Skip to content
Tổng kho Long Bình: Hệ thống kho ngầm đã được mở khóa hay chưa?
Tổng kho và căn cứ Long Bình nhìn từ trên cao.
Vụ phá nổ kho đạn Long Bình ngày 30 tháng 4 năm 1976
Đỗ Như QuyênNhững gì kể ra ở đây, hôm nay, chỉ có
mục đích giải thích phần nào về các hoạt động tình báo của Mỹ sau lưng
VC thời hậu chiến, giúp làm sáng tỏ thêm những hiểu biết loáng thoáng
của một sô người chưa am tường lãnh vực này, họ không tin rằng sau 1975
tình báo Mỹ còn ngang dọc ở Việt Nam. Những gì nói ra không phải tự đề
cao cá nhân, vì nó chẳng mang lại lợi ích gì, và tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm về các chuyện được ghi ra đây. Người đọc tin hay không đối
với tôi chẳng quan trọng, vì tất cả các diễn tìến trong đời mình xảy ra
như thế nào rồi cũng sẽ được kể lại đầy đủ hơn trên giấy trắng mực đen.
Sau tháng 4/ 1975, chỉ trong vòng 5 tháng VC đã phục hồi tuyến đường xe lửa, bắt đầu tái hoạt động từ tháng 9 trên đoạn đường từ ga Sài Gòn đến ga Gia Rây thì quay trở lại ( xã Gia Rây, quận Xuân Lộc, Đông- Bắc thị xã Long Khánh khoảng 13 Km). Mục đích VC hối hả phục hồi tuyến đường này vì Sài Gòn dang khan hiếm lương thực trầm trọng, nhất là than và củi cho việc nấu nướng (cũng trong lúc này bến xe Petrus Ký ở Ngã Bảy vẫn còn duy trì, bến xe Nguyễn Hoàng gần đó cũng còn, mãi tới năm 1978 VC mói dời ra chân cầu Bình Triệu, riêng ga xe lửa Sài Gòn thì cuối năm 1976 chúng đưa ra Bình Triệu được hơn một năm thì dời về Hoà Hưng tới ngày nay, riêng đoạn đường từ Gia Rây tới Mương Mán thì hoạt động vào đầu năm 1977).
Trở lại với số cựu quân nhân nay đang sống phiêu bạt khắp Sài gòn và vùng phụ cận như Biên Hoà, Bình Thạnh, Gò Vấp vv, họ thuộc đủ các quân binh chủng, và quan trọng nhất là ai cũng mang trong lòng mối uất hận trước bọn cán bộ VC và sẵn sàng ra tay ám hại nếu có cơ hội, nếu được móc nối để đi vào rừng hoạt động họ sẽ mau mắn đi ngay. Số cựu quân nhân vưà kể chính là nguồn nhân lực cho các tổ chức chống cộng tuyển người và đưa đi các nơi. Ga Sài Gòn lúc đó mỗi ngày có hai chuyến tàu đi Gia Rây và ngược lại, chuyến 5 giờ sáng và chuyến 12 giờ trưa. Tàu đi qua các ga: Hoà Hưng (ga lớn); Phú Nhuận; Gò Vấp; Bình Lợi; Bình Triệu; Chợ Đồn; Thủ Đức; Dĩ An (ga lớn); Hố Nai; Biên Hoà; Sóng Thần; Trảng Bom; Dầu Giây; Bàu Cá; Long Khánh; Bảo Chánh; Gia Rây (ga lớn); Trảng Táo; Gia Huynh; Suối Kiết; Sông Dinh; Sông Phan; Suối Vận; Mương Mán (ga lớn). Lưu ý rằng lúc đó đoạn đường sắt từ Bảo Chánh tới Mương Mán hai bên vẫn còn rừng già dày đặc, rất thuận lợi cho việc nhảy xuống, nhảy lên tàu bất cứ chỗ nào để tẩu thoát nếu gặp nguy hiểm, dĩ nhiên phải có người tháo ống thắng giữa các toa tàu để yểm trợ.
Sau biến cố tháng 4 năm 1975, ở những vùng nông thôn hẻo lánh, gần núi rừng, đồn điền cao su vv vẫn còn vài đơn vị cấp trung đội, đại đội tiếp tục chiến đấu với VC vì vài nguyên nhân như sau: thất lạc đơn vị gốc cao hơn, không tin VC hoàn toàn chiếm hết miền Nam, không ra đầu hàng bởi không thể chấp nhận sống với cộng sản. Lực lượng này VC gọi là “tàn quân”.
Tất cả những việc nêu trên chỉ là đơn cử vài công tác nổi bật và thành công nhất mà anh em BĐQ chúng tôi đã thực hiện ngay trong lòng địch, lúc mà hầu hết các cấp sĩ quan đã vào tù cộng sản. Và tất cả đều là những nỗ lực thầm lặng, anh em đã hiến thân vì đại cuộc mà chẳng cần bằng cấp hay cấp bậc gì cả, và cũng chẳng cần phải nêu tên, xưng họ nhằm loè loẹt với người đời.
Hôm nay, bất đắc dĩ phải lên tiếng kể ra sơ sài vài chuyện, nhưng trong lòng lại đau đớn khôn nguôi vì chạnh nhớ những anh hùng vô danh đã âm thầm nằm xuống, riêng mình vẫn còn đây trong cay đắng vì đại cuộc vẫn chưa thành.
Anh hỏi tôi có biết hay không hai người bạn đã bị VC thủ tiêu vì tham gia “phục quốc” trong giai đoạn đó. Tôi không thể biết hết được danh tính những anh hùng như vậy đâu anh ơi ! Lúc đó có khá nhiều nhóm hoạt động, anh em hy sinh trong âm thầm cũng nhiều lắm, mộ phần nay cũng không biết bị vùi lấp nơi đâu. Mai sau quê hương không còn cộng sản, xin hậu thế cho các anh được thờ tự như những anh hùng thời hậu chiến với hương khói nghìn thu.
Chúc anh nhiều sức khoẻ.
BĐQ Đỗ Như Quyên.
Thay vì trả lời vào hai câu hỏi của anh, tôi cố gắng kể lại thật
tóm tắt về sự kiện các tổ chức phục quốc, tàn binh v.v từng hoạt động ở
miền Nam từ sau năm 1975 đến đầu năm 1982 mà nhiều người thường nghe
đồn, không biết thực hư ra sao. Trước khi đi vô các chi tiết, tôi sẽ
trình bày khái quát về toàn cảnh xã hội miền Nam trong 7 năm kể trên.
Điều này rất cần thiết đối với những ai lúc đó đang ở trong tù cộng sản,
đến nay vẫn còn nhiều người chưa biết rõ lúc họ đi tù thì người dân bên
ngoài sống ra sao và xã hội miền Nam có những chuyển biến gì. Người
nghe kể sau khi hình dung được toàn cảnh xã hội vào lúc đó, thì các câu
chuyện về sự kiện phục quốc, tàn quân v.v sẽ dễ hiểu và dễ chấp nhận hơn
vì nếu không được hướng dẫn trước, người nghe sẽ không thể tưởng tượng
nổi làm sao các hoạt động chống phá cộng sản vẫn tồn tại lúc VC có mặt
khắp nơi.
Sau khi VC chiếm miến Nam năm đầu, có một chi tiết ít ai để ý là sự
xáo trộn về cư trú trong xã hội, tầm mức của nó rất lớn và rất quan
trọng mà VC không thể kiểm soát hết được. Những người chạy tản cư trước
kia nay lũ lượt tìm về quê, nhưng cũng có nhiều người không trở về vì sợ
VC ở địa phương trả thù, số này chấp nhận sống lang bạt và giấu kín quá
khứ của mình. Bên cạnh đó còn có nhiều gia đình tứ tán khắp nơi, lúc về
tới nhà thì căn nhà đã bị VC chiếm đoạt vv (lúc đó chưa có vụ “kinh tế
mới”).
Các năm 1975, 76, 77, 78 ở miền Nam có cả hàng triệu người sống bơ vơ
không nhà không cưả, ngủ đầy các công viên, bến xe, ga xe lửa vv. Bọn
VC lâu lâu nửa đêm tổ chức chận đường bố ráp bắt người và thanh lọc lý
lịch ở các nơi vừa kể, nhưng con số người sống phiêu bạt mỗi ngày thêm
nhiều. Trong số đông những người này thì phần lớn là giới cựu quân nhân,
lớp hạ sĩ quan, sĩ quan, binh sĩ trước kia phục vụ các đơn vị xa quê
quán gốc của mình, hoặc các đơn vị di tản từ Quân Khu I, Quân Khu II vào
Sài Gòn, nay họ không thể về quê vì không có tiền hoặc phương tiện, và
giấy tờ đi lại là cả chuyện khó khăn trước con mắt cú vọ của VC. Vì thế
họ chấp nhận cuộc sống lang thang để tồn tại trước, mọi việc sẽ tính sau
và phần nhiều vẫn còn nuôi hy vọng sự trở lại của Mỹ hay các đơn vị bí
mật nào đó của QLVNCH qua đủ thứ tin đồn đang tràn lan ngoài xã hội.Sau tháng 4/ 1975, chỉ trong vòng 5 tháng VC đã phục hồi tuyến đường xe lửa, bắt đầu tái hoạt động từ tháng 9 trên đoạn đường từ ga Sài Gòn đến ga Gia Rây thì quay trở lại ( xã Gia Rây, quận Xuân Lộc, Đông- Bắc thị xã Long Khánh khoảng 13 Km). Mục đích VC hối hả phục hồi tuyến đường này vì Sài Gòn dang khan hiếm lương thực trầm trọng, nhất là than và củi cho việc nấu nướng (cũng trong lúc này bến xe Petrus Ký ở Ngã Bảy vẫn còn duy trì, bến xe Nguyễn Hoàng gần đó cũng còn, mãi tới năm 1978 VC mói dời ra chân cầu Bình Triệu, riêng ga xe lửa Sài Gòn thì cuối năm 1976 chúng đưa ra Bình Triệu được hơn một năm thì dời về Hoà Hưng tới ngày nay, riêng đoạn đường từ Gia Rây tới Mương Mán thì hoạt động vào đầu năm 1977).
Trở lại với số cựu quân nhân nay đang sống phiêu bạt khắp Sài gòn và vùng phụ cận như Biên Hoà, Bình Thạnh, Gò Vấp vv, họ thuộc đủ các quân binh chủng, và quan trọng nhất là ai cũng mang trong lòng mối uất hận trước bọn cán bộ VC và sẵn sàng ra tay ám hại nếu có cơ hội, nếu được móc nối để đi vào rừng hoạt động họ sẽ mau mắn đi ngay. Số cựu quân nhân vưà kể chính là nguồn nhân lực cho các tổ chức chống cộng tuyển người và đưa đi các nơi. Ga Sài Gòn lúc đó mỗi ngày có hai chuyến tàu đi Gia Rây và ngược lại, chuyến 5 giờ sáng và chuyến 12 giờ trưa. Tàu đi qua các ga: Hoà Hưng (ga lớn); Phú Nhuận; Gò Vấp; Bình Lợi; Bình Triệu; Chợ Đồn; Thủ Đức; Dĩ An (ga lớn); Hố Nai; Biên Hoà; Sóng Thần; Trảng Bom; Dầu Giây; Bàu Cá; Long Khánh; Bảo Chánh; Gia Rây (ga lớn); Trảng Táo; Gia Huynh; Suối Kiết; Sông Dinh; Sông Phan; Suối Vận; Mương Mán (ga lớn). Lưu ý rằng lúc đó đoạn đường sắt từ Bảo Chánh tới Mương Mán hai bên vẫn còn rừng già dày đặc, rất thuận lợi cho việc nhảy xuống, nhảy lên tàu bất cứ chỗ nào để tẩu thoát nếu gặp nguy hiểm, dĩ nhiên phải có người tháo ống thắng giữa các toa tàu để yểm trợ.
Sau biến cố tháng 4 năm 1975, ở những vùng nông thôn hẻo lánh, gần núi rừng, đồn điền cao su vv vẫn còn vài đơn vị cấp trung đội, đại đội tiếp tục chiến đấu với VC vì vài nguyên nhân như sau: thất lạc đơn vị gốc cao hơn, không tin VC hoàn toàn chiếm hết miền Nam, không ra đầu hàng bởi không thể chấp nhận sống với cộng sản. Lực lượng này VC gọi là “tàn quân”.
Lực lượng thứ hai là do các tổ chức phục quốc thành lập và trang
bị, số này không nhiều và bị VC truy diệt gắt gao, VC gọi họ là các “tổ
chức phản động”.
Lực lượng thứ ba là các nhóm biệt vụ ngoại tuyến do Mỹ đã chuẩn bị
kế hoạch từ trước năm 1975, VC tìm không ra lực lượng này vì sự tổ chức
rất chặt chẽ của nó. Lực lượng vưà kể thuộc hai cơ quan khác nhau là CIA
và DIA (Cục Tình Báo Trung Ương (dân sự) và Cục Tình Báo Quốc Phòng
(quân sự). Nhân viên người Việt của biệt vụ ngoại tuyến có mặt khắp miền
Nam Việt Nam và nhóm này không thể biết các nhóm khác đang hoạt động ở
đâu, trừ khi được chỉ thị liên lạc vì nhu cầu cấp thiết.
Tôi, Đỗ Tấn Thọ (VN) tự Charlie Brown Phương (Mỹ), còn được biết là
Đỗ Như Quyên (BĐQ) hay Trịnh Hồng Phương (TNXP) là người hoạt động biệt
vụ ngoại tuyến cho một tổ chức không trực thuộc cả CIA hay DIA. Từ cuối
năm 1975 tới 1981, chúng tôi đã bắt đầu tuyển người cho các hoạt động
của mình ở phiá Nam. Tại Huế; Đà Nẵng; Quy Nhơn; Nha Trang; Phan Thiết
thì mỗi nơi có từ một đến hai người làm trưởng trạm, và họ đã được Mỹ
tuyển mộ tứ trước 1975, gài lại hoạt động tới hôm nay. Riêng tôi tuy có
trách nhiệm về hai toán Alpha (từ Phan Thiết trở ra) và Bravo (tử Long
Khánh trở vô), nhưng phải tự mình tìm người hoạt động từ Gia Rây đến Sài
Gòn; từ Bến Sỏi, Dầu Tiếng- Tây Ninh qua Đồng Xoài; Bù Na và Bù Đăng –
Phước Long. Nhân sự mà tôi tìm để tham gia vào công việc hầu hết là các
cựu Biệt Động Quân, vào những năm đầu sau 1975 anh em thường tập trung
quanh vùng Ngã Bảy, nơi có tượng đài BĐQ hoặc khu vực ga Sài Gòn. Sau
vài lần để ý, gợi chuyện nhằm thăm dò lập trường tôi sẽ đợi lúc thích
hợp nhất để nói thật với người đó về ý định của mình. Giai đoạn này anh
em rất khổ, ăn bửa đói bửa no và ngủ bên các lề đường dơ bẩn. Nay được
biết có công việc cho mình để đối đầu với cộng sản, hầu hết những người
được hỏi đều chấp nhận dấn thân mà chẳng cần nghĩ tới một tương lai đầy
bất trắc. Tôi sẽ đưa họ lên xe lửa đi Gia Rây, tại đây anh em sẽ được
phân tán gởi đi làm công nhật ở các rẫy, hoặc gởi đi theo các nhóm thợ
rừng để phụ việc. Số anh em được tuyển còn được đưa lên Tây Ninh, đưa
vào làm thợ rừng (hợp đồng) cho lâm trường Dầu Tiếng, đưa qua Đồng Xoài
đi theo những toán cạo mủ cao su…lậu vv, nói chung giúp anh em làm gì
cũng được, miễn sao có thu nhập hằng ngày và thoát ra khỏi cái thành phố
đang mỗi lúc tràn ngập dép râu và nớn cối khắp các nẻo đường.
Cũng nên biết rằng từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1976, việc tìm vài
nhân viên nồng cốt ban đầu thì do đích thân tôi đảm trách, sau đó công
việc này được giao cho những anh em bà con bên vợ của tôi làm và họ đều
là các quân nhân BĐQ thuộc các liên đoàn khác nhau. Hầu như những ai khi
nghe nói tới các toán “phục quốc”, “tàn quân” (mọi người tưởng chúng
tôi như thế) thì cứ nghĩ rằng chúng tôi chắc quanh năm suốt tháng ở
trong rừng sâu, lâu lâu mới mò ra phá VC chuyện gì đó rồi rút lẹ vô
rừng. Thật ra chúng tôi vẫn sống ở ngoài công khai, ngay giữa xóm làng
hay ngay cả tại Sài Gòn, lúc cần bàn soạn một việc gì chúng tôi giao ước
một điểm họp mặt ở trong rừng, mỗi người cứ thế vác rựa trên vai đi
riêng lẻ tới điểm hẹn. Thuở đó xe lưả từ Sài Gòn đi Gia Rây thường đông
nghẹt người. Kẻ đi buôn bán nông phẩm như khoai, bắp, đậu xanh, đậu
nành, trái cây v.v, người đi mua than, củi, dầu rái v.v và kẻ nghèo hơn
thì chỉ với một cái cưa, hoặc một cái rựa đi lên Gia Rây tìm mót củi khô
bó lại đem về Sài Gòn. Chính nhờ những đoàn tàu xô bồ hỗn độn như vậy
mà anh em chúng tôi mới dễ trà trộn vào nhằm di chuyển đến các nơi mà
mình muốn. Bởi thế mới có vụ làm nổ kho đạn ở Long Bình đúng vào ngày 30
tháng 4 năm 1976, vụ giải thoát tù nhân ở trại K-3 Gia Rây năm 1977,
(do trung tá Bảy Thích làm trưởng trại, sau đổi là Z- 30A), vụ ám sát
đại uý Tư Bông (phó trại K-3) năm 1978 ở Suối Nhỏ Gia Rây, vụ làm lật cả
một đoàn tàu chở súng đạn tại Trảng Táo năm 1978, vụ xâm nhập vào toà
nhà Cơ Yếu Trung Ương T-78 (dinh thự của chú Hoả bị tịch thu) nằm ngay
góc đường Lý Thái Tổ – Hùng Vương năm 1980 để tìm dấu vết của tù binh
Mỹ, vụ tổ chức ám sát Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng tại Dương
Minh Châu, Lòng Hồ – Dầu Tiếng năm 1981, vụ xâm nhập vô nhà tù PA- 24
năm 1982 (đường Trần Hưng Đạo) cũng để truy tầm thông tin về tù binh Mỹ
mất tích, vụ trà trộn vào “Thanh Niên Xung Phong” ở Đắc Nông 1985 và móc
nối với trung tá Nguyễn Văn Phát (Hai Phát), huyện đội trưởng Đồng Xoài
để thu thập chứng cớ về hài cốt tù binh Mỹ đang bị VC ém nhẹm, vụ tập
trung trẻ em Việt lai Mỹ về Sài gòn trong hai năm 1988- 1989 vv và vv.Tất cả những việc nêu trên chỉ là đơn cử vài công tác nổi bật và thành công nhất mà anh em BĐQ chúng tôi đã thực hiện ngay trong lòng địch, lúc mà hầu hết các cấp sĩ quan đã vào tù cộng sản. Và tất cả đều là những nỗ lực thầm lặng, anh em đã hiến thân vì đại cuộc mà chẳng cần bằng cấp hay cấp bậc gì cả, và cũng chẳng cần phải nêu tên, xưng họ nhằm loè loẹt với người đời.
Hôm nay, bất đắc dĩ phải lên tiếng kể ra sơ sài vài chuyện, nhưng trong lòng lại đau đớn khôn nguôi vì chạnh nhớ những anh hùng vô danh đã âm thầm nằm xuống, riêng mình vẫn còn đây trong cay đắng vì đại cuộc vẫn chưa thành.
Anh hỏi tôi có biết hay không hai người bạn đã bị VC thủ tiêu vì tham gia “phục quốc” trong giai đoạn đó. Tôi không thể biết hết được danh tính những anh hùng như vậy đâu anh ơi ! Lúc đó có khá nhiều nhóm hoạt động, anh em hy sinh trong âm thầm cũng nhiều lắm, mộ phần nay cũng không biết bị vùi lấp nơi đâu. Mai sau quê hương không còn cộng sản, xin hậu thế cho các anh được thờ tự như những anh hùng thời hậu chiến với hương khói nghìn thu.
Chúc anh nhiều sức khoẻ.
BĐQ Đỗ Như Quyên.
***
Sau khi VC cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, các nhu cầu thường nhật của xã hội như gạo, xăng, than, củi, thuốc tây v.v trở nên khan hiếm và đắt đỏ vô cùng. Ở đây tôi chỉ kể sơ vài thứ vì các đồ dùng này có liên đới đến câu chuyện hôm nay. Con số người dân miền Nam sau 1975 trở thành “nông dân bất đắc dĩ” đã gia tăng rất nhiều và đột ngột, vì thế nông cụ cũng không có đủ để cung ứng cho nhu cầu nông nghiệp toàn miền. Cọc sắt hình chữ V dài khoảng 2 thước thường dùng làm trụ hàng rào kẽm gai, nay dân ta có sáng kiến đem ra đập dẹp, cưa ngắn từng đọan 30 phân ( ba tấc), xẻ hai đường rãnh uốn cong lại là có một cái cuốc trong tay. Dây kẽm gai thì chặt ra làm cây đinh (tiếng lóng gọi là đinh đểu vì nó quá mềm). Ống cống cong hình chữ C của Mỹ ngày trước, ngoài công dụng làm cống còn được làm nóc hầm tại các đơn vị quân sự, nay được dân chúng đem ra xẻ dọc thành từng thanh nhỏ, uốn cong, hàn lại thì thành niền xe đạp, bao cát nhà binh thì xé sợi để đan dây đan võng, những ống nước bằng sắt nay cũng đưọc tận dụng để làm sườn xe đạp vv (không kể các thứ nguy hiểm hơn như cưa đáy viên đạn 105 ly, thợ tiện Chợ Lớn sẽ làm ra “líp” xe đạp, cạy bom bi lấy những viên bi thép cho “đùm” giữa và cổ xe đạp vv, bi mìn Claymore bằng chì không dùng được).
Lớp bộ đội VC sau khi chiếm miền Nam đã bị hớp hồn vì sự thưà mưá của cải, vật chất mà ở miền Bắc dù có nằm mơ cũng không thể thấy được, nhưng đa số bộ đội thì lại nghèo kinh niên. Nay thấy tiền nằm rỉ sét, bỏ hoang tràn lan mà họ thì lại muốn có “cái đài, cái đồng, cái đạp” (radio, đồng hồ, xe đạp) vv để đem về quê khoe mẻ nên từ binh sĩ tới sĩ quan tranh nhau vơ vét, lén lút bán cho dân đặng có tiền mua sắm. Vì thế tôi mới có dịp đi Hố Nai một chuyến.
Khoảng 8 giờ tối ngày 22/4/1976, tôi nhảy tàu xuống ga Hố Nai trên chuyến tàu đêm Gia Rây- Sài Gòn, anh M được dặn trước nên đứng đón tại sân ga. Thấy tôi anh im lặng quay lưng bước đi, tôi lặng lẽ đi theo anh một khoảng cách trong bóng tối. Sau hơn nửa giờ bước đi quanh co giữa các xóm nhà, chúng tôi bắt đầu băng qua những khu đất trồng rau, những vườn cây im lìm rồi tới một chỗ trống trải hoàn toàn, chẳng có nhà cũng chẳng có vườn và dưới chân toàn cỏ dại. Xa xa có tiếng người í ới gọi nhau, vài ánh đèn pin chập chờn lúc ẩn lúc hiện. Tôi hỏi nhỏ anh M: “Chừng nào mới tới lớp hàng rào”? Anh M thều thào trả lời: “Làm gì còn hàng rào. Chúng nó xơi cả dzồi ! Mình đã vào bên trong, bây giờ đang tìm tụi nó”.
“Đứa nào đấy”! Có tiếng người hỏi không lớn lắm cùng ánh đèn pin loé lên. “Mờ sờ. Có bờ không” (Mua sắt. Có bán không) ? Anh M đáp lại và đứng yên chờ đợi. Gã bộ đội đến gần đưa đèn pin lên soi nhìn chúng tôi: “Chúng mày chỉ có hai thằng thôi à ! Thế đếch nào khênh được nhiều”! . Anh M hỏi lại: “Vậy anh có gì nào ! Có nặng bằng xe tăng không” ?. “Bố khỉ. Đi theo tao” ! Chúng tôi lầm lũi đi theo gã bộ đội chừng 20 phút sau khi lên xuống vài ngọn đồi nhỏ, vài căn nhà “sam” mà nóc “tôn” và vách đã bị tháo mất, chỉ còn lại khung sắt đứng trơ trọi chờ tới lúc được tháo để bộ đội “phanh thây”.
Khoảng 2 giờ sáng, tôi trở lại chỗ anh M thì anh đã tháo được 15 cọc sắt và đang ăn vội một nắm xôi mang theo trong mình. Thấy tôi lấm lem cả người, anh ấy vụt cười phun cả xôi ra: “Chà ..chà, coi bộ ngắm cảnh .. đời hơi kỹ đấy! Thôi, ăn xôi đi”!
Gần 4 giờ sáng, chúng tôi xếp chia số cọc sắt làm hai bó, mỗi bó mười cây (một cọc sắt chữ V nặng khoảng 4 kg). Anh M vác một bó đi trước, tay cầm đèn pin rọi đường, tôi vác một bó theo sau và thắc mắc hỏi anh: “Mình không đưa tiền cho nó sao”?. “Không đưa sao được. Tụi nó đứng chờ ở phiá trước đó”! Hơn một giờ đi quanh co lên đồi xuống dốc, giữa một thảm cỏ với cây dại như trâm, sim, móc, duối, dang vv mọc lưa thưa và không bụi cây, lùm cỏ nào cao quá đầu người, trừ những cột điện bị dây leo bò lên phủ kín. Thỉnh thoảng chúng tôi dừng chân nghỉ năm ba phút lại vác đi tiếp ra Quốc Lộ 1 hướng Tây Bắc. Lúc vừa nhìn thấy xa xa bóng dài màu tím thẩm của những mái nhà, nóc chuông nhà thờ mờ nhạt chập chờn trong màn sương sớm, cũng là lúc tôi nhìn thấy bên phải, bên trái, sau lưng và trước mặt mình thấp thoáng nhiều bóng người cũng đang vác sắt chữ V, có người còn gánh tòn ten hai đầu với 6 cuộn kẽm gai bung (concertina), hoặc hai người khiêng ở giữa 2 ống cống cong loại 1 thước đường kính. Tất cả chúng tôi cùng tiến về một hướng, Hố Nai.
Bắt đầu có tiếng người lao xao nhiều nơi ở phiá trước, anh M dẫn tôi đi tách ngang một hướng khác cho lúc tới bên ngoài một trại nuôi bò thật lớn. Tại đây đã có bốn bộ đội đứng chờ mà trong đó chỉ một người mang súng AK 47, ba người kia tay cầm những khúc tre khô dài hơn sải tay (quả là dạn dày kinh nghiệm). Đây, đó vài ba tốp người cũng dân “cưa hàng”vừa đến.
Đứng gần đám bộ đội là một nhóm thanh niên, thiếu nữ thân quen của những kẻ đi mua đồ sắt (nói chung). Họ mang tiền ra đây chờ thấy người, thấy sắt thì mới trao tiến (dân Hố Nai mà). Lỡ đưa tiền trước lúc nửa đêm, chúng trở mặt thì sao? Có mà ngu mới tin VC! Sau khi hai bên kỳ kèo qua lại nào là sắt cong, thiếc mẻ, kẽm mòn v.v, gã bộ đội đêm qua bớt chúng tôi 5 đồng ! “Tiền trao … “sắt” múc”, hai bên vui vẻ đề huề, hẹn đêm nay, tối mai rối rít. Ba tay bộ đội mặt non choẹt hí hửng đi theo chúng tôi ra “phố”, sau khi gom lại ba cây gậy tre đưa hết cho gã mang súng với lời hưá sẽ mua món này, cái nọ cho hắn. Anh M đi đầu bước chậm lại dần sau lưng toán người phiá trước, giờ này trời Đông đã sáng hồng. Tới một con suối lớn, trong lúc tôi rưả mặt anh M nói với người thanh niên đi theo anh từ khi nãy, người này vóc dáng bằng tôi: “Chú cho anh ấy mượn tạm áo quần, lấm lem hết rồi”. Cậu thanh niên vui vẻ thay đổi quần áo với tôi rồi vác một bó sắt đi trước qua suối. Anh M giúi vào tay tôi vài tờ giấy bạc và thì thầm dặn dò: “nhảy mãi tân gô, gu ru” (ngày mai ta gặp, Gia Rây).
Phố thị Hố Nai dọc hai bên QL 1 đang khởi sự cho một ngày sống trong náo nhiệt. Người hối hả gánh gồng, kẻ lăng xăng khuân vác, tiếng máy xe lam, xe ba gác (máy) kêu vang inh ỏi. Tôi lầm lũi bước tìm đến một quán ăn bên ngoài sân ga. Một bát phở “đại liên”, một ly cà phê “cối” làm tôi tỉnh như sáo, một kế hoạch sơ khởi hiện ra trong đầu. Tiếng còi tàu văng vẳng bên tai, tôi rời quán, nhìn quanh rồi rảo bước tới một đám đông đang đứng chờ mua tấm vé mà mình chưa từng mua mỗi khi đi tàu lưả của VC.
Sau rốt, chúng tôi quyết định “hốt ổ”, và ngày gây chấn động là sáng 30 tháng 4. Việc bây giờ là tìm và gom thuốc nổ, ngòi nổ, một cái đồng hồ để chỉnh giờ. Ngoài ra, còn phải chỉ định người rành rẽ về thuốc nổ đi theo anh M tới mục tiêu đêm 29 tháng 4 năm 1976. Chúng tôi chỉ còn gần một tuần để chuẩn bị các việc đó. Vấn đề mua đồng hồ để chỉnh giờ cho khối thuốc nổ thì tôi sẽ lo liệu. Riêng việc tìm thuốc nổ, ngòi nổ vv sẽ giao cho S ở Ngã Ba Ông Đồn vì nhà anh ở gần mỏ đá Núi Le cạnh QL 1. Anh M nhận trách nhiệm tìm người đưa khối thuốc nổ vào kho đạn.
Ngày hôm sau tôi nhảy tàu Gia Rây- Sài Gòn vào chuyến buổi chiều, trên vai là một ba lô nhăn nhúm bạc màu, gói ghém một bộ áo quần và vài bịch nông phẩm khô của Long Khánh. Trong túi là phiếu đi bầu màu đỏ, có tên họ của mình, có con dấu của xã, của ban bầu cử in lên đó hàng chữ “đã đi bầu”, sau khi cả buổi sáng đứng sắp hàng trước uỷ ban xã chờ bỏ phiếu “bầu” cái “quốc hội thống nhất” bịp bợm của VC. Về tới Sài Gòn, đêm đó tôi ngồi chờ sáng cạnh một bàn cà phê bán trên vỉa hè trước rạp Long Vân, gần bùng binh Ngã Bảy (Sài Gòn vào thời điẻm này bắt đầu có nhiều nơi bày bán cà phê, nước trà thâu đêm suốt sáng trên vỉa hè, bàn ghế thấp lè tè, nhẹ hều và khách cũng ngồi thức cả đêm. Các loại “quán” cà phê kiểu đó mỗi khi bất ngờ nghe tiếng la lớn: …”CHÈO..O..O”.. thì mạnh ai nấy chạy, bàn và ghế nhờ nhỏ và nhẹ nên biến mất khỏi lề đường chỉ trong khoảnh khắc. Đám công an đi rồi thì tất cả lại như cũ).
Người ngồi nói chuyện với tôi qua đêm tại đây là chị H, vợ Chuẩn úy Thinh ở TĐ 36 BĐQ, sau ngày 30. 4 chị không có tin tức gì về anh nữa. Nhà chị H ở khu Hoà Hưng, mỗi đêm chị để hai con nhỏ ở nhà với bà ngoại rồi rủ vài người bạn gái ra Ngã Bảy làm cái nghề gọi là “gọt bã đậu” (gạt bộ đội). Nghề này nhắm vào mấy trự bộ đội thích gái miền Nam, là các chàng được đi phép về Bắc nên ra bến xe Petrus Ký mua vé xe. Sau lúc giao hành lý cho lơ xe chất lên mui, họ phải chờ tới sáng thì xe mới rời bến nên hay đi lòng vòng quanh khu Ngã Bảy để rồi gặp những cô gái “lỡ đường”, “bơ vơ” như chị H chẳng hạn. Sau khi nghe những lời than thở não lòng của mấy nàng, trung bình cứ mười bộ đội thì ít nhất cũng có một tên cắn câu, chịu giúp ít tiền nhưng với điều kiện là “phải có qua có lại”. Vậy là chàng “bã đậu” được dắt tới một gốc cây nào đó trong bóng tối để “có qua có lại”. Đúng lúc đó bỗng xuất hiện vài ba thanh niên mặt mày bặm trợn, họ nhào tới quật chàng xuống nện một trận tối tăm mày mặt, lột hết áo quần, lấy sạch tiền, ném lại giấy tờ rồi tất cả chạy biến vào bóng tối. Chàng “bã đậu” lúc hoàn hồn lại thì chỉ còn cái quần đùi, hắn hớt hơ hớt hãi nhưng không dám kêu la mà lủi thủi cắm đầu chạy tìm về chỗ xe ca mình có vé, leo lên ghế rồi mới bắt đầu ngồi vò đầu bứt tóc và chửi om xòm! Chị H thường đi cặp với một cô tên Loan cũng ở khu Hoà Hưng. Loan là bồ của Lộc Lì, một tay anh chị có máu mặt gốc BĐQ ở Cống Bà Xếp, là người đêm đêm cùng “lâu la” đứng chờ “gọt” sạch “bã đậu” nào muốn “có qua có lại” do hai cô này “câu” được (Lộc Lì có những hỗn danh khác như Lộc Liều, Lộc Lưả, thường chạy chiếc “lam bét ta” cũ mèm phun khói đen mù mịt, máy nổ đinh tai nhức óc khắp khu Hoà Hưng. Năm 1986, Lộc Lì gặp lại tôi ở Ngã Ba Cây Chanh gần Bù Đăng, nơi hoạt động của “Liên Đội Thanh Niên Xung Phong quận Ba”, anh ta bị “cá” hốt đưa lên đây giao cho TNXP, tôi xin Liên Đội Trưỏng là Phạm Ngọc Liên (bí thư quận đoàn quận Ba) đưa Lộc Lì về đội cưa xẻ).
Mỗi lần có chuyện phải ghé Ngã Bảy, tôi thường mang theo vài ký đậu xanh, khoai mì khô, bắp hột, đường tán vv để làm quà cho chị H. Đêm nay vừa nói chuyện được không lâu chị đã khều tôi nói nhỏ: “Có ba “tàu bay” chờ cất cánh mấy đêm rồi” (có ba “tân binh” muốn gia nhập). Tôi cảm ơn và nhờ chị giúp giữ họ sống tạm lây lất quanh khu vực tuợng đài BĐQ, một tuần sau tôi sẽ trở lại. Sáng đó tôi nhảy xe buýt đi “ngân hàng” (nơi nhận tiền hoạt động), mà “ngân hàng” là một chiếc xe đẩy bán hủ tiếu lưu động trên đường Tùng Thiện Vương, quận 8 Sài Gòn. Phải có tiền mới mua được cái đồng hồ lên dây ngoài chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, trả cho anh em chẻ đá ở mỏ đá Núi Le để có đủ ngòi nổ và sáu cốt mìn màu đỏ.
Đêm 29 rạng ngày 30.4. 1976, chúng tôi gồm bốn người xuất phát từ bốn địa diểm khác nhau rồi cùng gặp mặt bên ngoài một trại nuôi bò ở Hố Nai (là nơi đã kể ở đoạn trước). Chúng tôi chia làm hai nhóm đi cách xa nhau, vừa đủ tầm nhìn trong bóng đêm để toán sau thấy toán trước mà VC không biết chúng tôi có “cái đuôi” bám sau lưng. Anh M và tôi đi trước với bao đồ nghề gồm kềm cắt, vài nắm xôi, bình nước uống, một cái đòn tre dài, một bao bố rách để bao tay vì theo giao hẹn của gã bộ đội đêm nay hắn chỉ bán dây kẽm gai mà thôi. Hai người lén đi theo sau là BĐQ N ở Thủ Đức và BĐQ T ở Bình Chánh, sáu cốt (ống) mìn và “phụ tùng” kèm theo được hai anh cột chặt nằm hàng ngang ngay sau lưng, bên ngoài mặc áo rộng thùng thình. Hai chúng tôi đi đầu đưọc một lúc thì gặp gã bộ đội quen đứng đón với cái đèn pin, lúc đó khoảng 9 giờ tối. Vưà thấy mặt hắn đã la lớn: “Khẩn trương lên ! Chúng mày vào trễ thế. Bọn chúng nó đến trước “ăn” cả rồi. Chả còn bao nhiêu đâu” ! Gã bộ đội vưà càu nhàu vưà dắt chúng tôi đến vài ba nơi để chỉ từng đống bùi nhùi dây kẽm gai nằm dập vùi trong cỏ, hai người phiá sau vẫn lặng lẽ bám sát chúng tôi. Gã bộ đội tay cầm cây gậy tre đập đập vào đống kẽm gai vưà nói rõ: “Mấy đống này hơi rối rắm, chịu khó mà gỡ nhé. Tao tính một đồng một cân thôi”. Anh M hỏi lại: “Thế sớm mai anh vác theo cân gặp ở chuồng bò à”? Hắn cắt ngang: “Cân kéo chó gì. Tao nhìn biết ngay bao nhiêu cân vì đêm nào chả bán”! Hắn nói tiếp: “Này ! Mai chúng mày phải ra sớm hơn. Bảy giờ sáng chúng tao phải lên ô tô đi Sài Gòn để “diễu binh” đấy”! Nói xong hắn xách đèn pin chạy biến vào bóng tối.
Bốn người chúng tôi ngay lập tức cùng xúm vô tháo, cắt vv rồi quấn lại được một vòng dây kẽm gai nặng hơn 60 kg. Anh M thúc giục hai anh N và T mau chạy theo đường cũ về hướng Hố Nai, dọc đường nếu xui xẻo gặp bộ đội chặn đường thì cứ nói đi “mờ sờ” (mua sắt) nhưng bị lạc. Hai anh vội vàng đứng lên, tay cầm hai ống sắt dài làm vũ khí rồi biến mất trong bóng tối.
Bốn giờ sáng, tôi và anh M hai người khiêng khoanh kẽm gai tà tà đi về hướng cũ. Khoanh kẽm gai cứ đong đưa qua lại theo nhịp bước chân làm chúng tôi chẳng dám đi mau. Cả hai chúng tôi đều ướt đẵm mồ hôi, bàn tay thì rướm máu và đau rát vì bị cắt ngang cắt dọc. Đi phiá sau nhìn cái lưng đẵm ướt của anh M làm tôi cảm thấy thương mến, kính phục anh hơn lúc nào hết. Không biết anh đang nghĩ gì, còn tôi thì cứ nghĩ đến đoạn đường dài mà mình và đồng đội sẽ tiếp tục chiến đấu khi cộng sản vẫn còn trên quê hương Việt Nam.
Gần 9 giờ sáng hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1976, chúng tôi ngồi uống cà phê ở bốn bàn khác nhau như người xa lạ trong một quán nhỏ bên ngoài ga Hố Nai. Bỗng một tiếng nổ lớn từ phiá xa vang lên làm mọi người trong quán nhốn nháo. Ngay sau đó hàng loạt tiếng nổ chát chuá kèm theo. Chúng tôi cũng giả bộ chạy ra ngoài lẫn lộn với đám đông đang hoảng hốt, mọi người đưa tay chỉ về hướng một cột khói đen bốc cao trong khi tiếng nổ vẫn không ngớt vang động. Dọc theo đường lộ, xe cộ đều ngừng lại, tiếng người la hét khắp nơi và bóng người chạy tìm chỗ nấp ở những nơi mà họ tin rắng có thể an toàn. Có ai đó hớn hở la lên: “Tới rồi ! Tới rồi ! Phe ta về rồi” ! Xa xa, một đoàn người đông đúc đang bị VC tập trung đi diễu hành “mừng ngày 30 tháng 4” cũng bỏ chạy tán loạn. Các tấm băng rôn khẩu hiệu, cờ đỏ vv bị vứt nằm chỏng chơ dọc theo con đường, vài cái nón cối nằm lăn lóc bên vỉa hè trong lúc tiếng nổ vẫn ầm ầm từ xa vọng đến.
VỤ PHÁ HỦY KHO ĐẠN Ở LONG BÌNH NGÀY 30.4.1976
Một ngày giữa tháng 4 năm 1976, chuyến tàu sớm Sài Gòn-Gia Rây vẫn
đến trễ như thường lệ (nhà tôi ở cách ga hơn 100 m), người bám hai bên
tàu hoặc ngồi trên nóc toa vẫn đông nghẹt như từng chuyến tàu mỗi ngày
(hệt như các đoàn tàu ở Ấn Độ; Pakistan mà chúng ta thấy hôm nay). Tiếng
la hét, kêu réo bắt đầu náo động khi con tàu ngừng hẳn, từng giỏ cần xé
bánh mì, những thùng dầu lửa, các chồng nhật báo mới in ở Sài Gòn,
những bao cá khô, mắm, muốì vv được người trên tàu hối hả đạp xuống nằm
lăn lóc dài theo sân ga đầy bụi đỏ. Trong khoảnh khắc, các bao than to
tướng, những đống củi niền (củi bó), các lóng cây bằng lăng, căm xe,
những bao bố đựng đủ loại nông phẩm vv được nhiều toán thanh niên lưc
lưỡng hì hục ném lên tàu. Tất cả “hàng hoá” lên và xuống diễn ra thật
nhanh vì tàu sẽ quay đầu về Sài Gòn 30 phút sau đó. Trên sân ga chỉ còn
lại những toán người cả nam lẫn nữ đủ lưá tuổi, vai vác cưa, tay cấm rựa
đứng tụ tập, hoặc đi tới, đi lui với vẻ mặt bồn chồn lo lắng. Họ là
những người dân ở Sài Gòn, nay thời thế đảo lộn, từ chỗ có nhà, có cái
ăn, có nơi để học nhưng đã bị mất tất cả và thiếu thốn đủ thứ, kể cả thứ
tầm thường nhất như khoai mì khô (xắt lát), bắp hạt khô hoặc than và
củi vv. Những thanh niên, thiếu nữ ấy chắc không ít trong số họ có cha,
có mẹ, có chị có anh đang bị khổ sai trong ngục tù cộng sản, nay dù chưa
từng biết cưa cây, chặt củi cũng mua dao sắm rựa tìm đưòng lên Gia Rây,
đi vào rừng tìm gom những nhánh củi khô đem về cho gia đình tại Sài
Gòn. Hoặc có toán tìm đường vô các nương rẫy để nhặt mót đậu phụng, đậu
nành, khoai lang vv mà chủ rẫy chê xấu bỏ lại. Mỗi lần gặp các toán đứng
ngập ngừng như thế trên sân ga, tôi biết ngay họ mới tới Gia Rây lần
đầu nên lo sợ vì không biết đi hướng nào để tìm những thứ mình cần. Tôi
thường chỉ họ đi đến rừng cây Giá Tỵ gần đó, hoặc chỉ lối vào các rẫy,
cánh rừng chồi nào gần Gia Rây hơn là vô rừng già dễ bị lạc, và luôn
luôn lắng nghe tiếng còi tàu để biết hướng trở lại ga Gia Rây.
Bỗng nhiên có một người đi ngang đụng nhẹ vào tôi, quay lại nhìn thì
tôi thấy anh M, trưởng toán Hố Nai, dang vác rựa đi về hướng rừng Giá Tỵ
gần Gia Lào. Nửa tiếng sau chúng tôi gặp nhau bên một bờ suối nhỏ, anh
cho biết những tin tức như sau: Đám bộ đội ở trong căn cứ Long Bình nay
đang lén lút móc nối với dân để bán kẽm gai, cọc sắt chữ V, ống cống,
bao cát vv. Bản thân anh đã vô mua vài lần và khám phá ra một khu vực
chưá đạn, nơi này không ai canh gác, rất dễ làm một “chưởng” rung rinh
trời đất. Anh M yêu cầu tôi đi Hố Nai, vào đó đích thân quan sát địa thế
rồi có quyết định “tung chưởng” hay không vào dịp 30 tháng 4 này, và
tôi đã nhận lời. Anh M gốc Bắc di cư, trước kia là một hạ sĩ quan thuộc
Liên Đoàn 3 BĐQ, nay đã trên 60 tuổi và đang sống ở Hố Nai.Sau khi VC cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, các nhu cầu thường nhật của xã hội như gạo, xăng, than, củi, thuốc tây v.v trở nên khan hiếm và đắt đỏ vô cùng. Ở đây tôi chỉ kể sơ vài thứ vì các đồ dùng này có liên đới đến câu chuyện hôm nay. Con số người dân miền Nam sau 1975 trở thành “nông dân bất đắc dĩ” đã gia tăng rất nhiều và đột ngột, vì thế nông cụ cũng không có đủ để cung ứng cho nhu cầu nông nghiệp toàn miền. Cọc sắt hình chữ V dài khoảng 2 thước thường dùng làm trụ hàng rào kẽm gai, nay dân ta có sáng kiến đem ra đập dẹp, cưa ngắn từng đọan 30 phân ( ba tấc), xẻ hai đường rãnh uốn cong lại là có một cái cuốc trong tay. Dây kẽm gai thì chặt ra làm cây đinh (tiếng lóng gọi là đinh đểu vì nó quá mềm). Ống cống cong hình chữ C của Mỹ ngày trước, ngoài công dụng làm cống còn được làm nóc hầm tại các đơn vị quân sự, nay được dân chúng đem ra xẻ dọc thành từng thanh nhỏ, uốn cong, hàn lại thì thành niền xe đạp, bao cát nhà binh thì xé sợi để đan dây đan võng, những ống nước bằng sắt nay cũng đưọc tận dụng để làm sườn xe đạp vv (không kể các thứ nguy hiểm hơn như cưa đáy viên đạn 105 ly, thợ tiện Chợ Lớn sẽ làm ra “líp” xe đạp, cạy bom bi lấy những viên bi thép cho “đùm” giữa và cổ xe đạp vv, bi mìn Claymore bằng chì không dùng được).
Lớp bộ đội VC sau khi chiếm miền Nam đã bị hớp hồn vì sự thưà mưá của cải, vật chất mà ở miền Bắc dù có nằm mơ cũng không thể thấy được, nhưng đa số bộ đội thì lại nghèo kinh niên. Nay thấy tiền nằm rỉ sét, bỏ hoang tràn lan mà họ thì lại muốn có “cái đài, cái đồng, cái đạp” (radio, đồng hồ, xe đạp) vv để đem về quê khoe mẻ nên từ binh sĩ tới sĩ quan tranh nhau vơ vét, lén lút bán cho dân đặng có tiền mua sắm. Vì thế tôi mới có dịp đi Hố Nai một chuyến.
Khoảng 8 giờ tối ngày 22/4/1976, tôi nhảy tàu xuống ga Hố Nai trên chuyến tàu đêm Gia Rây- Sài Gòn, anh M được dặn trước nên đứng đón tại sân ga. Thấy tôi anh im lặng quay lưng bước đi, tôi lặng lẽ đi theo anh một khoảng cách trong bóng tối. Sau hơn nửa giờ bước đi quanh co giữa các xóm nhà, chúng tôi bắt đầu băng qua những khu đất trồng rau, những vườn cây im lìm rồi tới một chỗ trống trải hoàn toàn, chẳng có nhà cũng chẳng có vườn và dưới chân toàn cỏ dại. Xa xa có tiếng người í ới gọi nhau, vài ánh đèn pin chập chờn lúc ẩn lúc hiện. Tôi hỏi nhỏ anh M: “Chừng nào mới tới lớp hàng rào”? Anh M thều thào trả lời: “Làm gì còn hàng rào. Chúng nó xơi cả dzồi ! Mình đã vào bên trong, bây giờ đang tìm tụi nó”.
“Đứa nào đấy”! Có tiếng người hỏi không lớn lắm cùng ánh đèn pin loé lên. “Mờ sờ. Có bờ không” (Mua sắt. Có bán không) ? Anh M đáp lại và đứng yên chờ đợi. Gã bộ đội đến gần đưa đèn pin lên soi nhìn chúng tôi: “Chúng mày chỉ có hai thằng thôi à ! Thế đếch nào khênh được nhiều”! . Anh M hỏi lại: “Vậy anh có gì nào ! Có nặng bằng xe tăng không” ?. “Bố khỉ. Đi theo tao” ! Chúng tôi lầm lũi đi theo gã bộ đội chừng 20 phút sau khi lên xuống vài ngọn đồi nhỏ, vài căn nhà “sam” mà nóc “tôn” và vách đã bị tháo mất, chỉ còn lại khung sắt đứng trơ trọi chờ tới lúc được tháo để bộ đội “phanh thây”.
“Đây này. Có 20 cọc đấy ! Tao tính chúng mày 2 đồng một cái. Giá
bèo đấy nhá vì chúng mày phải tự tháo gỡ dây gai ra. Bây giờ mười giờ
rồi, bốn giờ tao trở lại lấy tiền”. Sau khi anh chàng bộ đội bỏ đi, tôi
ngạc nhiên hỏi anh M: “Sao nó dám để tụi mình ở đây. Không thằng nào coi
ngó à ! Còn cái “k” (kho đạn) nằm ở đâu”? Anh M vừa móc trong lưng ra
hai cái đèn pin vưà thì thầm bên tai tôi: “Nó còn vài mối nữa gần đâu
đây, chắc lo đi dàn xếp giá cả”. Nói xong anh kéo tay tôi đi theo một
đường mòn chạy lên một con dốc (trong căn cứ Long Bình có rất nhiều gò,
đồi thấp nhỏ). Trên đỉnh dốc, tôi thực sự kinh ngạc vì nhìn xuống chung
quanh thấy thấp thoáng ánh đèn pin ẩn hiện nhiều nơi. Té ra cũng còn có
nhiều người khác vào đây mua đồ của …đế quốc Mỹ do VC bán lén. Anh M
vung ánh đèn pin chỉ về một hướng: “Xuống con dốc này sẽ gặp một đường
đất lớn. Ngay chỗ đó có xác chiếc xe bị cháy. Anh đi theo tay phải chừng
200 thước sẽ gặp mấy ụ đất cao, đó là cái “k”. Bây giờ tôi trở lại tháo
sắt. Khi quay về chỗ xe cháy nhớ rẽ trái theo đường mòn về đây. Hẹn gặp
lại”.
Theo chỉ dẫn của anh M, tôi tìm đến được nơi cần tìm. Ở đó có ít nhất
trên 10 ụ đất cao, rộng hình chữ U, chiều dài mỗi ụ khoảng 30 thước.
Chung quanh các ụ đất là từng mớ dây kẽm gai nằm xen trong cỏ, dấu vết
còn lại sau khi các cọc sắt đã đi ra .. ngoài chợ. Tôi bò lại trước một
ụ, nằm bẹp sát đất che đầu đèn pin rọi vào bên trong. Qua ánh đèn lờ mờ
tôi nhìn thấy các kiện thùng gỗ nằm chồng lên nhau rất ngay ngắn, trên
cùng là những tấm bạt nhựa phủ trùm để che mưa. Nhìn kỹ một lúc tôi mới
nhận ra đây là loại thùng gỗ đựng đạn 105 ly, ngày xưa chúng tôi hay lấy
nó chưá đất làm hầm hố. Bò tới một ụ khác quan sát tiếp thì thấy vẫn
cùng một loại. Qua ụ thứ ba thì thấy các kiện đạn 155 ly trần trụi nằm
chồng lên cao và đưọc che đậy rất sơ sài.Khoảng 2 giờ sáng, tôi trở lại chỗ anh M thì anh đã tháo được 15 cọc sắt và đang ăn vội một nắm xôi mang theo trong mình. Thấy tôi lấm lem cả người, anh ấy vụt cười phun cả xôi ra: “Chà ..chà, coi bộ ngắm cảnh .. đời hơi kỹ đấy! Thôi, ăn xôi đi”!
Gần 4 giờ sáng, chúng tôi xếp chia số cọc sắt làm hai bó, mỗi bó mười cây (một cọc sắt chữ V nặng khoảng 4 kg). Anh M vác một bó đi trước, tay cầm đèn pin rọi đường, tôi vác một bó theo sau và thắc mắc hỏi anh: “Mình không đưa tiền cho nó sao”?. “Không đưa sao được. Tụi nó đứng chờ ở phiá trước đó”! Hơn một giờ đi quanh co lên đồi xuống dốc, giữa một thảm cỏ với cây dại như trâm, sim, móc, duối, dang vv mọc lưa thưa và không bụi cây, lùm cỏ nào cao quá đầu người, trừ những cột điện bị dây leo bò lên phủ kín. Thỉnh thoảng chúng tôi dừng chân nghỉ năm ba phút lại vác đi tiếp ra Quốc Lộ 1 hướng Tây Bắc. Lúc vừa nhìn thấy xa xa bóng dài màu tím thẩm của những mái nhà, nóc chuông nhà thờ mờ nhạt chập chờn trong màn sương sớm, cũng là lúc tôi nhìn thấy bên phải, bên trái, sau lưng và trước mặt mình thấp thoáng nhiều bóng người cũng đang vác sắt chữ V, có người còn gánh tòn ten hai đầu với 6 cuộn kẽm gai bung (concertina), hoặc hai người khiêng ở giữa 2 ống cống cong loại 1 thước đường kính. Tất cả chúng tôi cùng tiến về một hướng, Hố Nai.
Bắt đầu có tiếng người lao xao nhiều nơi ở phiá trước, anh M dẫn tôi đi tách ngang một hướng khác cho lúc tới bên ngoài một trại nuôi bò thật lớn. Tại đây đã có bốn bộ đội đứng chờ mà trong đó chỉ một người mang súng AK 47, ba người kia tay cầm những khúc tre khô dài hơn sải tay (quả là dạn dày kinh nghiệm). Đây, đó vài ba tốp người cũng dân “cưa hàng”vừa đến.
Đứng gần đám bộ đội là một nhóm thanh niên, thiếu nữ thân quen của những kẻ đi mua đồ sắt (nói chung). Họ mang tiền ra đây chờ thấy người, thấy sắt thì mới trao tiến (dân Hố Nai mà). Lỡ đưa tiền trước lúc nửa đêm, chúng trở mặt thì sao? Có mà ngu mới tin VC! Sau khi hai bên kỳ kèo qua lại nào là sắt cong, thiếc mẻ, kẽm mòn v.v, gã bộ đội đêm qua bớt chúng tôi 5 đồng ! “Tiền trao … “sắt” múc”, hai bên vui vẻ đề huề, hẹn đêm nay, tối mai rối rít. Ba tay bộ đội mặt non choẹt hí hửng đi theo chúng tôi ra “phố”, sau khi gom lại ba cây gậy tre đưa hết cho gã mang súng với lời hưá sẽ mua món này, cái nọ cho hắn. Anh M đi đầu bước chậm lại dần sau lưng toán người phiá trước, giờ này trời Đông đã sáng hồng. Tới một con suối lớn, trong lúc tôi rưả mặt anh M nói với người thanh niên đi theo anh từ khi nãy, người này vóc dáng bằng tôi: “Chú cho anh ấy mượn tạm áo quần, lấm lem hết rồi”. Cậu thanh niên vui vẻ thay đổi quần áo với tôi rồi vác một bó sắt đi trước qua suối. Anh M giúi vào tay tôi vài tờ giấy bạc và thì thầm dặn dò: “nhảy mãi tân gô, gu ru” (ngày mai ta gặp, Gia Rây).
Phố thị Hố Nai dọc hai bên QL 1 đang khởi sự cho một ngày sống trong náo nhiệt. Người hối hả gánh gồng, kẻ lăng xăng khuân vác, tiếng máy xe lam, xe ba gác (máy) kêu vang inh ỏi. Tôi lầm lũi bước tìm đến một quán ăn bên ngoài sân ga. Một bát phở “đại liên”, một ly cà phê “cối” làm tôi tỉnh như sáo, một kế hoạch sơ khởi hiện ra trong đầu. Tiếng còi tàu văng vẳng bên tai, tôi rời quán, nhìn quanh rồi rảo bước tới một đám đông đang đứng chờ mua tấm vé mà mình chưa từng mua mỗi khi đi tàu lưả của VC.
Ngày 24 tháng 4 năm 1976. Anh M xuống ga Gia Rây theo chuyến tàu
sáng. Vẫn thế, anh lưng đeo túi vải, tay cầm rựa như nhiều người khác
lui tới trên đoạn đường này, đường vô cánh rừng Bàu Sen cách Gia Rây 3
km về hướng Bắc. Anh đi sau tôi khoảng gần 100 thước, chúng tôi đi mãi
cho tới lúc cả hai hoà nhập vào lá xanh muôn thuở của rừng già. Một cuộc
họp giữa rừng diễn ra với sự có mặt của năm người, hai người ở Gia Rây,
một tại Ngã Ba Ông Đồn và một ở Xuân Đà – Căn Cứ 2 gần đó. Bốn người
ngồi bàn luận dưới gốc một cây hơi cao và rậm rạp, một người ngồi trên
cành vừa đủ tầm quan sát chung quanh, vừa lắng nghe diễn tiến buổi họp
vừa để ý sự lay động cành lá hoặc các tiếng động đáng ngờ quanh khu vực.
Chúng tôi có chung thắc mắc vì nhớ lại một công tác cách đó không
lâu: “Sau giao thưà rạng sáng ngày mùng 1 Tết năm 1976, lợi dụng lúc
tiếng pháo của dân, tiếng súng của VC bắn suốt đêm, chúng tôi đã xâm
nhập và đốt cháy một đám cỏ rộng bao quanh khu doanh trại hậu cứ Tiểu
Đoàn 5 Thuỷ Quân Lục Chiến tại Suối Lồ Ồ (gần Nghĩa Trang Quân Đội,
thuộc xã Bình An, quận Dĩ An tỉnh Bình Dương). Kết quả làm nổ tung kho
đạn ở đây, mãi tới chiều mùng 1 Tết mới im tiếng”. Thắc mắc được nêu ra
là tại sao sau vụ nổ đó VC không tăng cường canh gác cẩn mật những nơi
tồn trữ đạn dược, chẳng hạn như kho đạn ở Long Bình. Đây có phải là một
cái bẫy không? Các ý kiến lần lượt đưa ra để mọi người cùng phân tích lý
do đó, sau cùng chúng tôi đi đến nhận định rằng: (1) VC không bao giờ
dám đem một kho đạn như thế ra làm bẫy, vì nó gần Sài Gòn và ngay ngày
mai, 25 tháng 4 năm 1976 chúng sẽ tổ chức “tổng tuyển cử” (bịp) toàn
quốc để “thống nhất” hai miền Nam- Bắc (sau cuộc họp “hội nghị hiệp
thương thống nhất hai miền”, kéo dài từ ngày 15 đến 21. 11. 1975 ở Dinh
Độc Lập, <ngày 2.7. 1976, VC đổi tên nước ra CHXHCNVN tới hôm
nay>); (2) Kho đạn mà chúng tôi biết vừa rồi thuộc loại nhỏ hơn nhiều
so với các kho ở Cát Lái, ở Thành Tuy Hạ vv. Biết đâu chúng đã giao kho
đạn này cho đơn vị VC chiếm đóng trong khu vực làm hoả lực cơ hữu. Nếu
lo sợ chúng đã gom về Cát Lái hay một nơi nào khác từ lâu rồi. Có thể
đây là kho đạn dự trữ của Bộ Chỉ Huy BĐQ/ Quân Khu III, vì khu vực đó
gần các hậu cứ của những tiểu đoàn BĐQ trực thuộc quân khu này; (3) Sau
vụ nổ ở kho đạn của TĐ 5 TQLC, có thể VC sau khi điều tra đã kết luận do
cỏ bị cháy vì sự bất cẩn trong đêm giao thưà. (4) Kho đạn vửa kể nằm
cách xa vùng Hố Nai chừng hơn 6 km, thường dân sẽ tránh được thương vong
lúc vụ nổ xảy ra.Sau rốt, chúng tôi quyết định “hốt ổ”, và ngày gây chấn động là sáng 30 tháng 4. Việc bây giờ là tìm và gom thuốc nổ, ngòi nổ, một cái đồng hồ để chỉnh giờ. Ngoài ra, còn phải chỉ định người rành rẽ về thuốc nổ đi theo anh M tới mục tiêu đêm 29 tháng 4 năm 1976. Chúng tôi chỉ còn gần một tuần để chuẩn bị các việc đó. Vấn đề mua đồng hồ để chỉnh giờ cho khối thuốc nổ thì tôi sẽ lo liệu. Riêng việc tìm thuốc nổ, ngòi nổ vv sẽ giao cho S ở Ngã Ba Ông Đồn vì nhà anh ở gần mỏ đá Núi Le cạnh QL 1. Anh M nhận trách nhiệm tìm người đưa khối thuốc nổ vào kho đạn.
Xã Gia Rây trước năm 1975 có năm ấp là Trung Lương; Trung Nghĩa;
Trung Tín; Lập Thành; Bình Long (năm 1980 mới lập thêm ấp Gia Lào, tên
cổ ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí đọc là Da Lao). Sau cuộc “bầu” thống
nhất Bắc- Nam của VC xã Gia Rây bị đổi tên thành Xuân Trường, ấp Trung
Lương bị sáp nhập với ấp Trung Nghĩa. Hai ấp Trung Nghĩa và Trung Tín
thì nằm ngay khu vực thị trấn xã và nhà ga. Rẽ tay trái theo Tỉnh Lộ 15
thì đi ngang ấp Bình Long, nơi tái định cư của đồng bào nạn nhân chiến
cuộc ở Bình Long – An Lộc năm 1972, tỉnh lộ này chạy mãi tới sông La
Ngà; Võ Xu; Võ Đắt. Từ xã rẽ tay phải đi đúng bốn cây số thì gặp Ngã Ba
Ông Đồn tức ấp Lập Thành nằm bên QL 1. Cuối dốc Ông Đồn về bên tay phải
dọc theo QL 1 là Căn Cứ 1, tức xã Xuân Hiệp, còn có tên khác là giáo xứ
Lều Xanh- Suối Cát, nơi tái định cư của đồng bào Việt kiều đạo công giáo
ở Cam Bốt đưa về đây năm 1971. Đi theo Ql 1 ở hướng này sẽ tơí Ngã Ba
Tân Phong và thị xã Long Khánh. Cuối dốc Ông Đồn bên tay trái theo QL 1
hai cây số là mỏ đá Núi Le, nơi giáp giới xã Xuân Tâm (tên cũ là Xuân
Đà) tức Căn Cứ 2 với hai giáo xứ Đồng Tâm (Quảng Tín; Quảng Ngãi) và
Hiệp Lực (Quảng Trị; Thưà Thiên), vùng đất mới của nạn nhân chiến cuộc ở
bốn tỉnh nêu trên về đây lập nghiệp vào giữa năm 1972. Hai giáo xứ Đồng
Tâm- Hiệp Lực cũng là nơi có con sông Rây chảy qua, đầu nguồn xuất phát
từ núi Mây Tàu, Bình Tuy. Xã Gia Rây có hai mỏ đá, một ở chân núi Chưá
Chan ngay tại thị trấn ( núi cao 837 m, đồng bào Châu Ro gọi là Gung
Char, “Núi Lớn”) có từ thời Pháp, nơi đây đá được khai thác để cung cấp
cho đường xe lửa từ Long Khánh đến Mương Mán, sau năm 1975 không còn
hoạt động. Mỏ đá Núi Le cách Ngã Ba Ông Đồn 2 km là nơi cung cấp đá để
tu bổ QL 1 cho đoạn đường từ Long Khánh đến Bình Tuy. Người thợ chẻ đá ở
Núi Le làm việc rất cực nhọc, thường xuyên sống trong thiếu thốn do
chính sách khắc nghiệt của VC. Chúng giao khoán trung bình 10 thước dây
cháy chậm + một ngòi nổ (kíp nổ) + bốn ống thuốc nổ thì phải có 5 thước
khối đá nhiều cỡ, từ 1 phân, 2 phân, 5 phân cho tới 5 phân, 7 phân vv.
Vì thế dân chẻ đá ở đây phải tính toán làm sao để cắt dây, gài thuốc
thật chính xác (nhưng rất nguy hiểm) cho vừa có đủ số đá VC ấn định,
nhưng cũng vưà dư được dây cháy chậm, dư kíp nổ, dư ống thuốc nổ (dài 30
phân) để bán lén ra ngoài cho dân đánh cá trong sông La Ngà và sông Rây
hầu kiếm thêm chút tiền mua gạo. Vì thế, chúng tôi tìm gom các thứ để
phá kho đạn ở Long Bình không khó lắm (mỏ đá núi Bà Đen ở Tây Ninh cũng
được chúng tôi móc nối mua các thứ cần dùng để gài mìn dọc theo Tỉnh Lộ
13 từ Suối Đá đi Lòng Hồ Dầu Tiếng, qua lâm trường (mật khu) Dương Minh
Châu tới Minh Thanh; Núi Cậu; Tống Lê Chân; Tân Khai bên tỉnh Bình
Long).
Sau cuộc họp tại rừng Bàu Sen, chúng tôi tỏa ra cắt rừng đi về nhà mà trong lòng của mỗi người ai cũng hớn hở chẳng lo âu.Ngày hôm sau tôi nhảy tàu Gia Rây- Sài Gòn vào chuyến buổi chiều, trên vai là một ba lô nhăn nhúm bạc màu, gói ghém một bộ áo quần và vài bịch nông phẩm khô của Long Khánh. Trong túi là phiếu đi bầu màu đỏ, có tên họ của mình, có con dấu của xã, của ban bầu cử in lên đó hàng chữ “đã đi bầu”, sau khi cả buổi sáng đứng sắp hàng trước uỷ ban xã chờ bỏ phiếu “bầu” cái “quốc hội thống nhất” bịp bợm của VC. Về tới Sài Gòn, đêm đó tôi ngồi chờ sáng cạnh một bàn cà phê bán trên vỉa hè trước rạp Long Vân, gần bùng binh Ngã Bảy (Sài Gòn vào thời điẻm này bắt đầu có nhiều nơi bày bán cà phê, nước trà thâu đêm suốt sáng trên vỉa hè, bàn ghế thấp lè tè, nhẹ hều và khách cũng ngồi thức cả đêm. Các loại “quán” cà phê kiểu đó mỗi khi bất ngờ nghe tiếng la lớn: …”CHÈO..O..O”.. thì mạnh ai nấy chạy, bàn và ghế nhờ nhỏ và nhẹ nên biến mất khỏi lề đường chỉ trong khoảnh khắc. Đám công an đi rồi thì tất cả lại như cũ).
Người ngồi nói chuyện với tôi qua đêm tại đây là chị H, vợ Chuẩn úy Thinh ở TĐ 36 BĐQ, sau ngày 30. 4 chị không có tin tức gì về anh nữa. Nhà chị H ở khu Hoà Hưng, mỗi đêm chị để hai con nhỏ ở nhà với bà ngoại rồi rủ vài người bạn gái ra Ngã Bảy làm cái nghề gọi là “gọt bã đậu” (gạt bộ đội). Nghề này nhắm vào mấy trự bộ đội thích gái miền Nam, là các chàng được đi phép về Bắc nên ra bến xe Petrus Ký mua vé xe. Sau lúc giao hành lý cho lơ xe chất lên mui, họ phải chờ tới sáng thì xe mới rời bến nên hay đi lòng vòng quanh khu Ngã Bảy để rồi gặp những cô gái “lỡ đường”, “bơ vơ” như chị H chẳng hạn. Sau khi nghe những lời than thở não lòng của mấy nàng, trung bình cứ mười bộ đội thì ít nhất cũng có một tên cắn câu, chịu giúp ít tiền nhưng với điều kiện là “phải có qua có lại”. Vậy là chàng “bã đậu” được dắt tới một gốc cây nào đó trong bóng tối để “có qua có lại”. Đúng lúc đó bỗng xuất hiện vài ba thanh niên mặt mày bặm trợn, họ nhào tới quật chàng xuống nện một trận tối tăm mày mặt, lột hết áo quần, lấy sạch tiền, ném lại giấy tờ rồi tất cả chạy biến vào bóng tối. Chàng “bã đậu” lúc hoàn hồn lại thì chỉ còn cái quần đùi, hắn hớt hơ hớt hãi nhưng không dám kêu la mà lủi thủi cắm đầu chạy tìm về chỗ xe ca mình có vé, leo lên ghế rồi mới bắt đầu ngồi vò đầu bứt tóc và chửi om xòm! Chị H thường đi cặp với một cô tên Loan cũng ở khu Hoà Hưng. Loan là bồ của Lộc Lì, một tay anh chị có máu mặt gốc BĐQ ở Cống Bà Xếp, là người đêm đêm cùng “lâu la” đứng chờ “gọt” sạch “bã đậu” nào muốn “có qua có lại” do hai cô này “câu” được (Lộc Lì có những hỗn danh khác như Lộc Liều, Lộc Lưả, thường chạy chiếc “lam bét ta” cũ mèm phun khói đen mù mịt, máy nổ đinh tai nhức óc khắp khu Hoà Hưng. Năm 1986, Lộc Lì gặp lại tôi ở Ngã Ba Cây Chanh gần Bù Đăng, nơi hoạt động của “Liên Đội Thanh Niên Xung Phong quận Ba”, anh ta bị “cá” hốt đưa lên đây giao cho TNXP, tôi xin Liên Đội Trưỏng là Phạm Ngọc Liên (bí thư quận đoàn quận Ba) đưa Lộc Lì về đội cưa xẻ).
Mỗi lần có chuyện phải ghé Ngã Bảy, tôi thường mang theo vài ký đậu xanh, khoai mì khô, bắp hột, đường tán vv để làm quà cho chị H. Đêm nay vừa nói chuyện được không lâu chị đã khều tôi nói nhỏ: “Có ba “tàu bay” chờ cất cánh mấy đêm rồi” (có ba “tân binh” muốn gia nhập). Tôi cảm ơn và nhờ chị giúp giữ họ sống tạm lây lất quanh khu vực tuợng đài BĐQ, một tuần sau tôi sẽ trở lại. Sáng đó tôi nhảy xe buýt đi “ngân hàng” (nơi nhận tiền hoạt động), mà “ngân hàng” là một chiếc xe đẩy bán hủ tiếu lưu động trên đường Tùng Thiện Vương, quận 8 Sài Gòn. Phải có tiền mới mua được cái đồng hồ lên dây ngoài chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, trả cho anh em chẻ đá ở mỏ đá Núi Le để có đủ ngòi nổ và sáu cốt mìn màu đỏ.
Đêm 29 rạng ngày 30.4. 1976, chúng tôi gồm bốn người xuất phát từ bốn địa diểm khác nhau rồi cùng gặp mặt bên ngoài một trại nuôi bò ở Hố Nai (là nơi đã kể ở đoạn trước). Chúng tôi chia làm hai nhóm đi cách xa nhau, vừa đủ tầm nhìn trong bóng đêm để toán sau thấy toán trước mà VC không biết chúng tôi có “cái đuôi” bám sau lưng. Anh M và tôi đi trước với bao đồ nghề gồm kềm cắt, vài nắm xôi, bình nước uống, một cái đòn tre dài, một bao bố rách để bao tay vì theo giao hẹn của gã bộ đội đêm nay hắn chỉ bán dây kẽm gai mà thôi. Hai người lén đi theo sau là BĐQ N ở Thủ Đức và BĐQ T ở Bình Chánh, sáu cốt (ống) mìn và “phụ tùng” kèm theo được hai anh cột chặt nằm hàng ngang ngay sau lưng, bên ngoài mặc áo rộng thùng thình. Hai chúng tôi đi đầu đưọc một lúc thì gặp gã bộ đội quen đứng đón với cái đèn pin, lúc đó khoảng 9 giờ tối. Vưà thấy mặt hắn đã la lớn: “Khẩn trương lên ! Chúng mày vào trễ thế. Bọn chúng nó đến trước “ăn” cả rồi. Chả còn bao nhiêu đâu” ! Gã bộ đội vưà càu nhàu vưà dắt chúng tôi đến vài ba nơi để chỉ từng đống bùi nhùi dây kẽm gai nằm dập vùi trong cỏ, hai người phiá sau vẫn lặng lẽ bám sát chúng tôi. Gã bộ đội tay cầm cây gậy tre đập đập vào đống kẽm gai vưà nói rõ: “Mấy đống này hơi rối rắm, chịu khó mà gỡ nhé. Tao tính một đồng một cân thôi”. Anh M hỏi lại: “Thế sớm mai anh vác theo cân gặp ở chuồng bò à”? Hắn cắt ngang: “Cân kéo chó gì. Tao nhìn biết ngay bao nhiêu cân vì đêm nào chả bán”! Hắn nói tiếp: “Này ! Mai chúng mày phải ra sớm hơn. Bảy giờ sáng chúng tao phải lên ô tô đi Sài Gòn để “diễu binh” đấy”! Nói xong hắn xách đèn pin chạy biến vào bóng tối.
Anh M cẩn thận rảo bước một vòng rộng chung quanh để chắc chắn
không có ai ở gần. Khoảng 20 phút sau thì hai BĐQ N và T mới thận trọng
tiến tới gặp chúng tôi. Anh M bảo tôi ngồi tại chỗ vưà gỡ kẽm gai vưà
quan sát động tĩnh, nếu gã bộ đội quay lại hỏi thì nói lớn tiếng hơn
bình thường, cứ nói anh ấy đi gỡ kẽm gai ở đống khác. Tôi ngồi đó một
mình trong đêm vắng, vài con đom đóm lập loè nhảy múa bên những lùm cây.
Với cái đèn pin đạp dưới chân, tôi ngồi cặm cụi cầm chặt cáí kềm để
tháo, gỡ những chỗ rối, cố hạn chế cắt ngắn vì sợi kẽm càng dài còn có
giá. Thỉnh thoảng tôi đứng lên nhìn chung quanh rồi lại ngồi xuống với
công việc, trong ngực tôi quả tim đập dồn dập liên hồi vì trong đầu cứ
lo lắng nghĩ tới ba đồng đội đang loay hoay với bó thuốc nổ bên trong
một kho đạn. Đây là lần hồi hộp và sợ hãi nhiều nhất mà tôi từng trải
qua, sợ hơn cả các lần nằm dưới mưa đạn của VC ở Hạ Lào và Quảng Trị.
Sau đây là diễn tiến do anh M kể lại từ lúc ba người vác “đồ nghề” đi
tới mục tiêu là cái “k”: Lúc đến được các bãi chưá đạn, anh M và N thì
nằm ngoài con đường đất chờ đợi (gần chiếc xe cháy), riêng anh T thì nằm
dài xuống sát bên ngoài bờ đất của ụ chưá đạn để nối các cốt mìn, kíp
nổ, hộp kích hoả và đồng hồ liền vào nhau (hộp kích hoả do anh T tự
“chế” từ một đồng hồ điện tử đeo tay). Sau đó anh nằm ngửa ôm bó mìn
rướn người nhích dần vô bên sâu trong ụ chưá đạn 155 ly. Khoảng 10 phút
sau anh bò ra rồi cả ba cùng hối hả chạy trối chết về chỗ tôi ngồi.Bốn người chúng tôi ngay lập tức cùng xúm vô tháo, cắt vv rồi quấn lại được một vòng dây kẽm gai nặng hơn 60 kg. Anh M thúc giục hai anh N và T mau chạy theo đường cũ về hướng Hố Nai, dọc đường nếu xui xẻo gặp bộ đội chặn đường thì cứ nói đi “mờ sờ” (mua sắt) nhưng bị lạc. Hai anh vội vàng đứng lên, tay cầm hai ống sắt dài làm vũ khí rồi biến mất trong bóng tối.
Bốn giờ sáng, tôi và anh M hai người khiêng khoanh kẽm gai tà tà đi về hướng cũ. Khoanh kẽm gai cứ đong đưa qua lại theo nhịp bước chân làm chúng tôi chẳng dám đi mau. Cả hai chúng tôi đều ướt đẵm mồ hôi, bàn tay thì rướm máu và đau rát vì bị cắt ngang cắt dọc. Đi phiá sau nhìn cái lưng đẵm ướt của anh M làm tôi cảm thấy thương mến, kính phục anh hơn lúc nào hết. Không biết anh đang nghĩ gì, còn tôi thì cứ nghĩ đến đoạn đường dài mà mình và đồng đội sẽ tiếp tục chiến đấu khi cộng sản vẫn còn trên quê hương Việt Nam.
Gần 9 giờ sáng hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1976, chúng tôi ngồi uống cà phê ở bốn bàn khác nhau như người xa lạ trong một quán nhỏ bên ngoài ga Hố Nai. Bỗng một tiếng nổ lớn từ phiá xa vang lên làm mọi người trong quán nhốn nháo. Ngay sau đó hàng loạt tiếng nổ chát chuá kèm theo. Chúng tôi cũng giả bộ chạy ra ngoài lẫn lộn với đám đông đang hoảng hốt, mọi người đưa tay chỉ về hướng một cột khói đen bốc cao trong khi tiếng nổ vẫn không ngớt vang động. Dọc theo đường lộ, xe cộ đều ngừng lại, tiếng người la hét khắp nơi và bóng người chạy tìm chỗ nấp ở những nơi mà họ tin rắng có thể an toàn. Có ai đó hớn hở la lên: “Tới rồi ! Tới rồi ! Phe ta về rồi” ! Xa xa, một đoàn người đông đúc đang bị VC tập trung đi diễu hành “mừng ngày 30 tháng 4” cũng bỏ chạy tán loạn. Các tấm băng rôn khẩu hiệu, cờ đỏ vv bị vứt nằm chỏng chơ dọc theo con đường, vài cái nón cối nằm lăn lóc bên vỉa hè trong lúc tiếng nổ vẫn ầm ầm từ xa vọng đến.
BĐQ Đỗ Như Quyên
https://hung-viet.org/p13a14633/vu-pha-no-kho-dan-long-binh-ngay-30-thang-4-nam-1976Nguo
Ngồn https://dongsongcu.wordpress.com/2017/05/13/vu-pha-no-kho-dan-long-binh-ngay-30-thang4-nam-1976/
Ngồn https://dongsongcu.wordpress.com/2017/05/13/vu-pha-no-kho-dan-long-binh-ngay-30-thang4-nam-1976/
Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
Tổng kho Long Bình được canh phòng cẩn mật và giữ bí mật ở mức độ cao. Phải chăng vì vậy, cho đến nay - dù đã "đổi chủ" hơn 40 năm song vẫn còn nhiều bí ẩn chưa có lời giải?
Những con số khiến thiên hạ phải giật mình
Sau
khi thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" và đưa quân đội vào tham
chiến tại miền Nam Việt Nam, lượng vũ khí và quân trang quân dụng để bảo
đảm cho đội quân này tăng lên theo cấp số nhân và càng ngày càng lớn.
Theo
các tài liệu thống kê để lại cho biết: Lượng đạn dược được chuyển đến
Việt Nam trung bình khoảng 40.000 tấn/tháng trong năm 1966, một năm sau
số lượng đã tăng lên gần gấp đôi đạt 75.000 tấn/tháng vào năm 1967.
Đầu năm 1968 số lượng vận chuyển đã tăng lên đến 90.000 tấn/tháng, đến giữa năm 1968 số lượng đã vượt quá 100.000 tấn/tháng.
Đấy
mới chỉ là khối lượng đạn dược. Còn để phục vụ đầy đủ cho một đội quân
nhà nghề "được trang bị tới tận răng" như quân đội Mỹ thì còn biết bao
nhiêu thứ quân trang, quân dụng khác.
Từ
các phương tiện chiến tranh như máy bay, xe tăng, pháo cối... cùng với
khí tài vật tư dự trữ phục vụ sửa chữa, bảo dưỡng trang bị cho đến lương
thực thực phẩm, quân trang quân dụng, đồ dùng sinh hoạt... của mỗi
người lính còn cao gấp nhiều lần con số đó.
Trong
khi đó, theo yêu cầu của Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ tại Nam Việt Nam
thì số lượng vật chất dự trữ phải đảm bảo đủ cho quân đội sử dụng ít
nhất là 6 tháng.
Và đó chính là lý do
bức bách mà Mỹ phải tiến hành xây dựng Tổng kho dự trữ chiến lược tại
Long Bình - một địa điểm vừa thuận lợi cho quá trình tiếp nhận hàng hóa,
đồng thời cũng có thể nhanh chóng tiếp tế cho cả 4 vùng chiến thuật và
Biệt khu Thủ Đô.
Với quy mô như vậy, Tổng kho Long Bình
được xây dựng trên diện tích khoảng 24 km2 với hàng chục phân kho. Mỗi
phân kho bao gồm hàng chục dãy nhà kho cả nổi cả chìm tùy theo loại hàng
hóa mà nó chứa trong đó.
Các nhà kho
nổi thường được làm bằng nhà thép tiền chế khẩu độ rộng với chiều dài
từ vài chục đến hàng trăm mét. Còn các kho chìm dùng để chứa bom đạn,
hóa chất... thì thường có mái vòm bằng tôn dày, sau đó đổ đất lên trên.
Xung
quanh các nhà kho thường có lũy đất hoặc thùng phuy sắt đổ đất xếp
chồng lên nhau bảo vệ. Một số hàng hóa cồng kềnh, nặng nề như máy bay
trực thăng, xe tăng, xe thiết giáp - nhất là số cũ hỏng đem về đổi và
sửa chữa thì để ở ngoài trời...
Để
ra vào tổng kho (TK) có 12 cổng mở theo nhiều hướng khác nhau với hệ
thống đường sá rất hiện đại. Hàng ngày có hàng ngàn chuyến xe trọng tải
lớn ra vào song không bao giờ có hiện tượng ùn tắc xảy ra.
Với
khối lượng hàng hóa tàng trữ trong kho lên đến hàng chục triệu tấn, TK
Long Bình trở thành kho dự trữ chiến lược lớn nhất ngoài nước Mỹ của
quân đội Hoa Kỳ và được quản lý bằng máy tính IBM 360/50- một trong
những hệ thống máy tính hiện đại nhất thời đó.
Do
tính chất quan trọng như vậy, TK Long Bình được bảo vệ hết sức cẩn mật
và nghiêm ngặt. Xung quanh TK có hàng rào dây thép gai từ 7 đến 12 lớp;
giữa các hàng rào dây thép gai đều bố trí mìn nhiều loại. Phía trong và
ngoài hàng rào đều bị phát quang.
Phía
trong hàng rào có đường dành cho xe tuần tra. Dọc đường tuần tra, cứ
vài trăm mét lại có một tháp canh, trên đó được trang bị đèn pha cực
mạnh để chiếu sáng ban đêm. Giữa các phân kho cũng có hàng rào dây thép
gai.
Toàn bộ phần bên trong kho gần
như không có cây xanh lớn, chỉ có loại cỏ Mỹ mà lá sắc như dao. Đảm
nhiệm công tác bảo vệ kho thường xuyên là 2000 sĩ quan, binh lính.
Ngoài ra, còn một số đơn vị chiến đấu cũng có doanh trại trong khuôn viên kho nhưng được ngăn cách đặc biệt với kho hàng.
Có
điều không hiểu sao trong khi các nhà kho xây dựng rất vững chắc, lâu
bền thì nhà ở của sĩ quan, binh lính và nhân viên trong kho lại khá đơn
giản và có vẻ ngắn hạn. Đó thường là loại nhà làm bằng gỗ xẻ lợp tôn.
Các
thanh gỗ kích thước 15 x 6 cm được lắp ghép thành khung nhà (chỗ nào là
cột thì ghép 2-3 thanh bằng đinh rồi bắt bu- lông xuống nền bê tông),
mặt trong vách dùng gỗ dán, mặt ngoài gỗ xẻ "lợp" như vẩy cá.
Giữa
hai lớp là chất chống nóng khá giống mùn cưa. Sàn cũng bằng gỗ xẻ và
trải một lớp nhựa mỏng. Nhà ở của sĩ quan thường là nhà 2 tầng, phòng có
máy điều hòa nhiệt độ; còn binh sĩ và nhân viên thì ở nhà 1 tầng, khu
vệ sinh chung.
Mặc dù được bảo
vệ như vậy song TK Long Bình cũng đã bị đặc công Quân giải phóng (QGP)
"hỏi thăm" nhiều lần và cũng tổn thất đáng kể. Một số trận đánh tiêu
biểu như:
Trận đánh ngày 23.6.1966, phá hủy 40.000 viên đạn pháo.
Đêm 03.02.1967, làm nổ tung 40 dãy nhà kho, phá hủy 800.000 viên đạn pháo.
Ngày 13.8.1972, phá hủy 17 dãy nhà, thiêu hủy 15.000 tấn bom đạn, xăng dầu, diệt 300 địch.
Ngày 14.12.1972, phá hủy gần 200 xe quân sự.
Từ
khi thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", quân đội Mỹ giảm
dần sự hiện diện tại chiến trường miền Nam. Cho đến khi Hiệp định Pa- ri
được ký kết, quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam thì TK Long Bình cũng từng
bước được bàn giao cho quân lực Việt nam Cộng Hòa (VNCH).
Khi về tay VNCH, lượng hàng hóa trong kho vẫn còn tương đối phong phú nên quân lực VNCH vẫn khá dồi dào về nhiên liệu, đạn dược.
Các
tài liệu lưu trữ cho thấy: Tháng 2.1973, quân lực VNCH đã sử dụng
78.000 tấn bom đạn - nghĩa là gần bằng những tháng cao điểm khi còn quân
Mỹ. Trong cả năm 1973, VNCH sử dụng 326.000 tấn bom đạn, nhiều nhất từ
trước đến lúc ấy.
Tuy nhiên, của
kho không vô tận. Cùng với lượng viện trợ của chính phủ Mỹ giảm dần từ
1,4 tỷ USD/ năm xuống 700 triệu, rồi 300 triệu USD/ năm, lượng hàng hóa
viện trợ cũng giảm sút nhanh chóng.
Theo
hồi ký của TS Nguyễn Bá Cẩn, một trợ lý thân cận của Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu thì từ năm 1973 trở đi, lượng hàng hóa, vật tư dự trữ trong TK
Long Bình chỉ đủ đảm bảo cho quân đội 3 tháng thay vì 6 tháng như trước
đây.
Mùa Xuân năm 1975, sau những
thất bại liên tiếp tại địa bàn Quân khu I và II, ông Thiệu chủ trương
"trì hoãn chiến" cố giữ lấy quân khu IV và vùng đất còn lại để tìm một
giải pháp chính trị nên đã ra lệnh cho quân đội phân tán TK Long Bình về
địa bàn Quân khu IV (Miền Tây Nam Bộ).
Tuy nhiên, công việc này được triển khai chậm và thiếu tính tổ chức nên không mấy hiệu quả và thất thoát nhiều.
Hãy nghe một sĩ quan VNCH thuộc Quân đoàn 4 hồi tưởng:
"Ngày
28.4.1975- Ban chỉ huy Trung đoàn đóng tại Trường Trung học Cần Giuộc.
Phía trước là đồng ruộng, sau mùa gặt nên đất đã khô và trơ những gốc
rạ.
TK Long Bình có lệnh phân
tán quân trang quân dụng nên đã đưa xuống đây cả mấy chục chiếc GMC và
xe JEEP các loại kèm theo một lệnh miệng: Mỗi xe chỉ có đầy bình xăng, sử dụng chiếc nào đến hết xăng là bỏ luôn.
Vừa xe, vừa gạo và quân trang chất thành những đống cao giữa trời, trên những đám ruộng khô".
Trước
tình hình ấy, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, một phân đội đặc công của
QGP Miền (B2) được giao nhiệm vụ tiến công TK Long Bình và họ đã hoàn
thành nhiệm vụ mà không gặp mấy khó khăn. Từ đó, TK Long Bình thuộc
quyền kiểm soát của QGP miền Nam Việt Nam.
Những tin đồn "vô tiền khoáng hậu"
Do
quy mô lớn, lượng hàng hóa phong phú lại được bảo vệ hết sức cẩn mật
nên ngay từ khi mới đưa vào sử dụng, TK Long Bình đã được bao bọc trong
màn khói vô cùng bí hiểm và gây sự chú ý đặc biệt đối với dân chúng xung
quanh nói riêng cũng như cả miền Nam nói chung.
Người
ta thì thầm rỉ tai nhau: "TK Long Bình không thiếu một thứ gì, kể cả
những loại vũ khí tối tân nhất!". Rồi họ ngó trước, ngó sau và tranh
luận với nhau xem trong đó có "bom nguyên tử hay không?".
Lại
có người viện dẫn lời của những người quen biết làm "ở trỏng" mà khẳng
định chắc nịch: "Trong đó có 2 "mũi tên gẫy" là loại vũ khí tối tân nhất
của Mỹ, có sức hủy diệt ngang với bom nguyên tử và vẫn đang trong giai
đoạn nghiên cứu".
Người ta còn mắt trước mắt sau rồi thì thầm vào tai nhau: "Ngoài
những nhà kho trên mặt đất thì TK Long Bình còn một hệ thống hầm ngầm
lớn hơn rất nhiều (có người còn khẳng định rộng đến 300 km2).
Các
kho ngầm này có nhiều lớp cửa, khóa cửa có mã khóa bí mật. Nếu mở không
đúng sẽ tự hủy và vụ nổ này có thể sẽ tàn phá một nửa thành phố Sài Gòn
và toàn bộ thành phố Biên Hòa".
Thật sự đó là những thông tin hết sức hấp dẫn đối với trí tò mò của mọi người và nó cứ thế lan truyền!
Trong
khi đó, ngay sau 30.4.1975 TK Long Bình được sử dụng làm nơi đóng quân
của hầu hết các đơn vị binh chủng kỹ thuật của Binh đoàn Hương Giang như
Lữ đoàn xe tăng 203, các Lữ đoàn Pháo binh, Công Binh và Phòng
Không....
Tuy nhiên, các đơn vị này
cũng chỉ sử dụng phần doanh trại của các đơn vị quân đội và nhà ở của sĩ
quan, binh sĩ, nhân viên tổng kho và không đụng chạm gì đến các phân
kho.
Trong thời gian đầu - khi mà
công tác bảo vệ kho chưa vào quy củ chặt chẽ thì "lính tráng" các đơn vị
cũng giành nhiều thời gian khám phá xung quanh và họ chỉ biết trầm trồ
trước sự phong phú, dồi dào của hàng hóa, vật tư chứa chất ở nơi đây.
Riêng
về xe quân sự - kể cả tăng thiết giáp và ô tô- đã lên đến gần 1.000
chiếc. Tất nhiên, họ cũng thu một số "chiến lợi phẩm" song chủ yếu là đồ
ăn, thức uống cùng một số vật tư phục vụ cho việc bảo quản, bảo dưỡng
trang bị mà thôi.
Còn các đơn vị cũng tranh thủ tăng cường vào biên chế của mình một số loại phương tiện vận tải thích hợp.
Một
thời gian ngắn sau đó, TK Long Bình được giao cho Tổng cục Kỹ thuật
quản lý. Từ đó, công tác bảo vệ và bảo quản được tiến hành chặt chẽ hơn
rất nhiều nên hầu hết vật tư, hàng hóa trong TK vẫn còn nguyên vẹn.
Song
song với việc đó, một đoàn cán bộ kỹ thuật của QĐND Việt Nam từ Hà Nội
vào đã nhanh chóng tiếp quản và khai thác thành công hệ thống máy tính
IBM360/50- trong đó có dữ liệu quản lý kho của quân lực VNCH.
Sau
khi khai thác thành công - khoảng 1 tháng sau ngày tiếp quản, đoàn công
tác đã cung cấp cho Tổng cục Kỹ thuật danh mục toàn bộ hàng còn tồn
trong các kho, trong đó kho lớn nhất là Tổng kho Long Bình.
Đây là một thành công lớn trong công tác tiếp quản Tổng kho của QĐND Việt Nam.
Với
dữ liệu đầy đủ và lực lượng được tăng cường, công tác quản lý và bảo
quản hàng hóa, vật tư trong TK Long Bình đã càng ngày càng đi vào nề
nếp, đảm bảo quy trình nghiêm ngặt đối với những chủng loại hàng hóa
khác nhau.
Các loại hàng hóa, vật tư
phù hợp đã được huy động phục vụ cho việc sửa chữa trang bị vũ khí. Đặc
biệt là phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam
và làm nhiệm vụ quốc tế.
Một số phế
liệu hoặc vật tư lưỡng dụng có thời hạn cũng được thanh lý để dùng vào
mục đích dân dụng như lốp xe cũ, nhựa đường...
Thời
kỳ đổi mới, một phần diện tích của TK Long Bình cũ đã được sử dụng cho
mục đích khác như xây dựng khu công nghiệp, doanh trại quân đội, nhà ở
cho cán bộ- nhân viên...
Tuy nhiên,
phần lớn diện tích vẫn tiếp tục được sử dụng làm kho của Quân đội, vẫn
được bảo vệ nghiêm ngặt và vẫn có phần kỳ bí như xưa.
Trong
điều kiện đó, những tin đồn xung quanh cái Tổng kho bí ẩn vẫn tiếp tục
được lan truyền rộng rãi, nhất là khi có một sự kiện nào đó như cháy, nổ
xảy ra quanh khu vực đó.
Nào là: "Việt nam đã nhờ cả Liên Xô mở khóa các kho ngầm, một số chuyên gia đã bị hy sinh song vẫn không thành công!".
Nào
là: "Sau khi quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ được bình thường hóa, phía Mỹ đã
đề nghị Việt Nam cho họ mở khóa với điều kiện sẽ "cưa đôi" những thứ
trong đó- riêng 2 "mũi tên gẫy" phải trả về cho họ. Tuy nhiên, không
hiểu vì lý do gì mà phía Việt Nam không đồng ý"... v.v... và v.v...
Những tin đồn về TK long Bình không chỉ tồn tại trong nước mà cả ở nước ngoài- nhất là ở Mỹ. Thậm chí một tờ báo Mỹ còn đưa tin:
"Năm
2001, Mỹ từng cử 1 đội biệt kích thuộc quân đoàn Gost Recon và Skull
tham gia chiến dịch thu hồi 2 "mũi tên gãy" ở VN nhưng nhiệm vụ thất
bại. Toàn bộ 12 binh sĩ Mỹ hi sinh tại Long Bình do bị phát hiện. Tất cả
thi thể 12 binh sỹ đều bị tiêu huỷ hoàn toàn".
Không
loại trừ sẽ còn nhiều lời đồn đoán "vô tiền, khoáng hậu" nữa về bí ẩn
Tổng kho Long Bình tùy theo trí tưởng tượng của tác giả. Thôi thì ai tin
cứ tin! Còn Tổng kho Long Bình thì vẫn thế mà thôi!
theo Thế giới trẻ
Bạn đọc có thể báo tin, gửi bài viết, clip, ảnh về email quansu@ttvn.vn để nhận nhuận bút cao trong vòng 24h.
Đường dây nóng: 0943 113 999