 1 tháng 10 ngày và 20 năm trở lại đây bà ăn chay trường.
Bà thường đi chùa và thích làm Phật sự cùng các việc phước đức như giúp chùa, giúp Tăng Ni và giúp trẻ mồ côi.
Hồi ở Sàigòn, bà thường đi chùa Ấn Quang, nhưng cũng thường đến cúng dường các chùa khác trong đó có chùa Huệ-Nghiêm.
Khi qua Mỹ vào 1991, bà may mắn gặp Thầy Thích-Trí-Tuệ tại Chùa Vạn-Hạnh, là vị Sư mà bà từng quen biết ở Chùa Huệ-Nghiêm. Nhưng Chùa Vạn-Hạnh lại xa nhà, vì vậy mà bà thường đi Chùa Vạn-Phước của Thầy Thích-Vân-Đàm. Sau nầy Chùa Vạn-Phước đổi lại thành Tu viện Pháp-Vương. Nhà Phật nói tất cả đều tùy duyên và điều quan trọng là tu như thế nào đạt ngộ, lâm chung lưu lại Xá-Lợi!
Thiên hạ có mấy chục triệu người tu tại sao chỉ riêng có một số ít người có Xá Lợi, như là bà Diệu-Hưng?
Xá-Lợi là gì? Do đâu có Xá-Lợi?
Đại sư Tuyên-Hóa nói: "Xá-Lợi có được là do con người tu hành nghiêm trì giới luật không sát sanh, không trộm cắp, chủ yếu là không tà dâm. Không tà dâm thì bảo bối nơi thân mình không bị tiêu hao mất. Bảo bối nầy tôi tin rằng quí vị đều biết rõ; bởi vậy trọng yếu là sự trì giới luật. Căn bản sanh mạng chúng ta là vật gì? Nếu quí bạn giữ giới không tà dâm thì tự nhiên quí vị sẽ có Xá-Lợi quang minh, xán lạn, kiên cố hơn cả kim cương".
Theo chúng tôi không phải tuyệt đối đều như vậy hết, vì Sa-Di Thích-Minh-Đạt, bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết đều lập gia đình và có Xá-Lợi. Nhưng trên căn bản thì Đại sư Tuyên-Hóa nói không sai. Người không tà dâm thì bảo bối nơi mình không bị tiêu hao.
Chúng tôi nêu ra sự kiện nầy để nhắc quí vị nhớ một điều, bà Diệu-Hưng vừa lập gia-đình thì chồng chết lúc mới 24 tuổi và bà ở vậy nuôi con cho đến lúc lìa đời. Bà đã xa lìa dục ái từ hồi còn trẻ. Bà chuyên Niệm Phật và trì tụng Thần Chú như Sư Bà Đàm-Lựu.
Đây là điều tốt cho bà trên bước đường tu. Người đời không hiểu cho rằng không chồng là bất hạnh, nhưng với người tu, đó là cái duyên của sự tu hành. Không ai có thể nói trước sự tốt xấu, may rủi của một người.
Trong quyển Đường Mây Trong Cõi Mộng, Đại sư Hám-Sơn nói nơi phần Khai Thị từ trang 321, rằng:
"Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh cõi Tây Phương Cực-Lạc, vốn là đại sự cắt đứt dòng sanh tử". Vì vậy bảo rằng chỉ cần xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật là có thể cắt đứt sanh tử. Do đó, ngày nay mới phát tâm niệm Phật.
Song, nếu không biết cội gốc của sanh tử, mà cứ niệm Phật mãi thì cuối cùng sẽ đi về đâu? Nếu Niệm Phật mà không đoạn được cội gốc của sanh tử thì làm sao cắt đứt dòng sanh tử. Cội gốc của sanh tử là gì?
Cổ nhân nói: "Nghiệp bất trọng bất sanh Ta Bà. Ái bất đoạn bất sanh Tịnh-Độ".

Thế nên biết rõ, ái dục là cội gốc của sanh tử ...

Ngày nay suy nghĩ nhìn lại, xem coi lúc nào có một niệm tạm rời cội gốc ái dục nầy đâu! Hạt giống ái căn, bao kiếp tích lũy sâu dày, nên khiến sanh tử không cùng tận. Hiện tại, vừa phát tâm niệm Phật, nếu chỉ vọng cầu sanh Tây Phương, mà danh tự ái dục (tức cội gốc của sanh tử) lại không biết đến, thì khi nào mới niệm đoạn được nó? Không biết cội gốc của sanh tử, nên một bên niệm Phật, một bên cội gốc của sanh tử lại tăng trưởng nhiều hơn. Cả hai việc niệm Phật và cội gốc sanh tử chẳng quan hệ với nhau. Dẫu niệm cách nào đi nữa, đến khi lâm chung quý vị chỉ thấy sanh tử ái căn hiện tiền. Khi đó lại cho rằng Phật không có thần lực, nên liền oán trách niệm Phật không linh nghiệm, dẫu sau nầy có hối hận cũng không kịp.
Vì vậy, khuyên người niệm Phật, đầu tiên phải biết ái dục là cội gốc của sanh tử. Ngày nay dốc lòng niệm Phật, thì niệm niệm phải đoạn ái căn nầy.
Ái thuộc về luyến ái, tham ái. Dục tức là tình dục. Ái là thương yêu, là thích về tình dục. Bà Diệu-Hưng mất chồng lúc 23 tuổi, bà quyết ở vậy nuôi con. Do đó những ái dục trong ái căn của bà lần lần tuyệt dứt, nên khi bà quyết tâm và chí thành niệm Phật, thì bà dễ thành công hơn người còn dính líu ái dục.
Cho nên đối với người còn nặng về chồng hay vợ, Đại sư Hám-Sơn nói:
"Lúc cảnh tình của vợ hay chồng hiển hiện, phải xoay nhìn vào tâm. Một danh hiệu Phật có thể đối địch với ái dục, thì sẽ cắt đoạn được ái căn".

Vậy cái gì là "cội gốc của sanh tử"? Đại sư Hám-Sơn nói: "Tức là tham đắm hưởng thọ vật chất trên thế gian, cùng sắc đẹp, lời hay, vị ngọt, khẩu nồng. Tất cả đều là gốc khổ.

"Ái bất đoạn bất sanh Tịnh-Độ! Ái mà không đoạn dứt làm sao sanh về Tịnh-Độ? Nhờ ở góa nuôi con trong suốt 55 năm trường cho đến lúc lâm chung, nên bà Diệu-Hưng đã diệt được ái dục; do không còn tham luyến ái dục mà tự nhiên bà cắt đoạn được cội gốc của sanh tử. Lại nửa bà Diệu-Hưng chuyên tu Tịnh-Độ suốt 40 năm ròng, lúc nào miệng cũng niệm Phật. Đứa con dâu duy nhứt của bà, mà bà xem như con ruột và đứa cháu trai đã trên 20 tuổi, khi bà nội đau đêm đêm ngủ trong phòng để tiện săn sóc cho bà, tất cả đều nói với chúng tôi rằng: Bà Diệu-Hưng lúc quét rác cũng niệm Phật, hốt lá, xới đất trồng rau cũng niệm Phật. Nhớ con bà cũng niệm Phật.
Năm 1981, theo lời mẹ, con trai bà trốn thoát qua Mỹ, bà ở lại Việt-Nam thêm mười một năm. Đây là mười một năm thương nhớ con trai cùng đùm bọc sống với con dâu và cháu nội. Bà Diệu-Hưng đã biến niềm thương nhớ thành câu niệm Phật. Càng nhớ thiết tha, bà càng niệm Phật tha thiết và chí thành.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức Phật nói: Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, thì uy lực bất-khả tư-nghị của danh-hiệu khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sinh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân, âm thầm ứng hợp với Bi-Trí Trang-Nghiêm của Phật.

Đây là giai-đoạn bà Diệu-Hưng âm thầm chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân mà bà không hề hay biết, vì nhờ chí thành niệm Phật khiến cho Tâm thể được thanh-tịnh.
Cũng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 92, Đại Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói: "Bất cứ chúng sinh nào, hễ nhất tâm xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, dù chỉ một câu duy nhất, thì sẽ xuất sinh những năng lực bất-tư-nghị.

Nơi đây Ngài Quán-Thế-Âm nói bất cứ ai nhứt tâm, như bà Diệu-Hưng, dù chỉ xưng niệm danh-hiệu Phật một câu duy nhứt, thì sẽ xuất sinh những năng lực bất-khả-tư-nghị.
Tại sao vậy? Vì danh-hiệu Phật có khả năng bất-tư-nghị, nên người nhứt tâm xưng niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật như bà Diệu-Hưng, dù chỉ một câu thôi cũng sẽ có nhiều diệu dụng, trong đó có năng lực cải biến Ta Bà thành cõi Cực-Lạc.
Cũng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 69, Phổ Hiền Đại-Bồ-Tát nói: "Danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật như chiếc xe khổng-lồ, vì có thể chuyển vận hết thảy Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm nhanh-chóng tới Phật-địa".

Bà Diệu-Hưng cũng là một Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm nên được chiếc xe khổng-lồ đưa tới Phật-địa nhờ nhứt tâm và chí thành xưng-niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
Bà Diệu-Hưng đã được các ưu điểm như:

1. Diệt được ái dục tức diệt trừ cội gốc của sanh tử.

2. Nhứt tâm và chí thành xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật.

Giai-đoạn đầu Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Diệu-Hưng chứng nhập Sơ-Phần Pháp-Thân tức Sơ-địa Bồ-Tát hay Hoan-hỷ-Địa Bồ-Tát.
Và trong mười năm xa cách bên này Việt-Nam, bên kia xa xôi là nước Hoa-Kỳ, niềm nhớ thương dệt bằng danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, lâu ngày kết thành thân kim cương, một khối lưu ly cứng chắc vô biên.
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 106, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói:

"Bất cứ chúng sanh nào phục sức thân tâm bằng danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật sẽ đắc những năng lực giải-thoát không thể nghĩ bàn".

Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Diệu-Hưng lúc nào cũng nhứt tâm niệm Phật tức là đã phục sức thân và tâm bằng danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, đắc những năng lực giải-thoát không thể nghĩ bàn, cho nên Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Diệu-Hưng đã vượt thoát khỏi Tam giới ở cõi nầy mà đến cõi Cực-Lạc Tịnh-Độ.
Mười năm xa con, mười năm thương nhớ, mười năm niệm Phật, biến nhớ thương thành xâu chuỗi niệm Phật dài đăng đẳng, thành một dòng tâm luân chuyển khắp thân tâm, ăn sâu vào xương tủy chỗ nào cũng là danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
Điều này, Ngài Quán-Thế-Âm có nói nơi trang 88:

"Tiếp tục xưng niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết vào Viên-Giác-Tánh. Đó là danh-hiệu Phật tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát na đều hiển lộ Như-Lai-Tạng ... Danh-hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn-trần-thức đều nhập vào Viên-Giác-Tánh, bình-đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu suốt mười phương".

Trên đây Đức Quán-Thế-Âm có nói về Như-Lai-Tạng và Viên-Giác-Tánh. Tạng có nghĩa là cái kho. Khi cái kho của một chúng sanh còn chứa đủ thứ tốt xấu, phiền não và phân biệt của tâm thức thì gọi là Tạng thức hay Tàng thức. Và khi cái kho được lọc sạch phiền não và chỉ còn chứa sự nhứt tâm niệm Phật thì Như-Lai-Tạng hiển lộ. Cho nên Ngài Quán-Thế-Âm nói: "Danh-hiệu Phật tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc, mà mỗi mỗi sát na đều hiển lộ Như-Lai-Tạng". Mỗi sát na có nghĩa là mỗi tích tắc. Khi phiền não ở trong Tạng thức lần lần sạch, thì Chơn Như trong Như-Lai-Tạng hiển lộ. Mà, Chơn Như tức là Pháp Thân.
Theo Từ Điển Phật Học Hán Việt thì Như-Lai-Tạng là cái Nhơn, mà Viên-Giác-Tánh là cái Quả.
Viên-Giác-Tánh có nghĩa là cái Tánh-Giác Viên-Mãn, cũng được gọi là Phật-Tánh hay Pháp-Thân.
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 102 nói, bất cứ chúng sanh nào chuyên tâm trì niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, dẫu chỉ một ngày cho tới bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì cảm ứng những năng lực Tổng Trì không thể nghĩ bàn.

Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Diệu-Hưng đã chuyên tâm trì niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật cho nên Tâm thể thanh-tịnh mà không hề hay biết cho nên đã chứng nhập Sơ-Phần Pháp-Thân Phật; căn-trần-thức đều hòa tan và nhập vào Viên-Giác-Tánh tức Pháp-Thân.
Đó là giai đoạn bà còn ở tại quê nhà.
Rồi Bà Diệu-Hưng đến Mỹ đoàn tụ gia-đình. Bà tiếp tục xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, bà đi Chùa lễ Phật và làm các công đức khác thêm 8 năm nữa, nhưng lúc nào lòng cũng tin tưởng Phật và vui vẻ niệm Phật.
Thật ra không ai dám nói bà Diệu-Hưng đạt đến quả nào? Nhưng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật trang 111, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói:

Bất cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu, hoan-hỷ thọ trì danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, cho tới nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc mười pháp quyết định bất-khả tư-nghị.

Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói rất rõ, chỉ cần thậm thâm tin hiểu và hoan-hỷ thọ trì danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật một ngày thôi, hoặc bảy ngày, cho đến nhiều lần của bảy ngày sẽ đắc mười pháp quyết định, bất-khả-tư-nghị là chẳng bàn cãi.
Riêng bà Diệu-Hưng đã thậm thâm tin hiểu và hoan-hỷ thọ trì danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật suốt 18 năm dài. Đúng ra phải nói bà niệm Phật 40 năm, tính từ lúc quy y Tam Bảo. Đại Bồ-Tát nói: chỉ cần thậm thâm tin hiểu hoan-hỷ thọ trì danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật một ngày thì sẽ đắc mười pháp quyết định bất-khả tư-nghị.

Trong mười pháp quyết định nầy nghiệm ra đã đắc quả Bồ-Tát thứ 10, tức là Thập Trụ Bồ-Tát hay Đại Địa, Pháp Vân Địa Bồ-Tát, như là: Đời đời thọ sanh trong dòng giống Như-Lai; tham dự những chúng hội đạo tràng của Như-Lai", hòa hợp thân và tâm vào trong Kim thân Phật; hóa sanh tự nơi hoa sen báu, cùng một chỗ ở với chư Phật và chư Thánh Chúng. Chúng tôi chỉ trích dẫn vài phần trong mười pháp quyết định của Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật. Người đắc được mười pháp quyết định khi lâm chung chắc-chắn được Đức Phật A-Di-Đà cùng vô lượng Bồ-Tát vây quanh an ủi tiếp dẫn.
Trường hợp của bà Diệu-Hưng, chúng tôi chỉ biết dựa vào kinh trích dẫn để khuyến-khích mọi người tu niệm Phật, chứ không dám cả quyết bà đắc quả nào.
Bà Diệu-Hưng mất vào năm 78 tuổi. Trước khi ra đi bà đã chuẩn bị tất cả tang sự. Tất cả đồ liệm đem theo cho bà, bà tự lo sắm đầy đủ như quần áo liệm, mũ quan âm kể cả chiếc mền đà-la-ni, bà cũng sắm sẵn từ hồi ở Việt-Nam mà con cháu không hay biết. Bà học Phật pháp biết các pháp đều không, nên đối với sự sống chết bà chẳng hề e sợ. Cho nên sự ra đi của bà mới được tự tại.
Ngày Phật Đản 1999 bà vẫn còn làm bánh cúng Phật và còn vui cười dự "Ngày Cha Mẹ" do Hội Ái Hữu Gia-Long miền Đông tổ chức. Nhưng đến đầu tháng 6 thì bà bắt đầu đau và bịnh phát ra nhanh chóng không thể ngờ. Dù đau lưng dữ dội nhưng không bao giờ bà rên xiết, trước tiên gia đình gọi 911 đưa bà vào nhà thương Fairfax. Nơi đây nói là nhiễm trùng đường tiểu.
Khi về nhà bịnh bà không thuyên giảm. Có người mách, nói bịnh viện ở Maryland có bác sĩ chuyên khoa tài ba khuyên gia đình nên đưa bà qua đó. Bà Diệu-Hưng ở tiểu bang Virginia, muốn vào bịnh viện Maryland phải có cách hợp lý và phải đến vào dịp vị bác sĩ tài ba kia đang làm việc. Mọi sự tính toán như ý, bà Diệu-Hưng được vị bác sĩ ấy khám và tìm ra ung thư trong bao tử. Bà nằm lại bịnh viện, bác sĩ định làm chemotherapy nhưng giờ chót hủy bỏ; vì bịnh bà không thể cứu chữa.
Y Khoa khó giải thích điều nầy, vì bình thường người bị bịnh ung thư sau khi được phát hiện, còn có thời gian nhiều tháng đến nhiều năm để chữa trị. Nhưng bịnh của bà Diệu-Hưng, khi phát hiện đến chết chỉ trong 1 thời gian thật ngắn.
Có phải do sức "định" của sự chuyên tâm niệm Phật của bà quá mạnh, lấn át sự đau đớn của ung thư? Nhiều người tu Niệm Phật, mỗi khi nghe tiếng niệm Phật thì con người trở nên khỏe khoắn nhẹ nhàng. Như Sư Bà Đàm-Lựu, giữa lúc bà bịnh nguy kịch vậy mà nghe tiếng niệm Phật của quí Sư thì Sư Bà tỉnh táo ngay, kêu đệ tử đỡ Sư Bà dậy để Sư Bà đi đảnh lễ quí Sư.
Đại sư Hám-Sơn nói: "Nếu niệm Phật cho đến lúc làm chủ được phiền não, thì ngay trong mộng cũng làm chủ được. Nếu trong mộng tự làm chủ được thì ngay trong lúc bịnh khổ cũng tự làm chủ được.

Nếu lúc bịnh hoạn đau khổ mà tự chủ được, thì lúc lâm chung tâm sáng suốt rõ ràng, bèn biết nơi sắp đến".

Cho nên muốn hiểu sự chứng quả của một người phải căn cứ vào cách hành trì của người ấy có chuyên tâm hay không. Một Phật tử Mỹ, bà Ananda Jenning, có nói: "Trong Phật Pháp trọng tu chứng, chứ không trọng kiến giải". Kiến giải là hiểu biết rộng nhiều về giáo lý, chỉ tu trên lý thuyết, nói miệng tài mà thân và tâm thì tu thật ít, kẻ viết bài này cũng là kiến-giải.
Vào ngày 12/6/99 bà Diệu-Hưng xuất viện.
Đến ngày 20/6/99, Hội Ái Hữu Gia-Long tổ chức lễ cầu an cho bà tại Tu Viện Pháp-Vương với sự hiện diện hàng trăm Phật tử trong vùng. Biết rằng ngày giờ chết không còn xa, nhưng bà không một chút lo sợ. Bà vui cười chào hỏi mọi người, thành thật cám ơn tất cả và bình thản ra về sau buổi lễ.
Bà Diệu-Hưng có người con nuôi tên là Thiện-Viên. Vị nầy là người có đạo tâm, anh đã phát tâm nhận mấy trăm ảnh tượng Tây Phương Tam Thánh phân phối cho Phật tử vùng Thủ Đô Hoa-Kỳ, và các Tiểu Bang lân cận và Canada. Anh đã ra công sang băng cassette Pháp Tu Quán Phật Trì Danh, cả ngàn cuốn để biếu các nơi. Anh Thiện-Viên đã biếu cho bà Diệu-Hưng một cuốn.
Trong một cuộc điện đàm hỏi về trường hớp của bà Diệu-Hưng, anh thuật lại có đoạn nói: "Từ khi ở bịnh viện về bà nói với tôi rằng (tức Thiện-Viên) bà đã biết đường đi rồi".

Câu nói nầy, theo chúng tôi, chứa đựng hai nghĩa:
1. Bà Diệu-Hưng biết đường đi về Tây Phương Cực-Lạc, do phương cách Niệm Phật Vãng Sanh".
2. Bà có tiên triệu, biết trước sắp vãng sanh.
Về tiên triệu, sách Liễu-Sanh Thoát Tử của Cư sĩ Liêu-Địch-Nguyên, do Thầy Thích-Quang-Phú dịch, có đoạn như sau:
"Những tiên triệu trong khi lâm chung tùy theo mỗi người mà cảm thấy có khác nhau; nhưng không ngoài tịnh cảnh hiện ra trước mắt. Hạng thù thắng thì thấy có y báo, chánh-báo trang-nghiêm đều đầy đủ. Hạng kém hơn chỉ thấy Phật và Bồ-Tát. Hạng kém hơn nữa, thì chỉ thấy hoa sen. Nhưng những tiên triệu ấy đều không dính dấp gì với mọi người xung quanh, nên họ không thấy được. Nếu nói đến những tiên triệu mà mọi người chung quanh cũng được cảm thấy; thì những di-tích vãng-sinh của các bậc Thánh-Hiền xưa nay ta có thể khảo cứu mà chia ra 10 món thoại ứng:

1. Nhất tâm bất loạn: Tâm niệm vào một cảnh.

2. Biết trước thời chết đã đến.

3. Tịnh niệm không mất.

4. Biết trước lo tắm rửa và thay quần áo.

5. Tự mình hay niệm Phật, niệm có tiếng hay niệm thầm.

6. Ngồi hoặc nằm ngay thẳng, xấp tay mà chết.

7. Có mùi lạ thơm khắp.

8. Có hào quang sáng soi vào thân thể.

9. Nhạc trời nổi giữa hư không.

10. Tự nói ra bài kệ để khuyên mọi người.

Sáng ngày 29/7/1999 bịnh tình bà trầm trọng. Bà vẫn sáng suốt, luôn luôn chấp tay niệm Phật. Bà đã viết thơ dặn dò khi bà chết phải đem thiêu. Khi nhặt tro phải lượm từ dưới chân, rồi dần lên đầu. Dường như bà biết trước bà sẽ để lại cái gì. Từ trước đến nay ít ai biết điều nầy. Bà dặn tro cốt để lại Chùa 49 ngày, rồi sau đó đem rải ở đâu cũng được.
Bạn đạo đến hộ niệm đông đảo. Bà bảo mọi người đừng khóc. Bà nằm ngửa chấp tay niệm Phật và niệm đến khi không còn niệm ra tiếng. Lúc trút hơi thở cuối cùng bà vẫn còn chấp tay. Cả lúc bà không còn niệm ra tiếng mà người nhà tụng niệm sai bà cũng biết. Chứng tỏ bà hoàn toàn tỉnh táo và an nhiên tự tại ra đi.
Lúc 3 giờ 30 trưa Thứ Năm 29/7/1999 bà dứt hơi thở cuối cùng. Theo thân nhân, lúc tắt hơi cổ bà hơi rướng lên, bỗng nhiên từ cổ lên đến đầu bà bổng biến thành trắng như tuyết, trông bà sáng đẹp. Hơi ấm còn lưu lại nơi đầu và trán.
Chúng tôi chưa từng chứng kiến cảnh một người vừa trút hơi thở cuối cùng ra sao, nhứt là người đó được vãng sanh. Được biết bà Kim-Oanh, cựu giáo sư trường Nữ sinh Gia-Long Sàigòn, hiện diện từ lúc đầu đến cuối. Chúng tôi cố gắng điện thoại lên Virginia không gặp, sau cùng phải gọi 2 nơi tại San José mới liên lạc được. Bà vui vẻ thuật lại tất cả.
Bà Kim-Oanh nói: "Từ nhỏ đến lớn tôi chưa thấy cảnh người chết. Cụ Diệu-Hưng lúc chưa mất trên mặt có 4 vết ửng

Bà Kim-Oanh, nguyên giáo-sư trường Nữ Trung-Học Gia-Long, Saigon.

Bà chứng kiến sắc mặt của bà Diệu-Hưng biến đổi khi vừa tắt thở, gương mặt bà Diệu-Hưng bỗng nhiên sáng đẹp hẳn lên.

Sách Liễu-Sanh Thoát Tử viết rõ:

"Người được xuất thế thì trên trán hơi ấm rất lâu, tức là triệu chứng sanh về Tây Phương vậy".

Bà Diệu-Hưng may mắn được lưu lại nhà 7 tiếng đồng hồ sau khi mất và được sự trợ niệm đầy đủ, sau đó mới để cho nhà quàn đến nhận xác.
Theo sách Liễu-Sanh Thoát Tử, để yên từ 7 đến 8 tiếng là tốt. Đối với người có triệu chứng vãng sanh thì thời gian nầy cũng đủ. Sách viết:

Những hạng đã sẵn có tu theo Tịnh-Nghiệp thì khi lâm chung họ liền đi đến chỗ họ muốn đến ... Nhưng trong khoảng 49 ngày, nếu ta biết vì họ mà niệm Phật thế, thì cũng có thể làm tăng thêm phẩm-vị không đến nỗi uổng công.

Sau Lễ Trà Tỳ, vào 8 giờ tối, T.T. Thích Vân-Đàm gọi điện thoại đến thân nhân bà Diệu-Hưng dặn phải liên lạc với nhà quàn vì có thể có điều gì lạ. Hỏi điều gì lạ? Thầy trả lời có thể có Xá-Lợi lưu lại.
Người nhà bà Diệu-Hưng không hiểu Xá-Lợi là gì cả; nhưng qua cách nói của Thầy Vân-Đàm thì Xá-Lợi là cái gì quý báu nhứt của đời một người tu hành.
Thượng-Tọa Thích-Vân-Đàm dùng chữ "feeling" tức linh cảm để nói với gia đình bà Diệu-Hưng. Dè dặt là căn bản khiêm nhượng của một bực tu hành. Dù khi Thầy đến thì bà Diệu-Hưng đã trút hơi thở.
Nhưng khi đến nơi Thầy rờ trên trán thấy còn hơi ấm và chứng kiến tận mắt vẻ mặt tự nhiên sáng đẹp hơn bình thường của bà Diệu-Hưng, là người tu hành đến phẩm-vị Thượng Tọa, Thầy biết người chết vãng sanh đến bực nào. Đó là người đã được Phật A-Di-Đà và Thánh Chúng trực tiếp đến đón, không còn phải trải qua Thân-Trung-Ấm.
Chính vì thế mà Thầy Vân-Đàm mới nói: "hàng triệu người mới có một người".
Nhờ lời dặn của Thượng Tọa Vân-Đàm và cũng nhờ con cái bà Diệu-Hưng chẳng ngại việc làm phiền bà Giám-đốc nhà quàn mà được kết quả tốt. Vì theo thường lệ, sau khi lửa thiêu tắt, thì bộ phận tự động sẽ đưa tro xác vào một cái mâm; rồi chuyển qua máy nghiền. Dù có Xá-Lợi thân nhân cũng không thể biết được.
Rất tiếc là chúng tôi không liên lạc được với Thượng Tọa Vân-Đàm để bài nầy viết được đầy đủ hơn. Nhà Phật dạy cái gì cũng có duyên. Lúc chúng tôi gọi điện thoại cho Thầy, thì Thầy đi Cali dự lễ Phật Đản. Tìm được điện thoại của Chùa Bát-Nhã, nơi Thầy đến, thì Thầy đi ra ngoài. Lúc Thầy trở lại Virginia, chúng tôi gọi nữa, Thầy lại đi vắng.
Trở lại cuộc điện đàm của gia đình bà Diệu-Hưng với nhà quàn. Khi nghe gia đình bà Diệu-Hưng nói có thể có điều lạ, bà Carmen Giám-đốc nhà quàn không tin. Theo bà Giám-đốc với sức nóng của lửa với 2000 độ F thì vật gì cũng bị cháy tiêu cả. Vả lại khi đốt tới độ nóng đó, thì bên trong lò sẽ nổ tung tan nát cả. Thêm nữa, bà Giám-đốc nói, tự bà không quyết-định được, mà chủ thì không biết đang ở Texas hay California. Nhưng gia đình vẫn kiên trì giữ lời yêu cầu của mình. Bà Giám-đốc phải gọi qua Texas, rồi California để tìm chủ. Cuộc điện đàm diễn ra nhiều lần trong đêm. Nếu gia đình không quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thì hàng Phật tử chúng ta mất một dịp học hỏi quý báu nầy. Cuối cùng bà Giám-đốc hứa sẽ gặp lại thân nhân sáng mai trước lò thiêu.
Sáng hôm sau cháu nội của bà Diệu-Hưng, cùng với Bạch-Kim-Quy, đã có mặt trước lò thiêu trước tiên. Bạch-Kim-Quy là Phật tử của Chùa Từ-Ân ở Canada. Anh biết rất nhiều về trường-hợp Xá-Lợi của Thầy Thích-Minh-Đạt, đã nghe tường thuật: "Người bên ngoài nhìn qua tấm kiếng của lò thiêu ở Canada, thấy Thầy Minh-Đạt nằm ngửa hai tay mở rộng ra, trông thật siêu-thoát". Bây giờ anh có mặt ở đây và chứng kiến ... điều xảo diệu tương tợ.
Rồi bà Carmen, Giám-đốc nhà quàn đến cùng với hai nhân viên canh lò thiêu. Sau nầy được biết, bà Carmen đã có chín năm kinh nghiệm trong nghề. Bà bảo Lý-Trường-Hiệp, cháu nội bà Diệu-Hưng, và Bạch-Kim-Quy ở bên ngoài chờ bà.
Trước đó nghe nói có Xá-Lợi, bà bảo mấy người khùng hết. Bây giờ, sau một phút vào bên trong, bà trở ra với nét mặt kinh-ngạc, hoảng hốt, nói: "Cái xác vẫn còn nguyên". Hai người canh lò, có người làm nghề nầy 5 năm, người 10 năm, đều bảo chưa từng thấy trường hợp nầy. Lúc đó cửa lò bỏ ngỏ, Lý-Trường-Hiệp và Bạch-Kim-Quy liền bước vô xem. Bạch-Kim-Quy tả lại với chúng tôi qua cuộc điện đàm: "lúc đó lửa còn cháy, bà Diệu-Hưng nằm trên bàn, vẫn còn nguyên dáng dấp của một người".
Đúng! bà Giám-đốc nhà quàn không thể tưởng tượng được, vì từ trước đến nay các vụ thiêu tương tợ, xác người chết đã tan nát trước sức nóng, rã rời ra hết, đâu còn dáng dấp như vậy.

Đây là nhục thân Kết! Người tu đạt đạo mới được như vậy. Xác thân trở thành thân bất hoại để lâu không hư không thối. Nếu chết trong tư thế ngồi kiết già thì giống như quí vị Thiền Sư đắc đạo ngồi mà thị tịch.




Những người chứng kiến hiện tượng lạ và Xá-Lợi

Từ trái sang phải: Một vị Phật tử, cô Kim Hà (dâu bà Diệu-Hưng), bà Carmen Giám-đốc nhà quàn National Memorial Park tại Fall Church, Virginia, T.T. Thích-Vân-Đàm người linh cảm bà Diệu-Hưng lưu lại xá-Lợi, Lý-Trường-Hiệp và Bạch-Kim-Quy là hai người vào lò thiêu thấy hiện tượng lạ: "tro xác bà Diệu-Hưng còn nguyên hình dáng người nằm", điều mà bà Carmen phải kinh ngạc kêu lên "đây là phép lạ"; và người sau cùng là cô Kim Hải. 

Thân nhân của bà Diệu-Hưng được báo tin lập tức đến. Thầy Vân-Đàm và Thầy Trí-Tuệ cũng hiện diện.
Thầy Vân-Đàm phỏng vấn bà Giám-đốc và xin đừng để máy tự động đẩy tro xác vào máy nghiền, để thân nhân tìm vật lạ. Bà Giám-đốc nhà quàn vừa nói: "đây là một phép lạ", nên bà sẵn-sàng chiều ý, vì theo phép vệ-sinh không thể để người ngoài vào lò thiêu.
Thế rồi thân nhân tìm được hoa Xá-Lợi và xương Xá-Lợi trước sự chứng kiến của các Thầy.
Lúc tẩm liệm cho bà Diệu-Hưng, thân nhân bỏ quên chiếc mền Đà-La-Ni; bây giờ mền được dùng đựng tro xác để đem về Chùa tìm kiếm tiếp.
Bài nầy không mục đích tìm kiếm Xá-Lợi mà muốn nói lên sự chứng đắc của một người tu Phật, một Bồ-Tát đã chứng đắc qua "Pháp môn niệm Phật thành Phật". Vì là phàm phu chúng sanh thiếu kinh nghiệm, chúng tôi không dám nói bà Diệu-Hưng chứng đắc tới quả vị nào. Nhưng trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nói:

"Niệm Phật là pháp môn đệ nhứt, sử dụng danh-hiệu Như-Lai mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến chuyển hóa, hư dối trở nên Viên-Giác-Tánh".

Bà Diệu-Hưng đã sử dụng danh-hiệu Phật để thâm nhập Phật Tánh, chuyển thân huyễn hóa không thật của bà thành Pháp Thân. Đó là bà đắc đạo vậy.
Nhân đây, xin kể thêm với quí vị về chữ "duyên" của nhà Phật. Vào đầu năm 1999, bà Diệu-Hưng có ý định về Việt-Nam thăm con gái một lần. Cô Kim Hà, con dâu của bà liền đi mua vé cho chuyến bay 30/5/1999. Nhưng sau đó, bất ngờ cô con dâu nghe bà thố lộ "lúc nầy sao thấy trong người không được khỏe". Từ lâu bà Diệu-Hưng không hay than thở về sức khỏe. Nay nghe nói cô con dâu cảm thấy e ngại cho mẹ chồng, nên vào giờ chót cô đề nghị bà tạm bỏ chuyến về nước. Bà Diệu-Hưng vui vẻ đồng ý ngay. Nhưng người con trai duy nhứt mà bà đã hy sinh ở vậy nuôi, anh Lý-Trường-Xuân, không muốn mẹ buồn, bảo vợ nên để mẹ về Việt-Nam. Cô Kim Hà trả lời, mẹ đã nói trong người không khỏe, nếu mẹ về bển, lỡ có việc gì làm sao lo cho mẹ được? Nhờ mẹ chồng và nàng dâu rất thân thiết, nên cô Kim-Hà mới dám dùng tình thương để ngăn cản.
Đó là cái "duyên thứ nhứt" của bà mẹ chồng hiền từ và nàng dâu hiếu hạnh. Nhờ vậy mà bà Diệu-Hưng chết tại quê hương thứ hai và để lại Xá-Lợi tại đây. Bằng ngược lại, nếu bà về Việt-Nam và chết trên quê hương, dù xác bà được thiêu, nhưng có thể Xá-Lợi đã bị hủy hoại.
Đã có cái "duyên thứ nhứt", thì phải có cái thứ nhì. Lúc bà tự tại ra đi, có tiên triệu cho thấy bà đã vãng sanh. Do đó Thầy Vân-Đàm nhắc nhở thân nhân bà nên yêu cầu nhà quàn cho được chứng kiến lúc lửa vừa tắt. Đó là cái "duyên thứ nhì" của bà Diệu-Hưng dối với Thầy Vân-Đàm cùng Tu-Viện Pháp-Vương và Phật tử vùng Thủ Đô Hoa-Kỳ.
Cho nên nhà Phật nói tất cả đều do "duyên". Không ai có thể muốn mà được.



Vãng sanh ngày 22-5-2000



Tập phụ lục "Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi" của chúng tôi vừa hoàn thành chờ gởi đến nhà in thì chúng tôi được anh Huỳnh-Hớn-Vinh gọi điện thoại cho biết: "Sáng nay tại Chùa Diệu Quang tại Santa Ana, Sư Bà Diệu-Từ báo tin cho Phật tự biết, vừa qua tại Sacramento có một cụ bà mất, sau lễ hỏa táng tìm thấy nhiều Xá-Lợi".
Không thể bỏ qua dịp tìm hiểu về Xá-Lợi này, chúng tôi liền gọi điện thoại cho Sư Bà Diệu-Từ ngay. Sư Bà là người rất cởi mở, không câu chấp hạch hỏi đủ thứ, bà liền cho chúng tôi biết: "Vị nữ cư sĩ vừa lâm chung tên là Huỳnh-Thị-Dền, pháp danh Quảng-Khánh là đệ tử tại gia của Sư Bà. Sư Bà theo dõi hạnh tu của cụ bà Quảng-Khánh biết trước khi lâm chung cụ sẽ được vãng sanh và sẽ ..."
Sư Bà Diệu-Từ trình bày khá đầy đủ, nhưng để nghe thêm về hạnh tu của cụ bà Quảng-Khánh do chính miệng con cái của cụ kể, chúng tôi liền xin Sư Bà số điện thoại của gia-đình cụ Bà và xin một buổi hẹn để được diện kiến Sư Bà.
Cháu Du-Hương, pháp danh Quảng-Duyên, con gái của cụ Quảng-Khánh tiếp xúc với chúng tôi, qua nhiều lần điện đàm. Kinh-nghiệm qua những lần tìm hiểu về một vị có Xá-Lợi, dù ghi chép nhiều nhưng rốt cuộc vẫn còn thiếu sót. Chúng tôi yêu cầu cô Quảng-Duyên hãy bỏ thời gian một tuần lễ ngồi ghi nhớ tất cả mọi chi tiết lúc bà cụ sắp lâm chung, viết lên trên giấy gởi cho chúng tôi, như trường hợp cô Huệ-Nghi con gái bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết. Người kể chuyện rất mộc mạc, chân chất, nhưng rất trung thực. Đọc qua, quí vị sẽ hiểu rõ tu niệm Phật như thế nào mà khi lâm chung được Phật và Thánh Chúng đến tiếp dẫn và lưu lại Xá-Lợi cho hậu thế. Dưới đây bài viết của cô Quảng-Duyên.
"Mẹ tôi, Huỳnh-Thị-Dền, pháp danh Quảng-Khánh. Sanh năm 1917, tạ thế ngày 22-5-2000, đại thọ 84 tuổi.
Mẹ tôi sanh vào một gia đình trung lưu miền Nam thuộc tỉnh Bình Dương. Bà Ngoại tôi là người tu theo đạo Phật, nên từ nhỏ mẹ tôi đã theo ngoại đi chùa lễ Phật. Mẹ tôi giữ lấy chữ Hiếu làm đầu, kế đó là Tâm Từ Bi. Mẹ thường bố thí và thích phóng sanh. Mẹ thương yêu tất cả anh chị em và bà con dòng họ và cả người dưng với cả tấm lòng nhu hòa và nhẫn nhịn. Tất cả ai gặp mẹ tôi đều cảm tình và quý mến mẹ.
Năm 19 tuổi mẹ đi lấy chồng. Ba tôi làm nghề Đông Y. Thắm thoát mẹ tôi sanh 5 gái và 1 trai. Trong cuộc đời làm vợ hiền và mẹ thảo, mẹ tôi đặc biệt thương người nghèo khổ, giúp trẻ mồ côi và chú trọng việc cúng dường Tam Bảo. Đặc biệt mẹ tôi chỉ thuận sáu chữ "Nam-Mô A-Di-Đà Phật". Lúc bà ngoại tôi qua đời, mẹ tôi tự tay nấu nướng cúng dường mười bốn vị Sư. Đến năm mẹ tôi 51 tuổi, ba tôi mất, mẹ tôi sống đời góa phụ ở vậy nuôi con. Năm 1978, mẹ tôi dắt chúng tôi rời Việt-Nam sang Mỹ và năm 1980 định cư tại Sacramento.
Mẹ tôi thường niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Khi buồn cũng như khi vui cũng đều Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Mẹ tôi rất thuận câu Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Câu niệm Phật ấy đã in sâu vào tim và óc của mẹ tôi. Khi các con bịnh, mẹ cũng khấn Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Năm 1990, một cơ duyên đưa gia đình chúng tôi tới chùa Diệu Quang. Gia đình tất cả là 6 người con cùng mẹ tôi và một đứa cháu trai đều quy y với Ni Sư Diệu-Từ (bây giờ là Sư Bà).
Trong 10 năm, hàng ngày chúng tôi đi làm. Mẹ ở nhà một mình. Khi đứng, khi đi, khi ngồi, khi nằm mẹ cũng đều niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Khi mẹ bịnh, chúng tôi nhắc mẹ niệm Phật Dược Sư để uống thuốc; mẹ tôi bảo: "Mẹ đã quen niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật rồi. Phật nào cũng là Phật, là đấng cao cả thiêng liêng. Phật A-Di-Đà cũng là đấng Y-Vương".

Sau này vì già yếu, mẹ tôi ít về chùa, nhưng luôn luôn khuyên con cháu đi chùa để nghe pháp, tụng kinh và niệm Phật thì mẹ tôi mới vui. Hằng tháng mẹ nhắc nhở chúng tôi về chùa thọ Bát Quan Trai. Thậm chí mẹ cũng khuyến khích hai đứa cháu ngoại trai cùng thọ Bát Quan Trai.
Mẹ tôi thích đi chùa vào ngày thường, vì chùa không có đông người. Mẹ thích được gặp riêng Sư Bà để hỏi về pháp môn Niệm Phật. Mỗi lần gặp riêng Sư Bà là mẹ tôi mừng lắm. Tôi nhớ có lần mẹ đi Chùa về, tôi hỏi mẹ:

"Hôm nay má mì đi Chùa về có mệt không?"

Mẹ tôi khoe:

"Bữa nay mẹ cầm tay Thầy (Sư Bà) mẹ tưởng chừng như đang nắm tay một vị Phật sống. Từ đây về sau tụi con không nên làm điều gì phật ý Thầy mà mang tội với Phật đó!

Mẹ tôi chẳng những thích làm Phật sự mà còn khuyến khích con cái về chùa làm Phật sự. Nhứt là vào các ngày lễ lớn, từ sáng mẹ đã đánh thức bảo các con dậy sớm về chùa làm công quả rồi trưa về ngủ tiếp. Vì gia đình chúng tôi phát nguyện cứ vào ngày lễ lớn thì cúng dường toàn bộ rau cải (làm rau ghém) cho những Phật tử đi chùa lễ Phật và sau khi dự lễ xong dùng.
Sau rằm tháng Giêng, Sư Bà Diệu-Từ về thăm chùa Diệu-Quang tại Sacramento, lúc ấy mẹ tôi bệnh yếu và mệt, chúng tôi rất lo-lắng; nhưng thầy (Sư Bà) có nói là Cụ chưa có đi đâu, vậy đừng kêu cô Út về. Có thể Cụ đi trong tháng Tư, nhưng nếu Cụ không đi trong tháng Tư thì Cụ sẽ sống thọ lắm. Có lần Sư Bà đến thăm mẹ tôi, mẹ tôi mừng lắm. Mẹ tôi nhắc Sư Bà đi xa hoằng pháp nên giữ gìn sức khỏe. Phật Đản vừa qua, Sư Bà từ Santa Ana về Sacramento làm lễ. Vì quá bận rộn Sư Bà không đến thăm mẹ tôi được, chỉ gởi tặng một bông hồng tươi. Khi cháu mẹ tôi cầm cành hoa về đưa mẹ tôi, mẹ tôi xúc động nghẹn ngào ... mặt buồn buồn".

Những điều lạ trước khi mẹ mất.

Những lúc mẹ sắp mất, tôi còn nhớ rõ cách đây khoảng 2 tháng, vào một đêm mẹ tôi thức giấc dậy đi tiểu. Lúc trở ra, khi sắp bước vô phòng mẹ nhìn ra cửa sổ thấy ngoài trời đêm bỗng rực sáng và toàn là bông hoa rực rỡ.
Mẹ tôi hỏi chị cả: "Sao bông hoa đâu mà nhiều quá vậy?"

Chị cả tôi nhìn ra chẳng thấy gì cả, liền đáp: "Đâu có gì đâu mẹ". Biết rằng không phải mẹ tôi sảng, vì mẹ tôi vẫn bình thường, chị tôi sợ mẹ bị mất giấc ngủ nên khuyên: "Thôi mẹ hãy đi ngủ".

Hôm sau chị tôi đem điều này kể cho chúng tôi nghe. Chúng tôi nghĩ muốn điên cái đầu mà cũng không hiểu tại sao có điều lạ này.
Tiếp đến khoảng 2 tuần trước khi mẹ tôi qua đời, vào buổi trưa, khi ngủ dậy mẹ tôi nói một cách tỉnh táo rằng: "Mẹ vừa nằm mơ thấy đi đến một cảnh thật là đẹp! Toàn là hoa, thật là nhiều hoa đẹp!"

Mẹ kể, cho chúng tôi nghe, chị em chúng tôi đều sợ, không biết là điềm tốt hay xấu đây?
Những ngày kế mẹ hơi mệt, chị em tôi lu bu lo cho mẹ nên quên mất việc gọi điện thoại hỏi Sư Bà về điềm lạ.
Ngày 18/5/2000, về thăm mẹ, tôi bước vào phòng ngủ của mẹ tôi, bỗng nhiên tôi nghe mùi thơm kỳ lạ hơn mọi khi. Tôi trở ra hỏi chị và em tôi: "Ai làm đổ nước hoa trong phòng mẹ vậy"? Chị và em tôi đều trả lời: "Không có"! Rồi chị tôi nói ngay: "Ngày hôm qua mẹ đòi gội đầu, nên thơm đó".

Chúng tôi xúm lại trêu mẹ: "Mẹ thơm quá". Mẹ tôi cười mà không nói gì cả.
Tôi xin mạo muội nói câu nầy, mẹ tôi thật là bà mẹ hiền, không thích ăn mặc se sua và cũng không thích nước hoa. Trái lại mẹ tôi rất ghét những thứ đó. Mùi thơm mà tôi ngửi được chắc-chắn không phải mùi xà bông gội đầu.
Đến ngày 19-5-2000, tôi nhớ ngày này vì hôm đó thứ sáu, đứa em gái tôi từ San José về cùng với chồng con vào cuối tuần. Lúc đó em trai tôi vào phòng mẹ, tiếp chị tôi đỡ mẹ nằm lên gối cao một tí. Em trai tôi cảm thấy mùi thơm liền nựng má mẹ tôi và hôn thật mạnh: "Mẹ thơm quá! con hôn mẹ"! Đây là lần thứ nhì, em trai tôi thấy mùi thơm trong phòng mẹ tôi.
Lúc này chúng tôi không dám rời mẹ, vì sợ mẹ già yếu lỡ té thì bất tiện lắm.
Mẹ tôi thường ngày rất thích nghe băng kinh và băng giảng pháp của Sư Bà Diệu-Từ và băng tụng Kinh của Ni Sư Tịnh-Lạc. Đặc biệt mẹ tôi thích cuốn băng Báo Ân Phụ Mẫu. Nên khi ngủ, mẹ tôi nghe băng Báo Ân Phụ Mẫu, lúc thức dậy mẹ tôi nằm yên niệm Phật.
Qua ngày thứ bảy 20-5-2000, mẹ tôi vẫn ngồi nói chuyện vui cười với con cháu. Đầu óc và tâm tình mẹ tôi rất tỉnh táo. Những lúc mẹ tôi mệt thì bảo đỡ mẹ nằm xuống. Lúc đó mẹ tôi nằm yên niệm Phật, miệng lép nhép niệm thầm. Chị tôi thấy vậy liền ghé sát hỏi: "Mẹ, mẹ nói gì?" Mẹ tôi lắc đầu: "Không, để yên mẹ niệm Phật".

Chúng tôi thấy mẹ đang niệm Phật, nhưng nhìn thần sắc mẹ, chúng tôi biết mẹ đang mệt. Đến chiều chúng tôi thấy mẹ yếu hơn. Sau khi bàn bạc chúng tôi đồng ý đưa mẹ vào nhà thương để tiếp nước biển.
Vào 11 giờ 30 đêm thứ bảy 20/5/2000, mẹ tôi được bác sĩ khám, y tá lấy máu và chụp hình phổi. Khoảng 1 giờ sau, bác sĩ cho biết áp huyết mẹ tôi xuống thấp, trong người thiếu potassium và cảm nên phải cho trụ sinh vào nước biển. Bác sĩ cho mẹ tôi nằm nhà thương. Tôi ở lại nuôi mẹ. Mẹ tôi suốt ngày hôm sau có lúc khỏe, lúc không. Nhưng mẹ tôi vẫn nằm yên nhắm mắt lại, miệng lép nhép.
Tối 21/5/2000 khoảng 9 giờ mẹ tôi nói muốn uống thuốc xổ. Chị tôi hỏi mẹ tôi muốn xin y tá thứ làm cho phân xóp hay uống nước trái prune? Mẹ nói muốn uống prune. Vài giờ sau mẹ tôi đi cầu vài lần. Và đến 5 giờ sáng ngày 22/5/2000 thì mẹ chúng tôi lại mệt nhiều hơn.
Chúng tôi liền gọi Ni Sư Tịnh-Lạc và Sư Bà Diệu-Từ. Sư Bà Diệu-Từ dặn chị tôi nhiều điều và nói một câu là: "Khi mẹ con mất sẽ có việc lạ". Chị em chúng tôi đang lo buồn nên Sư Bà nói điều lạ gì đó mà không ai chú ý hết.
Lúc 10 giờ ngày 22/5/2000, Ni Sư Tịnh-Lạc, sư Tịnh-Minh và chị Liên (Quảng-Hảo), bạn của tôi mà cũng là dưỡng tử của mẹ tôi, đến bịnh viện thăm mẹ tôi. Khi ấy mẹ tôi mệt nhiều hơn. chúng tôi rất lo-lắng, chị tôi liền gọi điện-thoại lên Thầy (Sư Bà). Thầy nói nếu mẹ theo Phật ngày hôm nay thì rất tốt, ngày mai (23/5/2000) thì không tốt đâu. Bằng không ngày thứ Sáu mới được. Nhưng sức khỏe mẹ tôi rất yếu, nên chị em tôi rất lo sợ, không biết mẹ có đi được ngày hôm nay không? Còn ngày thứ Sáu thì quá xa, vì sức khỏe của mẹ tôi đã yếu dần. Nên chị cả tôi, pháp danh Quảng-Hiền, có thưa với Sư Bà Diệu-Từ qua điện-thoại rằng:
- "Bạch Thầy, sự sống chết đâu biết được ngày giờ."
Sư Bà có nói lại rằng: "Các trò đừng lo, hãy yên tâm, con Phật thì phải theo Phật thôi."
Ngay lúc ấy Ni Sư Tịnh-Lạc bảo chúng tôi chia nhau đứng hai bên giường mẹ, và đến gần nói với mẹ tôi:
- "Chúng tôi niệm Phật A-Di-Đà cho cụ nghe và cụ niệm theo nhe"ù.
Mẹ tôi tuy đang mệt, nhưng gật đầu mỉm cười. Mẹ tôi sửa lại bộ nằm, duỗi ngay chân ra trông có vẻ thoải mái, nét mặt không còn vẻ mệt nữa; khi ấy Ni Sư Tịnh-Lạc và Sư Tịnh-Minh đồng cất tiếng:

"Nam-Mô Đại Từ Đại Bi
Tiếp Dẫn Đạo Sư A-Di-Đà Phật"

Tất cả mọi người trong phòng đều niệm theo các Sư.
Đến trưa, mẹ chúng tôi cứ nắm vạt áo mẹ. Chúng tôi không biết mẹ muốn gì, nên bàn với nhau hãy lau mình cho mẹ. Chị tôi đem chai nước cúng Phật mà Sư Bà Diệu-Từ dạy bảo là phải đem theo cho mẹ tôi uống và lau mặt. Khi lau mình mẹ tôi xong thì mẹ tôi nằm yên và thở nhè nhẹ.
Chúng tôi tiếp tục đứng hai bên giường mẹ và niệm Nam-Mô Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A-Di-Đà Phật.
Đến lúc gần 8 giờ tối thì chị Liên (tức Quảng-Hảo) đã đến hồi sáng bây giờ trở lại cùng niệm Phật với chúng tôi. Chị em chúng tôi rất thương mẹ, bình thường gặp trường hợp này thì chúng tôi đã gào khóc thảm thiết. Nhưng giờ đây chúng tôi chỉ biết tập trung tinh thần niệm Phật cầu Phật A-Di-Đà tiếp dẫn mẹ chúng tôi. Không ai khóc lóc cả.
Tới 8 giờ 10 phút tối ngày 22-5-2000, tôi nhìn thấy mẹ tôi không còn thở nữa. Ni Sư Tịnh-Lạc bảo chúng tôi liên tục niệm Phật đừng ngừng. Ni Sư tiếp tục hướng dẫn niệm Phật.
Lúc mẹ chúng tôi ra đi có đầy đủ mặt con cháu.
Vào 8 giờ 30, Ni Sư Tịnh-Lạc và chị Liên đồng buộc miệng reo lên:

"Phật pháp thật nhiệm mầu!" Lúc đó da mặt mẹ chúng tôi bỗng chuyển sang màu hồng và sáng lên. Da mặt mẹ tôi căng thẳng ra không còn nhăn nheo như mấy phút trước đây. Và đặc biệt, mấy phút trước mặt mẹ tôi có những lấm tấm đen; nhưng lúc này tự dưng biến mất trên da mặt mẹ tôi, mà chỉ còn da mặt hồng hào tươi trẻ mà thôi.
Thật là một điều lạ!
Và lúc mẹ tôi mất, miệng mẹ tôi chưa khép kín lại. Vì lúc mẹ tôi hả miệng ra thở thì tắt thở. Nhưng khi da mặt mẹ tôi đổi màu hồng, thì bỗng nhiên cằm dưới miệng mẹ tôi từ từ đưa lên và khép kín lại.
Thật là hi hữu.
Mẹ tôi nằm thản nhiên, nét mặt xem ra như vui vẻ.

Ni Sư Tịnh-Lạc và Sư Tịnh-Minh từ giã ra về. Chị em chúng tôi vẫn tiếp tục niệm Phật.



Vào khoảng 9 giờ 40 tối, lúc ấy tôi đứng kế bên, ngang đầu của mẹ tôi, tôi bỗng thấy trái tai của mẹ tôi dài ra hơn bình thường. Tôi hơi sợ nên lùi ra sau một tí để đổi em tôi đứng vào. Tôi tuy lui ra sau nhưng vẫn dán mắt vào trái tai của mẹ tôi. Trái tai mẹ tôi vẫn còn dài, nghĩa là không phải tôi hoa mắt. Tôi khều chị tôi và chị Liên rỉ tai chỉ cho họ xem. Chị tôi bảo hãy niệm Phật đi và chị Liên cũng nói như thế.
Kể từ khi mẹ tôi mất, lúc mọi người niệm Phật nhân viên nhà thương tôn trọng vấn đề tôn giáo nên không ai đến quấy rầy. Chúng tôi niệm Phật suốt 12 tiếng đồng hồ.
Đến 10 giờ đêm, chúng tôi ra bảo cho y tá là mẹ chúng tôi đã qua đời. Y tá vào làm thủ tục, chúng tôi lạy mẹ lần cuối, rồi ra về. Chị Liên và chúng tôi nhìn lại lỗ tai của mẹ tôi thấy trái tai của mẹ vẫn còn dài và lớn, và da mặt mẹ tôi vẫn tươi hồng và trẻ ra như người phụ nữ khoảng 50 tuổi. Trên đường về chị Liên, pháp danh Quảng-Hảo, có hỏi bình thường trái tai của mẹ tôi có dài và to như vậy không? Tôi trả lời trái tai của mẹ tôi mới lớn ra từ khi tắt thở mà thôi. Chị Liên là chủ nhà hàng Andy Nguyễn ở Sacramento, từ khi thấy sự mầu nhiệm ấy, chị nói chị phải tinh tấn tu mới được.
Khi chúng tôi về tới nhà có hai vợ chồng chị bạn đến chia buồn, chị tôi liền sực nhớ kể lại cho họ nghe về lời nói của Sư Bà Diệu-Từ hồi bữa trưa.
Sư Bà Diệu-Từ nói: "Khi mẹ con mất sẽ có việc lạ". Chúng tôi thắc mắc suốt đêm.
Đến ngày 24/5/2000, Sư Bà từ Los Angeles về để làm lễ cho mẹ chúng tôi và làm lễ phát tang. Sau đó Ni Sư dạy chúng tôi đi mua cái rổ mới và cái vá mới để tìm Xá-Lợi của mẹ chúng tôi. Chúng tôi vâng lời, nhưng chúng tôi hoàn toàn không biết Xá-Lợi là gì, như thế nào?
Thứ Bảy 27/5/2000 quan tài mẹ tôi được đưa đến nơi hỏa táng. Trước đó người Mỹ phụ trách lò thiêu đến hỏi lấy đồ đựng tro cốt. Chúng tôi chưa có nên ông ta bảo sáng Chúa Nhựt phải đưa đến vì ngày Thứ Hai là ngày lễ ông ta nghĩ làm.

Những điều lạ về Xá-Lợi

Sáng 28/5/2000, chị tôi và ba đứa em tôi đến lò thiêu. Tôi không có đi, chỉ nghe thuật lại. Người Mỹ đã có mặt ở đó. Ông ta dẫn mọi người vào lò thiêu. Bên trong còn hơi âm ấm và xúc tro từ ngực trở lên đầu. Vì chúng tôi theo lời Sư Bà dạy nếu đựng không hết thì lấy tro cốt từ ngực trở lên.
Có mấy điều lạ làm chị và các em tôi ngạc nhiên là, khi bắt đầu thì người Mỹ cầm lên một vật ở ngực và nói em trai tôi: "Đây là cái hoa!" Ông ta ngạc nhiên đưa lên ngắm nghía. Tại sao dưới sức nóng 2000 đến 3000 độ F mà cái dạng của cành hoa vẫn còn (?) và khi đụng vào không bị tan rã. Chị em chúng tôi nhớ rõ: Lúc tiễn đưa mẹ lần cuối trước khi nấp quan tài đậy lại, Sư Bà Diệu-Từ ngắt một cành hoa hồng đặt lên ngực mẹ tôi.
Điều lạ thứ hai, người Mỹ chỉ hai vật tròn chai cứng lại màu nâu đậm và nói, đây là hai cái óc. Em trai tôi hỏi lại là cái gì? Người Mỹ một lần nữa nói là hai cái óc và tỏ vẻ ngạc nhiên tại sao bộ óc não mẹ tôi vẫn không cháy tan?
Rất tiếc, vì không hiểu Xá-Lợi là gì, tưởng đâu Xá-Lợi là vật giống như kim cương hay cẩm thạch. Nhưng làm gì có kim cương, cẩm thạch, nên những mảnh Xá-Lợi màu xám, màu đỏ và bộ óc đều bỏ hết. Chị và ba em tôi chỉ lựa mảnh xương màu xanh và ngũ sắc mà thôi. Bây giờ biết rõ ra chỉ đành hít hà hối tiếc.
Khi người Mỹ kéo cánh cửa lò thiêu thì thấy dạng của bộ xương thiêu xong còn hình dáng và trên đầu của sọ có những khoanh tròn tròn màu đen. Người Mỹ nói là tóc. Nhưng khi đụng vào thì bể ra.

Xá Lợi óc của Phật sống chùa Kim-Sơn

Nhơn chuyện xá-lợi óc của Cụ Bà Quảng-Khánh cần nhắc đến xá-lợi óc của Phật sống chùa Kim-Sơn bên Tàu. Theo Pháp-sư Lạc-Quan, Phật sống chỉ là danh gọi của Phật tử ái mộ Ngài. Theo Phật pháp, từ đây đến ngày Bồ-Tát Di-Lặc hạ thế thành Phật, cõi nầy không thể có một vị Phật nào khác. Ai xưng Phật đều là mạo xưng.
Thật sự vị Phật sống ấy là một thiền sư đắc chứng, pháp danh Diệu-Thiện. Sau khi kiến tánh, muốn thành Phật, Ngài biết phải vượt qua một đầu sào trăm trượng ... thật là khó-khăn. Ngài bèn quy về pháp môn Niệm Phật. Từ đó Ngài niệm Phật suốt ngày, cả khi đi Ngài cũng niệm Phật thành tiếng.
Khoảng năm 1928, Pháp-sư Lạc-Quan gặp Ngài ở Nam-Kinh bên Tàu. Năm 1931, Pháp-sư qua Miến-Điện lại gặp Ngài đang tu tại Đại Tháp ở Ngưỡng-Quang. Lúc sắp mất vào năm 1934, Ngài chỉ ăn vỏ dưa, vỏ đậu phộng, giấy súc và cạo sắt rỉ mà ăn. Giữa trưa nắng cháy da ở Miến-Điện, Ngài trùi mình nằm trên mặt đá nóng, lạy Phật. Vì vậy Ngài lâm bịnh nặng, nhưng nhứt định không uống thuốc. Ngài nói: "Phải chịu hết nghiệp báo thì mới có thể giải thoát".

Khi viên tịch, mấy trăm ngàn Phật tử Hoa, Ấn, Miến dự đám hỏa thiêu Ngài. Sau lễ Trà-Tỳ, ngoài vô số xá-lợi, còn có nguyên bộ óc xá-lợi của Ngài trong bộ xương đầu. Một đệ tử của Ngài thỉnh bộ xương đầu ấy, đúc thành một tương Phật, nay còn thờ tại một đạo tràng ở Ngưỡng-Quang, Miến-Điện. Thật đáng tiếc cho bộ óc xá-lợi của Cụ Quảng-Khánh.
Lúc chụp hình các viên Xá-Lợi, em gái tôi nhìn vào viên nào niệm Phật thì viên đó lóe màu trông rất đẹp mắt và thấy mỗi viên có một màu khác nhau. Thêm một việc hi-hữu khác, đứa cháu ngoại trai của mẹ tôi đứng xem, thấy Xá-Lợi có hình một chú tiểu màu trắng, nhưng khi niệm Phật thì bỗng dưng nổi lên 2 chấm đen như cặp mắt và một nửa mặt trăng như cái miệng đang mở mắt và nhếch miệng cười. Trong tích-tắc là không thấy nữa.
*
Tóm lại, do niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật mà cụ bà Quảng-Khánh được vãng sanh và lưu lại Xá-Lợi. Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Bồ-Tát Phổ-Hiền nói nơi Phẩm Thứ Tư, trang 65 rằng:

"Danh hiệu Phật chính là Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ, vì dung nhiếp Hóa Thân tùy nguyện vãng sanh của chư vị Thượng-Thiện-Nhân khắp mười phương thế-giới".

Giờ phút này cụ bà Quảng-Khánh là một vị Thượng-Thiện-Nhân của cõi Cực-Lạc vậy.
Cũng giống như bà Diệu-Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết, bà Diệu-Hưng Nguyễn-Thị-Tân, trước khi lâm chung cụ bà Quảng-Khánh có tiên triệu báo trước như:

1. Thấy hào quang chói sáng và bông hoa rực rỡ.

2. Nằm mơ thấy cảnh đẹp toàn là hoa.

3. Mùi thơm kỳ lạ trong phòng.

4. Muốn được làm sạch cơ thể trước khi ra đi.

Và khi cụ Quảng-Khánh vãng sanh có tường triệu, điềm lành như là:

1. Da mặt đang xanh xao bỗng đồi màu hồng. Da nhăn nheo bỗng căng thẳng ra, trông trẻ hẳn lại như hồi 50 tuổi và những chấm lấm tấm đen đều bay mất.

2. Miệng đang hả ra tự nhiên khép lại.

3. Trái tai tự nhiên dài ra hơn bình thường.

Theo Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, cụ bà Quảng-Khánh hẳn đã chứng Sơ-Phần Pháp-Thân được quả Hoan-Hỷ-Địa Bồ-Tát, nhờ nhứt tâm niệm Phật mà Tâm thể cụ được thanh tịnh, như bà Diệu-Âm, bà Diệu-Hưng và ông Chúc-Quý.
*
Một kinh nghiệm khác dạy cho chúng ta, trường hợp cụ bà Quảng-Khánh mất tại bịnh viện, thân nhân và thân hữu đồng niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật, nhân viên nhà thương vì lý do tôn giáo, tôn trọng người quá cố không hề đến quấy rầy. Mọi người tự do niệm Phật suốt 12 tiếng đồng hồ, sau đó mới bảo cho y tá hay lễ cầu nguyện đã xong.
Và đặc biệt trong trường hợp vãng sanh như cụ Quảng-Khánh, Phật và Thánh Chúng đến rước đi ngay về Cực-Lạc, Thần Thức không còn lẩn quẩn bên nhục thân. Tuy nhiên, trong vòng 49 ngày nếu thân nhân tiếp tục niệm Phật hồi hướng cho cụ và cầu siêu mỗi tuần nhựt thì phẩm vị của cụ sẽ tăng lên vậy. @

Con cháu Cụ Bà Quảng-Khánh tại Mỹ.

Từ phải sang trái: người thứ ba mặc quần đen, đầu để tang là cháu Quảng Mẫn, 13 tuổi, khi bình thường nhìn vào một viên Xá-Lợi thì cháu thấy hình một chú tiểu màu trắng, mà khi niệm Phật thì thấy chú tiểu mở mắt và nhếch miệng cười; người thứ bảy là con gái thứ năm của Cụ Bà tên Quảng-Giải, lúc chụp hình cô nhìn vào viên Xá-Lợi, miệng thầm niệm Phật thì Xá-Lợi lóe màu sáng trông rất đẹp mắt, mỗi viên chiếu một màu khác nhau.




Vãng sanh ngày 16-5-2000


Như đã nói ở bài trước, sau khi chúng tôi hoàn tất phần phụ lục "Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi" nầy thì được tin tại Sacramento có cụ bà Quảng-Khánh vừa vãng sanh lưu Xá-Lợi. Thế là chúng tôi phải tiếp tục tìm tài liệu viết nữa. Kế đến hôm sau lại được tin tại Chicago lại có thêm một cư sĩ vừa vãng sanh, cũng có Xá-Lợi.
Một vị Tổ Tịnh-Độ Tông nói, thời mạt pháp tín tâm của nam cư sĩ không bằng nữ cư sĩ. Nhưng lần nầy không phải nữ cư sĩ. Tin-tức đầu tiên, Xá-Lợi của vị nam cư sĩ đang để tại Chùa Quang-Minh, thành phố Chicago, do Đại Đức Thích-Minh-Chí trụ trì. Thầy Minh-Chí là đệ tử của Hòa-Thượng Thích-Đức-Niệm.
Chúng tôi liền điện thoại cho Đại Đức Minh-Chí. Nghe chúng tôi hỏi thăm về Xá-Lợi, Thầy Minh-Chí vui vẻ nói ngay: "Cả gia đình người quá cố đang có mặt ở chùa và đang tìm kiếm thêm Xá-Lợi trong một phần tro cốt còn lại".

Nhân và Duyên của nhà Phật

Chúng tôi phải mất hai tuần lễ để điện thoại qua lại mới thu thập đủ tài liệu để cống hiến cho quí vị. Qua các bài viết về những vị lâm chung lưu Xá-Lợi, chúng tôi học được chút ít kinh-nghiệm, làm sao biết rõ một người chứng đắc pháp-môn Niệm Phật Ba-La-Mật khi lâm chung được vãng sanh? Vãng sanh như thế nào có được Xá-Lợi?
Thường thường một người vãng sanh đều có những "tiên triệu" tức là điềm báo trước. Như bà Diệu-Âm, bà Diệu-Hưng, cụ bà Quảng-Khánh đều có điểm đặc biệt. Vị nam cư sĩ ở Chicago, khi lâm chung hỏa táng tìm được Xá-Lợi, như vậy rõ ràng ông đã vãng sanh, song tài liệu được cung cấp không thấy có tiên triệu.
Thật vất vả cho chúng tôi. Chẳng những không thấy tiên triệu mà cũng chẳng thấy nói về "tường triệu" tức là điềm lành khi lâm chung.
Chúng tôi bỏ cả 2 ngày để đọc tài liệu và phân tách. Chúng tôi nghĩ, chắc-chắn phải có tiên triệu lẫn tường triệu. Có lẽ thân nhân của người quá cố bỏ sót các chi tiết.
Như các lần trước, công trình của chúng tôi là phải tìm hiểu lại từ đầu, từ khi vị cư sĩ ấy qui y rồi hành trì pháp môn Niệm Phật như thế nào? Từ đó gợi ý thân nhân rồi phăng lần ra. Chúng tôi đang sưu giải Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật. Đây là một tôn Kinh độc đáo. Nếu dựa vào bản văn của Kinh, dẫn chứng lần lần sẽ thấy hiểu vị ấy tu tới đâu, đạt được quả vị nào của các quả vị Bồ-Tát? Đặc biệt Kinh này, ngoài đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng giải, còn có hai vị Bồ-Tát Phổ-Hiền và Quán-Thế-Âm dạy pháp môn niệm Phật Ba-La-Mật.
Trước tiên hãy tìm hiểu về vị nam cư sĩ. Ông tên là Lư-Nhiên-Phú, người Việt gốc Hoa, lúc mãn phần ông hưởng thọ 71 tuổi. Bà vợ tên Diệu-Thiện. Hai ông bà có 4 trai và 4 gái, di dân qua Mỹ vào năm 1991.
Năm 1999, ông Nhiên-Phú qui y với Thượng-Tọa Thích-Thanh-An tại Chùa Phật-Bảo, được đặt tên là Chúc-Quý.
Chúng tôi từng nói, cái tên lắm khi rất ảnh hưởng đến tinh thần hay vật chất và tương lai của một người. Chúc-Quý tức là chúc cho được điều lành, điều quý. Nhưng pháp danh này nghe chẳng có chút đạo vị nào cả. Thiếu gì pháp danh nghe rất kêu, tại sao Thượng-Tọa Thanh-An lại nhìn con người ông Lư-Nhiên-Phú mà đặt cho pháp danh Chúc-Quý? Phải chăng đây là cái tiên triệu đầu tiên của ông Chúc-Quý?
Tại sao chúng tôi nêu ra điều nầy? Vì Kinh nói, tất cả chúng sanh đều có nghiệp quá khứ. Nếu một người có nghiệp quá khứ tốt, từng cúng dường Tam Bảo trong tiền kiếp, hiện đời ăn hiền ở lành, thì đi tới đâu, ở đâu, cũng được gặp thầy giỏi, bạn hiền, gặp được nhiều may mắn. Phật pháp nhiệm mầu là ở chỗ, có những duyên đưa đến những điều tốt đẹp, hay lạ cho chúng sanh đó mà họ không hề hay biết. Một pháp danh được một vị Thầy đặt cho, không phải vô cớ mà ông đặt ra. Có thể do một sự mầu nhiệm nào đó khiến tâm ông nghĩ ra đặt tên cho một người, hoặc vị Thầy nhìn vào sắc diện tánh tình mà đặt cho pháp danh, hoặc theo hệ thống truyền thừa mà đặt cho pháp danh. Dù cho là điều gì, căn bản vẫn do nghiệp quá khứ của đương sự mà được cái pháp danh nói trước tương lai cuộc đời tu hành của người ấy.
Để hiểu rõ điều mình suy luận, chúng tôi tìm cách nói chuyện với Thương-Tọa Thích-Thanh-An. Qua 3 lần điện thoại chúng tôi mới được gặp, đúng lúc Thượng-Tọa từ Canada trở về. Thượng-Tọa nói:

- "Thầy không ngạc nhiên khi được anh Minh-Hiền báo tin, ông Chúc-Quý lâm chung lưu lại Xá-Lợi. Vì ông là người chất-phác, mộc-mạc, tu hành thật tinh-tấn. Hồi ở Việt-Nam ông đã qui y một lần với pháp danh Văn Tín, do một vị sư Tàu đặt cho. Tín tức là tín tâm. Tên thật ông là Lư-Nhiên-Phú tức là Phú Quý. Đúng, ông là người có tín tâm. Khi qua Mỹ, trước khi qui y với Thầy, ông đã tu nhứt tâm niệm Phật và suốt ngày ông chỉ nhớ Phật, chứ không nhớ gì khác. Mỗi ngày ông niệm Phật 6 tiếng đồng hồ, lần chuỗi 300 xâu. Do đó Thầy đặt cho ông pháp danh Chúc-Quý. Sau khi qui y, ông lạy Thầy 3 lạy, nói rằng: "Con phát tâm gặp Sư phụ quá trễ". Thầy đáp: "Không trễ đâu. Chỉ cần con gắng tu tập là được. Mê thì bao lâu cũng mê, còn ngộ thì ngộ cấp kỳ". Ông Chúc-Quý mất sau hơn 6 tháng qui y".

Quí vị hãy suy nghiệm tại sao Thương-Tọa Thích-Thanh-An lại đặt pháp danh Chúc-Quý. Chúng tôi lại thắc mắc, ông Chúc-Quý qui y tại chùa Phật-Bảo. Vậy tại sao khi lâm chung Xá-Lợi của ông lại đem về ở chùa Quang-Minh? Nhà Phật nói cái gì cũng có nhân và duyên. Vậy ông Chúc-Quý có cái duyên gì với Thầy Minh-Chí?
Chúng tôi đem điều thắc mắc hỏi bà Diệu-Thiện. Bà cho biết: chùa Phật-Bảo do Phật tử đóng góp tạo nên. Chùa không có Sư trụ trì. Thượng-Tọa Thanh-An trụ trì chùa An-Tường tại Oakland, California. Thầy được mời đến Chicago, lãnh-đạo tinh-thần chùa Phật-Bảo, giảng pháp và làm lễ qui y cho Phật tử. Trong số Phật tử qui y với Thầy có ông Chúc-Quý. Vì chùa không có Sư nên gia đình ông Chúc-Quý phải đến chùa Quang-Minh để nghe giảng pháp và dự các buổi Bát Quán Trai. Ông Chúc-Quý kết duyên với Đại-Đức Thích-Minh-Chí và chùa Quang-Minh từ đó. Thầy Minh-Chí tuy còn trẻ mà nhiều đạo hạnh nên Phật tử đều mến Thầy. Tuy nhiên, hàng tuần gia đình ông Chúc-Quý vẫn về chùa Phật-Bảo để lạy Phật và làm công quả. Khi ông Chúc-Quý mất đương nhiên phải nhờ Thầy Minh-Chí tụng kinh, làm lễ và bài vị cần phải gởi ở chùa Quang-Minh để nhờ các thầy trì tụng kinh cầu siêu.
Vậy là ông Chúc-Quý có cái nhân ở chùa Phật-Bảo, mà duyên thì ở chùa Quang-Minh. Vì thế mà cả hai chùa đều được thân nhân ông Chúc-Quý kính gởi Xá-Lợi.
Tuy nhiên, gia đình ông Chúc-Quý không quên ơn của Thương-Tọa Thanh-An và chùa An-Tường.


Ông Chúc-Quý tu ra sao mà có được Xá-Lợi?

Sau khi ông Chúc-Quý lâm chung, gia đình ông làm lễ hỏa táng tìm thấy có Xá-Lợi, đó là chứng tỏ ông được vãng sanh. Nhưng, xin nhớ kỹ điều này, không phải tất cả mọi người vãng sanh đều có Xá-Lợi. Trước đây, cũng có nhiều người được vãng sanh, nhưng đâu nghe ai nói các vị ấy có Xá-Lợi.
Vậy là, vãng sanh cũng có nhiều phẩm cấp, người tu tinh tấn hành trì đúng theo lời Kinh Phật dạy, thì được phẩm cấp cao. Còn về Xá-Lợi, chúng tôi phân vân tự hỏi, phải chăng đức Phật Thích-Ca và Phật A-Di-Đà đã dùng thần lực ban ơn đặc biệt cho chúng sanh thời mạt pháp này mà trong vòng chỉ có mấy năm đã có nhiều vị tu pháp môn niệm Phật lại có Xá-Lợi? Dù rằng chúng tôi vẫn biết Xá-Lợi có được, hành giả phải trải qua đại định, tức nhập vào Tam-muội, thì lâu ngày thân tâm mới kết tinh được Xá-Lợi.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Phẩm Thứ Hai, trang 29, Đức Phật nói:

"... Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ-Phần Pháp-Thân, âm thầm ứng hợp Bi-Trí Trang-Nghiêm của chư Phật".

Xin quí vị lưu ý, Đức Phật nói, khi một chúng sanh chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, do danh hiệu của Phật A-Di-Đà có một uy lực mà phàm phu chúng ta không thể bàn, nói, đúng hết được; uy lực của danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà khiến cho Tâm thể của Người-Niệm-Phật được thanh tịnh, mà chúng sanh ấy không hề hay biết.
Chữ "Thanh Tịnh" chứa đựng các nghĩa, tâm được định - vì người tu mà tâm không thanh-tịnh thì không được định - và tâm sạch phiền não, dứt trừ các nghiệp.
Đức Phật nói: "Chúng sanh nào chí thành - tức là có nhứt tâm - xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật thì uy lực bất-khả tư-nghị của danh-hiệu khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết".

Như ông Chúc-Quý, ông chí thành niệm Phật khiến cho Tâm ông thanh-tịnh mà ông không hề hay biết. Ông không hay biết thì làm sao thân nhân ông hay biết được. Tuy nhiên, nếu là người ngoài tinh mắt, để ý nhìn ông sẽ thấy có sự thay đổi trong thân và tâm ông. Như con người trở nên nhu hòa, nhẫn nhục, da mặt đổi sáng, dáng đi khoan thai, ai gặp cũng thấy có cảm tình ... Điều này tự nhiên sẽ lộ ra cho quí vị thấy ở các phần sau mà chúng tôi không cần nói ra.
Đức Phật nói thêm: "... Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng Sơ-Phần Pháp-Thân, âm thầm ứng hợp Bi-Trí Trang-Nghiêm của chư Phật".

Như nói về ông Chúc-Quý: "Nhờ chí thành niệm Phật Tâm Thể ông được thanh tịnh mà ông không hề hay biết, và tự nhiên ông chứng được Sơ-Phần Pháp-Thân mà ông cũng không hề hay biết".

Tu-Niệm-Phật tức là tu Đại-Thừa, Bồ-Tát đạo. Cho nên người chứng được Sơ-Phần Pháp-Thân tức là chứng được Sơ-Địa Bồ-Tát hay gọi là Hoan-Hỷ-Địa Bồ-Tát.
Ai không nghiên cứu Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật không thấy được chỗ này. Theo nhà Thiền, đến chỗ này là lúc "Tâm vô Nhứt vật", là lúc trong tâm thanh tịnh không có một vật gì, nghiệp thức cũng không có, sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp cũng không có. Nói theo Bát-Nhã Tâm-Kinh là không có sáu trần (sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp) không có nhãn giới, không có cả ý thức giới, tức là sáu căn; vì khi đó Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm, tức hành giả Tu-Niệm-Phật, không còn có tâm phân biệt nữa.
Bà Diệu-Thiện nói với chúng tôi rằng: "Lúc ông Chúc-Quý niệm Phật, nhiều khi ai hỏi gì ông đều như chẳng nghe, chẳng hiểu, chẳng thấy gì cả". Chúng tôi giải thích với bà, đấy chính là lúc Tâm thể chồng bà thanh tịnh, tức được định. Lâu ngày cái định ấy sẽ kết tinh thành những vật trong sáng cứng chắc như Kim Cương.
Cháu Thanh-Trí kể: "Nhiều khi ba con đang ngồi niệm Phật, hoặc xem Tivi với những show thú của Discovery mà ba con thích - mắt xem mà miệng vẫn niệm Phật - bỗng nhiên ba con rơi tình trạng nhập định (không phải hôn trầm hay vô ký, Lời người sưu-giải) một thời gian sau thì tỉnh lại.
Sau khi lâm chung, làm lễ hỏa táng ông Chúc-Quý lưu lại nhiều Xá-Lợi, chứng tỏ ông được vãng sanh. Nhưng không phải tất cả những ai vãng sanh cũng đều có Xá-Lợi. Trước đây cũng có nhiều người vãng sanh, nhưng chúng ta đâu có nghe nói họ có Xá-Lợi.
Chúng tôi đang tự hỏi, không biết có phải đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni và A-Di-Đà đã dùng thần lực đặc biệt ban hồng ơn cho chúng sanh thời Mạt pháp chăng, mà sao trong vòng 5 năm có tới 6 vị Tăng Ni và cư sĩ vãng sanh có Xá-Lợi? Dù rằng chúng tôi vẫn biết người có Xá-Lợi đều phải trải qua giai-đoạn niệm Phật khiến Tâm thể được thanh tịnh tức được định, lâu ngày kết tinh thành Xá-Lợi.


Hiện tượng gì chứng minh ông Chúc-Quý được vãng sanh?



Ông Chúc-Quý là người nghèo khổ ở bên Tàu. Từ 17 tuổi ông qua Việt-Nam sanh sống, rồi lập gia đình định cư tại Sàigòn. Vì nhà nghèo ông không được ăn học, nhưng tâm ông luôn luôn lương thiện. Vợ chồng ông ăn hiền ở lành nên có được phước đức, sanh được các con hiền có tâm hướng Phật. Hồi ở Việt-Nam ông cũng đi chùa, nhưng không thường xuyên. Trái lại, các con ông có người đã qui y Tam-Bảo. Nhờ có phước đức, gia đình ông qua Mỹ con cái đều có việc làm tốt, tạo được nhà cửa sống hạnh phúc.
Đến Mỹ các con ông thường xuyên đi chùa học Kinh, còn ông muốn đi chùa nhưng ngại mình dốt lại ít tiếng Việt. Vợ con ông động viên khuyến khích ông đi chùa. Nhờ vậy mà ông có được pháp danh Chúc-Quý.
Từ khi đi chùa, nghe giảng pháp, ông tu tinh tấn hơn nhiều người. Bất kể mọi khó khăn của thời tiết; dù mưa gió, dù trời lạnh đến đóng băng, ông Chúc-Quý cũng đến chùa Quang-Minh mỗi sáng Chúa Nhựt để dự khóa Hồng Danh Sám Hối, và mỗi tháng thọ Bát Quan Trai ở chùa Quang-Minh hay Phật-Bảo.
Nhưng, bấy nhiêu đó không đủ chứng minh ông Chúc-Quý được vãng sanh và có được Xá-Lợi; vì nhiều người khác cũng thường đi chùa đều đặn đâu kém gì ông Chúc-Quý. Tại sao họ chẳng được? Có nghĩa là ông Chúc-Quý phải tinh tấn tu hơn điều nói trên.
Thân nhơn ông Chúc-Quý không nhớ được điều chúng tôi muốn biết. Vì vậy mà chúng tôi phải bỏ công gọi điện thoại nhiều lần, nói chuyện nhiều người trong gia đình ông, như bà Diệu-Thiện, cháu Huệ-An con gái thứ năm và cháu Thanh-Trí con trai út. Chúng tôi khuyến khích họ ôn lại cách hành trì niệm Phật của ông Chúc-Quý. Qua nhiều ngày, chúng tôi ghi nhận được nhiều điều hữu ích. Sau cùng, được nói chuyện với Thương-Tọa Thích-Thanh-An, chúng tôi đúc kết được hạnh tu của ông Chúc-Quý như sau:
1. Ông nhứt tâm và chí thành niệm Phật cầu vãng sanh.
2. Mỗi ngày ông niệm Phật 6 tiếng đồng hồ, cứ 2 tiếng ông niệm được 100 xâu chuỗi và giữ đều đặn như vậy. Ngoài ra khi nhổ cỏ, trồng trọt, tưới cây ông cũng không ngừng niệm Phật.
3. Lúc nào trong tâm ông cũng đều tưởng nhớ đến Phật và từng thấy Phật.
Cũng trong Kinh Niệm Ba-La-Mật (Phẩm Thứ Hai, trang 30, bản in của Phật Học Viện Quốc Tế (PHVQT). Chúng tôi nói PHVQT vì chùa Quang-Minh có ấn bản này) Đức Phật nói:

"Muốn vãng sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật (A-Di-Đà) là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu-tướng của Pháp Thân, cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì ngay nơi danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật chứa được vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực ... không thể nghĩ bàn".

Như đã nói, nhờ xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật không ngừng, tâm thể ông Chúc-Quý được thanh tịnh. Và ông chỉ tinh chuyên niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật mà ông được vãng sanh.
Nhưng có những điềm gì, hiện tượng gì, chứng minh rằng ông Chúc-Quý thật sự vãng sanh? Khi tiếp xúc với bà Diệu-Thiện qua điện thoại, chúng tôi nghe bà nhắc đến ông Minh-Hiền mấy lần, cháu Huệ-An cũng nói với chúng tôi:
- Trước khi đưa ba con đi hỏa táng, bác Minh-Hiền có kêu con ra ngoài nói: "Có thể ba con có Xá-Lợi. Khi lấy tro cốt con nhớ tìm Xá-Lợi".
Chúng tôi liền điện thoại hỏi ông Minh-Hiền:
- Xin ông vui lòng cho biết, dựa vào điềm nào mà tự nhiên ông cảm thấy ông Chúc-Quý có thể để lại Xá-Lợi?
Không một chút nghĩ ngợi, ông Minh-Hiền nói:
- Chúng tôi đã quen biết nhau nhiều năm rồi. Tôi hiểu nhiều về con người ông Chúc-Quý. Tuy ông kém chữ nghĩa, tánh tình mộc mạc, nhưng ông là người nhứt tâm và quyết tâm cầu nguyện vãng sanh. Ông thường lui tới chùa Phật-Bảo, tâm tình với tôi và hỏi han tu cách nào mà có thể vãng sanh? Tôi đã gặp rất nhiều người cùng tu niệm Phật, họ rất rành kinh điển nói năng lưu loát, nhưng tôi biết những người ấy chỉ giỏi lý thuyết chứ không thực sự tu hành. Nhà Phật, tu là phải thực chứng. Nói ngoài miệng chỉ là kiến giải. Còn ông Chúc-Quý, ông không hiểu nhiều về Phật pháp, song ông có quyết tâm, với lòng tin tha thiết. Điều nào ông không biết là ông đem ra hỏi ngay, không sợ xấu hổ. Do đó, với hạnh tu của ông, tôi tin tưởng ông sẽ được vãng sanh.
Tôi còn nhớ, có lần ông hỏi tôi:
Niệm Phật cách nào mới thực sự vãng sanh, hầu thoát khỏi luân hồi sanh tử?
Lần ấy tôi đáp:
- Niệm Phật phải thật tha thiết, phải quên tất cả dục lạc tầm thường hàng ngày, như cảnh tình vợ con hãy ráng bỏ, đừng để bị ràng buộc, phải sửa đổi tánh cho được nhu hòa, hiền hậu. Thì ngày ra đi chắc-chắn chúng ta sẽ được như ý.
Ông Chúc-Quý trầm ngâm giây lâu rồi nói:
- Tôi sẽ cố gắng thực hiện để được vãng sanh.
Chúng tôi xin tạm gác qua lời nói của ông Minh-Hiền để thêm vào một điều. Khi nói chuyện với chúng tôi, cháu Thanh-Trí, con trai út của ông Chúc-Quý có nói:
- Bác ơi, hồi trước ba con tánh nóng dữ lắm. Trong nhà ai làm điều gì không vừa lòng ông, thì ông la hét ngay - Nhưng từ ngày tu tới bây giờ, ba con hiền lắm, hiền như ông Phật. Trước kia, quen theo sanh hoạt gia đình, khi ăn cơm thì phải cả nhà cùng ngồi vào bàn ăn, nhưng sau này ba con như dứt bỏ mọi thông lệ. Ông thường lặng lẽ ngồi riêng một mình, khi ăn ông cũng ăn riêng. Vợ con làm gì ông cũng không để tâm đến.
Đó để chứng minh ông Chúc-Quý tập xa rời dục lạc và cắt đứt lần tình cảm gia đình. Bây giờ xin trở lại với ông Minh-Hiền. Tiếp tục câu chuyện, ông Minh-Hiền nói:
- Cháu Phước-Lạc, đứa con trai áp út của ông Chúc-Quý, nói với tôi:
"Bác ơi, hồi xưa tánh ba con khó lắm, nhưng sau này trong nhà ai muốn làm gì thì làm, ông không màng tới. Ba con tập theo Bát-Nhã Tâm-Kinh "Tâm vô quái ngại". Cả đến một vật cứng rớt xuống chân ba con, mà ba con cũng không phản ứng kêu đau".
Ông Minh-Hiền nói tiếp:
- Mỗi lần gặp tôi là ông gợi chuyện về niệm Phật vãng sanh. Năm trước, ông nói ông Niệm Phật mà sao còn nhiều vọng tưởng quá. Tôi liền chỉ cho ông cách niệm Phật công cứ; nghĩa là tự qui định mỗi ngày mình sẽ phải niệm bao nhiêu lần danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Rồi khi niệm mình ghi sổ để biết mỗi ngày mình niệm có đúng số không? Như vậy mình sẽ diệt được vọng tưởng và không lơ là trong việc niệm Phật.
(Có lẽ do chỗ này mà cháu Thanh-Trí nói với chúng tôi: "Bác ơi, ba con niệm Phật lần chuỗi liền tay, Ba con niệm lẹ lắm". Bây giờ chúng tôi mới biết rõ, ông Chúc-Quý niệm Phật công cứ, ông tính số niệm nên niệm lẹ).


Những điều báo trước vãng sanh



Xin nói về tiên triệu tức điềm báo trước của ông Chúc-Quý. Ông Minh-Hiền kể tiếp:
- Ông Chúc-Quý thường đến chùa giúp trồng cây kiểng. Bỗng một hôm ông nói với tôi: "Chắc tôi không còn dịp trồng cây cho chùa nữa. Tôi hỏi: Tại sao? - Ông bình thản trả lời: "Tự nhiên tôi linh cảm như vậy". Bây giờ nghĩ lại, rõ ràng ông Chúc-Quý đã bảo trước ông sắp ra đi.
Cháu Thanh-Trí nói với chúng tôi:
- Ba cháu rất ghét chụp hình. Vậy mà lúc sắp mất ổng đòi đi chụp hình. Nhờ vậy mà bây giờ có hình để thờ.
- Vài tuần trước ngày ba con mất, sau buổi niệm Phật, ba con nói: "Ngộ thấy Phật A-Di-Đà". Trước đây ba con niệm Phật đều tưởng nhớ Phật A-Di-Đà. Nhiều lần đến chùa thọ Bát Quan Trai, ba con nói, thấy tượng Phật ở nhà đẹp hơn những tượng Phật khác (Có nghĩa là đi đâu ông Chúc-Quý đều nhớ ông Phật ở nhà).
Cháu Huệ-An kể:
- Cái đêm rạng ngày ba con mất, không hiểu sao con không ngủ được. Vào 3 giờ khuya ba con thức dậy nấu cháo, rồi tụng Kinh A-Di-Đà và Bát-Nhã Tâm-Kinh bằng tiếng Tàu, Ba con biết đánh chuông gõ mõ. Sáng hôm đó con nghe ba con đánh chuông tụng kinh đến hai lần. Thật là lạ!
Bây giờ nói chuyện ông Chúc-Quý thật sự vãng sanh.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật tức là Kinh Niệm Phật Thành Phật, Phẩm Thứ Nhứt, trang 15, Đức Phật nói:

- "Mỗi khi sắp mạng chung thì các loại nghiệp lành dữ trong một đời hiển hiện rõ ràng. Chúng sanh nào sống thuần bằng tưởng (như ông Chúc-Quý lúc nào cũng tưởng nhớ đến Phật) thì bay lên hóa sanh nơi các cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ (tức phước đức và trí huệ), và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-Độ".

Bây giờ thử phân tách về ông Chúc-Quý. Tất cả những gia đình Việt-Nam qua được xứ Mỹ này định cư, đều đáng được gọi là có phước đức. Kinh nói: "Nếu trong sự thuần tưởng lại gồm cả Phước đức, Trí huệ và Tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy Phật". Vì thuần tưởng thì Tâm thể nhẹ nhàng khi lâm chung sẽ bay lên. Còn người nặng Tình thì bị dính mắc sẽ chìm xuống, cho nên nói là bị đọa.
Ông Chúc-Quý đã có Phước Đức, thời gian biết tu ông thường bố thí, cúng dường chư Phật Bồ-Tát, ông lại biết sám hối và hồi hướng công đức nên Phước Đức của ông mỗi ngày mỗi tăng.
Ông thường niệm Phật không ngừng. Những lần ông niệm Phật, tâm thể ông được thanh tịnh tức ông được Định mà ông không hề hay biết. Như Đức Phật nói, người chuyên tâm niệm Phật được Sơ-Phần Pháp-Thân. Khi ông được Định tự nhiên Định sanh ra Huệ.
Để chứng minh, hồi trước ông Chúc-Quý không biết chữ. Bây giờ ông già rồi, trí nhớ phàm phu của ông giảm thiểu, vậy mà ông Chúc-Quý lúc gần 70 tuổi, học được chữ Tàu để mỗi đêm đọc tụng Kinh A-Di-Đà và Bát-Nhã Tâm-Kinh. Vậy chẳng phải ông phát Huệ thì là gì? Từ khi ông đi chùa, nói theo cô Diệu-Thể, ông trở thành "Pháp Sư" cây nhà lá vườn của gia đình ông. Ông thường giảng giải lại cho vợ con nghe những gì mà ông đã học được khi nghe Thầy Minh-Chí giảng. Nhờ học tu mà ông đã phát Huệ.
Ông đã có Phước, lại có Huệ và có Tịnh nguyện tức nguyện vọng vãng sanh Tịnh-Độ, nên như Kinh nói: "Tùy theo Tịnh nguyện mà ông được vãng sanh, được thấy chư Phật mười phương".

Bậc Cổ Đức dạy thế nào về các hạnh tu tạo được Phước và Huệ?
Trong "Đường Mây Trong Cõi Mộng", trang 395 - 366, Đại Thiền Sư Hám-Sơn dạy rất rõ-ràng:

"Tu Huệ tức tại Quán Tâm. Tu Phước tức hành nơi Vạn Hạnh. Quán Tâm dùng niệm Phật làm làm phương-pháp tối thắng. Vạn-Hạnh dùng sự cúng dường làm đầu. Hai việc này chính là hạnh tổng trì.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta khởi tâm động niệm, đều là vọng tưởng (tức cội gốc của sanh tử), nên phải chiêu lấy quả khổ. Ngày nay dùng tâm vọng tưởng đó, chuyển làm tâm niệm Phật, tức niệm niệm thành nhân Tịnh-Độ, đó là quả an-lạc. Nếu niệm Phật mà tâm tâm không gián đoạn, thì vọng tưởng sẽ tự tiêu diệt. Ánh sáng của tự tâm phát lộ, và Trí Tuệ hiện tiền, tức trở thành pháp thân Phật".

Như vậy quí vị thấy rõ, ông Chúc-Quý nhờ niệm Phật mà tâm tâm không gián đoạn - như Đại Sư Hám-Sơn nói - ánh sáng tự tâm của ông Chúc-Quý phát lộ, trí tuệ của ông Chúc-Quý hiện tiền, tức thân phàm phu của ông trở thành pháp thân Phật. Do vậy mà ông Chúc-Quý có Xá-Lợi.
Nếu quí vị ráng tập niệm Phật, niệm niệm không gián đoạn, tâm tâm không gián đoạn như Sư Bà Đàm-Lựu, như Thầy Minh-Đạt, như Bà Diệu-Âm, bà Diệu-Hưng, Cụ Bà Quảng-Khánh, và ông Chúc-Quý chúng tôi chắc-chắn quí vị cũng sẽ được những thành quả tốt vậy.
Chúng tôi viết sưu tầm nầy chỉ mong tất cả quí Phật tử đều đạt quả niệm Phật như các Bồ-Tát Đàm-Lựu, Minh-Đạt, Diệu-Âm, Diệu-Hưng, Quảng-Khánh và Chúc-Quý.

*



Nói về lúc lâm chung của ông Chúc-Quý, bà Diệu-Thiện kể: "Sáng hôm đó như thường lệ khi đang đi kinh hành, nhà tôi bỗng dừng chân lại một chậu kiểng, nhà tôi vội nói:
- Bà ơi! uổng quá, mấy cây khổ qua trồng tới bây giờ bỗng chết hết rồi.
Nghe ông nói, tôi định lên tiếng nhắc ông hãy lo niệm Phật. Nhưng tôi chưa nói thì ông đã tiếp tục Kinh hành và niệm Phật, tức ông liền trở lại với chánh niệm.
Một lát sau, nhà tôi kêu lên:

- Bà ơi! Ngộ đau một bên mặt ...

Rồi sau đó lại nói:

- Bây giờ nó đau xuống ngực.

Tôi chạy vô nhà lấy một viên Tylenol và nước đem ra cho ổng uống. Khi tôi đưa thuốc, ổng vẫn niệm Phật. Nhưng khi tôi trở vào trong thì một thoáng sau ổng gục xuống và bình thản ra đi.
Theo bà Diệu-Thiện thì lúc ra đi ông Chúc-Quý vẫn còn giữ chánh niệm, tay vẫn còn cầm xâu chuỗi niệm Phật.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Phẩm Thứ Nhứt, trang 18, Đức Phật nói:

"Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ Đẳng Tam Muội của đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh-Độ Tây Phương. Vĩnh-viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả vị Bất Thối Chuyển. Từ ấy nhẫn về sau vượt qua Thập Địa, chứng Vô-Thượng-Giác".

Theo Phật Học Từ Điển: Bất Thối Chuyển là đối với địa vị Chánh-Giác của Phật Như-Lai càng ngày càng gần.
Thập Địa tức địa vị thứ mười của quả vị Bồ-Tát. Đó là do ông Chúc-Quý biết xưng niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật, lúc lâm chung với mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ-Đẳng Tam-Muội của đức Phật A-Di-Đà.
Chỗ này chúng tôi không có khả năng giảng giải rõ hơn. Chỉ biết rằng danh hiệu A-Di-Đà Phật có công năng hiển thị vô-lượng vô-biên diệu dụng, không thể nghĩ bàn.
Tóm lại, lúc lâm chung ông Chúc-Quý ra đi thật nhanh, thật êm ả, không có điều khiến cho vợ con phải đau khổ bịn rịn.



Điềm lành khi lâm chung



Sau các bài viết về các vị lâm chung lưu lại Xá-Lợi. chúng tôi học được kinh-nghiệm là, hầu hết các vị ấy đều có những "Tường triệu" tức điềm lành. Như bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết có hào quang chiếu sáng, có hương thơm tỏa khắp nhà. Bà Diệu-Hưng và cụ Quảng-Khánh gương mặt già nua bỗng nhiên trẻ lại, v.v...
Nếu ông Chúc-Quý vãng sanh hẳn phải có điềm lành gì, nhưng chúng tôi không nghe thuật lại.
Bây giờ trở lại cuộc tiếp xúc của chúng tôi với ông Minh-Hiền. Nhớ lại lời cháu Huệ-An nói trước khi đưa quan tài ông Chúc-Quý đến lò thiêu, ông Minh-Hiền gọi riêng cháu ra ngoài dặn nhỏ: "Khi thiêu xong hãy lưu ý tìm Xá-Lợi".
Như vậy là ông Minh-Hiền đã nhận thấy được điều gì? Nghe chúng tôi hỏi ông Minh-Hiền nói:
- Một ngày trước khi mất, ông Chúc-Quý ghé chùa thăm tôi. Tôi mới mua ở Việt-Nam về hai xâu chuỗi Kim-Sa làm bằng cát vàng nấu lại. Tôi có hứa sẽ tặng ông một xâu, vì lúc đó tôi không đem theo. Ông Chúc-Quý đòi trả tiền lại, nhưng tôi không nhận. Hôm sau ông mất, tôi liền đem đến nhà quàn trao xâu chuỗi tận tay ông. Lúc tôi cúi xuống, đặt xâu chuỗi vào tay ông, tôi nhìn mặt ông bỗng thấy mặt ông rạng rỡ hơn ngày thường, như trẻ hẳn lại. Do đó, tôi tin rằng ông Chúc-Quý đã được vãng sanh, nên mới gọi riêng cháu Huệ-An để dặn dò như ông đã biết.
Chúng tôi được cung cấp dữ kiện này, liền gọi điện thoại cho gia đình bà Diệu-Thiện. Cháu Thanh-Trí nghe điện thoại, chúng tôi liền báo cho biết về điềm lành vãng sanh của ông Chúc-Quý. Cháu Thanh-Trí kêu lên:
- Đúng rồi bác! Nhiều bà con đến viếng ba cháu đều nói: "Sao trông ông Chúc-Quý mặt mày rạng rỡ quá"! Điều này quan trọng quá, vậy mà cháu quên mất.
Thật ra, nếu ông Chúc-Quý mất đi không để lại Xá-Lợi, mà bỏ sót việc gương mặt ông Chúc-Quý biến đổi trở nên rạng rỡ hơn ngày ông còn sống, thì không ai dám nói là ông đã được vãng sanh Cực-Lạc.
Đây là bài học kinh-nghiệm để tìm hiểu một người lâm chung được vãng sanh hay không.


Giấc mơ thấy Kim Cương



Trong bài viết của cô Diệu-Thể có một đoạn như sau:
"Sau nầy tôi được biết, cô thứ Bảy đã được báo mộng điềm lành. Trước ngày đi hốt cốt, cô nằm mơ thấy gia đình nhặt được nhiều kim cương trong tro cốt của "Papá" cô. Nên cô Huệ An đã khấn nguyện, nếu Papá vãng sanh thì cho con thấy điềm lành như thật để con vững niềm tin.
Cả gia đình ai cũng hy vọng mong đợi sự thật đến. Nên họ yêu cầu nhà hỏa thiêu chờ họ đến hốt cốt. Hồi hộp, nguyện cầu, câu lục tư Di-Đà vẫn không rời nơi môi và tâm họ. Việc đến đã đến. Đúng như sự khấn nguyện của những con tim thành kính, có đức tin chân chính. Lẫn trong tro cốt là vô số viên Xá-Lợi lóng lánh nhiều màu. Họ rúng động, một sự chuyển động toàn diện của tâm thức. Họ reo lên.
"A-Di-Đà Phật! Papá vãng sanh, papá thật sự vãng sanh rồi".
Để khỏi sai lầm, vì bụng tin mà dạ vẫn còn ngờ. Họ phải gọi về chùa Quang-Minh để hỏi Đại-Đức Thích-Minh-Chí, và họ mang tro cốt về chùa. Sau khi quan sát Xá-Lợi, thầy dạy, vâng, bác Chúc-Quý đã vãng sanh.
(Lời người sưu giải: Thật ra nhờ tu hành tinh-tấn, hành trì niệm Phật đúng theo lời Phật dạy mà ông Chúc-Quý khi lâm chung lưu lại Xá-Lợi; chứ không vì lời cầu nguyện mà tìm thấy Xá-Lợi).
Bác Chúc-Quý vãng sanh thật rồi. "Một trăm lần nghe không bằng một lần thấy". Gia đình bác Chúc-Quý đã thấy. Thầy Minh-Chí không những thấy, mà Thầy còn tận tay cầm những viên Xá-Lợi ấy và cố gắng bóp mạnh để thử xem, mà không bể. Thầy xác quyết một lần nữa.

- "Đây là Xá-Lợi, Phật tử Chúc-Quý đã vãng sanh"!

Gia đình bác đã chụp hết thảy mười một cuốn phim trong khi Thầy ngồi đếm và phân loại. Các viên Xá-Lợi ra làm bốn hạng:
1. Có 20 viên Xá-Lợi tròn vo, to bàng đầu đũa ăn cơm, màu xanh đậm.
2. Khoảng 50 viên Xá-Lợi nhỏ bằng đầu ngòi viết Bic, có viên màu xanh đậm, có viên màu hồng sáng lóng lánh.
3. Hơn 300 mảnh xương nhỏ và dẹp có màu xanh nhạt pha trộn vân sáng trắng và một mảnh xương có ba bốn màu sáng lấp lánh như xa cừ, đó là Xá-Lợi có từ xương.
4. 60 hoa Xá-Lợi có vòng tròn, giữa có nhiều lỗ nhỏ, đủ màu trông rất đẹp.
Đặc biệt có một viên Xá-Lợi to bằng giọt nước và hình dạng giống như giọt nước, màu trắng tinh tuyệt đẹp.
Tất cả hơn 400 viên Xá-Lợi hiện đang được tôn trí tại gia đường phụng Phật và một ít được gia đình cúng dường chùa Quang-Minh và Phật-Bảo cùng với vài ngôi chùa ở Việt-Nam để đồng bào Phật tử có dịp chiêm ngưỡng mà phát tín tâm, tăng phước duyên cho bác để trang nghiêm Tịnh-Độ.
Dịp này, gia đình có hỏi Thầy Minh-Chí làm thế nào để báo hiếu cho cha? Thầy dạy rằng:
- Quí vị nên làm việc phước thiện, lợi mình, lợi người như: cúng dường Tam-Bảo, bố thí, phóng sanh, in Kinh ấn tống, ăn chay, niệm Phật, tụng Kinh bái sám, v.v... nguyện đem công đức đó, hồi hướng cầu cho hương linh vãng sanh, được siêu phàm nhập thánh.
Các con ông Chúc-Quý đã gởi tiền về cho người chị cả, hiện còn ở Việt-Nam để làm lễ Trai Tăng, cúng dường cho khoảng 50 Tăng Ni và khoản đãi một ngàn Phật tử thọ Bát Quan Trai.

*

Về Xá-Lợi, cô Diệu-Thể có kể ra các tên Xá-Lợi như Bích Xá-Lợi là 20 viên Xá-Lợi tròn vo kết tinh từ tóc. Xích Xá-Lợi là 50 viên Xá-Lợi nhỏ có từ thịt. Cô Diệu-Thể là đệ tử của Hòa-Thượng Chánh-Lạc, có lẽ cô đã hỏi qua Hòa-Thượng. Riêng chúng tôi chưa từng nghiên cứu về Xá-Lợi, nên dè-dặt không dám nói đích xác.
Cũng cần nói thêm, trước ngày ông Chúc-Quý mất, gia đình ông và gia đình Diệu-Nguyên (là bạn của bà Diệu-Thiện) hùn tiền gởi về Cao Lãnh để bố thí suốt ngày cho gia đình nghèo trong vùng, nhằm ngày Phật Đản. Mỗi gia đình được 10 kí gạo, 10 gói mì gói, bột ngọt và đường.
Của tuy không bao nhiêu, nhưng từ tâm đã đem lại phước báu cho gia đình bố thí rất nhiều.
Như chúng tôi biết, ở California có một góa phụ, theo lời đề nghị của người con, bà định đem mấy ngàn đô la về Việt-Nam, mướn người niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, rồi hồi hướng công đức niệm Phật ấy cho chồng. Thực hiện điều này có mấy điều lợi ích cho cả ba phía, tức lợi người lợi mình:
1. Người niệm Phật, dù được người ta mướn, sẽ được 7 phần công đức và đương nhiên sau này sẽ được vãng sanh.
2. Người bỏ tiền mướn người niệm Phật, tưởng đâu không công đức, mà lại được vô lượng công đức. Vì Kinh nói giúp người được vãng sanh được vô-lượng công đức.
3. Người được hồi hướng công đức chỉ được 3 phần. Nhưng nhờ có nhiều người niệm Phật hồi hướng cho mình, nên công đức tuy ít, nhưng nhờ có nhiều người hồi hướng mà thành ra nhiều.


Đừng hiểu lầm về vãng sanh. 

Nhơn đây chúng tôi xin nói rõ một lần nữa, để trong đời sau nhiều người khỏi lầm lẫn mà gây tai hại cho thân nhơn:
- Vãng sanh và có Xá-Lợi tuy là một, nhưng có chỗ khác nhau. Người vãng sanh mà có Xá-Lợi là người đã tu đắc được các quả Bồ-Tát, nhờ niệm Phật chí thành và nhứt tâm nên Tâm thể được thanh tịnh, đạt được định, thân tâm kết thành những khối lưu ly sáng rực. Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Phẩm Thứ Tư, trang 66 và 67, Phổ-Hiền Bồ-Tát nói: "... Nếu chúng sanh nào nhất tâm xưng niệm danh hiệu Nam- Mô A-Di-Đà Phật, tức xuất sanh vô-biên công-đức Bất-Khả Tư-Nghị, đủ năng lực viên mãn Bồ-Tát-Đạo, phát huy diệu dụng của tam thân, tứ trí, thập lực, tứ vô úy, tứ vô-lượng-tâm, lục Ba-La-Mật, thập bát bất-cộng, v.v ..."
Cũng Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, nơi Phẩm Thứ Năm tức phẩm Niệm Phật Viên-Thông, trang 80, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói: "Khi xưng niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh định Như-Lai, tự nhiên phát sanh tuệ-giác Không-Tánh ..." Và trang 81, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói: "Tiếp tục xưng niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết vào Viên-Giác-Tánh. Đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực vằng vặc".

Đây là nói đến những vị tu đắc quả Bồ-Tát đạt được "Niệm Phật Viên Thông" hay "Niệm Phật Tam-Muội" khi lâm chung được vãng sanh vào phẩm vị Trung-Sanh hay Thượng-Sanh.
Nhưng vẫn có những chúng sanh cũng niệm Phật nhưng không được nhứt tâm hoặc những chúng sanh tuy trong đời thường làm điều ác, song khi lâm chung có thiện duyên được Thiện-Tri-Thức giảng pháp, dạy cho niệm Phật mười niệm nối liền nhau, liền đó được vãng sanh. Những trường hợp nầy, người ta rờ trán thấy hơi nóng còn ở nơi đấy, thì biết là vãng sanh. Dĩ nhiên là vãng sanh bực thấp như Hạ phẩm hạ sanh hay vãng sanh biên địa, tức là vào thai sanh như chúng tôi đã giảng trong sách Sưu-Giải Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật.


Những kinh nghiệm cần nói.

Sau những bài sưu tầm tài liệu viết về những vị vãng sanh lưu Xá-Lợi, chúng tôi tự học được một số kinh nghiệm. Thiết tưởng cũng nên nói ra đây với lòng mong muốn giúp cho mọi người được lợi lạc.
Theo chúng tôi, bất cứ ai vãng sanh được Phật A-Di-Đà và Thánh Chúng đón rước, thì lập tức đi thẳng ngay về cõi Cực-Lạc. Có nghĩa là Thần Thức của người quá cố không còn lẩn quẩn quanh nhục thân nữa. (Điều này đã nói trong bài cụ bà Quảng-Khánh)
Trong các sách nói về Tử Thư hay sách Liễu Sanh Thoát Tử dạy khi lâm chung trong vòng tám tiếng đồng hồ đều không được di chuyển nhục thân, gia đình phải liên tiếp niệm Phật trong nhiều ngày và cần phải cầu siêu cúng kiếng mỗi tuần 1 lần, trong suốt 7 tuần nhựt. Thật sự lời dạy nhắm chung về những người được nghi ngờ chưa vãng sanh. Trong những giờ ngày đó, Thần Thức của người quá cố, nếu chưa được vãng sanh, đang hoang mang không biết đi về đâu, còn đang luyến tiếc nhục thân. Vì vậy mà cần phải niệm Phật tức trợ niệm để Thần Thức nghe tiếng niệm Phật mà ổn định tinh thần, rồi nương theo tiếng niệm Phật mà đi về hướng có ánh sáng của Phật, để được tiếp dẫn.
Còn người biết pháp môn xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, như Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nói, khi lâm chung cố giữ sao được 10 niệm nối tiếp nhau chắc được vãng sanh, đi thẳng tắt về cõi Cực-Lạc.
Còn như, lúc ông Chúc-Quý niệm Phật, bỗng ông ngưng lại xem cây khổ qua đã héo chết, rồi kêu vợ, nói cho hay; nếu liền đó ông ra đi ... tức là ông không giữ được 10 niệm nối tiếp nhau.
Bà Diệu-Thiện, vợ ông là người nhiều tín tâm và hiểu đạo, thấy ông ngưng niệm Phật, muốn lên tiếng, bảo ông hãy lo niệm Phật. Nhưng sau đó thấy ông trở lại chánh niệm, bà nín lặng luôn.
Nhờ ông trở lại chánh niệm, dù bịnh biến óc não xảy ra, ông vẫn giữ được 10 niệm khi ra đi mà trên môi, trong tâm ông vẫn còn câu Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Điều nầy cũng phải nói, nhờ ông Chúc-Quý đã tập, quen niệm Phật từ nhiều năm tháng. Sự tập luyện cho thành thói quen rất hữu ích cho Người-Tu-Niệm-Phật.
Đó là kinh-nghiệm thứ nhứt. Kinh-nghiệm thứ nhì cũng rất quan trọng, xin quí vị lưu tâm ghi nhớ:

"Khi thấy ông Chúc-Quý bị ngất, bà Diệu-Thiện liền gọi người nhà và xe cấp cứu đến".

Chúng tôi tế-nhị khi nói chuyện với bà Diệu-Thiện, đã giải-thích cho bà biết rằng: "Khi ông Chúc-Quý tắt thở, ông đã vãng sanh ngay". Chúng tôi đem lời kinh đọc cho bà nghe.
Kế tiếp, chúng tôi mới hỏi bà, khi xe cấp cứu đến nhân viên y tế làm điều gì? Bà nói họ làm hô hấp, rồi sau đó dùng máy có điện giựt. Đó là phương thức cấp cứu thường lệ.
Những điều sau đây, chúng tôi đã trình bày cho bà Diệu-Thiện nghe, bây giờ ghi ra để quí vị ghi nhớ hầu tránh điều đáng tiếc sau nầy.
Trong nhà Phật, điều quan trọng nhứt là lúc lâm chung, nếu khi ấy trong tâm người quá cố nổi lên một niệm sân giận: đó là cái nhân sẽ đưa thần thức người ấy đọa vào đường dữ. Phật đã dạy điều này rất rõ trong các Kinh. Tất cả đều do cái niệm cuối cùng. Ngài Tu-Bồ-Đề, đệ tử lớn của Phật, là một bực A-La-Hán, vậy mà trước khi đi khất thực, Ngài đoán trước nếu hôm đó Ngài sẽ gặp một người, mà người đó khi gặp Ngài sẽ nổi lên một niệm sân, thì Ngài chính là cái nhân đọa địa ngục cho người đó. Ngài thà nhịn đói ở lại nhà chớ không đi khất thực ngày đó.
Tại sao phải quan trọng hóa vấn đề nầy như vậy?
Chúng tôi thường căn dặn người nhà, bất cứ khi nào tôi bịnh, yếu phải ngất xỉu, cứ để tôi nằm yên niệm Phật mà chết, chứ đừng kêu xe cấp cứu hay chở vào nhà thương để được cấp cứu. Phương pháp cấp cứu bây giờ thường dùng máy cho điện giựt tim. Gặp trường hợp không cứu được, người bịnh chết ngay, thần thức của người bịnh cảm thấy đau đớn, liền nổi sân giận. Sân giận là cái nhân đọa địa ngục.
Thường tình chúng sanh quan niệm sai lầm, chỉ nghĩ cần cứu sống người thân bằng mọi giá, mà không hiểu rằng một người vì sân giận mà chết đi, thần thức người ấy đọa vào địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh vô số kiếp, tức hàng triệu hàng tỷ năm mới có cơ hội trở lại làm người. Nếu người bịnh biết tu hành hãy khuyên họ giữ chánh niệm tức niệm Phật, niệm niệm nối nhau không gián đoạn mà không cần gọi xe cấp cứu và người nhà cùng bạn bè đồng trợ niệm thì người ấy sẽ được vãng sanh dù là hạ phẩm hay nơi biên địa của cảnh Cực-Lạc, vẫn còn hơn là vì bị đau đớn mà sanh sân giận, rồi đọa vào đường dữ.
Lạt Ma tái sanh Sogyal Rinpoche viết trong cuốn Tạng Thư Sống Chết do Ni Sư Tứ-Hải dịch, nói rõ nơi trang 499 như sau:

"... Phương pháp phục hồi sự sống có thể gây bực bội phiền nhiễu và tán loạn vào giờ phút cao điểm của cái chết. Giáo lý Phật cũng như Kinh-nghiệm cận tử nghiệp đều cho thấy ngay cả những người hôn mê cũng vẫn hoàn toàn biết mọi sự xảy ra xung quanh họ. Những gì xảy ra trước khi chết, vào lúc chết, và cho đến cái lúc thần thức rời khỏi xác là những giây phút hết sức quan trọng đối với bất cứ người nào, mà nhứt là đối với một hành giả tâm linh đang cố tu tập an trú trong tự tánh tâm.

Nói chung, cách cứu chữa chỉ để mà kéo dài tiến trình chết có nguy cơ là nó chỉ nhen-nhúm thêm sự bám víu không cần thiết, giận dữ và bất mãn nơi người hấp hối, nhứt là khi ấy không phải là ý muốn của họ. Những thân quyến gặp phải khó khăn trong lúc quyết định, và cảm thấy tràn ngập trách nhiệm về cái chết của người thân, cần nên nhớ rằng nếu không có hy vọng gì qua khỏi, thì phẩm chất những giờ phút cuối cùng của người thân họ còn quan trọng hơn là chỉ giữ cho họ sống. Ngoài ra, vì ta không bao giờ biết được, thần thức còn ở trong thân xác hay không, làm như vậy ta chỉ bắt buộc thần thức họ bị giam trong một thể xác vô dụng.

Đây chỉ là một đoạn ngắn trong sách Tạng Thư Sống Chết.
Thật ra ít có người can đảm làm việc này, vì họ cho là tàn nhẫn. Nhưng nếu là người biết tu, thì biết đó là một quyết định sáng suốt, giúp cho thân nhơn thoát khỏi luân hồi khổ não trong vô số lượng kiếp.


Ông Chúc-Quý độ nhiều người

Trong bức thư viết cho chúng tôi, Đại Đức Minh-Chí viết:

"Phật tử Chúc-Quý khi sống không độ được ai mà khi chết lại độ được nhiều người".

Quả thật vậy, khi ông còn sống, người con trai lớn của ông không tin vào đạo Phật, nay thì anh này mỗi ngày đều qua nhà ông tụng kinh với gia đình.
Còn người con trai thứ hai nằm mơ thấy ông kêu đi tụng Kinh nên càng tin hơn - Điều đáng tin nhứt, trước kia bình bông cúng Phật chỉ để 2 tuần là héo. Vậy mà từ ngày ông Chúc-Quý mất, bình bông cúng Phật ở nhà ông 6 tuần chưa héo.
Theo Sư cô Như-Lan từ chùa Hưng-Thiền, Cao Lãnh cho biết, được tin ông Chúc-Quý vãng sanh lưu lại Xá-Lợi, Phật tử Cao Lãnh phát tâm tu niệm Phật đông đảo. Bây giờ những ngày thọ Bát Quan Trai, Phật tử về chùa đông không còn chỗ ngồi - Chùa Hưng-Thiền do T.T. Thích-Phước-Đức trụ trì.
*
Trước khi dứt bài này, chúng tôi xin mượn bài của cô Diệu-Thể kể một vài chuyện vui liên hệ đến tánh tình mộc mạc, chân thật của ông Chúc-Quý và khi tu ông không câu nệ một điều gì, chấp nhận hỏi để tu học. Cô Diệu-Thể viết:
Các lần bác đã hỏi Đại Đức Thích-Minh-Chí, trụ trì chùa Quang-Minh:
- Kính bạch Thầy, đang ngồi tụng kinh hoặc nghe pháp mà lỡ bị đau bụng thình lình phải "đánh rấm", như thế có tội không?
Cả đại chúng ai cũng ôm bụng cười, Thầy cũng cười trả lời:
- Trường hợp bất khả kháng thì Phật tha, nhưng mà ráng tránh thì tốt hơn.
Bác lại hỏi tiếp:
- Lỡ tránh không nỗi thì sao Thầy?
-!
Kết quả như thế nào chắc quý vị cũng biết ...
Lần khác cũng tại chùa Quang-Minh, Bác đã hỏi Thầy:
- Kính bạch Thầy, chân con đau không ngồi kiết già và bán già được. Xin Thầy chỉ cho con cách ngồi niệm Phật cho thoải mái.
Thầy Minh-Chí đã trả lời ba cách ngồi niệm Phật theo sự chỉ dẫn của Hòa-Thượng Thích-Đức-Niệm:
- Bác đau chân không có ngồi kiết già và bán già thì bác cứ việc ngồi duỗi chân ra cho thoải mái để niệm Phật, đó gọi là "tự do già".
Ai cũng cười "cái già tự do" của Thầy.
Từ sự rụt rè, lẻ loi của buổi ban đầu mới đến chùa, bác Chúc-Quý bây giờ trở thành một "học viên xuất sắc". Trong các khóa học và các buổi sinh hoạt Phật sự ở các chùa. Bác thường tiên phong các công tác lạc quyên, đóng tiền cúng dường Tam-Bảo, in kinh ấn tống, bố thí, phóng sanh, v.v...
Bằng tiếng Việt lơ lớ của người Hoa, bác phát pháo:
- Để tui mở hàng, đắc lắm.
Thế là bác đã gây hào hứng cho đại chúng, ai cũng nương phước đức của bác mà hoan-hỷ "hùn vốn"
Và sau cùng là bức thư của Đại Đức Thích-Minh-Chí viết cho chúng tôi nói rõ, sau ngày ông Chúc-Quý vãng sanh lưu lại Xá-Lợi, Phật tử chùa Quang-Minh đã phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh vô cùng mãnh liệt. Đại-Đức thích-Minh-Chí cho rằng: "Người đời trong thời mạt pháp này sẽ không còn nghĩ rằng chuyện vãng sanh là chuyện mơ hồ, chuyện của ngày xưa nữa."
Sau đây là nguyên văn bức thư của Đại-Đức Thích-Minh-Chí, trụ-trì chùa Quang-Minh tại Chicago:



Chicago, ngày 12 tháng 6 năm 2000
Nam-Mô A-Di-Đà Phật.
Kính gửi Phật tử Tịnh Hải,
Thưa Bác, kèm với thư này là bài viết của một Phật tử ở Chicago.
Tôi xin gởi Bác ba tấm hình, đây chỉ là 2 phần 3 số Xá-Lợi thôi; sau đó tôi lại đem tro cốt đang thờ ở chùa cùng với vợ và con của bác ấy tìm được một trăm mấy chục viên nữa. Chỉ tiếc là máy chụp hình không được tốt nên không thể rọi cho to nên không thấy được rõ ràng, tuy nhiên về màu sắc thì bài viết này tả tương đối chính xác lắm.
Phật tử Diệu-Thiện, hiền thê của Phật tử Chúc-Quý, đã tặng cho chùa Quang-Minh vài viên Xá-Lợi và để cho tôi tự ý chọn lựa. Hiện nay chùa Quang-Minh có 3 viên Xá-Lợi tròn màu xanh nước biển, vài miếng Xá-Lợi xương màu xanh như cẩm thạch, 2 miếng Xá-Lợi giống như xa cừ, một miếng màu ngói và 2 miếng màu vừa đen vừa xanh pha trộn với nhau giống như gạch marble.
Bài viết của Bác rất dễ khiến cho người phát tín tâm nhờ vào phần phụ lục đầy những hình ảnh và chuyện vãng sanh vô cùng mới mẻ; người đời trong thời mạt pháp này sẽ không còn nghĩ rằng chuyện vãng sanh là chuyện mơ hồ, chuyện của ngày xưa nữa. Công đức của Bác thật vô lượng vô biên, nguyện cầu cho quyển sách ấy sớm được hoàn thành.
Hiện nay, nhiều Phật tử ở chùa Quang-Minh đã phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh vô cùng mãnh liệt. Quả thật Phật tử Chúc-Quý khi sống không độ được ai mà khi tử lại độ được nhiều người.
Chúc Bác sớm viên mãn công việc phụ giúp chư tăng hoằng truyền PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ thù thắng.
Nam-Mô A-Di-Đà Phật
Kính thu
Tỳ kheo Thích Minh Chí
TB : Thư này tôi cứ theo dòng tư tưởng tuôn đến đâu thì viết đến đấy nên không có thứ tự mạch lạc cho lắm, Bác hoan-hỷ thông cảm.


Cá nhân chúng tôi từ lâu quan-niệm rằng: nghiệp quá khứ rất ảnh hưởng đến hiện tại và người tu hành mà nhiều nghiệp thì không thể đắc quả. Nhưng sự thật không phải như vậy và đây cũng là điều chúng tôi muốn chia xẻ với quí vị như đã hứa.
Một người khi chết, nếu không vãng sanh Tịnh-Độ, phải thọ thân đời sau thì khi nhập thai chỉ mang theo ác nghiệp và thiện nghiệp. Và tùy theo nghiệp mà có đời sống quyền quí, giàu sang hay bần cùng.

Trong Kinh Đại-Bát Niết-Bàn, (tập 3 trang 759), Đức Phật nói với những người Bà-La-Môn rằng: "Các Ngài nên biết rằng quyết định có nghiệp quá khứ và nhân duyên hiện tại. Do đây nên tôi nói, nhân nơi phiền não mà sanh ra nghiệp, nhân nơi nghiệp mà thọ quả báo.

Các Ngài nên biết rằng tất cả chúng sanh có nghiệp quá khứ và có nhân hiện tại. Dầu chúng sanh có nghiệp sống lâu quá khứ, nhưng phải nhờ duyên ăn uống hiện tại. Nếu nói chúng sanh thọ khổ, thọ vui quyết định chỉ do nơi nghiệp quá khứ thì không phải ...

Lời Phật được giải thích: "Dầu chúng sanh có nghiệp quá khứ sống lâu trăm tuổi; nhưng nếu không nhờ duyên ăn uống tẩm bổ đầy đủ, làm thế nào sống lâu trăm tuổi được? Nghiệp quá khứ đâu giúp cho sống lâu được.
Đức Phật nói rõ thêm:

Nầy các Ngài! Tất cả chúng sanh hiện tại nhân nơi tứ đại (tức là thân năm uẩn của tất cả chúng sanh. Lời sưu giải) thời tiết, đất đai, nhân dân mà thọ khổ thọ vui. Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bất tất đều nhân nơi nghiệp đời trước mà thọ khổ thọ vui. (Nếu người biết tu thì nghiệp quá khứ tự dứt. Lời sưu giải).

Nầy các Ngài! Nếu do nhân duyên dứt nghiệp mà được giải-thoát, thì tất cả Thánh nhơn chẳng được giải-thoát. Vì bổn nghiệp của tất cả chúng sanh đều vô thỉ vô chung. Do đây nên ta nói lúc tu Thánh đạo, Thánh đạo nầy có thể ngăn nghiệp vô thỉ vô chung.

Đức Phật dạy rất rõ: Tất cả chúng sanh do có thân tứ đại, lại thêm thời tiết, đất đai và hoàn cảnh nhơn dân mà thọ khổ thọ vui, chứ hoàn toàn không do nghiệp quá khứ của đời trước mà thọ khổ thọ vui.
Và Đức Phật nói thêm: "Nếu do nhân duyên dứt nghiệp mà được giải-thoát, thì tất cả Thánh nhơn chẳng được giải-thoát".

Tại sao?
Vì tất cả Thánh nhơn tu, chánh yếu là diệt trừ phiền não. Vì, đoạn trước Đức Phật đã nói: "Do nơi phiền não mà sanh nghiệp (hiện đời) nhân nơi nghiệp mà thọ quả báo".

Và Đức Phật mới nói thêm: "Do đây nên ta nói lúc tu Thánh đạo, Thánh đạo nầy có thể ngăn nghiệp vô thỉ vô chung".

Người tu Niệm Phật cũng là tu Thánh Đạo, nếu hằng ngày "nhứt tâm niệm Phật", niệm niệm nối nhau không gián đoạn, khi lâm chung được vãng-sanh về cõi Cực-Lạc, không còn thọ thân đời sau là dứt tất cả nghiệp từ vô thỉ và không còn nghiệp đời sau gọi là vô chung. Cho nên Đức Phật nói: Thánh Đạo nầy có thể ngăn nghiệp vô thỉ vô chung.

Trong Kinh Đại Bát Niết-Bàn, (tập 3 trang 756), Đức Phật nói với Tu-Bạt Đà-La rằng: "Phật-Pháp của ta thì phiền não đã hết, nghiệp và khổ cũng hết". Cho nên tu Phật, trước tiên phải tu dứt phiền não.
Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ngài Quán-Thế-Âm nói: Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí-Giải Siêu-Việt của danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Thật vậy, nhờ cần mẫn xưng niệm danh-hiệu Phật mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang-Minh Hiện-Lượng, chuyển phiền não dữ dội thành Bồ-Đề Thật Tướng, đưa hành giả vào Thánh Trí Tự Chứng.

Danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật có năng lực "giải-thoát siêu việt". Đức Quán-Thế-Âm dạy: "Hành giả tu niệm Phật muốn diệt trừ phiền não, phải phát huy năng lực "giải thoát siêu-việt" của danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật". Muốn được vậy phải cần mẫn xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Nhờ vậy mà Người-Niệm-Phật tự có quang minh, tức Tự Tâm Quang-Minh Hiện-Lượng và chuyển phiền não dữ đội thành Pháp Thân viên mãn.
Trong lời tựa của sách sưu giải Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nầy, chúng tôi có kể chuyện Hòa-Thượng Ajo, Ngài đã niệm Phật đến cảnh giới, mỗi lần Ngài quỳ lạy Phật thì hào quang sáng chói chung quanh. Đó cũng là Tự Tâm Quang-Minh Hiện-Lượng.
Trong phụ lục nầy có Đại sư Tuyên-Hóa, Sư Bà Đàm-Lựu, Sa-Di Thích-Minh-Đạt, Cư sĩ Diệu-Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết, Diệu-Hưng Nguyễn-Thị-Tân, Cư-sĩ Quảng-Khánh Huỳnh-Thị-Dền, và Cư-sĩ Chúc-Quý Lư-Nhiên-Phú là những hành giả đã nhứt tâm và cần mẫn xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, đã dứt sạch phiền não hết nghiệp hết khổ, được thân Kim-cương bất-hoại nên đã lưu lại Xá-Lợi.
Để chấm dứt chúng tôi muốn chia xẻ sau cùng điều chúng tôi học hỏi được nơi Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật cùng quí vị: Nếu bất cứ ai nhứt tâm, chí thành và cần mẫn xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật nên nghĩ, tưởng: Pháp Thân, Hóa Thân và Báo Thân của Đức Phật A-Di-Đà đang hiện trong thân và tâm của mình, và danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật đang tuôn chảy thành một dòng tâm, lâu ngày sẽ thành một khối lưu ly sáng rực ... Danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật sẽ lọc sạch phiền não trong thân tâm Người-Niệm-Phật. Hành giả sẽ dứt hết nghiệp quá khứ, thân tâm trở nên thanh tịnh.

Đồng thời khi niệm Phật, hãy biết rằng Đức Phật A-Di-Đà đang ngự trên đỉnh đầu hành giả. Hãy biết rõ như vậy và luôn luôn quán chiếu như vậy. Rồi tự nghĩ rằng Đức Phật A-Di-Đà đang hiện diện, ta không nên nghĩ điều ác và không nên nói điều ác, thì khẩu và ý chắc-chắn thanh tịnh. Khi ấy Người-Niệm-Phật tự cảm thấy như mình đang đội dĩa dầu đầy trên đầu, lúc nào cũng phải cẩn thận không dám ngửa nghiêng không dám nghĩ ngợi vì sợ phân tâm dầu trên đầu sẽ đổ. Do đó, thân-khẩu-ý sẽ được thanh-tịnh.

Xin quý vị ráng nhớ điều nầy nữa, Ngài Hám-Sơn, Thiền Tịnh Song Tu, là một Đại Thiền-Sư lúc sắp viên-tịch lời cuối cùng của Ngài dặn đệ tử như sau: "Sau khi ta ra đi, các con hãy làm đúng theo truyền thống Phật Giáo: Không để tang, không khóc lóc, chỉ luôn nhất tâm Niệm Phật". 

"Chỉ luôn nhất tâm niệm Phật"

Đây cũng là 6 chữ sau cùng của Đại Thiền-Sư Hám-Sơn nhắc nhở chúng ta.
Mong mỏi và xin chúc tất cả quý vị đã đọc sách Sưu giải nầy sẽ được thành quả lớn.



Tịnh Hải

Mùa Vu-Lan 2000

Nguyện đem công đức này
Hồi hướng khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh

Đều cực-lạc thành Phật đạo



Kính thưa quý vị,
Trong sách " Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu XáLợi, với những vị đã liệt kê, sẽ có thêm 2 vị Cao Tăng: đó là Hòa Thượng Thích Giác Lập và Hòa Thượng Thích Thiền Định.
Vừa qua, Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Pháp chủ Tăng-già Khất sĩ Thế-giới đã báo tin cho chúng tôi biết về tin viên tịch của HT Giác Lập thuộc hàng Trưởng Lão của Tăng-già Khất sĩ VN. Chúng tôi đã điện về Tổ đình Tịnh Xá Minh Đăng Quang tại Gia-Định, nói chuyện với Thượng Tọa Thích Giác Toàn, và được cho biết: Xá-Lợi của cố HT Giác Lập có trên 8,000 viên và sẽ gởi gấp tài liệu hình ảnh qua đây cho chúng tôi.
Mặt khác, nữ cư sĩ Diệu Chơn (ở chùa Phổ Hiền , Monterey Park, Calif.) cũng thông báo cho chúng tôi biết: HT Thích Thiền Định (ở Pháp) viên tịch để lại nhiều Xá-Lợi. Chúng tôi đã liên lạc được với TT Thích Minh Đức (đệ tử của HT Thiền Định) từ bên Pháp qua Mỹ, TT Minh Đức sẽ về Pháp trong vài ngày nữa và sẽ cung cấp cho chúng tôi hình ảnh và tài liệu, Xá-Lợi của HT Thiền Định nhiều tới 2 hủ.Ngoài ra, Sư Cô Gíac Từ (đệ tử của HT Thiền Định) trụ trì chùa Pháp Hoa tại Marseille cho biết: "lúc HT sắp viên tịch, nhân viên bịnh viện Pháp rất đỗi kinh ngạc trước tình-trạng bện h lý của HT, mà y-học không giải thích được"
Kính thưa quý vị,
Khi khởi đầu viết sách này, dựa vào tin loan truyền, chúng tôi đã cố công sưu tầm tài liệu từng chút một. Nay, 2 cố HT đều là bậc cao tăng, tài liệu đã có người hứa cung cấp, chúng tôi nghĩ rằng chậm lại một đôi tuần là điều nên làm, và chắc quý vị cũng sẽ khuyên chúng tôi như vậy. Vậy xin quý vị ráng chờ đôi tuần.
Ngoài ra, chúng tôi xin báo tin mừng: tổng số sách sẽ ấn hành đã tăng lên con số 15,000 cuốn, dày 200 trang ruột, thêm 16 trang hình màu. Mặt khác, Lotus Productions đã thâu âm xong 4 băng cassette (5 CD)" Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi. Vì lý do kỹ thuật, băng này chỉ tóm tắt về phần Xá-Lợi của 2 cố HT Thích Giác Lập và Thích Thiền Định.
Thân kính, Ngày 6/10/2000
Tịnh Hải
Xin thành khẩn cầu nguyện lực của Đức Từ-phụ ADiĐà gia-hộ cho tất cả thân nhân từ kiếp quá-khứ cho đến kiếp này của quý vị ấn-tống sách đều được vãng-sanh Cực-Lạc, thành Phật Đạo

---o0o---

Tập sách này đã được đọc vào 6 băng cassette và phát hành
 tại Trung Tâm  đọc Kinh Truyện Phật giáo Sen Thanh ( http://lotustamtu.hello.to)
1405 S. Mohawk Dr. Santa Ana, CA 92704. USA. Tel: 714. 957 5786

---o0o---

Chân thành cảm ơn Đạo Hữu Tâm Diệu (gởi bài) và
Đạo Hữu Tâm Từ (gởi hình) đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này
( Thích Nguyên Tạng, 01-01-2001)



---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 09/2007
Nguồn:http://www.tuvienquangduc.com.au/tinhdo/100vangsanhluuxaloi.html



















THÍCH NHẤT HẠNH – TÊN VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐỘI LỐT PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG VỆT MÁU TỘI ÁC CỦA „GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT“ – KHỐI ẤN QUANG (monks)

http://vn-buddhist.blogspot.com.au/2012/11/thich-nhat-hanh-ten-viet-gian-cong-san_4.html

Sonntag, 4. November 2012

HAY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG KHIỂN DỤNG VỎ BỌC PHẬT GIÁO LÀM PHƯƠNG TIỆN BÔI XÓA TỘI ÁC, CỦNG CỐ QUYỀN LỰC NHƯ THẾ NÀO.
(Phần 1.)
NhatHanh6.JPG
Seattle, August. 2012
Thái A
Anh Đào tựa dịch từ nguyên bản tiếng Đức
Original Text: Deutsch
Và bản dịch TIẾNG ANH – ENGLISH
với sự đồng ý của nguyên tác giả Thái A.
Theo nguồn: nhabaovietthuong.com,
Trân trọng
Vietnam – Buddhist
DẪN NHẬP ĐỀ:
1. Theo Hiệp định Genève về việc tạm thời chia cắt lãnh thổ Việt Nam vào ngày 20.07.1954 thì trong một thời gian ngắn, dân chúng hai miền Nam Bắc được tự do quyết định di cư đến hai miền Nam Bắc của đất nước. Ranh giới tạm thời chia cắt đất nước là vĩ tuyến 17, biên giới thiên nhiên là sông Bến Hải.
Nguyên do của hiệp định này, một bên là âm mưu chiến lược thâm độc của Hồ Chí Minh tự nguyện làm khuyển mã theo chỉ thị của quốc tế cộng sản, được giật dây trực tiếp bởi Moskau và Bắc Kinh, và một bên là nước Pháp, sau khi thất thế tại chiến trường Điện Biên Phủ đang cố gắng để đạt được hiệp định này để rút lui khỏi Việt Nam trong một tư thế khả thi nhất. Các đảng phái quốc gia khác tại Việt Nam đương thời đều phản đối sự chia cắt đất nước một cách ngang trái này.
Vào thời điểm đó dòng người dân miền Bắc tìm mọi cách chạy trốn chế độ „cộng sản“ của Hồ để di tản về phương Nam đã đột ngột dâng lên một cách chưa từng có. Trong một thời gian ngắn, với sự cố gắng nỗ lực cao cả và sự giúp đỡ của Mỹ, Pháp cùng các tổ chức từ thiện quốc tế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã tổ chức di cư thành công cho hơn một triệu đồng bào miền Bắc vào miền Nam, và ổn định cuộc sống cho đồng bào những năm sau đó. Mặc cho sự tuyên truyền một chiều, tìm cách ngăn cản và xuyên tạc tẩy não của Hồ và cái gọi là „đảng cộng sản“ của hắn lúc đó đang còn tìm cách che giấu dã tâm khát máu, đại đa số đồng bào miền Bắc đã quyết tâm từ bỏ chế độ cộng sản tại miền Bắc.
Trong dòng sử Việt, đây là cuộc di cư lịch sử lớn nhất vào thời điểm đó. Nếu không bị những thủ đoạn gian manh tàn ác của Hồ để hòng ngăn cản đồng bào di cư, qua mặt các tổ chức giám sát quốc tế thì dòng người di cư đã vượt xa nhiều lần con số 1 triệu nói trên. Đại đa số đồng bào Việt Nam đã tỏ rõ thái độ phản kháng chế độ cộng sản tại miền Bắc.
1.png
2. Cái gọi là „chính phủ“ của Hồ được giàn dựng bởi đảng cộng sản, trá hình Việt Minh, thành hình bởi lừa đảo, cướp, gìết, khủng bố và mọi thủ đoạn khuynh đảo tiến đến cướp trọn chính quyền của Chính Phủ Liên Hiệp năm 1946 đã không được nhân dân miền Bắc chấp nhận. Hồ và đảng CS đã thi thố mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc và bạo lực nhằm ngăn cản dòng người đang phải dứt lòng bỏ lại xóm làng thân thương, quyết tâm vượt thoát chế độ cộng sản tìm đến bến bờ tự do nơi đất trời phương Nam.
Cũng theo hiệp định Genève thì sau 2 năm, tức năm 1956 sẽ có một cuộc tổng bầu cử toàn dân để dân chúng hai miền được tự do quyết định bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử dân chủ hợp hiến với mục đích là tái thống nhất đất nước. Cuộc bầu cử sẽ được sự kiểm tra và giám sát của Liên hiệp quốc. Nhưng cả sau khi thời hạn di cư, được gia hạn thêm một thời gian ngắn, ngoài thời hạn (300 ngày) đã hết và nhiều năm sau đó, người dân bị trị miền Bắc vẫn còn tìm cách vượt thoát về phương Nam. Tất cả những lần vượt thoát từ miền Bắc của đồng bào qua sông Bến Hải vào Nam, khi bị quân đội miền Bắc phát hiện đều bị truy đuổi, chặn bắt, dùng tên tẩm chất độc và cả vũ khí sát thương hạ sát (mặc dù theo quy định của hiệp định là không được dùng vũ khí sát thương).
Tình trạng thê thảm tại biên giới Nam-Bắc Việt Nam lúc đó cũng tương tự như hiện trạng nơi biên giới Đông-Tây của một nước Đức từng bị chia cắt, hoặc tại khu vực biên giới Nam-Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng về mức độ thì vượt mọi ranh giới của sự tàn ác và thê lương. Hiệp định Genève đã bị Hồ xé tan và giẫm nát bằng chân từ lúc nó chưa thành hình.
3. Để có một tầm nhìn khái quát nhưng đầy đủ về về tình hình Việt Nam sau hiệp định Genève 1954 thì văn bản „Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoàngày 26. Tháng Tư. 1958 về những vướng mắc trong vấn đề Tái thống nhất đất nước“ là một tài liệu đặc biệt hữu ích. Văn kiện ngoại giao này được công bố ngày 26.04.1958 bởi văn phòng Sứ thần Việt Nam Cộng Hoà tại Bonn, CHLB Đức. Nguyên bản hiện đang lưu trữ tại trung tâm lưu trữ Văn khố thành phố Stuttgart, tiểu bang Baden Württemberg, CHLB Đức, có thể tìm thấy dưới mã hiệu: „ J 152 D Vietnam Nr.1“.
4. Cũng trong làn sóng người di cư này đã có khoảng 3000 cán bộ cộng sản trà trộn theo vào Nam, cũng như khoảng 6000 cán bộ cộng sản khác, đều theo lệnh của Hồ cài cắm ở lại miền Nam, nằm vùng tạo dựng cơ sở cho cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà của Hồ sau này. Số cán binh nằm vùng này tăng lên không ngừng vào những năm sau đó.
5. Miền Nam Việt Nam trong trong giấc mộng xâm lăng của Hồ Chí Minh theo lệnh từ Moskau và Bắc Kinh chỉ là cái bàn đạp đầu tiên. Cái đích của sự toan tính của Hồ nằm trong giấc mộng xâm lăng của đế quốc đỏ, là chiếm cả Đông Dương, gồm cả Lào và Campuchia.
6. Nói về sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như văn hoá, kinh tế, và đặc biệt là tôn giáo trong chế độ ngụy quyền của Hồ lúc đó có thể so sánh là đã bị tụt lùi xuống ngang hàng với thời hậu trung cổ tại châu Âu. Thực trạng Bắc Việt Nam đương thời đã bị biến dạng thành một thứ ngục tù không tường vách, không khác gì với Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng thực trạng này vẫn còn đúng với cả nước Việt Nam cộng sản tới tận ngày hôm nay!
Cụm từ „Kommun + ismus“ có nguồn gốc từ Âu châu ( nguyên ngữ tiếng Đức: „Kommunismus“ ) đã bị Hồ và tay sai ma mãnh và xuẩn động dịch sang tiếng Việt là „Cộng sản-chủ nghĩa“, với nghĩa chữ nước đôi của cụm từ „cộng sản“ là „tài sản chung/ tài sản cộng đồng“ („gemeinsames Vermögen“), và đi kèm theo nó nào là những „không giai cấp“, „vô sản“ và „bất sở hữu“ (riêng tư)…, sau khi đã qua tay một tập thể trí nô vong bản, lưu manh, nhưng hùng hậu, tô vẽ và tuyên truyền quảng bá cho nhân dân miền Bắc về một „thiên đường cộng sản“ sáng lạn, trong đó „không còn ai được quyền sở hữu một thứ gì riêng tư“. Sự tuyên truyền này về thực chất là một sự cưỡng bức tẩy não tập thể toàn dân. Sự cưỡng bức tuyên truyền có tích chất „cách mạng“ của Hồ và đảng cộng sản nhìn cách nào cũng chỉ là sự thừa hành lặp lại nguyên si lối hành xử tàn bạo của Stalin, và sự thừa hành, sao chép bằng máu cái gọi là „cách mạng văn hoá“ của Mao Trạch Đông, mà mổi mỗi đều dùng để chống lại chính nhân dân trong nước, triệt phá sức đề kháng của quần chúng để dễ bề cai trị. Cái gọi là „Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà“ tại miền Bắc, được giật dây, hà hơi tiếp sức trực tiếp của nước Nga Xô-viết và Tầu cộng đang gồng mình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lăng tiến về phía Nam. Sự tàn bạo của của chế độ ngụy quyền cộng sản tại Bắc Việt Nam được che đậy bằng những cụm từ tanh mùi máu như „chuyên chính vô sản“, cách mạng xã hội chủ nghiã v.v. và v.v. đã được các tác giả tên tuổi của Việt Nam và thế giới tự do lật tẩy qua vô số các tác phẩm đã được công bố ngay từ những ngày đầu chế độ này manh nha hình thành.
VÀO ĐỀ:
7. Vào thời điểm này tại miền Bắc thì tất cả hoạt động tôn giáo của nhân dân đều bị bộ máy tuyên truyền CS tùy tiện kết án là „thuốc phiện của nhân dân“, „lạc hậu“, „mê tín dị đoan“, „phản động“ cho đến „phản cách mạng“ hoặc „gián điệp của các thế lực phương tây thù địch“ , tùy theo nhu cầu đàn áp của đảng, và nhất định phải bị „bạo lực chuyên chính vô sản“ tiêu diệt bài trừ.
Bức tranh vẽ bôi của Hồ về một „nhà nước cộng sản“ tại miền Bắc Việt Nam trên thực tế còn đang ở thời kỳ hậu quân chủ, với nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu thô sơ và đa phần dân chúng là nông dân. Nhưng vì phải rập khuôn theo mô thức từ nước Nga và Tầu cộng sản nên đặc biệt từ những năm, khi đảng cs đã đặt được ách cai trị toàn phần đối với dân chúng miền Bắc qua bộ máy quốc hội bù nhìn, thì đảng cs cũng cho dựng lên các giáo hội giả hiệu như „Giáo hội Phật giáo“, „Giáo hội Thiên Chúa giáo“, nhưng chỉ là những hội như „hội phụ nữ“, „hội nông dân“… cùng vô số các hội tương tự, dưới sự lãnh đạo của đảng, thừa hành bởi „Mặt trận Tổ quốc“. Đảng cộng sản có một rừng biển hiệu chỉ để treo cho có như thế. Cùng chung một số phận như thế, các đảng như „đảng dân chủ“, „đảng xã hội“ đều bị các cán bộ tay sai của Hồ thâm nhập, đục khoét từ bên trong, tiến tới chỉ còn là những biển hiệu, những công cụ tay sai của đảng cộng sản.
Một thực tại lịch sử là phần đông dân số Việt Nam theo đạo Phật, hoặc có những nền tảng tâm linh và thế giới quan khoan dung đủ tầm quảng đại để đồng hành với giáo lý Phật giáo. Thực tại này cũng chính là một yếu tố mà đối với chế độ độc tài ngụy quyền cộng sản không thể nào coi nhẹ, hơn thế nữa các đạo giáo có mặt tại Việt Nam đặc biệt là đạo Phật nói chung thực sự là một cơ hội béo bở, và nhất thiết phải chịu sự khiển dụng của đảng, như một trong những công cụ đa năng khác dành cho các mục tiêu của đảng cộng sản. Mưu mô hoạch định cho sự thành hình của cái gọi là „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất“ cùng những „Gia đình Phật tử Việt Nam“ tại miền Nam đầu những năm 1960 đã được toan tính từ lâu trước đó bởi „Bộ Chính trị“ đảng cộng sản tại…miền Bắc.
Cũng vào thời gian này thì kế hoạch và guồng máy xâm lăng miền Nam của Hồ từ Hà nội đang hoạt động hết tốc độ. Để chuẩn bị cho cuộc thâm nhập trên „mặt trận tôn giáo“, có một số rất đông các cán bộ đảng cộng sản được tuyển chọn huấn luyện và đào tạo ngắn hạn về Phật giáo tại miền Bắc, chưa kể những số cán bộ nằm vùng trong Nam và số cơ hội bị lừa vào tròng. Tất cả những cán bộ đã được cộng sản tẩy não này đều có chung một định hướng là dùng vỏ bọc tôn giáo này để phá hoại và làm sao qua đó gây tạo cho được sự phản loạn, bất ổn định với sức ảnh hưởng chính trị càng lớn càng tốt trong quần chúng và các đô thị miền Nam. Để cuối cùng thì cái gọi là „GHPGVNTN“ đã được giật dây để thành hình, cùng vô số các tổ chức tay chân trực thuộc của nó như „Gia đình Phật tử Việt Nam“. Nhưng, như mục tiêu thâm độc của đảng CS, là những kẻ giật dây khuynh đảo và điều khiển tổ chức này muốn đạt đến vào thời điểm đó là tạo vỏ bọc để tuyên truyền ngụy trang và nhân danh nhân dân miền Nam, hậu thuẫn cho quân đội cộng sản cùng một lúc xâm lăng miền Nam. Và đến tận ngày hôm nay GHPGVNTN vẫn còn được dùng để làm cò mồi tuyên truyền cho các mục tiêu chính trị của đảng csvn.
2.png
Thich Huyen Quang (geb. Le Dinh Nhan), links im Bild, der KP Kader im Mönchsgewand bei der Vollversammlung und Bekanntgabe der UBCV im Jahr 1964 in Saigon.
*
Trong ành: (bên trái) Thích Huyền Quang ( tức Lê Đình Nhàn), tên Việt gian tay sai cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, đọc diễn văn tại đại hội ra mắt của GHPGVNTN tại Sài gòn, năm 1964.
8. Để thực hiện mục tiêu này, tên đảng viên cộng sản đội lốt Phật giáo Thích Trí Quang đã hoạt động phá hoại một cách điên cuồng, khích động, khuynh đảo, giật giây một bộ phận lớn quần chúng và Phật tử miền Nam, tổ chức các cuộc biểu tình phản loạn, xuống đường và „tự thiêu“ v.v. nhằm phá hoại tạo bất ổn định cho chính quyền miền Nam. Hậu quả là dẫn đến cuộc đảo chính phản tặc chống lại chính phủ VNCH, Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đương nhiệm Ngô Đình Diệm cùng bào đệ của ông đã bị sát hại trong cuộc đảo chính phản tặc này. Phần chi tiết sẽ được đề cập ở các phần sau trong bài.
3.png
Thích Trí Quang (geb. Phạm Văn Bồng), ein gefürchteter führender KP-Agent im Mönchsgewand, ist einer der kaltblütigsten Haupt-Täter der sog. "buddhistichen Rebellen" zugusten der nordvietn. Kommunisten im Invasions-Krieg gegen die Süd-Republik Vietnam. Im Bild: Thich Tri Quang als Titelbild des „Time“ Magazin, New York, USA 1963.
*
4.jpeg
KP Kader Thich Tri Quang im Mönchsgewand und Komplizen demonstrieren vor dem Regierungsgebäude der Süd Republik Vietnam in Saigon im Jahr 1963.
Erich+wulf-TTQuang.jpg
KP Kader Thich Tri Quang und der DDR Kommunist Erich Wulf
9. Thích Trí Quang, tức Phạm Văn Bồng, sinh tại làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, miền Trung Việt Nam. Theo tài liệu tình báo của Pháp (sau này là „Phòng Nhì“) thì hắn đã gia nhập và là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1949. Lễ gia nhập đảng được tổ chức tại mật khu Lương Miêu, Dương Hoà. kết nạp bởi Tố Hữu, tức Tôn Thất Lành, một trong những tên cán bộ cao cấp của đảng CS Vìệt Nam. Cả CIA cũng như tình báo VNCH đều nắm rõ về vụ việc này.
Để có một tầm nhìn bao quát và cụ thể hơn về những cán bộ Việt gian cộng sản giả danh Phật giáo núp áo nhà sư như Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn và cái gọi là „GHPGVNTN“ thì tài liệu sau đây của CIA đặc biệt hữu ích:
Nguyênvăn tiếng Anh:
SituationAppraisal of Buddhism as a Political Force During Current Election PeriodExtending through September 1967 – May 4, 1967.
Language: English; Document Pages: 13; Date: 04 May 1967; Collection: Central Intelligence Agency Collection; Media Type: Document (.pdf); Full Text: Full Text is available for this item. Return to the Virtual Vietnam Archive and search for Item Number: 04109128007. Go to the More Information section and change to the Full Text view.; View Item: Situation Appraisal of Buddhism as a Political Force During Current Election Period Extending through September 1967, 04 May 1967, Folder 128, Box 09, Central Intelligence Agency Collection, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Accessed 21 Aug. 2012.
bản dịch tiếng Việt hiện đang được đăng tải > tại đây<
10. Giật dây hậu trường cuộc đảo chính này lại chính là đồng minh Hoa kỳ, qua bàn tay của CIA, muốn lợi dụng cuộc đảo chính cho mục đích của Mỹ lúc đó. Vào thời điểm này phiá Mỹ muốn trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam chứ không phải chỉ là gián tiếp cung cấp vũ khí và cố vấn quân sự. Một cuộc đảo chính triệt hạ quyền lực của chính phủ và tổng thống Ngô Đình Diệm thay thế bằng một chính quyền khác dễ bảo hơn, hợp với sự „quan tâm“ của chính quyền Hoa Kỳ lúc đó. Sau khi cuộc đảo chính lật đổ chính phủ đệ nhất Cộng Hoà có sự tiếp tay của CIA đã thành toại, tên cộng sản Thích Trí Quang vẫn tiếp tục sách lược của đảng cộng sản giao phó. Hắn vẫn tiếp tục khích động đồng bào và Phật tử miền Nam xuống đường phản đối, gây phản loạn tiếp tục chống chính quyền mới và cực lực chống luôn cả người Mỹ. Lần này chính quyền đệ nhị VNCH và CIA đã cô lập bắt gọn Thích Trí Quang, nhưng do „ảnh hưởng“ của hắn với lũ nằm vùng trong chính quyền VNCH hắn lại được tại ngoại và tiếp tục hoạt động có lợi cho cộng sản. Xin nói thêm là loại trừ một trường hợp ngoại lệ duy nhất là Thích Trí Quang đã bị đại tá Nguyễn Ngọc Loan bắt nhốt và cô lập sau khi không còn một tướng lĩnh VNCH nào trước đó giám đối đầu với tên việt gian CS này. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan sau này đã được phong tướng. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên – Huế, xuất bản năm 2010 – USA).
6.jpg
Vụ hỏa thiêu hành quyết Thích Quảng Đức
>
< 11. Một trong những đỉnh điểm tội ác cuộc phản loạn này là vụ hành quyết thiêu sống Thích Quảng Đức, đã được giàn dựng để tuyên truyền là „Thích Quảng Đức tự thiêu chống lại đàn áp Phật giáo“. Sự thực là vụ này cũng như đa phần các vụ hỏa thiêu bức tử khác đã được các tên cộng sản trá hình Phật giáo chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Ban đầu Thích Quảng Đức được tẩy não là hắn sắp thực thi một „sứ mạng quan trọng“, nhiều trợ lý đệ tử có chuyên môn y khoa đã thường xuyên dùng các loại thuốc mê chuyên dụng biến cơ thể Thích Quảng Đức trở nên đờ đẫn, thần kinh bị ức chế vô cảm. Để đến khi liều thuốc mê đặc dụng cuối cùng tiêm vào cơ thể Thích Quảng Đức một cách rành nghề trước khi bị tên Nguyễn Công Hoan và đồng bọn chở và dìu vực ra nơi hành hình, thì Thích Quảng Đức bấy giờ chỉ còn là một thân xác vô cảm với hệ thần kinh đã tê liệt. Rồi chính Nguyễn Công Hoan đã dùng ít nhất là 10 Lit xăng đổ ngập lên đầu và người Thích Quảng Đức, xăng chẩy thành vũng đọng quanh chỗ ngồi của kẻ bị hành quyết, và cũng chính Thích Công Hoan dùng một bật lửa Zippo châm lửa từ xa, cái xác vô cảm đẫm đầy xăng bắt lửa cháy ngay lập tức… Và tất nhiên, một số đông các cán bộ cộng sản trá hình „tăng ni“ và cả „cảnh sát“ đã được chuẩn bị trước để dàn hàng quây vòng xung quanh nơi hành hình, để quyết thiêu cho bằng được Quảng Đức mà không bị cản trở. Quan trọng hơn cả là một vài „nhà báo quốc tế“ đã đựợc chuẩn bị trước cho cuộc hành hình này cũng được giàn xếp ngay nơi hiện trường, tức là có thể chụp hình kẻ bị thiêu và „được phép“ ghi lại hình ảnh cảnh hành quyết một cách rõ nét nhất. Với mục đích là ngay sau đó những hình ảnh sắc nét nhất thế giới này sẽ qua tay giới truyền thông tới Mỹ và phương Tây, phục vụ cho mục đích tuyên truyền của đảng cộng sản hòng lừa đảo dư luận cả thế giới. Kẻ bị hành quyết hỏa thiêu chết cháy như than tại chỗ. Nguyễn Công Hoan hiện nay (năm 2012) đang ẩn náu trong một cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại Mỹ.
12. Đảng cộng sản Việt nam, „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất – Ấn Quang“ và tất nhiên là cả Thích Nhất Hạnh cho đến tận ngày hôm nay vẫn đang tìm mọi cách bôi xóa và chối bỏ tội ác là: chính chúng đã giàn dựng và thực thi vụ hành quyết hỏa thiêu đặc biệt dã man này. Hơn thế nữa, ngay từ đầu chúng đã giàn dựng ra hàng loạt những chuyện ly kỳ nhất để loan đồn những chuyện hoang tưởng đạo đức giả, nhân danh Đạo Phật và Giáo lý Phật giáo, hòng che mắt và đánh lừa dư luận cả thế giới. Nào là „Bồ Tát tự thiêu“, "lửa từ bi", „Thánh Tử Đạo“.v.v.
13. Các vụ „Phật giáo tranh đấu“, biểu tình phản loạn triền miên, rồi vụ hành quyết hỏa thiêu Thích Quảng Đức ngày 11.06.1963, chỉ là những thủ thuật dùng để gây rối đổ thêm dầu vào lửa, nhằm tạo thêm chất nổ cho đỉnh điểm của nó, là vụ các tướng lĩnh phản tặc được sự giật dây mua chuộc trực tiếp của CIA, được thực thi bởi „đội quân thứ ba“ của đảng tức „Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam“ trong đó có giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất“, lật đổ Chính thể Đệ nhất VNCH và sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02.11.1963. Tất cả chỉ là diễn tiến một phần của một âm mưu đã được hoạch định trước. Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để lật đổ chính thể Đệ Nhất Cộng Hòa để có thể qua đó có toàn quyền quyết định thao túng trực tiếp vào „công cuộc chống cộng sản“ tại miền Nam.
14. Tất cả nhũng vụ „Phật giáo phản loạn“ cũng như tin tức chiến sự tại miền Nam vào thời điểm này và cũng gần như xuốt thời gian cuộc chiến Việt Nam, đều được giới báo chí, truyền thông bình luận chiến sự và dân sự VNCH, đồng minh phương Tây và cả khối cộng sản loan tải. Tuyên truyền theo kiểu tẩy não một chiều của khối cộng sản đông Âu và Bắc-Việt thì đã là lẽ hiển nhiên dễ hiểu. Nhưng rõ ràng là đã có một sự che chắn, thông tin một chiều có chủ ý, được định hướng bởi Hoa Kỳ. Hậu quả là tại phương Tây, đặc biệt là tại Mỹ, những bản tin về tình hình chiến sự tại Việt Nam đã bị bóp méo một cách nghiêm trọng. Thật mỉa mai vô cùng là nội dung các bản tin chiến sự đã được loan tải này lại hoàn toàn có chiều hướng làm lợi cho quân đội lê dương cộng sản của Hồ, một tập đoàn đánh thuê của Bắc Kinh và Moskau.
15. Một trường hợp cụ thể là, vì cái chiêu bài giả danh đội lốt Phật giáo do „GHPGVNTN khối Ấn Quang“, Nhất Hạnh, Võ Văn Ái và khối „thiên tả“ làm rùm beng, giật dây khích động phản loạn rồi tung tin tuyên truyền, bôi nhọ xuyên tạc rằng „chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo“, do vậy Chính phủ VNCH đã chủ động trực tiếp mời một phái đoàn quan sát của Hội đồng liên hiệp quốc tới Việt Nam Cộng Hòa để điều tra làm rõ vụ việc. Mặc dù với sự giúp đỡ tận tình của Chính Phủ VNCH trong điểu kiện thực tế, phái đoàn điều tra đã chỉ có thể đưa ra một kết luận trung thực là dưới chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt nhiên không hề có sự đàn áp tôn giáo. Những luận điệu cáo buộc bôi nhọ chính quyền VNCH đã được loan đi bởi các phương tiện truyền thông và báo chí đa phần là thân cộng sản tại phương Tây đã bị phái đoàn điều tra vạch mặt là những luận điệu tuyên truyền vu khống thâm độc ác ý. Một bản điều trần về những gì mắt thấy tai nghe tại Việt Nam Cộng Hòa nói lên sự thật trên, đã được phái đoàn chuẩn bị hoàn tất để điều trần trước dư luận thế giới trong phiên họp ấn định của hội đồng LHQ. Nhưng cũng vào giờ phút trót bản điều trần đã bị chính những nhân vật cấp cao của Nhà Trắng „điều đình“ và cản trở một cách bí mật, để hậu quả là bản điều trần đó đã bị giấu nhẹm đi và đã không được chính thức công bố.
16. Cho đến tận ngày hôm nay năm 2012, trên các phương tiện truyền thông chính thức, và cả trong các sách giáo khoa của các trường đại học tại Mỹ vẫn còn đầy rẫy những tin một chiều hoàn toàn sai lệch dường như có chủ ý về sự thật chiến tranh Việt Nam, tung hô có lợi cho đảng cs…Tầu, và đảng cs Việt Nam. Mặc dù hàng loạt những tài liệu của Lầu Năm Góc về các sự thật bí ẩn trong chiến tranh Việt Nam đã được giải mật và công bố. Mặc cho sự ra đời của bộ sách „Hồ sơ đen về chủ nghĩa Cộng sản“ đã trở nên nổi tiếng. Mặc cho sự ra đời của hàng loạt các phẩm, tác giả đã công bố, đã bạch hóa sự thật về thực chất của cuộc chiến tranh Việt Nam của chính các tác giả phương Tây đã trở nên nổi tiếng. Cụ thể nhất là trong năm 2006, chính Đại Hội đồng Quốc Hội Châu Âu (PACE) đã ra quyết nghị số 1481 về việc đặc biệt cần thiết phải truy tố tội ác các đảng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản ra trước tòa án quốc tế về tội ác dã man chống nhân loại của chúng.
17. Vụ sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm có sự bật đèn xanh từ Pentagon (Lầu Năm Góc) của Mỹ xét về thực chất cũng là một thứ lệnh bức tử Chính thể nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. Mặc dù trong hoàn cảnh thời chiến nhưng dưới Chính thể Ngô Đình Diệm, Việt Nam Cộng Hòa đã đạt được một sự phát triển đáng nể phục. Với một nền kinh tế thị trường tự do, được bảo đảm bằng một nền hiến pháp nhân bản và tôn trọng dân chủ thực sự. Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng là vị tổng thống đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được nhân dân bầu cử một cách hợp hiến pháp. Nhưng không còn gì mỉa mai và ngang trái hơn là chính Henry Alfred Kissinger và tên „trưởng đoàn ngoại giao“ của Hồ là Lê Đức Thọ sau hiệp định Paris 1973 về Việt Nam đã được xưng tụng để cùng nhận giải Nobel „Hòa bình“. Với hiệp định Paris, về thực chất đã hợp thức hóa và che đậy sự rút lui của quân đội Mỹ ra khỏi chiến trường Việt Nam một cách „danh dự“. Nhưng trên thực tế trần trụi là những tay điều hành guồng máy chiến tranh tại Nhà Trắng đã phản bội, bán rẻ VNCH và 17 triệu nhân dân miền Nam cho bàn tay đẫm máu của đội quân xâm lăng miền Bắc, tay sai của đế quốc thực dân đỏ. Thọ đã „từ chối“ nhận lãnh giải thưởng dành cho hắn, vì guồng máy bắn giết của của hắn, một bộ phận tay sai của đế quốc đỏ vẫn không hề ngừng chuyển động cho tới ngày 30. 04.1975, khi xích xe tăng Nga được quân đội của Hồ mang tới giày xéo khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu người miền Nam được biết thế nào là tắm máu kiểu đế quốc đỏ, đều tìm cách trốn chạy thoát khỏi thần chết đỏ bằng tất cả mọi cách, mọi con đường có thể có, kể cả là phải bỏ mình trên muôn trùng sóng gió đại dương mong tìm đường vượt thoát tới bến bờ tự do. Người Mỹ cũng chạy thoát thân như thế. Sự kinh hoàng khủng khiếp không bút nào tả xiết, đã vượt mọi ranh giới có thể tưởng tượng. Và cả thế giới đã ngậm ngùi nhưng câm lặng chứng kiến cảnh tượng thê lương hãi hùng kia. Chỉ 3 năm sau, cũng những vệt xích xích xe tăng Nga này lại tràn ngập đất nước Campuchia.
7.png
18. Trở lại năm 1964, GHPGVNTN được thành lập và tự nó đã là một thứ vỏ bọc lý tưởng, đủ rộng để đảng CS có thể tùy khiển dụng giật dây nó theo nhu cầu từng giai đoạn. Các miền, hệ phái và truyền thống Phật giáo khác cũng đã từng được quy tụ quanh GHPGVNTN vào thời điểm thành lập. Nhưng đã sớm nhận ra sự giàn dựng, thâm nhập của các cán bộ cộng sản và cả lũ nằm vùng (trá hình „khối Phật giáo Ấn Quang“) để hoạt động cho cộng sản, nên đều tỏ ra thất vọng và xa lánh. Thượng tọaThích Tâm Châu là một điển hình, vì đã tỏ thái độ không muốn bị mãi lôi kéo mãi vào vòng „tranh đấu“, phản loạn, nên đã bị các tên CS núp áo nhà sư, trâng tráo dùng bạo lực đe dọa sát hại, cưỡng bức phải rời khỏi trọng trách lãnh đạo tâm linh của mình. Lãnh đạo tinh thần của các hệ phái khác cũng dần xa lánh cái „tinh thần Phật giáo tranh đấu“ giả hiệu này. GHPGVNTN do vậy đã bị đảng cộng sản „rút hết ruột“, còn lại cái xác, dùng làm biển treo, như môt công cụ tay sai trá hình để tiếp tục nhân danh đại đa số quần chúng Phật giáo xuống đường đấu tranh cho các mục tiêu của đảng cộng sản.
19. Một trong những tội ác tiêu biểu đẫm máu nhất của GHPGVNTN là vụ thảm sát dân thường Huế vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Cộng sản gọi là „tổng tiến công nổi dậy“. Trong 26 ngày quân đội cộng sản Bắc-Việt đã tạm thời cưỡng chiếm thành phố Huế. Trong thời gian này có ít nhất 5327 người đã bị sát hại dã man, 1200 người bị bắt đi mất tích. Những cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo nằm vùng, biệt danh là „đội quân thứ 3“ của đảng cộng sản Việt Nam, là những thủ phạm chính thực thi tội ác trong vụ thảm sát dân thường đặc biệt man rợ này. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên – Huế, xuất bản năm 2010 – USA).
http://vn-buddhist.blogspot.de/2012/12/phim-tu-lieu-to-cao-toi-ac-viet-gian.html
Khai màn cho cuộc tắm máu này là tiếng súng khai hỏa bởi quân đội CS Bắc-Việt nổ đúng vào đêm giao thừa tấn công thành nội Huế, lật lọng bất ngờ phá tan quy ước đình chiến ba ngày Tết giữa hai miền Nam-Bắc. Lính cộng sản quần đùi áo đen đột ngột xuất hiện, cùng hàng loạt các cán bộ cộng sản nằm vùng xuất đầu lộ diện, đồng loạt ra mặt công khai, đi từng nhà từng nhà, lùng bắt, thẳng tay bắn giết dân thường Huế một cách dã man vô tội vạ.
c%E1%BB%9D+%C4%91%C3%B4n+h%E1%BA%ADu.jpg
Lá cờ ba mảnh, xanh-đỏ-xanh, 1 sao vàng (không phải xanh, đỏ, 1 sao vàng, của lũ cộng sản nằm vùng, trá hình „Lực lượng Liên minh dân tộc dân chủ hòa bình“ do những tên Thích Đôn Hậu, Lê Văn Hảo làm chủ tịch) được cắm trên kỳ đài Thành Nội Huế trong xuốt thời gian quân cộng sản tạm cưỡng chiếm thành phố. 10 ngàn quân cộng sản trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ đã núp bóng dưới lá cờ giả hiệu của Thích Đôn Hậu để bắn giết. Hàng loạt các „ủy ban quân quản, tự vệ khu phố“, các „toàn án nhân dân“, „chính quyền cách mạng“…, do những tên giáo sư, sinh viên và đủ loại tầng lớp nằm vùng cho cộng sản được đồng loạt dựng lên chớp nhoáng trên đường phố. Và các màn xử tử hình bắn giết trả thù vô cùng dã man oan nghiệt diễn ra ngay tại chỗ, khắp nơi trong thành phố Huế. Các tên như Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, Thích Chánh Trực, Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Lê Thị Đoan Trinh…, là một trong những tên tội phạm, sát thủ khét tiếng của cộng sản trong vụ thảm sát này.
Dân chúng Huế đã phải bỏ chạy trong kinh hoàng, tuyệt vọng đau thương. Hàng ngàn dân thường trong đó có cả trẻ em, người già và phụ nữ bị bắt trói từng đoàn từng nhóm bằng giây điện thoại và bị cưỡng bức giải đi ra các miền ven đô hoang vắng của Huế. Nơi đó họ đã bị các toán cán bộ cộng sản hành quyết tập thể một cách đặc biệt dã man mọi rợ.
Để „tiết kiệm đạn“, phần đông trong số họ đã bị giết chết bằng các vật dụng thô sơ như cuốc xẻng, mà trước đó họ đã phải dùng để đào huyệt cho chính mình. Hàng loạt đạn bắn vào những loạt người đứng trước, họ đã ngã xuống trong tiếng gào rú rùng rợn cùng cực thê thảm của hàng loạt những người khác cùng bị trói phải ngã theo xuống huyệt, để cùng bị vùi lấp, bị chôn sống và chết thảm. Cảnh tượng thật rùng rợn thê lương, ngẹn nghào không bút mực nào tả xiết. Theo thống kê của cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa năm 1968 tại Huế thì đã có ít nhất 5365 thường dân Huế bị sát hại dã man bằng những hình thức thảm sát tập thể này. Trong đó có 3 giáo sư bác sỹ y khoa người Đức được chính phủ Tây Đức gửi đến trường đại học Y khoa Huế giảng dậy trong khuôn khổ giao tế dân sự và nhân đạo. Các giáo sư trên cũng đã bị sát hại bằng những phát súng bắn trực tiếp vào đầu sau khi họ bị cưỡng bức phải đào huyệt cho chính mình. Nơi họ bị cộng sản hành quyết chính là sân sau của chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của những cán bộ cs trá hình Phật giáo. Sau đây là tên các giáo sư bác sỹ bị sát hại: Prof. Dr. Raimund Discher, Prof. Dr. Alois Alteköster, Prof. Dr. Horst-Günter Krainick và người vợ của ông Elisabeth.
"Mord an der Menschlichkeit"
http://www.zeit.de/1968/15/mord-an-der-menschlichkeit
http://pdfarchiv.zeit.de/1968/15/mord-an-der-menschlichkeit.pdf
Ein Nachruf auf die deutschen Ärzte von Hué
Von H. C. Nonnemann
mt1968.png
ho-chon-tap-the-hue1968.jpg
Life-.jpg
Zwei von vielen Massengräbern der
Massaker, gefunden in Hue im Februar 1968, in dem über 5327 Hue Bewohner durch den Vietcong gewaltsam ermordet wurden. Foto von LIFE Magazin im 01. April. 1969.
*
Trên đây là hai trong nhiều hố chôn tập thể của của cuộc thảm sát tập thể, được tìm thấy vào tháng 2. 1968 tại Huế, trong đó hơn 5327 nạn nhân bị Việt cộng tàn sát dã man. Ảnh của thời báo LIFE Magazin ngày 01.Tháng Tư. 1969.
HTDonHau_31.jpg
Thích Đôn Hậu ( Diêp Truong Thuan), tên cộng sản trá hình trong áo „ tăng thống Phật giáo“ – Một trong những tên thủ phạm nguy hiểm nhất của cuộc thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Hơn 5327 thường dân đã bị tàn sát dã man bởi quân đội cộng sản trá hình , núp dưới lá cờ „ Liên minh các lực lượng đân chủ hòa bình hòa giải dân tộc“ của đảng csvn do những tên Thích Đôn Hậu và Lê Văn Hảo làm chủ tịch. Trong số nạn nhân có 4 bác sỹ giáo sư người Đức, được chính phủ Tây Đức gửi tới trường đại học y khoa Huế giảng dậy trong chương trình viện trợ giao tế dân sự. Các nạn nhân trên bị hành quyết bởi những nhát súng bắn trực tiếp vào đầu, được tìm thấy dưới hố chôn sau chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của đám cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo. Tên các vị bác sỹ bị giết hại là:
Dr. Raimund Discher.
Dr. Horst-Günter Krainick, và người vợ của ông Elisabeth.
Dr. Alois Alteköster.
Le+Van+Hao.jpeg
Tội phạm sát nhân Lê Văn Hảo
images.jpeg
Tội phạm sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hp+goc+Phan.jpeg
Tội phạm sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Phan
9.png
Tội phạm sát nhân Nguyễn Đắc Xuân
Im Bild: Von links nach rechts: Le Van Hao, Hoang Phu Ngoc Tuong, Hoang Phu Ngoc Phan (geb. Hoang Ngoc Hop), Nguyen Dac Xuan, die kaltblütigsten Hinrichtungskommando Führer der vietn. KP im Hue Massaker 1968. Aktuelle Fotos.
*
Trong ảnh: Là các hình ảnh hiện nay của một trong những tên đầu xỏ sát thủ trực tiếp tàn ác nhất của đảng csvn trong vụ thảm sát đồng bào tại Huế năm 1968. Từ trái sang là Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan (Hoàng Ngọc Hợp), Nguyễn Đắc Xuân,
TDH.jpegthichdonhauleduanvonguyengiap1976anhvnexpress.jpg
1- Linkes Bild: Ankunft in Ulan Bator, Flughafen, 1969.
KP – Thich Don Hau im Mönchsgewand und KP Kader Ton That Duong Tiem schlagen die Werbetrommel für die UBCV und die verdeckten Kampffronten der KP in der kommunist. Mongolei.
2- Rechtes Bild: Thich Don Hau plaudert mit dem KP General der Volks-Befreiungsarmee Vo Nguyen Giap im Jahr 1976.
20. Sau 26 ngày chiếm đóng Huế, quân đội cộng sản bị thủy quân lục chiến Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng Hòa đẩy lui, Huế còn lại là một thành phố hoang tàn xơ xác, rùng rợn thê lương. Huế hoang tàn đổ nát, và khắp nơi tràn đầy tử khí ghê rợn. Trong các nhà thờ, chùa… máu còn lênh láng, người ta dìu kéo nhau đi tìm các hố chôn tập thể, Bãi Dâu, Khe Đá Mài…, mỗi lần một hố chôn tập thể được tìm thấy là mổi lần lại có thêm hàng trăm, hàng ngàn người dân Huế khác phải nghẹn ngào xé nát con tim, vĩnh viễn quấn lên đầu vòng tang trắng oan nghiệt, Huế giờ đã tràn ngập mầu tang.
21. Đằng sau mưu đồ hiếu chiến của cuộc tấn công chiếm đóng và thảm sát dân Huế man rợ của cộng sản Hà nội là chúng toan tính muốn một lần chớp nhoáng chiếm gọn Huế. Những tính toán của những kẻ hoạch định chủ mưu cho rằng „dân chúng Huế sẽ ủng hộ và đứng về phía bộ đội cộng sản“, đã vỡ tan tành, mỗi mỗi mảnh vỡ lộ rõ những tham vọng sặc mùi…Việt-gian cộng sản. Vì trên thực tế người dân Huế đã chạy trốn quân cộng sản để thoát thân, kinh hoàng còn hơn chạy trốn thần chết. Những tên cộng sản gỉa danh trá hình Phật giáo núp áo tu hành cùng lũ tay sai bội phản nằm vùng hoạt động cho cộng sản đã bị lộ tẩy. Để giữ cho bộ mặt những tên cộng sản trá hình Phật giáo cùng đồng bọn và lũ tay sai sát thủ này không bao giờ bị lôi ra ánh sáng, và để trả thù cho việc dân Huế phản kháng cộng sản, những kẻ chủ mưu là bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam qua tay lũ cán bộ cs trá hình Phật giáo đã ra lệnh thảm sát đồng bào Huế. Kế hoạch dùng sự nội ứng của „đội quân thứ ba“ đánh và chiếm Huế một cách chớp nhoáng đã không thành hiện thực. Quân đội Cộng sản và các tên cộng sản trá hình đã bị lật tẩy, lần lượt tìm cách tẩu thoát lên các căn cứ địa mật khu của cộng sản.
22. Huế không phải là nơi duy nhất chịu thảm nạn trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ vào dịp Tết Mậu Thân 1968 bởi tay của lũ cs trá hình Phật giáo này. Nhưng cuộc đánh lấn để chiếm Huế của cs là một trận khởi điểm có tầm mức đặc biệt quan trọng trong mưu mô của cs, vì Huế nằm sát với biên giới Bắc Việt cộng sản. Kinh thành Huế có vị trí đặc biệt quan trọng, đặc biệt là Huế đã nằm trong kế hoạch của cs, là sau khi chiếm được, Huế sẽ được dùng làm „thủ đô“ của cái gọi là „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“, hợp thức hóa con bài công cụ tay sai cò mồi của cộng sản miền Bắc trong công cuộc xâm lấn từng bước toàn bộ lãnh thổ VNCH. Cái „mặt trận“ trá hình này đã được cộng sản Bắc-Việt dùng như một bình phong, công cụ trá hình để đánh lạc hướng dư luận thế giới, che giấu sự tham chiến phi pháp của quân đội cộng sản Bắc-Việt trong cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Nên trong dịp Tết Mậu Thân, đồng bào Huế đã bị cộng sản thảm sát oan nghiệt nặng nề nhất so với các thành phố đô thị miền Nam khác cũng bị tấn công trong dịp này.
23. Tại California USA, trong năm 2010, một „Ủy ban truy tố tội ác đảng cộng sản Việt nam“ đã được thành lập do các cựu quân nhân sỹ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và các cựu tù nhân chính trị tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản khởi xướng. Thu thập dữ liệu khởi tố liên quan tới vụ cộng sản thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân1968.
Địa chỉ hộp thư của Ủy ban: P.O.BOX 6147. FULLERTON, CA. 92843, USA; Tel.: 001. 626 257 1057; E-Mail: huemauthan1968
Địa chỉ tổ hợp luật sư thụ lý hồ sơ khởi tố: Tổ hợp luật sư quốc tế: OKT – OLTHUIS KLEER TOWSHED. LLP; 229 College Street, 3 Floor; Toronto, Ontario M5t 1r4; Nữ luật sư: N. Kate Kempton. Tel.: 001. (416) 981-937. E-Mail: kkempton
Chủ tịch Ủy ban là ông Nguyễn Phúc Liên Thành, thiếu tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu trưởng ty cảnh sát đặc biệt tỉnh Thừa Thiên-Huế. Mục tiêu tiên khởi của ủy ban nhằm thu thập các lời khai nhân chứng, số và tư liệu nạn nhân, tất cả những dữ liệu về những kẻ chủ mưu ra lệnh, chủ phạm, tòng phạm, sát thủ trực tiếp và liên đới v.v., khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là đảng cộng sản Việt Nam và các tên cán bộ cộng sản và tay sai trá hình Phật giáo, nhằm truy tố tội ác của chúng ra tòa án quốc tế tại Den Haag. Uỷ ban này mong có được sự hợp tác giúp đỡ, cung cấp các tư liệu, lời kể, hồi ký ức của các nhân chứng còn sống xót, những người thân của nạn nhân có liên quan. Ví dụ như những thân nhân của các bác sỹ người Đức đã bị sát hại, nên viết lại những hồi ức, hoặc kỷ niệm, hoặc đã từng chứng kiến v.v.
Đến nay ông Liên Thành đã hoàn thành và cho xuất bản hai tác phẩm và ít nhất là một trang blog liên quan đến vụ Thảm sát Huế Tết Mậu Thân 1968. Quyển thứ nhất là: “Biến động miền Trung”, xuất bản năm 2010, quyển thứ hai, xuất bản năm 2012, có tựa đề: ”Huế – Thảm sát Mậu Thân 1968 – Tội ác đảng cộng sản Việt Nam”. Trong 2 cuốn sách kể trên, vì là một chứng nhân đương thời, hơn nữa, trong một cương vị đặc biệt của ngành cảnh sát đặc biệt có liên quan trực tiếp tới biến cố trên, nên tác giả đã mô tả sống động, chân thực và đưa ra các chứng cớ có giá trị lịch sử đặc biệt khả tín. Tác giả đã mô tả và chứng minh mạch lạc, chi tiết diễn tiến của vụ việc, gần như từng ngày, về các cán bộ cộng sản và tay sai núp trong các vỏ bọc ngụy trang trá hình Phật giáo như “GHPGVNTN”, hoặc “Lực lượng liên minh dân tộc dân chủ hòa bình”…đã trực tiếp nhúng tay vào tội ác thảm sát dân Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968 như thế nào.
24. Những tên cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ…và GHPGVNTN trên khắp thế giới, trong đó có GHPGVNTN của Thích Như Điển tại Đức đang cuống cuồng lo sợ trước sự hiện diện của hai quyển sách trên và công việc của UBTTTADCSVN. GHPGVNTN khắp nơi trên thế giới đặc biệt là tại Mỹ, các tay chân của “giáo hội” như “gia đình Phật tử Việt Nam”, các loại “lực lượng” như cái gọi là “lực lượng cư sỹ chấn hưng Phật giáo”… được lệnh của GHPGVNTN tung ra dùng mọi cách để xuyên tạc, cản trở công việc của Ủy ban này và những cá nhân hội đoàn nói lên sự thật. Các thủ đoạn đã được tập đoàn cs trá hình “giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” này dùng đến để bôi xóa tội ác thật bẩn thỉu. Từ vu khống đến đe dọa sát hại tính mạng. Mới đây nhất, chính ông chủ tịch ủy ban đã thoát hiểm trong muôn một bởi những phát súng ám sát hụt của những kẻ thuộc hạ trên. Nội vụ đang được giới chức an ninh Mỹ điều tra.
25. Cái gọi là “GHPGVNTN” như trên đã dẫn, đã được đảng cs giật dây lèo lái từ những năm 1964, nhưng những mưu đồ thủ đoạn ma mãnh khiển dụng các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo để trá hình và làm vỏ bọc ngụy trang cho đảng cs đã được tên Hồ Chí Minh khởi xướng, hoạch định thành đường lối của đảng cs Việt Nam từ những năm 1940. Thực chất của những thủ đoạn này là tìm mọi cách để từng bước một, cướp hoặc lợi dụng các tổ chức, hội đoàn rồi trá hình tổ chức đó dùng cho những mục đích riêng càng ngày càng thâm độc hơn. Để thực thi mưu đồ đó, các cán bộ cs và các cư sỹ tay sai ban đầu phải trá hình thụ động để „thâm nhập thực tế“, sau này khi đã „say mùi hương khói“ và được đảng cs đào tạo nhiều hơn về Phật giáo, chúng có thể tùy tiện xuyên tạc Giáo lý và Kinh điển Phật giáo một cách xuẩn động tinh vi cho những mục tiêu định trước. Hàng loạt các „hội“, các „đoàn thể Phật giáo“ được các cán bộ cs đoàn ngũ hóa rồi phù phép cho thành hình để rồi lại biến mất một cách nhanh chóng, tùy ẩn hiện như những „nghị quyết“ của đảng cs.
Tiền thân là những hội thanh thiếu nhi sinh viên và các loại tầng lớp „Phật giáo cứu quốc“, „Gia đình Phật tử Việt Nam“, sau này là những „Lực lượng Phật giáo tranh thủ cách mạng“, rồi „chiến đoàn Phật tử Trần Đại Thức“ có trang bị vũ khí v.v. Các thanh thiếu niên được đoàn ngũ hóa, tẩy não và huấn luyện để trở thành những „Thanh niên Phật tử„ có thể „sẵn sàng tranh đấu“, làm hậu thuẫn cho những mục đích quân sự.
Để có thể đoàn ngũ hóa khối quần chúng Phật giáo rồi giật dây theo ý của đảng cs, các cán bộ cs nằm vùng đã tìm mọi cách chia rẽ ly gián, không chừa bạo lực, khủng bố để cô lập các vị chân tu với khối quần chúng, và cuối cùng là triệt hạ những vị này gần như phải xa lìa hẳn môi trường thực hành tôn giáo tâm linh truyền thống. Để cuối cùng, các chùa tự chỉ còn lại là nơi ẩn náu của đám cán bộ cs trá hình Phật giáo. Bây giờ là thời điểm để một số nhất định các cán bộ được đảng cs khoác cho những bình phong trá hình thảm thương như „Phật giáo bị đàn áp“ để đánh lừa dư luận. Đồng thời để tạo ra một màn kịch trá hình là „tại Việt Nam tôn giáo bị đàn áp“, để qua đó các cán bộ trá hình Phật giáo của đảng cs tại nước ngoài như Thích Nhất Hạnh, Võ Văn Ái, trong nước như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thich Huyền Quang, Thích Quảng Độ có thể che giấu kỹ hơn bộ mặt đểu giả của chúng trong chiêu bài „Pháp nạn“, „Đấu tranh cho hòa bình tự do, chống đàn áp tôn giáo“…
Cùng lúc này, theo như hệ thống tuyên truyền của đảng cs thì tại Bắc-Việt Nam cũng như tất cả các nước cộng sản xhcn khác „tự do tôn giáo“ tràn trề, cũng như tất cả mọi thứ khác đều „không thể tốt đẹp hơn được nữa“.
Đảng cs tin rằng thế giới bên ngoài, đặc biệt là phương Tây hết còn có thể nhìn thấu các ngón nghề thủ đoạn ma mãnh của chúng. Cái gọi là „GHPGVNTN“ đã bị “rút hết ruột” này, mặc dù đã nhất cử nhất động đều theo nhịp gậy chỉ huy của đảng, mà đối với đảng csvn, „giáo hội“ vẫn chẳng đáng để tin tưởng hoàn toàn, nên „GHPGVNTN“ phải là một hội viên của „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ và chịu sự „chỉ đạo“ trực tiếp của „bộ chính trị„ đảng csvn.
BoDoiCon.JPGctgia_thanhnienphattu_bieutinh.jpgkindersoldat.jpeg
Kinder der sog. „Buddhistischen Familie“ wurden von der UBCV und der „Süden-National Befreiungsfront“ der KP als Demonstranten für die Straßenblockade ausgenutzt, um das Vordringen der südvietnamesischen Armee zu verhindern. Vietcong´s Kindersoldaten im Dienst der „Süden – National Befreiungsfront“
*
Ành bên trái: Các thanh thiếu nhi của cái gọi là „ Gia đình Phật Tử Việt Nam“, bị „GHPGVNTN“ và “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“ lợi dụng đẩy xuống đường biểu tình ngồi, tương tự như „phong trào Bàn thờ Phật xuống đường“, làm vật cản bước tiến của quân lực VNCH. Ành bên phải: Lính nhí Việt cộng, còn gọi là „bộ đội con“ bị đẩy ra bắn giết, chết thí cho lực lượng trá hình của đảng csvn là „ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“.
26. Trong mưu đồ xâm lăng của cs Bắc-Việt vào miền Nam, GHPGVNTN đã là một công cụ đắc lực để thừa hành thực thi tội ác của đảng cs vn. Một trong những tội ác tầy trời như trên đã dẫn, là vụ thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Sau khi quân cs nhận định tình hình chiến sự tại chỗ cho thấy chúng đã vỡ mộng chiếm Huế một cách chớp nhoáng, nên ngày 22.02.1968, tên Thích Đôn Hậu (tức “Diệp Trương Thuần“) trá hình trong vỏ bọc „tăng thống Phật giáo“ đã nhận mật lệnh của đảng csvn qua tay tên điệp báo viên nằm vùng Hoàng Kim Loan ra lệnh cho hơn 200 cán bộ cs bắt đầu thực thi cuộc thảm sát hàng loạt dân chúng Huế để trả thù, thủ tiêu các nhân chứng.
Như trên đã dẫn tổng số người bị giết hại đã lên đến trên 5000 người và trên 1200 người khác bị bắt đi mất tích. Các nạn nhân đa phần là dân thường, cả phụ nữ và trẻ em, đã bị chúng bắt trói, cưỡng bức giải đi ra các vùng ven đô Huế và bị sát hại ở đó. Khoảng 300 thanh thiếu niên cũng bị các toán cán bộ sát thủ hành quyết của cs bắt đi theo để đào các huyệt mộ cho cuộc hành hình thảm sát này, để cuối cùng, cũng bị chúng sát hại hòng thủ tiêu xoá hết mọi tang chứng. Một tên cán binh cs đã lừng chừng thực thi lệnh hành quyết tập thể trên, vì hắn vốn quen giết người trên mặt trận chứ chưa quen giết người như thế này. Nhưng lúc đó „giết“ là tất cả những gì chúng học thuộc nhất và còn lại trong đầu, nên lệnh hành quyết của đảng csvn đã được chúng thực thi trọn vẹn.
27. Những nhân chứng, nạn nhân trực tiếp còn sống xót của vụ thảm sát này mỗi lần hồi tưởng quá khứ là mỗi lần phải ngẹn ngào trong nỗi đau xé thắt tâm can. Một nam nhân chứng hy hữu còn sống sót hồi tưởng lại cơn ác mộng kinh hoàng nhức nhối đã hành hạ anh hơn bốn mươi mùa xuân qua, khi anh còn là một thiếu niên bị toán sát thủ của cộng sản cưỡng ép bắt đi đào huyệt cho vụ thảm sát vào một ngày Tết năm xưa. Dưới sức ép của họng súng đe dọa bởi toán cán binh cs, cậu bé thiếu niên đã phải xúc đất đổ xuống huyệt, đổ lấp lên những người còn sống, bị trói và xô ngã xuống huyệt. Máu và nước mắt đã nhòa trộn cùng mỗi xẻng đất mà cậu bé phải xúc đổ xuống huyệt, dần lấp đi những ánh mắt thân thể của những con người đang vùng vẫy, gào rú, dần tắt ngấm đi vì kiệt sức, van lơn đòi sự sống. Giọng người kể lại rung lên và nghẹn đi trong nỗi oan nghiệt đến vô cùng của sức chịu đựng: „Ôi trời cao đất dầy ôi! Ôi Việt cộng dã man! Sao Việt cộng mi dã man như vầy? Sao bắt tui phải chôn sống đồng bào tui…? Ôi nghiệp quả báo nào…, ôi, tui đã chôn sống đồng bào tui…, ôi Việt cộng, sao mi man rợ như rứa…?“. Lời người kể lại hôm nay thường tắt đi trong nỗi đau oan nghiệt, nghẹn nghào, tràn nghập nước mắt như thế. Và hết huyệt này đến huyệt khác cậu bé phải làm công việc đó cho đến khi cùng một thiếu niên khác liều mình lợi dụng bóng tối tháo chạy được vào rừng, bỏ lại sau lưng là một trời mưa đạn bắn theo bởi lũ sát nhân chuyên nghiệp cộng sản. Hai đứa đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, nhưng không một ai trong số 5327 người khác sống sót trong cuộc tắm máu trả thù man rợ có một không hai trong lịch sử của lũ sát nhân tay sai đảng csvn.
28.
29. Ngày 30. 04.1975 gần 500 tên tay sai cộng sản trá hình „Tăng, Ni“ Phật giáo của cái gọi là „Đại học Phật giáo Vạn Hạnh“ kéo nhau ra ngã tư Bẩy Hiền, cửa ngõ Sài Gòn hân hoan chào đón và hướng dẫn cho xe tăng cộng sản vào chiếm giữ các vị trí quan trọng trong thành phố. Cũng theo một kế hoạch trù bị khác của cộng sản, nếu tình hình bi đát hơn dự tính thì khoảng 7000 sinh viên trực thuộc của đại học Vạn Hạnh đã cất giấu vũ khí, sẽ bắn vào sau lưng quân lực Việt Nam Cộng Hòa khi quân đội cộng sản tiến đánh thành phố.
Khi quân cộng sản đã tràn ngập thành phố thì những tên cộng sản trá hình “tăng ni” này, một số có trang bị vũ khí đã trực tiếp dẫn đường chỉ lối, đưa các tên cán binh cộng sản đi lùng sục từng nhà để tìm bắt các nhân vật quan trọng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà chúng coi là nguy hiểm hoặc „người của CIA“, bắt mang đi giết và thủ tiêu ngay trong đêm, một số đông bị chúng thủ tiêu xác bằng cách thả trôi sông, số người bị giết lên đến hàng nghìn người. Cảnh bắn giết thủ tiêu này diễn ra trên khắp các đô thị miền nam. Sau đó, cũng những tên cs núp áo tu hành này đã tự xuất đầu lộ diện, nhiều tên xuất hiện trong quân phục cộng sản, có cả quân hàm, tay đeo băng đỏ, mặt mũi đằng đằng khí thế “cách mạng” công khai xuất hiện khắp nơi trong thành phố, chúng là một trong những “cán bộ” đầu tiên của chế độ ngụy quyền cộng sản tại miền nam Việt Nam.
”Đại học viện Phật giáo Vạn Hạnh” là một trong những địa điểm đầu tiên được quân cs biến thành “trụ sở trình diện” dành cho các sỹ quan quân lực nhân viên chính quyền, chính phủ VNCH ra “trình diện, khai báo”. Trực sẵn tại đây có mặt những tên cs đầu trọc nham nhở, trong những bộ đồ cà sa “tăng sỹ Phật giáo”, thâm hiểm hơn cả những tên trong quân phục “bộ đội”, súng ống đầy hăm dọa. Vì là lũ chỉ điểm nằm vùng chuyên nghiệp của đcs trong thành phố nên chúng có đầy đủ danh sách của những người chúng cần phải tìm giệt. Bổn cũ xoạn lại: những quân dân cán chính của chính quyền VNCH bị truy bắt ra trình diện, phải chuẩn bị hành trang cá nhân đi “tập trung học tập cải tạo 10 ngày”. Về thực chất, những cái gọi là “trại tập trung học tập cải tạo” này là những mồ huyệt sống, nơi cs cầm tù, tra tấn hành hình, sát hại bức tử nạn nhân dã man vô hạn định. Nếu có, hạn định này sẽ do đcsvn tùy nghi định đoạt.
Buddhist-Delegation-in-the-Liberation-Day-Parade-Vietnam-1985.jpg
Auch diese KP Kader unter Mönchsgewand schwenken jetzt die KP-Parteiflagge in ihrer Hand und feiern demonstrativ den „Sieg-Feiertag“ 30.04.75 von Ho Chi Minh und der vietn. KP in Saigon.
*
Cũng những tên tay sai cộng sản trá hình Phật giáo này hân hoan vẫy lá cờ đỏ vấy máu của đảng cscn, diễu hành mừng „ngày đại thắng lợi“ 30.04.1975 của Hồ Chí Minh và đảng csvn tại Sài gòn.
30. Tên “tăng thống” tự phong Thích Huyền Quang (tục danh Lê Đình Nhàn), nhân dịp đại hội GHPGVNTN năm 1981 đã “lỡ mồm”, tự hào tự xác nhận những tội ác bất khả bôi xóa của chính hắn, đcsvn và GHPGVNTN như sau: “…Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ba lần có công với cách mạng (của đcsvn)…”, và “…chúng tôi (GHPGVNTN) lập ra chính phủ Phật giáo của Tổng thống Dương Văn Minh để giao cho chính quyền cách mạng (của đcsvn)”.
tnh-2.jpegNhatHanh6.JPG
Nguyễn Xuân Bảo – viet. KP-Agent im Mönchsgewand unter dem Namen Thich Nhat Hanh, agiert mit vorgetäuschten "Anti Vietnam Kriegs"(?) Parolen zugunsten der vietn. Kommunisten seit dem Jahr 1960, bis heute.
31. Trở lại dòng sự kiện: Vào ngày 17.10.1970, một “phái đoàn Phật giáo” gồm Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Minh và những tên cộng sản trá hình khác lên đường sang Tokyo dự hội nghị quốc tế “Tôn giáo và Hòa bình”. Tại đây chúng trơ trẽn đưa ra cái gọi là “đề nghị 5 điểm”. Cả về hình thức lẫn nội dung, nó chính là “đề nghị 5 điểm” của “Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam”, cũng tức là của đcsvn. Luận điệu xảo trá của những đòi hỏi này là “đòi quân đội Mỹ và đồng minh phải rút khỏi Việt Nam”, “để dân tộc Việt Nam tự quyết”….Những tên cs trá hình này bị các thành viên của hội nghị quốc tế chất vấn bằng những câu hỏi trực diện, là chúng đang đại diện cho ai để đưa ra những đòi hỏi đó? Tại sao chúng chỉ đòi hỏi quân đội Mỹ và đồng minh rút lui, mà không đòi hỏi quân đội Bắc-Việt ngừng ngay lập tức cuộc chiến xâm lăng của chúng chống Việt Nam Cộng Hòa? Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã đồng loạt trở nên câm ngọng một cách lạ thường vì không thể trả lời những câu hỏi.
32. Trong thời gian này Thích Đôn Hậu cùng vợ là Tuần Chi, tức Đào Thị Xuân Yến, cả hai y thị được các chi bộ đảng cs nằm vùng tổ chức cho bí mật vượt tuyến ra Bắc gặp Hồ Chí Minh. Hồ cử Thích Đôn Hậu và tên cs Tôn Thất Dương Tiềm và phái đoàn đi tháp tùng sang các nước khối Đông-Âu hoặc cs như Đông-Đức, Hungary, Mông Cổ để tuyên truyền, quảng bá các khẩu hiệu xảo ngữ trá hình cho Hồ và đảng cộng sản.
33. Qua những lần công vụ tuyên truyền cho đảng cs này, Thích Đôn Hậu và các đồng chí cs của y đã cố tình xuyên tạc bôi vẽ ra một bức tranh hoàn toàn sai lệch về chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Một mặt thì chúng xuyên tạc bôi bẩn rằng chính phủ VNCH tham nhũng, yếu kém, mặt khác chúng tán tụng Hồ Chí Minh và miền Bắc cộng sản XHCN lên tận mây xanh. Cùng một chí hướng này, cặp Thích Nhất Hạnh cùng người tình đồng chí Florett Cao Ngọc Phượng và hai tên cộng sản tay sai Võ Văn Ái, Pelelope Faulkner tổ chức các cuộc biểu tình tại Tây Âu, Đức, Pháp và Mỹ với những khẩu hiệu trá hình “ Chống chiến tranh Việt Nam” để đánh lạc hướng, lừa đảo dư luận thế giới trên tinh thần hậu thuẫn có lợi cho chế độ ngụy quyền đảng cộng sản vn.
34. Qua tay lũ cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo, được điều hành và giật dây trực tiếp bởi đcs, phát động cuộc chiến xâm lăng của Bắc-Việt vào lãnh thổ VNCH bằng các thủ đoạn “tôn giáo”, đã biến các đô thị miền nam rơi vào tình trạng biến động bất ổn thường xuyên. Cơ chế luật pháp của xã hội tại Việt Nam Cộng Hòa là một thành quả của một hiến pháp có tam pháp quyền phân lập, thực sự dân chủ tự do, nhưng đồng thời cũng lại là một cơ hội béo bở, để lũ cán bộ cộng sản thâm nhập từ miền Bắc có thể lợi dụng tối đa. Chúng đã tìm mọi cách để trà trộn rồi công khai hoạt động phá hoại, chống phá chính quyền quốc gia, nhưng luôn tìm cách ẩn náu trá hình trong những vỏ bọc ngụy trang “hợp pháp”. Những tên cộng sản đầu xỏ như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ…thường tạo mọi cơ hội có thể được, tìm cách tuyên truyền xách động động quần chúng Phật giáo bằng những khẩu hiệu trá hình, cố tình khiêu khích, nhằm châm các ngòi nổ tạo phản loạn. Vì bất kể sự đối phó nào từ phía chính quyền VNCH nhằm bảo đảm an ninh, thiết lập lại trật tự công cộng cho dân chúng, đều bị lũ cs trá hình này lợi dụng khai thác cho thủ đoạn chiến lược mà đảng csvn đang theo đuổi, là làm sao có thể đánh lừa dư luận rồi xuyên tạc là Chính quyền Ngô Đình Diệm “đàn áp Tôn giáo”. Để chúng lấy cớ tiếp tục khích động những quần chúng Phật tử nhẹ dạ châm ngòi nổ cho những cuộc xuống đường tranh đấu biểu tình lớn hơn nữa. Chúng đã dùng tất cả mọi phương cách thủ đoạn để xách động quần chúng xuống đường, từ loan đồn thất thiệt, tuyên truyền tẩy não đến khủng bố và bạo lực.
Khai thác và lợi dụng sự tin tưởng một cách đặc biệt mù quáng của một số đông khối quần chúng Phật tử thuần thành, nhẹ dạ, đồng hoá tấm áo cà sa với “tăng sỹ”, với “Phật giáo”. Nên những tên cs lưu manh đầu xỏ như Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh… đã có thể dễ dàng lừa đảo giắt mũi số “Phật tử” mê muội này, để khiển dụng cho mưu mô thâm độc của chúng. Vì mê muội, nên đã có rất đông những công chức, nhân viên trong tất cả các tầng lớp của bộ máy công quyền Việt Nam Cộng Hòa từ nông thôn tới thành thị, đã bị mắc mưu, tình nguyện hùa theo lũ cộng sản trá hình này làm Việt gian phản tặc, chống lại chính quyền trung ương Việt Nam Cộng Hòa.
35. Vào thời điểm này, thanh thế của GHPGVNTN khối Ấn Quang do những tên cs trá hình đầu xỏ như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu thao túng, đã đạt đến đỉnh điểm về mức độ độc hại. GHPGVNTN về thực chất đã trở thành một lực lượng chính trị có thế lực khuynh đảo đặc biệt nguy hiểm, đáng lo ngại đối với chính quyền trung ương VNCH. Núp trong vỏ bọc Phật giáo, những tên cộng sản trá hình đầu xỏ đã hành xử một cách trâng tráo, giật dây chính trường VNCH như thể chúng là những dân biểu thượng nghị sỹ không ngai. Quyền lực đen của chúng đã có tác dụng đe dọa trực tiếp, ảnh hưởng đến tình hình chiến sự có lợi cho cộng sản. Chúng đã có thể khiển dụng lũ phản tặc nằm vùng trong bộ máy công quyền chính phủ VNCH để tùy tiện “thăng giáng” ban phát chức vụ cho đệ tử của chúng và lũ tay chân cơ hội, tùy theo những yêu cầu chiến sự được hoạch định bởi bộ chính trị đcs tại Hà Nội.
ttq.jpeg
36. Sau khi nuốt trọn món bả độc tuyên truyền cộng sản của Thích Trí Quang và GHPGVNTN, một số không ít tướng tá phản tặc nằm trong quân lực VNCH đã tuyên bố ly khai, dùng chính phương tiện vũ khí của chính phủ chống lại quân đội chính phủ trung ương. Thích Trí Quang và GHPGVNTN của đảng cộng sản cũng đã chuẩn bị nhiều lực lượng trù bị trá hình và công khai, có trang bị vũ khí ở các cấp khác nhau để giao chiến đối đầu với quân đội quốc gia VNCH. Trường hợp tiêu biểu là “Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức” có trang bị vũ khí do Thích Trí Quang thành lập. (Nguyễn Đại Thức là một tên cộng sản thuộc hạ của Thích Trí Quang, đã bị bắn hạ bởi một xạ thủ trực thăng Mỹ, phần chi tiết xin xem “Biến động Miền Trung” của tác giả Liên Thành).
Vì sự tuyên truyền tẩy não ma mãnh có hệ thống của cs nấp sau những vỏ bọc ngụy trang là Phật giáo, nên đội quân ly khai phản tặc này sẵn sàng quay lại bắn giết và chết cho một cuộc “chiến tranh thần thánh bảo vệ Pháp nạn” của “GHPGVNTN”, “Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam” và những tên cộng sản trá hình Phật giáo này. Theo chân đội quân ly khai phản tặc này là một số đông quần chúng, đồng bào ở tất cả mọi tầng lớp bị khích động giật dây, đã hưởng ứng một cách mù quáng các cuộc xuống đường tuần hành bạo động chống lại chính quyền, làm cho tình hình chính trị tại các đô thị miền nam càng ngày trở nên có lợi hơn cho cộng sản. Các thanh thiếu nhi ”Phật tử” cũng bị cs lợi dụng tẩy não để đẩy vào vòng lửa đạn, được trang bị vũ khí để trở thành những bia đạn sống, chết thế cho quân đội cs, khi mang bom mìn, chất nổ tham gia phá hoại các cơ sở, phương tiện quân sự và phi quân sự của Mỹ và chính quyền VNCH như: Thư viện, đại sứ quán Mỹ, chợ, cư xá và các rạp chiếu bóng v.v.
37. Đại đa phần các Chùa, Tự và các cơ sở tôn giáo bị sự khiển dụng của GHPGVNTN khối Ấn Quang đều đã bị lũ cán bộ cộng sản trá hình biến thành những hang ổ của quân đội cs. Dưới đáy các tượng Phật là những hầm bí mật chứa vũ khí chất nổ, phương tiện quân sự dự trữ cho quân đội cs. Kể cả dưới nền chuồng heo cũng là nơi cs đào hầm ẩn náu. Nhiều chùa biến thành trụ sở dã chiến, cơ sở hội họp, giao liên bí mật, được ngụy trang trá hình bởi các tên cs nằm vùng núp trong lớp áo “tăng sỹ Phật giáo”. Có chùa biến thành những nơi giam giữ và hành hình các quân dân cán chính của chính quyền VNCH.
38. Những biến động phản loạn triền miên của lũ cs trá hình Phật giáo tranh đấu này chỉ được vãn hồi tạm thời yên ổn trở lại sau nhiều cuộc phản công dẹp loạn của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Mỹ. Thích Trí Quang, tên cs khét tiếng của phong trào “Phật giáo phản loạn” đã bị thiếu tá Nguyễn Ngọc Loan tóm gọn, bắt giam và cách ly tại Sài gòn. Trước đó, hắn đã từng được chính CIA giàn dựng cho chạy trốn trong Đại sứ quán Mỹ, để tránh sự truy nã của cảnh sát đặc biệt VNCH. Nhưng rồi Thích Trí Quang cũng như hàng loạt những tên cs đầu xỏ khác bị chính quyền bắt giữ đều được đồng bọn là lũ cs nằm vùng leo sâu trèo cao trong bộ máy chính quyền trung ương VNCH tìm cách ảnh hưởng để làm giảm nhẹ, xóa tội hoặc thoát vòng truy tố của pháp luật. Để rồi được chính tay những tên làm nội gián cho cộng sản, trá hình trong chính quyền trung ương VNCH, nhân danh pháp luật VNCH “phóng thích” về với…cộng sản. Kể cả tên “tổng thống một ngày” Dương Văn Minh sau này cũng đã bị lật mặt là tay sai của cs Bắc -Việt.
39. Cuộc chiến tự vệ chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam với sự góp sức của quân đội đồng minh và Mỹ chống lại sự xâm lăng của cộng sản nhìn về cục diện, đã từ lợi thế, dần trở nên mất thế cân bằng và chịu sự tổn thất ngày càng lớn lao. Đặc biệt là từ lúc quân đội Mỹ tham chiến trực tiếp vào chiến trường Việt Nam. Hai sự kiện "sai lầm chiến thuật" nổi bật phải kể đến, ảnh hưởng nặng nề vào cuộc chiến Việt Nam có lợi cho khối cs, đánh dấu sự "sai lầm chiến lược", nhưng có tính toán rất kỹ càng, xuất phát từ lợi ích của siêu cường quốc Mỹ: Thứ nhất là: Sự đảo chính lật đổ chính phủ đệ nhất VNCH và sát hại cố tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02.11.1963, được giật dây bởi CIA và Nhà Trắng, thực thi bởi lũ tướng tá phản tặc cùng lũ cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN. Thứ hai là: Cuộc đi đêm sau hậu trường giữa Hoa Kỳ và Trung cộng qua những cuộc gặp gỡ tay đôi giữa Mao Trạch Đông/ Nixon, Chu Ân Lai và Henry Kissinger tại Bắc Kinh vào năm 1972.
Qua những cuộc “đi đêm” này, Hoa Kỳ muốn làm sao có thể rút chân khỏi chiến trường Việt Nam trong “danh dự”, và quay lưng bán rẻ miền nam Việt Nam cho “khối cs” có thể toàn quyền tự do hoành hành chiếm trọn miền Nam Việt Nam. Trên thực tế, cộng sản Bắc-Việt đã thẳng tay xâm lược, bắn giết và tắm máu miền Nam không hạn chế, và cuối cùng trong cơn say máu đã biến toàn cõi Việt Nam thành một ngục tù vĩ đại không tường vách. Chúng đã tự nguyện làm tay sai thực thi khát vọng xâm lăng của lũ đế quốc thực dân đỏ cho tới ngày hôm nay. Dư luận của cả thế giới tự do và phương Tây đã bất lực, câm lặng đứng nhìn thảm cảnh trên.
40. Sự đeo bám dai dẳng, trơ trẽn và lưu manh, giả danh trá hình lợi dụng vỏ bọc tôn giáo, Phật giáo, đặc biệt là sự khiển dụng vỏ bọc ngụy trang GHPGVNTN một cách có hệ thống, làm phương tiện đánh lạc hướng, che giấu, bôi xóa tội ác xâm lăng bắn giết trong xuốt chiều dài tồn tại của đảng csvn thực sự là một thủ đoạn tội ác vô cùng tanh bẩn, nghiêm trọng có một không hai trong lịch sử Việt nam và lịch sử chiến tranh thế giới. Như vậy, những cá nhân, đội ngũ, tổ chức của những tên cs giả danh đội lốt núp áo nhà sư trá hình Phật giáo là một trong những cánh quân đắc lực, nguy hiểm và xảo quyệt nhất trực thuộc đảng cộng sản Việt Nam.
41.Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn “cánh tả” của y trong nước cũng như tại Đông và Tây Âu đã xuyên tạc, đánh lạc hướng và bóp méo sự thật một cách có hiệu quả về bản chất của cuộc chiến tranh Việt nam trước công luận thế giới. Chúng cũng đạt được mục đích tạm thời là che đậy và bôi xóa phần nào dãy núi tội ác trùng trùng chất chứa của đảng cộng sản vn trước công luận thế giới. Cũng như vậy, bộ máy truyền thông cộng sản tại phương Tây đã góp phần không nhỏ vào việc bóp méo sự thật và tô vẽ giàn dựng ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về cuộc chiến tranh tại Việt Nam là: “do phía Việt Nam Cộng Hòa, quân đội Mỹ và đồng minh khởi sự gây chiến”. Chỉ có Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn lưu manh là Đảng csvn đến giờ vẫn còn tin rằng chỉ có một mình chúng là còn có mắt mà thôi.
42. Như trên đã dẫn, với sự trợ giúp của mạng lưới tình báo, điệp báo viên cộng sản hoạt động tại nước ngoài đặc biệt là tại các nước phương Tây, Thích Nhất Hạnh và Võ Văn Ái cùng các đồng chí cộng sản của y đã thực thi những màn tuyên truyền xách động với khẩu hiệu xảo trá là “chống chiến tranh Việt nam” theo chỉ thị, có lợi cho đảng csvn. Về thực chất đảng csvn đã xé tan và giẫm nát bằng gót giầy hai hiệp định về Việt Nam tại Genève năm 1954 và Paris năm 1973, theo lệnh của quốc tế cộng sản, (là Nga xô và Tầu cộng) khởi động và theo đuổi cuộc chiến xâm lăng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam.
43. Trong hậu trường chính trị của những tay lái súng vào những màn cuối cùng nổi bật nhất của cuộc chiến tại Việt Nam (1972) phải kể đến “canh bạc cửa hậu” giữa ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger/Chu Ân Lai và tổng thống Mỹ Nixon/Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh, và tất nhiên kẻ vẫy đuôi rối rít chầu rìa canh bạc này đích thị là…Việt cộng. Theo đó quân đội Mỹ và đồng minh sẽ cắt giảm vũ khí và rút lui trong tư thế khả thi nhất khỏi chến trường Nam-Việt Nam, chỉ để lại cố vấn quân sự. Về chiến lược là Hoa Kỳ đã “bàn giao” Việt Nam Cộng Hòa vào tay Bắc Kinh cộng sản, một trong những kẻ kề cận, trực tiếp hà hơi tiếp sức cho cộng sản Hà nội trong cuộc chiến xâm lăng này. Để canh bạc này cũng có “màn kết” như ai, giới truyền thông báo chí, bình luận chiến sự bất lương tại phương Tây, đặc biệt to mồm là của đảng cộng sản Mỹ đã ra sức tuyên truyền không hạn chế, xuyên tạc các bản tin tình hình chiến sự tại Việt Nam dường như rất có lợi cho kẻ đang chầu rìa canh bạc nói trên. Các bản tin trên đều thanh đồng thanh nói ngược lại với tình hình chiến sự thực tế, là “cuộc chiến Việt Nam đã đi vào bế tắc, quân đội Mỹ đã thiệt hại nặng nề và chỉ còn một cách duy nhất là rút khỏi Việt Nam”. Trên thực tế, nếu không có sự hà hơi tiếp sức của Trung cộng, Nga xô cũng như thái độ lập lờ thả lỏng có dụng ý của Nhà Trắng thì cuộc chiến xâm lăng của quân đội cộng sản Bắc-Việt đã không bao giờ có thể tiến được một bước nào hướng về phương Nam.
chuanlainixon.jpegkis-chuanlai6.jpg
Das „Hintertürgeschäft“ zwischen Henry A. Kissinger, Nixon und Mao´s Kanzler Chou An Lais in Peking, am 20. Juni. 1972. Der Inhalt des Gespräches ist aufgezeichnet und bereits veröffentlicht.
*
„Canh bạc cửa hậu“ giữa Henry Kissinger, Nixon và „thủ tướng“ của Mao là Chu Ân Lai tại Bắc kinh ngày 20.06.1972. Nội dung cuộc giàn xếp đã được ghi lại và công bố.
44. Vậy là tất cả những gì trước đó Hoa Kỳ gọi là „liên minh chống cộng sản“ tại miền Nam Việt Nam đã bỗng chốc trở thành những khái niệm mỉa mai báo trước những hệ lụy vô cùng thê thảm. Những thế lực cầm cân nẩy mực các động thái trên chiến trường Việt Nam tại Nhà Trắng về thực chất đã buông tay thả lỏng, bật đèn xanh cho khối cộng sản, Trung cộng và Bắc Việt có thể xâm lăng không hạn chế Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu người dân miền Nam đã phải chạy nạn quân đội cộng sản Bắc Việt bằng tất cả các con đường có thể có. Sự khát máu trả thù và mức độ tàn bạo kiểu Stalin của quân đội xâm lăng cộng sản Bắc Việt trên thực tế đã vượt xa ranh giới mọi sự suy tưởng.
45. Từ ngày Hồ và đảng cs của y tự nguyện làm Việt gian theo mệnh lệnh của „quốc tế 3 cộng sản“, manh động dùng các thủ đoạn bạo lực cướp chính quyền của Chính phủ Liên Hiệp vào năm 1946 (xin nhấn mạnh là: cướp!), thì bộ máy cầm quyền bù nhìn của Hồ đã hiện nguyên tà tướng là một thứ tay sai của quốc tế cộng sản, đặc biệt là cộng sản Nga-Xô. Chưa đủ, quốc tế cộng sản còn có thêm một cái Cravatte mầu đỏ nữa, nhưng Hồ quàng cả hai, nhìn kỹ là cái thòng lọng của Mao và đcs Tầu. Mà Cravatte Tầu nổi tiếng ví như cái thòng lọng thắt không chết ngay, cho nên Hồ và tay sai đã phải chịu đeo mãi đến tận ngày hôm nay. Vì phải đeo đẳng mãi cái tròng „lý tưởng cộng sản“ của những thế lực đế quốc thực dân đỏ, nên Hồ và đảng cs của y đã quyết tâm tẩy não toàn dân là: "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn" cũng phải cướp cho bằng được miền Nam. Nay Trường Sơn đã xơ xác cháy rụi, miền Nam đã quằn quại dưới xích xe tăng Nga, xanh rờn mầu áo bộ đội bằng vải khaki Tầu, nhưng cũng chưa thể đủ. Phải nhuộm đỏ cả Lào, Campuchia và bán đảo đông dương thì Hồ Chí Minh và „đảng cs đông dương“(!) mới tạm hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy, quân đội đảng cộng sản Việt nam thừa thắng tiến đánh Campuchia, vì đã dự trữ sẵn màn tuyên truyền tẩy não thanh niên là đi làm „nghĩa vụ quốc tế“. Lần này để thế chân dãy Trường Sơn đã bị đốt cháy, là vô số thanh niên miền Nam, theo danh từ của đcs là: „con của Mỹ, Ngụy“. Đó là một trong những lý do xẩy ra cuộc „chiến tranh biên giới Việt-Trung“ vào tháng 2. 1979. Về thực chất chỉ là một „bài học“ của đảng cs Tầu dành riêng trừng phạt đảng cs Việt Nam. Nhưng mỗi lần có biến, muôn lần như một, đảng csvn tùy tiện vồ lấy những gì bấy lâu nay thường cướp trắng được của nhân dân là xương máu vô hạn và lòng yêu nước có thừa, đem ra tế sống, trả giá cho những bài học muôn năm không thuộc của đảng csvn.
46.Trở lại với vấn đề truyền thông trong cuộc biến loạn đầy tội ác của GHPGVNTN vào những năm 1963 và những năm sau đó. Với sự hậu thuẫn của CIA và đảng csvn, thực thi trực tiếp bởi tay các cán bộ cs trá hình „tăng sỹ Phật giáo“ GHPGVNTN. Một kẻ thực thi tội ác, một kẻ xuyên tạc bóp méo dư luận quốc tế tại phương Tây. Cuộc hành hình hỏa thiêu đặc biệt dã man tên Thích Quảng Đức đã bị bộ máy truyền thông khối cộng sản bóp méo xuyên tạc thành: “Nhà sư tự thiêu, phản đối đàn áp tôn giáo của chính phủ VNCH“. Để góp phần lèo lái đánh lạc hướng dư luận Mỹ và phương Tây.
Thích Nhất Hạnh, tên cộng sản trá hình Phật giáo và đồng bọn đã hô hào xách động giới sinh viên đông và Tây Âu qua chiêu bài „phản chiến“, xuống đường biểu tình bằng những khẩu hiệu xảo trá „phản đối chiến tranh Việt Nam“. Cộng thêm sự tuyên truyền hùng hậu của giới báo chí bất lương, từng được giật dây bởi CIA, dư luận và công luận quốc tế về cuộc chiến tranh của Mỹ tại chiến trường Việt Nam do vậy đã bị bóp méo sai lệch nghiêm trọng, nghiêng hẳn về phía có lợi cho đảng csvn. Cuộc chiến xâm lăng của khối cs và quân đội cộng sản Bắc-Việt đã được bôi trát tô hồng để biến thành cuộc „chiến tranh giải phóng dân tộc“ cùng vô số những luận điệu xảo ngữ tương tự. Cái gọi là „đại thắng lợi“ của quân đội cs chắc chắn đã phải tiêu tàn phá sản nếu không nhờ những đòn ngón im lặng phản trắc có dụng ý của Mỹ và khối đồng minh.
47. Cái gọi là “đảng cộng sản Việt nam“, mà mỗi đảng viên của nó nói cho thật đúng nghĩa của chữ đó, thì chưa từng có một tên nào, từ đầu xỏ cho đến tay sai đáng được gọi là „cộng sản“ cả. Càng chẳng thể dùng đến danh từ thông dụng „cánh tả“, „thiên tả“ (cũng hàm ý có nguồn gốc „cộng sản“) hiện đang dùng tại châu Âu và phương Tây, cụ thể là tại Đức, là một trong những nơi sản sinh ra nó. Ở đây vẫn còn phải gọi chúng là „cộng sản“ bởi vì ngoài những lý do khác…, là nhất thiết phải giữ nguyên trạng những cấu thành quan trọng làm nên tội ác không thể xóa bỏ của một can phạm, tổ chức, đã và đang nhân danh lạm dụng trá hình hết thảy mọi danh tự khái niệm để gây tội ác (đi sâu vào vấn đề này chưa phải là mục đích của bài viết này, phần chi tiết hơn sẽ đề cập trong phần 2., sau bài này). Những gợi đề chi tiết đặc biệt có giá trị chủ đạo vạch mặt „đảng cộng sản Việt nam“, về thực chất chỉ là một tập đoàn Việt gian giả danh trá hình „cộng sản“, xin xem thêm các tác phẩm Sự tích con yêu râu xanh ở Việt Nam hoặc „Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, phần cập nhật mới nhất trong năm 2012 của chính tác giả Nhà báo Việt Thường, hoặc của các tác giả Việt Nam và thế giới nổi tiếng khác.
Về thực chất, đảng csvn, đại diện bởi tên đầu đảng xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh, cùng những đồng đảng đồng chí tay sai kế thừa hiện nay chỉ là một tập đoàn ô hợp vong bản, đã và đang dùng tất cả mọi phương tiện và con đường tội ác, tiếp tục phản bội Tổ quốc và dân tộc Việt Nam, chỉ để nhằm thỏa mãn cơn đói khát vô độ tham vọng quyền lực thống trị.
Từ ngày thành lập vào những năm 1930 đến nay là năm 2012, lịch sử tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam đồng nghĩa với chiều dài của sự bội phản và tất cả những gì là tội ác chồng chất của đảng csvn đối với đất nước, dân tộc Việt nam và nhân loại. Những di hại tổn thất do những tội ác của đcsvn gây ra là những vết thương vô cùng độc hại và nghiêm trọng. Nếu ngay bây giờ đây, hay trong một ngày mai… rất gần, cái tập đoàn phản dân bán nước này bị nhân dân Việt Nam vùng lên truy quét đập tan xóa sổ, thì những vết thương không thể chữa lành này chắc chắn sẽ còn mãi mãi để lại những hậu quả di chứng, tổn thất và mất mát vô cùng sâu đậm cho muôn đời thế hệ con cháu người Việt nam trong mai hậu. „Trúc Lam Sơn không ghi hết tội. Nước Đông Hải chẳng rửa sạch tanh hôi“: Sẽ là một phần lời kết án để đời mà muôn thế hệ người Việt Nam sẽ hằng ghi nhớ không quên, dành sẵn để kết án truy tố vĩnh viễn những tội ác tầy trời bất khả bôi xóa của đảng cộng sản vn và bè lũ tay sai.
48.Cái tập đoàn đcsvn và tay sai này đã tự nguyện làm thân khuyển mã, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng. Một điều mà đời đời những thế lực đế quốc xâm lăng Hán tộc từ phương Bắc, là những tổ tiên hiếu chiến của Mao Trạch Đông, chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ có thể thực hiện. Nhưng, những kẻ hậu duệ kế thừa hắn vẫn chưa một lần, và cũng không thể một lần muốn tự thức tỉnh, phá vỡ giấc mộng vô minh ngàn đời, đói khát quyền lực thống trị, viễn chinh xâm lăng là: dùng mọi cách, làm sao có thể thôn tính và nuốt trọn Việt Nam.
Từ ngày Hồ Chí Minh còn lang thang học cách đu giây quốc tế cộng sản Nga Tầu, đặc biệt là từ khi đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho Nga-xô và Mao Trạch Đông để leo lên chức „chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa“, cho đến ngày y „chính thức“ cầu viện Mao và đcs Tầu hậu thuẫn mọi phương tiện chiến tranh từ Tầu cộng, Nga-xô và khối cs để xâm lăng VNCH, thì cũng là lúc Hồ mở cửa, rước vào miền Bắc Việt Nam một tập đoàn quân gián điệp Tầu cộng trá hình hùng hậu, dưới hình thức „cố vấn, chuyên gia nước bạn Trung Quốc“. Đến ngày hôm nay, sau mấy chục năm bám rễ, đội quân gián điệp hùng hậu này đã len lỏi có mặt trong tất cả các vị trí then chốt trong bộ máy ngụy quyền của Hồ và đảng csvn. Chế độ ngụy quyền của đcsvn ngày hôm nay đã hoàn toàn lệ thuộc đảng cs Trung cộng như một thứ thái thú chư hầu, đến nỗi, mỗi lần chúng phải quyết định những chuyện gì quan trọng thì lũ đầu đảng đều phải „đi sứ“ sang chầu tận Bắc Kinh để thỉnh lệnh của các đồng chí „Tầu Thiên tử“.

49. Cũng chính đảng cộng sản đã bóc lột đất nước và nhân dân Việt Nam một cách tàn nhẫn thậm tệ. Đại đa số quần chúng nhân đân Việt Nam đã bị đảng cs cưỡng bức trấn lột mất hết tự do, tài sản quyền lợi, nhưng thay vào đó họ bị đcs che đậy ru ngủ bằng một rừng những danh từ xảo trá như „nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ“ v.v. Tất cả đại đa số khối quần chúng đã bị biến thành giai cấp vô sản thực sự, bị đẩy xuống đáy tầng của sự ngèo nàn bất công và lạc hậu. Việt Nam hôm nay đã tụt hậu một cách thê thảm xuống hàng cuối cùng của của tất cả những gì là giá trị có thể nêu danh. Tất cả những gì là quyền tự do căn bản của nhân dân đều đã bị đảng cs cướp sạch hoặc trà đạp một cách thô bạo trắng trợn. Tất cả hệ thống „Hiến pháp“, „hành pháp“ cùng vô số các „luật định“ của bộ máy nhà nước ngụy quyền cs đã bị đục khoét rỗng, nhào nặn bóp méo từ trong ra ngoài, đã được tô vẽ bôi hồng chỉ để thực thi có một mục đích duy nhất là che đậy, ngụy biện để hòng hợp pháp hóa duy trì áp đặt quyền lực độc tôn thống trị „bất di bất dịch“ của đảng csvn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Cái gọi là „quốc hội“ của bộ máy nhà nước bù nhìn cộng sản chỉ là những cái biển hiệu dùng để lòe bịp thế giới bên ngoài. Còn đối với nhân dân Việt Nam, nó là một liều thuốc cực kỳ độc hại, hơn thế nữa, trên thực tế, còn là những cái bẫy xập chết người.
50. Các đảng viên đảng cộng sản phải học thuộc lòng những „tư tưởng và hành động“ xảo trá của Hồ Chí Minh, phải chấp nhận nhiều sự thử thách mới được ra nhập vào đảng csvn, một lần ra nhập là phải chấp hành tuân thủ đến trọn đời. Một trong những vô số những cái „nhẹ như không“ mà các đảng viên cs đều phải thuộc làu là „không gia đình, không tổ quốc, không tôn giáo, và không dân tộc“. Các đảng viên cs phải tuân thủ tuyệt đối, không được từ nan chối bỏ bất kỳ nhiệm vụ gì mà đảng cs ra lệnh, nếu đảng cần, thì dù có phải bỏ lại hoặc bán rẻ tất cả: Gia đình, tổ quốc, tôn giáo và dân tộc. Vì đối với đcs, chỉ có một thứ có thể vượt lên trên hết thảy, đó là quyền lợi và sự sống còn của đảng csvn. Cho nên một trong những khẩu hiệu quen thuộc của Hồ Chí Minh, qua ngòi bút của Tố Hữu ( tức Tôn Thất Lành), một tên đầu xỏ rành nghề với các thủ đoạn cắt lưỡi tập đoàn trí nô của đcs, đã viết thành „thơ“ cho tất cả các đảng viên cs đều có thể học thuộc lòng như sau:
„Giết ! giết nữa bàn tay không phút nghỉ!
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cùng rập bước chung lòng, thờ Stalin bất diệt“.
Ngoài ra, các đảng viên đảng cs cũng còn phải „nhập tâm“ những xảo ngữ xú danh của những tay tổ gian hùng của quốc tế cộng sản, trong đó có Lê nin như: „Không có thể phản bội, không thể làm người cộng sản“, nói cách khác: “không là kẻ phản bội, không phải là người cộng sản“.
51. Ngay từ ngày thành lập, „Tổ Quốc“ của đảng cộng sản vn và những kẻ tay sai trung thành kế thừa sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã không phải là đất nước Việt Nam mà là thế giới đại đồng của quốc tế cộng sản, đại diện bởi „Nước Nga – Liên bang chxhcn xô viết“ (UdSSR), và nước Tầu đại Hán („Trung quốc“ – China). (UdSSR: một bóng ma đỏ vừa mới bị tan rã cách đây không lâu, nhưng chưa từng biến mất). „Gia đình“ của các đảng viên cs là tập thể đảng cộng sản “các nước cs xhcn anh em“. „Tôn giáo“ của chúng là mớ vọng tưởng tà ám về một lý tưởng cộng sản không tưởng. Điều đáng nói là Hồ và đảng cộng sản của y ngay từ đầu đã thừa biết rằng: lá cờ đảng cộng sản cùng tất cả những gì là „lý tưởng cộng sản“ chỉ là mảnh cờ hiệu trá hình, một thứ phương tiện che giấu mục đích không hơn không kém. Mặc dù biết rõ ngay từ đầu như vậy, nhưng, Hồ và đảng cs vẩn phải tiếp tục giương cao mãi lá cờ đỏ sao vàng và búa liềm đó ở tất cả mọi nơi chỗ có thể được, hòng có thể mãi tiếp tục lòe bịp khối đại quần chúng nhân dân, mà phần động số họ, theo sự ước lượng của bộ chính trị đảng csvn là chẳng còn một ai lại có thể lọt lưới sau những màn tầy não toàn diện toàn phần, dưới hình thức tập thể sâu rộng trong toàn dân do đảng cộng sản đã không ngừng thực thi từ mấy chục năm qua.
52.Sau khi khối cộng sản đông Âu, đại diện bởi Liên bang xô viết xụp đổ, đảng cộng sản Việt Nam như con rắn mất đầu. Để bằng mọi giá giữ vững cho được quyền lực thống trị, những kẻ kế thừa Hồ và tay sai đã phải gồng gánh sinh mệnh thoi thóp của đảng csvn giao hẳn cho đảng cs „Trung quốc“ định đoạt gánh vác, từ nay sốt xắng tình nguyện chỉ để xin làm một chân gác cửa cho „mẫu quốc thiên triều“.
53. Nhưng, kẻ định đoạt đường hướng tinh thần Việt gian cho đcsvn cùng những kẻ kế thừa nó tại Việt Nam, theo đó phải phục tùng vô điều kiện, trước sau như một vẫn là tên muôn năm chủ tịch đảng – „cha già“ xảo quyệt Hồ Chí Minh, một tên thợ đu dây rành nghề giữa Moskau và Bắc Kinh. Sau khi một đầu dây đã đứt, đặc biệt là sau cái chết của „lão cha ghẻ nói tiếng Nga“ thì đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn lại một đầu dây là „cái váy của người mẹ người Tầu“, lại cũng ghẻ nốt, để bám víu sống còn. Tất nhiên, bất kỳ sự o bế mời chào của các nhà „chính khách thực tiễn“ đến từ các nước phương Tây khác, kể cả „kẻ thù không đội trời chung“ là Mỹ, cũng đều làm cho đám hậu sinh đảng csvn tò mò hớn hở. Miễn làm sao quyền lực thống trị của đảng csvn vẫn còn được tại vị, và dường như đáng hí hửng hơn hết là chứng giả thông manh lọc lõi của họ, sẵn sàng nhẹ tay buông thả cho những thói lưu manh ngu học của chúng.
Để theo gương nước Nga "Liên bang xô viết“, qua sự truyền đạt "kinh nghiệm" có tầm nhìn xa xứng mặt gian hùng của các cố vấn đảng cộng sản Nga-xô, thì đảng csvn cùng bộ máy ngụy quyền bù nhìn của nó cũng phải nhất thiết tìm tất cả mọi phương cách để „chìm xuống“, trước khi nó bị lật chìm. “Hạ cánh an toàn“, hoặc „xuống ngựa an toàn“ là những cụm từ thường được tập đoàn trí nô cộng sản trá hình thậm thụt úp mở, tự đắc ám chỉ những thủ đoạn lưu manh hạ đẳng đã tân trang lại của đảng csvn.
Triet+Hanh.jpeg
Triet++TNH-1.jpeg
Beeindruckend und verhängnisvoll ist das Händeschütteln zwischen den beiden KP Genossen Nguyen Minh Triet und Thich Nhat Hanh im Jahr 2005 in Hanoi, nach dem Inhalte des Geschäftes mit dem „Opium des Volkes“ neu definiert und unter Dach und Fach waren.
*
Đầy ấn tượng và thật dính chết như keo sơn là cái bắt tay nặng nề đen tối ràng buộc bởi nghiệp chướng sâu dầy tội ác giữa hai đồng chí đảng viên cs Nguyễn Minh Triết và Thích Nhất Hạnh vào năm 2005 tại Hà Nội, sau khi phần nội dung kế hoạch liên minh ma quỷ sặc mùi „thuốc phiện của nhân dân“ đã được giàn xếp ngã ngũ.
54. Cùng một mục tiêu trên, đảng csvn, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và các đồng chí cs trá hình Phật giáo đang thi thố mọi thủ đoạn để thực thi cho bằng được nhiệm vụ chiến lược sống còn này. Và Thích Nhất Hạnh chưa một lần dừng lại trên hành trình tích chứa sâu dầy nghiệp nhân tội ác. Với sự trai lỳ khả ố rành nghề, y vẫn tiếp tục khai thác tối đa những nhãn hiệu xảo trá như „hòa bình, phản chiến“ mà đảng cs đang và đã từng tô vẽ cho đồng chí Thích Nhất Hạnh trong „phong trào phản chiến“ đầy tội ác năm nào. Sự tuyên truyền cò mồi trâng tráo của đảng csvn trong nước và hải ngoại, đã tạo nhiều cơ hội để những cơ sở trá hình Phật giáo của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài có thể giăng bẫy một cách tinh vi, lừa vào tròng vô số các Phật tử phương Tây nhẹ dạ.
„Lực lượng“ ngoại vi mê muội này sẽ trực thuộc „đội quân thứ ba“, được Thích Nhất Hạnh trù bị trước để cứu đảng csvn khi „tình thế nguy kịch“: Trong trường hợp quyền lực của đảng cs bị đe dọa rung chuyển tận gốc rễ. Khi đó, các tên cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo núp áo nhà sư có thể tung hoành tạo biến loạn, vừa ăn cướp la làng, vừa dùng chiêu bài „tôn giáo“ để lật ngược tình thế có lợi cho đảng csvn ngay trong lòng thế giới phương Tây. Những „Phật tử“ phương Tây mê muội này, theo tính toán của Thích Nhất Hạnh, khi có biến cố, họ sẽ sẵn sàng (?) một lần nữa xuống đường biểu tình „bảo vệ Phật Pháp“ thay cho đảng csvn… được nhờ, vì đảng cộng sản vn chỉ chờ có thế. Tức là bất kỳ sự phản kháng nào từ phía chính quyền các nước phương Tây sở tại, ra tay đối phó với các „lực lượng biểu tình Phật tử“ của Thích Nhất Hạnh, sẽ là cơ hội khốn nạn nhất để các cơ quan tuyên truyền của đảng csvn đồng loạt lợi dụng khai thác tối đa và „chỉ trích, lên án“ là „kỳ thị Phật giáo“.
Nhưng các „tăng sỹ“ trẻ gốc Á châu này dù trá hình với dáng vẻ cẩu thả một cách nham nhở hoặc ngây ngô cách nào thì trớ trêu thay lại càng lộ rõ hơn gấp ba gấp bẩy lần tâm địa tham sân si bất khả che giấu của chúng. Phần đông những „tăng sỹ“ trẻ này sau khi mới ra trường từ những „giảng đường Phật học“ của đảng csvn, nói cách khác là „ đại học an ninh, chuyên khoa tôn giáo“, đã được đảng cs và Thích Nhất Hạnh khai sinh vào đời bằng một rừng những xảo ngữ gượng ép như „tăng thân“, “làm mới đạo Bụt“.v.v. vừa mới ra khuôn, chưa phai mầu cờ đỏ, còn sắc cạnh như búa liềm, còn hơi hám khói thuốc phiện và nặng mùi „tôn giáo kiểu cộng sản xã hội chủ nghĩa“.
Các khái niệm, danh từ „Phật Giáo“ khiên cưỡng „hiện đại“ dòng „Tiếp hiện“ này đã tự nó tố cáo tội ác và tâm địa xảo quyệt của Thích Nhất Hạnh đã dùng tất cả mọi phương cách để khai thác pha chế, xào nấu các danh từ và Giáo Lý Phật Pháp theo công thức: „cộng sản + tôn giáo + thuốc phiện“. Vì mục đích những thực đơn đặt hàng của bộ chính trị đcsvn, trong „công cuộc làm mới Đạo Bụt“ nhiều bước nhiều chặng, kéo dài nhiều thập niên của đảng đánh độc thế hệ trẻ, chưa bao giờ là để dành cho đảng cs tự tiêu hóa những sản phẩm tôn giáo sống xượng do chính các đồng chí cs của họ chế biến ra. Vì „tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân“ nên thực đơn đó chỉ để đầu độc nhân dân, để nhân dân tự đầu độc, hoặc làm sao có thể ăn được nhiều, có thể say mà không chết ngay. Còn như trên đã dẫn, đảng cộng sản vn chưa từng thiếu thốn thức ăn tinh thần dành riêng cho các đồng chí đảng viên của họ. (Chuyên sâu về vấn đề này, phần chi tiết vạch mặt những xuyên tạc Giáo Lý Phật Pháp một cách tinh vi có hệ thống của đảng csvn, GHPGVN, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn, xin xem phần 2. , Nguyên bản tiếng Đức, sau bài viết này).
Quay trở lại với vụ „Tu viện Bát-Nhã“ tại Việt Nam vào năm 2005. Cùng với lực lượng an ninh tôn giáo nhà nước ngụy quyền csvn, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phải gấp rút giàn dựng một vở kịch khả ố vụng về bất cần khán giả. Miễn sao để Thích Nhất Hạnh cùng với đám trí ngủ hậu sinh nhẹ dạ người ngoại quốc đã bị xỏ mũi, có thể xênh xang cùng đảng csvn trình diễn một vở kịch xảo trá: „Tự do tôn giáo ở Việt Nam“, tạo trợ lực đáng kể cho đảng cs vào giờ chót, có thể vượt rào cấm vận ra nhập WTO.
Sau màn „đụng độ tranh chấp dân sự“ đầy kịch tính được giới trí nô của đảng cs trong nước và hải ngoại làm rùm beng đánh lạc hướng, là màn „khổ nhục kế“ tiếp theo, Thích Nhất Hạnh đã nhập ngay một vai mới là „nạn nhân“, còn gọi là „dân oan“ của đảng. Theo kịch bản, thì số theo Thích Nhất Hạnh về Việt Nam khoảng 100 tên kể cả ngoại quốc để „tạo ấn tượng, trình diễn thời trang và đội hình“ bằng áo nâu nón lá trên đường phố Hà Nội, sau màn „va chạm“ ban đầu đã tạm hoàn thành nhiệm vụ và bị „trục xuất“ về lại châu Âu. Nhưng tập đoàn của Thích Nhất Hạnh được đảng cs bổ xung thay thế ngay bằng gần 400 tên cs trá hình Phật giáo khác nhập cuộc.Để cho đúng kịch bản, chúng cùng đảng cs diễn nốt vở kịch. Hết „màn trời chiếu đất“, đến bị „xã hội đen bêu riếu nhục hạ thảm thương“, rồi sau chót là màn kết quan trọng nhất: Số cán bộ an ninh tôn giáo trá hình này được đảng cs đem cài cắm tại nước ngoài bằng hình thức quen thuộc là bị „trục xuất“ khỏi Việt Nam để xin tỵ nạn…đểu tại nước ngoài. Rất đông trong số này đến Đức trong tư thế trá hình Phật giáo giả tỵ nạn, tại một trong những cơ sở lớn nhất của Thích Nhất Hạnh tại Đức, đó là Waldbröl, một thành phố nhỏ gần Köln, miền Trung Tây-Đức. Trước đó cơ sở này từng là một học viện quân sự cũ không còn sử dụng (của quân đội Phòng vệ – Liên bang Đức), được đảng csvn và Thích Nhất Hạnh qua tay lũ cs nằm vùng đứng tên mua lại, rồi cải trang thành „ Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật giáo ứng dụng châu Âu“ („EIAB“- GmbH“). Số còn lại cũng lần lượt được đảng cs và Thích Nhất Hạnh cho đi „tỵ nạn“ tại các nước phương Tây khác.
Để xuất phát từ đây (những cơ sở của Thích Nhất Hạnh, GHPGVN, GHPGVNTN cùng các tổ chức ngoại vi tay sai), các cán bộ cs trá hình Phật giáo của Thích Nhất Hạnh đã và đang móc nối hoạt động tay trong tay khăng khít với „đảng Việt Tân“, một tổ chức đã bị lật mặt là một công cụ cò mồi trá hình của công an ngụy quyền Việt gian cộng sản. Đang nói trong phạm vi ở đây là, về các thủ đoạn chiến thuật, chúng tìm mọi cách tập hợp, đoàn ngũ hóa, lừa lái khống chế những người Việt Nam đặc biệt là Tây phương còn mê muội, để chuẩn bị một thứ „lực lượng trù bị“ cho những cuộc xuống đường tuần hành, dùng chiêu bài "tôn giáo", biểu tình với quy mô lớn ngay tại phương Tây, có lợi cho đảng csvn sau này.
tnh+triet+langmai.jpeg
Nichts ist zutreffender als die beiden Fotokommentare aus einer vietn. Web-Site:
1. Linkes Bild:„KP Kadermönch Thich Phap An: 3. von links, (Geschäftsführer des EIAB GmbH in Waldbröl, DE) gemeinsam mit Thich Nhat Hanh und Genossen beim vietn. KP Vorsitzenden Nguyen Minh Triet zu Besuch“.
Hình bên trái:Tên cán bộ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo Thích Pháp Ấn,( thứ 3 từ trái sang) chủ tịch cái gọi là „Công ty trách nhiệm hữu hạn – Trung tâm Phật giáo ứng dụng Châu Âu“tại Waldbröl – CHLB Đức, cùng Thích Nhất Hạnh và đồng bọn gặp gỡ tên đầu lãnh Đảng cộng sản vn Nguyễn Minh Triết.“

tnh+giap.jpeg
Khó có lời bình luận ảnh nào chính xác hơn lời bình luận trên một trang website tiếng Việt khi chú thích bức ảnh bên phải trên đây:
2. Rechtes Bild: „Thich Nhat Hanh und Frau Genossin Florette Cao Ngoc Phuong bei dem General der KP- Volksbefreiungsarmee Vo Nguyen Giap und Frau zu Besuch. Zwei große Führer der zwei Kampffronten von der gleichen vietn. KP treffen sich wieder. Der eine tötet mit dem Gewehr, der andere mit dem „Opium des Volkes“. Das Ergebnis lässt sich sehen: Der eine zählt die Leichen der andere das Geld.“.
Hình bên phải: „Thích Nhất Hạnh cùng người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng thăm vợ chồng tên đại Việt gian Võ Nguyên Giáp. Những tên đại gian hùng của „hai mặt trận“, hai mũi giáp công“ đều cùng của gian đảng Việt-gian cộng-sản. Một tên bắn giết bắng súng đạn, một tên giết người bằng „thuốc phiện của nhân dân“. Kết quả thật đã quá rõ ràng để chúng không còn có thể chối tội ác: Một tên đếm xác chết, một tên đếm tiền, đang chất chứa thêm cao đầy tài khoản tội ác của đảng csvn.

Thich+Nhat+Hanh+macht+Werbung+f%C3%BCr+die+Kommunistischen+Partei++in++Vietnam.jpg
Não trạng của Thích Nhất Hạnh cũng như tất cả các loại Thích trá hình của đảng cộng sản vn như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ đều có chung một cơn mê tưởng: Một lần khoác bộ gấm bào „Quốc Sư“ („Thầy của các vị Thầy“), dù chỉ là vài giờ diện thử trong một màn kịch hóa trang. Vì sau đó, vẫn trong năm 2005 màn tổng diễn tập cho vở kịch „Biến cố Tu viện Bát Nhã“ do Thích Nhất Hạnh và an ninh nhà nước ngụy quyền Việt gian cs cùng chung giàn dựng đã đến gần. Vây quanh bởi một đoàn những tên an ninh vgcs trá hình trong lớp cà sa tăng sỹ Phật giáo theo hộ tống, Thích Nhất Hạnh & đồng bọn xênh xang rước đám diễu hành trên đường phố Hà Nội, và không hề bỏ lỡ một lịch hẹn chụp hình nào của các phó nháy chuyên nghiệp an ninh vgcs. Vì đặc biệt là trong năm 2005 này, đúng là lúc đảng csvn đang cần cần phải lôi cái bảng hiệu trá hình „Tự do tôn giáo tại Việt Nam“ ra tô vẽ lại đánh bóng „sạch đẹp“ hơn bao giờ hết, mong nhờ tấm bảng hiệu này đối phó với sự cấm vận của Mỹ và phương Tây, hòng qua đó có thể lòe bịp thế giới tự do, ra nhập WTO. Trong vụ „Tu viện Bát Nhã“, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn thủ vai „nạn nhân“ của đảng cs vn, khoảng 400 tên cs trá hình Phật giáo được an ninh vgcs „sách nhiễu“ và „trục xuất“ khỏi Việt Nam. Tại nước ngoài, Thích Nhất Hạnh và đcsvn lừa lái, móc nối “xin tỵ nạn“ cho chúng dưới danh nghĩa „tín đồ Phật giáo bị đàn áp“. Để thực thi kế sách, cả bộ máy tuyên truyền văn bút trí nô của đảng csvn trong và ngoài nước đồng loạt lên tiếng, thực hiện đúng chức năng tay sai cò mồi quảng bá cho màn kịch này. Để cùng một lúc khoảng 400 tên cán cs trá hình Phật giáo được đảng cs và Thích Nhất Hạnh „hợp thức hóa“ tư cách giả „tỵ nạn“ của chúng tại nước ngoài. „Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật giáo ứng dụng châu Âu“– („EIAB-GmbH“) trá hình của Thích Nhất Hạnh tại Waldbröl – miền Trung Tây-Đức, là một trong những địa điểm dừng chân ẩn náu đầu tiên của chúng.
nhudien.jpeg
Thich Nhu Dien, oberster Vertreter der UBCV bzw. CVBK/ KVVBK in Deutschland, „Vien Giac Pagode Hannover“.
Thích Như Điển, tên đại diện của GHPGVNTN tại „Chùa Viên Giác" – Hannover, CHLB Đức.
55. Như tất cả những chi nhánh khác tại nước ngoài, thì „Chùa Viên Giác“ tại Hannover nằm về phía Tây-Bắc CHLB Đức cũng là một trong cơ sở quan trọng của GHPGVNTN. „Chùa“ này được đại diện bởi tên Thích Như Điển. Như trên đã dẫn, hệ thống „chùa tự“ đang càng ngày được mở rộng và có mặt khắp nước Đức, về hình thức ngụy trang đa phần đều trực thuộc GHPGVNTN, nằm trong sự điều khiển của tên Thích Quảng Độ, nhưng về thực chất, đang là những cơ sở trá hình của GHPGVN tại nước ngoài, dành cho các cán bộ cộng sản giả danh đội lốt tôn giáo từ trong nước, từng bước sang thay thế và chiếm giữ.
Về hình thức hay bản chất, cái gọi là „GHPGVN“ („giáo hội quốc doanh“) và „GHPGVNTN“ cả hai đều nằm dưới sự khiển dụng trực tiếp của đảng csvn, cho nên, nó là hai cái thòng lọng được thắt bởi một sợi giây duy nhất. Một cái thòng lọng thì đã được cái gọi là „Ban tôn giáo chính phủ“ của đcsvn tròng lên cổ các tín đồ Phật giáo Việt Nam trong nước một cách oan nghiệt. Cái còn lại thì đảng csvn đã tìm đủ cách mà không cách nào với tới được khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian CS tại hải ngoại cho được. Cho nên, chỗ nào có đám cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo này xuất hiện là ở đó lại có những màn dây rợ lòng thòng thê thảm. Thường thi thố giọng lưỡi của thập loại Ma tâm, cũng như có thể đồng loạt giả mắc chứng á khẩu trơ trẽn, bỉ ổi, là những đặc điểm chung của lũ cs trá hình Phật giáo này khi được hỏi đến, chúng đang tìm ai với một mớ thòng lọng trên vai như thế.
Các cơ sở trá hình „chùa tự“ này, trong đó các cơ sở của Thích Nhất Hạnh đã và đang được gấp rút tạo dựng cải trang một cách tương xứng, để có thể dần biến thành những nơi chứa chấp ẩn náu trù bị của một số đông các cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo dành cho một tình huống „đặc biệt nghiêm trọng“, đó là ngày tàn xụp đổ của đảng Việt-gian cộng sản tại Việt Nam. Như trên đã dẫn, ngay trong hiện tại, xét về mặt chiến lược, đảng csvn đang tìm mọi phương cách bôi xóa chối bỏ bản mặt thật tội ác, để làm sao có thể dần dần „biến thoái“ và „chìm lặn xuống“. Chúng đang giàn dựng một cách xảo trá, hòng đánh tráo thay thế vào „chỗ bỏ trống“, là một hệ thống „dân chủ, đa nguyên đa đảng“ bù nhìn và trá hình càng ngày càng tinh vi hơn. Trong „tình hình xấu“ các tên cộng sản trá hình Phật giáo núp áo tu hành sẽ ẩn náu tại các cơ sở trá hình tôn giáo này để chờ thời. Khi một thể chế „dân chủ đa đảng“ mới được thiết lập, chúng sẽ từ đó lợi dụng tối đa các định chế hiến pháp „dân chủ“, dùng chiêu bài „tôn giáo, Pháp nạn“ để đánh lạc hướng và xách động quần chúng, tạo các cuộc biến loạn, lật ngược tình thế cướp lại chính quyền. Dành cho mục đích này, đảng csvn đã và đang đầu tư một cách ồ ạt, huy động một lượng ngân khoản rất lớn, trong nước cũng như hải ngoại cho các công trình kiến thiết „tôn giáo, Phật giáo“. Trước hết để gây ảnh hưởng thanh thế quyền lực, thu lợi trước mắt và cũng để rửa tiền bằng những tạo dựng đầu tư (kiểu… dã tràng) dưới dạng những công trình bất động sản.
Ở đây (tại CHLB Đức nói riêng) phải kể đến tất cả các cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài (ở Đức là „EIAB – GmbH“ tại Waldbröl), cùng tất cả các „chùa tự“ trá hình trực thuộc GHPGVN do các tên cộng sản trá hình từ trong nước mới sang, manh nha tạo dựng như „trung tâm văn hóa Phật giáo Franken, Nürnberg“ tức „chùa Vĩnh Nghiêm“, của tên cs Thích Trí Dũng (trực thuộc „Tổ đình chùa Vĩnh Nghiêm“ – Sài gòn) và „chùa Phổ Đà“, tại Đông-Berlin v.v… Kế đến là toàn bộ hệ thống „chùa tự“ trực thuộc GHPGVNTN cùng hệ thống tay sai là các miền „Gia đình Phật tử Việt Nam“, các „khuôn hội“, các „lực lượng“, các „ban hộ niệm“ kèm theo, do tên Thích Như Điển, Thích Quảng Độ, Võ Văn Ái làm „đầu lãnh tinh thần“ như: „Chùa Viên Giác“ tại Hannover, „Linh Thứu“ – Tây Berlin, „Phật Huệ“, „Phật Đạo“ tại Frankfurt, „Tâm Giác“, „Phổ Bảo“ tại München và vô số các chùa tự khác như „Viên Đức“ tại Ravensburg .v.v. . Sau hết là vô số những „hội chân rết“ theo công thức „đoàn ngũ hóa“ để khống chế lợi dụng, như „hội chuyên gia“,“hội sinh viên“ „đồng hương“, „thân hữu“, „những người bạn“, „doanh nghiệp“,“văn nghệ“, „lớp khiêu vũ“ và … cả „lớp tiếng Việt“ v.v.
56. Hiện nay cả hai tên Thích Nhất Hạnh và Thích Như Điển đều hoạt động tay trong tay với „Việt Tân“, một công cụ trá hình của công an Việt gian cộng sản. Các thành phần đầu xỏ và lũ tay sai nòng cốt của đảng này là những tên an ninh chuyên nghiệp, điệp báo nằm vùng lâu năm của đảng Việt gian cs. Cái gọi là „đảng chính trị đối lập“ („ViệtTân“) cò mồi này chính thức khai trương ra mắt ngày 19.09. 2004 tại Berlin, thường được an ninh nhà nước ngụy quyền việt gian cs ngụy trang tạo dựng thanh thế bằng những thủ đoạn khổ nhục kế rẻ tiền, là: dùng chính các báo „công an nhân dân“ của đảng csvn trong nước và giới văn bút trí nô của chúng tại hải ngoại „chỉ trích“ hoặc khoác cho những mặt nạ trá hình hai mặt như „chống cộng, phản động“, hoặc „dân chủ, canh tân“ v.v. Chúng thường rêu rao những bảng hiệu trá hình, là đứng về phía người Việt Nam tỵ nạn chế độ Việt gian cs, nhưng về thực chất chỉ để giăng bẫy đánh lừa và tìm cách khống chế khối đồng bào Việt nam Quốc Gia tại hải ngoại.
Nước Đức thực sự là „miền đất hứa“ và là một trong những „sân sau yên tĩnh“ cho những mưu ma chước quỷ của đảng csvn. Vì tại đây, bên cạnh những lý do khác, là do có một phần khá đông số người Việt Nam sinh sống tại phía Đông của nước Đức. Họ từng là những người được nhà nước ngụy quyền Việt gian cs „ban phát ân huệ“ bằng cách đẩy đi „lao động hợp tác“, để bán sức lao động, thu lợi cho đảng csvn tại „Cộng hòa Dân chủ Đức“, tức Đông-Đức cũ („GDR“ hoặc „DDR“). Họ chịu nhiều ảnh hưởng và sự khống chế trực tiếp của „đại sứ quán“ Việt gian CS tại Đông Đức, do vậy, cũng theo sự tính toán chắc mẩm của đảng csvn, là sẽ còn có thể lợi dụng tối đa phần đông khối người này. Vì trong số những „con người máy xhcn“ đã bị tẩy não toàn phần này, vẫn có thể sẽ còn xót lại đâu đó những „đoạn rễ cộng sản“ đứt thối, chưa bị cơ thể đào thải.
57. Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Thích Nhất Hạnh và tập đoàn GHPGVNTN vẫn đang tìm mọi cách làm biến tướng một cách có hệ thống các nền tảng giáo lý Phật giáo, vẫn tiếp tục chối bỏ tội ác, không ngừng xuyên tạc bôi xóa một cách đê tiện các chứng tích, dữ kiện liên quan đến các giai đoạn lịch sử cận đại và đương đại Việt Nam, trong đó có cuộc „chiến tranh Việt Nam“. Đặc biệt là các chi tiết liên quan tới tôn giáo, Đạo Phật nói chung và GHPGVN, GHPGVNTN nói riêng, được đảng cộng sản Việt Nam khiển dụng làm công cụ gây tội ác, cũng là bình phong che đậy tội ác, củng cố quyền lực, đều bị đảng cs vn bôi xóa, đổi trắng thay đen, làm thất thoát, cắt xén và xuyên tạc, bất chấp mọi di chứng nguy hại và hậu quả lịch sử cho dân tộc Việt Nam trong đương đại và tương lai.
58. Vì khuôn khổ bài viết nguyên ngữ tiếng Đức, dành cho khối đọc giả phương Tây, nói tiếng Đức, nên trước hết chỉ đơn cử ở đây những ví dụ nhỏ sơ lược liên quan tới tên Thích Như Điển và GHPGVNTN tại Đức. Với một hậu thuẫn đông đảo các giới văn bút trí nô tay sai của đảng cs vn tại Đức, một trong số đó có những tên đã có học vị tiến sỹ, giáo sư, ví dụ như Thái Kim Lan (môn Triết học, trường đại học tổng hợp Ludwig Maximilian Universität „LMU – München“), đã là những nền tảng thuận lợi để Thích Như Điển cùng các „đệ tử“ của y „chế tác“ các „luận án tiến sỹ“. Trong đó, phần „sao y bản chính“ đã trở thành một thông lệ, cũng là cơ hội mà các vị „cử nhân“ tương lai của GHPGVNTN không thể bỏ qua. Đặc biệt là những chi tiết quan trọng về giai đoạn lịch sử cận đại đầy tội ác của GHPGVNTN, cùng sự liên kết „như hai mà một“ của nó với đảng cộng sản vn, đã „được“ các „tiến sỹ“ này chép y chang như những „chủ trương đường lối“ của…đảng csvn „chỉ đạo“ GHPGVNTN từ mấy chục năm qua.
59. Một trong rất nhiều trường hợp được thống kê tường tận, sẽ đơn cử ở đây một trường hợp cụ thể: Tên Thích Hạnh Giới (tục danh Lộc Hồ, sinh ngày 01.01.1971 tại Sài gòn, đệ tử của tên Thích Như Điển) kết thúc chương trình đại học trường Đại học Hannover năm 2003, tại chuyên khoa „Khoa học -xã hội và -tâm linh“, ở bộ môn „Phật học – Triết học“, làm „Luận án tiến sỹ – triết học“ với đề tài:
Tạm dịch: “Đạo Phật Việt Nam tại USA – Một nền tảng của đức tin trên quê hương mới“. (USA: „Hiệp chủng quốc“ hoặc „Liên bang quốc gia Mỹ).
Trong „luận án“ này: nguyên bản tiếng Đức: („Der vietnamesischeBuddhismus in den USA – Der Stellenwert des Glaubens in derneuen Heimat“),
người đọc sẽ thường gặp lại giọng lưỡi xảo trá quen thuộc của những tên cs trá hình Phật giáo GHPGVNTN, y chang các giọng điệu tuyên truyền bôi xóa lịch sử một cách trơ tráo của đảng cs vn đã từng lặp lại từ hàng chục năm nay. Nào là „ Pháp nạn“, nào là „đàn áp tôn giáo bởi chính quyền Ngô Đình Diệm“ v.v.
60. Một ví dụ khác: „Nhà sử học“ hoặc „giáo sư Nguyễn Lang“ (!) là một trong những cái mặt nạ tùy thời của tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo Thích Nhất Hạnh (tức Nguyễn Xuân Bảo). Dù cải trang dưới cái mặt nạ „Nguyễn Lang“ hay trá hình trong lớp áo cà sa Phật giáo, y tha hồ „chế tác“ các „tác phẩm văn học“ và „lịch sử Phật giáo Việt Nam“, bằng cách cho tất cả vào khuôn đúc của các nghị quyết đảng csvn để đúc chế lại, cái nào khó nấu chẩy thì mài dũa, đập vỡ hoặc bẻ cong.
„Làm mới Đạo Bụt“, hoặc „dòng tu tiếp hiện“ chỉ là một trong vô số những „xảo thuật tái chế“ đó, tạo cho đảng cộng sản vn có thêm nhiều cơ hội của những vi khuẩn tâm linh bệnh hoạn, đeo đẳng ăn bám Phật giáo, mãi sống còn để đầy đọa rút máu tàn phá cơ thể dân tộc Việt Nam. Vì sức ỳ nội tại đã quá tải, đảng csvn không thể chấp nhận Phật giáo „đi chệch hướng cộng sản xhcn“. Do vậy Thích Nhất Hạnh, đảng csvn, GHPGVNTN cùng những kẻ không thể đoạn tuyệt thứ xảo nghiệp thích trí trá, đã phải thường lăng xăng tranh giành lấy bất cứ cơ hội nào để tuyên xướng, ban phát ân huệ và quảng bá phô trương những khẩu hiệu „hoành tráng và vĩ đại“ có thể cảm động chết người, như „Phật giáo đồng hành cùng dân tộc“, „mái chùa che chở hồn dân tộc“, „Phật giáo là dân tộc“, để lòe bịp nhân dân. Như một thứ bùa chú mê hoặc không thể thiếu của những kẻ cai ngục thuộc giai cấp thống trị giả nhân giả nghĩa nhưng có quyền ăn nói.
Hậu quả là qua sự „chế tác“ của đám văn bút trí nô trá hình trong các nhãn hiệu „giáo sư“, „nhà sử học“, „nhà văn hóa“… kiểu Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái…, những giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam đã bị biến thoái nghiêm trọng, tùy theo những định hướng giai đoạn của đảng cs vn. Và nguy hại hơn cả là mục đích của những nỗ lực sửa sai bóp méo lịch sử này chính là: Làm sao để những vệt máu tội ác không gì lau rửa được của đảng csvn, Thích Nhất Hạnh, GHPGVNTN và tay sai được che đậy khỏa lấp đi phần nào.
NhatHanh6.JPGtnh-2.jpegtnh-1.jpeg
Bức cận ảnh của „Nguyễn Xuân Bảo ở độ tuổi 30, đầu tóc xanh rờn“ đã tự nó đấu tố cái chi tiết „đi tu từ năm 16 tuổi…“ (mười sáu tuổi) trong „tiểu sử lý lịch“ của Thích Nhất Hạnh và cũng khai ra luôn ai là tác giả của „tiểu sử lý lịch“ này. Phần chi tiết xin xem phần 2 sau bài viết này.
61. Cái nhãn hiệu „Thiền sư“ (!) của Thích Nhất Hạnh cũng như vô số những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo khác, xét về những thủ đoạn thực thi chẳng khác gì cách làm của Mao Trạch Đông và đảng cs „Trung quốc“ trong cái gọi là „cách mạng văn hóa“(!) qua bàn tay của đảng cs vn. Ngay từ những năm 1962, khi Thích Nhất Hạnh thay mặt đảng cs vn, trá hình trong lớp áo cà sa „tăng sỹ“ Phật giáo GHPGVNTN đi làm nhiệm vụ „ngoại giao tôn giáo vận“ tại nước ngoài, thì các „đồng chí chuyên trách“ của GHPGVNTN đã chọn ngay cho y một cái tước hiệu „Thiền sư“ vang như chuông, rất „thời thượng“. Loại bỏ ngay từ đầu, và „cách mạng văn hóa“ luôn cách chọn danh xưng khả xứng, cẩn trọng khiêm tốn tối thiểu, ví dụ như „Đại đức“, „chú tiểu“, „Tỳ khưu“, „Sadi“, „Sa môn“ v.v… có vẻ „quê mùa“ dành cho một người „nương náu cửa Phật“ ở độ tuổi của hắn tại Việt Nam vào thời điểm đó.
Dùng „danh xưng khả xứng“ chỉ là một phần nhỏ nhưng bất khả phân, những tinh túy của Giới, Luật trong Giáo Pháp của Đức Phật do Chư Tổ sư nhiều đời hằng truyền thừa, đã trở thành truyền thống trân quý dành cho giới tăng ni, tu sỹ Phật giáo, xuất gia hoặc tại gia khắp nơi trên thế giới. Nhưng đảng cs vn và Thích Nhất Hạnh suy luận cách khác: Nếu „tấm áo cà sa không làm nên một tăng sỹ, vậy thêm cái danh hiệu chắc phải thừa đủ“. Thật là cay đắng cho một số đông giới quần chúng ưa chuộng cầu vọng Phật giáo tại phương Tây, đã từng, và vẫn còn nhẹ dạ cho tới tận hôm nay, vẫn chưa thể hiểu „vì nguyên cớ gì, cách đây trên 2500 năm, Đức Phật Thế Tôn đã không mang cái danh hiệu „Thiền sư“ kêu như chuông kia, đi „đăng ký bản quyền“ tại một sở phát minh sáng chế nào đó cho yên chuyện“.
Như đã dẫn ở trên, bằng những thủ đoạn thâm nhập, đánh lạc hướng và lèo lái một cách có hệ thống những nguồn tin của giới truyền thông, học thuật… ngay trong lòng thế giới phương Tây, đảng cs vn qua tay Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phần nào từng tạo ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch của một phần không nhỏ khối quần chúng tại Phương Tây về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua.
62. Cũng như cụm từ „Kommunismus“ đã dẫn ở trên, „Đạo Bụt dấn thân“, sau này được „biến thoái“ thành „đạo Bụt nhập thế“ (!). “Engaged Buddhism“ hoặc „Engagierte Buddhismus, xuất phát bởi cụm từ gốc (ở tiếng Đức là „Engagement“ : „Trách nhiệm“, „nhiệt tình“ „dấn thân“, „hành động“…vì một „lý tưởng nào đó“). Cụm từ này đã được giọng lưỡi của Thích Nhất Hạnh và GHPGVNTN khai thác lợi dụng tối đa, từ đầu những năm 1960 cho đến tận ngày hôm nay.
Cũng như vô số các „phong trào“ trá hình khác của GHPGVNTN và „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“ vào những năm 1963 và những năm sau đó, cái gọi là „đạo Bụt dấn thân“ do tên Thích Nhất Hạnh tái chế (vào thời điểm này còn là „Đạo Phật dấn thân“) thực sự là một thứ khẩu hiệu tuyên truyền tẩy não lợi hại của đảng cs vn trên „mặt trận ngoại-giao – tôn-giáo“, một trong các „mặt trận“ của đảng cs vn trong cuộc chiến xâm lăng VNCH. Món bả độc này được pha trộn kỹ trong từng xuất cơm chay tươi sắc mầu „Phật giáo“ của các miền „gia đình Phật tử Việt Nam“, dùng làm động cơ để đoàn ngũ hóa, khiển dụng các tầng lớp thanh thiếu niên Phật tử háo hức nhẹ dạ, tập hợp lực lượng trù bị này cho những cuộc xuống đường biểu tình, gây rối phản loạn của những „lực lượng PG tranh thủ cách mạng“, „Phật giáo tranh đấu, bảo vệ Pháp nạn“,“chiến đoàn Phật tử Trần Đại Thức“ v.v., đánh phá chính quyền trung ương VNCH, do những tên cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ… xách động.
Theo hoạch định của „bộ chính trị“ đảng cs vn tại Hà nội, để có một lực lượng trù bị dồi dào theo sách lược „biển người“ (do các „cố vấn“ đảng cs Tầu „chỉ đạo“, gọi là „chiến tranh nhân dân“), hậu thuẫn cho „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ trong giai đoạn đó, thì sự cần thiết phải hình thành các hội đoàn, „đảng phái chính trị“ trá hình để có thêm nhiều lá phiếu „hợp pháp“, làm sao che đậy được dã tâm xâm lược của đảng cs vn, có ảnh hưởng càng mạnh càng tốt, để khống chế trực tiếp nghị trường thượng hạ viện Việt Nam Cộng Hòa là một thủ đoạn chước kế không thể thiếu.
Nhưng do áp lực căm thù, khát vọng xâm lược dồn nén, „bộ chính trị“ đảng cộng sản vn đành phải tự tay cắt bớt giây thần kinh xấu hổ của chính mình và các đồng chí cs trá hình Phật giáo trước khi đẩy chúng vào „mặt trận“ này. Cho nên sự trơ trẽn bỉ ổi hết còn biết xấu hổ đã trở thành một dị chứng do khuyết tật giải phẫu, không thể và bất cần giấu diếm của đảng cs vn. Khi chúng muốn qua tay GHPGVNTN thể hiện mối „quan tâm Phật Pháp thế quyền“ tại chính trường Việt Nam Cộng Hòa, mà không quên nhấn mạnh „động cơ chính trị“ của một „đảng chính trị Phật giáo“ do chúng giàn dựng đề cử. „Đảng chính trị Phật giáo“ này đã được giàn dựng để ra mắt, đại diện bởi Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh ở bề nổi, và do tên cs trá hình Phật giáo Thích Trí Quang „chỉ đạo“. Cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“ này, tất nhiên, chỉ là xảo kế che đậy dã tâm, nằm trong chương trình xâm lăng của đảng cộng sản Bắc- Việt tại Hà Nội.
Sau đây là một trong những bằng chứng cụ thể, nói về thời điểm manh nha hình thành của cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“, một trong nhữngphiên bản đầu tiên của cái gọi là „Đạo Bụt dấn thân“ hành động, vì một lý tưởng…cộng sản trá hình, do Thích Nhất Hạnh là „chế tác giả“ vào những năm 1966 – 1969:
Theo nguồn: Nguyên ngữ tiếng Anh: King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.
Buddhist+political+party.PNG
triquang+hogiay+thien+Minh.jpeg
Thich Ho Giac, Thich Thien Minh und Thich Tri Quang, die KP Agenten im Mönchsgewand, bei der Bekanntmachung der Parteigründung ihrer „Buddhistischen Politischen Partei –Vietnamese Buddhist Force“
*
(Trong ành: Hàng trước, từ trái sang) Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh, và Thích Trí Quang, những tên cộng sản trá hình trong lớp áo tăng sỹ Phật giáo trong lễ ra mắt thành lập đảng: „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam – Vietnamese Buddhist Force“.
Bởi vậy, xét về thực chất, cũng như tất cả các tôn giáo và truyền thống tâm linh khác tại Việt Nam bị đảng cs vn lợi dụng, „đạo Bụt dấn thân“ chỉ là cái „mặt nạ mới“ của một trong vô số những thủ đoạn cũ được tân trang, hòng làm biến thoái „Đạo Phật“ để tiếp tục khiển dụng. Bất kể được che đậy bằng những mặt nạ tinh vi như thế nào, cũng không thể che giấu được một sự thật là: Chừng nào đảng cs vn còn chưa bị đập tan, thì chừng đó các tôn giáo (ở đây là „Đạo Phật“) tại Việt Nam, hay những đại diện trá hình của nó tại nước ngoài, còn là một thứ công cụ ngụy trang hữu hiệu, che chắn bảo vệ quyền lực của đảng cộng sản vn.
„Đạo“ có thể „làm“, có thể „chỉ“ chẳng phải „Đạo“ chân thật! Vậy „đạo Bụt“ („của tên Thích Nhất Hạnh“) là một thứ không những có thể „làm“, mà hơn thế, hắn và đảng cs vn cứ thả sức tùy tiện „làm mới“ được, là cái gì ? Vậy nên những cái dù „được“ hay „bị làm mới“ kia, rõ ràng là một thứ „đạo đức cách mạng“ trá hình của đảng cộng sản vn! Vì đảng cs vn hiện nay vẫn đang từng ngày cưỡng bức „chỉ đạo“ toàn dân chui vào cũi „mặt trận tổ quốc“, trong đó có GHPGVN trong nước, và, qua „viện hóa đạo“ của GHPGVNTN trá hình tại hải ngoại. Vì thế, đảng csvn „chỉ đạo“ „viện hóa đạo“ GHPGVNTN bao nhiêu, càng chất chứa thêm nhiều tội ác bấy nhiêu. Trá hình tà đạo tội ác đã không thể rửa. Trá hình Phật giáo để gây tội ác thì dù vô lượng kiếp, trời, đất, thiên, nhân bất khả dung.

63. Vì cưỡng lệnh đảng, tên Thích Thiện Minh đã bị các đồng chí của đảng cs trừng phạt loại bỏ, bị tra tấn đến chết trong tù năm 1978. Thích Hộ Giác và Thích Nhất Hạnh vẫn ngoan cố đeo đuổi sự nghiệp Việt gian của đảng cộng sản Việt Nam, là tiếp tục giăng bẫy phát triển „đường lối chính trị“ của „đảng chính trị Phật giáo“ này tại phương Tây. Cùng với người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, Thích Nhất Hạnh đã trở thành giới „lãnh đạo“ của đảng này tại phương Tây, nhưng dưới cái tên trá hình trái khoáy, khiên cưỡng: „Đạo Bụt nhập thế “. Nhưng với thế giới Phương Tây tự do thì bất kỳ thứ gì, một cơ hội để trở thành „hợp thời“, kể cả những món bả độc cộng sản mầu mè trá hình Phật giáo trên đây, cũng chỉ là vấn đề thời gian.

Những toan tính thủ đoạn của đảng cộng sản vn không hề dừng lại; „Đạo Bụt nhập thế“ sẽ rất „thức thời“, và hợp với thế giới phương Tây tự do, hiện đại“. Nên đảng csvn vẫn có thể đỡ lưng Thích Nhất Hạnh tiếp tục lừa đảo rao bán Phật giáo, và đám quần chúng Phương Tây cầu vọng Phật giáo nhiệt thành nhưng mê muội kia, sẽ chẳng có thể biết được một thứ gì khác, chừng nào họ còn chưa biết, hoặc không muốn biết sự thật, khác với những gì họ bị tẩy não về cuộc chiến tranh tại Việt Nam vừa qua. Trước hết cứ bị lừa vào tròng đã, còn lại bất cần là lý luận của những kẻ hết còn biết gì là trơ trẽn nói trên. Chỉ có đảng cs vn tin rằng các vệt máu tội ác tanh bẩn đã được lau chùi sạch sẽ. Hiện nay Thích Hộ Giác vẫn thường diện thử chiếc mũ „tăng thống“ cho GHPGVNTN tại Mỹ, và Thích Nhất Hạnh lừa lái „đạo Bụt nhập thế“ của đảng csvn trồi lên thụt xuống, theo sát những dòng thời sự tại phương Tây, như „đạo Bụt và ý thức môi sinh“ hoặc „đạo Bụt và ý thức trách nhiệm chính trị“.
64. Theo nghĩa này, một „cơ hội“ đặc biệt „hợp thời“ cho Thích Nhất Hạnh cũng đã đến, khiến y không thể không lợi dụng để thi thố công khai nơi công cộng cái „ý thức, trách nhiệm chính trị“ đểu giả có một không hai của đảng cs vn qua cách thể hiện trơ trẽn khả ố của „đạo Bụt nhập thế“, là thừa dịp vụ tấn công của "quân khủng bố" vào hai tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới ngày 11. 09. 2011 tại New York, USA.
Nhân một thời nói chuyện trong một Thánh đường tại New York, hắn nêu ra một „sự kiện“ khác, cố tình gán ghép „sự kiện“ đó với cuộc tấn công "khủng bố "đặc biệt nghiêm trọng này. Đó là con số „300.000 (ba trăm nghìn) nạn nhân Việt Nam“ của một thị xã, nay là thành phố Bến Tre, „bị bom Mỹ sát hại“ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trích dẫn nguyên văn: …"I wrote this poem during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300.000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound". Trích dịch, theo nguồn “Google”: “… Tôi đã viết bài thơ này trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam sau khi được nghe thành phố Bến Tre bị bỏ bom hủy diệt. Thành phố 300,000 ngàn dân đã bị hủy diệt chỉ vì bẩy du kích bắn năm ba tràng đạn phòng không một cách không hiệu quả rồi bỏ đi. Lòng đau đớn của tôi thật tột cùng.“
Trong tháng 11. 2001 này, Thích Nhất Hạnh đầu tư hàng chục nghìn Dollar (45.000 Dollar) dành để đăng tải hai kỳ quảng cáo cho một thời diễn giảng của hắn vào tối 25. 09. 2001, tại Thánh đường Riverside, trên tờ Thời báo nổi tiếng là tờ „New York Times“, trong đó có đăng đoạn trích dẫn nói trên. Vì chắc mẩm rằng cái giọng lưỡi rắn độc nói tiếng Anh bồi của hắn chỉ để dành cho những cái tai của người Anh, Mỹ và phương Tây nghe được, còn những người đang ở Việt Nam, một cái ngục tù không tường vách, đã bị đảng cộng sản vn “bịt tai rút lưỡi”, tẩy não sạch trơn rồi, thì làm sao mà nghe cho thấu những gì ở bên ngoài, nghe rồi, lấy gì mà hiểu mà nói cho được. Những người Tây phương kia ai biết được Bến Tre ở đâu? Ai hỏi lại làm gì? Nếu có thì y đã có thừa những thủ đoạn „á khẩu“ rành nghề lâu năm để đối phó.
Dân số thị xã thành phố Bến Tre hôm nay (năm 2012) chưa vượt quá 143.639 người. Và tất cả người Việt Nam biết rằng cái „sự kiện“ nêu trên, do tên Thích Nhất Hạnh xúc xiểm tuyên truyền, hoàn toàn là một thứ bịa đặt trắng trợn. Ngoại trừ tập đoàn văn bút trí nô tay sai của đảng cộng sản vn và GHPGVNTN vẫn ngoan cố tìm cách bào chữa chạy tội cho tên Việt gian cộng sản Thích Nhất Hạnh trá hinh Phật giáo này. Cái lưỡi rắn nước đôi của Thích Nhất Hạnh, nhìn cách nào cũng không thể che giấu, chính là của con rắn độc đảng cộng sản vn, với nó, đồng bào Việt Nam trong nước và khắp nơi trên thế giới đã có thật nhiều kinh nghiệm cay đắng và đau thương.
Cho nên, âm hưởng của người dân New York trong giờ phút kinh hoàng vì mất mát tổn thất sau vụ "khủng bố", đối lại những lời xúc xiểm đâm thọc và bịa đặt của Thích Nhất Hạnh thật rõ ràng: „Thích Nhất Hạnh, hãy cút đi! „ („Thich Nhat Hanh Go Home !“).
65. Có một thực tại trâng tráo nhưng là sự thật, đó là Phật giáo nói chung, và đặc biệt là Thiền nói riêng đã từ lâu, chỉ được đảng cộng sản vn, GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh coi như một thứ gì đó để lợi dụng, bất kể gọi nó là thứ gì. Nhưng Thiền càng ngày được coi là một thứ „thương phẩm tâm linh“ chiến lược béo bở, lợi hại, và giờ đây nhất thiết phải được „làm mới“, quảng bá rao bán theo những phương thức quản trị kinh doanh kinh tế thị trường hiện đại, tinh vi hơn, lại là một điều hoàn dễ hiểu và không có gì lạ. Vì điều này (lợi dụng Phật giáo tinh vi hơn) cũng vừa vặn nằm trong những nghị quyết, những thủ đoạn chiến lược bẩn thỉu của đảng cộng sản Việt Nam, gọi là „đảng đổi mới“ ( nói gọn là „Đổi mới“). Vi sau khi „Liên bang xô-viết“ sụp đổ, để duy trì quyền lực độc tài, đảng cs vn phải „đổi mới“,“ đổi mới“ để tiếp tục cai trị.
66. Nhưng, cái gọi là „đảng cộng sản Việt Nam“ đã từng có biết bao nhiêu lần „đổi mới“? Mỗi lần biến tướng, thay mặt nạ, chỉ để „đổi mới“ cái bản mặt, còn bản chất Việt gian cố cựu thì bất khả thay đổi. Nên đảng cs vn đều có dự trữ sẵn những cái roi để „tự trừng phạt“, luôn cả dàn ca kịch „tự tố khổ“, „vạch sai lầm“, „sám hối“ để „sửa sai“ rất khả ố, giờ đây còn thêm màn xì xụp „lên đồng rước đám“ lưu manh, mịt mù khói hương, càng thêm buồn nônngẹn thở. Mỗi lần đảng csvn „đổi mới“ các „chùa tự“ do đảng cs vn „đầu tư gửi gắm“, tạo dựng kiến thiết càng mọc thêm nhiều hơn, thêm cao hơn và thêm tầm „vĩ đại“ hơn. Nhưng người dân Việt Nam bị trị thực sự càng trở nên nghèo hơn, vì các thùng „Ai bảo cúng dường“(?) này, cũng phải tương xứng nhân lên nhiều hơn, to hơn, đầy hơn và tất nhiên kiên cố hơn. Tại những nơi mịt mù hương khói đó chưa bao bao giờ là những thùng „Tam Bảo Cúng Dường“, vì trên thực tế nó là những cái két bạc có khóa („Tresoren“), kẻ giữ chìa khóa là đảng cộng sản vn, nên việc những két bạc đó phải thuê thêm người canh gác, thật không có gì là khó hiểu.
Đơn cử hai ví dụ: Một, là „Chùa Bái Đính“ mới hoàn thành tại Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam, về thực chất, chỉ là một bản sao của sự tham vọng, được thể hiện qua phong cách kiến trúc kiểu… Tầu. Đảng cộng sản vn hiện tại là kẻ „chủ đầu tư“ và „sở hữu“ nó, một khi đã học được cách „quản lý tôn giáo“ không thể chỉ dừng lại ở „khống chế“ mà phải „đầu tư tôn giáo“ để thủ lợi theo kiểu đảng cộng sản Tầu, dù „chậm lụt“, nhưng lòng tham lại vượt trội, tất nhiên cũng muốn đồng tiền đã cướp bóc được của nhân dân từ nhiều thập niên qua, bỗng chốc được nhân lên ấp bội. Cho nên ngôi „chùa“ này thực sự đã „vĩ đại“ hơn nhiều những ngôi xếp vào hàng „Đại tự“, trong „Tử Cấm Thành“, tại Bắc Kinh.
Hai, là „chùa Hồ“, một trong vô số những chứng tích tội ác của đảng cộng sản vn qua những thủ đoạn „thần thánh hóa“ tên đại Việt gian Hồ Chí Minh. „Chùa Hồ“ tại tỉnh Bình Dương, miền Nam Việt Nam đã phá vỡ nhiều „cơn sốt kỷ lục Phật giáo“. „Thượng tọa“ ở hàng trước, trên bệ thờ của „chùa“ là bức tượng quá cỡ của Hồ ngồi ghế mây, tất cả đều mạ vàng ròng 24 Karat. Khách hành hương muốn tỏ lòng kính ngưỡng lễ lậy Đức Phật và các vị Thần, Anh hùng Dân tộc, ngồi ở hàng sau, xin cứ tự nhiên! Lòng thành kính qua sự lễ lậy của những người dân đã bị tẩy não này trước hết, đã được đảng cộng sản vn lợi dụng dành cho hình tượng tên „bố già“ xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh và đám hậu sinh không thể từ bỏ được thói ăn trên ngồi trước kia, còn xác Hồ thì đang phải cười nham hiểm, loại nụ cười của những cái xác chết khô không được chôn cất, tại một nơi khác, nằm về phía Bắc Hà Nội. Vì trong „lăng Hồ“ tại Ba Đình, xác hắn đã được thay thế từ lâu bởi một hình nộm bằng sáp.
Phần nội thất của „Chùa Hồ“ được xây dựng đa phần bằng vật liệu quý hiếm, được bảo quản bằng máy điều hòa nhiệt độ và canh gác cẩn mật không kém cái „lăng Hồ“ nói trên tại Hà Nội. Những khách hành hương muốn giải trí và tiêu cho hết tiền sau khi lễ lậy Hồ thỏa thuê, còn muốn đi, để chiêm ngưỡng cho hết quần thể „chùa Hồ“, có loại hình „kiến trúc Disney Land“, thuộc loại kiến trúc ăn xổi ở thì của trào lưu „kiến trúc giả tạo“, nằm trong quần thể du lịch „Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến“, họ chỉ có thể dùng xe chạy điện do các công ty của đảng bao thầu, đang nhẫn nại mỉm cười, lừa lái đưa đón khách.
Cứ mỗi lần đảng cộng sản vn „đổi mới“, là con số những người bị bắt giam, cầm tù, quản chế vì thực sự lên tiếng vạch mặt tố cáo đảng cộng sản vn là một lũ Việt gian, lại tăng lên nhiều hơn. Cái thòng lọng tròng lên cổ đồng bào Việt Nam đang bị cai trị sẽ thắt chặt hơn, để quyền lực thống trị và cai trị của đảng cs vn bớt bị lung lay hơn.
Ho+cho+chet.jpeg
Ho ist überall KP-Vorsitzender, auch in der „Ho Pagode“ in Binh Duong, Vietnam. Mit hochkarätigem Gold überzogen, sitzt seine Statue vor der Buddha Statue. Daneben ist die KP Flagge gehisst.
*
Là chủ tịch muôn năm của đảng cộng sản vn, ăn trên ngồi trước đã là một cái đặc quyền của Hồ, cho nên, trong „chùa Hồ“tại Bình Dương, Việt Nam, đảng vẫn dành cho hắn cái đặc quyền ăn trên ngồi trước cả dân tộc và hơn thế nữa. Bức tượng mạ vàng ròng 24 Karat của hắn „thượng tọa“ trước tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bên cạnh lá cờ đỏ máu của đảng cộng sản vn.
67. Theo như đã dẫn ở trên, một trong những câu để đời của tên tổ „cộng sản“ Karl Marx, được coi như những „nghị quyết“ của đảng cộng sản vn: „Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân“ (nguyên ngữ trong tiếng Đức :“Religion ist das Opium des Volkes“), và đã từng bị bài trừ loại bỏ. Nhưng thuốc phiện là một thứ thảo dược đặc biệt quý hiếm, nên trong hiện tại, theo những thủ đoạn „đổi mới“ kiểu „biến tướng“ có tên „nghị quyết này nọ“ nói trên, thứ „thuốc phiện tôn giáo“ này lại được đảng cs vn „gieo trồng“ một khối lượng lớn hơn bao giờ hết (bằng thủ đoạn „tôn giáo, lễ, hội“ triền miên, lòe loẹt, tốn kém và lố bịch). Qua bàn tay của GHPGVN, GHPGVNTN cùng Thích Nhất Hạnh và tay sai, là những tên cộng sản trá hình Phật giáo, một lũ con buôn hiện đại, dùng „thuốc phiện tôn giáo“ đầu độc nhân dân, nguồn thu lợi tức của đảng cộng sản vn từ thứ „thuốc phiện là tôn giáo của nhân dân“ này, càng ngày càng lớn hơn bao giờ hết. Thử hỏi rằng, liệu nhân dân Việt Nam đã bị „say thuốc quá liều“ cho đến có thể bị „ngộ độc“ bởi thứ „thần chết đỏ“ nói trên hay không, thì cũng nên hỏi, ở đâu và có bao giờ, những kẻ buôn bán thuốc phiện lại quan tâm đến chuyện đó.
Vì một trong những cái đích đã được nhắm tới của sự mê hoặc dân chúng bằng „tôn giáo đỏ“ theo nghĩa này, chính là: Làm sao để tất cả các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trẻ, có tri thức, bị đánh lạc hướng, sẽ trở nên nông cạn, mê muội, đồi trụy, bạc nhược, sợ hãi, cầu an…, mất sức đề kháng, dẫn đến vong bản, thui trột ý thức dân tộc, quên đi nỗi nhục mất nước…. Để rồi phải chấp nhận tất cả những gì là tội ác của đảng cộng sản vn: Đã và đang làm Việt gian, cai trị dân tộc trong ngôi vị chư hầu thái thú dài hạn cho đảng cs Tầu, đồng hóa bán đứng tổ quốc, dân tộc Việt Nam cho Tầu Hán phương Bắc…
Tất cả những gì thuộc về ý chí, tri thức, lòng yêu nước, và sức mạnh phản kháng của đồng bào Việt Nam… chỉ để bị đảng cs vn lợi dụng cướp trắng, hoặc hướng vào hết những „trận địa giả“ này, đến những „lễ hội tôn giáo mê hồn“ khác. Chỉ nhắc lại những luận điệu do đảng cs cò mồi, tẩy não, không thể nhận ra cái đại họa to lớn nhất của dân tộc trước mắt, chính là: Đảng cộng sản Việt Nam đã là một tập đoàn Việt-gian từ trong trứng nước và trong hiện tại! Chúng chính là kẻ nội thù số một và là kẻ thù trước mắt của dân tộc Việt Nam! Chúng đang từng ngày đàn áp nhân dân, để có thể bán hết đất nước, tài nguyên, lãnh thổ cho Tầu Hán và các thế lực tài phiệt quốc tế, giúp đảng cs Tầu đồng hóa dân tộc Việt Nam, xáp nhập Việt nam vào nước Tầu đại Hán „Trung cộng“. Chúng chính là kẻ Việt gian nội thù đại phản tặc, đáng phải bị trừng trị đập tan ngay trước nhất !
Nhưng tất cả những gì nêu ở đây, chỉ là một phần nhỏ của cái gọi là „tự do tôn giáo“ dưới ách cai trị của đảng cộng sản tại đất nước Việt Nam hôm nay.
68. Một trong những „nền tảng hạ tầng cơ sở“ của đảng cộng sản vn tại nước ngoài, dành làm môi trường ẩn náu cho các hoạt động của đám cán bộ cộng sản trong và ngoài GHPGVNTN hiện tại, phần nhiều, chính là do sự hình thành và phát triển của những „chi hội Phật tử Việt Nam tỵ nạn“ sau ngày 30.Tháng Tư. 1975 tại các nước có người Việt Nam xin tỵ nạn. Phần lớn những chi hội Phật tử này, đều có những „gia đình Phật tử“ kèm theo. Ngay từ những ngày thành lập, đã có sự trà trộn lèo lái của đám cán bộ cộng sản nằm vùng, và những tên tay sai Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, sau này còn có thêm „Việt Tân“ trá hình.
Những „hạ tầng cơ sở“ này („Chùa, tự“, „niệm Phật đường“) đã được GHPGVNTN qua những vệ tinh của nó là các „Gia đình Phật Tử Việt Nam“ xây dựng, bài thiết một cách khang trang. Để sau đó mở cửa cho hàng loạt những tên cộng sản trá hình Phật giáo khác từ trong nước sang dần dần thay thế chiếm giữ. Từ trên „bàn thờ Phật“, chúng cố giữ vẻ thâm trầm giả tạo, kìm giữ những nụ cười nhạt hơn nước cất, mục kích các tầng lớp „Phật Tử“ phủ phục, quỳ lậy lễ bái chúng sát đất. Sự cung kính của các Phật tử thuần thành nhẹ dạ này thật không thua kém sự cung kính ngưỡng mộ vừa nêu trên, của những người đi hành hương „chùa Hồ“, dành cho vị „thượng tọa trụ trì“ của nó. Nhưng, tất cả những gì lũ cộng sản trá hình này, từ dáng vẻ hình thức, theo thành ngữ tiếng Đức gọi là “aalglatt“, tức là đầu mắt đều tương tựa „trơn như lươn… đỏ“ này, còn thực sự quan tâm đến, lại chính là sự đầy vơi của những cái thùng „Cúng dường Tam Bảo“ vào lúc cuối ngày.
nhudien.jpeg
Tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“,hoặc „Tam Bảo Điền“, „Tam Bảo Nô“ là những thực trạng lịch sử không thể không nhắc đến trong dòng sử Việt. Nhưng, tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“ trá hình này thực sự đang ngày càng gia tăng một cách chóng mặt hơn trong chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại Việt Nam hôm nay. Hoặc những người Việt Nam trong nước đã bị tẩy não, hoặc những người tỵ nạn „nhẹ dạ chóng quên“ có tên „Phật tử thuần thành“ trên đây tại nước ngoài, thực sự đang là những con mồi béo bở cho những thủ đoạn tuyên truyền tẩy não, khống chế nhân dân làm nô lệ, qua chiêu bài „tôn giáo“ của đảng cộng sản Việt Nam. Tại Việt Nam trong quá khứ, những lớp người này được gọi là „Tam Bảo Nô“, trong hiện tại chỉ thêm hai chữ „hiện đại“.
Theo dòng người tỵ nạn, trong những cái gọi là „Gia đình Phật tử“ và vô số các tổ chức vệ tinh tay sai của GHPGVNTN nói trên, chưa thấy phần đông những số người này có ý định muốn „từ bỏ giai cấp“ nô lệ nói trên. Vì không thể biết rằng, đảng cộng sản vn đã dầy công mang cái dịch vụ béo bở „xin được làm Tam Bảo Nô“ đó đến tận nơi nước sở tại, là nơi họ đang xin „tỵ nạn Việt gian cộng sản“. Để rồi, cũng đảng cộng sản Việt Nam, qua tay GHPGVNTN, Việt Tân và Thích Nhất Hạnh đã dùng chính công sức của những người tỵ nạn, dựng nên những ngôi „Chùa“ cho những đồng chí của đảng „trụ trì“, quảng bá khuyến khích người tỵ nạn đến „lậy lục xin xỏ“ và cứ „tùy tâm“ nộp „lệ phí“ cho cái „dịch vụ“ nêu trên qua hình thức „cúng dường tam bảo“. Thật đắt và cay đắng, cái giá của sự nô lệ tâm thức.
Một trong những gợi ý nhỏ dưới đây có thể là một ví dụ góp phần nào soi sáng mối quan hệ „nhân quả nghiệp báo“ của „hiện tượng nô lệ Tam Bảo“ nói trên. Ví dụ này có hai vế, nay chỉ nói một, đại ý như sau: „Tường ngục xây bằng đá, giam mãi cũng có ngày ra. Tường ngục xây bằng tâm thức thì bất khả“. Nói gần hơn: Một người tâm thức còn ở trong ngục, dù nói hay làm, vẫn thường tự trói mình, dù bản thân họ, từ lâu đã sống dưới trời tự do. „Tam Bảo Nô“ còn gọi là „Ba lần Nô lệ“. (Phần chi tiết, xin xem phần 2, nguyên ngữ tiếng Đức, sau bài viết này).
69. Nhưng, các hội đoàn chân rết đủ loại, từ xã hội, văn hóa, từ thiện, đến tôn giáo…trá hình của đảng Việt gian cộng sản trong tay GHPGVNTN tại những quốc gia chủ nhà tại Tây phương, còn có thêm một vai trò quan trọng và nguy hiểm hơn nhiều. Được sự điều khiển trực tiếp bởi đảng Việt gian cộng sản và cả đảng cộng sản… Tầu. Thông qua các chi bộ đảng, là cánh tay tội ác nối dài của chúng cài cắm tại hải ngoại, nhân sự, danh xưng và tiềm năng của các tổ chức hội đoàn nói trên đã được đảng cs khiển dụng và lợi dụng như những phương tiện ngụy trang hữu hiệu, để thâm nhập vào các tổ chức, hội đoàn, cơ quan công quyền nhà nước và chính phủ của các nước phương Tây sở tại. Tất cả những sự thâm nhập này được lợi dụng làm bình phong ngụy trang mục đích, những mục đích ẩn náu đằng sau tất cả các mục đích khác, đó là sự „quan tâm tò mò“ của giới tình báo công nghiệp/kinh tế và quân sự của đảng cộng sản… Tầu.
Để các hoạt động của đảng cộng sản Tầu, là kẻ giấu mặt, giật dây khống chế đảng Việt gian cs, không bị lộ tẩy hoặc thiệt hại, lũ cán bộ tay sai đảng cs vn đã bị đảng cs Tầu khiển dụng đẩy ra làm vật thí, trong vai trò tay sai, khi dùng các cơ sở hội đoàn người Việt đi „tiền thám“ thăm dò hộ chúng. Mặc dù là hai „đảng cộng sản anh em“ (Hán-gian, Việt-gian), nhưng lũ Việtgian cs chỉ được học cách quỳ lậy và cầm dao đằng lưỡi. Dù có thế nào, vẫn như hai tên cướp, mỗi tên bị xích một tay bởi luật rừng của hai đảng cộng sản, nên vẫn cho phép chúng hoạt động „tay trong tay“. (Ở đây sẽ không đi vào chi tiết).
tang+tau+hoc+ban+giet.jpg
Ein Bild – ersetzt tausend Worte:
Die Schießübung und der Umgang mit den modernsten Tötungswaffen gehört zur „buddhistischen Ausbildung“ der Kommunistischen Kader im Mönchsgewand, übernommen durch die Armee der Kommunistischen Partei.
*
Một bức ảnh thay thế nghìn lời nói:
Học bắn giết và xử dụng thành thạo các loại vũ khí sát thương hiện đại là „bài học căn bản“ trong chương trình „đào tạo chuyên tu Phật Giáo“ của các tên cộng sản trá hình giả danh Phật giáo này. Bài học „thực hành tác xạ“ được hướng dẫn bởi những tên sỹ quan ngụy quân đảng cộng sản đảm nhiệm.
( Trong ảnh: trên trường bắn của một học viện quân sự Tầu)
70. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của đám an ninh Việt gian cộng sản đang hoạt động trá hình tại hải ngoại (ví dụ như đảng „Việt Tân“), là cộng tác chặt chẽ với những tên Việt gian cs trá hình như Thích Nhất Hạnh và GHPGVNTN, dùng tất cả mọi phương tiện để tập hợp đoàn ngũ hóa đại khối người Việt Nam tại hải ngoại về một mối để khống chế và lợi dụng. Để thực thi thủ đoạn này, đảng Việt gian cộng sản đã cho ra nhiều „nghị quyết“, trong đó có „nghị quyết 36“. Nội dung của nó, cũng như tất cả những „văn kiện, nghị quyết„ do „bộ chính trị“ đảng Việt gian cộng sản đã từng đưa ra, là những bằng chứng tội ác cụ thể nhất của đảng Việt gian cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, và tự nó xác nhận những tội ác này đã được che đậy trâng tráo bằng những từ ngữ lừa dối xảo trá tinh vi như thế nào. Những tội ác tầy trời này, nếu liệt kê ra sẽ dài ít nhất là bằng chiều dài sự tồn tại của đảng cs vn, nhưng, những hệ lụy hậu quả tàn phá của nó gây ra thì trong muôn thế hệ mai sau cũng không gì có thể tẩy rửa cho được.
71. Đặc biệt là tại Mỹ, nơi có một số đông người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản cư ngụ, những tên cộng sản trá hình Phật giáo trong và ngoài GHPGVNTN đều biết rằng: Thật là một cơ hội có tính quyết định, nếu tất cả những „Phật tử thuần thành“ mê muội nhẹ dạ kia, được gom hết về một mối để chúng „chỉ đạo“, thì những „nghị quyết“ của đảng Việt gian cs cũng sẽ có một „cơ hội“ nào đó được thực hiện. Vì theo những toan tính thủ đoạn của đảng Việt gian cs được thể hiện ra cái „nghị quyết“ có đủ 36 mưu ma chước quỷ kia, thì bản thân con số những người kể trên thực sự đã là một khối „cử tri“ có khối lượng đầu phiếu đáng kể. Và trên chính trường dân chủ của Mỹ, đối với những vị dân biểu địa phương khi bắt đầu bước vào con đường „chính trị thực tiễn“ thì mỗi mỗi lá phiếu bầu, bất kể từ đâu đến, đều là những „cơ hội“ có sức hấp dẫn không thể bỏ qua.
Những vị dân biểu địa phương, là công dân và có quốc tịch Mỹ (đa phần gốc Á Châu) được sự mồi chài giàn dựng của giới điệp báo Việt gian cs nằm vùng tại địa phương, hoặc hoạt động trên bề nổi, có an ninh Việt gian cộng sản trá hình đảng „Việt Tân“ hứa hẹn, sẽ được sự ủng hộ bởi một số lượng (không có thực) của những đông đảo cử tri Phật tử do GHPGVNTN „chỉ đạo“, nên họ có thể yên tâm ra ứng cử tại các đơn vị bầu cử chính quyền địa phương Tiểu bang. Sau đó, dù họ có thành đạt hay không, để có thể „tái tranh cử“, sẽ là những màn kịch „đi lại“ với lũ Việt gian cs trá hình Phật giáo trong những vai trò „cao tăng“ hoặc „tăng thống“ của GHPGVNTN.
Có những tên „dân biểu“ trá hình, là tay sai của Việt gian cộng sản đã bị lật tẩy, còn muốn lập hẳn một tuyến hàng không quốc tế từ Mỹ tới Việt Nam, để „đàm đạo“ trực tiếp với… đảng Việt gian cộng sản. Hoặc đảng Việt gian cộng sản có thể qua đó trực tiếp thông qua luật pháp Mỹ để „nhuộm đỏ“ cộng đồng người Việt Nam ty nạn tại hải ngoại. Bằng cách này, đại khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại hải ngoại, ít nhất là tại Mỹ cũng sẽ giống như ở Việt Nam quốc nội, bị đảng cs chặn họng bóp cổ mà chết.
Hàng loạt những sự móc nối câu kết giữa những tên Việt gian cộng sản trá hình và các vị tân dân biểu, nghị viên trong các cấp chính quyền địa phương tiểu bang và liên bang, tiêu biểu là tại Mỹ đều đã bị đồng bào Việt Nam tại hải ngoại tố giác và lật tẩy, cho thấy, những „nghị quyết“ trên từ xưa đến nay, chỉ là một trong vô số những thủ đoạn tội ác của đảng Việt gian cộng sản.
Và cũng ở đây, sự „ăn hại đái nát“ đã là một khuyết tật bất khả chữa trị của những tay cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN tại hải ngoại.
thchlac.jpg

Thích Chánh Lạc tức (Lê Kim cương) bị Tòa án Mỹ phạt bồi thường 4.8 triệu Dollar về tội vu khống và lạm dụng tình dục trẻ thành niên
72. Những „hoạt động tôn giáo nổi bật“ tại các cơ sở của GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh tại hải ngoại, ví dụ như „Làng Mai“ tại Pháp, hoặc „chùa Điều Ngự“ của tên Thích Chánh Lạc, Thích Viên Lý tại Mỹ, hoặc „Viên Giác“, Phật Huệ“ .v.v. của tên Thích Như Điển, Thích Từ Trí, Thích Thiện Sơn… tại Đức, đã tập trung „chuyên tu hóa“ vào những lĩnh vực „dịch vụ xã hội“. Để có thể kiếm được thật nhiều và rửa được thật nhiều tiền cho đảng Việt gian cộng sản, tất cả các cơ sở nêu trên đều đã tập trung mọi nhân lực tiềm năng và thời gian cho „nghề làm từ thiện“.
Để có thể móc thêm được nhiều tiền hơn nữa một cách „kín đáo“ từ hầu bao của người phương Tây hảo tâm nhẹ dạ, chúng đã không chừa một kế sách nào. Một trong những thủ đoạn quen thuộc mà kẻ hung thủ là đảng Việt gian cs thường khai thác tối đa, là đem các nạn nhân của nó: các trẻ em nghèo thương tật ra trình diễn sự thảm thương khốn khó, và lập lờ thêm vào sau danh từ „nạn nhân“ hai chữ „chiến tranh“ để đánh động lòng trắc ẩn. Theo những dữ liệu thống kê sơ bộ đặc biệt khiêm tốn vào năm 2010, thì mỗi năm người Việt Nam hải ngoại đã gửi về Việt Nam một số ngân khoản trên 2 tỷ Dollar. Đối với đảng Việt gian cộng sản và bộ máy nhà nước ngụy quyền bù nhìn, thì số ngân khoản trên thật như những quả sung rụng bằng vàng, vừa đủ để giữ cho nó khỏi bị chết chìm.
73. Cái gọi là “Phòng thông tin Phật giáoquốc tế“ „IBIB-InternationalBuddhist Information Bureau“ với trụ sở tại Paris là đại diện chính thức của cái gọi là „Văn phòng 2 – Viện hóa đạo GHPGVNTN“ tại nước ngoài. Chỉ một chi tiết thật nhỏ sau đây đã thừa đủ cho thấy đám tay sai của đảng cs vn là GHPGVNTN tại Đức, từ trên xuống dưới đã tự đấu tố vạch mặt cái „lý lịch“ Việt gian cs của nhau khi „dịch“ chữ „Viện Hóa Đạo“ sang tiếng Đức (trích dẫn nguyên văn) là „Propaganda Institut“. Hai cơ sở „Lá bối“ và Quê Mẹ“ là một trong những nơi phát tán, thông tin độc hại của Thích Nhất Hạnh và người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, cùng hai tên Võ Văn Ái và Penelope Faulkner.
Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái không phải là một cái tên mới lạ. Hắn và Walter Fabian, một tên cộng sản Đông-Đức cũ, cả hai là những tên đầu xỏ, thường tổ chức những cuộc biểu tình phá rối ủng hộ cộng sản với những khẩu hiệu xách động trá hình „chống chiến tranh Việt Nam„ và đã từng bị cảnh sát Tây-Đức bắt giữ vào đêm ngày 8 rạng ngày 09.05.1967 tại Munich-Bavaria (München-Bayern).
vo+van+ai+chong+VNCH+tu+Rome-paris+2.png
ai+lun.jpgai.jpg
74. Đeo đuổi sự nghiệp Việt gian bán nước phản dân tộc của đảng cộng sản vn, tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái vẫn sát cánh cùng lũ Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ, Thích Chánh Lạc…, GHPGVNTN và „Việt Tân“, tiếp tục cuộc „đấu tranh trường kỳ“ của đảng cộng sản vn nhắm vào khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền VGCS tại hải ngoại. Nấp sau những khẩu hiệu „đấu tranh“ trá hình, trước sau như một đầy tội ác mà như hắn đã từng gây ra từ đầu những năm 1960 đến nay, nhưng giờ đây thay vào đó là những „trận địa giả“ cùng những cái bánh vẽ cò mồi „Tự do, dân chủ, và nhân quyền cho Việt Nam“. Từ năm 2004 đến 2009 Võ Văn Ái đã nhận được một số tiền 548.000 Dollar, tài trợ cho những hoạt động phá hoại của hắn từ một tổ chức trá hình có tên: NED („The National Endowment for Democracy“).
75. Một trong những địa điểm chính, thường là nơi xuất phát các hoạt động đánh phá cộng đồng người Việt Nam ty nạn của hai tên Việt gian tay sai Võ Văn Ái và Pelelope Faulkner hiện nay là „ chùa Điều Ngự“ tại California – 92683, USA. Từ đây chúng dùng „văn phòng 2 viện hóa đạo – GHPGVNTN“ làm phương tiện phun nọc độc tuyên truyền cho đảng cộng sản vn, tô vẽ tên tuổi, đánh bóng xóa tội ác cho những tên Việt gian cộng sản trá hình „tăng thống Phật giáo“. Thích Quảng Độ hoặc Thích Nhất Hạnh thường là những tên được tập đoàn văn bút trí nô, tay sai Việt gian cộng sản tâng bốc, để mồi chài đánh lừa dư luận „đề cử“ những tên tội đồ này ra làm ứng viên „giải thưởng Nobel Hòa bình“.
Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái thường rêu rao lợi dụng vai trò „phát ngôn nhân“ „đại diện cho GHPGVNTN trong nước và hải ngoại“ để lừa lái dư luận tại phương Tây, hòng „hợp thức hóa“ tư cách trá hình „tỵ nạn“ cho hàng loạt lũ cán bộ do đảng Việt gian cộng sản từ Việt Nam gửi qua cài cắm, trong những vỏ bọc „nhà sư Phật giáo tỵ nạn“ đểu, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội…trá hình.
Nấp sau chiêu bài „tôn giáo“ và những cái „bẫy trận địa giả“ do đảng Việt gian cộng sản giàn dựng, Võ Văn Ái cũng như Thích Nhất Hạnh, gài bẫy, bòn rút tiền bạc, lòng tin của những người Việt Nam tỵ nạn mắc chứng „hay quên“, cùng người phương Tây hảo tâm „nhẹ dạ“, gửi về nuôi đảng Việt gian cs tại Việt Nam, qua những tổ chức „từ thiện xã hội“ trá hình. (Một trong số đó, ví dụ như „Maitreya Fond“.v.v.).
76. Tất cả những cái gọi là phong trào „đấu tranh“ trá hình, đòi hỏi „dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam“ do đảng Việt gian cs giàn dựng cho tay sai của chúng là GHPGVNTN, Nhất Hạnh, Quảng Độ, Võ Văn Ái và Việt Tân… thực thi, đều bị đại khối cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền vgcs tại hải ngoại phát giác lật tẩy, lên án và tẩy chay. Đại đa phần những vụ việc này đều đã được đăng tải công khai trên liên mạng thông tin toàn cầu „internet“ (được cập nhật từng ngày), cũng như bằng vô số những tác phẩm, ấn phẩm đủ mọi thể loại truyền thông văn hóa nghệ thuật… phong phú khác. Tất cả lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo, Thiên Chúa giáo…, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội xảo trá đủ loại và vô số tay sai, không xót một tên nào, do đảng vgcs gửi ra cài cắm bất kể là công khai hay bí mật tại hải ngoại, đều đã và sẽ cùng phải chung một số phận.
Vì giọng điệu và hành tung (…) của chúng dù có ngụy trang biến tướng cách gì cũng không thể che giấu được dã tâm và tội ác Việt gian bán nước, phản dân tộc của đảng cộng sản Việt Nam. Chúng câm lặng hoặc làm ngơ, hoặc cố tình lèo lái xuyên tạc bôi xóa, khỏa lấp một sự thật lịch sử là: Chính tập đoàn đcsvn và tay sai là những kẻ nội thù phản tặc, chính là hung thủ, là kẻ chủ phạm đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho đảng cộng sản „Trung quốc“, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng.
Đơn cử một ví dụ nhỏ trong hiện tại: Tất cả các phong trào, biểu tình và đòi hỏi chính đáng của đồng bào Việt Nam bị trị tại quốc nội, đặc biệt là giới trẻ vùng lên thể hiện ý chí yêu nước bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong các sự kiện biên giới, hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa do „Trung cộng“ xâm lược chiếm giữ, đều bị đảng csvn lợi dụng hoặc dùng tất cả mọi phương tiện, huy động lực lượng công an côn đồ và một số đông đảo lũ tội phạm hình sự bị khiển dụng, đàn áp khủng bố, bắt bớ, giam giữ và tra tấn một cách dã man. Không có lấy một tên Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo GHPGVNTN hoặc một tên „tăng thống“ nào có thể một lần tạm bỏ thói „á khẩu“ để nói, dù chỉ một câu cho trôi chẩy mà không biết mười mươi rằng: Những gì chúng nói ra, nếu không có đảng cs vn canh chừng bằng họng súng, thì chúng lấy chỗ nào để đứng mà nói. Nếu có thì phải „độn thổ“ ngay sau khi nói, nếu không muốn bị đồng bào Việt Nam khắp nơi trên thế giới đồng thời vả vào mồm chúng sau mỗi một câu chúng nói ra.
Vì lực lượng „bảo kê“ của đảng cs vn vẫn kè kè bên cạnh, nên Thích Quảng Độ chẳng những giám liều chết dại mồm xảo ngữ kinh niên, mà còn thi thoảng chế tác ra lời kêu gọi: „Bất tuân dân sự“, “Biểu tình tại gia“. Theo đó mỗi người Việt Nam muốn thể hiện sự chống đối xin hãy „ở nhà, đóng cửa và làm việc đó ở trong chăn cho kín đáo“. Bởi vậy, tên Thích Quảng Độ vẫn thường phải khoa chân múa tay che miệng nhỡ ăn phải vả, khó toàn bộ răng tuổi già là vì thế, vì ngày „độn thổ“ của hắn đã hết hạn từ lâu.
TQuangDo.jpeg
KP Kader und UBCV Oberhaupt „Patriarch“ Thich Quang Do (geb. Dang Phuc Tue)
77. „Văn phòng 2“ của tên Việt gian tay sai cộng sản Võ Văn Ái như vậy, không những là „cái loa“ mà hơn thế, còn là một thứ „Phòng Nhì“ của đảng Việt gian cộng sản tại nước ngoài. Những cơ sở „đại diện“ trá hình của đảng cộng sản vn tại nước ngoài trong thời đại thông tin toàn cầu hiện nay, trên thưc tế đã được cài đặt rộng hơn chứ không chỉ giới hạn vào GHPGVNTN. Từ những ngày „chiến tranh Việt Nam“ đã có đài BBC, hiện nay càng thêm nhiều đài khác như VOA, RFI, RFA, SBTN vào cuộc…
Trong „Ban tiếng Việt“ của các đài trên đều có ít nhất là một tên cho đến cả một đám những cán bộ do đảng cs vn đào tạo gửi đi cài cắm chiếm giữ. Qua những cái „ống nhổ biết nói“ này đảng cộng sản vn có thể tùy thời rêu rao phát tán những “nghị quyết“ sặc mùi tuyên truyền một chiều của đảng cs vn ra nước ngoài, khi cần thiết thì phun nhả những tin tức độc tố bệnh hoạn, tùy theo những nhu cầu giai đoạn có lợi cho đảng Việt gian cs, tất nhiên tất cả các bản tin đều được viết nói bằng một thứ giọng điệu xảo ngữ chuyên nghiệp. Trên lĩnh vực báo chí in ấn cũng tương tự, và tác dụng độc hại của nó cũng không kém báo điện tử là bao.
Tại Việt Nam hiện nay dưới sự đàn áp khống chế gắt gao của đảng cs vn trong lĩnh vực truyền thông, tất cả (hơn 600) các cơ sở truyền thông, đài, báo chí tại Việt Nam cùng các vệ tinh trá hình của nó tại nước ngoài chỉ còn là nơi phát tán các „nghị quyết“ lật lọng lừa đảo của đảng cộng sản Việt nam bằng những giọng điệu xảo trá khác nhau. Quyền được nói lên sự thật của nhân dân trong nước đã bị đảng Việt gian cộng sản bóp cổ chặn họng chết từ lâu. Như vậy, GHPGVNTN và các „văn phòng, chi nhánh đại diện“ của nó tại hải ngoại, như Võ Văn Ái, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn thật là những cấu thành quan yếu trong cấu trúc „mạng nhện đỏ“ độc hại đã được giăng ra từ hàng chục năm qua để phục vụ cho những mưu đồ của đảng Việt gian cộng sản và đảng cộng sản…Tầu.
78. Tên tiếng Anh của „Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất“ là “Unified Buddhist Church of Vietnam“ („UBCV“) đã được Thích Như Điển và tay sai dịch sang tiếng Đức: (viết tắt là: CVBK hoặc KVVBK: "Congregation der Vereinigten Vietnamesischen Buddhistischen Kirche". Sẽ trở lại phần chi tiết về danh xưng nói trên trong phần 2, sau bài viết này). Như trên đã dẫn, GHPGVNTN tại hải ngoại được „đại diện“ và giật dây bởi „Văn phòng 2, Viện hóa đạo“. Các tên cầm đầu từng là những Thích Đôn Hậu (Diệp Trương Thuần), Thích Huyền Quang (Lê Đình Nhàn), hiện nay là Thích Quang Độ ( Đặng Phúc Tuệ), Thích Hộ Giác, Thích Chánh Lạc… những tên Việt gian cộng sản trá hình hạng rành nghề xảo quyệt trong lớp áo tăng sỹ Phật giáo.
Danh xưng „tăng thống“ và „ấn tín“ của lũ cộng sản trá hình Phật giáo này đang tiếm quyền sử dụng, là do những hành động khủng bố bạo lực cưỡng đoạt từ tay Thượng tọa Thích Tâm Châu từ năm 1966. Vị tăng thống tiền nhiệm chính thống trước đó là cố đại lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Bằng con dao và đĩa máu cùng những hành động đe dọa sát hại tính mạng của lũ cán binh cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo này, chúng đã cướp đoạt văn phòng trụ sở, ấn tín từ tay Thượng tọa Thích Tâm Châu. Cho nên từ năm 1966 đến nay (năm 2012), lũ „tăng thống“ tự phong này chỉ là những tên Việt gian cộng sản ăn cướp đầy tội ác, tiếm quyền, tiếm danh, trá hình trong lớp áo cà sa Phật giáo. Phần chi tiết, xin xem tham khảo „Bạch thư của Hòa thượng Thích Tâm Châu“.
Về thực chất, lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN từ trên xuống dưới, trước sau như một chỉ là những công cụ tội ác trá hình Phật giáo trong tay đảng Việt gian cộng sản. Theo những giá trị nền tảng đạo lý căn bản của dân tộc Việt Nam thì tất cả những cá nhân tổ chức đã từng và đang đại diện cho danh xưng đảng cộng sản Việt Nam, dù chúng có biến tướng dưới hình thức nào, đã chất chứa thừa đủ tội ác để gọi và phải gọi chúng là một tập đoàn Việt-gian, với một trong những tội danh hàng đầu là bán nước, phản dân tộc. Chúng là Việt gian từ trứng nước và trong hiện tại.
Hòa thượng Thích Tâm Châu đã tự nói lên sự thật sau gần 30 năm im lặng (1964 – 1993). Trong bạch thư nói trên ông đã bạch hóa sự việc một cách cụ thể, cho thấy những thủ đoạn tàn bạo của đám cán bộ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo đã từng cướp Viện Hóa Đạo như thế nào. Cũng theo bạch thư đã khẳng định, những tội ác mà đảng cộng sản vn và GHPGVNTN gây ra là những sự thật hết còn có thể chối tội, và cho thấy các truyền thống tâm linh đặc biệt là Phật giáo đều bị đảng Việt gian cộng sản thâm nhập, cướp đoạt và khiển dụng làm vỏ bọc ngụy trang như những phương tiện gây ra và che giấu tội ác, củng cố quyền lực.
79. Từ những năm 1963 khi nước Mỹ dưới thời tổng thống John Fitzgerald Kennedy, qua tay ngoại trưởng Henry Alfred Kissinger muốn lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm, đặc biệt là sau khi „canh bạc hậu trường“ giữa Mỹ và Tầu cộng đã ngã ngũ, thì từ đó đến nay là năm 2012, giới truyền thông tại phương Tây đại đa phần đã ngả hẳn theo hướng thông tin gần như một chiều về cuộc chiến tranh tại Việt Nam, theo chiều hướng dường như có lợi cho „khối cộng sản“. Nhưng, một phần của thực tại không thể là bản thân sự thật ! Vì họ đã im lặng dường như đồng loạt và có hệ thống về cái thực tại và cũng là sự thật về thực chất của cuộc chiến tranh do đảng cộng sản Việt Nam phát động, chỉ huy quân đội cộng sản từ Bắc-Việt, chống lại Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa: Là một cuộc chiến tranh xâm lăng đầy tội ác, đã được thực thi bởi một đội quân cộng sản Bắc-Việt xâm lược, đánh thuê theo sự giật dây, đặt hàng hứa hẹn của các quan thầy chúng là quốc tế cộng sản từ Moskau và Bắc Kinh. Và cuộc chiến tranh xâm lược này đã vi phạm một cách trắng trợn luật pháp của tất cả các Công ước, và Hiệp định quốc tế hiện hành.
80. Đại đa số giới truyền thông phương Tây cũng làm ngơ những thực tại lịch sử là tập đoàn cộng sản Bắc-Việt đứng đầu là đảng Việt gian cộng sản đã phá rối và chưa từng chấp hành đúng nghĩa theo những Hiệp định hoặc cam kết quốc tế nào mà chúng đã từng ký kết. Những Hiệp định, cam kết mà ngay từ đầu chúng đã chỉ ký kết với một dụng ý duy nhất là có thể dùng nó để lừa đảo dư luận quốc tế. Đại đa số giới truyền thông tại các nước phương Tây không những dường như đồng loạt câm lặng mà đồng thời tìm cách che đậy, giảm thiểu cho đến vô hại hóa những tội ác bẩn thỉu man rợ của đảng Việt gian cộng sản đối với nhân dân Việt Nam.
Cũng như vậy, những tài liệu bình luận, những bằng chứng có giá trị lịch sử trung thực về những nỗi đau cùng tột, những tang thương mất mát của nhân dân miền Bắc từ năm 1946, và cả dân tộc Việt Nam từ 30.04.1975 đến ngày hôm nay, nỗi đau của một dân tộc đã bị đảng vgcs bóp chết sau bức tường sắt ghê rợn được sơn trét lòe loẹt kia, rất ít khi được giới truyền thông này cho quảng bá rộng rãi một cách tương xứng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cái „hiện tượng“ này cũng đang là một hiện trạng mỉa mai nghiệt ngã, lặp lại dường như tương tự, như đối với những trường hợp tiêu biểu là dân tộc Tây Tạng, Bắc-Triều Tiên hoặc Miến Điện (Tibet, Nord-Korea, Mianma hoặc Burma).
Rõ ràng là các giới truyền thông có tên „Truyền thông dòng chính“ ("Main Streem Medien") tại các nước phương Tây này đang theo nhịp gậy của một tay nhạc trưởng lão luyện, cùng hòa nhịp trong một dàn đồng ca giao hưởng quen thuộc, mà các „cung điệu“ của nó đã, đang và sẽ ảnh hưởng có tính quyết định các mối quan hệ chính trị thế giới. „Thể loại chính trị“ này, hiện đang có một tên gọi thực tiễn như bản chất của nó: „Chính trị thực tiễn“. Từ „thực tiễn“ đến…„thực dụng“ là những đề tài khác, nằm ngoài phạm vi bài viết này.
81. Đối với tất cả đồng bào Việt Nam chân chính thì cuộc „chiến tranh Việt Nam“ vừa qua chưa hề kết thúc ! Vì qua cuộc chiến tranh này, họ đã bị cướp trắng tay và mất đi tất cả. Như những „công dân hạng ba“, nói cho chính xác, chỉ là những nô lệ tân thời, mặc dù đang sống trên chính mảnh đất cha ông để lại, nhưng tất cả những quyền tự do căn bản và quyền sở hữu để sống trên mảnh đất đó, thì tuyệt nhiên đã bị đảng Việt gian cộng sản cướp trắng.
Chỉ có mỗi một thứ „quyền“tối thiểu nhất, đã thuộc về huyết thống tâm linh ngàn đời sâu thẳm của người dân Việt Nam, đó là quyền được yêu Tổ Quốc, mà còn bị đảng Việt gian cộng sản, là kẻ cai trị độc tài, lưu manh độc nhất vô nhị, lật lọng cướp trắng. Sự ăn cướp trấn lột trên được che đậy bằng những loại giọng điệu cai ngục, được che chắn bằng họng súng và nhà tù như sau: “Đảng cộng sản Việt Nam thay mặt nhân dân lãnh đạo Dân tộc và Tổ Quốc. Ai yêu Tổ Quốc, Dân tộc nhưng không yêu đảng là phản bội Dân tộc và Tổ Quốc“ . Những loại danh từ mà đảng Việt gian cộng sản dùng tới để đe dọa tẩy não nhân dân như „phản động“, hoặc „các thế lực thù địch quốc tế“ dài… vô tận.
Vào thời điểm hiện nay, khi nghe những giọng điệu trên đây, thì có rất đông những người phương Tây vì đã từ lâu sống trong thế giới tự do, cũng đều phải đỏ tai tía mặt, mặc dù biết đó là sự thật. Và khốn nạn thay, đó lại đang là sự thật hiển nhiên tại nước Việt Nam cộng sản Xã hội chủ nghĩa hôm nay. Vì phần đông những người phương Tây này, xin nói thêm là cả những người Việt Nam, hoặc bị đảng Việt gian cộng sản che đậy tẩy não, hoặc vì nhiều lý do khác nhau…không cần biết sự thật, khi được hỏi về cái mặt trái mà cũng là cái bản mặt thật của đảng Việt gian cộng sản, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn, tay sai và nhiều nhiều nữa…, thì câu trả lời của họ chỉ là những âm thanh ú ớ nghe không rõ, nên đã thể hiện một cách rất tự nhiên bằng một cái nhún vai đầy… ấn tượng, ý nói là họ chẳng biết gì cả.
Không hiếm trường hợp có người gân cổ độc thoại, nhắc lại y chang những „nghị quyết„ của đảng cs mà giới truyền thông, văn bút trí nô tay sai của đảng Việt gian cộng sản trong nước và hải ngoại đã từng rêu rao từ hàng chục năm qua. Những giọng điệu giả nhân giả nghĩa đã được che đậy bằng loại xảo ngữ tuyên truyền chuyên nghiệp, bóng bẩy bất tận.

Mới chỉ đơn cử một cái „quyền tự do yêu Tổ Quốc“ đã bị cướp trắng như thế, thì những quyền khác còn đâu một chỗ đứng, lấy gì đâu nữa nói tự do?

82. Chừng nào còn một nhóm người, một cá nhân, coi chiến tranh, bất ổn định và sự chưa thống nhất của một dân tộc một quốc gia là một cơ hội, để lợi dụng và qua đó nắm đoạt được những lợi thế tài chính lớn hơn nữađể tiếp tục thủ lợi nhiều hơn nữa, thì chừng đó, tất cả những món lợi tức mà họ thu được, không chừa một thứ gì, không gì giữ được, mỗi mỗi đều theo nhau biến thành những món nợ khó trả. Vì để có thể riêng hưởng những món lợi tức loại này chỉ có thể là những kẻ, những tập đoàn cai trị độc tài lật lọng phản trắc, và đứng sau lưng hết thảy là những kẻ thống trị tài phiệt lợi dụng tất cả những kẻ đi lợi dụng kia. Ai ủng hộ chúng, cuối cùng chỉ để những kẻ độc tài kia được lợi, không phải là những người dân bị trị. Cho nên, tất cả những nhóm người này đang cố giả tạo ra một thứ "hòa bình", và không muốn cho nó có một nền tảng vững chắc, vì nếu có hòa bình thực sự, họ chẳng còn gì đề thủ lợi.
Cũng vì vậy, những cá nhân này, những nhóm người này, thực sự là những người không thể hiểu biệt nghiệp quả báo của chính họ, nói gì đến cộng nghiệp quả báo của dân tộc họ. Cho nên, đã chằng có thể thực sự hiểu chính bản thân, nói gì là người bên cạnh, huống gì lại có thể hiểu được một dân tộc khác.
Vì tất cả những hệ quả trên, tất cả những gì họ đang tạo dựng vun vào, dành giụm cất chứa cho đàn con cháu của họ hôm nay, thì cũng chính đám con cháu này lại phải đem nộp trả lại hết trong một ngày gần, trước sau không có hạn định, cũng không có ngoại lệ, để trả nợ cho bằng hết cho sự u muội vô minh của cha ông chúng, trả cho đến tận xu cuối cùng, lãi xuất hậu bàn.
Tại Việt Nam, hay bất kỳ đâu trên thế giới, những người chân tu có đạo hạnh trong Phật giáo, đều đã và sẽ được tất cả các tầng lớp nhân dân dành cho sự tôn kính vô cùng xứng đáng. Nhưng, những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ cùng tập đoàn GHPGVNTN, và tất cả bè lũ tay sai, còn sống cũng như đã chết, là một bè lũ Việt gian, thì nhân dân Việt Nam sẽ phải vạch mặt chỉ tên chúng, để trong một ngày gần nhất, phải dẫn giải chúng ra trước tòa án quốc dân, của một đất nước Việt Nam mới, thực sự dân chủ và tự do. Và cái ngày tàn xụp đổ của đảng cộng sản vn, một tập đoàn Việt gian, vẫn đang được đếm từng ngày
Thái A
***
Sẽ tiếp nối Phần 2 (nguyên bản tiếng Đức)
***
 Nguồn: https://vuottuongluaweb.wordpress.com/2017/09/13/thich-nhat-hanh-ten-viet-gian-cong-san-doi-lot-phat-giao-va-nhung-vet-mau-toi-ac-cua-giao-hoi-phat-giao-viet-nam-thong-nhat-khoi-an-quang-monks/


Thiền sư Thích Nhất Hạnh muốn ‘hàn huyên trong tình huynh đệ’










Thiền sư Thích Nhất Hạnh thưởng trà trong một buổi lễ.










Thiền sư Thích Nhất Hạnh mới kêu gọi các phật tử về Chùa Từ Hiếu, Huế, nơi ông xuất gia lúc 16 tuổi, để “chúng ta cùng hiến tặng sự có mặt cho nhau và cùng nhau hàn huyên trong tình huynh đệ ấm áp”.
Trong lá thư có chữ ký của ông, mà VOA tiếng Việt có trong tay, nhà sư Phật giáo có ảnh hưởng trên thế giới nói rằng “niềm an lạc và hạnh phúc được sống chung hòa hợp với nhau sẽ là món quà quý nhất để chúng ta dâng lên chư vị Tổ sư của Tổ Đình [Từ Hiếu]...”










Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Chùa Từ Hiếu.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Chùa Từ Hiếu.
Đáp lại lời hiệu triệu này, mấy ngày qua, theo truyền thông trong nước, “hàng nghìn phật tử đã đổ về Huế mong gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh”, sau khi ông quyết định “trở lại ngôi chùa gốc rễ tâm linh của mình”.
Các hình ảnh được báo chí đăng tải cho thấy nhiều người đã tập trung gần nơi ông đang tịnh dưỡng, mà báo điện tử VnExpress nói đã được “phong tỏa nghiêm ngặt”.
Lá thư gửi cho các tăng ni của Thiền sư Thích Nhất Hạnh có đoạn nói thêm rằng “trên 70 năm qua, kể từ khi rời khỏi Phật Học Đường Báo Quốc, tôi đã chuyên tâm và một lòng thực hiện sứ mệnh mà chư Tổ đã tin tưởng và phó thác cho tôi...”










Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Vị thiền sư cũng “hân hoan” đề cập tới một “vinh dự không những cho riêng cá nhân tôi mà còn cho cả Tổ đình của chúng ta và cho cả Phật giáo Việt Nam” khi được giáo sư Phật học người Úc, ông John Powers, chọn là một trong “13 vị thầy đã góp phần vào sự thành hình và phát triển của đạo Phật trên toàn thế giới trong suốt quá trình 2500 năm lịch sử của Phật Giáo”.
Bức thư nói rằng Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được chọn ở vị trí thứ 10, trong khi lãnh tụ tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, nằm ở vị trí thứ 12.
Vòng tròn giờ đây đang được khép lại, tôi thấy rằng đã đến lúc tôi cần trở về Tổ đình để chung sống cùng chư huynh đệ trong những năm tháng này.
Lá thư của thiền sư Thích Nhất Hạnh có đoạn.
“Sứ mệnh hoằng pháp độ sinh cho cả Đông Tây đã phần nào được thành tựu. Vòng tròn giờ đây đang được khép lại, tôi thấy rằng đã đến lúc tôi cần trở về Tổ đình để chung sống cùng chư huynh đệ trong những năm tháng này”, lá thư có đoạn.
“Ao ước được trở về sống nơi đất Tổ và xây dựng nề nếp tu học tại Tổ Đình là thao thức thâm sâu nhất của tôi trong suốt những năm qua”.
Sau khi bị đột quỵ năm 2014, theo Làng Mai, trung tâm thiền tập tại Pháp được thiền sư Thích Nhất Hạnh thành lập vào đầu năm 1982, ông “vẫn luôn hiện diện tỉnh táo và mạnh mẽ” dù ông “chưa phục hồi khả năng nói”.
“Thầy vẫn đang tiếp tục sống từng phút giây trong thảnh thơi và an lạc, với sự có mặt đích thực và đầy ý nghĩa, biến những khó khăn thử thách về sức khỏe sau cơn đột quỵ bốn năm trước thành một bài pháp không lời”, theo Làng Mai.










Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong lần trở về Việt Nam năm 2007.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong lần trở về Việt Nam năm 2007.
Trong lá thư, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói rằng “giờ đây chúng ta đã có hàng triệu con cháu của Tổ Đình Từ Hiếu từ những quốc gia khác nhau khắp nơi trên thế giới”.
Ông cũng nói thêm rằng ông “đã quyết định trở về Việt Nam để được sống nơi đất Tổ” và để “con cháu Tổ Đình có gốc rễ và nơi chốn quay về nương tựa”.
Trên dưới không đồng lòng chỉ có phép mầu nhiệm của Phật pháp mới xoa dịu nỗi khổ của người dân Việt Nam!!!
Facebooker Phan Nguyệt viết.
Trên trang Facebook của Làng Mai, một người sử dụng có tên Phan Nguyệt viết: “Thầy thiền sư từ nước ngoài trở về làm cho linh hồn chùa được sống động ai cũng thấy an lạc trong cuộc sống và không ai còn nhìn thấy cảnh náo loạn cuộc sống đời thường của xã hội đang từng ngày diễn ra và tâm hồn hân hoan của các thầy Tăng ni như đón mùa xuân sang đang tới gần với con người. Thật diễm phúc cho đất nước Việt Nam có vị thầy tôn kính và tràn đầy năng lượng sống”.
Facebooker này viết thêm: “Hào quang của Thầy lan tỏa trên khắp cả thế giới nay hội tụ tại Việt Nam. Cho dân Việt Nam có ánh sáng của đạo Phật để xua tan bóng tối u minh màn đêm đông làm cho đất nước không an lạc được, chiến tranh luôn đe dọa con người Việt. Trên dưới không đồng lòng chỉ có phép mầu nhiệm của Phật pháp mới xoa dịu nỗi khổ của người dân Việt Nam!!!”
Nguồn:https://www.voatiengviet.com/a/thien-su-thich-nhat-hanh-muon-han-huyen-trong-tinh-huynh-de/4653623.html

Xin mời xem tiếp:

-PHỤC HỒI: DANH DỰ- TỔ QUỐC- TRÁCH NHIỆM QL.VNCH
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/09/phuc-hoi-danh-du-to-quoc-trach-nhiem_14.html

-CIA Giữ Bí Mật Bắc Việt Đầu Hàng Vô Điều Kiện năm 1973  http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2017/12/cia-giu-bi-mat-bac-viet-au-hang-vo-ieu.html

- NGƯỜI THUA TRẬN  & KẺ THẮNG CUỘC...!!!  {Chiến dịch Linebacker II}
 http://maidayhoabnh.blogspot.com/2012/12/

CIA Giữ Bí Mật Bắc Việt Đầu Hàng Vô Điều Kiện năm 1973 http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2017/12/cia-giu-bi-mat-bac-viet-au-hang-vo-ieu.html

- Chiến dịch thả bom Linebacker-II, I, và 0https://dongsongcu.wordpress.com/2017/10/07/chien-dich-tha-bom-linebacker-ii-i-va-0/


 Xem thêm:
THIỀN ĐỊNH- TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
 https://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/12/thien-inh-tu-do-au-tien-va-cuoi-cung.html

Xem tiếp:
TÀI LIỆU TỰ HỌC CÁCH KHÁM BỆNH VÀ TỰ CHỮA KHỎI CÁC BỆNH

https://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/11/tai-lieu-tu-hoc-cach-kham-benh-va-tu.html

Xin mời xem: Thiên bút ký- Quốc Hồn Việt Nam.
TỰ DO!!- DÒNG SỐNG NGHIỆT NGÃ...MÁU XƯƠNG VNCH- P.1
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/05/tu-do-dong-song-nghiet-ngamau-xuong-vnch_1.html

 Xem thêm:
 

Sống từ đâu đến – Chết đi về đâu?

 https://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/11/song-tu-au-en-chet-i-ve-au.html





A Di Đà Phật Phật Giáo VN Dưới Thể Chế Cộng Sản

https://youtu.be/XSnYPNpx-_U 

 

#thienosho #từđiểnosho #tudienosho

THIENOSHO - Trước khi cái chết gõ cửa, chấp nhận bản thân bạn đi

 https://youtu.be/0tQDolXbsCQ




Xem thêm:
 HỘI CHỨNG CHIẾN TRANH VN
 https://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/11/hoi-chung-chien-tranh-vn.html


 






Tịnh Độ