Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2018

Rúng động vụ người Việt chi 1,5 triệu USD cho con vào trường danh giá Mỹ

  • Rúng động vụ người Việt chi 1,5 triệu USD cho con vào trường danh giá Mỹ

    Đại học Harvard, một trong những trường danh tiếng mà gia đình bà Bùi Thị Bưởi muốn gửi con vào học.
    Một phụ nữ ở Hà Nội đang bị một công ty tư vấn du học tại Mỹ kiện vì chưa trả đủ số tiền 1,5 triệu đôla chi phí để giúp đưa con bà vào các trường đại học danh giá (Ivy League) ở Mỹ. Số tiền khổng lồ này khiến một số chuyên gia giáo dục tại Mỹ phải thốt lên kêu “Trời!”, trong khi một cựu giáo sư người Việt giảng dạy tại Đại học Harvard cho rằng phụ huynh trên đã bị lừa.
    Theo hồ sơ khởi kiện của Ivy Coach, một công ty tư vấn giáo dục độc lập có trụ sở ở Manhattan, bà Bùi Thị Bưởi, cư dân Hà Nội, đã cam kết trả số tiền 1,5 triệu đôla thành nhiều đợt cho công ty, với điều kiện giúp cho con gái bà là cô Vinh Ngoc Dao được nhận vào một trong các trường danh giá hàng đầu Hoa Kỳ, gồm 7 trường nội trú và 22 trường đại học, trong đó có Harvard, Princeton, và Columbia, New York Post trích dẫn đơn kiện cho biết.
    Hợp đồng giữa Ivy Coach và bà Bùi Thị Bưởi được ký vào cuối năm 2016, trong đó 50% được thanh toán ngay sau khi ký hợp đồng, số tiền còn lại sẽ được thanh toán làm 3 đợt. Ivy Coach đâm đơn kiện hai mẹ con bà Bưởi vì cho rằng phụ huynh người Việt cố tình không thanh toán nửa số tiền còn lại.
    Trong đơn kiện, Ivy Coach cho biết khi họ bày tỏ lo ngại về việc thanh toán tiền, bà Bưởi nói sẽ tuân thủ hợp đồng nhưng muốn thấy kết quả quyết định sớm từ các trường trước khi trả số tiền còn lại.
    Công ty tư vấn Mỹ nói họ không chỉ bị mất số tiền theo như hợp đồng với gia đình bà Bưởi, mà còn mất đi các cơ hội kiếm tiền khi từ chối các khách hàng khác để tập trung lo hồ sơ cho cô Vinh Ngoc Dao. Tuy nhiên theo Giáo sư Tạ Văn Tài, người từng giảng dạy về Luật nhiều năm tại đại học danh giá Harvard, biện luận mà Ivy Coach đưa ra đã bị áp dụng sai trong vụ kiện này.
    Sinh viên tại trường đại học Temple ở Philadelphia, bang Pennsylvania.
    Sinh viên tại trường đại học Temple ở Philadelphia, bang Pennsylvania.
    Nhận định về vụ kiện, Giáo sư Tài cho rằng gia đình bà Bưởi đã bị lừa. Ông nói: “Bọn này như vậy là lừa đảo. Không một trường Ivy League tự trọng nào mà có thể bảo đảm cho một sinh viên nộp đơn là sẽ được vô. Bởi vì họ có cả một diễn trình xét hồ sơ. Họ so sánh sinh viên nộp hồ sơ này với các sinh viên khác xem ai giỏi hơn. Điểm trung học thế nào, thi SAT ra sao. Trường thấy rất được thì mới nhận vô”.
    Đơn kiện của The Ivy Coach cho biết gia đình bà Bùi Thị Bưởi “nằm trong tầng lớp quý tộc quốc tế”. Họ, cùng với “các lãnh đạo chính phủ, những người đứng đầu các ngành công nghiệp, những người nổi tiếng và những gia đình giàu có có thu nhập hàng đầu thế giới”, và con cái họ là khách hàng của công ty tư vấn này.
    New York Post dẫn lời một số chuyên gia giáo dục ở Mỹ tỏ ra sửng sốt trước số tiền khổng lồ mà gia đình Việt chi cho công ty tư vấn. Mức phí này được cho là vượt quá xa mặt bằng chung của dịch vụ tư vấn tại Mỹ, khoảng 85 – 350 đôla/giờ và trọn gói vào khoảng 850 – 10.000 đôla, tờ báo trích dẫn khảo sát của Hiệp hội Tư vấn Giáo cục Độc lập vào tháng 1.
    “Nhiều người tỏ ra kinh ngạc về mức phí của chúng tôi”, Ivy Coach viết trên trang web. “Một vài người thậm chí còn cười nhạo… Chúng tôi biết mức phí của chúng tôi cao, nhưng các phụ huynh coi trọng việc đầu tư để giúp cho con cái họ được nhận vào một trường hàng đầu thay vì lẽ ra chỉ được nhận vào một trường tương đối tốt… Tiền nào của nấy”, công ty tư vấn Mỹ tự tin khẳng định.
    Việc tư vấn của Ivy Coach đối với con gái bà Bưởi bao gồm giúp nộp hồ sơ vào các trường đại học danh tiếng, giúp làm các bài luận theo yêu cầu, viết thư giới thiệu, hướng dẫn phỏng vấn nhập học và những thủ tục khác.
    Con gái bà Bưởi hiện đang học tại trường Solebury ở bang Pennsylvania, là một trong 7 trường nội trú mà Ivy Coach nói đã giúp cho Dao gửi hồ sơ. Công ty này nói đã hoàn thành hợp đồng đối với gia đình bà Bưởi, bao gồm việc giúp làm hồ sơ nộp vào các trường Harvard, MIT, Brown, Stanford...
    Sau khi vụ kiện được đưa lên báo chí Mỹ, gia đình bà Bưởi tỏ ra “không muốn nói nhiều về vấn đề này” và cho đây là một sự hiểu lầm giữa hai bên. Bà nói ngắn gọn với Zing.news rằng: “Chúng tôi đang xử lý chuyện này. Họ chỉ dọa thế thôi. Mọi chuyện không có vấn đề gì cả. Họ sẽ rút vụ việc trong vài ngày tới”.
    Sinh viên tương lai được hướng dẫn đi tour tại trường đại học Californis ở Los Angeles.
    Sinh viên tương lai được hướng dẫn đi tour tại trường đại học Californis ở Los Angeles.
    Tuy nhiên theo Giáo sư Tạ Văn Tài, trong vụ kiện mà ông gọi là "kẻ cắp gặp bà già", vẫn có cách để lật ngược lại theo hướng có lợi cho gia đình bà Bưởi.
    Ông nói: “Tôi khuyến cáo là nhân cơ hội này mà xuất hiện trước tòa án đó, đòi lại số tiền 750 ngàn đôla đó. Cái đó gọi là counter claim, bên kia đòi như vậy, thì mình counter claim đòi lại, giải tiêu khế ước về việc đưa con mình vô cái trường Ivy League, để đòi lại số tiền mình đã đưa vì không hiểu rõ, bị lừa đảo trong vụ này”.
    Với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm tại Đại học Harvard, Giáo sư Tạ Văn Tài cho biết chỉ tính riêng số lượng sinh viên Mỹ gốc Việt tại trường này đã thuộc loại cao so với tỷ lệ cộng đồng người Việt tại Mỹ, chưa kể số du học sinh từ Việt Nam sang.
    “Sinh viên Việt Nam có thể xem là một trong những thành phần giỏi nhất bởi vì tỷ lệ sinh viên Việt Nam trong tổng số sinh viên ở Harvard lớn hơn số dân Việt Nam ở Mỹ so với tổng số dân Mỹ”, Giáo sư Tài nói.
    Chính vì vậy, trường đại học hàng đầu này còn tìm cách hạn chế số lượng sinh viên châu Á như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ... nhập học vì tỷ lệ quá nổi trội của họ tại trường.
    Theo cựu giáo sư Harvard, nếu một sinh viên Việt Nam không đủ khả năng, không một công ty tư vấn nào có thể bảo đảm được chỗ ngồi của sinh viên này trong nhóm trường Ivy League. Còn nếu sinh viên có đủ khả năng thì việc đầu tư số tiền khổng lồ cho đầu vào các trường này lại trở nên không cần thiết.
    Hiệp hội Tư vấn Giáo dục Độc lập ở Mỹ cho biết đã loại Ivy Coach ra khỏi hiệp hội vài năm nay vì biết được cách làm ăn của công ty này. “Theo quan điểm của chúng tôi, không có một lý do biện minh nào cho mức phí cao như thế”, Times Higher Education dẫn lời ông Mark Sklarow, CEO của hiệp hội nói.

    người Việt chi 1,5 triệu USD cho con vào trường danh giá Mỹ
    Nguồn:https://www.voatiengviet.com/a/rung-dong-vu-nguoi-viet-chi-1-trieu-ruoi-dola-cho-con-vao-truong-danh-gia-my/4255730.html
     

“Vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian”

“Vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian”


Tác giả: Sử Kha (chỉnh lý)
[ChanhKien.org]
Tiểu sử của Trương Hành
0012ZhangHeng6539w
Trương Hành (Nguồn: Internet)
Trương Hành, tự là Bình Tử, sinh ra ở quận Nam Dương, huyện Tây Ngạc, trấn Thạch Kiều (nay là thành phố Nam Dương, tỉnh Hà Nam, cách Thành Bắc 25 km), vào năm thứ ba Chương Đế Kiến Sơ tại vị (tức năm 78 SCN). Năm 16 tuổi, ông rời quê hương đi du học vòng quanh Trung Quốc. Ông đã gặp rất nhiều học giả nổi tiếng. Một lần ông đến Trường An, kinh đô cũ của triều Hán. Ở đó, ông đã đến thăm các danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử địa phương, và nghiên cứu địa hình, các sản vật, phong tục và nhân tình thế thái ở vùng núi xung quanh. Sau đó, ông đã đến Lạc Dương, thủ đô của Đông Hán, và theo học tại Đại học, trường học cao nhất ở đó.
Trương Hành cũng đặc biệt yêu thích văn học. Ông đã sáng tác rất nhiều tác phẩm văn học với nhiều phong cách khác nhau, đáng chú ý gồm có Quy điền phú, Nhị kinh phú, Tứ sầu thi, Đồng thanh ca. Vào năm thứ tư An Đế Vĩnh Sơ tại vị (tức năm 111 SCN), Trương Hành theo lệnh tiến kinh, nhậm các chức Lang Trung, Thái Sử Lệnh, chức quan nhỏ Công Xa Tư Mã Lệnh, rồi đến cấp quan bậc trung. Trong đó thời gian đảm nhận chức Thái Sử Lệnh là dài nhất, được 14 năm. Thái Sử Lệnh là quan viên phụ trách các sự vụ như quan trắc thiên tượng, biên soạn hiệu đính lịch, dự báo thời tiết, và tổ chức các nghiên cứu về thời tiết và khí trời. Trong khoảng thời gian đảm đương chức vụ này, ông đã tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ về lịch thiên văn, và đã có nhiều cống hiến vô cùng to lớn.
Theo kiến thức và quan sát thực tế của ông về quy luật vận hành của các thiên thể, Trương Hành đã tạo ra bộ máy “Hỗn thiên nghi”, diễn tả chính xác quy luật vận hành của các tinh cầu và thuyết Hỗn Thiên (cho rằng trời giống như một cái vỏ trứng gà, đất như lòng đỏ trứng gà). Ông tinh thông thiên văn và lịch toán. Ông đã viết rất nhiều sách về thiên văn học, trong đó có Linh hiến, Linh hiến đồHỗn Thiên nghi đồ chú là các trứ tác về thiên văn học. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu cho những người theo thuyết Hỗn Thiên trong thời kỳ Đông Hán.
Linh hiến – Thiên văn học trứ tác
Linh hiến là tác phẩm nổi tiếng nhất trong những cuốn sách của Trương Hành. Đó là một cuốn sách thiên văn học mô tả sự phát triển và vận động của thiên, địa, nhật, nguyệt và các ngôi sao. Trong Linh hiến, Trương Hành nói rằng: các chiều không gian mà chúng ta có thể quan sát được là có giới hạn, còn những chiều không gian mà chúng ta không thể thấy được thì vô cùng vô tận. Tác phẩm của ông đề xuất một cách rõ ràng lý thuyết rằng vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian.
Trong Linh hiến, Trương Hành chỉ ra rằng Mặt Trăng tự nó không thể phát sáng mà là nhờ phản chiếu lại ánh sáng của Mặt Trời. Ông cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng giống như nước với lửa. Lửa có thể phát ra ánh sáng và nước thì có thể phản chiếu ánh sáng. Ông chỉ ra rằng ánh sáng Mặt Trăng tỏa ra là do chiếu xạ ánh sáng Mặt Trời, và vào ban ngày không nhìn thấy được ánh trăng, là vì lúc đó nó bị ánh sáng Mặt Trời áp đảo. Đồng thời ông cũng giải thích về nguyên nhân xuất hiện nguyệt thực. Ông tin rằng khi trăng tròn, chúng ta có thể nhìn thấy toàn bộ mặt trăng; nhưng sẽ có lúc chúng ta không thể, đó là khi Trái Đất được mặt trời chiếu sáng, ông gọi bóng của Trái Đất là “Ám hư” và khi Mặt Trăng đi qua vị trí của “Ám hư”, hiện tượng nguyệt thực sẽ xảy ra. Lý giải của ông về nguyên lý của nguyệt thực rất sâu sắc.
Ngoài ra, trong Linh hiến, Trương Hành cũng tính toán đường kính góc của Mặt Trời và Mặt Trăng, và ghi chép lại 2.500 ngôi sao mà ông quan sát thấy trong thời gian ở Lạc Dương, các tính toán này rất gần với kết quả của các nhà thiên văn học hiện đại. Trong một cuốn sách thiên văn học khác tên là Hỗn thiên nghi đồ chú, ông đã đo được một năm Mặt Trời là “365 độ và một phần tư”, rất giống với con số mà các nhà thiên văn hiện đại tính toán được là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút và 46 giây.
Trong Linh hiến, Trương Hành sử dụng một số thuật ngữ hiện đại như đường xích đạo, hình e-lip, Nam Cực và Bắc Cực. Ông cũng là người đầu tiên vẽ hoàn chỉnh biểu đồ sao ở Trung Quốc, trong đó có 2.500 vì tinh tú. Theo Trương Hành: “Có 124 ngôi sao luôn phát sáng và 320 ngôi sao có tên. Tổng số các sao là 2.500, vẫn còn một số ngôi sao chưa được liệt kê vào đây.” Biểu đồ sao mà Trương Hành thực hiện không chỉ vượt qua rất nhiều những người tiền nhiệm trước đó, mà còn là biểu đồ hàng đầu trong một thời gian dài sau đó. Trong giai đoạn cuối triều Hán, Trung Quốc rơi vào hỗn loạn và biểu đồ sao của Trương Hành đã bị thất lạc. Vào đầu triều Tấn, biểu đồ sao Trương Hành chỉ còn 1.464 ngôi sao, trong đó chỉ có một nửa số ngôi sao được sắp xếp bởi Trương Hành. Phải đến thời Khang Hy Hoàng đế của triều Thanh, một biểu đồ sao phức tạp hơn đã được tạo ra nhờ sử dụng một kính viễn vọng, và biểu đồ lần này bao gồm hơn 3.000 ngôi sao.
Hỗn thiên nghiHậu phong địa động nghi
f3aeb1e0-9f0d-4a2f-b6b7-32452704ca82
Hỗn thiên nghi (nhà Minh)
Vào năm 117 SCN, Trương Hành đã chế tạo ra máy định vị thiên thể Hỗn thiên nghi đầu tiên trên thế giới và nó được điều khiển bởi các bánh răng bằng đồng. Hỗn thiên nghi có một quả cầu bên ngoài và một quả cầu bên trong, cả hai quả cầu đều quay. Trên bề mặt được chạm khắc Nam Cực, Bắc Cực, đường xích đạo, hoàng đạo, 24 tiết khí, Mặt Trời, Mặt Trăng, và các tinh tú. Các vị trí của Mặt Trời, Mặt Trăng và các ngôi sao, cũng như trạng thái của quỹ đạo của chúng tương ứng với vị trí thực tế trong vũ trụ.
Vào năm 132 SCN, Trương Hành phát minh ra Hậu Phong địa động nghi, được làm bằng đồng tinh luyện, có hình một nồi rượu. Trên bề mặt có tám con rồng. Đầu của mỗi con rồng nhìn ra tám hướng đông, nam, tây, bắc, đông bắc, đông nam, tây bắc và tây nam. Mỗi con rồng ngậm một quả bóng đồng và có một con ếch ngồi dưới đầu của nó. Khi một trận động đất xảy ra, miệng của rồng ở hướng của trận động đất sẽ tự động mở ra, và quả bóng đồng sẽ rơi vào miệng của con ếch tương ứng, ngay lập tức các nhân viên sẽ ghi lại thời gian và phương hướng của trận động đất. Năm 138 SCN, chiếc máy địa chấn này đã phát hiện chính xác một trận động đất xảy ra ở Lũng Tây. Địa động nghi mà Trương Hành phát minh ra là bộ máy đầu tiên trên thế giới có khả năng đo được hướng của một trận động đất, và nó đã có từ 1.700 năm trước khi máy địa chấn châu Âu được phát minh.
ZhangHengSeismograph6533crw
Địa động nghi của Trương Hành
Trương Hành cũng phát minh ra máy đo quãng đường có thể gõ một tiếng trống sau khi xe đi được một (0,5 km), cơ cấu la bàn có kim luôn chỉ về hướng Nam, đồng hồ Mặt Trời của Trung Quốc cổ đại để đo vị trí của Mặt Trời, một con chim gỗ bay, và nhiều thứ khác nữa. Ông cũng ước tính pi là căn bậc hai của 10, ông đã viết hơn 30 cuốn sách về thiên văn học lẫn văn học và có nhiều đóng góp to lớn trong lịch pháp, toán học, văn học và nghệ thuật.
Dịch từ: http://pureinsight.org/node/1045

Nguồn: http://chanhkien.org/2015/06/vu-tru-la-vo-han-ve-ca-khong-gian-va-thoi-gian.html

Thứ Tư, 14 tháng 2, 2018

Phim “Saigon ‘68”: Phơi bày nửa sự thật bị cố tình lãng quên 50 năm trước


Phim “Saigon ‘68”: Phơi bày nửa sự thật bị cố tình lãng quên 50 năm trước

Hòa Ái, phóng viên RFA
2018-02-14
Nhân viên của Phòng Triển lãm Nghệ thuật New South Wales chuẩn bị treo bức hình "Saigon Execution" của Nhiếp ảnh gia Eddie Adams hồi ngày 23/11/2000 tại Sydney.
Nhân viên của Phòng Triển lãm Nghệ thuật New South Wales chuẩn bị treo bức hình "Saigon Execution" của Nhiếp ảnh gia Eddie Adams hồi ngày 23/11/2000 tại Sydney.
AFP
Truyền thông trong nước, nhân kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân nhắc lại sự kiện bức ảnh lịch sử “Hành quyết tại Sài Gòn” (Saigon Execution) của nhiếp ảnh gia Eddie Adams, mà họ gọi là kẻ sát nhân Nguyễn Ngọc Loan hành quyết chiến sĩ biệt động giữa phố Sài Gòn gây sốc dư luận thế giới.
Đã 50 năm trôi qua, hành động hành quyết của vị tướng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn là một chủ đề gây tranh cãi, mặc dù tác giả tấm ảnh đoạt giải Pulitzer này từng tuyên bố rằng bức hình chỉ nói lên một nửa sự thật. Đạo diễn Douglas Sloan, cũng là nhà sản xuất phim ở Hoa Kỳ đang thực hiện phim tài liệu “Saigon ‘68” để chuyển tải phân nửa sự thật còn lại mà nhiều người không thể thấy qua bức hình lịch sử đó.
Phóng viên Hòa Ái có cuộc trò chuyện với cô Thùy Lan Phan, một điều phối viên của dự án phim, Đạo diễn Douglas Sloan và cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa liên quan sự kiện lịch sử này.

Nhân chứng lịch sử lên tiếng

Hòa Ái: Xin chào Thùy Lan Phan. Rất cảm ơn Thùy Lan đến Đài RFA để chia sẻ với quý khán thính giả về bộ phim “Saigon ‘68’”. Hòa Ái được biết phim tài lệu này đã được trình chiếu rồi và vì sao dự án phim lại được tiếp tục nữa?
Thùy Lan Phan: Ông Douglas Sloan thực hiện một bộ phim, gọi là “Saigon ‘68”. Cách đây vài năm, phim được trình chiếu ở New York Film Festival và trên toàn thế giới. Thông thường tại các liên hoan phim thì giới chuyên môn bình luận về cách quay phim và kỹ thuật. Nhưng đặc biệt, phim “Saigon ‘68”của đạo diễn Douglas Sloan thì đề tài được quan tâm nhiều hơn so với kỹ thuật làm phim. Ông Douglas Sloan được nhận giải thưởng cho phim này và các trường đại học mong muốn ông thực hiện bộ phim dài hơn.
Ban đầu, đạo diễn Douglas Sloan chỉ phỏng vấn những người Mỹ, trong đó có các sử gia và những người làm việc trong ngành báo chí. Lúc đó thì ông Douglas Sloan làm phim “Saigon ‘68” cũng giống như các nhà làm phim ngoại quốc khác trong cùng đề tài nói về chiến tranh Việt Nam. Nhưng đạo diễn Douglas Sloan nhận ra ông cần nghe quan điểm của người Việt, nên ông muốn làm cuốn phim đặc biệt hơn và ông đã tìm đến cộng đồng người Việt. May mắn là ông đã gặp được Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích.
Những gì mà phim mang lại được, đó là tạo ra cảm hứng và một cuộc thảo luận về tính chất đạo đức của chiến tranh, và những gì đã thực sự xảy ra trong bức ảnh đó cần được được thông hiểu vào thời điểm nó được phổ biến
-Đạo diễn Douglas Sloan
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích là một người hiền hậu và hiểu biết rất nhiều. Giáo sư Bích đã giúp ông khỏang 2 năm, nhưng không ai chịu phỏng vấn vì nói chung tấm hình “Hành quyết tại Sài Gòn” làm tổn thương rất nhiều người, nhất là gia đình của Tướng Loan.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích qua đời và tôi gặp ông đạo diễn Douglas Sloan tại đám tang của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích. Tôi được nghe ông chia sẻ không biết làm gì với dự án phim này nữa nên ông cần giúp gì thì tôi giúp. Tôi tìm những người có mặt tại hiện trường và những người làm việc trực tiếp với Tướng Nguyễn Ngọc Loan là những người biết sự thật ra sao.
Hòa Ái: Thùy Lan có nhắc đến Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, ông từng giữ vai trò Giám đốc của Ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do. Sau khi Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích qua đời, Hòa Ái được biết Thùy Lan là một điều phối viên của dự án phim gốc Việt duy nhất. Thông điệp của Thùy Lan muốn gửi đến khán giả của bộ phim sắp công chiếu là gì?
Thùy Lan Phan: Thông điệp của tôi là thứ nhất mình muốn nói lên sự thật. Tôi cũng hy vọng giới trẻ người Việt sau này, kể cả những người trẻ lớn lên ở Hoa Kỳ biết được sự thật về chiến tranh Việt Nam và biết được những câu chuyện của các nạn nhân trong chiến tranh. Và, tôi cũng muốn giải oan cho Tướng Loan, không phải bênh vực cho Tướng Loan mà là vì sự thật đã bị chôn vùi trong 50 năm qua.
Thông điệp của tôi là khi chúng ta nhìn thấy một bức ảnh thì nó không nói hết sự thật. Người Mỹ có câu nói là “một nửa sự thật không phải là sự thật”.

Nửa sự thật chưa được kể

Hòa Ái: Vừa rồi là chia sẻ của cô Thùy Lan Phan về dự án phim tài liệu “Saigon ‘68”. Và bây giờ, chúng tôi mời quý vị cùng gặp gỡ với đạo diễn và nhà sản xuất phim “Saigon ‘68” Douglas Sloan để tìm hiểu nhiều hơn về quá trình ông thực hiện bộ phim này. Xin chào đạo diễn Douglas Sloan, câu hỏi đầu tiên dành cho ông là cơ duyên nào ông quyết định làm bộ phim “Saigon ‘68”, thưa ông?
Đạo diễn Douglas Sloan: Tôi quyết định làm bộ phim này là vì hầu hết mọi người, trong đó có tôi tại thời điểm xảy ra vụ việc đã không biết được câu chuyện sự thật ở phía sau bức hình Tướng Loan hành quyết tên Việt cộng giết người. Đây là một lý do và lý do thứ hai nữa là vì tôi nhận thấy chúng ta đang tiếp cận thời đại mà hiểu biết bằng thị giác. Hiểu biết về xã hội là điều vô cùng quan trọng và chúng ta cần phải biết cách nhận thức qua hình ảnh.
Hòa Ái: Khán giả xem phim “Saigon ‘68” đã có những bình luận như thế nào?
Đạo diễn Douglas Sloan: Chúng tôi đã làm một phim ngắn, ban đầu là một đoạn giới thiệu để giúp gây quỹ cũng như gây chú ý cho cho dự án phim. Phản ứng của khán giả ở các liên hoan phim khác nhau trên khắp thế giới, có thể nói là vô cùng “cảm tính thị giác” (visual). Tôi nghĩ rằng đó là môt từ ngữ tốt nhất mà tôi có thể diễn tả. Mọi người phản ứng với cả hai mặt của cuộc tranh luận. Có người biện minh cho hành động của Tướng Loan xử bắn những người trong cuộc nổi dậy. Ngược lại, cũng có người cho rằng đó là tội ác chiến tranh. Nhưng tôi có thể nói một cách tổng quát rằng phim tài liệu này đã tạo nên sự quan tâm của dư luận để bàn cãi về tính chất đạo đức. Những gì mà phim mang lại được, đó là tạo ra cảm hứng và một cuộc thảo luận về tính chất đạo đức của chiến tranh, và những gì đã thực sự xảy ra trong bức ảnh đó cần được được thông hiểu vào thời điểm nó được phổ biến.
Hòa Ái: Tôi được biết ông đã gặp gỡ với nhiều nhân chứng lịch sử, là những người từng làm việc cũng như có mặt ở hiện trường nơi xảy ra sự kiện liên quan đến bức ảnh “Hành quyết tại Sài Gòn”. Những người này nói gì về nhân cách của Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Đạo diễn Douglas Sloan: Tất cả đều nói rằng Tướng Loan làm việc với anh em trong quân ngũ rất thân tình và ông ấy không phải là người mà có lòng dạ muốn giết người hay hành quyết ai cả. Tướng Loan chịu trách nhiệm chỉ huy hơn 70 ngàn cảnh sát cũng như phụ trách về an ninh tại thời điểm đó, tương đương với tổ chức CIA của Hoa Kỳ và Tướng Loan là một người rất mạnh mẽ, ông đã quên đi bản thân để làm tròn trách nhiệm theo những yêu cầu của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thời đó.
Tướng Loan đã làm việc và tin cậy binh lính của ông. Một số người cho rằng tình huống xảy ra là tâm điểm của cuộc chiến và bức ảnh đó đã hủy hoại cuộc đời của Tướng Loan. Những người biết Tướng Loan mà chúng tôi được tiếp xúc nói rằng nhân cách của ông hoàn toàn ngược lại với hành động đã hủy hoại thanh danh bởi dư luận Hoa Kỳ. Một tình huống mà những người Mỹ chúng tôi phê phán chỉ qua những gì nhìn thấy trên truyền thông, thì không nên vội vã phán đoán về sự việc đã diễn ra đó.
Một, hai người đã nói với chúng tôi rằng tại thời điểm đó có thiết quân luật được ban hành, quy định nếu như một người bị bắt mà mặc quần áo thường dân nhưng có súng trong tay thì sẽ bị giống như là hành quyết và Tướng Loan chỉ thi hành luật pháp. Đây là một câu chuyện khác.
Thông điệp của tôi là muốn giải oan cho Tướng Loan...vì sự thật đã bị chôn vùi trong 50 năm qua và khi chúng ta nhìn thấy một bức ảnh thì nó không nói hết sự thật. Người Mỹ có câu nói là “một nửa sự thật không phải là sự thật
-Thùy Lan Phan
Bộ phim được đổi tựa là “Khoảnh khắc của sự thật” (Moment of the truth). Và, tôi nghĩ rằng rất tương tự với thời buổi bây giờ của xã hội chúng ta. Chúng ta không đón nhận thông tin bằng chữ viết nữa, mà bằng hình thức giao tiếp qua âm thanh và hình ảnh. Và chúng ta không hiểu được ngôn ngữ hình ảnh là một ngôn ngữ rất giàu cảm xúc, tác động nhanh hơn ngôn ngữ của chữ viết, bởi vì chúng ta nhìn thấy điều gì đó và lập tức chúng ta phản ứng ngay, nhanh hơn đối với những gì chúng ta đọc được.
Điều này đã xảy ra đối với bức ảnh “Hành quyết tại Sài Gòn” của Eddie Adams. Họ đã phản ứng trước khi họ biết được chuyện gì đã xảy ra. Quan trọng là cần phải có thời gian để hiểu được những gì chúng ta nhìn thấy, không nên phản ứng theo quan điểm cá nhân hoặc thực tại của chúng ta với những gì chúng ta nhìn thấy.
Hòa Ái: Bộ phim được dự kiến khi nào trình chiếu?
Đạo diễn Douglas Sloan: Chúng tôi hiện giờ đã hoàn chỉnh kịch bản phim dài 90 phút, khoảng 90% bộ phim được hoàn thành. Chúng tôi vẫn còn một số việc phải làm, như thực hiện thêm các cuộc phỏng vấn. Giống như các công ty sản xuất phim, thì chúng tôi cũng cần gây quỹ để hoàn thành bộ phim. Nếu như chúng tôi gây quỹ thành công, nhiều người lắng nghe và chú ý tới dự án phim và hỗ trợ tài chính cho chúng tôi thì hy vọng bộ phim sẽ được phát hành trong vòng 6 tháng nữa.

Người có trách nhiệm giống Tướng Loan sẽ làm gì?

Hòa Ái: Thưa quý vị, chúng ta được nghe cô Thùy Lan Phan và đạo diễn Douglas Sloan chia sẻ họ đang cố gắng thực hiện một phim tài liệu nói lên sự thật phía sau bức hình “Hành quyết tại Sài Gòn” vào năm 1968. Tiếp tục cuộc trò chuyện hôm nay, còn có sự góp mặt của cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Mời quý vị nghe ông chia sẻ về vai trò của Tướng Nguyễn Ngọc Loan trong thời điểm lịch sử Biến cố Mậu Thân năm 1968 tại Sài Gòn. Xin chào cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo. Thưa ông, sau khi hình ảnh Tướng Loan bắn chết người chiến sĩ biệt động Sài Gòn là Nguyễn Văn Lém, tự Bảy Lốp được phổ biến thì dư luận thế giới phản đối rất dữ dội, bởi vì họ cho rằng đó là một hành động rất dã man và tàn ác. Còn dư luận ở trong nước tại thời điểm đó như thế nào, thưa ông?
Ông Lê Minh Đảo: Bây giờ để nói cho có đầu có đuôi, thứ nhất là năm 1968 gọi là Mậu Thân, Cộng sản từ trong rừng họ đã đem chiến tranh vào thành phố. Họ vi phạm hiệp định ngừng bắn và thủ đô Sài Gòn lúc đó đang an bình trở thành một chiến trường rất ác liệt và đẫm máu. Tôi nói về sự liên quan của Việt Nam Cộng Hoà đối với Cộng sản, thì Việt Nam Cộng Hoà thường gọi Cộng sản Việt Nam không phải là Cộng sản đơn thuần mà gọi là Cộng sản khủng bố. Không phải chỉ Việt Nam Cộng Hoà gọi thôi. Tôi xin nói là các nước chống cộng sản như Malaysia, Anh quốc, họ gọi là Cộng sản khủng bố như chúng tôi gọi. Điều này được dẫn chứng là khi tôi đi học ở trường quân đội, học về chương trình chống du kích trong rừng, thì người Anh cũng gọi Cộng sản ở Malaysia là “CT” (Communist Terrorist) y như chúng tôi đã gọi. Và, trong luật pháp của Việt Nam Cộng Hoà từ đời Tổng thống Diệm cho đến đời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đều đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, chứ không có xét xử theo luật pháp thông thường. Thành ra, khi đặt công Cộng sản khủng bố đem đặc công vào Sài gòn, đánh vào toà Đại sứ, vào các nơi…trong đó tên khủng bố Bảy Lốp này trước đó đã giết rất nhiều đồng bào, sát hại đồng bào và xua đuổi đồng bào ra trước làn đạn để che đạn cho chúng nó thì bị bắt và đã bị hành quyết.
Ông tướng chỉ huy trưởng cuộc hành quân đó là Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Trong một chiến trường đang sôi động như vậy, thì việc loại một tên khủng bố tại chiến trường là không có gì sai trái cả. Tôi cũng xin nói thêm về việc này, thế giới sau đó làm rùm beng, còn đối với trong nước, từ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trở xuống cho đến một người binh sĩ khắp mọi nơi trong vùng miền Nam Việt Nam, cho đến đồng bào dân chúng ở thủ đô và thậm chí cả những nhà báo độc lập tự do tư tưởng, tự do phát biểu, họ không có một sự phê phán nào về hành động loại trừ tên Bảy Lốp do tướng Loan làm; ngầm hiểu rằng tất cả mọi người trong nước chúng tôi đều đồng tình, không có gì sai trái về hành động của tướng Loan cả.
Nếu bây giờ phong trào khủng bố ở tại Timesquare, New York có một tên khủng bố Hồi giáo y như Bảy Lốp, nó thảm sát đồng bào ở đó và vị chỉ huy trưởng của một lực lượng bảo vệ an ninh tại đó thanh toán anh ta liền tại chỗ, bắn anh ta để anh ta không làm những việc gây thêm thảm khốc cho đồng bào nữa, thì vị chỉ huy trưởng đó đối với quý vị có phải là người anh hùng không?...Do đó, những vị chỉ huy nào có trách nhiệm đều phải thi hành giống như Tướng Loan
-Cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo

Hòa Ái: Dạ thưa, thêm một câu hỏi dành cho ông rằng trong cương vị một vị tướng và giả định sự việc đó diễn ra đối với ông thì ông sẽ hành xử ra sao?
Ông Lê Minh Đảo: Câu hỏi này thì tôi xin được nói như thế này, từ đầu cuộc chiến tranh thứ nhất cho tới chiến tranh thứ hai và thậm chí cho đến ngày tết Mậu Thân năm 1968 thì nước Mỹ được diễm phúc đặc ân của ơn trên Thượng đế ban cho cũng như các nước Âu Châu lúc đó khác với chúng tôi chịu sự đau khổ của chiến tranh, sự tàn phá của chiến tranh,  sự tàn ác của Cộng Sản khủng bố đất nước chúng tôi gần 30 năm. Do đó mà mình thấy rằng cái cách nghĩ, cách nhìn và cách giải quyết của những người Hoa Kỳ và những người Âu Châu khác hẳn với những người Việt Nam phải chiến đấu một mất một còn để gìn giữ đất nước mình. Điều này khác nhau rất nhiều.
Tôi thấy có một điều là sau khi Osama bin Laden và al-Qaeda làm một cuộc khủng bố đánh sập hai toà tháp đôi ở New York, mà chúng ta thường gọi là vụ khủng bố 911 và tiếp theo là những phong trào khủng bố lan rộng khắp thế giới, xảy ra ở Anh, Pháp và các nước trên thế giới, thì bây giờ cái nhìn của quý vị có lẽ đã khác. Quý vị có lẽ phần nào thông cảm những việc làm của chúng tôi lúc đó. Và tôi đặt thử thế này, nếu bây giờ phong trào khủng bố ở tại Timesquare, New York có một tên khủng bố Hồi giáo y như Bảy Lốp, nó thảm sát đồng bào ở đó và vị chỉ huy trưởng của một lực lượng bảo vệ an ninh tại đó thanh toán anh ta liền tại chỗ, bắn anh ta để anh ta không làm những việc gây thêm thảm khốc cho đồng bào nữa, thì vị chỉ huy trưởng đó đối với quý vị có phải là người anh hùng không? Người anh hùng mà dân chúng New York tôn vinh, quý vị có nghĩ vậy không?
Điều mà chúng ta thấy quan trọng và cách cấp bách nhất là những người chỉ huy, những người có trách nhiệm là phải bảo vệ cho đồng bào của mình khi bị khủng bố, làm thế nào tránh cho đồng bào sự thảm sát có thể do tụi khủng bố gây ra. Do đó, những vị chỉ huy nào có trách nhiệm đều phải thi hành giống như Tướng Loan cả. Ở vào trường hợp đó, những người cấp chỉ huy chúng tôi có trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia, chúng tôi cũng phải làm như vậy, bởi vì chúng tôi nhắc lại lần nữa là đặt Cộng sản khủng bố ra ngoài vòng pháp luật và nhiệm vụ chính yếu của chúng tôi là bảo vệ, đừng để chúng gây tan tốc cho đồng bào. Đó là ý kiến của tôi.
Hòa Ái: Xin chân thành cảm ơn cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo, đạo diễn Douglas Sloan và cô Thùy Lan Phan dành thời gian cho cuộc trò chuyện này với RFA.

Nguồn: https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-documentary-film-saigon-68-exposing-half-truth-deliberately-forgotten-50-years-ago-02142018144651.html

Thứ Ba, 13 tháng 2, 2018

Ban Mê Thuột ngày đầu chiến cuộc : 9 > 10-3-1975

Nguyễn Ðịnh :

Cho đến hôm nay tôi vẫn chưa sao quên được Ban Mê Thuột và bao kỷ niệm yêu dấu của tuổi ấu thơ trên thành phố nhỏ bé này, mà đặc biệt là Ban Mê Thuột với nỗi kinh hoàng của đêm ngày 9 tháng 3 năm 1975, đêm đen hãi hùng của chiến tranh và lửa đạn.
“Ai chiếm được Ban Mê Thuột, kẻ đó làm chủ chiến trường.”
Tôi không còn nhớ ai đã nói câu này, nhưng Ban Mê Thuột quả thật có một vị trí chiến lược vô cùng trọng yếu đối với miền Cao nguyên, vì lãnh thổ của tỉnh Darlac, mà Ban Mê Thuột là thị xã, nằm trên Quốc Lộ 14, chạy dài từ phía Nam là tỉnh Quảng Đức, nối tiếp với Vùng 3 Chiến Thuật.
  • Phía Bắc là tỉnh Phú Bổn chạy dài đến Pleiku.
  • Phía Tây là một dãy rừng già tiếp giáp với biên giới của các nước láng giềng (ngã 3 biên giới).
  • Từ khu vực phía tây, một nhánh sông Serepok bắt nguồn từ Cam Bốt chạy xuyên Ban Mê Thuột cắt Quốc Lộ 14 ở phía Nam thị xã 14 km (cầu 14).
Tất cả những điểm đặc biệt của địa hình này đã tạo nên một ưu thế cho chiến tranh du kích. Hơn thế nữa, Đông Bắc thị xã Ban Mê Thuột là Quận Phước An, quận cuối cùng của tỉnh Darlac, mà cũng là gạch nối giữa vùng cao nguyên và miền duyên hải qua cửa ngỏ Khánh Dương, Nha Trang bằng Quốc Lộ 21. Cho nên, nếu nói Ban Mê Thuột là cái rún của vùng cao nguyên qủa thật không phải là quá đáng.
tuan-canh_ban-me-thuot
Ban Mê Thuột cũng là cái nôi kinh tế của miền đất đỏ. Nếu nói tới cây thông Đà Lạt, hay trà ở B’Lao, thì nhất định phải nói tới cà phê Ban Mê Thuột và những dãy đồn điền cao su hàng chục ngàn mẩu. Rừng là tài nguyên vô cùng quý của quốc gia. Ban Mê Thuột là nơi tàng trữ và sản xuất các loại cây, gổ quý như cẩm lai, cà te, gụ, lim, sên sên, cây dầu, cà chích, bằng lăng… nên đã trở thành trung tâm khai thác lâm sản bậc nhất trên toàn quốc, và đã nuôi sống không biết bao nhiêu ngành sản xuất của nền kinh tế quốc dân thời bấy giờ.
Với bốn quận gồm Lạc Thiện (nằm ở hướng Đông), Phước An (hướng Đông Bắc), Buôn Hô (Bắc) và Ban Mê Thuột là quận châu thành, và dân số toàn tỉnh có khoảng 150 ngàn, mà thị xã Ban Mê Thuột chiếm 60 ngàn, gồm cả Kinh lẫn Thượng.
linh_nguoi_thuong
Người Thượng với nhiều sắc dân như Ê Đê, Bana, H’mong…
thanh-nien_nguoi_thuong
Thanh niên làng Người Thượng
Và với 15 trường trung học và tiểu học như Bồ Đề, La San, Hưng Đức, Vinh Sơn, Bán Công (sau này đổi lại thành trường Tỉnh Hạt), Trung Học Tổng Hợp (công lập), Trung Học Nông Lâm Súc, Trung Học Sư Phạm Cao Nguyên…
nha_nguoi_thuong
Tám mươi phần trăm dân số sống bằng nghề trồng ngũ cốc và cây kỹ nghệ cà phê, cao su, tiêu, ca cao.
  • Người Thượng theo tập tục Cúng Dàng,
  • người Kinh là tín đồ của các tôn giáo như Phật, Thiên Chúa, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo và cũng như thờ cúng Ông Bà.
Điểm đặc biệt của thị xã này là những thắng cảnh rất nổi tiếng và nên thơ như Vườn Ương, với dãy rừng Trắc Bá chạy dài theo con lộ từ phi trường dân sự Phụng Dực tới cây số 5, “Thung Lũng Tình Yêu,” “Rừng Chim Chích,” Suối Hẹn Hò,” “Đồi Cỏ Vàng,” “Vườn Mộng,” “Thung Lũng Hồng,” “Thác Drayling…” để những chiều nhàn rỗi, các đôi tình nhân đem nhau đến vườn mộng ngắm cỏ úa của mùa thu, hay mỗi Hè về, nhìn hoa Phuợng nở trên khuôn viên trường Tổng Hợp, hoặc là đi thăm khu kỹ nghệ cây số 7 để ngâm mình trong suối đá xanh mà ngắm hoa Bằng Lăng, trắng, đỏ, tím, hồng, nở rộ trên những đồi hoang.
Nhưng tất cả những cảnh vật đó, sinh hoạt đó, đã bị vùi chôn và hủy diệt bằng các trận mưa pháo của đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly, chiến xa T-54, và 3 sư đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt vào mùa xuân năm Ất Mão, ngày 10 tháng 3/1975. Ban Mê Thuột, hay “Bụi Mù Trời” đã tan tác hết, phần đất bé nhỏ của quê hương yêu dấu tôi yêu.
NHỮNG NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC
Có lẽ không phải chỉ riêng tôi, mà hầu hết những người dân của thị xã đã không linh cảm nỗi quê hương thơ mộng này lại rơi vào biển lửa của chiến tranh.
Mặc dầu vào mùa Thu năm 1974, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật về nhận chức tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Tiểu Khu Darlac, ông đã cho thực hiện một dãy chiến hào bao quanh thị xã để phòng xe tăng T-54 của Cộng quân. Tinh thần quyết chiến-đấu và bảo vệ Ban Mê Thuột của từng người lính và các cơ quan đơn vị, từ cấp Xã đến Quận đã rõ rệt và sẵn sàng từ đó.
Những cuộc hành quân truy lùng tin tức địch đã được thực hiện liên tục. Cục hành quân Phượng Hoàng của hai đơn vị Nghĩa Quân (NQ) và Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) giữa liên xã Thọ Thành và Cư Jút vào sau khu vực phía Nam, cách nhiệm sở của hai đơn vị này khoảng 15 km về hướng Nam Tây-Nam, và 42 km Tây-Nam thị xã vào cuối tháng 2 năm 1975, đã phát giác dấu xích xe tăng T-54 của địch.
Cuộc hành quân của đơn vị Nghĩa Quân và Cảnh Sát Quốc Gia thuộc xã Cư Ming, Bandon, phía Tây thị xã Ban Mê Thuột chừng 48 km cũng đã cung cấp cho Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Ban Mê Thuột và F đặc biệt về sự di chuyển của quân Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Bandon.
Các tin tình báo của những tình báo viên, TBND, trong Mạng Lưới Tình Báo do Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh trong những tháng 2 và 3/1975, khi đi khai thác lâm sản ở khu vực phía tây thị xã (Bandon) và Tây Nam thị xã 62 km cũng đả báo cáo cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac tin tức về các đường dây điện thoại, ống dẫn dầu và dấu xích chiến xa T-54 của cộng quân.
Ngày 14 tháng 2 năm 1975, 7 chiếc xe be khai thác lâm sản, trong lúc làm cây ở khu vực Nam Tây-Nam thị xã Ban Mê Thuột 82 km đã bị Cộng quân cưỡng chiếm, các nạn nhân cũng đã khai trình Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh và Phòng 2 Tiểu Khu những tin tức về lực lượng cộng quân.
Tháng 2 năm 1975, một nữ cán binh thuộc Trung Đoàn 25 Địa Phương của Cộng quân ra hồi chánh với một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac đã cung cấp tin tức về sư đoàn F10 của Cộng quân đang di chuyển về khu vực Nam thị xã Ban Mê Thuột, đồng thời cho biết Trung Đoàn 25 Địa Phương sẽ mở chiến dịch tại khu vực Khánh Dương, nằm trên Quốc Lộ 21, ranh giới gữa Khánh Dương – Nha Trang và Phước An – Ban Mê Thuột.
Đặc biệt là cuộc hành quân ngày 7 tháng 3/1975 (ba ngày trước khi Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột), của một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac, đã bắt được một tù binh Cộng Sản, quân hàm thiếu úy, trong lúc y đang giăng dây điện thoại ở khu vực Buôn La Sup, thuộc xã Cư Ming, Bandon, Quận Ban Mê Thuột.
Nhưng tất cả những tin tức này đều chỉ được ghi nhận. Lực bất tùng tâm, Quân Đoàn 2 với hai sư đoàn gồm Sư Đoàn 22 Bộ Binh (BB) lo trấn giữ các tỉnh miền duyên hải, và Sư Đoàn 23 Bộ Binh 23 trấn thủ các tỉnh cao nguyên với những dãy núi rừng trùng trùng điệp điệp, đã không đủ quân số để chống giữ Ban Mê Thuột với sự ồ ạt tấn công của hàng chục ngàn bộ đội Bắc Việt với đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly và chiến xa T-54 yểm trợ đã vùi chôn Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân của thị xã này trong biển lửa.
Nhưng trong thâm tâm mỗi người dân Ban Mê Thuột, hình ảnh những vị anh hùng của Tiểu khu Darlac, những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia và Sư Đoàn 23 Bộ Binh mãi mãi là những thần linh bất tử, đặc biệt là Trung Đoàn 53 Bộ Binh trấn giữ phi trường Phụng Dực, đã anh dũng chiến đấu và bảo vệ những phần đất Ban Mê Thuột trong suốt 7 ngày đêm dưới chiến thuật biển người và mưa đạn của kẻ thù cho đến phút lâm chung. Xin cám ơn đấng tố cao đã cho chúng tôi những người con trung hiếu lưỡng toàn này.
NHỮNG TRẬN ĐÁNH MỞ ĐẦU
Để chuẩn bị cho cuộc tấn công Ban Mê Thuột, Cộng quân đã mở 3 mặt trận lớn, cắt đứt mọi liên lạc và tiếp vận với Ban Mê Thuột.
  • Mặt trận đầu tiên là đánh chiếm quận Thuận Mẩn, thuộc tỉnh Phú Bổn, nằm trên Quốc Lộ 14, giáp ranh với quận Buôn Hô, tỉnh Darlac, cách quận lỵ Buôn Hô 45 km về phía Bắc vào ngày 4 tháng 3 năm 1975.
  • Đêm ngày 6 tháng 3 năm 1975, Cộng quân mở mặt trận tại khu vực quận Khánh Dương, Nha Trang, nằm trên Quốc Lộ 21, giáp ranh quận Phước An tỉnh Darlac, cách thị xã Ban Mê Thuột 75 km về phía Đông Bắc.
  • Đêm ngày 8 tháng 3/1975, Cộng quân tấn công quận Đức Lập, tỉnh Quảng Đức, nằm trên Quốc Lộ 14,cách thị xã Ban Mê Thuột 60 km về phía Nam. Đến 9 giờ 30 ngày Chủ Nhật, 9 tháng 3/1975, tin Cộng quân tràn ngập Chi Khu Đức Lập chính thức nhận được qua Trung Tâm Hành Quân Tiểu khu Darlac.
Như vậy, thị xã Ban Mê Thuột đã hòan toàn bị cô lập. Phía Nam Ban Mê Thuột là quận Đức Lập đã bị Cộng quân chiếm đóng.
  • Phía Bắc liên lạc với Phú Bổn và Pleiku qua Quốc Lộ 14, đã bị Cộng quân cắt tại quận Thuận Mẩn.
  • Đông Bắc là Quốc Lộ 21 nối với miền duyên hải qua cửa ngỏ Nha Trang đã bị Cộng quân trấn giữ bằng mặt trận Khánh Dương.
TÌNH HÌNH BAN MÊ THUỘT, CHỦ NHẬT 9 THÁNG 3 NAM 1975
Với những tin nhận được, tình hình Ban Mê Thuột quả thật có biến động. Những gia đình giàu có, những người có thể, đều tìm cách ra khỏi Ban Mê Thuột để về Nha Trang hay Saigon. Một vé máy bay đi Saigon lên đến 50 ngàn đồng thời bấy giờ, nhưng cũng không còn chỗ. Đi Nha Trang 20 ngàn, nhưng cũng không cách nào đặt được vé.
Trưa ngày 9 tháng 3 năm 1975, một cuộc họp khẩn cấp được triệu tập tại Tòa Hành Chánh, do Đại Tá Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng chủ trì, gồm các ty sở trưởng, đơn vị trưởng và ban ngành chuyên môn trực thuộc tiểu khu. Lệnh báo động đỏ được ban hành cùng với lệnh cấm trại một trăm phần trăm các đơn vị.
Một đặc lệnh truyền tin được chuyển đến các đơn vị, đặc biệt là trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia, với những chỉ dẫn cần thiết kèm theo đặc lệnh này, mà những nhân viên thừa hành không thể được phép mở, ngọai trừ khi có lệnh của đơn vị trưởng trực tiếp. Lệnh giới nghiêm được ban hành trên toàn thị xã, từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng hôm sau. Một số gia đình có thân nhân ở ngoại ô thị xã như cây số 5, đã di tản gia đình ra khỏi thị xã tối ngày 9 tháng 3 năm 1975.
Nhưng định mệnh đã an bài, không phải vì triều đại của chúng ta thiếu nhân lực hay bất tài, cũng không phải vì chúng ta tất trách, chưa làm hết bổn phận của mình, mà ngược lại, chúng ta đã tận sức, đặc biệt là những người lính, những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia.
Thực sự xã hội miền Nam từ giữa thập niên 1960 đã có những biến chuyển lớn trong sinh hoạt chính trị gây ảnh hưởng sâu rộng cho nền trị an xã hội, đặc biệt là ở những thành phố lớn. Một số các tổ chức đã chỉ biết yêu cầu và đòi hỏi mà quên đi những nguyên tắc căn bản của một thực tế xã hội mà mọi sinh hoạt còn ở mức khởi đầu. Một người làm chính trị giỏi thì cả nước yên, cả nước làm chính trị thì xã hội loạn. Khuynh hướng đòi tự do dân chủ được lồng vào các cuộc bạo hành, xuống đường phản đối chính phủ ở vào những giai đoạn không hợp thời, không đúng lúc, của một số tổ chức, đã thực sự đe dọa nền an ninh quốc gia, và trở thành những hành động khủng bố tính mạng của tổ quốc.
Người ta nhân danh tự do, để làm chính trị, nói chính trị, mà không thấu triệt đạo đức và nguyên lý chính trị căn bản. Người ta đòi tự do, hô hào tự do mà xã hội còn ở mức căn bản, nên vô tình hay hữu ý, những kẻ đó đã tiếp tay, hoặc tạo cho kẻ thù cơ hội lũng đoạn và khuynh đảo các cơ cấu, tổ chức chính quyền, thao túng trật tự xã hội dưới nhiều hình thức và chiêu bài. Trong khi đó, ở ngoài chiến trường, những người lính của chúng ta còn giành nhau từng tấc đất với kẻ thù, và sinh mạng những người dân ở vùng chiến tranh, hoặc từng phần lảnh thỗ của miền Nam chỉ là ngàn cân treo sợi tóc.
Mặt khác, chúng ta lại không may gặp phải một đồng minh khác biệt với nền đạo đức cổ truyền, không đặt nặng lòng nhân, không xử chữ nghĩa, chúng ta như một con cờ trong ván cờ chính trị toàn cầu của đồng minh anh em, trong khi nền Cộng Hòa của chúng ta vừa qua giai đoạn phôi thai, đang ở chặng đường phát triển. Nền công nghiệp nặng còn khiếm khuyết, kỹ nghệ quốc phòng chưa mở mang, nền kinh tế quốc dân tuy có ổn định, nhưng cán cân cung cầu chưa đồng đều, mậu dịch chưa hoàn toàn cân đối.
Dầu rằng nền Cộng Hòa của chúng ta đã có được một cơ cấu chính quyền có tổ chức và hoàn bị, dựa trên Hiến Pháp, nhưng được toàn thế giới công nhận, có ứng cử và bầu cử tự do từ cấp xã, quận, tỉnh đến trung ương. Một Học viện Quốc gia hành chánh để đào tạo các chuyên viên hành chánh điều hoà hệ thống này. Một Quốc Hội lưỡng viện, một Giám Sát Viện để đàn hạch việc làm của Tổng Thống. Một Tối Cao Pháp Viện để kiểm sóat hệ thống tòa án là ngành Tư Pháp của chúng ta.
Chúng ta lại có một hệ thống tài chánh, ngân hàng hết sức ổn định và tiên tiến, không thua gì các quốc gia mở mang. Hệ thống giáo dục của chúng ta thưc sự đã hoàn hảo, hàng năm, các viện đại học Sàigòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Minh Đức, đã đào tạo và cung cấp không biết bao nhiêu chuyên viên và nhân tài phục vụ xã hội. Ngành y tế của chúng ta phải nói là tân tiến, với một đội ngũ bác sĩ đầy nhiệt huyết và lương tâm.
Quân đội của chúng ta cũng được đào tạo và huấn luyện với những kỹ thuật tiên tiến, tinh vi, và hữu hiệu. Chúng ta có hai trường sĩ quan: Trường Võ Bị Đà Lạt, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, một trường Hạ Sĩ Quan là trường Đồng đế ở Nha Trang, nhiều trung tâm huấn luyện và những trường chuyên môn như Công Binh, Pháo Binh, Trường Sĩ Quan Không Quân và Hải Quân, trường Quân Nhu, Quân Cụ, vân vân và vân vân…
Và ngành Cảnh Sát Quốc Gia, chúng ta có :
  • một Học Viện Cảnh Sát ở Thủ Đức, huấn luyện và đào tạo các sĩ quan ưu tú, để hành xử luật pháp thật công minh,
  • Trung Tâm Huấn Luyện Dốc Dừa,
  • Trường Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến,
  • và nhiều Trung tâm huấn luyện khác đã đào tạo các chiến sĩ Cảnh Sát xuất sắc để hoàn thành nhiệm vụ TRỪ BẠO, AN DÂN, CÔNG MINH, LIÊM CHÍNH.
hoc-vien_canh-sat_quoc-gia
Học Viện Sĩ Quan Cảnh Sát Quốc Gia VNCH
đồi Tăng Nhơn Phú – Thủ Đức
police_academy_rach-dua
Trung Tâm Huấn Luyện Căn Bản Cảnh Sát Quốc Gia VNCH
Rạch Dừa – Vũng Tàu (Bà Rịa)
TTHL_CSDC_Dalat 1
Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến VNCH
Trại Mát – Đà Lạt (Tuyên Đức)
Về mặt kinh tế quốc dân, các ngành sản xuất đang trên đà phát triển, các nhà máy giấy, xi măng, xưởng dệt, lắp ráp nông cơ, xe hơi, xe gắn máy, xe đạp, xà phòng… các ngành xuất, nhập, khẩu tăng trưởng cực mạnh, số lượng gạo, cà phê xuất cảng đứng hang nhất-nhì trong khu vực Đông Nam Á. Các mặt hàng tiêu dùng như vải, sợi… tràn ngập trên thị trường, không cần đến nhập cảng . Hai mươi sáu triệu dân miền Nam thực sự đủ ăn, đủ mặc, được học hành và chăm sóc chu đáo.
Xã hội chúng ta thực sự đã tổ chức hoàn bị, dựa trên căn bản của luật pháp, bình đẳng và tự do. Người ta tha hồ phê bình Tổng Thống và các vị lãnh đạo ở mọi cấp bậc của Quốc gia. Quyền tự do cư trú, tự do đi lại, tự do lập hội, tự do ngôn luận, báo chí, và các đảng phái tuyệt đối được tôn trọng. Và đó là tất cả những gì mà nền Cộng Hòa của chúng ta đã làm được và đang cố gắng phát triển và thăng tiến.
Tuy nhiên, một điều mà chúng ta phải thừa nhận, đó là Quốc gia của chúng ta còn là một nước phát triển, chúng ta chưa có kỹ nghệ sản xuất vũ khí. Quân đội của chúng ta, trong ngành tình báo kỹ thuật, trang bị còn rất hạn chế, vì phải nhờ vã ở đồng minh.
Chúng ta không có xe tăng M-48 bắn bằng tia hồng ngọai tuyến, hay điều khiển bằng máy vi tính, vũ khí chống chiến xa T-54 là súng M-72, dài gần một mét, nặng gần 12 pound.
  • Mổi khẩu M-72 chỉ xử dụng đúng một lần, bắn xong một phát là vất bỏ khẩu súng.
  • Thử hỏi mỗi người lính khi đi hành quân phải mang đầy quân trang quân dụng thì còn mang theo được bao nhiêu khẩu M-72.
Bom không đủ dùng, bom không có ngòi nổ. Cấp số đạn cho vũ khí cá nhân thực sự hạn chế, phương tiện truyền thông liên lạc còn rất thô sơ, nhiên liệu hoàn toàn bị lệ thuộc, mà đặc biệt là quân số của chúng ta chưa đủ để phân phối vì bị ràng buộc bởi luật động viên.
Và cái phải đến đã đến, chúng ta đã không ngăn chận được biển người của kẻ địch tràn ngập thành phố này, Ban Mê Thuột đã mất, mất hết cả ước mơ, hoài bảo và tương lai.
PHỐI TRÍ VÀ TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG
Lực lượng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại thị xã Ban Mê Thuột lúc bấy giờ không quá một ngàn người, gồm hậu cứ của Bộ Tư Lệnh (BTL) Sư Đoàn 23 Bộ Binh, hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 (quân số chủ lực của các đơn vị này đã được điều động về Pleiku và Kontum từ trước Tết mà chưa được trả về như chỉ thị của Tổng Thống lúc kinh lý Pleiku trong dịp Tết Ất Mảo 1975).
Ban Mê Thuột thực sự chỉ là một thành phố hoang không lực lượng bảo vệ, nói theo một nghĩa nào đó. Do vậy, vấn đề phân nhiệm tuy có kế hoạch chu tường nhưng chỉ là một màng nhện.
  • Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và các phòng cùng các ban trực thuộc, chịu trách nhiệm phòng thủ phía Nam thị xã.
  • Hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 chịu trách nhiệm phía Tây, khu vực nặng nề nhất.
  • Kho đạn (trại Mai hắc Đế) bảo vệ một mặt phía Tây-Nam cùng với Trung Tâm Yểm trợ tiếp vận (đại đội hành-chánh tài-chánh, tức là Ban Lương Bổng).
  • Phía Đông do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ Binh đảm trách.
  • Xa hơn là Chi Khu Ban Mê Thuột và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Ban Mê Thuột sẽ phối hợp với nhau để chịu trách nhiệm vấn đề phòng thủ.
  • Mặt Bắc thị xã là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac cùng với một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến.
Nội vi thị xã và các chốt điểm trọng yếu đều do lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đảm trách, và được bố trí như sau :
  • Hai chốt Cảnh Sát đặt tại Trường Trung Học Tỉnh Hạt và cuối đường Phan Chu Trinh là các chốt ở cửa Bắc.
  • Cuối đường Tự Do, Bến Xe Cây Số 3, được giao cho Cục Cảnh Sát Quốc Gia Cư Kplong và một tiểu đội Cảnh Sát Dã Chiến.
  • Cửa ngỏ phía Nam có Cục Cảnh Sát Quốc Gia Cư Ê Bư và một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến chịu trách nhiệm.
  • Cửa Tây thị xã giao cho Cục Cảnh Sát Quốc Gia thị xã Cục Lạc chịu trách nhiệm.
  • Các cao ốc trong toàn thị xã và các khách sạn, như khách sạn Anh Đào, Hồng Kông, đều được Cảnh Sát Quốc Gia đóng chốt.
Các đơn vị trừ bị gồm có một tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 Bộ Binh đóng tại phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km, có trung đội pháo binh 105 ly. Nhưng tiếc thay, pháo binh của Cộng quân lại là loại 130 ly, và hỏa tiển 122 ly, tầm xa và sức công phá hoàn toàn cách biệt.
Lực lượng Cộng quân có một trung đoàn địa phương là Trung Đoàn 25, ba sư đoàn quân chính quy Bắc việt gồm các Sư Đoàn 320 (tiền danh là Nông Trường 3 Sao Vàng), Sư Đoàn 316, và Sư Đoàn F10. Thêm vào đó, Cộng quân có hàng trăm chiến xa T-54, các đại bác 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, BKZ 82 (bích-kích pháo không-giật dùng để phá hủy các công sự phòng thủ).
Với những đơn vị tham chiến có mặt này, quân số của Cộng quân đã lên đến hằng chục lần hơn so với quân số của Việt Nam Cộng Hòa. Và nếu cộng thêm đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa Quân và lực lượng Nhân Dân Tự Vệ xã Lạc Giao, quân số của ta cũng không vượt quá 2,000 người. Nhưng thực sự thì bảy ngày sau Cộng quân mới hoàn toàn làm chủ Ban Mê Thuột. Đó chính là nhờ lòng dũng cảm, tinh thần quyết chiến-đấu của từng người lính, và cấp chỉ huy của mỗi đơn vị trong suốt những giờ đầu chiến cuộc.
MỞ ĐẦU TRẬN ĐÁNH
Từ 1giờ 20 đến 2 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, các chốt điểm Cảnh Sát Dã Chiến ở cửa Bắc và cửa Tây thị xã đã phát giác các tổ trinh sát tiền phong của Cộng quân và liên tiếp báo về Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac.
Hai giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân bắt đầu thực hiện trận mưa pháo theo chiến thuật tiền pháo hậu xung bằng đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly vào các cứ điểm quân sự như Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kho đạn Mai Hắc Đế và phi trường L19.
Tiếng rít của hỏa tiển và đạn đạo 130 ly khủng khiếp như xé cả không gian mà người ta thực sự chưa từng nghe thấy một lần trong đời. Những tiếng nổ đó cứ liên tục như những dây pháo đại không ngừng, làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng động đất được thấy trên các màn bạc. Các nhà cao tầng bị rung chuyển cực mạnh. Và màng nhĩ của con người chỉ còn ghi nhận tiếng “o o” mà không còn nghe được một âm thanh nào khác.
Thành phố đã như con tàu chao nghiêng trong bão tố. Một số các nhà xây thô sơ quanh các khu vực quân sự đã bị sụp đổ, và trận mưa pháo liên tiếp không ngừng đổ xuống các cứ điểm quân sự của ta cho đến 6 giờ sáng.
Bốn giờ sáng cùng ngày, chiến xa T-54 và bộ đội Cộng Sản chia làm nhiều mũi tấn công vào phi trường L19, kho đạn Mai Hắc Đế với chiến thuật biển người.
Sáu giờ 15 sáng, xe phóng thanh của Ty Thông Tin đậu tại Ngã 6 thị xã phát lời kêu gọi của đại tá tỉnh trưởng yêu cầu đồng bào bình tỉnh, ai ở nhà nấy, tình hình an ninh tại thị xã vẩn còn yên tỉnh.
Sáu giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, một góc phía Bắc của phi trường L19 bị Cộng quân tràn ngập.
Bảy giờ 15 các chốt Cảnh Sát xin lệnh rút khỏi vị trí phòng thủ vì áp lực địch quá mạnh. Cũng lúc này, dân chúng từ khu vực Buôn A-Lê B, Tân Mai, cửa Nam thị xã lũ lượt chạy vào trung tâm thànhphố.
Tám giờ 30 cùng ngày, Kho đạn Mai Hắc Đế thất thủ. Viên đại úy chỉ huy trưởng bị trọng thương.
Chín giờ 20, chiến xa T-54 và bộ đội Cộng quân chia làm nhiều mũi tấn công vào thị xã :
  • Một mũi từ cuối đường Phan Chu Trinh (cửa Bắc ) tràn chiếm khu vực nhà thờ Chính Tòa, ngã Sáu thị xã, cách Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu 800 mét.
  • Mũi phía Nam, từ khu vực Buôn A-Lê B, đồi Trung Học La San, theo đại lộ Thống Nhất tiến đánh khu vực tư dinh Tỉnh Trưởng, Ty Ngân Khố.
  • Một mũi khác, từ hướng chùa Khải Đoan, đánh chiếm ngã tư Nguyễn Tri Phương Phan Bội Châu, và mặt Tây thị xã đã bị Cộng quân tấn chiếm.
Khu phố Nguyễn Trãi Nguyễn Tri Phương, dân chúng bồng bế nhau chạy về chùa Khải Đoan và Trường Bồ Đề dưới mưa đạn AK và đại bác của kẻ thù. Tiếng khóc của trẻ con, tiếng kêu mẹ, gọi chồng hòa lẩn tiếng đạn rít nghe thê lương hải hùng không nỗi nào tả xiết.
  • Dãy phố Quang Trung, Lý thường Kiệt, từ nhà hàng Hoàng Vinh đến tiệm may Hoàng Yến, đối diện Ngân hàng Đại Á bốc cháy dữ dội.
  • Khu phố Hai Bà Trưng, Quang Trung, từ khách sạn Hồng Kông chạy dài đến Ama Trang Long đã thành một biển lửa.
Quả thật cuộc sống của thành phố này đang bị hủy diệt. Những cụm lửa cuộn theo tàn hòa trong khói đục tiếp tục bay cao để đốt cháy nốt những khu phố lân cận.
MẶT TRẬN TIỂU KHU DARLAC
Từ 9 giờ 30 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, các mũi tiến quân của Cộng quân từ hướng bắc và hướng Tây bắc đã hoàn toàn tràn ngập trung tâm thành phố và tập trung nổ lực tấn công Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống Nhất.
Bộ đội và chiến xa T-54 của Cộng quân từ khuôn viên nhà thờ chính tòa tràn qua ngã Sáu, chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá sĩ quan, nằm trên Ngã Ba đại lộ Thống Nhất và đường Lê Lợi, nhưng không tràn qua được khu vườn hoang của Bác Sĩ Tôn Thất Niệm, nằm sát hệ thống công sự phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.
Lực lượng phòng vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liệt. Một chiếc T-54 của Cộng quân bị bắn cháy. Dù với chiến thuật biển người và với BKZ 82 ly cùng đại bác 100 ly trang bị cho T-54 bắn trực xạ không ngừng vào hệ thống công sự phòng thủ của tiểu khu, Cộng quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống công sự phòng thủ này.
Tinh thần chiến đấu và lòng dũng cảm của những chiến sĩ thuộc Tiểu Khu quả thật không thể tưởng tượng. Cứ mỗi đợt tiến công của Cộng quân là những tràng đại liên, M-79 (súng phóng lựu) và M-16 từ các công sự phòng thủ xối xả phản kích làm cho bước tiến quân của Cộng quân đã phải ngừng lại.
Cộng quân lui về cố thủ khu vực cư xá sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên Thùy, đồng thời chia quân tràn qua đại lộ Thống Nhất đánh chiếm Tòa Án, bưu điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ, và tiếp tục thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly từ các chiến xa T-54 và đại bác130 ly cùng hỏa tiễn 122 ly từ hướng Tây thị xã (khu vực Bandon) đổ vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.
Mười một giờ 20, một chiếc T-54 của Cộng quân tiến vào cổng trước Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trên đường Thống Nhất đã bị bắn hạ. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Tiểu Khu càng lên cao.
Mười một giờ 45, hai chiếc Commando Car (thiết giáp với bốn bánh cao su, không xích sắt) của Thiết Đoàn 8 từ hướng chùa Khải Đoan theo đường Quang Trung qua Tôn Thất Thuyết để tiến về đánh bọc hậu lực lượng của Cộng quân đang công hãm Tiểu Khu.
Nhưng khi đến ngã Ba Ama Trang Long Tôn Thất Thuyết, các chiến sĩ Thiết Đoàn 8 bị lực lượng của Cộng quân từ ngã Sáu tràn xuống chận đánh. Hai chiếc Commando Car bị Cộng quân bắn cháy trước Bar Quốc Tế. Nhưng các chiến sĩ của Thiết Đoàn 8 đã len theo khu phố Ama Trang Long để tiến về hướng Tiểu Khu.
  • Cũng giờ này, khu chợ Ban Mê Thuột, từ đường Quang Trung chạy dọc theo đường Y Jút đến Ama Trang Long bị trúng đạn và bốc cháy dữ dội. Nhà hàng Thanh-Thế mới khai trương, cũng tân kỳ không thua gì nhà hàng Thanh-Thế ở đại lộ Lê-Lợi Sài Gòn, giờ đây đang là một biển lửa.
  • Dãy phố bên kia đường Ama Trang Long, đối diện với nhà hàng Thanh Thế như tiệm Rồng Vàng, nằm mặt sau của Ty Cảnh Sát cũ đã là một bãi gạch vụn.
  • Khu phố nằm trên đường Y Jút, đối diện với chợ Ban Mê Thuột như nhà của Bác Sĩ Tôn Thất Hối đã bị sập.
Cho đến giờ này, 11 giờ 45 ngày 10 tháng 3 năm 1975, các chiến sĩ của Tiểu Khu Darlac vẫn cố thủ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, và lực lượng của Cộng quân từ 2 mặt, phía Bắc, tức là khu cư xá sĩ quan và mặt tiền Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, tức là từ Bưu Điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ đã bám sát hệ thống công sự phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Những trận đánh xáp lá cà đẫm máu đã xảy ra dọc theo hệ thống công sự phòng thủ.
Một giờ 15 trưa ngày 10 tháng 3 năm 1975, Trung Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu bị trúng pháo, mọi liên lạc truyền tin bị phá hủy.
Mười bốn giờ 20 ngày thứ Hai, 10 tháng 3 năm 1975, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Tỉnh Darlac thất thủ, sau hơn 7 tiếng đồng hồ giao tranh với lực lượng biển người của Cộng quân có chiến xa T-54, và các loại đại pháo yểm trợ, mà không có được một đơn vị bạn nào tiếp cứu.
Sáu mươi ngàn dân thị xã Ban Mê Thuột mãi mãi ghi nhớ chiến công, lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật của các chiến sĩ Tiểu Khu Darlac trong những giờ phút lâm nguy đã cố gắng và hy sinh để làm tròn bổn phận cho đến hết sức mình :

  • Xin gởi tấm chân tình sâu xa nhất của chúng tôi đến Trung Tá Vĩnh Hy, người trực tiếp chỉ huy mặt trận, với những trận tấn công và đánh xáp lá cà cùng lực lượng biển người của quân thù, và để đến giờ phút cuối đành di tản Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để bảo toàn lực lượng.
  • Xin anh linh của những chiến sĩ đã sống hùng thác thiêng, phù trợ cho thành phố này và những đồng đội của mình trên những chặng đường di tản. Các vị mãi mãi là những anh hùng và thần linh của thành phố này.
MẶT TRẬN PHÍA BẮC THỊ XÃ
Những Trận Đánh oanh liệt của các Chiến Sĩ Cảnh Sát Quốc Gia thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac
bch_csqg_buon-me-thuot
Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Ban Mê Thuột
(Tỉnh Darlac)
Trong kế hoạch phòng thủ thị xã Ban Mê Thuột, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac là một trong những đơn vị chịu trách nhiệm về một khu vực phòng thủ nặng nề nhất, từ nội vi thị xã đến cả một mặt Bắc, bao gồm phi trường trực thăng và phi trường L19. Phòng thủ phi trường L19 là đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU), trực thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh.
Với những tin tức nhận được của mạng lưới tình báo cơ hữu và của các đơn vị bạn, vị Chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, Trung Tá Trần Quang Vĩnh đã sẵn sàng kế hoạch phòng thủ và phản công cho đơn vị hằng tháng trước. Ông đã bổ nhiệm Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn, Đại Đội Trưởng đại đội Cảnh sát Dã Chiến 206 làm phụ tá chỉ huy trưởng đặc trách hành quân.
Mười một giờ trưa ngày 9 tháng 3 năm 1975, sau khi dự phiên họp tại Tiểu Khu, có sự tham dự của Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 2, ông trở về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Tỉnh cùng với vị phụ tá hành quân triệu tập một phiên họp tham mưu với các cấp chỉ huy, nhắc lại lệnh cấm trại một trăm phần trâm và lệnh báo động đỏ cho toàn thể các đơn vị trực thuộc. Ông cũng cho lệnh di tản gia đình nhân viên ra khỏi thị xã để sẳn sàng chiến đấu. Đồng thời Đại Tá Vĩnh chuyển đến các Cục Cảnh Sát Quốc Gia Xã Đặc Lệnh Truyền Tin, Khóa KCD và ra lệnh được phép tiêu hủy hồ sơ đơn vị nếu cần thiết.
Phân công trách nhiệm phòng thủ Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát mới cho Thiếu Tá Chỉ Huy Phó và sĩ quan phụ tá hành quân, với Đại Đội 206 Cảnh Sát Dã Chiến. Ty cảnh Sát cũ, nằm ở khu vực sân vận động trên đường Ama Trang Long Tôn Thất Thuyết, gồm 2 phòng Truyền Tin và Kỷ Thuật do chỉ huy trưởng đảm trách.
Mười hai giờ 30 cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac nhận được tin một đơn vị của Cộng quân đã tiến vào khu vực Buôn Ea H’Neh, cách thị xã Ban Mê Thuột khoảng 6 km về phía Tây.
  • Viên chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh đã tức thời trình Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và Đại Tá Nguyễn Trọng Luật.
  • Đồng thời ông cũng báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh sát Quốc Gia Khu 2 (Nha Trang ) và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2/Quân Khu 2.
Nhưng tiếc thay, Bộ Chỉ Huy Khu và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã không có biện pháp ngăn chận.
Hai giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân bắt đầu tấn công phi trường L19, (khu vực phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, do Đại Đội Thám Sát chịu trách nhiệm), bằng đại bác 130 ly và hỏa tiễn 122 ly.
Đến 4 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân bắt đầu dùng lực lượng bộ binh với chiến thuật biển người và xe tăng T-54 tấn công phi trường L19. Đơn vị Thám Sát Tỉnh chống trả quyết liệt và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia. Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn liền liên lạc với Tiểu Khu xin Đại Đội 1/224 tiếp viện. Nhưng Đại Đội 1/224 đã không thể chọc thủng vòng vây của Cộng quân ở mặt Bắc Phi trường L19.
Sáu giờ 20, một đoạn vòng đai ở khu vực phía Bắc phi trường bị chọc thủng. Lực lượng Cộng quân tràn ngập khu vực này, và đơn vị Thám Sát Tỉnh đã phải lui về phòng tuyến phòng thủ phía sau.
Tổn thất về nhân sự nặng nề nhất trong mặt trận Ban Mê Thuột, phải kể hàng đầu là đại đội Thám Sát của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac. Những hy sinh mất mát đó người dân thị xã thực sự không bao giờ quên lãng.
Sau khi tràn ngập các chốt điểm tiền tiêu, 9 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, lực lượng Cộng quân từ mặt Bắc thị xã, tức là khu vực phía Bắc phi truờng L19 và bến xe Cây Số 3 bắt đầu tấn công Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac, nằm trên đường Tự Do để xâm nhập trung tâm thành phố.
Lợi dụng hệ thống công sự phòng thủ và các dãy hàng rào kẽm gai bảo vệ phi trường L19 nằm bên kia đường Tự Do, lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã chận đứng các mũi tiến quân của Cộng quân.
Các chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia dù chỉ được trang bị M-16, M-79 và lựu đạn nhưng đã anh dũng phản công quyết liệt trước những đợt tấn công của Cộng quân, không cho địch tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ.
Một con đường an toàn duy nhất trong lúc này, chính là con đường Tự Do, chạy dài từ bến xe Cây Số 3, dọc theo sườn Đông của phi trường L19 đến tư dinh của vị tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
Không phải chỉ những chiến sĩ thuộc các binh chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới có kỷ thuật và kinh nghiệm chiến đấu, mà thực sự những người Cảnh Sát Quốc Gia thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac, trong mặt trận Ban Mê Thuột, đã thể hiện hoàn toàn lòng trách nhiệm và tinh thần Trừ Bạo An Dân.
Chính nhờ lòng dũng cảm chiến đấu, kỷ thuật tác chiến, và hệ thống chỉ huy chặt chẽ này, mà một mặt phía Đông thị xã Ban Mê Thuột, từ khu đường Tự Do, chạy dài xuống Bà Triệu, Hùng Vương, Trường Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột, chưa có bóng dáng của Cộng quân.
Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã trấn giữ một khu vực an toàn mà có lẽ họ không thể nào ngờ được, đó là con đường di tản duy nhất sau này cho các đơn vị phải rút lui vào phút cuối.
  • Xin mượn những giòng nước mắt, và nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn để bày tỏ sự cảm phục trước lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm và anh dũng chiến đấu của những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã cương quyết bảo vệ thành phố nhỏ bé này cho đến phút lâm chung.
  • Xin anh linh của những vị đả khuất phù trợ cho thành phố này và những đồng đội của mình giữ được lòng trung kiên với tổ quốc và tinh thần vì dân trừ bạo bất diệt.
Mười lăm giờ 40 ngày thứ hai, 10 tháng 3 năm 1975, với áp lực của địch, và để bảo toàn đơn vị, Thiếu tá Hàn Văn Thành, chỉ huy phó Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã ra lệnh mở đường máu đem đơn vị ra khỏi thị xã về Cây Số 5, phối hợp với các đơn vị trực thuộc và Chi Khu Ban Mê Thuột để tiếp tục phản công quân thù.
Mười sáu giờ ngày thứ Hai, 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh còn được trấn giữ.
Trong thành phố, tiếng súng nhỏ đã im, nhưng cảnh tan hoang của thị xã thật không cách nào tả xiết. Những khu phố bị cháy không ai dập tắt, đóm lửa, tro tàn, và bụi khói bao phủ khung trời thị xã như một màn sương đục. Mặt đường lổ loang những dấu đạn cày. Bên cạnh những đóng tro tàn, từng nhóm người co ro sợ hãi cúi mặt không dám khóc. Những trẻ em mất cha, lạc mẹ kêu van đã khàn tiếng.
Rải rác trên các khu phố, những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết không ai săn sóc. Thị xã không hẳn là một bãi tha ma, không gọn gàn sạch sẽ như nghĩa trang người chết, mà là hổn độn của một thế giới nửa sống, nửa chết. Vợ ôm xác chồng không dám khóc, mẹ nhìn thây con giá lạnh không dám đem về. Người ta vẫn sợ một Mậu Thân thứ hai, năm 1968, ở Huế. Bóng dáng của Cộng quân như tử thần dến chiêu hồn kẻ sống đe dọa mọi người.
Sáu giờ chiều thứ Hai, ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ đội Cộng Sản lại chia thành từng toán, đi lục soát khắp cùng thị xã, và thanh lọc dân chúng ở các tụ điểm của người chạy nạn như chùa Khải đoan, Trường Bồ đề, Trường Tàu ở đường Y Jút, và bắt đi những thanh niên nam, nữ.
Người dân thị xã không còn điểm tựa, không còn chỗ kêu cứu. Người ta theo lệnh của những khẩu AK chỉa vào họ như một cái máy, không cảm xúc, nỗi kinh hoàng đã cướp đi mọi cảm giác của con người. Và cũng chính giờ phút này, người ta hiểu thế nào là đường ranh của cõi chết.
Nhưng niềm tin và lòng hy vọng của muôn người lại trở về trong bản năng và tâm linh của họ vì trên bầu trời thị xã, hai chiếc L-19 đang lượn vòng trên đầu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, mà từ sáng, nỗi hãi hùng đã làm người ta quên mất. Những tia khói đục như một màng luới từ dưới đất tung lên, tạo thành những chiếc dù tí hon bao quanh hai chiếc L-19, Đó là đạn phòng không 37 ly và 12 ly 7 của Cộng quân, nhưng không một chiếc L-19 nào bị trúng đạn.
Phật Xá Lợi vẫn còn tại thế, Chúa Giê Su về trời vẫn lập phép Thánh Thể để nuôi người thế gian, Bộ Tư Lệnh Sư Đòan 23 Bộ Binh vẫn còn đó, nghĩa là linh hồn và niềm tin của người dân thị xã vẫn chưa bị hủy diệt. Mọi người như thầm xin “Những Con Ó của Sư Đoàn 23 ơi, xin hãy vì 60 ngàn dân và thành phố thân yêu này mà chiến đấu.”
BAN MÊ THUỘT GIÂY PHÚT LÂM CHUNG
Cuộc tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975 của 3 sư đoàn Bộ Binh Bắc Việt cùng với chiến xa T-54 và các loại trọng pháo cho đến lúc này đã hầu như lắng đọng trong nội vi thị xã (16 giờ 10 ngày 10 tháng 3 năm 1975). Và các cứ điểm quân sự quan trọng đã bị Cộng quân tràn ngập.
  • Sáu giờ 20 ngày 10 tháng 3 năm 1975, phi trường trực thăng và L19, đài kiểm báo, đơn vị phòng thủ phi trường, nằm ở phía Bắc thị xã, cuối đường Phan chu Trinh và Tự Do, đã bị tê liệt.
  • Tám giờ 20 cùng ngày, kho đạn Mai Hắc Đế, phía nam Tây-Nam thị xã bị thất thủ
  • Mười một giờ 50, hậu cứ Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp ở cửa Tây thị xã di tản.
  • Mười hai giờ trưa, Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Lạc Giao, nằm trên đường Quang Trung Tôn thất Thuyết, cạnh chợ Ban Mê Thuột tan hàng.
  • Mười bốn giờ 20 chiều ngày 10 tháng 3/1975 Bộ Chỉ huy Tiểu khu Darlac thất thủ.
  • Mười lăm giờ 40 cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac rút khỏi thị xã.
Trong gần suốt 14 giờ đồng hồ, các đơn vị quân đội, Cảnh Sát, Nghĩa Quân, Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Tỉnh,và Nhân Dân Tự Vệ toàn thị xã đã tận hết sức mình để chống trả với lực lượng biển người, chiến xa và đại bác của Cộng quân mà không có được một đơn vị bạn nào tiép cứu.
Và giữa những giờ phút quyết liệt này, người ta nhận được tin vào lúc 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, một đơn vị Biệt Động quân từ cửa Bắc thị xã (bến xe Cây Số 3) đã xâm nhặp trung tâm thành phố. Tin tức này được loan truyền đến hầu hết các đơn vị đang chiến đấu trên khắp các cửa ngõ thị xã, và mỗi người lính, từ cấp chỉ huy cho đến binh sĩ đều vui mừng nắm chắc phần quyết định chiến trường.
Nhưng cho đến một giờ chiều, tin tức về Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn im hơi lặng tiếng, mà chiến trường mỗi lúc càng quyết liệt hơn, cho đến khi người ta biết rằng đơn vị Biệt Động Quân tiến vào thị xã sáng nay là chỉ để giải cứu gia đình của vị Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã.
Tin này quả thật là một tác động tâm lý, không những làm cho các đơn vị tham chiến mà cả toàn thị xã có cảm nghĩ Ban Mê Thuột đã bị bỏ rơi. Tuy nhiên với tinh thần và trách nhiệm của một người lính, các đơn vị có mặt tại thị xã vẫn anh dũng chiến đấu với niềm tin lực lượng tổng trừ bị, và đặc biệt là hai Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ được gởi đến.
Nhưng 1 giờ 15 ngày 10 tháng 3 năm 1975, trung tâm hành quân của Tiểu Khu, đầu não của mọi hệ thống chỉ huy và liên lạc cho chiến trường Ban Mê Thuột bị đại bác của Cộng quân pháo sập, tiểu khu thất thủ, rồi Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh di tản và thị xã Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân.
Một số các tổ trinh sát, các đơn vị an ninh vòng đai thị xã mất liên lạc với đơn vị. Những sĩ quan chỉ huy và binh sĩ của các đơn vị này đã lẫn vào các đoàn người chạy loạn, hoặc tự tái lập các tổ chiến đấu, lẫn tránh vào các khu rẫy cà phê mặt Bắc, phía sau Tòa Giám Mục.
Trong nội vi thị xã, cho đến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, trận chiến được coi như kết thúc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Những đống tro tàn của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói và gạch vụn, gợi cho người ta cái cảm xúc của một chiến trường tàn cuộc lạnh lẽo rợn người.
ĐÊM KINH HOÀNG
Từ 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ đội Cộng quân bắt đầu chia thành từng toán nhỏ lục soát khắp cùng các khu phố và những điểm tập trung của người chạy loạn như chùa Khải Đoan, trường Bồ Đề, trường Tàu ở đường Y Jút. Họ thanh lọc dân chúng, bắt đi những thanh niên nam nữ, và truy lùng các viên chức chánh phủ, sĩ quan và binh lính.
  • Khắp cùng các ngõ phố, bọn đặc công và du côn, thi nhau lập công, đập phá các cửa tiệm, dinh thự, tư gia, những nơi mà họ cho là có kẻ thù ẩn trốn, là Việt gian, phản động, làm việc cho Mỹ Ngụy, hoặc có nợ máu với nhân dân.
  • Chúng thi nhau lục soát các trường học, nhà thờ, bức tượng ở nhà thờ quân đội, cạnh trường Hưng Đức cũng bị chúng đập nát, đồng thời lùng bắt những người có thù hằn với chúng, và lôi đốt hết các loại sách báo, giắo khoa, tự điển, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đặc biệt là những ấn phẩm viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh văn, Pháp văn.
Một lần nữa, ngọn lửa tượng trưng cho sự hủy diệt lại bùng lên khắp cùng thị xã. Cảnh hôi của, hôi người, trả thù cá nhân lan tràn khắp nơi. Thành phố bây giờ là một xã hội không tổ chức, không luật pháp, và tai họa thảm khốc đã diễn ra khắp cùng các ngõ phố.
Những hình phạt dã man thời tiền sử đã được đem ra thực hiện.
  • Hình ảnh của chết chóc và khủng bố đang bao trùm lên thị xã nhỏ bé này và đè nặng xuống tâm hồn mỗi dân đinh của toàn thành phố.
  • Ở cuối đường Hoàng Diệu, Nguyễn Trãi, Khách sạn Darlac, ba nghiệp chủ khai thác lâm sản đã bị đánh đập đến tàn khuyết, một số viên chức chính phũ, binh sĩ và cảnh sát bị hành hung rất dã man, nhưng các nạn nhân đều không có thuốc men cứu chữa và không được phép cứu chữa.
Sự ngu dốt của kẻ chiến thắng, hay sự dã man và thiếu trình độ của cấp lảnh đạo chính là tai họa và thảm trạng tàn khốc cho một xã hội. Xã hội miền Nam, và dân trí của nền Cộng Hòa miền Nam đã có một trình độ văn hóa và kỷ thuật cách xa gấp bội so với miền Bắc, nên bộ đội Cộng quân, sau khi đã kiểm soát toàn thị xã, lập tức đi dò tìm những ”đài địch,” và đã dùng súng B-40, B-41, hoặc đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54 bắn vào các tư gia có trụ ăng ten trên nóc nhà, vì họ cho rằng đó là vị trí đặt các máy truyền tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà các trụ ăng ten TV là những ”đài địch ” ấy đã có khắp trong toàn thị xã. Thảm thương thay cho thành phố Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân của thị xã này.
Trong đêm này, không biết có bao nhiêu gia đình tan hoang, bao nhiều người bị chết oan, đánh đập, hoặc bị đấu tố mang thương tích hay tàn khuyết, mà vợ con, thân nhân, bạn bè chỉ đứng nhìn mà không dám kêu van. Máu và lệ đã đổ, nhưng không chảy ra từ khoé mắt, mà lại tuôn ngược vào lòng. Trời ở quá cao mà Phật cũng rất xa, nên con người đã là chủ của con người trong đêm nay, với đầy đủ quyền uy và hung dữ. Đêm kinh hoàng, đêm của địa ngục và Sa Tăng.
Nhưng bộ đội Cộng Sản đã không cần biết tới, mà còn tiếp tay, kích động, cùng với đám côn đồ nằm vùng, truy lùng và tận diệt những kẻ mà chúng thù hằn, hoặc chúng cho là có nợ máu với cách mạng. Và cũng đêm nay, lần đầu tiên, người dân thành phố nhìn được bộ mặt thực của bộ đội Cộng Sản.
Cái quan trọng đối với kẻ chiến thắng trong cuộc chiến 20 chọi 1 này là vơ vét tất cả những gì họ có thể vơ vét : Kho dự trữ lương thực trung ương, trực thuộc Phủ Thủ Tướng nằm trên đường Tự Do, cạnh F Đặc Biệt, Kho Quân Nhu, Quân Cụ, dụng cụ y khoa và dược phẩm, thuốc men của các bệnh viện như Quân Y Viện, Dân Y Viện, Trạm xá, nhà hộ sinh, các cửa tiệm thuốc Tây, các đại lý gạo, cửa hàng bách hóa của tư nhân trong toàn thành phố.
Suốt đêm, người ta nhìn thấy những đoàn Molotova chở đầy hàng hóa vật dụng của thành phố đi về hướng Bandon, phía Tây thị xã.
Trong khi đó, những sĩ quan, binh lính và viên chức chính phủ bị kẹt lại trong thành phố, đang tìm cách lẩn trốn ra khỏi thị xã, hoặc ẩn núp trên các nóc nhà, giữa mái tôn và trần nhà, để tránh bị bắt hoặc bị trả thù cá nhân. Cái lạnh về đêm của mùa Xuân cao nguyên, hoặc cái nóng kinh người của những ngày nắng tháng 3 ở thành phố Ban Mê Thuột đã mấy ai hiểu được, ngoại trừ những người lẫn trốn Cộng quân và bọn côn đồ nằm vùng. Tuy nhiên, nỗi đau đớn của thể xác trong lúc này đã không làm con người cảm nhận được bằng sự kinh hoàng và tuyệt vọng đang dìm tâm trí họ xuống đáy vực mênh mông.
Đêm nay, ở một góc vòng đai thị xã, tôi nhìn rõ đêm đen phủ xuống bãi tro tàn và gạch vụn của khu phố, ngửi mùi khét của tử thi và gia súc trong trận lửa sáng nay mà nghe lòng mình như tan nát, rã rời.
Tôi ngậm ngùi thương xót cho những gì vừa mất, những cuộc đời bình dị của từng con người và mỗi gia đình trên thành phố này, mà thời gian chỉ là tối Chủ Nhật hôm qua, mồng 9 tháng 3, và chỉ chưa tròn 24 tiếng đồng hồ mà tất cả đã không còn nữa. Tất cả đã trở thành kỷ niệm, như một giấc mơ, đầy hãi hùng và kinh đãm.
Trong nỗi xúc động không cùng đó, tôi chợt nhớ về quảng đời đã qua, những tháng ngày ấu thơ trên thàng phố ”Buồn Muôn Thuở” mà những học trò đệ-thất vẫn quen gọi tên Ban Mê Thuột một thời, giờ đây tôi càng nghe tên gọi đó êm ái lạ thường.
Ban Mê Thuột, quê hương ấu thơ ngày đó, cũng như phố thị êm đềm bình dị của hôm qua đã là một bãi gạch vụn. Nhưng những kỷ niệm yêu dấu của Ban Mê Thuột mãi mãi không phai mờ trong tâm hồn của riêng tôi và của 60 ngàn dân đinh sinh trưởng ở nơi này.
Tôi không hiểu được tại sao trong lúc này tôi lại nhớ về ngày cũ, chuỗi thời gian êm ái của thời niên thiếu trên khuôn viên trường Tổng Hợp. Những ngày tháng rong chơi trong các buôn, làng của khu vực Xã Cữ Êbư có đầy hoa Bằng Lăng màu tím nở rộ mỗi Hè về trên những đồi hoang.
  • Con đường vào Buôn Dung xuyên qua khu suối Bà Hoàng có cỏ vàng và hoa Lan dại.
  • Khu thác Drayling với bờ cỏ đá bám đầy trên những gốc cây dầu già như những cành liễu rũ xuống của mùa Thu Đà Lạt.
  • Và đẹp hơn, là những cành Phong Lan như những chiếc nơ thắt trên bím tóc thiếu nử thuở nào.
Không hiểu tôi đã thương con đường Hai Bà Trưng hay khu cư xá Lam Sơn êm ả buổi chiều về, hoặc là dãy phố Y Jút Quang Trung, nơi thị tứ có Ciné Lo Do và Nguyễn Huệ mà hằng đêm không hề thiếu ánh đèn màu.
  • Khói thơm của tô bún bò rau chuối, hay mùi cay của khói thuốc Lào trong dãy phố chợ dọc Ama Trang Long.
  • Hoặc là cái hun hút của con đường Phan Chu Trinh chạy dài từ Toà Giám Mục đến nhà thờ cha Ngoạn, nối liền với đại lộ Thống Nhất cho tới Buôn Alê A, cửa Nam của thành phố.
  • Hoặc giả là nỗi nhọc nhằn của người bộ hành từ khu đồi dóc Châu Sơn theo ngỏ Hàm Nghi về khu Chợ Nhỏ ở đường Hoàng Diệu nối dài vào mỗi sáng Chủ Nhật.
Tất cả đã hiện về trong trí óc tôi như một khúc phim thơ mộng của thời vàng son vừa mất hôm qua.
Tôi vẫn nhớ rõ chiều hôm qua, mồng 9 tháng 3 năm 1975, từng dãy xe nhà đậu nối đuôi nhau trên con đường Quang Trung, cạnh phòng mạch Nha Sĩ Ba, và một góc của đường Quang Trung Hai Bà Trưng, bên cạnh khách sạn Tường Hiệp đến khách sạn Hồng Kông, để chờ ăn một tô hủ tíu Nam Vang của Phú Lâm, và món canh cải chua nấu đầu cá của nhà hàng Hoàng Vinh, đối diện với Ngân Hàng Đại Á. Và cũng chiều hôm qua, tôi và Thạnh còn lang thang trên con đường này, vừa muốn ghé vào tiệm kem Chi Cao, mà cũng muốn ăn một chén Thạch Chè của Tân Ka, nhưng rồi cuối cùng đã vào Blanc de Neige ở Lý Thường Kiệt.
Không phải tôi chỉ nhớ có bấy nhiêu, và nếu chỉ bấy nhiêu thôi, thật chưa đủ để nói về Ban Mê Thuột của tôi, vì danh lam thắng cảnh và cái thơ mộng của thành phố này còn chất đầy trong tâm trí mỗi con người. Từ cái sầm uất của một thành phố kỷ nghệ, Cây Số 7, khu khai thác và chế biến lâm sản, phía Nam thị xã 7 km.
  • Ban Mê Thuột, ”Kinh đô Cẩm Lai và Cà Phê” mà những doanh gia khai thác lâm sản đã đặt tên. Những dãy đồn điền cà phê và cao su rộng hàng chục ngàn mẫu, cho đến những khu giải trí ở ngoại ô, như Vườn Thực Nghiệm, Hồ Trung Tâm…
  • Và trong thành phố, những nơi ăn uống thành danh như Tân Cao Nguyên ở đường Hoàng Diệu, nhà hàng Vĩnh Thuận ở cuối Quang Trung, Cà Phê Thiên Hương ở Lý Thường Kiệt, Vui Sống ở Phan Chu Trinh, Mây Hồng ở khu trường Tổng Hợp…
  • Rồi những dẫy phố xá tấp nập người qua lại như Phúc An, Dân Thiên Đường, Minh Sơn, Trúc Lâm, Rồng Vàng, Thanh Thế… Vân vân và vân vân…
Nhưng tất cả những thơ mộng đó, giờ đây đã bị hủy diệt. Mồ hôi và nước mắt của bao người đã không ngừng đổ ra trong suốt bao nhiêu triều đại để xây dựng nên Ban Mê Thuột với kỳ vọng của họ và con cháu họ mai sau, giờ đây chỉ còn một đóng tro tàn, mà hương khói gần như cũng nhạt nhòa tan đi trong một vài giây phút nữa. Ban Mê Thuột thực sự đã mất rồi, nhưng trong tâm trí những người còn lại, Ban Mê Thuột mãi mãi là máu thịt của châu thân mình.
BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH VÀ TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG
Bây giờ là 4 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, khu suối Đóc Học với những vườn rau tàn tạ đầy dấu dép râu và dấu xích chiến xa. Khu xóm nghèo của một ngoại ô tỉnh nhỏ càng tàn tạ tẻ lạnh hơn lúc nào. Nhìn về khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Dân Y Viện Ban Mê Thuột, chỉ còn thấy được ngọn đèn Signal chơ vơ trên trụ truyền tin. Những đóm màu đỏ của hỏa châu càng nhỏ hơn, như ánh mắt của loài thú hoang trong rừng đêm.
Cái lặng lẽ của đêm trường và cái yên tĩnh của chiến trường càng làm cho người ta liên tưởng tới một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra. Lâu lâu một tràng đại liên hoặc những loạt súng nhỏ không phân biệt được AK-47 hay M-16 bắn ra. Và như vậy là đã hơn 24 giờ đồng hồ, từ lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, đợt tấn công đầu tiên của Cộng quân vào hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, nghĩa là lực lượng phòng thủ hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh đã chống trả không ngừng trong suốt 24 giờ, và không hiểu sẽ còn cầm cự được bao lâu nữa.
Qua hệ thống truyền tin, người ta nhận được tín hiệu của Chi Khu Ban Mê Thuột, và Đại Tá Dậu, chỉ huy trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân còn ở ngoài vòng đai thị xã, ở mặt Bắc, mà chưa chọc thủng được phòng tuyến của Cộng quân để tiến vào thị xã. Hy vọng duy nhất trong lúc này, là hai chiếc L-19 đang bay trên đầu Bộ Tư Lệnh, dầu rằng màng lưới phòng không với đại liên 37 ly của Cộng quân vẫn không ngừng tấn công.
Và chính trong hòan cảnh này, tôi mới hiểu rõ tinh thần Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm của những chiến sĩ Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Những con ó vùng Cao nguyên đã làm cỏ Sư Đoàn 320 Sao Vàng của Cộng quân vùng Dakto, Tân cảnh, Bến Het một thời nào, giờ đây, những con ó đó vẫn vẫy cánh tung hoành giữa rừng quân địch không một chút e sợ.
Năm giờ 55 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, chiến trường vẫn còn yên tĩnh, buổi sáng tháng Ba ở vùng cao nguyên thường có sương mù che phủ, nhưng hôm nay, sương mù đã được thay bằng bụi khói, và không khí trong lành của những sáng mùa Xuân năm xưa đã bay mất để nhường chổ cho mùi khét của thuốc súng.
Ở cửa Nam thị xã, lực lượng phòng thủ tư dinh Tỉnh Trưởng, nằm trên đại lộ Thống Nhất vẫn còn cầm cự. Tư dinh này là một biệt thự khá kiên cố, nửa phần tường phía dưới được xây bằng đá, và hệ thống công sự cũng là những lô cốt đá. Nhờ vậy trung đội phòng vệ tư dinh đã không di tản theo Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Mặt khác, tư dinh này tương đối gần hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh hơn Tiểu Khu. Vả lại, với một phạm vi nhỏ, trung đội phòng vệ dễ dàng bố trí hỏa lực hơn ở một vòng đai rộng lớn như Tiểu Khu. Đo đó, trung đội trưởng là Trung Úy Hoành đã cương quyết không di tản. Sự hiện diện của đơn vị này đã trở thành một chướng ngại và nghi điểm trong chiến thuật đối với lực lượng Cộng quân trong lúc này.
Sáu giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, từ khuôn viên trường tiểu học Nguyễn Du, sau lưng Sở Học Chánh Ban Mê Thuột, người ta nhìn rỏ những chiếc T-54 của Cộng quân, và lực lượng bộ binh đang thực hiện một cuộc chuyển quân bao vây hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Vòng vây này đang được thắt chặt, như một màng lưới dày đặc chung quanh vòng đai phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Và 6 chiếc T-54, nhìn được từ hướng Tây-Nam, đang dàn hàng ngang tiến sát và hệ thống công sự phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Với kinh nghiệm của những người lính, ai cũng hiểu Bộ Tư Lệnh khó lòng cầm cự được trong vòng vài ba giờ đồng hồ tới.
Trong khi đó, những tiếng súng nhỏ, và đại bác 100 ly, cùng lúc gầm lên như những giây pháo nổ không ngừng, làm rung chuyển cả một vùng trời. Cộng quân bắt đầu nổ lực tấn công hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Và tại cửa Nam thị xã, bộ binh và chiến xa T-54 cũng ráo riết tấn công lực lượng phòng thủ tư dinh Tỉnh Trưởng. Nhưng chỉ là một trung đội Địa Phương Quân, đơn vị phòng thủ tư dinh làm sao có thể chống trả được với lực lượng biển người và chiến xa T-54 của Cộng quân.
Tám giờ 15 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, tư dinh Tỉnh Trưởng bị T-54 ủi sập các bức tường vòng đai, và pháo sập các tầng lầu. Trung úy trung đội trưởng bị trọng thương. Trong máy PRC-25, người ta nghe được tiếng kêu cứu rồi xin lệnh di tản của Trung Úy Hoành, vị sĩ quan Địa Phương Quân vừa ngoài 30 tuổi, nhưng lòng can đảm và kinh nghiệm chiến trường của ông đã vượt xa quá tuổi đời. Ông đúng là một sĩ quan ưu tú của quân đội.
Tư dinh Tỉnh Trưởng đã thất thủ, chốt điểm cuối cùng ở cửa Nam thị xã đã bị Cộng quân tràn ngập, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh bây giờ như người hùng cô đơn vẫy vùng dưới trời mưa đạn của quân thù.
NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG CỦA BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH
Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh gồm hai đại đội và một số các phòng ban chuyên môn, trong đó có một đại đội là đơn vị tổng hành dinh, chuyên trách về hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ chốt là các Trung Đoàn 44 và 45 đang hành quân vùng Pleiku. Trung Đoàn 53 chỉ có hai tiểu đoàn ở Ban Mê Thuột, và một trung đội Pháo Binh 105 ly, nhưng một tiểu đoàn lại đã điều động lên giải tỏa Quận Đức Lập, một quận vừa bị Cộng quân tràn ngập vào sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1975. Tiểu đoàn còn lại phòng thủ Phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột về phía Đông Đông-Bắc 7 km.
Lịch sử của Sư Đoàn 23 Bộ Binh hiển hách không phải vì những chiến công hay lòng dũng cảm của các vị tư lệnh sư đoàn từ thời Đại Tá Võ Văn Cảnh, Trương Quang Ân để lại, mà chính là những chiến thắng vẻ vang, oanh liệt mà sư đoàn đã mang về cho quân lực, từ những chiến dịch Bình Tây 1 và 2…
Những trận đánh kinh thiên lẫy lừng, làm vang dội các địa danh chưa có người biết tới, như Dakto, Bến Het, Tân Cảnh. Lịch sử vẻ vang của một đơn vị quân lực kiêu hùng không dễ tự nhiên mà có, nhưng hôm nay, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, lần đầu tiên trong lịch sử đơn vị, và trong quân sử của một quân đội kiêu hùng đang đi vào ngỏ rẽ.
Cho đến 8 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, đơn vị quân lực còn có mặt tại thị xã Ban Mê Thuột chỉ là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Cộng quân biết rõ điều này, và càng hiểu rằng Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ trở về chiếm lại giang sơn của họ. Và đặc biệt là Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang có mặt ngoài vòng đai thị xã ở cửa Bắc, một đơn vị mà các đơn vị chủ lực quân Bắc Việt không bao giờ dám đụng đầu trên chiến trường Cao Nguyên trong suốt nhiều năm qua, từ các mặt trận vùng Tây Bắc Kontum, PleiKu, Bến Het… cho đến chiến dịch càn quét Cục R, cơ quan đầu não tổng chỉ huy các lực lượng của Cộng quân tại miền Nam, đặt ngoài lảnh thỗ quốc gia.
Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân được đổ xuống Buôn Hô, một quận cách thị xã Ban Mê Thuột 35 km về hướng Bắc lúc 4 giờ 30 chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975. Đến 9 giờ tối cùng ngày đã tiến sát vào vòng đai thị xã, nhưng chưa chọc thủng được vòng vây của Cộng quân. Tiểu Khu Darlac lúc bấy giờ đã rút ra khỏi thị xã. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 cố thủ trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh, nên không có được một đơn vị nào làm đầu cầu cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân tiến vào thị xã.
Điểm đáng tiếc là 10 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, đơn vị tiền sát của liên đoàn đã đột nhập thị xã :
  • di tản gia đình vị tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã,
  • nhưng lại không được lệnh ở lại làm điểm tựa cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đến giải cứu thị xã sau này.
Thực sự, nếu Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân có mặt tại thị xã,
thì nhất định Ban Mê Thuột đã không thất thủ mà còn đánh tan được 3 sư đoàn quân chủ lực Bắc Việt, và bẻ gãy toàn bộ mọi mưu đồ của Cộng quân.
Từ 6 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, Cộng quân đã bố trí xong lực lượng thắt chặt vòng văy hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54, bắn trực xạ, đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly từ hướng Bandon dồn dập đổ xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Đồng thời, chiến xa và bộ đội Cộng quân dàn hàng ngang tấn công bốn mặt vòng đai Bộ Tư Lệnh.
Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh đã chống trả quyết liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công, và đánh cận chiến với quân thù. Nhìn lên khung trời Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 bây giờ chỉ còn thấy được những cuộn khói dày đặc mịt mù. Điều đáng tiếc là mấy chiếc thiết vận xa M-113 còn lại của Sư Đoàn 23 trong lúc này lại lại không thấy hoạt động.
Mười giờ 10 phút, một phi vụ A-37 của Không Quân thả bom nhầm vào Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị phá hủy.
Mười giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, một đoạn hệ thống công sự ở mặt Tây và phía Nam Bộ Tư Lệnh đã bị chọc thủng. Bộ đội và chiến xa của Cộng quân tràn vào hậu cứ Sư Đoàn 23 Bộ Binh như nước vỡ bờ.
Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, mở đường máu đem đơn vị thoát khỏi hậu cứ, bỏ lại Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đinh trong một tình huống vô cùng bi thảm. Ban Mê Thuột lâm chung. Sáu mươi ngàn dân như một đàn gà con mất mẹ. Đêm đen phủ xuống thành phố này cùng với nổi hải hùng và tuyệt vọng mênh mong.
MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỤC VÀ TRUNG ĐOÀN 53 BỘ BINH
Thị xã Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân từ chiều hôm qua, ngày 10 tháng 3 năm 1975, và đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã này lúc 10 giờ 38 phút ngày 11 tháng 3 năm 1975. Nhưng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, phòng thủ Phi Trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km về hướng Đông Bắc vẫn cố thủ phi trường và cương quyết chống lại lực lượng biển người và chiến xa T-54 của Cộng quân.
Cùng lúc tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân đã không bỏ sót Trung Đoàn 53. Chiến xa và bộ đội của Cộng quân, với đại bác 130 ly, và hỏa tiển 122 ly yểm trợ đã không ngừng luân phiên tấn công Trung Đoàn 53. Và sau khi đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng rời bỏ Ban Mê Thuột, Cộng quân càng tập trung lực lượng tấn công Trung Đoàn 53 ác liệt hơn.
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh là Trung Tá Ân :
  • Biết rõ ý đồ của Cộng quân, nhưng ông cũng hiểu rằng Phi Trường Phụng Dực là điểm tiếp liệu, tiếp vận duy nhất cho lực lượng tổng trừ bị là sư đoàn Nhảy Dù đến giải cứu Ban Mê Thuột sau này, đồng thời đơn vị của ông là lực lượng đầu cầu và liên lạc duy nhất cho các đơn vị bạn về sau.
  • Do vậy, ông đã ra lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết kiệm đạn dược và mọi phương tiện quân y, dược cụ, cố gắng chiếm dụng vũ khí của địch để chống lại kẻ địch, và phải nhất dịnh bắn trúng mục tiêu.
Trong suốt thời gian 6 ngày đêm, Trung Đoàn 53 Bộ Binh không những đã đánh tan nhiều đợt tấn công của Cộng quân, mà còn tịch thu nhiều loại vũ khí cá nhân cũng như súng cộng đồng để tiêu diệt T-54 và hàng trăm xác quân thù bỏ lại chiến trường. Sự tổn thất nặng nề nhất của Cộng quân trong mặt trận Ban Mê Thuột, hơn 200 nhân mạng, không biết được con số bị thương, và hàng chục T-54 bị phá hủy bằng chính B-40, B-41 của Cộng quân do Trung Đoàn 53 tịch thu tại mặt trận Phi trường Phụng Dực.
Từ sáng sớm ngày 10 tháng 3 năm 1975 cho đến hết ngày 15 tháng 3 năm 1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh chỉ với một tiểu đoàn Bộ Binh, và trung đội Pháo Binh 105 ly đã anh dũng chiến đấu với một lượng Cộng quân nhiều gấp bội, có chiến xa và đại bác đủ loại, mà không cần biết đến Ban Mê Thuột đã thất thủ và đài BBC trong bản tin phát đi vào đêm 14 tháng 3/1975, đã loan tin Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị xóa tên trong quân sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 15 tháng 3 năm 1975, một phi vụ yểm trợ tiếp liệu cuối cùng cho Trung Đoàn 53 đã không rơi đúng điểm ấn định mà lại rơi xuống khu vực Vườn Ương ở Hồ thực nghiệm.
Ngày 16 tháng 3 năm 1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Hết đạn dược và thuốc men, Trung Tá Trung Đoàn Trưởng đành phải ra lệnh rút khỏi phi trường Phụng Dực. Điểm liên lạc, tiếp vận duy nhất cho Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân. Nhưng Trung Tá Ân, đúng là người hùng của quân lực, và Trung Đoàn 53 Bộ Binh anh dũng là những người con yêu của Tổ Quốc, đã làm khiếp đảm quân thù, và đem vinh quang về cho một quân đội kiêu hùng của nền Cộng Hòa miền Nam.
Với lịch sử của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực tế của mặt trận Ban Mê Thuột, nếu thị xã Ban Mê Thuột được Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh phòng thủ, thì cho dầu Cộng Sản Bắc Việt có quân số nhiều gấp ngàn lần đi nữa trong cuộc tấn công này, Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đã không rơi vào biển đêm của lịch sử dân tộc. Và Sư Đoàn 23 Bộ Binh vĩnh viễn là một đơn vị kiêu hùng của một quân lực kiêu hùng bất diệt.
Suốt đêm nay, tôi vẫn mơ màng tự hỏi tại sao Ban Mê Thuột có thể thất thủ dễ dàng và nhanh chóng như vậy ? Chỉ với một tiểu đoàn Bộ Binh của Trung Đoàn 53, đã cầm cự với lực lượng Cộng quân hơn suốt 6 ngày đêm.
Qua tin tức các hoạt động của địch được ghi nhận ở những ngày đầu chiến cuộc, và đặc biệt là trong các buổi họp tham mưu, Đại Tá Luật đã nhiều lần nhắc nhở các đơn vị về những hoạt động của Cộng quân, những đơn vị chủ lực quân Bắc Việt đã ghi nhận có mặt quanh vòng đai lãnh thổ, hoặc nghi ngờ đang di chuyển về lảnh thổ Darlac. Và điểm đặc biệt là Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật của Tiểu Khu, một đơn vị mới thành lập đã được đặt trong tình trạng báo động.
Tất cả những sự kiện đó, chứng minh rằng, các giới chức thẩm quyền ở địa phương đều biết trước, Ban Mê Thuột sẽ bị tấn công,
  • nhưng tại sao Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh lại không được trả về Ban Mê Thuột ?
  • Tại sao Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân lại bị mất đi cơ hội xâm nhập thị xã để gải cứu Ban Mê Thuột ?
Những câu hỏi này, ai có trách nhiệm trả lời, và đến bao giờ mới trả lời được.
MẶT TRẬN PHÍA TÂY BẮC THỊ XÃ VÀ TRẠI ĐỊNH CƯ CHÂU SƠN
Sau khi hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã lúc 10 giờ 38 phút sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân. Một số binh sĩ thuộc Tiểu Khu, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp, đơn vị hành chánh tiếp vận… đã thất lạc đơn vị và chạy vào xã Châu sơn, cách thị xã 3 km về hướng Tây Tây-Bắc.
Xã Châu Sơn là tên của một trại định cư có khoảng 5.000 người, từ miền Bắc di cư vào Nam sau hiệp định Geneve năm 1954, được cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành lập vào khoảng năm 1956, cùng với các trại định cư khác trong toàn lãnh thổ tỉnh Darlac.
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã nhận định Ban Mê Thuột có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, không những có thể kiểm soát toàn miền cao nguyên mà còn là giao điểm nối liền cao nguyên với duyên hải, đồng thời từ Ban Mê Thuột còn có thể kiểm soát được vùng Tam Biên Việt Nam, Lào, và Cam Bốt. Vì vậy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thiết lập một vòng đai an toàn bảo vệ cho thị xã Ban Mê Thuột bằng một hệ thống gồm các trại định cư sau đây :
  • Trại định cư Châu Sơn ở mặt Tây tây Bắc thị xã Ban Mê Thuột 3 km.
  • Phía Nam dọc theo Quốc Lộ 14, cách thị xã 5 km là trại Chi Lăng, với dân số khoảng 3.000 người, và xa hơn là Thọ Thành.
  • Phía Đông-Nam cách thị xã 3 km có trại định cư Trần Hưng Đạo gần 2.000 người. Phía Đông khoảng 9 km có Hòa Bình, là quận lỵ của quận Ban Mê Thuột.
  • Cũng về mặt Đông, cách Ban Mê Thuột 15 km, có trại định cư Trung Hòa với dân số 5.000 người.
  • Xa hơn, doc theo Tỉnh Lộ số 5, đường đi Quận Lạc Thiện, có hai trại Kim Châu, Kim Phát, với dân số khoảng 6.000.
  • Phía Bắc Ban Mê Thuột, dọc theo Quốc Lộ 14, cách thị xã 32 km, có 3 trại định cư, chiếm tỉ lệ dân số người Kinh cao nhất trong toàn tỉnh, hơn 10 ngàn người, đó là các trại định cư Hà Lan A và Hà Lan B, Vĩnh Phước, thuộc Quận Buôn Hô, đã nổi tiếng trong trận đánh đầu Xuân năm 1972 với hai trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt trong suốt 10 ngày đêm mà chỉ với 7 trung đội Nghĩa Quân và lực lượng Nhân Dân Tự Vệ Xã.
Thị xã Ban Mê Thuột mất, xã Châu Sơn tự họ quyết định số phận của mình, cưong quyết chống lại Cộng Sản, theo tinh thần của cuc khởi nghĩa Quỳnh Lưu, Nghệ An giữa thập niên 1950 và 1960 khi người dân nổi lên chống lại xe tăng và bộ đội Cộng Sản Bắc Việt năm xưa.
Tập hợp lại những binh sĩ tản lạc chạy vào xã, Ban Chỉ Huy Liên Trung Đội Nghĩa Quân đã hô hào đồng bào đào chiến hào dọc theo hàng rào ấp chiến lược, lập tổ tam tam, 3 người một, yểm trợ lẫn nhau, để chống lại quân Cộng sản.
fulro_viet-nam
Phụ lão và thiếu niên lo phần tiếp tế cơm ăn, nước uống và cứu thương. Thanh niên nam nữ túc trực ở giao thông hào phòng thủ. Suốt 11 ngày đêm, lực lượng Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ và toàn dân xã Châu Sơn đã đánh trả không ngừng với lực lượng Cộng quân.
Cuối cùng Cộng quân phải dùng chiến xa T-54 dàn hàng ngang ủi sập hệ thống giao thông hào và hàng rào phòng thủ. Nhiều trung đội trưởng và liên trung đội trưởng Nghĩa Quân bị thương và bị bắt. Xã Châu Sơn đầu hàng. Riêng liên trung đội trưởng nghĩa quân Nguyễn Văn Tiến bị xử án chung thân.
Sau hơn 20 năm những người dân xã Châu Sơn một lần nữa, lại bị nô thuộc dưới chế độ Cộng Sản. Nhưng tinh thần chống Cộng và gương anh dũng chiến đấu của họ nhất định mãi mãi lưu truyền cho thế hệ mai sau.
QUẬN PHƯỚC AN : CỨ ĐIỂM CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CUỐI CÙNG
Ban Mê Thuột thất thủ, quận hành chánh và các chi khu di tản về quận Phước An để thành lập một tuyến phòng thủ chiến lược nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột. Chi khu và Quận Hành Chánh Phước An nằm trên một ngọn đồi trọc phía đông bắc thị xã Ban Mê Thuột 42 km, trên Quốc Lộ 21, giáp ranh với quận Khánh Dương, tỉnh Khánh Hoà, Nha Trang là giao điểm giữa Ban Mê Thuột và Nha Trang, hay là trục nối giữa vùng cao nguyên với miền duyên hải trung phần.
di-tan_ban-me-thuot
Quận hành chánh và các chi khu Ban Mê Thuột di tản về quận Phước An
Chín mươi phần trăm dân số Phước An là ngưòi thượng sống rãi rác trong các buôn làng.
nguoi_thuong_csdc
 Người Thượng – Cảnh Sát Dã Chiến
Trước năm 1960, hầu hết người Thượng ở quân này đều sống bằng nghề làm rẫy, trồng cây ngũ cốc, như bắp và lúa.
lang_nguoi_thuong
Làng Người Thượng
Nhưng từ sau năm 1960, những di dân từ các miền đến lập nghiệp ở vùng này, đã khám phá ra vùng đất màu mỡ của Phước An rất thích hợp để trồng các loại cây kỹ nghệ như cà phê, cao su, tiêu, ca cao, và từ đó, những dãy đồn điền cà phê mọc lên như nấm nằm dọc hai bên Quốc Lộ 21, từ cây số 5 cách thị xã Ban Mê Thuột về hướng Đông-Bắc cho đến cây số 42 Quốc Lộ 21 và chạy sâu vào hàng chục cây số, đã làm cho Phước An trở nên một vùng trù phú bậc nhất của tỉnh Darlac.
Ngoài cà phê, Phước an còn là khu vực lâm sản quan trọng. Cây Gõ (Cà te) là mối lợi lớn nhất mà các nhà lâm sản thời bấy giờ hằng mơ ước. Quận Phước An có một trường trung học công lập, và hầu như mỗi buôn làng đều có một trường tiểu học cộng đồng, nên dân trí và sinh hoạt của quận này rất cao.
Từ khi Ban Mê Thuột thất thủ, Bộ Chỉ Huy Tiẻu Khu Darlac, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, các đơn vị đồn trú tại thị xã, các quận hành chánh và chi khu của các quận đều di tản về Phước An để lập một tuyến phòng thủ và chuẩn bị tái chiếm Ban Mê Thuột.
Bốn giờ 40 chiều ngày 13 tháng 3 năm 1975, hai Trung Đoàn Bộ Binh 44 và 45 thuộc Sư Đoàn 23 được đổ xuống quận Phước An, Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn 2 được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, lo phối trí lực lượng tái chiếm Ban Mê Thuột.
Từ 13 tháng 3 năm 1975 đến 16 tháng 3 năm 1975, phòng tuyến Phước An được thành lập với lực lượng của ba chi khu và hai Trung Đoàn Bộ Binh 44 và 45 trong một khí thế hết sức thuận lợi. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột được coi là hoàn tất ở giai đoạn đầu, chỉ còn đợi lệnh và chờ phối hợp với lực lượng tổng trừ bị của Bộ Tổng tham Mưu tăng viện.
Nhưng cho đến ngày 17 tháng 3 năm 1975, lực lượng tổng trừ bị vẫn chưa được gởi đến. Trong khi đó, bộ binh và chiến xa của Cộng quân đã từ thị xã Ban Mê Thuột đổ về tấn công ráo riết phòng tuyến Phước An không một phút nào ngừng. Chiều ngày 17 tháng 3 năm 1975, phòng tuyến Phước An bị Cộng quân chọc thủng, cứ điểm chiến lược cuối cùng của Ban Mê Thuột bị tan rã.
viet-nam_cong-hoa
Ban Mê Thuột, tỉnh Darlac gồm bốn quận hành chánh và bốn chi khu cùng với 150 ngàn dân rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Tỉnh Darlac, một trong 42 tỉnh của Việt Nam Cộng Hoà bị xóa tên trên bản đồ hành chánh của nền Cộng Hòa từ ngày hôm nay.
Tôi lịm chết giữa điệu buồn chất ngất
Thả hồn xuôi theo kỷ niệm xa mờ
Phút vị vong thắp lại nén hương thừa
Mà tưởng nhớ một thời xưa đã sống
Sài Gòn, tháng 3 năm 1984
.
[ Nguyễn Ðịnh ]
.
.
.
30_thang_tu_1975
.
to-quoc_ghi_on
.
quoc-ca_viet-nam_cong_hoa
.
 Hồn Nước VIỆT NAM CỘNG HÒA bất diệt
.
quoc-ca_viet-nam_cong-hoa
Publicités
Nguồn: https://canhsatdachien.wordpress.com/ban-me-thuot-ngay-dau-chien-cuoc-9-10-3-1975/