Phạm Trần (Danlambao) -
“Thảm họa Bắc thuộc” là tựa đề cuốn phim tài liệu của nhóm
Film Club ở
Thủ đô Hoa Thịnh Đốn sẽ phát hành vào hạ tuần tháng 6 (2015), đánh dấu
25 năm ngày hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc nối lại quan hệ
ngoại giao (1990-2015).
Bối cảnh lịch sử
Việt Nam và Trung Quốc đã gián đoạn ngoại giao trong 10 năm từ 1979 đến
1989, sau khi quân đội Trung Quốc mở các đợt tấn công vào Việt Nam để
gọi là
“dạy cho Việt Nam một bài học”, theo lệnh của Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình.
Cuộc chiến do Trung Quốc chủ động chia làm 2 đợt:
Lần thứ nhất, bắt đầu từ ngày 17/02/1979, kết thúc ngày 5/03/1979. Có
trên 600,000 quân Trung Quốc được xe tăng và đại pháo yểm trợ đã tràn
qua biên giới tấn công vào 6 tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng,
Lạng Sơn và Quảng Ninh. Chiếu dài của chiến trường là 1.200 cây số từ
tây sang đông.
Lý do thầm kín của Bắc Kinh trong lần tấn công này là để cứu đàn em Pol
Pot, lãnh tụ Khmer đỏ khi ấy cai trị Kampuchea, không bị 200,000 quân
Việt Nam tiêu diệt nhanh chóng.
Trong khi đó thì Việt Nam đã nêu lý do đem quân vào Cao Miên để
“phản
công lại các hoạt động quân sự của quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ
Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những
năm 1975-1978” .
Ngoài lý do bề mặt “trả đũa”, Việt Nam xua quân sang Cao Miên còn nhằm
yểm trợ cho phe Cộng hòa Nhân dân Campuchia của Mặt trận Dân tộc thống
nhất Cứu quốc Campuchia (KNUFNS, Kampuchean National United Front for
National Salvation) do hai lãnh tụ Heng Samrin và Hun Sen lãnh đạo. Ông
Heng Samrin từng là tư lệnh cấp Sư đoàn toan tính đảo chính Pol Pot và
Hun Sen, Tiểu đoàn Trưởng quân đội Khmer đỏ đã bỏ hàng ngũ chạy quan
Việt Nam lánh nạn trước năm 1978.
Tại mặt trận biên giới Việt-Trung sau 2 tháng giao tranh, quân Trung
Quốc bị bộ đội Việt Nam cầm chân và thiệt hại nặng khiến Lãnh tụ Đặng
Tiểu Bình cho lệnh ngưng chiến và rút quân từ ngày 05/3/1979. Bắc Kinh
tuyên ngưng chiền vì đã “hoàn thành mục tiêu chiến tranh”.
Không đâu có số chính thức về thương vong đôi bên. Phía Việt Nam nói đã
giết 26.000 lính Trung Quốc và gây cho khoảng 37,000 người bị thương.
Tây phương ước lượng số quân tử thương của Trung Quốc là ngót 7,000
người và bị thương trên 14,000.
Trung Quốc nói tổn thất của Việt Nam là 30,000 quân chết. Tây phương ước
tính Việt Nam đã thiệt mạng khoảng 8,000 binh sĩ. Phía Việt Nam chỉ nói
có lối 10,000 thường dân bị thiệt mạng.
Số quân và dân của Việt Nam bị tử thương sau 2 tháng giao tranh đẫm máu
được nói nhiều trong khoảng từ 40,000 đến 45,000 người. Thiệt hại tài
sản của nhân dân 6 tỉnh do quân Trung Quốc gây ra là vô giá.
Tội ác của lính Trung Quốc được phía Việt Nam ghi lại:
“Mặc dù Trung
Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường
Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3
tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung
Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong
đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra
nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối. Trong thời gian chuẩn bị rút quân,
Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây
dựng, từ nhà dân hay cột điện.” (Trích Duyên Dáng Việt Nam ngày 17/02/2014)
Cuộc chiến thứ 2
Tuy nhiên quân Trung Quốc không trở về căn cứ mà duy trì ở biện giới và
trong lãnh thổ Việt Nam. Sau đó, từ ngày 02/04/1984 đến năm 1987, trên
800,000 quân Trung Quốc đã mở mặt trận thứ 2 pháo kích và tấn công bộ
binh 3 đợt có xe tăng yểm trợ vào Lạng Sơn và huyện Vị Xuyên tỉnh Hà
Tuyên (Hà Giang-Tuyên Quang, sau này đổi lại là Hà Giang)
Cuộc chiến Việt-Trung lần thứ 2 chỉ lắng đọng từ cuối năm 1989, sau khi
quân CSVN rút khỏi chiến trường Kampuchia sau 10 năm tham chiến. Việt
Nam đã phải hứng chịu tổn thất nặng nề với số tử vong được ước tính trên
100,000 người, theo lời ông Đặng Xương Hùng, cựu Phó Vụ trưởng Bộ Ngoại
giao và Lãnh sự Việt Nam tại Thụy Sỹ trong cuộc phỏng vấn của BBC
tiếng Việt ngày 26/09/2014. Ông Hùng hiện đang sống tị nạn chính trị tại
Thụy Sỹ.
Trong cuộc chiến Việt-Trung lần 2, theo số thống kê của Bộ Quốc phòng
Việt Nam thì mỗi ngày quân Trung Quốc đã bắn quan Việt Nam từ 10,000 đến
40,000, thậm chí có ngày lên đến 65,000 (như ngày 7/01/1987) quả đạn
cối.
Theo ViệtnamExpress ngày 25/07/2014 thì trong hơn 5 năm (1984-1989), số
lượng pháo Trung Quốc bắn vào Hà Tuyên là trên 2 triệu quả, trong đó 60%
là đạn cối. Phạm vi địch bắn phá tập trung vào hai xã Thanh Đức, Thanh
Thuỷ trong khoảng diện tích 20 km2.
Việt Nam mất 2 núi chiến lược
Nếu Trung Quốc không chiến thắng trong trận đánh vào 6 tỉnh Việt Nam lần
thứ nhất thì Việt Nam đã thất bại trong cuộc chiến với quân Trung Quốc
lần 2.
Bộ đội Việt Nam, dù đã tăng viện các sư đoàn thiện chiến có kinh nghiệm
chiến trường vẫn không giữ được hai ngọn núi chiến lược là Lão Sơn (còn
gọi là Núi Đất hay điểm cao 1509) và Giả Âm Sơn (điểm cao 1250). Theo
tài liệu của Việt Nam, quân Trung Quốc đã sự dụng hỏa lực mạnh và chiến
thuật tấn công biển người để mở 3 đợt tấn công chiếm 2 ngọn núi từ ngày
02/04/1984. Đến ngày 14/07/1984 thì đỉnh Lão Sơn đã hoàn toàn thuộc về
Trung Quốc sau nhiều giờ giao chiến “sáp lá cà” đẫm máu.
Để mất 2 vị trí chiến lược cao điểm Lão Sơn và Giả Âm Sơn, quân đội
Việt Nam đang phải đối phó với hiện tượng bị các dàn radar và hệ thống
nhiễu sóng thông tin của Trung Quốc đặt ở đây làm rối loạn thông tin
toàn khu cực bắc lãnh thổ.
Các chuyên gia Quốc phòng Nhật Bản ở quần đảo Okinawa cũng đã phát giác
ra các tín hiệu nhiễu sóng của Trung Quốc phát đi từ 2 đỉnh núi này. Vì
vậy, có nhiều khả năng hệ thống phòng không và quốc phòng của Việt Nam
sẽ bị tệ liệt nếu xảy ra cuộc chiến mới với Trung Quốc.
Hậu quả nghiêm trọng của cuộc chiến Việt-Trung lần 2 tại Lão Sơn và Giả Âm Sơn được ghi lại trong Bách Khoa toàn thư (mở) về
“Xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990” như sau:
“Kết quả, quân Trung Quốc chiếm được một số ngọn đồi thuộc dải đồi
này, gồm 29 điểm trong lãnh thổ Việt Nam. Trong số các vị trí mà quân
Trung Quốc chiếm được có các cao điểm 1509, 772 ở phía tây sông Lô và
các cao điểm 1250 (Núi Bạc), 1030 và đỉnh Si Cà Lá ở phía đông sông Lô.
Chiến sự diễn ra dọc tuyến biên giới dài khoảng 11 km, và nơi quân Trung
Quốc chiếm được sâu nhất trong lãnh thổ Việt Nam là Cao điểm 685 và Cao
điểm 468, nằm cách biên giới khoảng 2 km….Việt Nam không thành công
trong nỗ lực tái chiếm 8 mỏm núi, và Trung Quốc đã cho quân đóng giữ ở
các mỏm núi này.”
Về thương vong đôi bên công bố năm 1984, Tài liệu cho biết:
“Theo
công bố chính thức của Việt Nam, họ đã tiêu diệt một trung đoàn và 8
tiểu đoàn quân Trung Quốc, "loại khỏi vòng chiến đấu" 5.500 quân Trung
Quốc. Tới tháng 8, Việt Nam tuyên bố nâng tổng số quân Trung Quốc bị
loại ra khỏi vòng chiến đấu lên đến 7.500 quân trong vòng 4 tháng. Trung
Quốc tuyên bố loại khỏi vòng chiến khoảng 2.000-4.000 quân Việt Nam,
còn về phía mình Trung Quốc có 939 lính và 64 dân công chết. Phía Việt
Nam xác nhận trong trận đánh ngày 12 tháng 7, chỉ riêng Sư đoàn 356 của
họ đã có gần 600 binh sĩ thiệt mạng.”
5 đời quy hàng
Với bối cảnh phá hoại hoang tàn, dã man và bị Trung Quốc chiếm lãnh thổ
như thế mà các Lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam từ 5 đời Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh (1986-1991), Đỗ Mười (1991-1997), Lê Khả Phiêu
(1997-2001), Nông Đức Mạnh (2001-2011) và Nguyễn Phú Trọng (từ 2011- )
đa lần lượt cúi đầu trước áp lực của quân xâm lược phương Bắc để mang
họa về cho dân tộc.
- Bắt đầu từ Hội nghị bí mật Thành Đô (Tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) năm
1990 của phái đoàn đảng gồm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (Thù tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng.
Thông tin bề mặt từ phía Việt Nam thì nói là mục đích chuyến đi nhằm bàn
với lãnh đạo Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân, Chủ tịch Nhà nước, Tổng Bí
thư đảng Cộng sản Trung Hoa và Lý Bằng, Thủ tướng về kế hoạch bảo vệ
và củng cố Xã hội Chủ nghĩa dựa trên Chủ nghĩa Mác-Lênin, sau khi Thế
giới Cộng sản bị tan rã ở Đông Âu và khi ấy đảng và nhà nước Liên Xô
cũng đang lung lay.
Nhưng thật sự thì phái đoàn Nguyễn Văn Linh muốn nối lại bang giao với
Trung Quốc theo những điều kiện của Bắc Kinh buộc Việt Nam phải tuân
thủ:
- Việt Nam phải rút quân khỏi Cao Miên vô điều kiện; phải chấp nhận một
giải pháp chính trị cho Cao Miên với bảo đảm phải có sự tham dự của phe
Khmer đỏ.
- Việt Nam không được nhắc đến chuyện Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc
chiếm năm 1974; không nhắc đến cuộc chiến Trường Sa năm 1988 có 64
người lính Việt Nam bị quân Trung Quốc giết chết khi có lệnh của Bộ
trưởng Quốc phòng Đại tướng Lê Đức Anh ra lệnh
“không được nổ súng chống lại” dù bị mất 8 mỏm đá, quan trọng nhất là đá Gạc Ma, nằm ở vị trí chiến lược phía nam của dãy Trường Sa.
Phía Việt Nam còn không được nhắc đến cuộc chiến biên giới đẫm máu giữa 2
nước từ 2979 đến 1989 do phía Trung Quốc chủ động xâm lược.
- Đến đời ông Đỗ Mười thì tiếp tục tuân thủ với Trung Quốc những gì do
ông Nguyễn Văn Linh để lại và đặc biệt đã khẳng định tại Đại hội đảng
VII, theo đúng như ý muốn của Trung Quốc là đưa ra Cương lĩnh
“lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản.”
Trong thực tế điều được gọi là “tư tưởng dân tộc” của ông Hồ Chí Minh
trong chủ trương này chỉ là tấm bình phong che mặt Chủ nghĩa Cộng sản mà
đảng CSVN vẫn rỉ rả tuyên truyền là
“quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.
Phía Trung Quốc thì lại bảo họ đang theo đuổi chủ trương gọi là
“chủ nghĩa xã hội có đặc sắc Trung Quốc” được chấp thuận tại Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XV tháng 9 năm 1997.
Cả hai nước đã đồng thuận một điểm quan trọng là chỉ mở cửa kinh tế mà
không mở cửa chính trị; không chấp nhận đa nguyên đa đảng, không cho tư
nhân ra báo và giữ độc quyền thông tin, báo chí.
- Sang thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thì ông này, thi hành tiếp những
điều ông Đỗ Mười đã đồng ý với Trung Quốc, đã cắt đất, nhượng biển và
chia quyền đánh bắt cá cho Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ xuyên qua 3 Thỏa
hiệp:
- Ngày 30 tháng 12 năm 1999, Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt -
Trung đã được hai Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Đường Gia
Triền, thay mặt Chính phủ hai nước ký kết chính thức tại Hà Nội.
Việt Nam mất ải Nam Quan (còn có tên là Hữu Nghị Quan, Mục Nam Quan),
mất 2/3 phần đẹp nhất của thác Bản Giốc, mất ½ sông Bắc Luân tại khu vực
biên giới giữa thành phố Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam) và huyện
cấp thị Đông Hưng (địa cấp thị Phòng Thành Cảng, Khu tự trị dân tộc
Choang Quảng Tây, Trung Quốc).
Việt Nam cũng bị mất những phấn đất cả ngàn cây số vuông dọc biên giới
sau 2 cuộc chiến tranh biên giới từ 1979 đến 1989, quan trọng nhất là
vùng núi Lão Sơn và Giả Âm Sơn.
Qua năm 2000, ông Phiêu đã ký với Trung Quốc thêm 2 Hiệp định:
- Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ ký ngày 25 tháng 12 năm 2000 nhằm xác
định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong
Vịnh Bắc Bộ.
Qũy nghiên cứu Biển Đông của các chuyên viên biển đảo Việt Nam ở trong nước và nước ngoài cho biết:
“Vịnh
Bắc Bộ được bao bọc bởi Việt Nam và Trung Quốc có diện tích 123.700
km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 320 km (176 hải lý) và nơi hẹp
nhất khoảng 220 km (119 hải lý). Chiều dài bờ biển phía Việt Nam khoảng
763 km, còn phía Trung Quốc khoảng 695 km. Phần Vịnh phía Việt Nam có
khoảng 1.300 hòn đảo ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất
liền nước ta khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km.
Vịnh có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc về
an ninh và quốc phòng". (Trích bài viết
“Đàm phán Việt - Trung về khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ” ngày 24/02/2014)
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho biết:
“Việt Nam được hưởng 53,23% diện tích Vịnh và Trung Quốc được hưởng 46,77% diện tích Vịnh”.
Như vậy, phía Việt Nam hơn Trung Quốc 6,46%, hay khoảng 8,205 cây số vuông, theo ước tính của Qũy Biển Đông.
Ông Lê Công Phụng, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ đã có lần phủ
nhận Việt Nam để mất 10,000 cây số vuông ở Vịnh Bắc Bộ. Ngược lại ông
còn nói Việt Nam được lợi đến 8,000 cây số vuông như Qũy Biển Đông đã
viết.
Tuy nhiên, các chuyên viên biển đảo và địa dư không đồng ý và cho rằng,
ít nhất Việt Nam cũng đã bị thiệt từ 3,000 đến 4,000 cây số vuông.
- Cùng thời gian này, Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ được ký
kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 25
tháng 12 năm 2000.
Tài liệu chính thức cho biết người đại diện ký kết của Việt Nam là Bộ
trưởng Thủy sản Tạ Quang Ngọc, người đại diện ký kết của Trung Quốc là
Bộ trưởng Nông nghiệp Trần Diệu Bang.
- Khi ông Nông Đức Mạnh thay Lê Khả Phiêu cầm quyền trong 10 năm
(2001-2011) thì đã mở cửa cho Trung Quốc vào khai thác Bauxite trên Tây
Nguyên, một hành động đã bị cả ngàn Cựu quan chức, đảng viên cao cấp và
Trí thức trong và ngoài nước ngăn cản nhưng không thành.
Trong số những người ký tên vào kiến nghị gửi Bộ Chính trị và Ban Chấp
hành Trung ương đảng có cả Bà nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình;
nguyên Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Trưởng ban
Công lý và Hòa bình của Giáo hội Công giáo và Nhà văn nổi tiếng Nguyên
Ngọc, người rất thông thạo về phong tục, tập quan của các Dân tộc ở Tây
Nguyên.
Trong số các chuyên viên cảnh giác sẽ mắc bẫy Trung Quốc, gây thiệt hại
kinh tế, môi trường và làm xáo trộn đời sống của hàng trăm nghìn dân là
Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, nguyên Giám đốc Ban quản lý Dự án than Đồng
bằng sông Hồng – Vinacomin.
Ông đã nhiều lần ông lên tiếng với những chứng liệu khoa học cụ thể về
lời và lỗ nhưng Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam vẫn chũi đầu xuống cát
cãi lý, nhưng lại được sự đồng thuận của các viên chức Bộ Công Thương.
Tiến sĩ Sơn nói thằng:
“Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam
(Vinacomin) đã sập bẫy giá rẻ của Trung Quốc. Ước tính tổng số lỗ của dự
án bauxite Tân Rai (Lâm Đồng) Nhân Cơ (Đăk Nông) trong năm 2015 sẽ
khoảng 37,4 triệu USD.” (báo Dân Trí)
Chuyên gia này đã công bố ước tính của ông tại cuộc tọa đàm về dự án
Bauxite do Trung tâm Thiên nhiên và Con người (Pan Nature) tổ chức ngày
28-3-2015 ở Hà Nội.
Nhưng không phải chỉ lỗ bấy nhiêu mà còn lỗ dài hạn, tiếp tục rút tiền
mồ hôi nước mắt của dân mà chưa biết đến bao giờ mới thoát khỏi cái bẫy
“thầu giá rẻ” của Nhà thầu Chalieco (Trung Quốc).
Báo Dân Trí viết tiếp:
“Nguyên nhân được ông Sơn chỉ ra là vì theo
phụ lục trong Hợp đồng EPC giữa Vinacomin và nhà thầu Chalieco (Trung
Quốc) ngày 14-7-2008 của dự án Tân Rai, nhà thầu cam kết 630.000
tấn/năm, giảm 20.000 tấn/năm (giá trị tương đương 20 triệu USD) so với
công bố của chủ đầu tư. Kéo theo doanh thu giảm khoảng 5 triệu USD/năm.
Còn ông Nguyễn Văn Ban, nguyên Trưởng ban Nhôm – Titan, Tổng công ty
Khoáng sản Việt Nam, cho rằng khi Trung Quốc chào thầu, giá rất thấp.
Thế nhưng khi kí hợp đồng thì giá lại tăng lên. Phía họ lấy lý do đội
giá là do mức giá chào thầu chưa tính đến thiết bị dự phòng. Đây chính
là bẫy của họ.”
Vẫn theo Dân Trí và các báo khác thì Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn cho biết:
“Năm
2014 tổng số alumina tiêu thụ của Nhà máy Tân Rai là 492.000 tấn với
giá bán bình quân 326,5 USD/tấn. Tuy nhiên trên thực tế nếu tính cả chi
phí khấu hao, chi phí vận tải về cảng Gò Dầu thì giá thành đầy đủ tương
đương 413,5 USD/tấn. Như vậy, trong năm 2014, mỗi tấn alumina bị lỗ ít
nhất là 87 US$/tấn. Tổng số lỗ của năm 2014 là 42,8 triệu USD và trong
năm 2015 tình hình sẽ tiếp tục như thế.”
Các báo ở Việt Nam cũng loan tin:
“Theo dự toán của Vinacomin, mức lỗ
của năm 2015 cho cả hai sự án Tân Rai và Nhân Cơ (Đăk Nông), bất kể là
sản xuất đến đâu, tiêu thụ đến đó, cũng xấp xỉ 37,42 triệu USD.”
Như vậy thì Trung Quốc hay Việt Nam có lợi trong dự án khai thác Bauxite
ở Lâm Đồng và Dak Nông? Ngoài ra còn phải xét đến yếu tố ông Nông Đức
Mạnh đã “mở cửa nóc nhà Đông Dương” để cho người Trung Quốc vào vùng đất
chiến lược Tây Nguyên mà Đại tướng Võ nguyên Giáp đã cảnh giác.
Ngoài Dự án Bauxite, trong 10 năm đứng đầu đảng, ông Mạnh đã để cho hàng
chục ngàn lao động Trung Quốc “không giấy phép làm việc” và “chỉ biết
làm những việc” bình thường tự do vào Việt Nam làm cho các công ty Trung
Quốc từ Nam ra Bắc.
Quan trọng sau Dự án Bauxite là ông Mạnh đã đồng ý để cho người Trung
Hoa (Đài Loan và Trung Quốc) xây dựng nhà máy luyện kim ở khu kinh tế
Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh
70 km về phía Nam.
Theo Bách khoa toàn thư (mở) thì Vũng Áng
“Được thành lập vào tháng 4
năm 2006 trên cơ sở khu công nghiệp - cảng biển Vũng Áng đã được thành
lập từ năm 1997… có vị trí địa lý tự nhiên (gần cảng nước sâu Vũng Áng
và Sơn Dương, gần quốc lộ 1A, trên quốc lộ 12A nối với Lào và Thái Lan,
gần mỏ sắt Thạch Khê) để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Hà Tĩnh,
tạo điểm bứt phá về kinh tế – xã hội trong khu vực Bắc Trung Bộ, tạo sự
liên kết phát triển giữa các tỉnh Bắc Trung Bộ, thu hẹp khoảng cách
trong phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập với cả nước và quốc tế.”
Đã có những quan ngại Việt Nam sẽ bị cắt làm hai khi xảy ra chiến tranh
với Trung Quốc vì ngoài lợi ích kinh tế, theo Bách khoa toàn thư mở thì:
“Khu kinh tế Vũng Áng bao gồm: dịch vụ cảng biển, công nghiệp luyện kim
gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu (mỏ sắt Thạch Khê,
mỏ titan,...); các ngành công nghiệp gắn với việc khai thác cảng biển;
các ngành công nghiệp khai thác nguồn nguyên liệu trong vùng cũng như
nhập khẩu, đặc biệt là từ Lào và Thái Lan; các ngành công nghiệp phục vụ
xuất khẩu.”
Ông Mạnh cũng để cho thương lái Trung Quốc ra vào Việt Nam như đi chợ để
mua nông phẩm và súc vật của Việt Nam nhằm làm hại nền kinh tế Việt
Nam.
Ngoài ra ông Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đã ký
giấy khai thác Bauxite, còn có trách nhiệm trong việc để cho các cấp
Chính quyền địa phương, đặc biệt tại các Tỉnh chiến lược dọc biên giới
cho các Công ty Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan thuê đất dài hạn đến
50 năm để trồng rừng.
Tại các khu vực này, người Việt Nam không được phép vào và cả chính
quyền cũng không biết các Công ty gốc Trung Hoa đã và đang làm gì trong
vùng đất “cấm địa” này ngay trên lãnh thổ Việt Nam?
Nhiều phố xá, xóm làng của người Trung Hoa làm chủ, quan lý, tiêu biểu
như Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương cũng đã được thành lập dưới thời ông
Mạnh và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.
- Đến thời ông Nguyễn Phú Trọng thì từ khi ông lên cầm quyền năm 2011,
Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc gia tăng đến mức chóng mặt va rất đáng
lo ngại.
Ông cũng là người đã thi hành nghiêm chỉnh phương châm 16 chữ:
"láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt:
“láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” , mặc dù hại nhiều hơn lợi đã nghiêng về phía Việt Nam.
Ông Trọng đã thăm Trung Quốc rất vội vã trong cả hai chuyến đi đầu tiên tháng 10/2011 và lần thứ hai từ ngày 7 đến 10/04/2015.
Lần thứ nhất, ông đã cùng với Chủ tịch nhà nước, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa Hồ Cẩm Đào chứng kiến lễ ký 6 Điểm
“Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung”,
ngay sau khi đến Bắc Kinh chiều ngày 11/10/2011. Điều này chứng tỏ Văn
kiện 6 điểm đã được các bên đồng ý từ trước, nhưng có thảo luận nay
không thì chưa rõ.
Hai bên tuyên bố:
“Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung
Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu
tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên
tranh chấp khác.”
Điều này có nghĩa ông Trọng đã tán thành lập trường của Trung Quốc chỉ
thảo luận song phương giữa 2 nước có tranh chấp với nhau mà không chấp
thuận đa phương hay quốc tế hóa xung đột ở Biển Đông như nhiều nước
trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á và Hoa Kỳ mong muốn.
Tiếp theo, ông Nguyễn Phú Trọng cũng đồng ý:
“Vững bước thúc đẩy đàm
phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn
bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này….”
Điều đồng ý này của phía Việt Nam, lần đầu tiên cho thấy ông Trọng đã bằng lòng hợp tác với Trung Quốc để
“hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này….”, đúng như đòi hỏi từ năm 1979 của Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, khi ấy ông ta nói:
"Biển của ta, hãy gác tranh chấp đề cùng khai thác"!
Từ sau chuyến đi này, ông Trọng đã để mặc cho Công an Việt Nam tự do đàn
áp người dân tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng ở
Biển Đông và tấn công các thuyền đánh cá của Việt Nam đến đánh bắt ở
Hoàng Sa và Trường Sa.
Các hành động thuần phục Trung Cộng khác của ông Trọng còn được đánh dấu
ở cả Sài Gòn và Hà Nội khi người dân, vào mỗi tháng Hai, không được
phép tổ chức tưởng nhớ các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh trong cuộc
chiến biên giới chống quân Trung Quốc xâm lược (17/02/1979).
Các cuộc tuần hành kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc đánh chiếm quần đảo
Hoàng Sa (1974-2014) cũng bị chống phá và ngăn cản thô bạo ở Hà Nội.
Ngay đến ngày kỷ niệm 14 tháng 3 hàng năm tưởng niệm 64 chiến sĩ của
Quân đội nhân dân chống xâm lược Trung Quốc hy sinh ở Trường Sa năm 1988
cũng không được phép tổ chức cấp quốc gia, không được biểu tình chống
bành trướng và bá quyền Bắc Kinh.
Ngược lại, các buổi ca nhạc, nhảy nhót thô bỉ như để ăn mừng chiến công
của quân đội Trung Quốc đã được Chính quyền Thành phố Hà Nội tổ chức
trước mắt người dân và báo chí nước ngoài.
Khi Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào bên trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đề thăm dò dầu khí từ ngày 2/5 đến
15/7/2014 thì cũng chính ông Trọng đã không tán thành ý kiến của nhiều
Đại biểu Quốc hội và người dân muốn Quốc Hội ra nghị quyết lên án hành
động của Bắc Kinh.
Chuyến đi lần hai
Cuối cùng, trong chuyến đi Bắc Kinh vội vã lần 2 từ ngày 07 đến
10/04/2015 để gặp Chủ tịch nhà nước, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa
Tập Cận Bình, ông Trọng đã “hợp thức hóa” tất cả những cam kết của Việt
Nam từ trước.
Trong số này, có những cam kết và thỏa thuận đã ký kết được ghi trong 9 điểm của
“Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc”, công bố ngày 08/04/2015, trước cả ngày về nước của phái đoàn Việt Nam.
Những điểm quan trọng gồm:
“Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng quan
trọng của nhau, nhất trí cho rằng hai nước có chế độ chính trị tương
đồng, có con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ vận mệnh tương quan,
sự phát triển của nước này là cơ hội quan trọng cho nước kia.”
Hai bên cũng đồng ý:
“Tăng cường giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực
ngoại giao, quốc phòng, thực thi pháp luật và an ninh. Tiếp tục tổ chức
tốt tham vấn ngoại giao thường niên, mở rộng giao lưu hợp tác giữa Bộ
Ngoại giao hai nước. Duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước và
đối thoại quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh giao lưu hữu nghị giữa hai lực
lượng biên phòng, quản lý thỏa đáng bất đồng, đi sâu trao đổi kinh
nghiệm về công tác Đảng và công tác chính trị trong quân đội; tăng cường
hợp tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ; tiếp tục tổ chức tuần tra chung
trong vịnh Bắc Bộ và tàu hải quân hai bên thăm nhau. Đi sâu hợp tác
trong lĩnh vực an ninh và thực thi pháp luật, tăng cường đối thoại an
ninh…”
Tông báo còn viết:
“Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký kết
“Kế hoạch hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung
Quốc giai đoạn 2016-2020”; “Hiệp định về hợp tác dẫn độ giữa Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”; “Thỏa thuận về
các vấn đề về thuế đối với Dự án thăm dò chung tài nguyên dầu khí tại
vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc” giữa Bộ Tài chính nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Tài chính nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa; “Bản ghi nhớ giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hợp tác trong
lĩnh vực gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc”; “Bản ghi nhớ về việc thành lập
Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng trên bộ” (MOU) giữa Bộ Kế hoạch
và Đầu tư Việt Nam và Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc;
“Điều khoản Tham chiếu Nhóm công tác hợp tác tài chính tiền tệ giữa
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc”; và “Bản
ghi nhớ về hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề giữa Đài Truyền hình
Việt Nam và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc”.
Quan trọng hơn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn đồng ý:
“Tích cực
nghiên cứu việc đàm phán, ký kết Hiệp định sửa đổi về thương mại biên
giới Việt - Trung. Sớm bàn bạc và xác định phương án tổng thể chung về
xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới; thiết thực thúc đẩy các dự
án kết nối cơ sở hạ tầng…. Hai bên tuyên bố chính thức thành lập Nhóm
công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ.”
Như vậy thì Việt Nam đã biến thành một quận huyện của Trung Quốc chưa?
Và bao giờ thì người dân Việt sẽ chi tiêu với nhau bằng đồng Nhân Tệ của
Trung Hoa trên đất nước của mình ?
Phát triển trên biển Đông
Riêng trong lĩnh vực Biển Đông, Thông báo viết rất rõ về sự nhượng bộ của ông Trọng:
“Hai
bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn
mạnh tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo cấp cao
hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”; sử
dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt -
Trung, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm
giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích
cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường
và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về
vấn đề hợp tác cùng phát triển. Cùng kiểm soát tốt bất đồng trên biển
Hai bên nhất trí thúc đẩy hoạt động của Nhóm bàn bạc về hợp tác cùng
phát triển trên biển, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm,
vững bước thúc đẩy đàm phán phân định khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ,
tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này, sớm khởi
động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ trong năm nay.”
Như vậy thì có còn gì để nghi ngờ về lòng dạ phù Trung của ông Nguyễn Phú Trọng nữa không?
Thảm họa bắc thuộc
Phải chăng những “thành tích sáng chói” của 5 đời Tổng Bí thư đảng CSVN
trên đây là lý do khiến nhóm Film Club ở vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã
hoàn thành phim tài liệu
“Thảm Họa Bắc Thuộc”?