Giọt Máu Rơi Của Người Lính Chết Trẻ -nay là bác sĩ giải phẫu tim mạch tại Hoa Kỳ. Câu chuyện thật !
Trần Công Minh, người xạ thủ trực thăng chết trẻ trong chuyến bay bị bắn rơi tại Hạ Lào năm 1971. (Hình: Gia đình cung cấp)
Vào ngày thứ ba của cuộc hành quân 719 Lam Sơn (10 Tháng Hai, 1971), một
trực thăng UH-1 Huey của VNCH bị bắn rơi tại Hạ Lào. Tất cả những người
có mặt trên chuyến bay này đều bị tử nạn, gồm Ðại Tá Cao Khắc Nhật
trưởng phòng 3, Trung Tá Phạm Vi, trưởng phòng 4 thuộc Bộ Tư Lệnh Quân
Ðoàn 1, hai phi công là Trung Úy Nguyễn Diếu, Trung Úy Tạ Hòa và hai
nhân viên phi hành đoàn là T.S. Cơ Khí Nguyễn Hoàng Anh, H.S. Xạ Thủ
Trần Công Minh thuộc Không Ðoàn 41-Phi Ðoàn 213-Sư Ðoàn 1 Không Quân
đóng tại Ðà Nẵng.
Người Lính Chết Trẻ
Câu chuyện thật - rất hay!
Với 14 bài viết trong năm, trong đó có bài "Chú Lính Mỹ" tác giả đã nhận
giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà là một nhà giáo, định cư tại Mỹ
theo diện HO năm 1991, hiện là cư dân Westminster, California. Bài viết
mới nhất của Phùng Annie Kim là câu chuyện hơn 40 năm sau của chiếc trực
thăng U-H1 bị bắn rơi trong cuộc hành quân Hạ Lào năm 1971. Sự việc,
khung cảnh chuyện kể là có thật nhưng danh tính nhân vật trong truyện
do tác giả hư cấu.
1.
Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm ấm, thân
thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với cái tuổi
tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới xảy ra
như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết liệt không
chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng nay, có một
chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng cháu nội
bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp lễ Giáng
sinh.
Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào. Bà cầm quyển lịch
trong tay đếm từng ngày. Còn hơn một tháng nữa. Sao mà lâu quá! Bà bảo
Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa soạn nhà cửa để đón
thằng nhỏ.
Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể
cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ vanh vách các chuyện gia đình xa xưa
thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có
bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện xưa, bà kể lan man hàng giờ không
dứt và không sót chi tiết nào. Bà thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành
đi cúng chùa, bà đếm chính xác và biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn
cô con gái may cái túi lớn phía trước trong áo lót, bà cất tiền và gài
kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển, bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng
không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà không cần đánh thức các con, tự đi
restroom trong căn phòng lớn gần giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít
thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi ngày trong khu townhouse. Bà còn xỏ kim
được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà còn nghe rõ người khác chuyện trò. Mỗi
đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Thì giờ của bà hầu hết là những
thời công phu sớm tối trước bàn thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, thì
thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn vàng trong căn phòng ngủ chung quanh trang
trí toàn là hình, tượng Phật.
Hơn mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà
xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc
màu lam. Các con gọi bà bằng "Cô Diệu" thay vì gọi bằng "Má".
Trong bốn cái cửa "sinh, lão, bệnh, tử" của cuộc đời ai cũng phải trải
qua, bà Tư đã vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai
hỏi bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh gì ngoài bệnh
của người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày một yếu đi như ngọn đèn
dầu, hết dầu thì đèn tắt.
Còn cái cửa "tử" cuối cùng? Bà đang chuẩn bị đấy thôi. Ngoài tám mươi
rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết
không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt giường khổ cho cái thân già
và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói với các con bà chuẩn bị sẵn
cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại thằng cháu nội sau bốn mươi
năm trăn trở vì nó, bà như được hồi sinh. Bà vui nên càng ngày trông bà
càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ chồng thằng Quyền lấy nhau bốn
mươi năm không có con, thằng cháu nội đích tôn lưu lạc này như cục vàng
quý đối với bà, mang đến tuổi già của bà cả một mùa xuân.
Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời khổ cực của bà trong sáu
mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo cục Quân nhu thuộc bộ
Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con ăn học, cả nhà sống
nhờ vào lò bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy sớm làm bún. Ông Tư và
các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm, vừa chạy Honda bỏ mối
bún ở chợ và các quán ăn ở Sài gòn. Thời chiến tranh leo thang, luật
tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một chiến thuật ngành quân
vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà nẵng nộp đơn vào sư đoàn
một không quân phục vụ ngành an ninh và phòng thủ phi trường. Đêm đêm,
bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con đi lính xa nhà thoát khỏi
cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.
Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe của Quyền rơi vào ổ
phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân, được xếp vào loại
tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng vì Quyền vừa thoát được bàn tay tử
thần, được chuyển vào Sài gòn cũng là lúc một nỗi lo khác lại đến.
Quang tình nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở thành xạ thủ trực
thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu Phượng, cô y tá nổi
tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối tình này đã đơm hoa kết
trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.
Sáng ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ
Lào, gia đình bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi
hành đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể tìm được
xác..
Tin con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính
thức và tiền tử tuất của Quang, lòng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi
niềm hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang còn sống sót và sẽ trở về.
Quang là một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra
khỏi máy bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó
còn sống và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết
đâu chừng nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không
tìm được đường về với gia đình. Bà đi tìm người giúp bà câu trả lời. Bà
đi xem bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang còn sống. Số nó đào hoa
nếu lấy vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và
hy vọng mỏi mòn với ba chữ "biết đâu chừng"...
Sau khi mất nước, bà Tư nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Hòa
được chính phủ Hà nội thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù
binh. Quyền nói với bà Tư làm gì có chuyện thả tù binh trong khi hàng
trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, các viên chức chế độ cũ
gọi chung là "ngụy quân", "ngụy quyền" bị kẹt lại, phải ra trình diện
và bị giam giữ ở các trại tập trung để "học tập cải tạo". Quyền may mắn
là hạ sĩ quan đã giải ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư
lại phải lê lết trong các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.
Tin đứa con tử trận chưa làm ráo nước mắt bà mẹ thì hai năm sau ông Tư
mất vì tai biến mạch máu não. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và
lớn lên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một
chín bảy tám, mặc dù có hai anh đi lính và tử trận dưới chế độ "Mỹ
ngụy", nhà nước Cộng sản vẫn bắt con "ngụy" không đủ tiêu chuẩn vào đại
học được "ưu tiên" thi hành nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia.
Bà khóc hết nước mắt. Bà tính đường lui, trở về quê ở Gò công cho thằng
Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ mạng lưới công an ở các xã, huyện còn dầy
đặc hơn thành phố. Bà bị công an địa phương bắt giam trong trại tù cải
tạo lao động thời hạn hai năm vì tội không thi hành luật pháp và cố tình
bao che cho tội phạm.
Nếu bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh
cái mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao
động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra trình diện. Thời
đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và
Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng
nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết gì về súng ống
trận mạc, không biết gì về chiến tranh, không có chút lý tưởng gì về tổ
quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học nhưng thất bại, bà
mẹ đang ở tù, Quốc chấp nhận trình diện, lên đường ra trận để bà mẹ già
được tha về sớm.
Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị thương về phép, kể lại cho
gia đình bà Tư về cái chết của Quốc. Trong một chuyến vượt sông Mekong
qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong Cham, chưa kịp tiến vào Phnom
Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7 của Quốc đã đụng độ một trận
lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn sống sót một
người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn được chôn cất ở nghĩa trang
liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử gửi về. Cuối năm giấy chứng
nhận là gia đình liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư được ủy ban nhân dân truy
tặng là "mẹ chiến sĩ", "mẹ anh hùng".
Hàng năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân
dân đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đình liệt sĩ như bà.
Bà treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ hình
cờ đỏ sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ
như thế cho đến ngày bà qua Mỹ.
Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những giọt nước mắt vì mất mát. Bà chỉ
là một bà mẹ Việt nam bình thường, nghèo khổ, ít học. Bà không biết gì
về các từ ngữ chính trị dao to búa lớn như lý tưởng, tổ quốc, ý thức hệ,
cộng sản, tư bản, cộng hòa xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc,
liệt sĩ, anh hùng, hy sinh... Bà chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn
nhân chịu nhiều nỗi đau thương trong chiến tranh. Chiến tranh đã làm một
đứa con bà bị tàn phế, tật nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà,
một đứa gửi nắm xương tàn trên chiến trường Hạ Lào xa xôi còn một đứa
được vinh danh là liệt sĩ.
Trước khi đi Mỹ, Long đưa gia đình bà đã đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây
Ninh thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội,
ướt át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh
nhau thành một vòng tròn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi
người đều bình đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng,
xây cùng một kiểu. Dòng chữ màu vàng khắc trên mộ bia "Nơi an nghỉ của
liệt sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm
một chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia".
Năm một ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đình bên vợ
bảo lãnh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lãnh cho bà Tư và Quyên. Quyền
muốn bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:
-Thôi con ơi, thằng Quốc đã nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hãy để
nó yên nghỉ ở quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo
nhưng nó vẫn gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.
Rồi bà ngậm ngùi:
- Cô chỉ còn một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một
dấu tích gì về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt thì làm sao biết
được. Không chừng nó còn sống, không chừng gì đắp cho nó một nấm mộ.
2.
Sau một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó
khăn phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô "care giver" đến chăm sóc
sức khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một
cô khác đến làm vật lý trị liệu cho cái chân bên phải đã hồi phục dần.
Căn nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đã dọn về Cali từ
lâu. Bà mẹ Phượng mất đã năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly
dị vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm
ngoái, lễ Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau,
không về được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào
dịp lễ Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không còn bao nhiêu năm
nữa.
Từ ngày tìm được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với
gia đình bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà
cháu nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi
nhờ sống gần bà ngoại từ bé.
Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ.
Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong
một buổi tiệc của sư đoàn hai không quân tổ chức tại câu lạc bộ trong
phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau. Quang vừa đẹp trai lại tài hoa,
biết chơi đàn guitar, hát rất hay những bản nhạc về lính của nhạc sĩ
Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ
lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào Sài Gòn ra mắt gia đình Quang.
Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn súng và trở thành người xạ thủ
gan lì và dũng mãnh của không đoàn 41, phi đòan 213. Những cuộc hẹn hò ở
bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo
tàng Chàm ở Mỹ Sơn...đưa đến kết quả là Phượng có thai.
Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang thì một hôm, người bạn trong phi
đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719 Lam Sơn tại Hạ Lào ngày
mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt, chiếc trực thăng U-H1
Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong chuyến bay gồm hai vị
sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ, một phóng viên Nhật, một
phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành đoàn trong đó có trung sĩ
thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một người đều tử trận.
Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ tung trước mắt Phượng.
Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng bầu ba tháng. Không có
một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức gì liên quan với gia
đình Quang ở Sài gòn. Quang chết thật bất ngờ. Quang chết ở lứa tuổi đôi
mươi. Quang chết không để lại một dấu tích gì ngay cả một hạt bụi.
Phượng chỉ còn giữ lại những kỷ niệm đẹp của một thời yêu nhau còn lưu
lại trong ký ức và qua những bức hình hẹn hò xưa cũ.
Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ mình không còn sức để giữ
cái thai, "giọt máu rơi của người lính chết trẻ". Quang đi qua cuộc đời
Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo Quang nhưng
nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong bụng mình,
Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có lúc Phượng
muốn bỏ cái thai vì dư luận xã hội, vì tương lai của người mẹ trẻ nhưng
đứa bé kia có tội tình gì. Nó là mật ngọt của hương vị tình yêu đã đơm
hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa trẻ mồ côi
mất tình thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, vì con.
Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai chờ đến ngày
sinh nở. Kinh tế gia đình trông mong vào cửa hàng bán thực phẩm lấy từ
các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đã có bà ngoại.
Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà ngoại và dì
Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống Quang. Phượng đặt
tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người Chàm, một thắng
cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba ngày phép với
Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng hình trong bụng Phượng.
Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi con cho bà ngoại
để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn liếng sinh ngữ khá
và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới thiệu vào làm tại
bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh Mỹ từ chiến trường
chuyển về.
Những ngày đầu tiên chứng kiến những chiếc trực thăng đậu ở sân trước
bệnh viện, những nhân viên tải thương vội vã chuyển những chiếc cáng phủ
lá cờ Mỹ từ trên trực thăng xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào
vĩnh biệt, Phượng không cầm được nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng
hay cho những người vợ, những ông bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một
ngày nào đó sẽ nhận những chiếc quan tài phủ lá cờ Mỹ?
Còn Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có "hạt bụi nào..." hay chiếc "...hòm gỗ cài hoa" nào cho anh?
Phượng quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và
căng thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học
hỏi, Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn
và dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc
biệt lưu ý và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông.
Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp
kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của mình. Phượng biết thêm về đời
tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ
giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết vì tai nạn xe hơi,
ông tình nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ vì hết hợp
đồng. Với chính sách "Việt nam hóa chiến tranh" và Hiệp Định Paris sắp
ký kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.
Vào một đêm trực chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đã
suýt bật khóc vì cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác
sĩ này thố lộ đã để ý đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền hòa
này trong những ca mổ. Ông tình cờ chứng kiến hình ảnh Phượng chăm sóc
những người thương binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn
thành công việc mà thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái
tim của mình. Cô chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ
trong từng mũi kim nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an
ủi dịu dàng, từng cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ
trong bệnh viện Hải Quân này đều quý mến cô y tá người Việt có cái tên
Mỹ Sophie dễ thương này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng
Phượng cũng là lính. Cô thương những người lính như thương Quang, thương
bản thân và thương cuộc đời bất hạnh của mình.
Phượng chấp nhận lời cầu hôn của Daniel với một điều kiện Daniel bảo
lãnh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm phòng ở
đường North Smith, Minnesota là tổ ấm của gia đình Phượng. Chị Phương
vừa đi học vừa đi làm một thời gian, sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm
ăn với người yêu cũ. Phượng đi học lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom
nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn
càng lớn càng quấn quít Daniel. Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui
tính. Daniel rất thương thằng con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương
học tập và chỉ dạy của ông bố dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành
bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm
trôi qua, cái chết thảm khốc của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng
dần dần phôi pha theo thời gian nhờ vào tình yêu, sự bao dung và lòng tử
tế của người chồng Mỹ tốt bụng đã cưu mang gia đình Phượng, mang đến
cho Phượng một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc.
Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:
- Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy bình tĩnh nghe đừng có xỉu nghen.
Tao vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi
xửa hồi xưa. Có tấm hình thằng Quang chụp hồi còn trẻ. Mày tin không,
má thằng Quang còn sống. Gia đình thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần
tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt
cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài
dòng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai
mầy nhận được. Bình tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu còn đó. Khoan nói cho
thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi mình tính.
Suốt đêm qua Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành
của bưu điện. Người đưa thư trao bì thư hình con én màu xanh và yêu cầu
Phượng ký tên.Tay Phượng run run khi cầm cây viết.Cầm tờ báo trong tay,
Phượng lật tới, lật lui, tìm mãi mới thấy cột báo. Tấm hình Quang hồi
hai mươi tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai
vệ trong bộ treillis, túi áo trái có in tên "Quang" màu trắng. Bài báo
viết chi tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng
chưa hề gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở
Washington D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.
Phượng nói với Shawn Phượng về Cali thăm dì Phương. Hai chị em đến tòa
soạn gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu
tiên, cả nhà bà Tư nhìn Phượng với cặp mắt tò mò, xa lạ và nghi ngờ. Bà
Tư, vợ chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn
bốn mươi năm đến gia đình bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang
có một đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi
qua trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng
của mọi người. Khi Phượng đem tất cả hình ảnh của Quang và Phượng chụp
hồi còn trẻ ở Đà nẵng, hình thằng Sơn hồi còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp
ra trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm hình Quyền cung cấp cho người
phóng viên đăng trên báo so với tấm hình ố vàng Phượng cầm trong tay là
một, bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh
phúc dâng trào trong lòng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường
xuyên gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về
giới thiệu thằng cháu đích tôn của dòng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về
Cali. Năm nay, thằng Shawn về một mình thăm bà nội
3.
Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.
Tôi tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên "Shawn" có nghĩa là "God is
gracious ". Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy.
"Shawn" nghe giống như tên "Sơn", Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói "Mỹ" có nghĩa
là đẹp, "Sơn"có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói
Daddy chỉ là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi còn trong bụng
mẹ. Daddy đưa mẹ, bà ngoại, dì Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn
lớn. Tôi theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi
học nghề này để sau này chữa tim cho mọi người.
Sau chuyến đi Cali thăm dì Phương, mẹ kể rằng mẹ đã gặp gia đình bà nội ở
Cali qua một tờ báo Việt ngữ. Trong chương trình POW (prisoners of war)
và MIA (missing in action) tìm hài cốt của những người Mỹ mất tích thời
chiến tranh Việt nam, họ đã tìm được những dấu tích về cái chết của ba
tôi. Hiện nay, chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington
D.C. Mẹ đọc bài báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ,
tôi hiểu rằng tôi phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội,
người đàn bà đã khóc nhiều về cái chết của ba tôi.
Từ Cali về, tôi tìm đọc những tài liệu về POW, MIA, những bài viết của
các ký giả trong chuyến đào bới tìm dấu tích của chiếc trực thăng lâm
nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng
niệm và vinh danh những người bị mất tích tổ chức ngày mười tháng tám
năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng Newseum.
Bài viết của ký giả Richard Pyle viết về buổi lễ và những người tham dự.
Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những đứa con đến từ Việt
nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm "plaque", đầm đìa những giọt nước
mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh những người thân của
họ đã hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được nhắc đến. Gia đình bà
nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức buổi tưởng niệm này
đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đình trung sĩ xạ thủ Trần Vinh Quang
đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ thủ Trần Vinh Quang là
một công dân Mỹ, tìm được tông tích của bà nội và ba tôi năm ngoái trong
một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?
Sau khi thăm bà nội ở Cali, tôi đã đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở
Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người ký
giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đã đọc thấy tên tuổi và hình ảnh họ được
gắn trên bức tường kính gọi là "Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam
War". Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh
những ký giả Mỹ và những ký giả quốc tế đã hy sinh trong khi thi hành
nhiệm vụ. Điều gì đã khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê
nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi
nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có "big shot" là những tấm hình ý
nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến
những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đã làm công việc đầy
tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ
và thầm lặng này.
Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể về ba tôi. Bà có tài kể
chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không ngờ bà nhớ nhiều kỷ
niệm về ba tôi đến thế. Hình như trong ba người con trai, ba tôi là đứa
con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng cũng là đứa con bà
thương nhất. Ba tình nguyện chuyển ngành an ninh sang học bắn súng để ra
tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn lựa kinh khủng và
ngu xuẩn làm bà đau lòng. Bà không muốn mất con.
Điều gì khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhã ở hậu
phương với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lý tưởng? Tổ
quốc ? Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đã cho
tôi nguồn cảm hứng muốn tìm hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến
tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lãng. Tôi lớn lên
ở xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và
ước mơ.
Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ quân sự
thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín năm mươi
lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi mất, lúc đó
tôi còn trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng làm sao!
Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp tìm hiểu về chiến
tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai
thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm. Ở miền
nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bên kia dòng
sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà là một:
Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Trải qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là
"chiến tranh đặc biệt" (1960-1965) "chiến tranh cục bộ" (1965-1968)
"Việt nam hóa chiến tranh" (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một
chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào
tay Cộng sản.
"Việt nam hóa chiến tranh" có thể hiểu đây là cuộc chiến của người Việt
nam.Có người nói người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và đồng minh. Họ rút lui,
không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự. Họ chỉ viện trợ vũ khí.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực chiến đấu. Theo lời mẹ kể, với
lý tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và lòng yêu nước chân thành, ba
tôi tình nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm nguy này và biết rằng sự ra
đi không hẹn ngày về.
Vào thời điểm đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
chuyển mục tiêu sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa
làm bàn đạp tấn công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào
ngày tám tháng hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay
trực thăng H- U1 Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng
võ trang có bọc thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực
thăng vận tải vỏ thép mỏng, võ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp
chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba
tôi là tay súng giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới phòng không mạnh và
dầy đặc của địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc
cháy.
Năm 1992, những người trong chương trình POW và MIA có nhiệm vụ tìm kiếm
những người Mỹ mất tích đã đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm
1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung
cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 còn sống ở
Mỹ, họ đã định vị đúng tọa độ và đã tìm được những mảnh kính của máy
chụp hình, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đã sàng lọc
những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo
Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy
sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đình nào, nó
thuộc về lịch sử của nước Mỹ.
Món quà tôi mang về cho bà nội lần này là những hình ảnh của Viện Bảo
Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội ba tôi đã được an nghỉ ở một ngôi
nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu,
mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành lang và hàng ngày có hàng chục
ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hãy yên lòng. Con trai cứng đầu
của bà được an nghỉ ở một trong những nơi danh dự nhất của nước Mỹ. Còn
một điều nữa, bà nội hãy tin rằng với tất cả chứng cứ về liên hệ huyết
thống và hình ảnh, với sự công bằng và trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi
cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có một buổi lễ tưởng niệm cho ba
tôi. Người cuối cùng phải là người đặc biệt. "The last but not the
least". Bà nội hãy giữ sức khỏe để một ngày không xa, gia đình bà nội,
mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự buổi lễ vinh danh trung sĩ
Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và mẹ sau bốn mươi năm phải
được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.
Tôi sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa
danh lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống
đó là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ "Vietnam War Memorial" ở Westminster.
Hai người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt,
Mỹ vẫn là hình ảnh đẹp, oai hùng và ý nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy
lên chút tình cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn.
Người lính Việt Nam Cộng Hòa đó cũng chính là hình ảnh của ba tôi ngày
xưa. Ba tôi chiến đấu vì lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đã
chiến đấu vì nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối
tự do.
Năm nay tôi đã bốn mươi ba tuổi. Đã hơn nửa đời người. Không quá muộn
màng cho tôi khi tôi tìm về với cội nguồn của gia đình, quê hương và dân
tộc mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu
mợ Quyền, dì Quyên những thân tộc đã nối lại sợi dây huyết thống thiêng
liêng của dòng họ Trần. Tôi cảm nhận được tình thương quá bao la và đặc
biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ
giã cõi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, bình yên vì
theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc hình của bà trong
ngày tang lễ.
Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và dì Phương đã chăm sóc, nuôi nấng,
dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành. Những chai sữa ngọt
đầu đời là những ngày dì Phương dãi dầu mưa nắng ngoài chợ trời đem về
cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ những buổi hai bà cháu
cùng ngồi rù rì học với nhau ngoài vườn và từ những câu chuyện cổ tích
tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ tuyệt vời, tôi không có
lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đã mạnh mẽ đứng lên vượt lên trên nổi
khổ đau giữ lại cho tôi hình hài này.
Từ trong đáy lòng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ
của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đình tôi nương dựa bốn mươi năm qua.
Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, tình thương tôi có được ngày
hôm nay phát xuất từ tấm lòng nhân hậu và bao dung của ông.
Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.
Hơn bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đã quên tôi còn một người
cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm gì trong ký ức về ông vì ông đã ra đi
trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà
nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn
tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho hình ảnh Ba như sống
dậy trong lòng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung hình ảnh
ông hiện ra rõ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy tình yêu thương.
Tôi rất hãnh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng,
kiêu hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử
Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông mãi
mãi là hình ảnh đẹp nhất trong lòng tôi, giọt máu rơi của ông, người
lính chết trẻ.
Phùng Annie Kim