CHÍNH
THỐNG HAY NGỤY QUYỀN
(Trình bày tại Montreal ngày 30-4-2017)
Trần Gia Phụng
Từ năm 1945 cho đến nay,
cộng sản (CS) luôn luôn giành chính nghĩa về phần
mình, gọi Quốc Gia Việt Nam (QGVN) rồi Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) là “ngụy quân”, “ngụy quyền” … Bài nói chuyện nầy xin dựa
vào lịch sử để xác định rõ ràng ai là chính
thống và ai là ngụy quyền?
1.- ĐỊNH NGHĨA
Trong chữ “chính thống”, thì “chính” là “ngay thẳng”,
“đích xác”; còn “thống” là “mối tơ”, giềng mối
nối tiếp nhau. Nói chung, “chính thống” là dòng chính từ trước
ra sau, từ trên xuống dưới. Ví dụ dòng chính của
một dòng họ, một môn phái, một học thuyết. Trong chính trị, chính thống là sự
tiếp nối chính thức từ đời trước
qua đời sau, đúng theo luật định,
tập quán, phong tục…
Trái với “chính” trong chữ “chính
thống”, là “ngụy”. “Ngụy” có nghĩa là giả, không thật, không
chính thống. Các nhà
cầm quyền thường tự cho mình là chính và dùng
chữ “ngụy” để chỉ những đối
thủ chính trị, như ngụy triều, ngụy
quyền, ngụy quân. Ví dụ
gần nhứt trong lịch sử là nhà Nguyễn (vua Gia
Long) gọi nhà Nguyễn (vua Quang Trung) là “ngụy triều”,
“ngụy Tây”, “ngụy Tây Sơn” …
Nhân viết về nhà Tây Sơn, sử
gia Trần Trọng Kim bàn rằng: "Những người làm quốc
sử nước Tàu và nước ta
thường cứ chia những nhà làm vua ra chính
thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc
mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là
được kế truyền phân minh, thần dân
đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng
nghiệp ở đất trung nguyên, thì cho là chính thống.
Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán
đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng
vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất
biên địa, ba là những người ngoại chủng
vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều."
(Trần Trọng Kim, Việt
Nam sử lược, Sài Gòn, Nxb. Tân Việt, in lần thứ
bảy, 1964, tr. 367, chương “Nhà Nguyễn Tây Sơn”.)
Tuy vậy, có triều đại cầm
quyền do đảo chánh, cướp ngôi, lúc đầu bị
xem là ngụy triều, nhưng nhờ có công chống ngoại
xâm hay xây dựng đất nước hợp lòng dân, nên được
gọi là chính thống. Trái lại, có triều đại chính thống, nhưng
về sau trở nên tàn bạo hoặc cầu viện ngoại
bang, thì lại bị xem là ngụy triều.
Ngoài những tiêu chuẩn trên
đây, ngày nay trên toàn thế giới, một chế độ được
xem là chính thống khi được dân chúng chọn lựa
qua một cuộc phổ thông đấu phiếu minh bạch,
tự do dân chủ, xây dựng đất nước, tôn
trọng dân quyền và nhân quyền, bảo vệ tổ quốc,
chống ngoại xâm. Nói ngắn gọn, một chế độ chính
thống là một chế độ “của dân, do dân và vì dân”.
2.- QUAN ĐIỂM CỦA CỘNG SẢN
Trong cuộc chiến 1946-1954, lúc
đầu CSVN gọi các đối thủ chính trị là “Việt
gian”, “phản động”, “bù
nhìn”, “tay sai thực dân Pháp”.
Sau hiệp định E1ysée
(8-3-1949), cựu hoàng Bảo Đại thành lập chính thể
QGVN và thành lập Quân đội QGVN, thì CSVN gọi quân
đội QGVN là “ngụy binh” và sau đó gọi quân đội
VNCH là “ngụy quân”, chính thể VNCH là “ngụy quyền”.
Hồ Chí Minh (HCM) bắt đầu
dùng chữ “ngụy binh” trong các bài báo từ năm 1951,
đăng lại trong Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 6 (in lần thứ hai, Nxb.
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000). 1) “Vận động
ngụy binh”, ký tên Đ.X, báo Cứu
Quốc số 1851, 30-6-1951.
(Tập 6, tr. 234.) 2) “Thư gửi các ngụy binh”,
ký tên Hồ Chí Minh, báo Cứu
Quốc, số 1915, 28-9-1951. (Tập 6 tr.
305.) 3) “Lời kêu gọi
ngụy binh quay về với tổ quốc”, ký tên Hồ
Chí Minh, báo Nhân Dân, số 32,
15-11-1951. (Tập
6 tt. 332-333.) …
Trong suốt cuộc chiến
1960-1975, và nhứt là sau 30-4-1975, ngày nào đài phát thanh và
đài truyền hình CS cũng ra rả rêu rao và lên án “ngụy
quân, ngụy quyền Sài Gòn”. Tuy nhiên, không phải CS tự tiện
gọi đối thủ là “ngụy”, thì CS tự nhiên trở
thành chính thống. Vấn đề là sự đánh giá của quần
chúng, sự phán xét của lịch sử, dựa trên thành quả
của nhà nước CS trong lúc nắm quyền lực.
Muốn đánh giá thật đúng
thì phải qua thời gian thử thách. Nay đã hơn 40 năm sau ngày
30-4-1975, có lẽ là thời gian đã quá đủ để
người Việt hiểu CS thấu tận “ngọn nguồn lạch sông”,
để đánh giá chế độ CS.
3.- TRƯỚC NĂM 1975
Xin bắt đầu khi chế
độ CS mới thành lập. Sau khi Nhật đầu
hàng Đồng minh ngày 14-8-1945, chính phủ Trần Trong Kim
sụp đổ. Hồ Chí Minh (HCM) cùng mặt trận Việt Minh
(VM) nổi lên cướp chính quyền ở Hà Nội, gởi
điện yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị.
(Nhóm chữ “cướp chính quyền” do VM đưa ra.)
Lúc đó, đại sứ Nhật
ở Huế đề nghị giúp vua Bảo Đại dẹp
VM, vì lực lượng Nhật ở Việt Nam còn nguyên
vẹn. Tuy
nhiên, vì lòng yêu nước thương dân, vì muốn tránh nội
chiến, vua Bảo Đại từ chối đề nghị
của đại sứ Nhật, và tuyên chiếu thoái vị
ngày 25-8, rồi làm lễ thoái vị ngày 30-8-1945, trao quyền
cho VM, tạo thời cơ lịch sử rất thuận
lợi, giúp HCM và VM thế kế tục chính thống hợp
pháp trước quốc dân Việt Nam và cả chính trường
quốc tế.
Lúc đó, ít ai biết HCM và VM là cộng
sản (CS), kể cả vua Bảo Đại. Trong “Tuyên ngôn độc lập”
ngày 2-9-1945, HCM nói: “Khi Nhật
đầu hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước
ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa… ” Như thế là HCM tự hào rằng
VM cướp chính quyền, chứ không phải do vua Bảo
Đại trao lại, phủ nhận thiện chí của
vua Bảo Đại, và phủ nhận luôn sự truyền
thừa chính thức từ triều đình Huế mà vua Bảo
Đại tượng trưng.
Dù
mới cầm quyền, HCM và VM để lộ ngay bản
chất độc tài đảng trị.
Vì vậy, khi thoát qua đưọc Hồng Kông, và gặp
lại Trần Trọng Kim vào tháng 8-1947, cựu hoàng Bảo
Đại nói với Trần Trọng Kim: “Chúng mình già trẻ mắc lừa bọn du côn.” (Trần Trọng Kim, Một
cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 146.) Ý kiến của Bảo
Đại có thể xem là lời tuyên bố phủ nhận
tất cả những gì mà trước đây vua Bảo
Đại đã lầm khi tin tưởng giao quyền cho
HCM. Đây là
trường hợp mà trong dân gian thường nói là “trao duyên lầm tướng cướp”.
Qua
việc HCM tự hào đã cướp chính quyền và việc
cựu hoàng Bảo Đại nhận ra sai lầm vì đã
trao quyền cho bọn du côn, thì VNDCCH chắc chắn không
phải là chính thể kế truyền chính thống của
nhà Nguyễn, hay của chính phủ Trần Trọng Kim.
Khi
Pháp trở lui Việt Nam, HCM nhượng bộ Pháp để
duy trì quyền lực, ký liên tiếp hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946),
công nhận sự hiện diện của Pháp ở Việt
Nam. Dần dần, bị Pháp
áp lực mạnh mẽ, HCM họp Trung ương đảng
CS tại Vạn Phúc (gần Hà Nội) ngày 18 và 19-12-1946, quyết
định tấn công Pháp, nhằm trốn chạy khỏi
Hà Nội, và đổ gánh nặng chiến tranh lên vai dân tộc
Việt.
Việt
Minh thua chạy cho đến năm 1949.
Khi Trung Cộng thành công ở Trung Hoa năm
1949, thì đầu năm 1950, HCM qua Tàu rồi qua Liên Xô cầu
viện. Hồ Chí Minh qua Tàu cầu viện năm 1950
thì có khác gì bà thái hậu nhà Lê qua Tàu cầu viện năm
1788?
Trong Đại
hội 2 đảng CSĐD vào tháng 2-1951 tại Tuyên Quang, để
đưa đảng Cộng
Sản (CS) hoạt động công
khai trở lại với danh xưng mới là đảng
Lao Động (LĐ) do Stalin đặt, HCM phát biểu:
"Về lý luận, đảng Lao Động Việt
Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin...lấy tư tưởng
Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.". (Nguyễn Văn Trấn, Viết
cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái
bản], California, 1995, tt. 150-152.)
Chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng
Mao Trạch Đông hoàn toàn xa lạ đối với
người Việt Nam, không nằm
trong dòng văn hóa dân tộc cổ truyền chính thống. Ai cũng biết
đây là loại chủ nghĩa không tưởng, không thể
thực hiện được. Ngay cả những người hầu
như đồng thời với NAQ, như hai nhà cách mạng
Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu và nhà văn Phan Khôi đều
chỉ trích chủ nghĩa Mác-Lê.
Khi khởi chiến năm
1946, VM rất cần giới trí thức tiểu tư
sản để lôi cuốn quần chúng. Thời nào cũng
vậy, trí thức tiểu tư sản là lớp
người trung gian giữa nhà cầm quyền với
quần chúng và là thành phần nòng cốt thúc đẩy
tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, khi được
Trung Cộng viện trợ, VM khá vững, HCM theo chủ
trương của Mao Trạch Đông, tiêu diệt
giới trí thức tiểu tư sản bằng những
phong trào rèn cán chỉnh quân, vì HCM và CS sợ giới nầy
sẽ hướng dẫn quần chúng chống lại
độc tài đảng trị CS, nên ra tay
trước.
Hồ Chí Minh còn học theo
Mao Trạch Đông tổ chức những cuộc Cải
cách ruộng đất kinh thiên động địa, gây
chia rẽ dân chúng, gây căm thù giai cấp và làm cho bàn tay
nông dân nhuốm máu đồng bào, không còn con
đường rút lui, mà chỉ còn con đường duy
nhất là phải nhắm mắt vâng phục CS.
Khi Trung Cộng gởi
viện trợ qua giúp và nhất là gởi cố vấn qua
điều khiển chiến tranh, thì VM tuân phục
tuyệt đối sự lãnh đạo của cố
vấn Trung Cộng.
Cố vấn Trung Cộng chỉ đông thì đánh
đông, chỉ tây bắc thì lên tây bắc, chỉ ngừng
đánh để họp Genève thì lo họp, chỉ chia hai
đất nước ở vĩ
tuyến 17, thì tuân lệnh ngay lập tức. Tất cả những trận
đánh lớn nhỏ của bộ đội VM, từ Đông
Khê đến Điện Biên Phủ, đều nhờ khí
tài và cố vấn Trung Cộng, do quân ủy Bắc Kinh chỉ
huy. Võ Nguyên Giáp chẳng qua là
đốc công chiến trường, còn Hồ Chí Minh là thư ký chiến trường cho đoàn
cố vấn và quân ủy Bắc Kinh mà thôi.
Sau khi đất
nước bị chia hai, Bắc Việt Nam cử
người qua Bắc Kinh năm 1956 xin viện trợ
nhằm đánh Nam Việt Nam.
Lúc đó, Trung Cộng ra tuyên bố tự ý xác
định hải phận của Trung Cộng là 12 hải
lý, và khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ
quyền của Trung Cộng. Để
trả ơn Trung Cộng, Phạm Văn Đồng ký công
hàm ngày 14-9-1958, với sự chuẩn thuận của
HCM và đảng Lao Động, theo đó CSVN “ghi nhận và tán thành bản tuyên
bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”.
Như thế
có nghĩa là CSVN
nhượng hai quần đảo nầy cho Trung Cộng.
Chưa hết, trong cuộc chiến 1960-1975, Lê Duẩn
còn khẳng định: “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả
Trung Quốc, cho Liên Xô.” (Nguyễn Mạnh
Cầm (ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến
2000) trả lời phỏng vấn BBC ngày 24-1-2013.)
4.- THỰC TẾ ĐỜI SỐNG
Một kinh nghiệm thực tế
rất dễ nhận thấy trong chiến tranh, là khi CS tiến
đánh đến đâu, thì dân
chúng bỏ phiếu bằng chân ngay tức khắc, chạy
khỏi đó, và trốn về phía Quốc Gia hay Việt
Nam Cộng Hòa. Năm
1954, sau hiệp định Genève
(20-7-1954), khoảng một triệu người bỏ nhà cửa,
ruộng vườn di cư vào Nam. Ngày 30-4-1975, CS chiếm
Nam Việt Nam, thì dân chúng tìm tất cả các cách trốn chạy
ra khỏi nước.
Tuy chiến thắng ngày 30-4-1975, thống
nhất lãnh thổ, nhưng CS không thống nhất được
lòng dân và chủ nghĩa CS không chiến thắng được
văn hóa miền Nam. Nói cách
khác, do hoàn cảnh quốc tế, CS đã chiến thắng
Việt Nam Cộng Hòa, nhưng CS không thể tiêu diệt được
tinh thần Việt Nam Cộng Hòa.
Bằng chứng là sau năm 1975, người Bắc
vào Nam học theo văn hóa miền Nam, đọc sách miền
Nam, nghe nhạc miền Nam, ăn bận theo kiểu người
Nam, chở hàng từ Nam ra Bắc, nghĩa là miền Bắc
được Nam hóa. Cách đây 10 ngày, một trung niên người
Sài Gòn sinh trong thập niên 90 (dưới 30 tuổi), lớn
lên dưới chế độ CS, đã trả lời đài
RFA rằng: "Gọi
là giải phóng miền Nam thì không hợp lý vì không thể
nào một thằng nghèo đi giải phóng một thằng
giàu.” (RFA, ngày 20-7-2017)
Sau năm 1975, CS đổi quốc
hiệu là “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam”. Đây
là một cuộc áp đặt trắng trợn vì đại
đa số dân chúng Việt Nam không theo
CS. Số đảng
viên CS từ trước đến nay luôn luôn dưới
10% tổng dân số Việt Nam.
Cho đến nay, tức hơn bốn
mươi năm sau ngày 30-4-1975, đảng CS vẫn không
thay đổi bản chất độc tài, đảng trị,
toàn trị. Ngày nay, nguyên tắc nầy được đảng
CS thể hiện công khai bằng điều 4 hiến pháp
rất nổi tiếng mà hầu như ai cũng biết.
Để
có thể đứng vững, sau năm 1975, CSVN dựa vào Liên
Xô cho đến năm 1990. Khi Liên Xô sụp đổ, CSVN thần phục Trung
Cộng. Cho
đến nay, chưa ai
biết nội dung hội nghị Thành Đô (Trung Hoa), trong
hai ngày 3 và 4-9-1990 giữa CSVN với Trung Cộng. Chỉ biết sau hội nghị nầy, CSVN nhục
nhã ký hai hiệp ước liên tiếp: 1) Hiệp
ước về biên giới trên đất liền Việt
Nam - Trung Quốc ngày 30-12-1999, nhượng cho Trung Cộng
ải Nam Quan, một nửa thác Bản Giốc, một số
diện tích đất biên giới.
2) Hiệp ước phân
định lãnh hải ngày 25-12-2000, mất vào tay Trung Cộng 10,000 km2 mặt biển Vịnh
Bắc Việt.
Về kinh tế, cũng sau ngày
30-4-1975, do chính sách kinh tế chỉ huy, Việt Nam càng ngày
càng suy sụp. Sợ
nội loạn xảy ra, tuy vẫn cương quyết giữ
vững nguyên tắc độc quyền chính trị,
nhưng từ năm 1985, CS bắt đầu thay đổi
về kinh tế, hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Do CS mới ứng dụng
kinh tế thị trường, cơ chế lỏng lẻo,
các doanh nghiệp nhà nước (công ty quốc doanh)
được ưu đãi, vay vốn ngân hàng nhà nước
dễ dàng, tài sản chung không ai quý. Nạn tham nhũng
bùng nổ mạnh mẽ.
Cán bộ CS cấu kết với nhau thành những
nhóm lợi ích trong chính quyền, liên hệ đến các thế
lực chính trị. Những
nhóm lợi ích nầy va chạm nhau, tranh
ăn hối lộ, tranh chấp quyền lợi,
đưa đến chia rẽ trong nội bộ CSVN.
Tham nhũng tràn lan
từ lớn đến nhỏ, từ trên xuống dưới,
trong tất cả các ngành của nhà nước, nặng nhứt
là ngành công an, nhà đất, hải quan. Tham nhũng chẳng những
cướp nhà, cướp đất, mà còn bán đất
cho ngoại bang, tạo ra những tệ nạn khủng
khiếp như vụ bauxite ở Cao nguyên Trung phần, và
nhất là vụ Formosa gây ô nhiễm độc hại về
lâu về dài, làm cho dân chúng điêu đứng.
Cộng sản thường tự
hào là đã mở các cuộc cải cách ruộng đất
để chia đất cho người nghèo. Ngày nay, CS cướp
đất của người nghèo, bán cho công ty nước
ngoài hay cho công ty nước ngoài thuê dài hạn, dài hơn cả
thời
hạn cho nông dân thuê đất. Dân chúng bị cướp nhà,
cướp đất, mất
hết đất đai mưu sinh,
nên liều chết tranh đấu bảo vệ đất,
khiếu nại, kiện tụng hằng ngày, tạo thành
phong trào dân oan trên toàn quốc.
Tiếp xúc với cử tri quận
4 TpHCM (tức Sài Gòn cũ) ngày 3-12-2014, Trương Tấn
Sang (chủ tịch nhà nước CS 2011-2016) phát biểu: “Hiện tham nhũng không còn đứng
riêng lẻ, mà trở thành bè cánh bao che cho nhau.”
Nguyễn Phú Trọng (tổng bí thử
đảng CS từ 2011) ví von tham nhũng là giặc nội
xâm, và đã phát biểu như sau khi tiếp xúc với cử
tri quận Ba Đình, Hà Nội ngày 17-10-2016: “Chống ngoại xâm đã khó, chống
nội xâm càng khó hơn vì là ta đánh vào ta.” (BBC tiếng Việt
ngày 17-10-2016.) Ta đánh
vào ta thì lấy ai phục vụ chế độ? Đảng CS bèn thả
lỏng tham nhũng để cùng nhau bảo vệ chế
độ CS.
Đặc
biệt, khi nhìn lại chế độ CS hiện nay, Nguyễn
Phú Trọng đã
thốt lên ngày 23-10-2013 tại quốc hội Hà Nội,
nhân thảo luận về việc sửa đổi hiến
pháp năm 1992: “Đến hết
thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội
hoàn thiện ở Việt Nam chưa?” (Các
báo Internet ngày 24-10-2013.) Sao ngụy vậy?
Không hoàn thiện được, sao buộc dân Việt
phải theo?
Trong khi đó, nhờ internet, nhờ
thông tin, sách vở từ nước ngoài tràn vào, dân chúng
càng ngày càng thấy rõ bản chất gian tham của CS. Từ đó dân chúng khinh thường
cán bộ CS, không còn sợ sệt CS như trước nữa. Cách đây hơn 40
năm, không ai có thể tưởng tượng nổi là
có những cuộc biểu tình hàng chục ngàn người
chống đối CS.
Cũng không ai có thể tưởng tượng hàng
ngày, người dân công khai nguyền rủa chế độ,
cán bộ, công an khắp nước, được
đưa lên Internet hoặc face book, You tube…
5.- QUAN ĐIỂM CỦA DÂN CHÚNG
Sau những kinh nghiệm lịch sử
và sau những kinh nhiệm bản thân, dân chúng Việt Nam
ngày nay đã nhận định rõ ràng ai là chính thống, ai
là ngụy quyền. Nhận
định nầy gồm hai phần:
a) Thứ
nhứt, dân chúng bất mãn đối với chế độ
CS: Hiện nay, ngày nào cũng
có những cuộc biểu tình, kiện tụng, phản
đối từ thành phố đến nông thôn trên toàn quốc. Các biểu ngữ trong các cuộc
biểu tình thật đầy đủ ý nghĩa: “Đảng
CSVN 1 tập đoàn tội đồ có tổ chức. Mục đích chỉ
là để áp bức bóc lột hút máu dân Việt.” Hoặc “Đảng Cộng sản, còn chế độ công an trị dân ta còn mất hết quyền làm
người.”
Sinh viên Lê Trung Thành đã viết:
"Các anh ơi! Các chị
ơi! Các mẹ ơi! Còn cờ
đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập, tự
do, hạnh phúc.” (đăng trên các web
site13-03-2009.) Càng ngày, các cuộc
biểu tình càng mạnh mẽ, như vụ Fomosa ở Ha
Tĩnh, vụ xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức
ở Hà Nội.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ
đơn sơ về việc đánh
giá của quần chúng
đối với chế độ CS. Còn một kho tài liệu lớn lao chưa được đề cập
đến trong bài nầy. Đó
là sách báo, hồi ký của những nhà văn, những cán bộ
hưu trí, từng một thời theo CS,
mà “Đến già mới chợt
tỉnh”. (Tên
tác phẩm của Tống Văn Công). Ví dụ Dương Thu
Hương, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Bùi Tín, Vũ
Thư Hiên …
b) Thứ
hai, phản ứng tâm lý tự nhiên của người dân là
càng chống đối CS thì càng nhớ lại chế độ
trước CS, tức Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Những người lớn tuổi
đã từng sống dưới thời VNCH thì tiếc nuối
một thời tự do dân chủ đã qua. Dân chúng Bắc Việt Nam và giới
trẻ trên toàn quốc sinh sau năm 1975, chưa biết về
VNCH, nhưng nhờ Internet, nên có cơ hội tìm hiểu
VNCH, so sánh với chế độ CS, thì họ mới nhận
chân được giá trị của VNCH. Thế là VNCH bắt
đầu sống lại trong lòng dân chúng.
Từ đó, khắp nước
Việt Nam, kể cả Hà Nội và các tỉnh Bắc Việt
Nam, xuất hiện lá Cờ vàng ba sọc đỏ, biểu
tượng của Việt Nam Cộng Hòa, tung bay trong các buổi
lễ tưởng niệm, trong các cuộc biểu
tình. Cả những bản hùng ca, những
bản nhạc vàng VNCH, được
hát vang trong các cuộc tập họp đông người,
ngay cả trên đường phố Hà Nội. Đây chính là biểu
hiện ước mơ thầm kín của dân chúng trong nước,
mong đất nước được sống như thời
VNCH thuở trước. Tự do, dân chủ, tự hào dân
tộc, cương quyết bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ. Ước
mơ nầy chính là ý dân, lòng dân.
Một người dân Hà Nội đã
viết: “Người ta gọi
các anh là “quân ngụy”,/ Bởi các anh là lính Việt Nam Cộng
Hòa./ Nhưng tôi gọi các anh là liệt sĩ,/ Bởi các
anh ngả xuống vì Hoàng Sa.” (http://phanduykha.wordpress.com,
Phan Duy Kha, “Sẽ có một ngày lấy lại Hoàng Sa”, 14-1-2014.)
Sinh viên Nguyễn Viết Dũng,
người Nghệ An, học đại
học Hà Nội, bị bắt trong cuộc biểu tình ở
hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội) vì anh bận áo quần quân
nhân VNCH. Sau 15 tháng tù giam, ngay
khi bước ra khỏi nhà tù, Dũng bận áo trắng,
trên ngực mang cờ Việt Nam Cộng Hòa, trên tay xăm
hai chữ SÁT CỘNG.
KẾT LUẬN
Nếu muốn viết đầy
đủ vấn đề chính thống hay ngụy quyền
ở Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua, thì có thể
cả một quyển sách cũng chưa đủ, nhưng
ở đây thời gian không cho phép, nên bài nầy chỉ phác
thảo sơ lược những nét chính của vấn
đề.
Vấn đề chính thống hay
ngụy quyền không phải tự biên tự diễn
như CS mà được. Cộng sản chỉ giỏi to miệng tự
đề cao và to miệng vu khống người
khác. Việc thẩm định
chính thống và ngụy quyền sẽ do lịch sử
phán xét, dựa trên nền tảng dân ý. “Trăm năm bia đá thì mòn,/Ngàn
năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” Bia miệng
chính là dân ý lưu truyền qua hàng ngàn năm lịch sử.
Dân ý ở trong nước hiện
nay như thế nào thì mọi người đều
đã biết, khi các cuộc biểu tình đòi quyền sống,
đòi tự do dân chủ, đòi dân quyền và nhân quyền,
chống Trung Cộng, phản đối chế độ
CS, hằng ngày được phổ biến lan tràn trên
Internet.
Những biểu ngữ, những
khẩu hiệu của dân chúng cho thấy cộng sản
chỉ là một chế độ hành dân, hại dân và phản dân. Điều nầy
không có gì là lạ, vì chế độ CS dựa trên chủ
thuyết Mác-Lê, mà ngày nay, ai cũng biết chủ thuyết
Mác-Lê chỉ là một ngụy thuyết. Ngụy thuyết Mác-Lê sinh ra ngụy đảng CS và ngụy quyền CS.
Ngược
lại, cũng trong các cuộc biểu tình,
các lễ tưởng niệm, các cuộc tụ họp của
dân chúng, ý dân, lòng dân được thể hiện qua sự
xuất hiện của lá Cờ vàng ba sọc đỏ, biểu
tượng của Việt Nam Cộng Hòa, hiện đang
bị CS cấm đoán. Cấm đoán thì cấm đoán, nhưng làm sao cấm
được ý dân, ngăn được lòng dân.
Vì nhiều lý do phức tạp, Việt
Nam Cộng Hòa đã thất bại trong cuộc chiến vừa
qua, nhưng sau cơn gió bụi trong thời chiến làm mờ
mịt thức mây, ngày nay mọi người đều sáng
mắt ra, mới hiểu ra vấn đề, và ước
mơ Việt Nam Cộng Hòa trở lại. Việt Nam Cộng Hòa tuy chưa
hoàn hảo, nhưng nhân bản, dân chủ, tam quyền phân
lập rõ ràng, cương quyết bảo vệ lãnh thổ,
chống ngoại xâm. (Ở Việt Nam có chuyện tiếu
lâm là mấy ông thầy bói mù cũng sáng mắt ra sau năm
1975.)
Ý
dân, lòng dân là nền tảng để lịch sử phán xét.
Với nền tảng ý dân và lòng dân hiện nay như
thế, rõ ràng Việt Nam Cộng Hòa mới đúng là chế
độ chính thống trong cuộc chiến vừa qua. Lòng dân ước mơ,
lòng dân mong đợi, thì trước sau gì Việt Nam Cộng
Hòa cũng sẽ có ngày trở lại.
Hiện tình rối loạn trong nước
cho thấy ngày đó sẽ không xa.
TRẦN GIA PHỤNG
(Montreal, 30-4-2017)
Nguồn: http://www.phanchautrinhdanang.org/chinhthong.html