Chiến tranh VN đã được giải quyết bằng một hiệp định hòa bình sau gần 5 năm thảo luận cam go giữa Hoa Kỳ và ba bên VN.
Hiệp định đáp ứng trọn vẹn nguyện ước của toàn dân: đất nước hòa bình
độc lập, thống nhất, dân chủ và tự do. Nhân dân VN thực hiện việc hòa
hợp và hoà giải dân tộc để hoàn thành những mục tiêu trên với sự đóng
góp của HK giúp VN hàn gắn vết thương chiến tranh. Việt Nam không còn là
địa bàn xung đột giữa các cường quốc, sẽ mang lại hòa bình, ổn định và
phồn vinh cho các nước ở Đông Nam Á. Các cường lực cam kết tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn của đất nước VN. HĐ Paris 1973 đã được một
hội nghị quốc tế bao gồm đầy đủ các thành viên thường trực Hội đồng Bảo
An, ký bản Định ước ngày 28/2/1973 trước sự chứng kiến của ông TTK/LHQ
Kurt Vanheim, trịnh trọng ghi nhận và “tuyên bố tán thành và ủng hộ hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Nhưng cuối cùng, chiến tranh lại kết thúc đau thương vào ngày
30/4/1975. Trong 36 năm qua, đồng bào chịu biết bao thảm nạn. Ngày nay
nhiều phần đất, biển, hải đảo của tiền nhân để lại đã rơi vào tay Trung
Quốc, nhân dân vẫn chưa được hưởng những quyền dân chủ tự do căn bản như
đồng loại trên thế giới. Tại sao có nghịch lý đó, nhân mùa Quốc hận
30/4 năm nay, anh Chủ nhiệm Báo Việt Luận đặt ra câu hỏi: Cho đến ngày
nay một số lớn người Việt vẫn cho rằng Hiệp định Paris 1973 là bản
văn bức tử VNCH. Thật sự có đúng như thế không?
Với tư cách một quân nhân QLVNCH được phân công làm công tác khai
thác tài liệu để nghiên cứu cuộc chiến VN. Cố nhiên là tài liệu chính
thức được ghi vào chính sử của các chính phủ liên hệ. Tôi xin trình bày
sơ lược cuộc chiến VN , dẫn đến HĐ Paris 1973 và biến cố 30/4/1975.
Trong hậu bán thế kỷ vừa qua, có hai trận chiến đẩm máu xảy ra tại
Triều Tiên (Hàn Quốc) và Việt Nam. Sau Thế chiến II, Hoa Kỳ và Liên Xô
đã thỏa thuận chia hai ảnh hưởng ở Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 38 làm phân
ranh. Đầu tháng 10/1949, Mao Trạch Đông chiến thắng ở Hoa Lục, thành lập
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Để bành trướng ảnh hưởng, ngày
25/6/1950 Mao ủng hộ lãnh tụ Bắc Triều Tiên là Kim Nhật Thành xua quân
vượt vĩ tuyến 38 để thôn tính Nam Triều Tiên. TT Hoa Kỳ Harry Truman chỉ
thị Bộ Ngoại giao khẩn cấp đưa vấn đề Bắc Hàn (Bắc TT) xâm lăng ra Hội
đồng Bảo An LHQ. Hội đồng Bảo An thông qua nghị quyết kêu gọi các quốc
gia hội viên LHQ đến cứu nguy Nam Hàn (Nam TT). Ngày 30/6/1950, hưởng
ứng lời kêu gọi của LHQ, bốn Sư đoàn HK thuộc Quân đoàn 8 trú đóng ở
Nhật Bản do Đại tướng MacArthur chỉ huy đã mở đầu cầu ở Pusan đổ bộ vào
Nam Hàn để giúp Chính phủ Lý Thừa Vãn chống xâm lăng. Tiếp theo HK là Lữ
đoàn 27 bộ binh Hoàng gia Anh cùng 14 nước hội viên LHQ.
Quân LHQ đẩy lùi quân xâm lược về bắc vĩ tuyến 38, trong khi đó
Đại hội đồng LHQ thông qua nghị quyết trù liệu kế hoạch thống nhất Triều
Tiên trong độc lập dân chủ, nhưng bất thành. MacArthur hạ lịnh vượt vĩ
tuyến 38 để chấm dứt cuộc chiến, bị Chí nguyện quân TC can thiệp, đẩy
lùi quân LHQ về vĩ tuyến 38. Đến đầu năm 1951, Hán Thành -thủ đô Nam Hàn
lọt vào tay Cộng quân. Ủy ban hưu chiến LHQ đề nghị kế hoạch hòa bình 5
điểm cho vùng Viễn Đông, nhưng bị TC bác bỏ. HK đưa ra dự thảo nghị
quyết lên án TC là thủ phạm xâm lăng Nam Hàn. Nghị quyết được Đại hội
đồng LHQ thông qua và yêu cầu các nước thành viên phong tỏa cấm vận TC.
Giữa tháng 5/1951 quân LHQ tái chiếm Hán Thành, tướng MacArthur đề nghị
một cuộc đàm phán tại mặt trận để chấm dứt cuộc đổ máu, nhưng bị Bắc
Kinh khước từ. Tướng MacArthur đề nghị TT Truman trừng phạt kẻ gây chiến
bằng cách dùng bom nguyên tử chiến thuật tiêu diệt tiềm lực chiến tranh
của TC ở Mãn Châu, tạo cơ hội giúp quân Tưởng Giới Thạch đổ bộ tái
chiếm lục địa. Theo MacArthur “đây là cơ hội vô cùng thuận lợi cho Thế
giới tự do để trừ mối hoàng họa cho toàn thể nhân loại”.
Quan điểm thuần túy quân sự của MacArthur trái ngược với chính
sách của chính phủ HK ở Viễn Đông. HK chỉ muốn tái lập nguyên trạng
những gì đã được quốc tế thỏa thuận hồi năm 1945. Sự can thiệp của họ
chỉ nhằm ngăn chận không cho chủ nghĩa CS bành trướng thêm nữa. HK không
muốn mở rộng chiến tranh với TC. Và cũng không muốn vi phạm vùng ảnh
hưởng của LX vì Stalin đã đứng ngoài cuộc xung đột, không bỏ phiếu ở
HĐBA. Nhằm chận đứng hành động liều lĩnh của MarArthur vuợt vĩ tuyến 38
phản công Cộng quân một lần nữa, TT Truman cách chức tướng MarArthur.
Ngày 27/7/1953 Hiệp định chấm dứt chiến sự được ký tại Bàn Môn Điếm và
Triều Tiên tiếp tục bị chia cắt tại VT 38 đã được đồng minh quyết định
hồi năm 1945. Tự nhận trọng trách lãnh đạo Thế giới Tự do, HK sẳn sàng
hy sinh “xương máu và sức lực vì những nguyên tắc đã sản sinh ra quốc
gia của họ: dân chủ và tự do”. HK duy trì tinh đồng minh với LX, đã hợp
tác với họ chống Phát xít trong Thế chiến II. HK cũng không muốn khiêu
chiến với Trung Cộng một nước đông dân nhất thế giới.
Tại VN, cuộc chiến Quốc Cộng lần 1 (1946-1954) được giải quyết tại
Hội nghị Genève 1954: VN tạm thời bị chia đôi ở vĩ tuyến 17. Một cuộc
tổng tuyển cử dự trù diễn ra vào năm 1956 để thống nhất VN “với những
điều kiện cần thiết bảo đảm cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý
muốn của mình”…Nhưng vì các biến động trong nước (cuộc cải cách ruộng
đất đẫm máu ở miền Bắc và việc ổn định tình hình miền Nam của thủ tướng
Ngô Đình Diệm) cùng thái độ hòa hoãn của các cường quốc, nên từ tháng
4/1956 hai đồng chủ tịch hội nghị Genève 1954 là Liên Xô và Anh Quốc đều
nhận định: “cuộc tổng tuyển cử thực sự không quan trọng bằng việc duy
trì hòa bình”.
Trong tình thế đó, giới lãnh đạo CS miền Bắc liền phát động cuộc
chiến giải phóng miền Nam. Đại hội III của CSVN đề ra hai nhiệm vụ chiến
lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng
miền Nam để thống nhất nước nhà. Hai nhiệm vụ trên theo Hànội là “để
thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa thế giới” (1). Để
thực hiện chủ trương này Bắc Việt thành lập MTGPMN. Mặt trận đưa ra
chương trình hành động 10 điểm mà nội dung chính là đánh đổ chánh quyền
NĐD mà họ gọi là “chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ”.
Biện pháp ngăn chận xâm lược và tái lập hòa bình ở VN, theo quan
điểm của chính quyền Kennedy là biện pháp đã được áp dụng ở Triều Tiên”,
nghĩa là quân đội HK phải trực tiếp can thiệp. Nhưng HK không thể đưa
quân vào miền Nam VN theo kiểu Triều Tiên vì CSBV chưa công khai xâm
lược, họ chỉ lén lút xâm nhập người và vũ khí vào MN, vả lại TT Diệm
cũng không muốn đất nước ông trở thành sân khấu trình diễn sức mạnh của
HK.
Từ đầu năm 1964, TT Johnson nhờ Blair Seaborn -đại sứ Gia nã Đại
trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến Đông Dương chuyển đến TT Phạm
Văn Đồng nhiều thông điệp kêu gọi Hànội đình chỉ cuộc chiến ở MNVN.
Johnson xác nhận HK không có ý định lật đổ chánh quyền miền Bắc, không
muốn duy trì các căn cứ quân sự tại miền Nam VN. HK chỉ yêu cầu BV giữ
đúng những cam kết mà họ đã ký với Pháp năm 1954 ở Genève và thỏa ước
1962 về Lào: không đưa quân ra khỏi lãnh thổ miền Bắc và đình chỉ gởi
chiến cụ vào miền Nam. HK hứa sẽ rút quân, đặt quan hệ ngoại giao và
viện trợ giúp chính phủ Hànội phát triển kinh tế, đồng thời HK sẽ thuyết
phục chính phủ Sàigòn đàm phán trao đổi thương mại với miền Bắc…(2) Để
trả lời, Hànội đưa ra những đòi hỏi của họ là: HK phải rút toàn bộ lực
lượng ra khỏi MN, một chế độ trung lập sẽ được thiết lập tại đây như
cương lĩnh của MTGPMN và Mặt trận này sẽ đóng vai trò lãnh đạo trong
việc quyết định tương lai MNVN.
Sáng sớm mùng 7/2/1965, Cộng quân mở cuộc pháo kích dữ dội vào căn
cứ trực thăng và trại Cố vấn Mỹ gần phi trường Pleiku làm 8 binh sĩ
chết và 108 bị thương. Lúc bấy giờ TT Liên Xô Kosygin viếng thăm Hànội,
còn McGeorge Bundy -Cố vấn An ninh Quốc gia của TT Johnson đang có mặt
tại Sàigòn. Bundy yêu cầu Johnson có những biện pháp trả đũa tức khắc,
ông coi đây là lý do để mở đầu chiến dịch dội bom Bắc Việt. Johnson ra
lịnh mở các trận oanh kích vào các trại huấn luyện Cộng quân ở Đồng Hới
và Vĩnh Linh. Ba ngày sau, đặc công đặt chất nổ phá hoại cư xá Mỹ ở Qui
nhơn làm 23 binh sĩ tử thương, các cuộc không tập Miền Bắc lại tái
diễn.
Ngày 27/2/1965, Bộ Ngoại giao HK công bố Bạch thư tố cáo chính
quyền cộng sản ở MB đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược MN. BV đã vi
phạm thỏa hiệp Genève 1954 và 1962 mà họ đã ký kết. Nó còn phá vỡ hòa
bình ở ĐNA và đe dọa nặng nề nền tự do và an ninh của MNVN. Nhân dân
MNVN quyết tâm chống lại sự de dọa này và do yêu cầu của họ, HK sẽ đứng
bên cạnh nhân dân MN trong cuộc chiến đấu bảo vệ sự sống còn của họ. HK
khẳng định là Mỹ không mưu tìm lãnh thổ, thiết lập căn cứ quân sự hoặc
giành địa vị ưu thế ở VN…Nhưng HK chấp nhận đương đầu với mọi hình thức
xâm lược. Một khi hòa bình đã được tái lập, HK cam kết sẽ giảm ngay mọi
sự can thiệp quân sự ở MNVN…Nhưng HK không bỏ rơi bạn bè trong cuộc
chiến đấu bảo vệ tự do. (3)
Ngày 7/4/1965, đúng một tháng sau khi HK đưa hai tiểu đoàn TQLC đổ
bộ lên Đà Nẳng, TT Johnson tuyên bố tại Đại học Johns Hopkins: HK sẳn
sàng thương lượng không điều kiện với các phe liên hệ dựa trên những
hiệp ước cũ hoặc bổ túc bằng những hiệp ước mới. Mục tiêu của HK là nền
độc lập của MNVN được bảo đảm để họ có thể quyết định mối liên hệ riêng
của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Hôm sau, Hà Nội trả lời
bằng “đề nghị 4 điểm”: -Yêu cầu Mỹ rút quân khỏi MNVN, -Đình chỉ chiến
tranh với MB, -Công việc MN do nhân dân MNVN giải quyết theo cương lĩnh
của MTGPMN (điểm 3), Việc thống nhất VN sẽ do nhân dân hai miền tự quyết
định không có sự can thiệp từ bên ngoài. Ông PVĐ còn khẳng định: “Mọi
giải pháp trái với lập trường trên đây đều không thích hợp. Giải pháp
muốn dùng LHQ để can thiệp vào tình hình VN cũng đều không thích hợp (4)
HK chấp nhận điểm ba điểm, chỉ còn điểm 3 nói về “công việc MN do
nhân dân giải quyết” phải được thảo luận thêm tại bàn đàm phán giữa
những thành phần chính trị ở đây, chớ MN không phải chỉ có một lực lượng
duy nhất là MTGPMN…Nhưng Hà Nội bác bỏ, từ đó HK dùng hai gọng kèm, dội
bom miền Bắc và tăng quân vào miền Nam để áp lực Bắc Việt ngồi vào bàn
hội nghị. Cuối cùng, TT Johnson đã đưa BV đến bàn đàm phán Paris từ
13/5/1968. Để giúp ứng cử viên dân chủ là Phó TT Humphrey đắc cử, kế
hoạch hòa bình ở VN phải được tiến hành trước ngày bầu cử 5/11/1968, vì
thế ngày 31/10 TT Johnson tuyên bố “HK bắt đầu bước vào giai đoạn đàm
phán thực sự”. Ông ra lệnh ngưng hoàn toàn việc ném bom MB và mở rộng
cuộc thảo luận ở Paris, bao gồm đại diện chính phủ VNCH và đại diện
MTGP, tuy nhiên sự tham dự của MTGP không có nghĩa là HK đã công nhận
họ. Ngày hôm sau TT Thiệu tuyên bố sẽ không gởi phái đoàn sang Paris
tham dự đàm phán. Đại sứ VNCH tại HK ông Bùi Diễm nhận xét: “Đây là là
lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến, chính phủ của hai đồng minh đã công
khai tuyên bố rằng họ không cùng quan điểm”.
Kết quả cuộc bầu cử, Nixon thắng với số phiếu trội hơn Humphrey
chưa tới 1%. Ngay sau khi có kết quả bầu cử, Thượng nghị sĩ Everett
Dirken bất thần ghé tòa Đại sứ, gặp ông Diễm nói rằng: Tôi đến đây nhân
danh cả hai vị tổng thống Johnson và Nixon, với lời nhắn tin: VN phải
gởi ngay phái đoàn đến Paris trước khi việc đó trở nên quá trể. Vài phút
sau, bình luận gia nổi tiếng của HK là Joseph Alsop gọi điện nói với
ông Diễm: “Ông bạn ơi, tổng thống của ông bạn đang chơi một trò nguy
hiểm. Tôi mới gặp Ông già hôm qua. Ông già đang điên cuồng vì giận”. Ông
già đó là TT Johnson (5)
Qua tình tiết trên cho thấy từ khởi đầu đàm phán chấm dứt chiến
tranh đã có sự bất đồng lớn giữa lãnh đạo HK và VNCH. Không phải chỉ bất
đồng mà còn là “ân oán giang hồ” trong giới chính trị chóp bu. Đảng Dân
chủ lên án ông Thiệu đã phá hoại kế hoạch hòa bình của TT Johnson nên
Humphrey thất cử. Từ đó họ chờ ngày phục hận.
Sau ba năm ‘vừa đánh vừ đàm” từ 1969 đến 1972, TT Nixon quyết định
kết thúc cuộc chiến trước khi ông mãn nhiệm kỳ vào ngày 19/Giêng 1973.
Lợi dụng cuộc tấn công mùa Hè năm 1972, (BV đã vi phạm lời cam kết không
tấn công ở MN, HK sẽ ngưng hoàn toàn việc dội bom MB) Nixon ra lịnh tái
oanh tạc BV để áp lực Hà Nội đàm phán nghiêm chỉnh để kết thúc chiến
tranh. Đồng thời Nixon đến Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để yêu cầu hai nước
đàn anh CS thuyết phục Hà Nội. Cuối cùng HĐ Paris 1973 ra đời, không làm
phương hại uy tín của LX và TC, trái lại còn mở ra giai đoạn hòa hoãn
hợp tác giữa ba cường Mỹ Nga Tàu. Đối với nhân dân VN, cuộc chiến được
kết thúc không có kẻ thắng người bại. Công việc nội bộ của MN sẽ do nhân
dân MN tự quyết định không có sự can thiệp bên ngoài. MTGPMN và VNCH sẽ
thành lập Hội đồng Quốc Gia Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc (HĐHGDT) để tổ
chức cuộc tổng tuyên cử, để nhân dân MN quyết định thể chế tương lai MN.
Về phần VNCH, như TT Nixon đã hứa, khi HĐ hòa bình ra đời, cơ cấu
chính quyền từ trung ương đến địa phương vẫn còn nguyên vẹn. Tối cao
Pháp viện, Giám sát viện, lưỡng viện Quốc hội vẫn đang hoạt động. QLVNCH
và Lực lượng Cảnh sát Quốc gia vẫn còn đầy đủ trên 1 triệu người…Nhưng
tại sao MN lại lọt vào tay CS? Có phải chính quyền Mỹ đã phủi tay bỏ rơi
VNCH sau khi ký HĐ Paris 1973 hay không? TT Nixon có bàn bạc, thảo luận
gì với TT Thiệu qua gần 30 lá thư gởi cho Thiệu?
Ngày 17/12/1972, trước khi ra lệnh cho B52 oanh tạc Hà Nội, Hải
Phòng để áp lực ông Lê Đức Thọ trở lại Paris để kết thúc chiến tranh, TT
Nixon gởi cho TT Thiệu lá thư nói rõ: “Đã đến lúc chúng ta phải biểu
dương một mặt trận đoàn kết trong lúc thương lượng với kẻ địch và Ngài
phải quyết định ngay bây giờ là có còn muốn tiếp tục liên minh với chúng
tôi nữa hay không, hay Ngài muốn tôi đi tìm một sự thỏa hiệp riêng rẽ
với kẻ địch để chỉ phục vụ quyền lợi cho Hoa Kỳ mà thôi”. (6)
Ngày 26/12/1972, 110 pháo đài bay B52 mở cuộc tấn công dữ dội nhất
nhắm vào các mục tiêu quân sự ở Hà Nội và Hải Phòng. Ngay chiều hôm đó,
BV đồng ý gặp lại phái đoàn HK vào ngày 8/1/1973 tại Paris. Ba ngày
trước khi cuộc đàm phán Mỹ/BV tái tục, ngày 5/1/1973 TT Nixon lại gởi
thư nhắc nhở TT Thiệu: “Hậu quả trầm trọng nhất sẽ xảy ra nếu như Chính
phủ Ngài tự ý bác bỏ hiệp định và tách rời khỏi HK. Sự khước từ tiếp tay
với chúng tôi của Ngài sẽ là một sự chuốc lấy thảm họa, nó sẽ phá hủy
tất cả những gì mà chúng ta đã cùng nhau tranh đấu để đạt được trong
mười năm qua. Vào lúc chúng tôi bước vào tuần thảo luận mới này, tôi hi
vọng rằng hai quốc gia chúng ta sẽ biểu dương một mặt trận đoàn kết. Tôi
nhắc lại những gì tôi thường viết cho Ngài: bảo đảm tốt nhất cho sự tồn
tại của Miền Nam VN là sự đoàn kết của hai quốc gia chúng ta, sự đoàn
kết sẽ bị nguy hại trầm trọng nếu Ngài cứ nhất định đi theo con đường
hiện nay của Ngài…” (7)
Theo điều 12 của HĐ Paris 1973, nhân dân MNVN được quyền quyết
định tương lai chính trị của MN thông qua một cuộc tổng tuyển cử tự do
và dân chủ có quốc tế giám sát. Hội đồng Quốc gia Hòa hợp và Hòa giải
Dân tộc (HĐHGDT) -gồm ba thành phần VNCH, MTGPMN và Lực lượng Thứ ba- là
cơ quan sẽ đứng ra tổ chức cuộc tổng tuyển cử. Do đó từ ngày 19/3/1973,
hai phái đoàn VNCH và Cộng Hòa MNVN đã gặp nhay tại Paris để bàn vấn đề
này. Chính phủ VNCH vẫn khăng khăng đòi Bắc Việt phải rút hết quân về
Bắc và nhất định không liên hiệp với Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa MNVN.
TT Thiệu chấp nhận cho MTGPMN tham gia vào đời sống chính trị bằng cách
tổ chức cuộc tổng tuyển cử để người dân MN bầu tổng thống và HĐHGDT.
Tổng thống và HĐHGDT sẽ quyết định thể chế mới cho MNVN. Chính phủ CMLT
bác bỏ đề nghị đó, họ không chịu thảo luận những vấn đề nào không được
ghi trong bản văn ký kết. Họ đề nghị hai bên chọn người tham gia HĐHGDT
chớ không bầu. Sau đó HDHGDT đứng ra tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến và
Quốc hội này sẽ soạn thảo Hiến pháp cho MNVN. (8) Đề nghị của MTGP bị
VNCH bác bỏ. Thấy tình thế bế tắc, Nixon mời TT Thiệu sang HK hội đàm
với ông ở San Clemente. Nixon cam kết sẽ viện trợ đầy đủ cho VNCH với
điều kiện VNCH phải cùng Mỹ nghiêm chỉnh thi hành HĐ Paris 1973. Nếu BV
vi phạm, HK có lý do để tái can thiệp...Nhưng Thiệu vẫn kiên trì với lập
trường “bốn không”, tiếp tục chiến đấu chớ không hòa giải.
Từ 21/5/1973, Kissinger và Lê Đức Thọ trở lại Paris để thảo thuận
và ra một tuyên cáo chung xác định hai bên quyết tâm thi hành nghiêm HĐ
Paris. Trong thời gian này, Nixon đã gởi gần chục lá thư thuyết phục
Thiệu: “Như Ngài rõ, tôi đã công khai tuyên bố nhất quyết thi hành bản
hiệp định Paris với tất cả uy tín và thiện chí của Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ sẽ
không ai hiểu nổi vấn đề này nếu bây giờ sự thương thuyết bị thất bại vì
những trở ngại ta có thể tránh được. Tôi xin lập lại rằng ước vọng duy
nhất của chúng tôi là muốn thấy bản Hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh
và thắt chặt tình liên đới với VNCH. Tôi không tin rằng Ngài muốn tôi
phải ra trước dân chúng Hoa Kỳ dể giải thích sự bế tắc của cuộc thương
thuyết hiện nay ở Paris. Điều này chắc chắn sẽ đưa tới sự cắt đứt ngân
khoản cho Lào và Căm Bốt và cuối cùng là Miền Nam VN. Khi ở San
Clemente, tôi đã nói rõ với Ngài về việc xin Quốc hội HK viện trợ đầy đủ
khó khăn như thế nào. Tuy nhiên tôi cũng đã trình bày với Ngài rằng
chúng tôi sẽ dồn mọi nổ lực không những xin đầy đủ viện trợ cho những
nhu cầu hiện tại của VNCH, mà còn yểm trợ cho những kế hoạch kinh tế dài
hạn Ngài vừa công bố! Nổ lực này đang tiến hành tốt đẹp và được đặt vào
hàng ưu tiên đầu. Nhưng tôi thẳng thắn khuyến cáo Ngài rằng chỉ một mối
bất đồng nhỏ nhoi của chúng ta trong tình thế này cũng đủ làm tiêu tan
nổ lực trên. Tôi tin chắc rằng Ngài sẽ cân nhắc kỹ lưỡng điều trên khi
đọc lá thư này” (9)
Dù cố thuyết phục song Thiệu vẫn không nhượng bộ. Ngày 13/6/1973,
Nixon gởi lá thư cuối cùng cho Thiệu với lời lẽ đắng cay: “Lá thư của
Ngài đề ngày 12/6 là một đòn giáng mạnh vào tình bằng hữu, sự tương kính
và quyền lợi chung của chúng ta. Căn cứ vào những hy sinh và rủi ro của
HK phải gánh chịu vì Ngài, tôi không thể ngờ Ngài có thể trả lời một
cách tiêu cực như vậy. Tôi chẳng cầu dấu diếm sự căng thẳng trong mối
bang giao giữa chúng ta vì Ngài đã phủ nhận những cam kết của tôi trong
việc ký kết bản tuyên cáo này. Nếu Ngài lựa chọn đường lối tiêu cực này
thì chính Ngài đã vạch ra chính sách tương lai của HK đối với Việt Nam.
Tôi sẽ bắt buộc phải chiều ý Quốc hội và công luận HK, chỉ yểm trợ vừa
đủ những nhu cầu có tính cách nhân đạo cho nhân dân miền Nam và bỏ qua
những quyết định và nhiệm vụ khó khăn để viện trợ kinh tế và quân sự cho
VNCH như ta đã thảo luận ở San Clemente. Chẳng cần phải nói dài dòng,
nổ lực của chúng tôi trên toàn cỏi Đông Dương sẽ chấm dứt. Tôi coi sự
lựa chọn của Ngài như chống đối sự phán đoán và cam kết của chính bản
thân tôi. Đây không còn là vấn đề của người đi thương thuyết hay của
luật sư và chuyên viên. Đây là vấn đề giữa tôi và Ngài. Sự lựa chọn là
do Ngài”. (10)
Kế hoạch hoà bình của Nixon nay cũng thất bại như kế hoạch hoà bình
của Johnson, vì thiếu sự hợp tác của lãnh đạo VNCH. Lúc bấy giờ Đảng
Dân chủ ở Mỹ đang nắm quyền chủ động ở cả hai viện Quốc hội nên tìm cách
trả mối hận tháng 11/1968. Quốc hội Mỹ bắt đầu cắt bớt viện trợ cho
VNCH vì lẽ VN đã có Hiệp định hòa bình. Ngày 15/11/1973 Hạ Viện Mỹ ấn
định mức viện trợ quân sự tối đa cho VNCH là 1126 triệu đôla so với 2270
triệu của tài khoá trước. Nhưng khi chung quyết chỉ còn 900 triệu, đồng
thời tước bớt quyền hạn của TT Nixon nhằm trói tay không cho ông can
thiệp vào VN nữa.
Bước sang 1974, chính quyền Nixon vẫn còn cố gắng giải quyết vấn đề
VN bằng con đường hòa bình. Ngày 10/2/1974 Kissinger lại sang Paris gặp
Lê Đức Thọ. Trong cuộc mật đàm lần này có sự hiện diện của Martin -Đại
sứ Mỹ ở Saigòn, Kissinger yêu cầu Hà Nội hợp tác với Mỹ để thúc đẩy hai
bên MN ngồi lại với nhau. Ông đề nghị bước đầu Việt Cộng hãy ngưng bắn ở
vùng 3 và 4. VNCH sẽ công nhận ranh giới VC kiểm soát ở vùng 1 v à 2.
Sau đó HK sẽ áp lực chính quyền Sàigòn thành lập Hội đồng Quốc gia Hòa
giải dân tộc. Trở lại Sàigòn, đại sứ Martin thúc hối TT Thiệu thành lập
HĐHGDT và thừa nhận việc phân chia lãnh thổ mà Kissinger đề nghị với Lê
Đức Thọ. Ngoài ra được sự đồng ý của Tòa Bạch Ốc, Martin nhờ Đại sứ Ba
Lan trong Uỷ ban Kiểm soát và Giám sát ngưng bắn chuyển đến Hà Nội một
điệp văn, kêu gọi giới lãnh đạo BV hưởng ứng đề nghị của Kissinger để
chấm dứt cuộc chiến tại MNVN. (11) Martin cũng gởi điện về Hoa Thịnh Đốn
trình bày nhucầu và sự hợp lý của việc cắt đất nhường cho Việt Cộng khi
tiền viện trợ đã bị cắt. (12)
Trong khi đó TT Thiệu đi ngược lại đường lối chiến lược của HK khi
họ quyết định chấm dứt đấu tranh quân sự để người Quốc gia đấu tranh
chính trị với người Cộng sản. Ông chủ trương tiếp tục chiến đấu, tu
chính Hiến pháp để tiếp tục làm tổng thống nhiệm kỳ 3. Nếu được HK tiếp
tục viện trợ, có thể sau nhiệm kỳ thứ ba, ông sẽ tu chính hiến pháp để
làm tổng thống trọn đời như tù trưởng các bộ tộc ở Phi Châu, để lãnh đạo
cuộc chiến chống Cộng vì Hà Nội quyết tâm trường kỳ kháng chiến.
Thượng Nghị Sĩ Kennedy, người lãnh đạo phong trào cắt viện trợ cho
VN quan niệm: “Nếu không đặt trọng tâm vào việc thi hành những mục tiêu
chính trị của thỏa ước ngưng chiến (thành lập Hội đồng Hòa giải Hòa hợp
Dân tộc và tổ chức tổng tuyển cử dưới sự giám sát của quốc tế) thì mục
đích của những món tiền chi tiêu khổng lồ ở VN không phải là để cứu nạn
nhân chiến tranh hay kiến thiết xứ sở mà chỉ để cho chính phủ Thiệu kéo
dài chiến tranh” (13).
Sau khi chỗ dựa của Thiệu là TT Nixon từ chức (10/8/1974) nhiều
người đã thấy rõ “còn Thiệu sẽ mất nước”. Tại Quốc hội Mỹ, các nghĩ sĩ
kêu gọi VNCH phải thích nghi với Việt Cộng, Adlai Stevenson còn nói rõ
hơn là “Thiệu phải từ chức và sau đó nếu Bắc Việt gây hấn thì HK sẽ can
thiệp” (14)
Vì sự sống còn của MNVN, Phong trào chống tham nhũng do Linh mục
Trần Hữu Thanh chủ xướng được phát động rầm rộ từ tháng 9/1974 vận động
trưng cầu dân ý bất tín nhiệm Thiệu. Song song với phong trào chống tham
nhũng là việc thành lập “Lực lượng hòa giải dân tộc” do Giáo sư Vũ Văn
Mẫu cầm đầu. Bản Cáo trạng số 1 của Phong trào chống tham nhũng viết
rằng “Chiến tranh hiện nay đang tiếp tục giết hại quân dân ta la tại
lòng tham của ông Nguyễn Văn Thiệu đã coi ngôi vị tổng thống của ông
nặng hơn vận mạng dân tộc. Đây là thứ tham nhũng tệ hại hơn hết vì là
tham nhũng trên sự sống còn của dân tộc hay nói đúng hơn là sự phản bội
dân tộc”. (15)
Đầu tháng 2/1975 các đảng phái, tôn giáo còn thành lập “Trận tuyến
nhân dân cách mạng tranh thủ hòa bình” bao gồm nhiều nhân vật tên tuổi
của Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo…Mặt trận lên tiếng yêu cầu TT Thiệu và
các phe phái liên hệ chấm dứt chiến tranh, giải quyết bằng con đường
hòa bình. Thượng tọa Thích Tâm Châu thuộc khối Việt Nam Quốc Tự từ trước
đến nay vẫn ủng hộ chính phủ, nay cũng lên tiếng yêu cầu TT Thiêu hãy
vì quyền lợi quốc gia mà từ chức. Đó cũng là yêu cầu của Tổng Giám mục
Nguyễn Văn Bình. Thượng Nghị viện từ trước đến nay vẫn ủng hộ Thiệu cũng
biểu quyết một quyết nghị lên án TT Thiệu lạm quyền, bất công, tham
nhũng. Thượng viện yêu cầu TT Thiệu từ chức và Thiệu phải chịu trách
nhiệm về sự thất bại khi ông chỉ nghĩ đến những biệ pháp quân sự để giải
quyết nột cuộc chiến tranh nặng về chính trị.
Lợi dụng tình hình bất ổn ở Sàigòn, Cộng quân đánh chiếm tỉnh lỵ
Phước Long (6/1/1975) để đo lường phản ứng của HK. TT Ford vẫn không có
phản ứng nào, B52 vẫn không cất cánh để trả đũa như sự e ngại của Hà
Nội. Đến cuối tháng Hai/1975, một phái đoàn lưỡng viện Quốc hội HK được
gởi sang Miền Nam VN để duyệt xét lời yêu cầu của TT Ford xin quân viện
bổ túc cho VNCH. Sau khi thăm các tỉnh, phái đoàn về Sàigòn họp với TT
Thiệu để kiểm điểm tình hình. Các dân biểu, nghị sĩ gay gắt hỏi Thiệu
“Ông muốn quân viện và kinh viện mãi sao, chừng bao lâu nữa?”. (16) Bộ
Chính trị Đảng CSVN tin rằng Quốc hội HK thực sự bỏ rơi VNCH nên quyết
định mở cuộc tổng tấn công mùa Xuân 1975. Chỉ hơn một tuần sau khi phái
đoàn Quốc hội Mỹ về nước, vào lúc 2 giờ sáng ngày 10/3/1975 Cộng quân
tấn công Ban Mê Thuộc. Theo ý đồ của Bộ Chính trị, từ Ban Mê Thuộc, Cộng
quân sẽ tiến thẳng xuống vùng duyên hải Phú Yên, chia hai Miền
Nam,giành nửa lãnh thổ phía Bắc.
Để chống lại âm mưu của CS, ngày 14/3/1975 Thiệu bay ra Cam Ranh
họp với tướng Phạm Văn Phú Tư lịnh Vùng II Chiến thuật. Tại dây với sự
hiện diện của ba cộng sự viên thân cận là các tướng Trần Thiện Khiêm,
Cao Văn Viên và Đặng Văn Quang, TT Thiệu quyết định bỏ ngỏ cả vùng Cao
nguyên. Ông cho rằng QLVNCH không còn đủ khả năng bảo vệ toàn thể lãnh
thổ, phải rút bỏ những vùng kém trù phú, gom lực lượng về cố thủ vùng
duyên hải đồng bằng. Trước đó trong buổi họp ở Dinh Độc Lập, Thiệu giải
thích việc tái phối trí lực lượng với chiến thuật mới mà ông gọi là “đầu
bé đít to”. Ông cho rằng thà mất rừng núi về tay CS còn hơn là phải
sống liên hiệp với chúng”. Theo Thiệu, đây là kế hoạch hết sức bí mật,
không nên để cho người Mỹ biết”. Nhưng hai năm trước đây, tôi biết thêm
một sự thật từ một nhân chứng mới: cựu phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại,
nguyên Tư lịnh Vùng I Duyên hải. Trong quyển “Can trường trong chiến bại
– Hành trình của một thủy thủ”, tác giả tức Đề đốc Thoại cho biết tướng
Trưởng đã tiết lộ cho ông biết: “Ngày 13/3/1975 tại Dinh Độc lập, TT
Thiệu nhận định không còn cách nào với ngân khoản viện trợ của HK bị cắt
giảm, chánh phủ có thể giữ được sự toàn vẹn của lãnh thổ miền Nam. TT
Thiệu lấy viết vạch một đường từ Ban Mê Thuộc xuống Tuy Hòa và nói đó là
ranh giới của miền Nam. TT Thiệu còn căn dặn tướng Trưởng phải giữ kín
không tiết lộ cho các tư lịnh sư đoàn, các tỉnh trưởng cũng như hải quân
và không quân biết việc bỏ miền Trung”.
Như mọi người đều biết, việc rút bỏ Vùng 1 và 2 từ giữa tháng Ba
đã đưa đến biến cố 30/4/1975. Trong quyển “Tâm tư Tổng thống Thiệu” xuất
bản nhân mùa Quốc hận 30/4 năm ngoái, Tiến sĩ Nguyện Tiến Hưng, có
Chương 2 Ai Cố vấn Tổng thống Thiệu rút quân?. Tác giả liệt kê 4 người:
- Tướng Đồng Văn Khuyên, TMT Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục trưởng
Tổng Cục Tiếp Vận QLVNCH đã đệ trình TT Thiệu ý kiến phải thu hẹp lãnh
thổ VNCH thế nào cho tương xứng với sự cắt giảm viện trợ.
- Tướng John Murray, tùy viên Quân lực HK ở VN. Ông nói “Ta có thể ví
sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy”. Ông đề nghị mức các tuyến phòng
thủ tưởng đương với mức quân viện. Chẳng hạn 900 triệu phòng tuyến phòng
thủ ngang tỉnh Tuy Hòa. 750 triệu phòng tuyến kéo dài từ Tây Ninh đến
Nha Trang. Nếu 600 triệu chỉ đủ bảo vệ phần đất từ Bến Lức/Long An xuống
miền Tây. Xin nhắc lại trong quyển Hồ sơ Mật Dinh Độc Lập viết chung
với ký giả J. L. Schecter xuất bản năm 1987, T/s Hưng cho biết “Trong
buổi họp cuối cùng với các tướng lãnh VNCH trước khi mãn nhiệm kỳ về
nước (8/1974), Murray đã khuyên họ nên thu gọn tuyến phòng thủ lại, tập
trung quân số và đạn được để bảo vệ những vùng đông dân dọc bờ biển”
(Tr. 405). Từ lời khuyên này, mới có tờ trình nêu trên của Tr/tướng Đồng
Văn Khuyên. Cả hai đề nghị trên được đưa ra từ giữa năm 1974, tiếp theo
cuộc họp giữa Kissinger với Lê Đức Thọ, như tôi đã đề cập ở phần trên,
chớ không phải hồi đấu năm 1975 lúc đó đã muộn rồi.
- Đại sứ Martin: đã thuyết phục ông Thiệu chấp nhận một việc chia đất
trên thực tế. (Như đã tình bày ở phần trên hồi đầu năm 1974)
- Chuẩn tướng Ted Serong với “Một Kế hoạch Mổ xẻ” (A Surgery Plan) đã
được trình bày với TT Trần Thiện Khiêm và ông Ngô Khắc Tỉnh (cậu TT
Thiệu) hồi đầu tháng Giêng 1975. Theo đó, tướng Serong đã cố vấn ông TTK
“Phải bỏ Quân đoàn I và phải ngay từ bây giờ”. VNCH phải thực hiện kế
hoạch này nội trong hai tuần. Theo hồi ký Serong “Vào ngày 14 tháng 2
năm 1975, thì ông Thiệu chỉ còn một ngày trước hạn chót mà tôi đã đưa
ra, đó là giữa tháng 2”. Đến đầu tháng Ba 1975, ông Ngô Khắc Tỉnh đến
thăm Serong với tư cách là người trung gian của TT Thiệu để hỏi ý kiến.
Serong trả lời: “Xin ông nói với tổng thống là cuộc chiến đã kết thúc
rồi. Nó đã kết thúc từ ba tuần nay” (Tel him the war is over. It has
been over for three weeks).
T/s Nguyễn Tiến Hưng viết quyển “Tâm Tư Tổng thống Thiệu” để biện
minh cho TT Thiệu, đổ trách nhiệm cho người cộng sự của mình là Đồng Văn
Khuyên, đổ tránh nhiệm cho Đại sứ Martin và hai cố vấn Mỹ Úc là John
Murray và Ted Serong. Nhưng vô tình lại vạch thêm một sai lầm tai hại
của TT Thiệu. Ted Serong đã bảo “phải rút trước ngày 15/2/1975. Đến đầu
tháng Ba 1975 cuộc chiến đã kết thúc rồi”, ông lại ra lịnh rút để gây
biết bao tang thương cho đồng bào và chiến sĩ trong một tháng rưởi cuối
cùng của cuộc chiến. T/s Hưng viết “Về việc TT Thiệu ra lệnh rút quân,
Serong bình luận: “Chẳng có kế hoạch. Chẳng chuẩn bị. Chẳng có gì cả.
Chỉ bỏ tầu” (No plans. No preparations. Nothing. Just abandon ship) Theo
tôi, ông Hưng lại bênh vực TT Thiệu, đổ tội cho hai tướng Phạm Văn Phú
và Ngô Quang Trưởng rút lui mà không chuẩn bị và có kế hoạch gì cả, chỉ
bỏ chạy mà thôi.
Việc rút bỏ Vùng I và II là nổ lực cuối cùng của HK giúp VNCH
được đề ra từ đầu năm 1974. Nhưng ông Thiệu cứ chần chờ, mãi đến khi Bộ
Chính trị CSVN mở cuộc tấn công Ban Mê Thuộc với kỳ vọng sẽ giành được
thắng lợi vào cuối năm 1976 khi có cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ. Đây là
cơ hội để TT Thiệu thực hiện các đề nghị kể trên c ủa HK để phá vỡ mộng
thôn tình MN bằng bạo lực quân sự của Hà Nội vào cuối năm 1976. Ông yêu
cầu TT Ford công khai thông báo thẳng cho LX, TC và Hà Nội: Vì hòa bình
VNCH sẳn sàng rút khỏi phân nữa lãnh thổ phía Bắc giao cho MTGPMN quản
lý, để hai bên Miền Nam có thế lực ngang nhau hầu thi hành HĐ Paris
1973. Yêu cầu Hà Nội án binh bất động để QLVNCH rút quân. Bằng hành động
này, sẽ giúp MTGPMN thấy rằng họ được giành được một nửa lãnh thổ MN,
không phải do công lao của Miền Bắc. Họ sẽ ra sức tranh thủ nhân dân ở
đây, củng cố phần đất này để nói chuyên với VNCH ở phía Nam về việc
thành lập HĐHGDT, tổ chức tổng tuyển cử dân chủ tự do. Sau 1973, mối
quan tâm của MTGPMN không phải là VNCH mà là BV. Họ rất lo ngại hành
động cứng rắn của TT Thiệu sẽ tạo cơ hội cho BV thôn tính MN. Lúc đó cả
VNCH và MTGPMN đều là kẻ bại trận, là kẻ phản bội nhân dân MN.
Sự thất bại của MN năm 1975 sẽ được lịch sử soi sáng. Lỗi lầm
trước mắt là do TT Thiệu. Chính ông đã thừa nhận “Tôi có trách nhiệm,
nhưng không có lỗi”. T/s Hưng đã viết ba cuốn sách để bào chữa là TT
không có lỗi. Tất cả đều do người Mỹ tạo ra và cuối cùng ông Dương Văn
Minh đã đầu hàng CS. Câu nói của TT Thiệu chỉ có thể nói với người Mỹ
chớ không phải nói với nhân dân MN đã bầu ông làm tổng thống.
Trong sách Tâm Tư TT Thiệu, tác giả ghi nguyên văn cuộc phỏng vấn
ngày 1/12/1979 của tạp chí Der Spiegel với TT Thiệu. Cuối cùng nhà báo
hỏi: “Có khi nào ông nghĩ là nên cám ơn cho những việc ngưòi Mỹ đã làm
để giúp nước ông không? Kissinger than phiền trong cuốn sách của ông ta:
‘Cảm ơn cho những việc nhận được không phải là một đức tính của người
Việt Nam”. Ông Thiệu không trả lời thẳng, nói vòng vo lãng sang vấn đề
khác, khiến người hỏi phải nhấn mạnh: “Cá nhân ông, ông không cảm thấy
chút gì là phải biết ơn? Ông Thiệu trả lời: “Thành thật mà nói, nếu
chính phủ Mỹ đã không phản bội chúng tôi, hay đâm sau lưng chúng tôi,
dân tộc VN sẽ biết ơn mãi mãi”(Tr.438). Rồi đây, lịch sử ngày càng sáng
tỏ, “ai phản bội? Ai đâm sau lưng?” Nhưng câu trả lời của TT Thiệu có
thể làm cho nhiều đồng bào chúng ta hỗ thẹn. Theo ông, ông chỉ khẳng
định Mỹ phản bội ông, đâm sau lưng ông, nên ông không mang ơn Mỹ và
không có lỗi gì với dân tộc VN. Như vậy, người ta có thể nghĩ ông ta chỉ
là tên lính đánh thuê. Có trách nhiệm của một tên lính đáng thuê và
không có lỗi gì cả khi người ta không cần tên lính đánh thuê nữa. Đó là
tâm tư của TT Thiệu đối với Đồng minh.
TT Thiệu còn trả lời một cuộc phỏng vấn nữa với nhà báo Dunlop của
báo Now ở Luân Đôn năm 1979 đã gây xôn xao dư luận lúc bấy giờ. (Tr.
9-11) Ông nói “Now I have nothing left to do with them” mà báo chí Việt
ngữ dịch ra là “Bây giờ tôi chẳng còn mắc mớ gì đối với họ nữa”. Theo
nhận xét của T/s Hưng thì có lẽ ông Thiệu muốn nói “Nay tôi chẳng còn
quyền hành hay phương tiện để làm được gì đối với đồng bào tôi”, nhưng
ông đã lẫn lộn giữa chữ for và with. Đáng lẽ phải nói là “Now I have
nothing left to do for them”. Đó là tâm tư của vị lãnh đạo tối cao VNCH
đối với đồng bào, họ mạo hiểm trốn chạy CS, ly hương để tìm tự do sau
1975. Qua sự việc trên còn cho thấy ông Hưng luôn bào chữa ông Thiệu.
Trái lại ông Thiệu với bản chất hay đổ tội cho người khác nên ông viết
thư nhờ ông Hưng đính chính dùm. Còn ông đã gởi một thơ “chưởi thẳng
Michael Dunlop, tên này đã gặp tôi và tường thuật lại sai biệt cho báo
Now! Đây là một ác ý rõ ràng của nó. Không biết do ai xúi dục mà thấy
trùng hợp với vụ Kissinger ra sách…”. Lại nghi ngờ Kissinger!
Chuyện thứ ba T/s Hưng nói về Tâm tư TT Thiệu. qua lời kể của ông
Thiệu: “Nhiều lần hành khách trên tàu điện, xe buýt có nhận ra ông nhưng
họ cứ ‘phớt tỉnh’. Trừ trường họp trong một quán ăn nọ, có người tới
tận bàn để chào: Hello, how are you? Are you President Thieu? Ông trả
lời: “No, I am his brother” (Không phải tôi là em ông ta”. (Tr.30). Tâm
tư trên của ông Thiệu khiến người đọc có sự suy nghĩ: người dân Anh biết
ông là cựu tổng thống VNCH, nhưng họ “phớt tỉnh” có phải họ đã coi
thường ông, thấy việc ông làm trước 1975 và tư cách của ông sau 1975 qua
cuộc phỏng vấn của báo Now và Der Spiegel? Vì thế chính ông Thiệu cũng
không dám nhận mình là TT Thiệu! Vậy xin đừng nhắc đến ông nữa.
Muốn phục quốc, phải dũng cảm. Biết nhục là đã gần với đức Dũng rồi.
Tại sao cứ chối và bênh vực mãi như là con nít. Nguời đọc không phải là
con nít. TS Hưng phải xuất bản ba quyển sách để biện minh. Cả ba cuốn
sách đều gây tai hại cho đất nước, làm xấu hỗ dân tộc. Nên nhớ câu nói
của người xưa “Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán quốc.”
Lê Quế Lâm
Chú thích:
1. Học Viện Quan hệ Quốc tế, Thắng lợi có tinh thời đại và cuộc
đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1985, Tr. 88. 2. Lyndon Johnson, The Vantage Point, Perspectives of the Presidency, Redwood Press Ltd, London, P. 67. 3. Henry Steele Commager, Documents of American History, Vol II: Since 1898, Prentice Hall, Inc, New Jersey, 1973, P.698. 4. Phạm Văn Đồng, Thắng lợi vĩ đại, Tương lai huy hoàng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, Tr. 170/72. 5. Bùi Diẫm, Gọng kèm lịch sử, Chương 28: Vụ Anna Chennault. 6. Nguyễn Tiếng Hưng & J.L. Schecter, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, C & K Promtions, Inc, Los Angeles, Tr. 245. 7. Như trên, Tr. 250-251.
8. Nguyễn Khắc Ngữ, Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, Nhóm
nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xuất bản, Gia nã Đại, 1979, Tr. 155. 9. Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, Tr. 327. 10. Như trên, Tr. 341-342. 11. Nguyễn Khắc Ngữ, Sđd, Tr. 161/162. 12. Snep W. Frank, Decent Interval, Random House, NY, 1977, P.109. 13. Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, Tr. 389. 14. Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, Tr. 410. 15. Đỗ Mậu, Việt Nam Quê Hương Tôi Máu Lửa, Nxb Quê hương, HK, 1987, Tr. 1257. 16. Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, Tr. 431
Nguồn: http://saigonecho.info/main/tintuc/binhluan/26043-hip-nh-paris-1973-va-bin-c-3041975.html |