Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

Việt hóa tiếng Viêt: “hát-xê-em-mờ chấm vi-en”

  Việt hóa tiếng Viêt: “hát-xê-em-mờ chấm vi-en”

Ngôn ngữ nếu không cởi mở, sẽ không thể phát triển và đáp ứng nhu cầu giao tiếp của dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó. Từ bao ngàn năm nay, tiếng Việt không ngừng giao thoa với ngôn ngữ của các dân tộc anh em, các nước láng giềng cũng như những quốc gia khác trên thế giới. Vì thế mà kho từ ngữ chúng ta ngày nay trở nên phong phú và giàu sức sống với hủ tiếu, sên, líp, ti vi, Internet, iPhone, iPad ...

Bên cạnh đó, những từ ngoại lai khác như “shopping” khi vào Việt Nam cũng được người Việt tiếp nhận một cách hồ hởi, hồn nhiên, không hề có bất cứ sự chọn lọc nào. Tại sao từ “mua sắm” trong tiếng Việt có nghĩa tương tự, được người Việt sử dụng hàng ngày trước khi “shopping” (hoặc như “make up”, “order”, “menu”) đổ bộ vào đất nước ta, lại bị “gác” sang một bên. Đó chẳng phải là tâm lý sính ngoại, học làm sang của một bộ phận người Việt của ta hay sao?

Không những người dân mắc phải tâm lý sính ngoại, mà ngay cả không ít học giả, chính khách, phát thanh viên trên đài phát thanh, truyền hình cũng không ngoại lệ. Bất cứ lúc nào tham dự sự kiện, nghe đài, xem ti vi, chúng ta cũng có thể nghe những từ như “ép-đi-ai” (FDI), “vi-en” (VN), “ti-en-ti” (T&T) được nói một cách rất tự nhiên như thể chúng là một phần của tiếng Việt.

Việt hóa tiếng Viêt: “hát-xê-em-mờ chấm vi-en” *

Nhân đây xin nêu ví dụ về lỗi phát ngôn không biết đáng cười hay đáng trách của một phát thanh viên: “... xin truy cập trang “hát-xê-em-mờ chấm vi-en”...” (ý nói hcm.vn, chữ “hcm” được vị này phát âm theo tiếng Việt, còn “vn” thì phát âm theo tiếng Anh). Điều này cho thấy sự tùy tiện và thiếu ý thức trong việc sử dụng từ ngoại lai đã đi sâu vào tâm thức của người Việt, và tiếng Việt lúc này trở nên ngây ngô, thiếu trong sáng hơn bao giờ hết.

“FDI”, “vn”, “make up”, “menu”, “order” đều có thể sử dụng cách phát âm và từ tiếng Việt thay thế mà không hề có sự gượng gạo nào, hoàn toàn rõ ràng, trong sáng. Chưa kể trường hợp đối tượng là người chưa được học tiếng Anh như người nông dân, công nhân, dân tộc ít người, người già... thì việc tùy tiện sử dụng từ nước ngoài chẳng khác nào đánh đố họ, thiếu tôn trọng người nghe. Xa hơn nữa, việc lạm dụng tiếng nước ngoài còn cho thấy tâm lý tự ti, nhược tiểu của người sử dụng.

Nếu cho rằng việc sử dụng tràn lan từ ngoại lai sẽ giúp chúng ta hội nhập, giao lưu tốt với người nước ngoài, thì xin thưa đây chỉ là cách nói ngụy biện.

Trong thời đại giao lưu và hội nhập sâu rộng như hiện nay, mọi mặt trong đời sống đều có thể bị ảnh hưởng từ bên ngoài, ngôn ngữ cũng không ngoại lệ. Nhưng đối với tiếng Việt, cần phải ra sức bảo vệ, vì đó là bản sắc của dân tộc Việt. Nếu bản sắc mất đi, tiếng Việt chỉ còn một cái xác không hồn. Giữ gìn tiếng Việt là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Một dân tộc không còn bản sắc, chắc chắn sẽ mất đi sự tôn trọng từ bạn bè thế giới, mọi thành quả từ giao lưu, hội nhập, phát triển mà chúng ta đạt được đều trở nên vô nghĩa.

Cũng như Quốc ca, ngôn ngữ mẹ đẻ bao giờ cũng chứa đựng niềm tự hào, tính thiêng liêng của dân tộc. Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của người Việt, do đó việc giữ gìn và phát huy tiếng Việt phải là nghĩa vụ, niềm tự hào của tất cả người Việt Nam.

Theo TBKTSG
Nguồn: https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7340671464445856698#editor/target=post;postID=6094659099830930081


Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

TÌNH NGƯỜI TRONG CUỘC CHIẾN

 
Sài Gòn Xưa & Nay
Sài Gòn Xưa & Nay
Trang đã thích · 18 Tháng 11 ·


Sài Gòn những năm 1964-1965 - Những Cánh Hoa Dù lộng gió của những Người Lính "Thiên Thần Mũ Đỏ" thuộc Binh Chủng Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa vừa ra khỏi phi cơ và đang tung bay trên bầu trời ngoại ô Sài Gòn.
 
Mai Nguyễn Huỳnh Bài viết rất hay, có giá trị về tính nhân bản của người lính chiến QL.VNCH. Họ chiến đấu và tư duy theo thuyết hiện sinh: " Nhân sinh Tự Do! ". Xin chia sẻ bài viết hay này về trang Blog Mai Đây Hòa Bình- Rất cảm ơn Tác giả và Sài Gòn Xưa & Nay

TÌNH NGƯỜI TRONG CUỘC CHIẾN
Trương Văn Út (Mũ đỏ Útbạchlan)

Sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào, Trinh Sát 2 Nhẩy Dù tương đối còn nguyên vẹn, trong khi Trinh Sát 3 Nhẩy Dù (TS3ND) gần như bị xóa sổ ở vùng đồi 31 tại Hạ Lào cùng với Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn3 Nhẩy Dù (LĐ3ND)…! Sau đó Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù được tái thành lập nhanh chóng và được lệnh hành quân thực tập với một Lữ Đoàn Không Kỵ Hoa Kỳ tại Phước Vĩnh thuộc tỉnh Phước Long. Vì TS3ND đang trong tiến trình tái thành lập và huấn luyện, thụ huấn Viễn Thám, Rừng Núi Sình Lầy, nên Trinh Sát 2 Nhẩy Dù (TS2ND) được điều động tăng phái hành quân cho LĐ3ND. TS2ND vốn là lực lượng 81Biệt Cách Dù (LL81BCD) nên rất nhuần nhuyển khi hành quân phối hợp với Không Kỵ Hoa Kỳ (US First 1st Cavalry Division) , các toán Viễn Thám hoặc Trung Đội Trinh Sát thường được thả xuống những mục tiêu xa các căn cứ hỏa lực chừng vài ba chục cây số chỉ nhờ sự bảo vệ của không yểm…

Tháng 5 năm 1971:
Trong buổi họp hành quân đầu tiên với Đại Tá Trương Vĩnh Phước,( tân Lữ Đoàn Trưởng LĐ3ND, thay thế cho Đại Tá Nguyễn Văn Thọ bị Việt Cộng bắt ở ngọn đồi 31 Hạ Lào), cùng với các vị Tiểu Đoàn Trưởng thống thuộc LĐ3ND…Giai đoạn đầu cuộc hành quân, các Tiểu Đoàn Nhẩy Dù được trực thăng vận nhẩy vào những mục tiêu tương đối an toàn để thiết lập căn cứ pháo binh trong khu vực trách nhiệm, trong khi Trinh Sát thả các toán viễn thám vào Chiến Khu D của Việt Cộng…Trong giai đoạn này, tôi được toàn quyền xử dụng một trung đội trực thăng gồm một C&C chỉ huy, 12 slick chở quân, và 2 trực thăng võ trang Cobra hộ tống yểm trợ (cấp số phi cơ trong quân lực Mỹ khác với danh từ Phi Đội, Phi Đoàn của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà), cùng với 5 Sĩ Quan cố vấn Mỹ. Ba toán viễn thám lần lượt được thả vào ba mục tiêu do Bộ Chĩ Huy Lữ Đoàn (BCHLĐ) ấn định. Thời gian xâm nhập là 7 ngày và lộ trình phải hành quân qua năm mục tiêu…2 ngày trôi qua với những báo cáo hoàn toàn vô sự, nhưng vào lúc 11 giờ đêm thứ ba nhận được công điện khẩn của Toán Viễn Thám 2 (TVT2) nội dung như sau:
- Chúng tôi đang ở ven đô, chưa bị lộ, an toàn .
Tôi hiểu ngay là họ đã khám phá một căn cứ rất lớn của Cộng Quân, tôi vội vã check lại vị trí và khu vực rồi báo ngay cho phòng hành quân Lữ Đoàn, sau đó trả lời cho toán Viễn Thám:
- Nằm yên đừng nhúc nhích báo cáo cách khoảng mỗi giờ.
Suốt đêm hôm đó tôi không ngủ , Ban 3 Lữ Đoàn (B3LĐ) cũng không ngủ, tôi biết sẽ phải làm gì để chuẩn bị cho sáng sớm ngày mai… Đến 4 giờ sáng tôi triệu tập 4 Trung Đội Trưởng Trinh Sát và Hạ Sĩ Quan Thường Vụ ra lệnh:
- 4 ngày lương khô, 3 cấp số đạn dược...lên trực thăng lúc 7 giờ sáng…!
…và tôi cũng yêu cầu Lữ Đoàn đổ quân một lần và phải tăng cường thêm trực thăng slick để bốc 170 quân xông vào chiến địa. Lời yêu cầu này được thoả mãn ngay, vì cả Lữ Đoàn Không Kỵ với huy hiệu "đầu con ngựa " đang có mặt tại phi trường Phước Vĩnh, tất cả binh sĩ rất háo hức, hăng say “ready” chờ xung trận …!!! Phi cơ quan sát OV10 cho biết, mục tiêu là cả một khu rừng tre dày đặc nên không thể xác định vị trí của toán VT2, vì toán này không thể dùng panal vàng và kính phản chiếu để làm hiệu. Bãi đáp (LZ) được chọn là một đầm lầy đường kính khoảng 100 mét, cách mục tiêu 500 mét, cách biên giới Miên-Việt 2 cây số. Vừa đặt chân xuống bãi đáp nước ngập ngang hông tôi nói với Trung Úy cố vấn Berry:
- Go ahead, make your day !!!
Toán VT2 bung trái khói, OV10 hướng dẫn 4 trực thăng Cobra hoả lực chiến đấu nhào xuống như những con mãng xà vương “Hổ Ngựa Không Kỵ” gầm rú bắn phá phóng hằng loạt rocket, lửa đạn bùng vỡ long trời, lỡ đất…trong khi chúng tôi "bôn tập" ra xa khoảng 500 mét trong vòng 5 phút, và dưới sự hướng dẫn của VT2, chúng tôi xung phong xông vào mục tiêu, trong khi bốn chiếc Cobra vẫn còn hung nộ nã từng tràng đạn auto phóng lựu M79 và rocket, tiếng nổ kinh hồn xé nát không gian, lửa bùng cháy đỏ rực một góc rừng…!!! Chúng tôi bung ra lục soát và khám phá ra nơi đây là một bệnh xá cấp trung đoàn của Việt Cộng và có lẽ địch “đánh hơi” biết trước được quân “lính Dù” Việt - Mỹ hành quân truy lùng càn quét, nên chúng đã vội vả di dời, bỏ chiến khu độ chừng một hai ngày qua, nơi đây những bếp lò hãy còn hơi nóng, dụng cụ y tế cứu cấp vẫn còn trong các ngăn tủ làm bằng tre nứa, vườn trống nhà không vắng bóng người…! Tôi cho lệnh binh sĩ bung ra lục soát với chu vi mở rộng và đường kính từ 500 mét đến hơn một cây số...tình hình yên tĩnh, địch đã tháo chạy ra xa, không một tiếng súng chỉ còn nghe tiếng cánh quạt trực thăng xé gió phành phạch tung hoành trên bầu trời suốt ngày hôm đó…!!! Chúng tôi đóng quân qua đêm trong những dãy nhà lợp rơm dưới rừng tre dày đặc… Sáng sớm ngày hôm sau, trong tay đang cầm chiếc ca dã chiến lưng lững cà phê sữa nóng từ Ration C (phần lương khô cá nhân của quân đội Mỹ) tôi nhận được báo cáo của Trung Đội 1 cách tôi khoảng 500 mét tới 700 mét là:
-Đích thân, tụi em vừa chụp được ba con nhạn la đà...!!!
Tôi liền nói với Trung Úy Thinh Đại Đội Phó của tôi và cố vấn Trung Uý Berry là tôi chỉ đi quan sát tình hình và về ngay, không cho họ biết tin là Trung Đội 1 vừa bắt được tù binh!
Trong căn chòi với cuốc xẻng ngỗn ngang trên sàn, bên dưới là một căn hầm trú ẩn chứa vài ba người ngồi co ro, họ là ba cô gái trên dưới hai mươi, tay bị trói ngoặc ra sau lưng với những đôi mắt đầy vẻ lo âu sợ hãi…! Tôi hỏi Thiếu Úy Sang:
-Anh đã lấy khẩu cung sơ khởi chưa ?
-Dạ có.
-Có cho họ ăn uống gì chưa ?
-Dạ cơm sấy và thịt ba lát...
Tôi ra lệnh cởi trói cho “3 con nhạn” nhưng ba nòng súng M16 của binh sĩ đạn đã lên nòng để phòng bất trắc…Liếc sơ qua ba trang giấy viết nguệch ngoạc “khẩu cung”, tôi để ý ngay đến tên: Nguyễn Thị Yến, sinh quán ở Chợ Gạo, Mỹ Tho, học sinh trường bán công Thiên Hộ Dương, vào bưng cuối năm 1969 và hiện là y tá cho bệnh xá này cùng hai nữ “đồng chí” đang run sợ muốn vãi đái đáng tội nghiệp kia tên là: Trần Thị Ánh và Ngô Thị Hạnh…cả 3 bị phát hiện và bị bắt trong lúc trốn chui ẩn nấp dưới hầm vì phải tuân lệnh thủ trưởng với nhiệm vụ giao liên là: “…nằm lại, bám thật sâu, thật sát, nắm bắt tình hình quân địch để báo cáo ngay sau khi quân " Ngụy " rút đi…”…! Tôi nói:
- Ba cô ngồi xuống đất đi, “bình thân” thôi đừng có quỳ gối nữa…! Tôi hỏi cáí gì trả lời cái đó.
Tôi quan sát Nguyễn Thị Yến có một gương mặt trái soan, trông hiền lành có duyên, tóc bới đuôi gà, nếu buông xõa sẽ chấm ngang vai, nước da trắng của gái miệt vườn nhưng hơi xanh xao vì sống ẩn nấp lâu ngày, dài tháng dưới tán lá cây rừng trong mật khu bị thiếu ánh mặt trời soi rọi …Yến tuổi Mậu Tí sinh năm 1947, học đến hết năm đệ tam bậc trung học thì nghĩ học, ở nhà phụ giúp mẹ trông coi mãnh vườn dừa hơn một mẫu ở ven kinh Chợ Gạo… Theo “nàng” kể: năm 10 tuổi, cha nàng theo kháng chiến Việt Minh rồi bị mật vụ của Cụ Ngô Đình Diệm bắt giam, tra tấn hơn ba năm, sau được phóng thích và qua đời sau vài tháng vì bị bệnh lao phổi…Gia đình Yến sống trong vùng xôi đậu, ban ngày với dân vệ xã ấp giữ an ninh, ban đêm cán bộ Việt Minh về làng hoạt động, những đồng chí của cha nàng vẫn thường xuyên liên lạc với mẹ nàng…Họ tuyên truyền gieo vào đầu óc ngây thơ của nàng những oán hận là phải trả thù cùng với những lời hứa hẹn tương lai tốt đẹp khi cách mạng thành công…! Năm 1967, Yến vừa tròn 20 tuổi, nàng bắt đầu hoạt động cho Việt Cộng với nhiệm vụ liên lạc với các tổ nội thành ở chợ hàng bông Mỹ Tho. Sau hai năm với nhiều công tác suông sẽ, nàng được kết nạp vào Đảng Cộng Sản - Chi Bộ Chợ Gạo. Trong trận “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968”, một trong các tổ “quỉ” nội thành Mỹ Tho bị Đơn Vị 101 và An Ninh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà tóm gọn ! Nàng được lệnh "vào bưng"...Tôi hỏi:
- Hôm nay cô bị bắt và đang ngồi đối diện với tôi, cô có biết số phận của cô sẽ ra sao hay không ?
- Thưa anh, con người ta sinh ra đời, ai…ai cũng cầu Sinh, chớ chẳng có mấy ai đâu cầu Tử, chết hay sống đều có định số như an bày cả rồi, có cải số phận được không …bây giờ cũng vô ích thôi ! Huống hồ gì… cho rằng: “đức năng thắng số, hay tận nhân lực tri thiên mạng” gì gì… đi nữa… thì đối với các anh phía VNCH thì em có tội, nay em đã bị các anh bắt thì tùy các anh định đoạt thân phận của em như cá nằm trên thớt…?!
Tôi lắng nghe Yến nói trong âm điệu như bình thản an phận xen lẫn có chút bùi ngùi, là tâm tư và cũng là “trí thức” chăng “nó” có chút chiều sâu tơ vương lãng đảng vô hình tư tưởng nghiệp lực, nhân duyên trớ trêu dính mắc vào người…! Tôi bỗng thẩn thờ xao động trong giây phút, không ngờ một cô gái còn trẻ tuổi cả gan đi theo Việt Cộng kháng chiến chống chế độ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà, mà lại tin vào duy tâm thay vì duy vật…! Tôi hỏi thêm thì cô trả lời: học đến đệ tam ban C (Hán văn). Tôi móc bao thuốc Quân Tiếp Vụ mồi một điếu, hỏi tiếp:
-Cô có thể cho tôi biết rõ thêm vì sao cô vô đây, vì thù hận hay hoàn cảnh đưa đẩy… hay vì một lý tưởng nào đó…?
-Thưa anh, thù hận thì có…vì ba em “bị giết”, hoàn cảnh thì cũng có… vì sau Tết Mậu Thân tông tích em bị lộ nên phải nghe lời các chú, các bác… đành phải gạt lệ ra đi để lại Mẹ già đơn chiếc, quạnh hiu một mình nơi quê nhà…! Còn nói về lý tưởng thì em lờ mờ chẳng hiểu biết gì…em có đọc được vài quyển sách nói về tiến trình hình thành tôn giáo của con người, từ khởi thủy là Duy Thần rồi Duy Tâm, Duy Ngã, Duy Linh. bây giờ biết thêm Duy Vật..Nhưng đối với em Duy gì gì đi nữa… em cũng không tin và không quan trọng… em chỉ biết sống, thì mạng sống con người là quan trọng hơn tất cả mọi sự việc trên cõi đời nầy…!
Tôi chú tâm nghe rõ từng “chữ” cô Yến nói như trải lòng và cãm thấy thú vị với cô “Việt Cộng” nầy và tự nhủ: trước mặt mình là một nữ tù binh, lại có thể đối đáp bình thản, mạch lạc tư tưởng như vậy, nhất là khi cô nói đến câu " …sống, thì mạng sống con người là quan trọng hơn tất cả mọi sự việc trên cõi đời nầy…” !!! Tôi tự hỏi lời cô “VC” nói hao hao, mang máng, chuyên chở ý tưởng của Duy Nhân Biện Chứng mà tôi đã từng đọc qua một số trong 28 tác phẩm “Duy Dân Cương Thảo Toàn Pho” tác giả Lý Đông A nhà cách mạng lập thuyết Nhân Chủ khi tôi còn ở ngưỡng cửa đại học …? Tôi chậm rải hỏi tiếp:
- Bây giờ cô đã bị chúng tôi bắt giữ, cô có còn hy vọng gì với mạng sống của riêng cô hay không ? Yến ngước nhìn tôi với ánh mắt buồn u uẩn rồi nhìn buông cõi xa xa như nói thầm với chính nàng:
- Như em đã thưa...chết sống đều có số mạng ! Có người muốn chết mà chết không được, còn người muốn sống thì định mệnh lại cướp họ đi…! Hy vọng của em đang nằm trong tay các anh, hy vọng ngày mai hay tương lai nào ai đoán biết trước được…?!
Người hiệu thính viên bước vào và ra dấu cho tôi ra ngoài vì có điện đàm với Thiếu Tá Tùng (Khoá 19 Đà Lạt) Trưởng Ban 3 Lữ Đoàn: Lệnh ngày mai di chuyển đến mục tiêu bên kia sông Bé và tiến sát đến biên giới Miên-Việt, vào giờ G sẽ có trực thăng võ trang Cobra Hoa Kỳ "dọn bãi" trước khi chúng tôi vượt sông. Tôi trở vào “hiện trường” cố tình “phán” lớn tiếng căn dặn vớiThiếu Úy Sang:
-Đêm nay cho ba cô ăn uống đầy đủ, bỏ vào túi vải của họ mỗi ngưòi một phần lương thực Ration C, rồi đem ra xa...bắn bỏ !!!
Truyền chỉ thị thi hành cho thuộc hạ xong, tôi vội vả trở gót đi nhanh để khỏi phải nhìn thấy những đôi mắt ngỡ ngàng kinh hoàng của ba cô cán bộ “vẹm” tuổi đời đương độ xuân thì…!!! Tôi không biết trong số ba “tử tội” đáng thương hại sắp bị dẫn đi “bắn bỏ” đó, có ai thông minh chợt hiểu vì sao lệnh xử tử mà còn lại được cẩn thận “ban” cho mỗi người một phần lương khô cá nhân đem theo, không lẽ để mang về bên kia thế giới cõi ma mà “thọ hưởng” ẩm thực …?!!! Bất giác tôi mỉm cười thú vị và tưởng tượng cảnh ba “tử tội” sẽ sợ té đái khi tràng súng nổ xé màng tai để tống tiễn đưa ba “nàng” về cõi sống…!!! Trên đường đi trở lại chổ đóng quân tôi suy nghĩ: Chúng ta từ cõi hư vô nào thai sinh đến cuộc đời nầy, cách sông, cách núi, qua biển, qua triền đồi thẳm vực…luân cư, định cư…là người da đen, da đỏ, da trắng, da vàng…khác chủng loại chăng ? Nhưng tựu chung đã là Người thì “nhân sinh kế tại ư xuân”, Nhân Tính hầu hết đều giống nhau là tham sống và sợ chết…và đã là Người chưa đủ, mà phải học và hành, trau giồi nhân phẩm để được làm Người (viết Hoa), chứ không chỉ là loài thụ tạo vô tri, vô giác bất mộ nhân tố …vậy thì phải sống theo Nhân Đạo là con đướng lớn thẳng mà Đạo Lý “cái” nhất định con người phải noi theo để đạt đến đích điểm dự cầu là sống tự do, hạnh phúc trong hoà bình với những chặng tiến hoá tất yếu của loài người…mà từ thuở lọt lòng lớn lên biết nghe, biết học, biết viết… từ trong gia đình chí cho tới học đường ai ai cũng được Ông Bà, Cha Mẹ, Thầy Cô, Anh Chị, Cô Bác láng giềng dạy dỗ như hun đúc với “Khuôn Vàng, Thước Ngọc” lấy Nhân Ái là tâm từ bi, thương yêu mà đối đãi, cư xử với nhau, giữ giềng mối Nhân Luân như: Đạo Vơ Chồng, ơn nghĩa Ông Bà, Cha Mẹ, Thầy Cô, tình nghĩa Huynh Đệ ràng giữ hài hoà với nhau…Tôi không thể ra lệnh giết những cô gái yếu đuối thế cô, trong tay không có một tấc sắt làm vũ khí để tự vệ, cho dù họ ở bên kia chuyến tuyến, tuy có đối nghịch và đối phương đằng đằng sát khí hận thù chúng tôi, do tuyên truyền nhồi sọ “ý thức hệ” chính trị giảo hoạt, chứ thực tế ngay chính tôi đây là một quân nhân cầm súng chiến đấu, vào sinh ra tử, đời sống dính liền với trận mạc lặn lội, xông pha từ những khu chiến thuật núi rừng bạc ngàn, đèo heo hút gió cho đến có những chiều mây mù giăng giăng khắp n ẻo sơn khê, áo trận ướt đẫm lành lạnh, không biết là hơi sương rừng hay mồ hôi làm se lạnh nỗi chạnh lòng đời lính lắm gian khổ, nhiều hiểm nguy…! Tôi phải phát triển tối đa tài năng chỉ huy, chiến đấu tính trội vượt hơn quân địch ngàn lần để chiến thắng và bảo vệ, giữ cho binh sĩ tổn thất ít nhất …tôi vẫn ít có khi nào phải lâm vào trường hợp căm thù địch quân để “thề phanh thây, uống máu quân thù…” như Bắc Quân VC đã học tập thành quán tính ác độc đối xử vô cảm, tàn sát đồng bào cùng chủng tộc “Họ Hồng Bằng” (chim Hồng lớn, chim Bằng, chim Bồ Nông bắt cá, biểu tượng khắc vẻ trên mặt Trống Đồng)…? Trong nỗi niềm thông cảm và thương cảm hoàn cảnh của ba cô y tá Việt Cộng bị bắt trong Chiến Khu D, tôi đã quyết định theo lương tâm của con Người lương thiện mà thả họ trở về với đời sống tự do và hy vọng họ sẽ trở lại làng quê, chốn cũ để đoàn tụ với thân nhân trong mái gia đình bình yên và hạnh phúc…! Bất giác tôi cảm thấy có nỗi buồn mang mang như buổi chiều cuối năm còn dẫn quân di hành dọc theo con đường hương lộ và trời dần tối mờ mờ chỉ còn le lói chút ráng chiều chưa nỡ tan phai .

Có những chiều mưa buồn giăng giăng khắp lối
Có những chiều giá lạnh tím cả hoàng hôn
Tôi di qua thôn xa heo hút lưng đèo
Rừng cây hoang vắng tiêu điều
Và lòng như thấy cô liêu…!
Mấy năm trời cuộc đời quân nhân đây đó
Mấy năm trời xuôi ngược cuối nẻo đường xa
Tôi đây mang tâm tư anh lính xa nhà
Mà lòng vẫn thấy xót xa
Vì non nước còn đau buồn…!

30 Tháng 4 Năm 1975 Cuộc “Bàn Giao” Miền Nam:
Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà đầu hàng Bắc Quân Việt Cộng. “kẻ xấu đã thắng” cuộc (phát ngôn của Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội Liên Bang Mỹ Senetor John Mc Cain) lên ngôi, Người (viết Hoa) bại trận, xuống làm thân trâu ngựa với bao nỗi chua xót đau buồn…! Cóc nhái, ếch ễnh ương, loài sâu bọ, lũ súc vật “tất tần tật” nhẩy bàn độc, chấp đôi cánh lên “giời” hiển lộ vạn sự ác độc, gian trá, tàn bạo và ti tiện của đám vốn gốc bần nông vô học kinh niên và di căn dòng giống mò cua, bắt ốc, leo trèo hái quả của thời chưa tiến hoá…chúng tự ti mặc cảm “quê một cục” nên cố căng hết “giây cót” vênh váo thị uy quyền lực bèn hằn học, hung hăng trả thù và chiếm đoạt tất cả của cải, tài sản luôn cả thân “xác” xinh đẹp phụ nữ “Nguỵ Quân, Nguỵ Quyền” miền Nam là thiên đường mà cả đời nằm mơ chúng cũng không bao giờ dám nghĩ tới, huống chi là thẳng tay chém giết, “vô tư” cướp bóc dễ dàng và hả hê loài thú dữ thay khoác lên thân thô bỉ còn dính bám đầy đất phèn bằng lớp lông vàng ròng óng ánh mới, chúng loi nhoi tràn vào chợ còn nguyên dạng cáo đồng, nanh vuốt còn ngay ngáy mùi tanh của máu tươi nạn nhân Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam thua trận…! Thân phận tôi nay như “bèo giạt hoa trôi” tựa đám lục bình bềnh bồng lững lờ trên dòng sông Tiền Giang mang theo nhiều kỷ niệm của thời học trò với áo chemise trắng, quần xanh ngày ngày đến trường nô đùa và học hành với Thầy, Cô và phấn bảng…! Nay gặp buổi “thế thời phải thế” tôi đang ngồi “yên hùng” trên xe xích lô, chân nhấn bàn đạp, chạy qua các đường ngõ ngách phố phường nội thành Mỹ Tho, chân mõi nhừ run rẩy, mồ hôi nhễ nhại nhỏ giọt chảy lăn dài xuống má pha lẫn với nươc mắt vì nhớ đến những lần về phép thăm gia đình, quanh quẩn bên Mẹ hiền như những ngày còn thơ dại không muốn rời xa…! Nơi đây là Công Viên Lạc Hồng, Công Viên Dân Chủ, kia là sân banh, ngôi trường Nguyễn Đình Chiểu, Bến Phà Rạch Miểu, Cầu Quây, Chợ Cũ, Chợ Vòng Nhỏ...nay nơi nơi rực màu cờ đỏ, màu máu tươi đã nhuộm đen và phủ chụp đời tôi trên yên chiếc xe xích lô này, tôi còng lưng đạp miệt mài chở khách để độ nhật qua ngày….! Có những chiều hôm trời mưa mù mịt không còn thấy ánh đèn vàng vọt bóng điện đường, nhà nhà đã đóng cửa im lìm, tôi ngồi lọt thỏm trong lòng chiếc xích lô, bụng đói lã vì cả ngày ế khách, tai nghe tiếng mưa gió rít từng cơn qua tấm bạt che không đủ kín làm ướt lạnh thêm nỗi cơ hàn…! Tôi cảm cảnh đời khốn khổ vây kín, làm thân cá chậu chim lồng phải luôn cảnh giác hiểm nguy rình rập, nơm nớp lo sợ bị nghi, bị bắt và bị giết trả thù “quân Dù nguỵ ác ôn có nợ máu với nhân dân” …rồi mệt lã ngủ thiếp đi, trong cơn mơ chợt tỉnh giấc còn cảm giác luyến tiếc chiếc xe Jeep có huy hiệu Nhẩy Dù và chiếc “cần câu” antena của đơn vị dành cho tôi xử dụng công vụ …và lung linh ảnh hiện đôi mắt đen buồn xa vắng của người em gái nhỏ bên vuông cửa nhìn theo bóng quân qua làng:

Gởi theo ánh mắt mơ màng
Chiều mưa đồng tháp nhớ hàng quân qua !
Ôi thật:
Đẹp làm sao trong giây phút phân kỳ
Trong ánh mắt đã say mầu quên lãng…!

Nhưng rồi mưa hắt hiu lạnh, chợt tỉnh giấc, bẽ bàng tiếc nuối biết đấy chỉ là mơ thôi …!

Rồi Có Một Ngày Kỳ Diệu Đã Đến:
Tôi thả một người khách ở bến xe, đạp tà tà trở về Chợ Hàng Bông để "lên tài", qua khỏi ngã năm cây xăng tới cư xá công chức bên sau nhà thờ Tin Lành, thấy một phụ nữ còn rất trẻ vẩy tay ra dấu gọi, tôi đưa tay kéo thắng tấp xe vào lề. Người phụ nữ nhìn thoáng tôi rồi bước lên xe và nói:
- Chú chở tôi tới Bệnh Viện Mỹ Tho.
Tôi gượng lấy thế, lại cong lưng nhấn bàn đạp xe lao tới, đoạn đường từ đây tới Bệnh Viện Mỹ Tho chỉ non một cây số, đến nơi “bà” xuống xe lúi húi móc túi xách tay trả cho tôi hai đồng. Khi đưa tiền cho tôi, “bà” lại nhìn mặt tôi như quan sát và lần này tôi thấy vẻ mặt của “bà” hơi khác thường, cử chỉ lúng túng như có một điều gì bất chợt khiến bà tần ngần…?Trong tâm tôi cũng có một “cái” gì đó dao động như viên sỏi thả vào mặt hồ ký ức mông lung xa xưa và chưa hẳn phai mờ…Tôi bỗng dạn dĩ cố nhìn kỷ gương mặt và ánh mắt của “bà”, khuôn “trăng” nầy, ánh mắt nầy, âm điệu lời nói tuy ngắn ngủi khi nãy… như có gì quen thuộc mà tôi đã từng gặp “gỡ” ở đâu…? Nhưng thôi đi, mình phu xích lô mà ! “Bà” ta lấy lại “vẻ” bình thường rồi nói:
- Chiều nay, tôi có vài việc cần phải đi một vài chỗ. Khoảng 5 giờ chiều chú đến đón tôi được không ? Chú cứ chờ ở đây khoảng vào giờ đó, tính bao nhiêu tôi sẽ trả.
- Dạ tôi sẽ đến trước 5 giờ và chờ “bà”.
Tôi dao động vì tôi đã nhìn và nhận ra gương mặt trái soan cùng đôi mắt đen láy thông minh cùng giọng nói của “bà” Nguyễn Thị Yến quê quán Chợ Gạo Mỹ Tho, cô đã bị đơn vị tôi bắt và thả ra trong Chiến Khu D từ 5 năm trước kia. Tiếp tục công việc, tôi đạp xe trở lại bệnh viện trước giờ hẹn để đón “bà” khách "xộp". Yến từ hành lang bước ra vội vã lên xe xích lô của tôi và đột ngột thay đổi cách xưng hô:
- Anh đưa em xuống Chợ Cũ để thăm một bệnh nhân, chờ em rồi đưa em về nhà.
Ngồi trên xe, Yến cứ quay đầu lại nhìn tôi nhiều lần, có lần nhìn chằm chặp vào gương mặt rám nắng, râu ria lõm chõm gầy hóp của tôi….Tôi hoang mang có chút lo âu vì bản thân đang sống trong tình trạng kẻ bị tầm nã, trốn trại tù ! Không biết Yến đang làm gì, nhưng chắc chắn phải là phải cán bộ có chức sắc của chế độ mới, nếu không thì làm sao ở cư xá công chức sang trọng nhất của thành phố này ? Trên đường trở về nhà, Yến bất chợt quay nhìn lại và hỏi tôi :
-Trước năm 75 anh có đi lính Nhẩy Dù không ?
-Dạ có, nhưng tôi giải ngũ trước khi giải phóng, vì bị thương gãy chân…! Tôi bịa chuyện nói dối tránh né.
-Năm 1971 anh có đi hành quân ở Sông Bé tỉnh Phước Long hay không ?
Tôi trả lời ngay là không. Tôi đoán biết Yến đã nhận ra tôi nhưng chưa chắc nên mới hỏi thăm dò những câu hỏi huỵch tẹt ra như thế. Trước kia tôi thẩm vấn cô, ngày nay cô thẩm vấn tôi, ngẫm sự đời “tạo hoá” hay định mệnh thật là trớ trêu…? Về đến nhà, Yến xuống xe, móc ví nhét vào tay tôi tờ giấy bạc “cụ Hồ” 50 đồng và căn dặn :
- Tám giờ ngày mai, em chờ ở đây, anh đến đón em đi làm.

Nếu biết Hữu Duyên sao không Tao Ngộ,
Nếu biết Nghiệp Chướng sao không Hữu Phùng ?

Nhưng:

Nếu biết cuộc đời là hữu phùng, hữu biệt
Thì tôi xin như mây trắng mãi ngàn phương…
Nếu biết cuộc đời là sầu đa lạc thiểu
Sao chân cầu còn lưu luyến nước trường giang ?
Ai đã qua sông còn ngoảnh vời cố quận,
Thiên lãng xa, ải nhạn hướng đâu tìm ?
(MĐTTA)

Câu Chuyện Của Nguyễn Thị Yến:
Sau những tràng đạn nổ vang, em hồn phi phách tán, năm mười phút sau mà cứ tưởng mình đã chết, khi tỉnh hồn, em với Hạnh, Ánh lội qua sông Bé và tìm gặp được đơn vị cũ rồi cứ chạy miết qua bên Miên, cho đến ngày được lệnh chuẩn bị cho chiến trường An Lộc, em được cân nhắc lên chức vụ Y Tá Trưởng của Công Trường 5 vì bởi thế cô, cánh hoa trong tay lang sói, em bị ép uổng, phải trải qua tay bao nhiêu thằng thủ trưởng khốn nạn, chúng thèm khát và lạm dụng thân “xác” em như đồ vật để thoả mãn bệnh thái dâm dục tiêm nhiễm nhiều thú tính man rợ hạ liệt nhơ nhớp thấp hèn…! Đôi khi em muốn tự tử, lại nghĩ tới Mẹ già hiu quạnh luôn ngóng chờ tin con, rồi lại không dám chết, em như cái xác sống phó mặc cho cảnh đời đưa đẩy và em nghĩ tới anh, thầm hỏi tại sao lúc đó anh không hỏi đơn vị của em ở đâu, có bao nhiêu người, đang di chuyển và trú đóng ở nơi nào… mà chỉ “tra vấn” em những câu rặt Tình Người rồi bày kế “xử tử” bọn em bằng những loạt đạn bắn chỉ thiên…? Bao nhiêu năm phải chung sống với bọn chúng, em chỉ thấy toàn là giả dối, dốt nát, ngu đần…Em thật sự ngán ngẫm, muốn thoát ly nhưng cảnh ngộ như những gọng kìm khép chặt vào chân đành thúc thủ chịu trận cho qua ngày tháng…! Ừ thôi, thì cứ tự an ủi có lẽ nghiệp chướng vay từ kiếp nào theo đuổi báo oán, trong kiếp nầy phải trả mà thôi…?! Sau “giải phóng” 30 tháng 4 năm 1975, em xin về quê quán Chợ Gạo để quán xuyến mãnh vườn của Cha Mẹ để lại. Nhưng chúng nó giữ lại và cho em làm Phó Giám Đốc bệnh viện Mỹ Tho dưới quyền cai quản của con mẹ mập i tờ rít từ ngoài Bắc cử vào. Đến năm 1976 em kết hôn với anh Tân là cựu Giáo Sư dạy văn chương ở trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, nhờ vào chức vụ Phó Giám Đốc của em, “chính quyền” cấp cho em một căn hộ trong cư xá vốn là nhà của một công chức chế độ trước bỏ nước ra đi trước tháng tư 1975, hiện nay em đã có hai con với chồng. Nhiều lần tâm sự, em bàn kế với Tân là mình phải tìm đường đi ra khỏi nước vì không thể sống với bọn man di mọi rợ này được…! Tân khuyên em nên kiên nhẫn chờ sự bảo lãnh của người em ruột của Tân đang định cư ở New Orlean, Louissiana…
Tôi ngồi yên lặng trong căn phòng khách xinh xắn nhà của Yến và lắng nghe nàng nói như giải bày tâm sự, chiếc xích lô của tôi được khóa cẩn thận bên ngoài, chồng và hai con của Yến đang xem truyền hình trên lầu. Yến vẫn nghĩ rằng tôi là một Sĩ Quan Nhẩy Dù đã đưọc giải ngũ trước “trận hồng thuỷ” và tôi cũng không hề hé môi để lộ tông tích của mình đang mang tội vượt ngục và dám tham gia kháng chiến với “Sư Đoàn Tiền Giang”. Bỗng Yến chợt hỏi:
-Hay là em để kiếm một việc làm cho anh trong bệnh viện của em ?
-Không ! Cám ơn cô, tôi “có đường đi” và cũng chưa biết đi đâu…? Nhưng tôi phải đi, cho dù phải trả giá bằng mạng sống của chính mình, chắc cô cũng biết…? Nay vì ân tình nghĩa lụy, cô đã giúp cho tôi có thêm nghị lực để mạnh dạn bước tới với cảnh ngộ khó khăn như thuyền trôi mắc trên khúc sông cạn…và mãi tới hôm nay tôi vẫn còn nhớ như in là cô đã trả lời câu hỏi của tôi: " mạng sống của con người là quan trọng..". Rồi từ sau đó tôi rời bỏ quê hương mà trong lòng vẫn không quên hình ảnh cô Yến ở Chợ Gạo và là Duyên-Nghiệp tao phùng kỳ diệu từ buổi gặp gỡ nhau trong chiến khu D.

Năm 2014 Tại Mỹ:
Một cú điện thoại lạ với zip code 508 từ vùng Boston, Massachusetts:
- Dạ tôi là Tân… xin được nói chuyện với anh Út Bạch Lan ạ !
- Dạ tôi Út Bạch Lan nghe đây.
- Dạ thưa anh…em là Tân, chồng của cô Yến Chợ Gạo đây ạnh ạ…! Em có quen với một vài người bạn, họ nói biết anh, em xin số điện thoại và gọi cho anh… Vợ chồng em có đọc bài “Trinh Sát 2 Nhẩy Dù” của anh, trong nội dung bài viết có “nói” là bắt được ba cô y tá “vẹm” ở Chiến Khu C, nhưng vợ em tên Yến lại bảo em phải cố liên lạc ngay để nói với anh là Chiến Khu D chứ không phải C. Tụi em qua Mỹ được sáu năm rồi, mọi việc cũng ổn định, Yến cứ nhắc đến anh hoài, anh nói chuyện với Yến nha, để em chuyển phone cho vợ em . Trong tâm của tôi có nhiều xúc động vui mừng như được gặp lại người thân bấy lâu xa cách tưởng chừng như biền biệt tăm hơi…!
- A lô,… Tôi Út Bạch Lan nghe đây.
- Hi,…Ông anh đạp xích lô à ! Em tưởng anh là Lính Cộng Hoà tình nghĩa “huynh đệ chi binh” thương dân nghèo, ruộng hoang cỏ cháy, thấy nỗi xót xa của kiếp đoạ đày …Ai có ngờ ông anh bèn vượt biển giông đi …đi luôn…không thương người em gái nhỏ Chợ Gạo còn ở lại chờ trông…thì ra ông anh cũng ác ôn như mấy thằng cán ngố thời lai đồ điếu thành công dị hợm…!!! Anh còn nhớ anh đã nói gì với em trước khi anh biệt tích không ? Anh nói là anh có đường đi, em biết ngay là anh đi đâu rồi, nhưng anh dấu tụi em, điều đáng trách là anh không dẫn tụi em theo, rồi bây giờ sang Mỹ còn viết bài về ba cô y tá ở Chiến Khu C nữa… Tình cờ em đọc được bài viết đó mới biết anh là Đại Đội Trưởng Trinh Sát 2 Nhẩy Dù “ác ôn có nợ máu với nhân dân” chớ không phải là ông phu xích lô râu tóc xồm xoàm đưa đón em đi làm và ngồi nghe em kể chuyện chiến khu… Lúc anh “biến” mất, em cứ tưởng anh bị tai nạn, cứ chờ anh đến chở đi làm, chờ hoài không thấy anh tới, em phải đi bộ ...và nhớ hoài đến gương mặt của tên ĐĐT/TS2NDù “ác ôn” đã thẩm vấn em rất ư hoà bình...!
Tôi vội ngắt lời và đùa vui:
- Cô Yến nè,...Cô nói như vậy không sợ anh Tân chồng cô giận sao ?
- Hổng có đâu ! Tân rất yêu thương, thông cảm, chia xẻ, tôn trọng và chìu chuộng em mọi thứ, anh không câu nệ, nhỏ mọn với quá khứ của em từ tâm hồn lẫn vật chất. Với Tân là tình nghĩa vợ chồng, với anh là ân oán của thù và bạn, anh là thù của em, em cũng là thù của anh, nhưng tại sao em vẫn luôn nghĩ tới anh…? Vì anh là người bạn hay nói xa hơn anh là nhất điểm tinh thần là “động lực” để em tự cứu vớt đời mình ra khỏi lớp bùn thối tha nhơ nhớp của loài cộng sản gây nên trên khắp quê hương mình !

Có gì đâu mà em xấu hổ…?
Đất nước đè em nặng trĩu hơn nhiều !

Sau 30 tháng 4 năm 1975, em về thành, bắt đầu làm việc trong bối cảnh thanh bình không có tiếng bom đạn, không có hình ảnh của những thương binh máu me bê bết thân người, không nghe những tiếng kêu la rên xiết đớn đau dưới hầm trú ẩn, nhưng lại chứng kiến những trò lưu manh trơ trẻn, tranh giành, chụp giật của cải, tài sản của Quân Cán Chính “Ngụy” kể cả dân lành vô tội…của những tên thượng cấp của em, và cũng chính chúng đã từng dùng quyền lực để o ép, cưỡng bức thân “xác” của em nhiều lần trước đây….Em nhờm tởm bọn thủ trưởng, lãnh đạo… thân thể mang đầy vi khuẩn sốt rét ngã nước kinh niên cùng với tâm hồn thương tật, bệnh thái, căn tính đầy thù hận, hiểm ác không lường…! Trước khi ra đi với Tân và hai đứa con theo diện bảo lãnh thân nhân, em phải ký giấy tờ chủ quyền giao hết đất đai nhà cửa của Ba Má em cho tên xã trưởng, cái tên mà trước đây hằng đêm đến nhà để thuyết phục em theo hoạt động cho nó. Em không chần chừ, không tiếc rẻ, không thắc mắc…em ký ngay “thí cô hồn” cho nó, vì em đã dứt khoát khai tử với thiên đàng “xuống hố cả nút” của bọn nó…! Em mong ước sẽ có ngày gặp lại anh ở một nơi nào đó trên phần đất Tự Do – Dân Chủ để nghe anh “tra vấn” những câu chuyện thấm đượm Tình Người giữa hai kẻ thù Quốc Gia - Cộng Sản không cùng chiến tuyến.
Yến nói liên tu bất tận, tưởng chừng như cháy máy điện thoại… Tôi ngắt lời nhiều lần ! Nhưng Yến nài nĩ: “Anh cho em nói hết, nói cho đã…Vì sau “giải phóng” em làm việc với chúng nó, em chỉ có biết chữi chúng nó mà không hề có cơ hội tâm sự, lòng mình biết tỏ cùng ai…?!
- Anh biết không, khi qua đến New Orlean do người em chồng bảo lãnh, lại có thêm bọn đầu trâu mặt ngựa là nhóm Việt Tân gì đó ở Biloxi cứ quấy rầy em hoài, chúng khuyên em phải làm cái này, không làm cái kia, chúng nói sẽ cung cấp tiền bạc sinh sống và nuôi con em ăn học…Em khẳng định từ chối và cuối cùng em với Tân quyết định dời lên Boston, tá túc với một người bạn và bắt đầu làm lại cuộc đời, cắt đứt, dứt bỏ chôn vùi quá khứ vào quên lãng, nhưng khốn nỗi “người ơi, khi muốn quên là khi lòng mình nhớ thêm” và trách anh sao hồi đó không giải giao em cho An Ninh Quân Đội điều tra xong, ra toà kêu án chừng 5 – 10 năm tù ở Côn Sơn hay Phú Quốc gì …gì…cũng được, rồi sau cùng em cũng được thả sống tự do, đàng nầy vì Tình Người và tấm lòng nhân hậu, anh thả em ra, lại phải trở về sống trong kiềm toả của bầy quỷ dữ trầm luân…! Cũng may là em gặp được Tân, anh là một giáo sư văn chương độ lượng không cố chấp, đôi khi còn mạnh dạn "phá chấp" để giúp em thêm tin tưởng bước qua những cửa ải oan khiên trên đoạn đường đời.

Quả thật cuộc đời của Yến là một:

Thiên Địa phong trần
Hồng nhan đa truân…
(Chinh Phụ Ngâm - Đoàn Thị Điểm)

Yến không giống như Kiều đã trầm mình dưới sông để trút hay rửa sạch nợ trần, Yến bị ba đào hãm nịch phong trần đã qua phong trần…mà vẫn còn nghị lực để phấn đấu với nghịch cảnh, Yến đã có sự chọn lựa cuối cùng cho đời nàng. Nàng đã hiên ngang dũng cãm hơn phận đàn bà để bước qua lằn ranh Quốc - Cộng không một chút tơ vương những hệ lụy quá khứ…Khá khen thay ! Nhưng ở đây nơi bình yên, cô trách tôi đã cư xử như “người ngu tốt bụng” và thêm “tội” sao ra đi mà không dẫn vợ chồng cô theo cùng, để có thể xây dựng cuộc sống ấm no, yên bình và hạnh phúc trong vòng tay của Nữ Thần Tự Do là biểu tượng của “giặc Mỹ xâm lược” mà bọn “vẹm” vẫn thường hay sủa thối. Tạo hóa trớ trêu thay lại có những công hầu khanh tướng, trí thức khoa bảng vượt biên giới Quốc Gia đi tìm Cộng Sản và để rồi vỡ “mộng ban đầu” chuốc lấy nhiều tai hoạ về sau ! Yến nói tiếp:
-Thời gian đầu mới đặt chân đến Mỹ, em cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng… vì đám cán bộ tuyên vận VC bố trí “đặc tình” công tác ở hải ngoại cứ thường hay tìm đến móc nối để em tiếp tục làm việc với chúng nó…Nhưng em từ chối quyết liệt, dần dà rồi chúng cũng chán nên không tới quấy rầy nữa ?!. Bây giờ chúng em ở ngoại ô thành phố Boston, yên bình thú vị lắm…! So với cái thiên đàng “xắp hàng cả ngày” của chúng nó, thì phải tới vài ba kiếp người nữa mới có thể dò dẫm theo được đến bước chân Người ! Chồng em, đi làm về là lên online truy lùng những bản tin hữu ích và văn chương thi phú Việt ngữ khắp cùng …và tình cờ đọc được những bài viết của anh, Tân nói với em: “ Tác Giả là một quân nhân tuy xông pha trận mạc, nhưng tâm tính tràn đầy nhân bản”… và nói:” em nên đọc rất hay “ ! Em đọc tới đoạn Chiến Khu C, chợt giật nẩy mình rồi rất đổi vui mừng hét lên: "quả trái đất tròn " !!! Chính là anh nầy đây !!! Em nhờ Tân phải bằng mọi cách truy tìm manh mối để liên lạc với anh nên mới có ngày vui hôm nay. Tâm sự như tri kỷ với anh, em lại nhớ đến những đêm trong chiến khu, ngồi buồn nhìn những tên thủ trưởng cao cấp uống rượu Hà Nàm thuốc Bắc cường dương ngâm với bào thai con nít rồi động dâm bèn bắt nữ cán bộ phục vụ sinh lý hả hê thoả mãn thú tánh…! Sau 1975 về thành thì mắt láo liên tìm nhà, tìm đất đai, tìm vợ và con gái Sĩ Quan “Ngụy “ để chiếm đoạt…Em phát tởm và khinh bỉ chúng đến tận cùng…! Không phải chỉ riêng em, mà hằng vạn... vạn nữ cán bộ như em bị sung vào “kháng chiến” đều là nạn nhân và có tâm trạng tương tự như thế cả…! Tân bắt em đọc bài “Cuộc Chiến Tranh Nam Bắc của Hoa Kỳ 1865-1866” để so sánh với cuộc chiến Bắc - Nam của Việt Nam em lại càng thấy lợm giọng cho chính mình...”bên thắng cuộc” Cộng Sản Bắc Việt …!

Mùa đông cuối năm 2014, những cơn bảo tuyết đổ ập xuống vùng đông bắc Mỹ, vợ chồng Tân đón tôi ở phi trường Boston với chiếc xe Nissan cũ kỹ. Tân cùng tuổi với Yến, gương mặt khắc khổ, cương nghị, vốn là giáo sư văn chương trung học, giọng nói từ tốn chắc nịch, ít cười nói trong khi Yến tung tăng như con chim vành khuyên hót líu lo bay nhảy trên những cành đào đang mùa hoa nở…! Từ phi trường về nhà khoảng 45 phút, Tân chú tâm lái xe vì thời tiết lạnh dưới độ đông đá, giây phút gặp nhau trong thinh lặng như để hồi tưởng lại những ngày tháng tôi cong lưng đạp xe xích lô đưa Yến đi làm ở bệnh viện Mỹ Tho. Tôi nhìn Yến với nét thanh tân thời con gái đã đi qua, bây giờ nàng là một phụ nữ đứng tuổi, nhưng ánh mắt hiền lành, tinh anh vẫn còn sáng niềm tin trên khuôn mặt trái soan như ngày nào và giọng cười, tiếng nói vẫn lém lỉnh, luyến láy như ngày xưa ấy chưa hề “hoá thạch” theo thời gian làm già cỗi tâm hồn ? Yến ngồi ở băng ghế sau, thỉnh thoảng chồm lên phía trước và:
- Anh biết không,...Sau khi anh đi một thời gian, cuối năm 1980 chúng nó điều em đi học để lấy bằng Phó Tiến Sĩ Y Khoa…?!!! Trời ơi, đất hỡi…! Học lực của em chưa xong bậc trung học phổ thông, trình độ y tá trong “khu” rừng chưa qua khỏi chiếc” lá mít”…Vậy mà “lãnh đạo” đề cử cho em đi Hà Nội “chuyên tu” học lấy bằng cấp, học vị Phó Tiến Sĩ Y Khoa chỉ trong vòng 6 tháng, thì duy nhất trên hành tinh nầy chỉ có nền giáo dục của “chủ nghĩa xã hơi” là “dzĩ đại” ngu xuẩn, xem mạng người như súc vật…! Xong khoá học “chuyên tu” em trở về lại chức vụ cũ với mãnh bằng Phó Tiến Sĩ Y Khoa như chuyện khôi hài mà có thực tại đất nước Việt Nam dưới thời đại đồ đểu, bọn bần nông vô học đương quyền thống trị …!!! . Em chán nản vì nạn quan chức tham ô hống hách lộng quyền…! Muốn thực hành một ca mổ, bệnh nhân phải trả trước cho bác sĩ 500 ngàn đồng, mỗi y tá 200 ngàn, tiền chi phí của bệnh viện mỗi ngày 500 ngàn, đó là chưa kể “tiền đường” đưa tại chỗ để được nhập viện… Có một ngày, em đi chợ Hàng Bông, nơi mà trước đây anh đậu chiếc xích lô chờ khách, em chợt nghe hai người đàn bà đứng kế bên nói sách mé, miệt thị: " xí... dốt như chuyên tu, ngu như tại chức mà cứ làm bộ như là đỉnh cao trí tệ" !. Về nhà em hỏi chồng, Tân cười hì..hì…:” thì họ “phán” đúng quá trời rồi, em còn hỏi cái gì nữa “?!!! Sau đó em xin ra khỏi đảng và nghĩ việc để chờ em trai của Tân bảo lãnh “Quy-Mã”.
Căn nhà đơn sơ chỉ có hai phòng ngủ nhỏ hẹp. Hai đứa con trai của Tân-Yến vừa đi làm vừa đi học xa nhà, nên các cháu share phòng ở với một gia đình khác cách đó khoảng 100 miles. Yến giục tôi:
- Anh đi tắm rửa rồi ăn cơm với tụi em.
Trên bàn cơm, tôi chỉ thấy một đĩa đuông dừa xào, một tô canh rau nhút, và hai khứa cá trê biển kho tộ, hai cái chén, hai đôi đũa. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sao dọn chỉ có 2 cái chén ăn cơm ? Yến vội trả lời:
- Phần này là của tụi em, còn của anh là cái khác …!
Tân đứng dậy, mở closet lấy ra một gói giấy rồi từ tốn mở ra, bên trong là một hộp giấy cứng để trước mặt tôi…là một phần lương khô cá nhân của Quân Đội Mỹ “chính nó” Ration C…!!! Tôi quá ư là ngạc nhiên và xúc động bội phần, tâm thần như bị hụt hẩng… và cả ba chúng tôi không ai mở miệng nói được một lời nào, nghẹn ngào trong nỗi niềm chợt buồn vui lẫn lộn như muốn khóc “nói chi cũng bằng thừa”…! Trên bàn ăn Yến hai tay chống cằm cứ nhìn tôi thương cảm và không màng chi ăn uống...! Tôi bỗng “dở hơi” lúng túng vụng về như gả khờ khạo vì trên “đưòng chiến chinh” lì lợm ít khi “bị” rơi vào trạng huống “thương nữ tái hiệp anh hùng bèn sầu bi tích lệ” …!
-Vợ chồng em ăn cơm đi...”tôi” cũng ăn. Yến nhanh nhẩu:
- Ăn sao được mà ăn… vì tụi em mừng quá khi gặp lại anh còn tưởng chừng như một giấc mơ ! Anh biết không, khi em nghe anh ra lệnh đem tụi em ra xa bắn bỏ, em nghĩ số mạng mình đã kết thúc, với hai tay bị trói chặt, mắt bị bịt che kín, thân mình bị đè sấp xuống đám lau sậy…Bỗng ba bốn tràng đạn nổ muốn xé rách màng nhĩ, hồn phi , phách tán bay bổng lên mây, rồi lại nghe văng vẳng tiếng của ai đó nói:” cởi trói cho cô này thôi “ ! Rồi tiếng chân của “tử thần” xa dần…chỉ còn lại tiếng khóc thổn thức của ba đứa em mà thôi…! Chị Hanh được cởi trói vì khỏe mạnh và lớn con hơn hai đứa em, rồi chị ấy lần lượt cởi trói cho em và Ánh…hoàn hồn và mừng rỡ vì biết mình còn sống, chúng em vội vàng lội qua sông Bé tìm về được đơn vị của mình trong khi ba hộp lương khô Racion C vẫn còn trong bịt nylon dắt theo bên mình. Từ sau đó, “tư duy” của em dần… dần thay đổi rồi tự hỏi người “Lính Ngụy” có thật đánh thuê cho Mỹ và có ác ôn hiếp dâm phụ nữ, bắn giết dân hiền lành, lương thiện như những gì mà em đã bị “chúng nó” tuyên truyền nhồi nhét vào đầu óc từ bấy lâu nay không …? .
Tôi chợt nhớ tới những binh sĩ dưới quyền đã thi hành “lệnh bắn bỏ” 3 cô y tá cán bộ VC trong Chiến Khu D, bèn hỏi Yến:
-Cô có biết những người Lính thi hành lệnh bắn bỏ các cô bây giờ ra sao không ?
-Dạ không.
-Họ đã chết trận hết cả rồi!
Đôi mắt Yến khép nhẹ, tâm hồn như chùng xuống, tôi thấy lóng lánh ánh mắt hình như có giọt lệ ngàn phương đọng ở khoé mắt, Yến cố che giấu nỗi xúc động, nén bi thương bằng cách cầm đũa lùa vội một vài miếng cơm ăn thẩn thờ, đôi mắt cố nhìn xuống bàn để tránh không bật ra tiếng khóc…! Tôi đánh trống lãng, xoay qua hỏi Tân về chuyện làm ăn sinh sống. Từ ngày về thành phố ngoại ô Boston này, nhờ người bạn giúp đở, Tâ
Tuyet Phan Dau long ,toi muon khoc....!
Nguyễn Trường Thịnh
Nguyễn Trường Thịnh Kiến nghị fb thêm Saigon vào địa điểm ở VN. Mong các bạn vote giúp. Link KHÔNG có Virus

https://www.change.org/.../mark-zuckerberg-facebook...
Chinh Nguyen
Chinh Nguyen Cau chuyen that hay. Minh chua bao gio duoc nghe va doc duoc mot cau chuyen nhu the. Thank you very good
Chris Le
Chris Le Cũng nên biết thêm tư lệnh phó của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ (US 1st Calvalry) hiện nay là Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt...
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=192988...
Trung Vo
Tra Mi
Tra Mi Mot cau chuyen that dai va cam dong , viet rat hay, lam cho nguoi doc cu to mo doc tiep, doc tiep...Xuc dong that.Cam on Sai gon xua va nay da cho toi duoc doc bai viet nay.xin share bai nay nhe, cam on.

SƠN NỮ TẮM TIÊN

 Ký ức một thời chinh chiến!
Các em gái hậu phương Sài Gòn trước năm 1975 ' khói lửa chiến trường vùng 2 chiến thuật '. Thường trách người yêu là lính, và buông ra lời nói vô tình... trúng trái tim đen, người lính chiến...QLVNCH :
 " Nhất quỷ nhì ma...thứ ba lính chiến QL. VNCH?! "
 
           Đi tìm sơn nữ tắm tiên!

Thơ,
           Pleiku Còn Mãi Trong Tôi!
                                     Huỳnh Mai St.8872
                                                 Dạ Lệ Huỳnh
Thác Ngàn…Sơn Nữ tắm tiên!
Tôi nhớ Pleiku chiều trời nắng tắt,
Nắng vàng tung tóe thác ngàng tây nguyên,
Sơn nữ Pleiku trầm mình tắm suối,
Một tòa vỉ đại núi rừng thiên nhiên,
Tiếng cười hòa lẩn âm vang thác đổ,
Sóng nước đa tình in bóng nhân ngư,
Sương núi mông lung tỏ mờ nhân ảnh,
Lồ lộ hình nhài một chốn thiên thai,
Chinh nhân đứng lặng tạc hình sơn nữ,
Hoa rừng khoe sắc nắng vàng ngừng trôi,
                          ***
Tôi hiện diện tự nhiên như bóng núi,
Lặng im soi bóng nước chảy xuôi dòng,
Sợ vở tan bọt bóng bầy cá lội,
Mất húc vĩnh hằng vào cõi hư vô,
Em là hoa núi trời cho em đẹp,
Dã Quỳ thời loạn sắc hoa màu vàng,
Anh đâu dán hái dọc đừng chinh chiến,
Lở bước quân hành lở hẹn tình quê,
Pleiku hây nắng ửng hồng đôi má,
Gió bụi mưa buồn vạn cổ sầu lên,
                             Huỳnh Mai
                   Những ngày tìm diệt 'địch...thù!'

SƠN NỮ TẮM TIÊN!
Thi vị cảnh sơn nữ vùng cao tắm tiên ở mó nước thần.
Những sơn nữ lần lượt trút bỏ xiêm y để lộ làn da trắng ngần rồi từ từ ngâm mình dưới dòng nước. Tiếng cười đùa xôn xao cả núi rừng...
Và cũng chính nhờ mó nước thần kỳ mà chúng tôi được mục sở thị cảnh sơn nữ tắm tiên, cảnh mà nhiều người ngỡ chỉ còn thấy trong ký ức.
Khi mặt trời vừa khuất dần sau đỉnh núi, những sơn nữ trở về từ nương rẫy quây quần bên mó nước nóng. Hàng chục sơn nữ bỏ công cụ lao động trên những tảng đá lớn, rồi hồn nhiên trút xiêm y, như thể là chốn không người....

Thi vị cảnh sơn nữ vùng cao tắm tiên ở mó nước thần.

Những sơn nữ lần lượt trút bỏ xiêm y để lộ làn da trắng ngần rồi từ từ ngâm mình dưới dòng nước. Tiếng cười đùa xôn xao cả núi rừng... 

 



 
 
 

Góc riêng của các chiến hữu núi rừng tây nguyên!
Xin mời các bạn, theo chân đoàn hành quân chúng tôi săn lùm...' Sơn mữ tắm tiên '

cảnh tắm tiên của các thiếu nữ vùng Tây nguyên

https://youtu.be/T58xk4POecA
 

[KDV] Thiếu Nữ Dân Tộc Khỏa Thân Tắm Tiên Ở Suối

https://youtu.be/p5Xxej0YuzM
 
Xem thêm:

*Sơn nữ tắm tiên
  http://maidayhoabnh.blogspot.com/2013/11/son-nu-tam-tien.html


*Một thoáng Pleiku- Thành phố mây bay
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/09/mot-thoang-pleiku-thanh-pho-may-bay.html

Thứ Năm, 19 tháng 11, 2015

Tác dụng hữu ích của thói quen nghe nhạc


Tác dụng giật mình của thói quen nghe nhạc

Nếu như bạn thích nghe nhạc, bạn gặp may đấy. Albert Einstein từng tuyên bố "Nếu không phải là nhà vật lý thì có lẽ tôi đã trở thành nhạc sĩ". Huyền thoại Jimi Hendrix thì gọi âm nhạc là "tôn giáo" của mình.



Trên thực tế, các nghiên cứu khoa học uy tín đã chứng minh âm nhạc có thể cải thiện sức khỏe tinh thần cũng như thể chất vật lý của chúng ta một cách đầy kinh ngạc. Nếu như bạn học đàn hoặc hát, những buổi tập có thể giúp tăng IQ cho não và thậm chí giúp trí óc chúng ta minh mẫn kể cả khi về già. Bạn không tin ư?

1. Âm nhạc khiến bạn hạnh phúc hơn

Các nghiên cứu cho thấy khi được nghe thứ nhạc mình thích, não của bạn sẽ tiết ra dopamine, một chất tạo cảm giác nhẹ nhõm, vui vẻ, yêu đời. Valorie Salimpoor, một chuyên gia thần kinh học tại Đại học McGill đã tiến hành quét điện não đồ của 8 tình nguyện viên khi họ nghe nhạc và phát hiện thấy một lượng lớn dopamine được giải phóng. Do đó, lần tới khi muốn cải thiện tâm trạng của mình, bạn chỉ cần nghe những giai đoạn yêu thích trong vòng 15 phút mà thôi.

2. Âm nhạc khiến bạn chạy nhanh và bền hơn

Nhà nghiên cứu Marcelo Bigliassi và các đồng nghiệp phát hiện thấy những vận động viên môn chạy khi nghe nhạc sôi động/tiết tấu nhanh sẽ hoàn thành 800 mét đầu tiên nhanh hơn so những người nghe nhạc chậm hoặc chạy không nhạc. Do đó, nếu như bạn muốn tập luyện đạt kết quả cao hơn, hãy nghe những ca khúc tạo cảm hứng nhé.

3. Giảm stress, tăng cường sức khỏe

Nghe nhạc có thể giúp bạn giảm nồng độ hormone gây stress có tên cortisol trong cơ thể. Đây là một phát hiện quan trọng do stress là nguyên nhân gây ra 60% các loại bệnh và ốm đau ở người. Một nghiên cứu cho thấy nếu mọi người tham gia vào các hoạt động âm nhạc một cách tích cực như chơi nhạc cụ hay hát thì hệ miễn dịch của họ cũng được tăng cường rõ rệt so với khi họ chỉ nghe nhạc một cách thụ động.

4. Ngủ ngon hơn

Trên 30% người Mỹ mắc chứng rối loạn giấc ngủ. Một nghiên cứu tiết lộ những sinh viên nghe nhạc cổ điển thư giãn 45 phút trước khi lên ngủ sẽ có giấc ngủ sâu và ngon hơn đáng kể so với những sinh viên nghe truyện hoặc không nghe gì. Do đó, nếu như bạn khó ngủ hoặc mất ngủ, hãy thử nghe nhạc của Bach hoặc Mozart nhé.

5. Ăn ít đi

Một phát hiện bất ngờ của Đại học công nghệ Georgia là việc nghe nhạc và để đèn dịu trong lúc ăn sẽ khiến các tình nguyện viên tiêu thụ ít đồ ăn và hấp thụ ít calo hơn, dù họ ăn vẫn rất ngon miệng. Vì thế, nếu như bạn đang muốn giảm cân, đừng quên tắt bớt đèn và nghe nhạc êm ái trong giờ ăn!

6. Cải thiện tâm trạng lúc lái xe

Một nghiên cứu tại Hoà Lan phát hiện thấy việc nghe nhạc có thể tác động tích cực đến tâm trạng của bạn trong lúc lái xe, nhờ đó mà lái an toàn hơn so với khi không nghe nhạc. Do đó, nếu như bạn bực bội vì kẹt xe, hãy bật giai điệu yêu thích lên để xả stress!

7. Tăng cường trí nhớ và khả năng học hỏi

Các nhà nghiên cứu cũng nhận ra âm nhạc có thể giúp bạn học và hồi nhớ thông tin tốt hơn, nhưng kết quả còn tùy thuộc vào mức độ mê nhạc của bạn đến đâu. Các chủ thể được yêu cầu vừa ghi nhớ các nhân vật trong truyện tranh Nhật Bản vừa nghe nhạc. Kết quả cho thấy, những người được nghe dòng nhạc yêu thích của mình sẽ ghi nhớ tốt hơn so với những người chỉ được nghe dòng nhạc trung tính.

8. Thư giãn cho bệnh nhân trước/sau khi phẫu thuật

Việc nghe nhạc thư giãn trước khi phẫu thuật giúp giảm căng thẳng, lo lắng và còn hiệu quả hơn cả thuốc an thần Midazolam mà các bác sĩ vẫn thường cho bệnh nhân uống tiền phẫu, bởi Midazolam có tác dụng phụ là gây ho hoặc nôn ói. Một số nghiên cứu khác thì khẳng định nghe các loại nhạc êm dịu khi nằm trên giường hậu phẫu sẽ giúp tăng mức độ thư giãn, dễ chịu cho bệnh nhân.

9. Giảm đau

Không chỉ hàn gắn nỗi đau tinh thần mà âm nhạc còn có thể giảm đau theo đúng nghĩa đen. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Drexel, Philadelphia phát hiện thấy trị liệu bằng âm nhạc có thể giúp giảm đau hiệu quả hơn so với phương pháp điều trị thông thường dành cho bệnh nhân ung thư.

10. Giúp đẩy nhanh tiến trình phục hồi ở bệnh nhân đột quỵ

Các nhà nghiên cứu của Đại học Helsinki (Phần Lan) chứng minh rằng các bệnh nhân bị đột quỵ khi được nghe dòng nhạc yêu thích trong 2 tiếng/ngày sẽ phục hồi chức năng nhận thức nhanh hơn đáng kể so với những người chỉ được nghe kể chuyện hoặc không nghe nhạc. Hầu hết các bản nhạc đều có lời, điều này gợi ý rằng sự kết hợp của nhạc và giọng nói sẽ giúp tăng cường trí nhớ ngôn ngữ cho bệnh nhân.

11. Giúp tăng IQ và học giỏi hơn

Những trẻ nhỏ được học nhạc từ bé sẽ có xu hướng có chỉ số IQ và kết quả học tập tốt hơn so với các trẻ bình thường. Trong một nghiên cứu, một nhóm trẻ 6 tuổi tham gia học đàn organ hoặc hát trong 36 tuần đã hoàn thành các bài kiểm tra chuẩn nhanh và đạt điểm cao hơn so với những trẻ chỉ học kịch hoặc không học gì. Trong đó, nhóm trẻ học hát đạt kết quả tốt nhất.

12. Giúp não khỏe mạnh khi về già

Một nghiên cứu với người cao tuổi nhận thấy những người chơi nhạc/hát trên 10 năm sẽ có điểm nhận thức cao hơn so với những người mới chơi nhạc được 1-9 năm. Riêng nhóm không chơi bất cứ nhạc cụ nào đạt điểm thấp nhất.

Nên biết rằng nhà đầu tư thiên tài Warren Buffet vẫn duy trì đầu óc sắc sảo ở tuổi 84 nhờ chơi đàn ukulele. Do đó, không bao giờ là quá muộn để bạn học chơi 1 loại nhạc cụ cả.

Theo Vietnamnet 
 
Nguồn:  http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=36792
Reply With Quote

Cộng sản Việt Nam, chúng là ai?


Cộng sản Việt Nam, chúng là ai?




Tôi nói chuyện với nhiều người, trong đó có nhiều người là trí thức, cán bộ, rằng:

Nước mình bây giờ ở trong tình trạng: tham ô, tham nhũng, lãng phí tràn lan; chi tiêu bừa bãi, vay nợ mút mùa, chồng chất, làm cho mỗi người dân vô lý è lưng ra gánh nợ của đất nước tới 110 tỷ đô la.

Đường lối phát triển đất nước “Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa” thì văn minh như thể nước Mỹ, tào lao như ở nước Lào, nhố nhăng như ở Triều Tiên, điếm đàng như ở Trung Quốc”… họ cũng không có, chỉ có ở nước mình và Cộng sản vẫn kiên trì ôm giữ, thực hiện. Nó đã và đang làm cho dân mình ngày một nghèo đi, khốn nạn chồng chất, chỉ có quan chức ngày một giầu lên; đất nước tụt hậu, bây giờ còn thua cả Lào, Campuchia.

Còn đạo đức thì suy đồi. Chém giết, cướp bóc của xã hội đỏ, xã hội đen ngày một công khai, bạo liệt, man rợ.

Nguyên nhân chính đưa đến thảm họa này là nước ta không có dân chủ. Không có dân chủ là do bọn cộng sản cầm quyền cố tình duy trì chế độ độc tài Đảng Cộng sản Việt Nam trị qua 70 năm và nay vẫn đang tiếp tục duy trì.
Chẳng lẽ chúng nó ngu, chúng nó lú đến mức không nhận ra dân tộc bị rớt vào vũng đáy của thế giới, lại đang phải đối mặt với nguy cơ làm phên dậu hoặc là một tỉnh của ngoại bang – Hán tặc… là do những nguyên nhân từ chúng nó mà ra?.

Trí thức, cán bộ… hầu như tất cả “đồng thanh” trả lời:
“Chúng nó biết cả đấy, anh ạ. Nhưng, vì quyền, vì lợi, vì lòng tham nên chúng nó mới cố tình không thay đổi”.

Có lý. Nhưng, chúng nó, đứa nào bây giờ cũng đã giầu nứt đố, đổ vách cả rồi. Vàng tiền của chúng nhiều như cát như sỏi cả rồi. Chúng nó tham nữa để làm gì?
“Ối trời. Chúng nó đã mang cái bản tính tham, thì cứ thấy những gì chúng lấy được là chúng lấy cho thỏa mãn cái lòng tham của chúng, chứ chúng có nghĩ đến lấy để làm gì, vì cái gì như người bình thường đâu. Lòng tham của chúng luôn là cái thùng không đáy mà anh”.

Không thể cải được lý sự này, nhưng tôi vẫn thấy có cái gì đó chưa ổn. Tham gì thì tham nhưng tôi vẫn thấy, chúng nó cũng bận quần áo ngày ngày, nói năng như người Việt Nam ngày ngày, ăn cơm ngày ngày, chưa có kẻ nào làm điều ngược lại, đặc biệt là chưa có kẻ nào lấy cứt thay cơm ăn ngày ngày… thì cái lòng tham ấy cũng phải có điểm dừng chứ? Đằng này, chúng như Hán gian bán rẻ đất nước cho giặc; coi giặc như cha cố cụ kị nhà nó, vui mừng hoan hỉ rước giặc vào nhà để rồi lặng thinh cho nó hoành hành phá hoại, từ xây dựng các công trình, thuê đất, viện trợ… đến bắn giết dân mình, cướp từng miếng cơm, manh áo của dân mình thì trong nhân tính đám cộng sản chóp bu ở Việt Nam không còn chỗ chứa cái lòng tham thuộc bản tính của con người nữa.

Vậy thì chúng là ai?

Tôi cho rằng, chúng chỉ có thể là quỷ Sa Tăng được Đấng Tối Cao sinh ra, chỉ cài duy nhất trong chúng một Hệ Điều Hành với chức năng, nhiệm vụ mang sứ mệnh tàn sát và tận diệt cho đến tận cùng đất nước, con người Việt Nam.

Những mất mát của đất nước, của dân tộc Việt Nam trong 70 năm cộng sản Việt Nam lãnh đạo “toàn diện và triệt để” dân Việt Nam đã thể hiện điều đó.

Trên thế giới, những nước thuộc địa như nước mình, như Ấn Độ, các nước ở Châu Phi, châu Mỹ… họ chẳng cần có một “Điện Biên Phủ” như nước mình để Đảng Cộng sản Việt Nam, nghe theo Tàu Cộng, Xô Cộng, nướng vào đó mấy chục vạn thanh niên trai tráng, tinh hoa của dân tộc, họ cũng giành được độc lập vào năm 1960 khi Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ban hành nghị quyết chấm dứt chế độ thuộc địa trên quy mô toàn thế giới.

Họ tìm mọi cách để chơi, cầu thân, làm đồng minh với Mỹ, như Nhật, Hàn Quốc, Philippin… để bây giờ họ là những nước văn minh và giầu có, còn Cộng sản Việt Nam thì nghe theo Tàu Cộng, Xô Cộng “quyết tâm đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng”. Trận chiến này kéo dài 20 năm đã làm cho 4 triệu người bị chết, cả dân tộc bị thương lê lết, đất nước bị bom cày, đạn xới đến tanh bành, tan nát, đến mức dân tình sống mà như chết.

Mà Cộng sản đánh Mỹ là đánh ai, đánh cái gì? Là đánh vào tinh thần hiệp sĩ của người Mỹ; đánh vào nền Dân chủ Cộng hòa tốt nhất trên thế giới; đánh vào sức mạnh quân sự hùng hậu nhất, vì hòa bình bậc nhất trên thế giới; đánh vào nền khoa học lớn nhất, tiên tiến nhất, hiện đại nhất thế giới, vì con người nhất trên thế giới; đánh vào nền kinh tế phát triển và giàu có nhất trên thế giời, cứu trợ và hỗ trợ con người nhất trên thế giới…

Chẳng lẽ vì lòng tham mà chúng không nhận ra điều này ư? Chẳng lẽ vì lòng tham mà chúng không dám chơi với Mỹ, thân với Mỹ, liên minh với Mỹ sau hơn 70 năm lầm lạc chống Mỹ ư? Không thể. Vì chơi với Mỹ, thân hay liên minh với Mỹ, đất nước này mới còn, dân tộc này mới còn, bản thân chúng cũng mới còn.

Ấy mà chúng vẫn lắc, vẫn không. Vậy nên hiểu chúng là ai? Chúng nhất định không thể là con người còn mang nặng lòng tham nữa, mà chúng nhất định là quỷ Sa Tăng được Đấng Tối Cao sinh ra và cài duy nhất trong tâm thế họ một Hệ Điều Hành có chức năng, nhiệm vụ, sứ mạng tàn sát và tiêu diệt đến tận cùng con người và đất nước Việt Nam.

Chỉ có thể định vị bọn cộng sản cầm quyền ở Việt Nam như vậy thì chúng ta mới “thanh thản” hiểu được những gì cộng sản Việt Nam đã làm với đất nước và con người Việt Nam trong 70 năm qua và trong tương lai tới đây.

(Bà Đầm Xòe)
 
Nguồn:  http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=36786

Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

Hoa Kỳ tiết lộ vụ Hoàng Sa

Hoa Kỳ tiết lộ vụ Hoàng Sa


Chính phủ Hoa Kỳ đã cho tiết lộ hai tài liệu mật liên quan đến quan điểm của Hoa Kỳ về Hoàng Sa và Trường Sa, đó là biên bản hai cuộc họp về vấn đề Ðông Dương ngày 25/1/1974 và ngày 31/1/1974 do ngoại trưởng Henry Kissinger chủ trì.

Trước khi trình bày về tài liệu này, để độc giả có thể nắm được vấn đề một cách dễ dàng, chúng tôi xin nói qua về tương quan lực lượng giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và quân đội Trung Quốc khi biến cố Hoàng Sa xảy ra và lý do tại sao Hoa Kỳ từ chối không yểm trợ cho Hải Quân và Không Quân VNCH chống lại Trung Quốc.


Tương quan lực lượng

Tính đến năm 1975 Hải Quân VNCH có quân số lên tới 39.000 người, gồm 1611 tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5 vùng Duyên Hải, hai vùng Sông Ngòi và một hạm đội Tuần Duyên với 83 chiến hạm đủ loại. Những chiến hạm có thể chiến đấu trên biển gồm các loại sau đây: 2 khu trục hạm, 7 tuần dương hạm, 8 hộ tống hạm, 9 tàu đổ bộ và 4 tàu trợ chiến. Với lực lượng như thế, Quân Lực VNCH không thể huy động để chống lại được quân Trung Quốc trên biển hay sao?

Sở dĩ QL/VNCH không thể chống lại Trung Quốc vì các lý do sau đây:

Quân đội Trung Quốc vượt trội hơn Quân Lực VNCH về cả hải quân lẫn không quân. Trong trận Hoàng Sa, lực lượng hai bên chênh lệch một cách rõ rệt: Trung Quốc đã sử dụng một lực lượng Hải Quân hùng hậu gồm hơn 16 chiếc đủ loại, từ tàu đánh cá ngụy trang Nan Yu cho đến hai 2 chiến hạm loại Hainan 281 và 282, 2 chiến hạm loại Jiangnan 27 và 274 và 4 phi tiển đỉnh Komar mang số 133, 137, 139, 145. Trong khi đó, lúc đầu HQ/VNCH chỉ có tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16. Những ngày tiếp theo VNCH mới tăng cường thêm các chiến hạm HQ 4, HQ 5 và HQ 10.

Trung Quốc đã huy động cả hải lục không quân để áp đảo, trong khi VNCH không thể huy động không quân vì Hoa Kỳ từ chối giúp đỡ (chúng tôi sẽ nói sau).


Vì quyết chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc đã hoạch định một kế hoạch hành quân chu đáo: khi lâm trận, họ đã áp dụng chiến thuật “cài răng lược” khiến HQ/VNCH không thể xoay trở được khiến bị trúng kế địch.


Tuy các chiến hạm Trung Quốc chỉ trang bị đại bác 100 ly (3.9 in.) hay đại bác 85 ly (3.5 in), còn chiến hạm HQ 16 của VNCH có đại bác 127 và HQ 10 có đại bác 76,2, nhưng Trung Quốc áp dụng chiến thuật bám sát các chiến hạm của VNCH trong khoảng cách gần, nên đại bác của HQ/VNCH không sử dụng được.


Cho dù cuộc chiến xảy ra ở tầm xa, HQ/VNCH cũng không thể thắng được vì khi thực hiện “Việt Nam hóa” chiến tranh theo đúng lịch trình của kế hoạch “Accelerated Turnover to the Vietnamese” (ACTOV), Hoa Kỳ có giao cho VNCH một số chiến hạm nhưng họ đã gỡ đi các giàn phóng phi đạn được trang bị trên đó, trong khi nhiều chiến hạm Trung Quớc có trang bị giàn phóng phi đạn và được không quân yểm trợ. Tóm lược các diễn biến:


Các bài viết về trận đánh Hoàng Sa có quá nhiều với những cách nhìn khác nhau, chúng tôi chỉ xin ghi lại các nét chính.


Trong cuốn hồi ký “Can trường trong chiến bại”, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân Vùng I Duyên Hải, người chỉ huy trận đánh Hoàng Sa, kể lại rằng ngày 15/1/1974, trung tá Lê Văn Thự, hạm trưởng tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16 được lệnh đưa địa phương quân và nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa thay toán ngoài đó đã hết nhiệm kỳ. Có hai sĩ quan công binh đi theo để sửa cầu tàu. Ông Jerry Scott, thuộc văn phòng Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Ðà Nẵng, cũng xin cho một viên chức Mỹ là Gerald Kosh đi theo để biết Hoàng Sa. Nhưng khi người nhái của VNCH đổ bộ lên các đảo Duncan và Drummond thì đụng ngay một toán quân Trung Quốc ở trên đó.


Ngày 17-1, chiến hạm HQ 16 báo cáo hai tàu đánh cá của Trung Quốc không tuân lệnh ra khỏi lãnh hải VNCH. Sau đó, lại có thêm hai tàu Trung Quốc chở quân tới gần đảo và đã có nhiều cờ Trung Quốc trên bờ. Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn đã phái thêm khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 do trung tá Vũ Hữu San ra tăng cường. Sau đó hai chiến hạm Trần Bình Trọng HQ 5 và Nhật Tảo HQ 10 cũng được gởi ra Hoàng Sa. Chiều 18-1, các chiến hạm của hai bên chạy kế ngang nhau và chỉa súng vào nhau.


Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã liên lạc với Bộ Tư Lệnh Hải Quân tại Sài Gòn xin cho biết có đơn vị nào của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ ở trong vùng hay không. Tin tức xác nhận các chiến hạm Hoa Kỳ đang ở rất gần các chiến hạm VNCH.


Lúc 10 giờ ngày 19/1/1974, đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy chiến thuật (OTC) tại mặt trận, đang ở trên soái hạm Trần Bình Trọng HQ 5, báo cáo các chiến hạm hai bên đang ở vị trí quá gần nhau trong thế “cài răng lược”. Toán đổ bộ của chiến hạm HQ 16 được lệnh trở ra chiến hạm. Khi toán đổ bộ đang dùng thuyền cao su chèo ra khơi thì trận chiến bùng nổ.
Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải được tùy viên quân sự Hoa Kỳ cạnh Hải Quân Vùng I cho biết có khoảng 17 chiến hạm Trung Quốc và 4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa. Ông ta cũng cho biết các phản lực cơ chiên đấu của Trung Quốc sắp cất cánh từ đảo Hải Nam để tấn công các chiến hạm của VNCH tại Hoàng Sa.


Trận hải chiến chỉ kéo dài trong hơn 30 phút. Các chiến hạm VNCH không đuổi theo các chiến hạm Trung Quốc và các chiến hạm Trung Quốc cũng không đuổi theo các chiến hạm VNCH. Không chiến hạm nào của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ tiến vào nơi có cuộc giao tranh.
Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10 bị bắn chìm, thiếu tá Ngụy Văn Thà với 24 quân nhân khác bị tử thương, 26 người mất tích, 23 thủy thủ trôi dạt được tàu của hãng Shell vớt.


Hai khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Trần Bình Trọng HQ 5 bị hư hại, mỗi chiến hạm có hai chiến sĩ bị tử thương.


Tuần dương hạm HQ 16 do trung tá Lê Văn Thự chỉ huy, bị trúng đạn nghiêng một bên, được lệnh quay về Ðà Nằng, có một chiến sĩ bị thương và 16 chiến sĩ khác trôi dạt trên thuyền cao su về đến Quy Nhơn.


Có 43 người đã bị bắt làm tù binh, trong đó có ông Gerald Kosh, được đưa về Quảng Châu, sau đó được trao trả cho VNCH qua Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế.


Về phía Trung Quốc, hộ tống hạm Kronkstad 274 bị chìm, hộ tống hạm Kronkstad 271 và hai trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng, các sĩ quan chỉ huy là Vương Kỳ Uy, Triệu Quát và Diệp Mạnh Hải đều bị tử trận.


Mỹ từ chối yểm trợ

Có một điều quan trọng mà phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại không biết đến, đó là Hoa Kỳ đã từ chối yểm trợ VNCH trong trận chiến Hoàng Sa.

Ngày 18/1/1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH biết rõ hàng không mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng Sa. Phó đề đốc Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã hỏi đại tá Kussan, tùy viên quân sự Mỹ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân rằng phi cơ chiến đấu của Việt Nam khi đi tác chiến tại Hoàng Sa có thể hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm USS Enterprise để xin tiếp tế nhiên liệu được không ? Phó đề đốc Thủy cho biết Ðà Nẵng cách Hoàng Sa trên 150 hải lý, do đó, phi cơ chiến đấu sẽ không đủ nhiên liệu để có thể vừa đi vừa về, nếu phải mang theo hai bình xăng thì không thể tác chiến được.


Sau khi trao đổi với Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, đại tá Kussan đã trả lời cho phó đề đốc Diệp Quang Thủy như sau: Các chiến hạm Mỹ không thể tiếp tế cho Quân Lực VNCH vì hai lý do sau đây:


Lý do thứ nhất, Hiệp Ðịnh Paris cấm Hoa Kỳ không được tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam (điều 4).


Lý do thứ hai, Luật War Power Act ngày 2/9/1973 cấm Hoa Kỳ sử dụng lực lượng quân sự ở Ðông Dương. Vì thế, các chiến hạm Hoa Kỳ không thể tiếp tế nhiên liệu cho các chiến đấu cơ VNCH được. Các chiến hạm Hoa Kỳ chỉ có thể cứu giúp quân đội VNCH khi bị các tai nạn mà thôi. Tuy nhiên, đó phải là các tai nạn bình thường, còn các tai nạn do chiến đấu, các chiến hạm Hoa Kỳ cũng không thể cứu giúp được.


Cần lưu ý, trong thời gian còn chiến tranh Việt Nam, Bộ Chỉ Huy Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US Military Assistance Command, Vietnam – MACV) là cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất của Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, sau Hiệp Ðịnh Paris, cơ quan này bị hủy bỏ và được thay thế bằng Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (Defense Attach Office – DAO) kể từ ngày 28-1-1973, do đó không còn các cố vấn Mỹ nữa mà chỉ còn các tùy viên quân sự.


Quan điểm của Hoa Kỳ quá rõ

Như chúng tôi đã trình bày ở trên, theo tài liệu Hoa Kỳ vừa công bố, trong hai cuộc họp do ngoại trưởng Kissinger chủ trì ngày 25/1/1974 và ngày 31/1/1974, tức sau khi Hoàng Sa bị mất, vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa đã được đưa ra bàn cãi. Nội dung tài liệu này đã được đài BBC trình bày ngày 3/10/2011, chúng tôi xin ghi lại những điểm quan trọng sau đây:

1. Về trận đánh Hoàng Sa

Ðô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề”.
Ngoại trưởng Kissinger: “Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của họ [Nam Việt Nam]?”.
Ðô đốc Moorer: “Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa và các đảo khác cũng có cùng vấn đề – đó là lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng đó”.
Ngoại trưởng Kissinger: “Ai khởi đầu trận chiến ở Hoàng Sa?”.
Ðô đốc Moorer: “Một đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện một số tàu Trung Quốc tiến về các đảo; họ tiến đến và đưa khoảng 75 người lên đảo Duncan (Quang Hòa). Ðó là một trong các đảo phía nam của nhóm Nguyệt Thiềm. Họ phải đối đầu với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt Nam phải rút sang các đảo gần đó. Bốn tàu Nam Việt Nam và khoảng 11 tàu Trung Quốc sau đó có trận hải chiến trong khi quân Nam Việt Nam rút lui”.


2. Quan điểm của Hà Nội

Ngoại trưởng Kissinger: “Phản ứng của Bắc Việt trước toàn bộ vụ việc là thế nào?”.
William Colby, giám đốc CIA: “Họ bỏ qua, nói rằng nó nằm dưới vĩ tuyến 17 và vì thế không có ảnh hưởng đến họ. Nói chung, họ không đưa ra lập trường, không theo bên nào”.
William Smyser, thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia: “Nó đặt họ vào tình thế tế nhị. Họ không nói gì cho đến khi đã xong chuyện, và rồi chỉ nói họ lên án việc dùng vũ lực”.
Ngoại trưởng Kissinger “Tôi biết họ nói gì rồi, nhưng họ thực sự cảm thấy thế nào?”.
Ðô đốc Moorer: Tôi nghĩ họ lo lắng.
William Colby: “Bắc Việt có thể muốn có mỏ dầu tại đó”.
Ông Clements, thứ tưởng quốc Phòng: “Ðừng quá mơ mộng về khả năng có dầu tại các đảo đó. Ðó vẫn là chuyện trên trời. Hiện chẳng có gì ở đấy cả, chỉ là tương lai thôi. Hiện nay dầu hỏa ở đó không khả thi. Chỉ là tiềm năng”.
Ðô đốc Moorer: “Người Pháp nắm giữ các đảo trong thập niên 1930 cho đến khi Nhật chiếm trong Thế chiến. Năm 1955, người Pháp từ bỏ chủ quyền các đảo và Nhật đã làm như thế năm 1951. Nam Việt Nam và Trung Quốc kể từ đó cùng nhận chủ quyền. Philippines có tuyên bố yếu ớt, nhưng chỉ là trên giấy.
Sau đó, Ðô đốc Moorer xác nhận lại với Henry Kissinger: “Chỉ thị của tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực”.


3. Chuyện bảo vệ Phillippines

Trong một cuộc họp ngày 31/11/974 tại Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, ngoại trưởng Kissinger được thông báo: “Không có dấu hiệu Trung Quốc định tiến về Trường Sa. Dẫu vậy, có sự lo ngại đáng kể từ phía Nhật, Philippines và đặc biệt là Nam Việt Nam, mà theo tin báo chí thì hôm nay đã gửi đoàn 200 người ra chiếm một số hòn đảo lâu nay không ai ở trong khu vực Trường Sa.
“Ðài Loan đã chiếm ít nhất một đảo và Trung Quốc cũng vậy.
“Trong bối cảnh này, Philippines đã hỏi Mỹ liệu Hiệp Ước An ninh Mỹ – Philippines có được áp dụng hay không nếu quân Philippines kéo ra Trường Sa và bị Trung Quốc tấn công”.
Các quan chức Mỹ có mặt trong cuộc họp đồng ý rằng không có câu trả lời rõ rệt và họ muốn để ngỏ sự mơ hồ trong câu trả lời cho Philippines.
Một người trong cuộc họp, ông Hummel, nói: “Tạp âm xung quanh các tuyên bố của chúng ta về những hòn đảo này hẳn đã đủ cho người Philippines hiểu rằng chúng ta không có ý định hay chúng ta không muốn”.
Ngoại trưởng Kissinger kết luận: “Câu trả lời của chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ”.


Một vài nhận xét

Qua các sự kiện vừa được trình bày nói trên, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
Hoa Kỳ không muốn can dự vào các tranh chấp về chủ quyền trên Biển Ðông vì sợ đụng chạm với Trung Quốc, nơi Hoa Kỳ có rất nhiều quyền lợi.
Mặc dầu trong chuyến viếng thăm Á Châu vừa qua, tổng thống Obama đã cho các quốc gia trong vùng hiểu rằng Mỹ sẽ “bao vây” Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quân sự, nhưng trong cuộc họp báo hôm 8/12/2011 tại Bắc Kinh, kết thúc cuộc đối thoại quốc phòng thường niên Mỹ-Trung, bà Michele Flournoy, thứ trưởng bộ quốc phòng Hoa Kỳ, khẳng định việc Washington tăng cường các liên minh quân sự tại Á Châu không nhằm mục đích “ngăn chặn” Trung Quốc.
Giữa Philippines và Mỹ có hiệp ước ngày 30/8/1951 bảo vệ các hòn đảo, tàu thuyền và máy bay của Philippines trên Thái Bình Dương khi bị tấn công, nhưng khi có đụng độ, Philippines có thực sự được bảo vệ hay không là vấn đề khác. Ngoại trưởng Kissinger đã nói rất rõ: “Câu trả lời của chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ”.
Bản tin của đài VOA ngày 24/6/2011 cho biết trong cuộc họp ngày 23/6/2011, ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton, nói với ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario rằng Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Philippines giữa lúc xảy ra vụ tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa. Nhưng tờ Philippines Daily Inquirer dẫn lời giáo sư Pacifico Agabin, cựu khoa trưởng luật khoa của Ðại học Philippines, cho biết nội dung của bản hiệp ước ký năm 1951 ghi rõ Mỹ không tự động bảo vệ Philippines một khi có xung đột trên biển Ðông. Ðiều 4 của hiệp ước này quy định trong trường hợp xảy ra tấn công trên Thái Bình Dương, tổng thống Mỹ phải được sự chấp thuận của Quốc hội mới tiến hành điều quân.
Hoa Kỳ từ chối tiếp tế xăng cho các phi công VNCH để tác chiến ở Hoàng Sa và nói rất rõ lý do tại sao Hoa Kỳ không thể làm như vậy. Ðiều này chứng tỏ Hoa Kỳ không còn muốn dính líu gì đến miền Nam Việt Nam nữa. Nhưng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ đưa lên cầm quyền ở miền Nam, quá yếu kém về chính trị, không thể hiểu được như vậy. Ông cứ nằng nặc đòi thêm viện trợ và cuối cùng chơi trò “tháu cáy”, rút khỏi Cao Nguyên và miền bắc Trung phần, để Mỹ hoảng sợ miền Nam mất, phải nhảy vào. Nhưng Mỹ đã không can thiệp khiến miền Nam bị sụp đổ một cách nhanh chóng, gây tang thương cho không biết bao người. Tôi ấy trời khó dung và đất khó tha.


Tất cả các sự kiện được trình bày nói trên cho thấy cả Việt Nam lẫn Philippines phải tự lo lấy thân phận mình, đứng trông chờ ở Mỹ.


Lữ Giang
(Blog Hũu Nguyên)
 
Nguồn: http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=36784 
Reply With Quote



Forum Jump