40 năm hỗn danh “ngụy” và những trận đòn thù của ác quỷ!
Lê Thiên (Danlambao) -
Con người Việt Nam vốn nặng tình quê hương Tổ Quốc. “Bỏ nước” là bỏ nơi
chôn nhau cắt rốn, là bỏ mồ mả ông bà cha mẹ, bỏ quê cha đất tổ… Thế
mà, sau 30/4/1975, người dân Miền Nam Việt Nam, hàng triệu người hăm hở
ra đi, cách này hay cách khác, bằng mọi giá, kể cả cái giá của chính
sinh mạng mình: Vượt biên, vượt biển đầy hiểm nguy, bất trắc, chín mất
một còn, vẫn lao vào cõi chết để tìm sự sống! Từ 400 đến 500 ngàn người
mất xác giữa biển cả làm mồi cho cá mập vì bị hải tặc sát hại hay bão tố
đánh chìm tàu ghe! Hoặc bị phanh thây bởi thú rừng nơi hiểm hóc xa xôi
không ai biết. Vì sao?
Những nạn nhân bị triệt đường sống.
Cách đây 40 năm, ngày 30/4/1975! Việt Nam Cộng Hòa, tức Miền Nam Việt
Nam rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Vô sản chuyên chính ngự trị! Quả
không có tắm máu, nhưng tang thương bao trùm! Toàn Miền Nam Việt Nam
rướm máu! Bế quan tỏa cảng! Lao động khổ sai quần quật! Đói rách triền
miên! Bắt bớ! Dọa dẫm! Hiếp đáp! Tù đày! Khủng bố trắng kéo dài, năm này
sang năm khác! Không ít người bị thủ tiêu, mất tích!
Người dân Miền Nam Việt Nam bị tròng vào cổ cái ách nô lệ thời đại mới
với bao điều thống khổ, sống dở chết dở, ngoại trừ một số rất nhỏ những
phần tử nằm vùng tiếp tay cho CS phá hoại Miền Nam. Không ai còn lựa
chọn nào khác để bảo đảm một cuộc sống an bình về tâm hồn, lành mạnh về
thể xác, một cuộc sống trong đó lẽ ra mọi người đều bình đẳng cùng hưởng
những quyền tự do tối thiểu như nhau.
Suốt chặng đường dài 30-40 năm, người Việt Nam nơi đất khách, như trên
đất nước Hoa Kỳ chẳng hạn, ai mà chẳng trải nghiệm đôi lần bị kỳ thị, bị
phân biệt đối xử? Ở bên nhà, mỗi lần vớ được một tin tức kỳ thị tại Hoa
Kỳ, CSVN không bỏ cơ hôi khai thác, phóng đại thành những hình ảnh vô
cùng đen tối và ghê rợn. “Nước Mỹ là thế đấy! Bạo hành! Cướp giật! Kỳ
thị nhan nhản!” Trong khi đó, trên thực tế, các vụ kỳ thị ở Mỹ phần lớn
mang tính cá nhân hay bè nhóm riêng lẻ ở một xứ sở gọi là Hợp Chủng Quốc – nước của nhiều chủng tộc, nhiều sắc dân
từ khắp thế giới tấp nập dồn về hàng ngày, hàng giờ! Làm sao tránh khỏi
những va chạm về màu da chủng tộc hay văn hóa, ngôn ngữ và tập quán?
Nhưng hoàn toàn thua xa chính sách, chủ trương phân biệt đối xử do chế
độ CS tại Việt Nam dựng lên từ 1975 đến nay, mà nạn nhân đứng đầu bị kỳ
thị là những người cộng tác với chính thể VNCH cùng thân nhân của họ!
Kỳ thị tại Việt Nam dưới chế độ cộng sản.
CSVN luôn vỗ ngực tự cho mình “ưu việt”, là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, là lực lượng “bách chiến bách thắng dưới ngọn cờ Mác-Lê vĩ đại”!
Từ cái não trạng kiêu đảng (tự tôn mặc cảm) này cộng với nỗi sợ mất đi
độc quyền đảng trị (do tư ti mặc cảm), nhà cầm quyền CSVN càng đẩy mạnh
chính sách phân biệt đối xử tới chỗ kỳ thị không khoan nhượng qua chiêu
bài đấu tranh giai cấp và phân biệt lằn ranh đảng-ngụy!
Kỳ thị giai cấp.
Thấy gì trong đấu tranh giai cấp của CSVN?
Năm 1954, CSVN dưới tên gọi là Việt Minh (VM) cấu kết với thực dân Pháp
chia đôi đất nước Việt Nam thành hai miền. Qua Hiệp Định Genève 1954,
CSVN hiến dâng Miền Nam cho thực dân Pháp, VM thống trị Miền Bắc. Quốc
gia Việt Nam tẩy chay Hiệp định vì nó vi phạm nguyên tắc “toàn vẹn lãnh
thổ” của quốc gia dân tộc.
Tại Miền Bắc, VM nhận lệnh của quan thầy Mao Trạch Đông bên Tàu, thực
hiện Cải Cách Ruộng Đất, phát động những cuộc đấu tố man rợ nhắm vào các
thành phần “trí, phú, địa, hào, tư sản”. Hàng trăm ngàn người Việt Nam
bị tố oan, tù oan, giết oan. Dân chúng quê mùa chất phác và cả trẻ em bị
cán bộ VM lùa đi, ép phải dự những phiên đấu tố mất tính người, phải hò
hét “Giết nó! Giết nó đi!”
Thực hiện khẩu hiệu “giết lầm hơn bỏ sót”, đảng cộng sản chẳng phải chỉ hô hào “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ”
(Tố Hữu) mà còn xúi giục và cả bức bách con cái đấu tố cha mẹ, vợ chồng
đấu tố lẫn nhau, bà con, hàng xóm láng giềng rình rập nhau, tố cáo lẫn
nhau, buộc tội cho nhau, kết án nhau và dìm nhau chết để cho “vô sản chuyên chính” lên ngôi toàn trị!
Một trận càn quét mang tính kỳ thị vô nhân đạo được thực hiện dưới danh nghĩa “đấu tranh giai cấp” như Xuân Diệu hô hào:
Anh em ơi! Quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù,
Địa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
...
Mọi giềng mối quan hệ tình nghĩa luân lý tốt đẹp bị đảo lộn và triệt tiêu hoàn toàn.
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ mọp xuống đọa đày chết thôi!...
Sách báo đã nói nhiều về Cải Cách Ruộng Đất cùng với những hệ lụy của
nó. Người ta ước tính có hơn 160 ngàn người là nạn nhân của những cuộc
đấu tố sắt máu dã man trên.
Kỳ thị đảng -- ngụy.
Ngoài Bắc thì kỳ thị giai cấp như vậy. Trong Nam thì sau khi thắng cuộc, CSVN đánh vào toàn thể quân-dân-cán-chính Miền Nam Việt Nam bằng một cuộc đấu tranh khác. Đó là Kỳ thị đảng -- ngụy.
Kể cả khi cần tranh thủ nhân tâm như thời Tết Mậu Thân 1968 ở Huế cũng
như sau khi đã thắng trận (1975), CSVN luôn đặt chính sách kỳ thị đảng – ngụy lên hàng đầu hầu bảo đảm sự sống còn và vai trò thống trị độc quyền độc đảng trên cả nước.
Những ai phục vụ trong Chính quyền VNCH dù ở đẳng cấp nào từ Trung ương xuống xã ấp, như thư ký xã, chạy công văn cũng đều là NGỤY QUYỀN. Tham gia Quân lực VNCH dù là anh binh nhì, chú Nghĩa quân cũng là NGỤY QUÂN. Người dân có thân nhân dính líu tới “ngụy quân”, “ngụy quyền” thì là DÂN NGỤY!
Sức tuyên truyền, nhồi sọ kiểu tẩy não của CSVN thật là khủng khiếp! Cái
từ “NGỤY” trở thành một thứ khắc tự nung lửa đóng vào đầu, vào trán và
sau lưng hàng triệu nạn nhân như thế. Cả đám trẻ nít mới cắp vở tới
trường cũng bị nhét vào đầu những từ ngữ mất dạy để chúng “vô tư” hỗn
xược với các bậc cha ông của chúng: thằng ngụy, tên ngụy, bọn ngụy, lũ ngụy…
“Đánh cho ngụy nhào”! Chưa hả hê sao? Hạ nhục và nhận sâu người
ta xuống hàng chó ngựa từ bao chục năm, vẫn chưa thỏa lòng sao? Tiếp tục
gây hận thù, hiềm khích đến bao giờ mới thôi trong khi mồm cứ lải nhải “hòa hợp hòa giải” láo toét?
Có kỳ thị không trong cách gọi tên?
Có một thời, tại Miền Nam Việt Nam, người ta thỉnh thoảng nghe tới những từ “Cộng phỉ” và “Cộng nô”. Nhưng rồi hai nhóm từ ấy vắng bóng dần. Sau 1975, tại hải ngoại, có người gợi ý dùng lại từ “Cộng phỉ” để nói lên bản chất ăn cướp và gian ngoa của CSVN. Hay từ “Cộng nô” để nói về tính chất nô dịch, tôi đòi của CSVN đối với Tàu Cộng và Liên Xô. Hoặc gọi là “Cộng tặc”
để chỉ cái căn tính gian ác, điêu ngoa, đạo tặc của CSVN. Rất chính
xác! Nhưng người dân Miền Nam Việt Nam vốn xởi lởi khoan dung, nặng tình
người, nên những từ ấy không còn phổ biến tuy ai cũng biết PHỈ, NÔ và
TẶC là cốt cách, là bản chất của CSVN. Lại những từ ngữ ấy không hề là
chủ trương hay mệnh lệnh xuất phát từ những nhà lãnh đạo quốc gia VNCH
trước năm 1975, mà chỉ là những “hỗn danh” mang tính đối phó dân gian mà
thôi.
Còn cái tên gọi “Việt Cộng” thì chỉ là viết tắt từ Cộng sản Việt Nam! Nó không hề ngụ ý hạ nhục. Cộng sản Việt Nam trước kia đã chẳng tự nhận mình là Việt Minh sao? Việt Minh là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đấy. Những từ ngữ viết tắt kiểu như vậy đâu xa lạ gì với ngôn ngữ Việt Nam! Việt Cách là Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Việt Quốc là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Việt Tân là Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, vân vân.
Về tên người cũng thế, người dân VNCH thể hiện tấm lòng độ lượng của
mình trong cả cách gọi tên. Chẳng hạn, họa hoằn mới thấy có một bài báo
hay một người nào đó gọi tắt Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh… là Minh, Duẩn, Chinh…
Đó không hề là chủ trương của nhà cầm quyền VNCH trước 1975! Trong khi
đó đối với các nhà lãnh đạo VNCH, nhà cầm quyền CSVN luôn buộc cả cán bộ
lẫn dân chúng phải dùng một lối gọi hoàn toàn vô văn hóa, mất dạy, như Mỹ-Diệm, Mỹ-Thiệu…hoặc “thằng” này, “con” nọ, “tên”
kia, với các bậc đáng tuổi cha, tuổi mẹ, ông, bà. Nhà văn Vũ Thư Hiên,
tác giả quyển Đêm Giữa Ban Ngày, xác nhận: Báo chí, sách vở tại miền Bắc
đều được lệnh phải gọi tất cả những nhà lãnh đạo các nước không theo
Cộng Sản là “thằng” để tỏ ra là có lập trường giai cấp. Theo ông Hiên, cái thói gọi bằng “thằng” là do chính ông Hồ Chí Minh đặt ra, chẳng phải chỉ gọi nhà lãnh đạo VNCH là “thằng Ngô Đình Diệm”, (sau này là “thằng Thiệu”, “thằng Kỳ”), mà còn cả với nhà lãnh đạo Singapore, cũng là “thằng - thằng Lý Quang Diệu” chỉ vì các vị trên đều chống chủ nghĩa Cộng sản.
“Ngụy”! – Còn từ nào độc địa hơn?
Cái từ “ngụy” mà CSVN gán cho quân-dân-cán-chính
VNCH rõ ràng là từ ngữ bộc lộ cách gọi hoàn toàn vô giáo dục xuất phát
từ miệng lưỡi bệnh hoạn hôi hám của phường bất lương hạ cấp! Bộ máy
tuyên truyền CSVN phổ biến cái “hỗn danh” mất dạy ấy, cấy nó vào đầu óc
người dân, để ai nấy khi nói tới “ngụy” là nói tới những thứ ghẻ lở cùi
hủi gớm ghiếc. Trong khi trên thực tế, những người bị đóng khắc tự
“ngụy” chẳng làm gì phản dân hại nước cả. Chính nghĩa họ sáng ngời trong
việc họ hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc từ nội địa
tới tận các vùng biển đảo xa xôi!
Trái lại, ai hèn với giặc, ác với dân, cả nước đều rõ! Bằng chứng rành
rành! Thậm thụt nộp đất, dâng đảo cho Hán tặc, là ai, ai là thủ phạm?
Còn biết bao điều bí mật, rồi đây trước sau gì cũng sẽ “thanh thiên bạch
nhật rõ ràng cho coi”! Cái bọn mại quốc cầu vinh ấy, cứ theo phép nước
của vua Lê Thánh Tôn mà tru di chúng là vừa!
Khốn nạn thay! Tất cả những nạn nhân bị gán cho cái nhãn NGỤY đều bị
loại ra khỏi dòng sinh hoạt của dân tộc, bị chặn đường sống, chặn đường
tiến thân, cả gia đình bị dìm vào cái án “lý lịch đen” muôn năm với từ
“ngụy” tô đậm!
Là “ngụy” thì đâu có quyền sống cuộc sống yên hàn. Đâu có quyền sở hữu
tài sản đáng giá, nhất là bất động sản ở thị xã, thành phố. Đâu được
quyền có công ăn việc làm xứng hợp với khả năng, kiến thức hay sở trường
chuyên môn. Và dĩ nhiên cũng mất đi quyền có một chỗ đứng xứng đáng
trong xã hội! Nông thôn sẽ là nơi cư trú cố định cho “thành phần ngụy”
với sự giám sát và quản lý của HTX/NN và chính quyền địa phương. Chỉ cạp
gốc rạ, ăn tro mò trấu! Con cháu của “ngụy” phải chịu chung một số phận
cha ông của chúng! Suối đời mang bản án “ngụy” cùng mọi hệ quả mà bản
án chung thân truyền đời ấy định đoạt!
“Ngụy ác ôn”.
Xin ghi lại đây lời kể của một bà mẹ: Năm 1983, đứa con trai 10 tuổi
của tôi theo học tại trường học xhcn ở vùng nông thôn. Một hôm, sau buổi
học, về nhà cháu bỗng lăn ra vật vã trên giường, khóc sướt mướt. Hỏi
mãi điều gì đã xảy ra. Nó cứ lắc đầu và không hết khóc. Cuối cùng, nó
hỏi tôi: “Ba ác ôn lắm hở mẹ? Ác ôn làm sao?”
Tôi lờ mờ đoán ra được điều gì, nhưng vẫn hỏi lại con mình: “Ác ôn
thế nào? Ai bảo thế?” Thằng con tôi nói: “Cô giáo, cô giáo người Bắc kêu
học trò trong lớp hãy cảnh giác lánh xa cái thằng con của ‘tên Cảnh sát
ngụy ác ôn’; nếu không, điểm đạo đức sẽ bị hạ xuống loại kém!”
Tôi nghẹn ngào chảy nước mắt cùng với con mình!
Điều đáng buồn là ngay sau biến cố trên, trường học xhcn ở Việt Nam
trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng cho đứa con trai tôi. Bạn bè nó nhìn nó
bằng những con mắt khác, nghi ngờ trộn lẫn khinh chê! Nó mặc cảm với hết
mọi người ở đó, luôn tìm cách vắng lớp, bỏ học. Nhà trường thì coi đó
là dịp để loại trừ một phần tử nguy hiểm cho chế độ - con của “cảnh sát
ngụy ác ôn”!
Cái án dành cho “con ngụy” không phải chỉ chừng ấy thôi. Nó bao trùm
nhiều mặt trong mọi lãnh vực, hận thù đằng đẳng vô cùng dã man.
Phân loại đối tượng(1) trong giáo dục.
Chẳng hạn, CSVN tổ chức xây dựng đoàn-đảng trong trường học, dùng học sinh “con cái cách mạng” như là “hạt nhân đỏ”
nắm giữ các chức vụ chi ủy đảng/đoàn nhà trường, hoặc trưởng lớp,
trưởng trường, mà nhiệm vụ chính là bám sát, theo dõi, báo cáo mọi hành
vi của đám học sinh đối tượng - “con cái bọn ngụy ác ôn”.
Từ hồ sơ nhập học tới phiếu điểm, sổ điểm, học bạ, mọi thứ đều thông qua chính sách phân loại đối tượng (gồm 14, 15 cấp đối tượng khác nhau). Những học sinh thuộc diện “Thứ nhất con lai, Thứ hai con ngụy, Thứ ba Thiên Chúa giáo"(2) đều là đối tượng từ số 11 tới 15, đứng cuối bảng vì… “lý lịch đen”!
Còn cái nhóm gọi là con nhà cách mạng dĩ nhiên “ưu tiên 1”. dù học hành,
đạo đức chẳng ra gì, hầu hết u mê dốt nát, đầu trộm đuôi cướp, lưu
manh, ngỗ ngáo! Vẫn ngồi trên đầu thiên hạ!
Tội nghiệp cho thân phận các em con lai, con ngụy, Thiên Chúa giáo, trở
thành những đứa trẻ bên lề xã hội, chúng buộc phải bỏ trường, bỏ lớp, cù
bơ cù bấc, cu li cu liếc, lang thang bươi rác nhặt ve chai hay lao vào
những ổ ma túy, trộm cắp, du côn du đảng! Để rồi người ta vin vào đó mà
la toáng lên: chúng nó đó, “tàn dư văn hóa đồi trụy Mỹ-ngụy”.
Thú nhận có phân biệt đối xử.
Năm ngoái, ngày 03/4/2014, người ta đọc thấy trên báo Đất Việt một bài của tác giả Thuận Hòa nhan đề Trăn trở về hòa hợp dân tộc của cố Thủ tướng. Bài viết cố ý gợi nhắc lời phát biểu của ông Võ Văn Kiệt rằng “Có một thời kỳ sự hẹp hòi, thành kiến và đố kỵ đã
làm tổn thương tình cảm của dân tộc... Thay vì phải làm sao giảm bớt
nỗi đau của những gia đình Việt Nam có người thân… phải cầm súng... và
đã tử trận, thì cho đến bây giờ vẫn còn nhiều trường hợp bị phân biệt đối xử. Không ai lựa cửa để sinh ra. Vì vậy, chúng ta không nên khoét sâu thêm vết thương trong lòng mỗi người Việt Nam.”.
Tác giả lại trích lời ông Gs Cao Huy Thuần (cán bộ CSVN tại Pháp) nói rằng “Đã gọi là dân tộc, sao còn phân biệt ngoài với trong, sao còn chia năm xẻ bảy hạng người Việt này với hạng người Việt kia?”
Thuận Hòa còn trích dẫn lời phát biểu của ông Võ Văn Sung, cựu đại sứ CSVN tại Pháp: “Những người bị ép cầm súng vì không trốn lính được đó phải mang cái án suốt đời, đó là án ‘ngụy quân’. Còn người làm trong chính quyền cũ cũng mang cái án ‘ngụy quyền’... Sự phân biệt đối xử
kéo dài nhiều năm và khó có thể kể hết những tổn thất từ đó sinh ra. Sự
tổn thất không chỉ đối với cá nhân mà đó là thiệt hại chung cho cả xã
hội.”
Võ Văn Sung còn nêu rõ: “Duy chỉ chủ nghĩa lý lịch thôi cũng vùi dập không biết bao nhiêu nhân tài hoặc người có năng lực. Có không ít học sinh thi đậu đại học nhưng không được học. Các em không thể ‘lựa cửa để sinh ra’ nhưng phải chịu trách nhiệm về việc làm của cha mẹ mình”.
Những trích dẫn trên cho thấy những điều chúng tôi trình bày trong bài này là sự thật, không hề tô vẽ, thêm bớt.
Phân biệt đối xử tài năng.
Sự đối xử mang tính loại trừ và triệt tiêu đường sống “thành phần ngụy” không là chuyện riêng lẻ cá biệt, mà là một sách lược trường kỳ
của cái đảng không có tính người, chủ trương đày đọa đến cùng hết mọi
đối phương! Nghĩa là hàng triệu người dân Miền Nam Việt Nam đã là “ngụy”, thì muôn đời cứ là “ngụy”, là kẻ thù của chế độ CS, là những kẻ hoặc phải vất ra bên lề xã hội, hoặc phải chết thôi!
Nhớ lại sau năm 1975, có vài nhân vật “gốc ngụy” được CS tái sử dụng
trong một ít lãnh vực chuyên môn, như ngành y tế, giáo dục và ngành khoa
học kỹ thuật. Nhưng việc lưu dụng ấy chỉ mang tính giai đoạn tạm thời
khi mà “người rừng về phố” còn cần đến! Được việc rồi, khi người rừng đã
biết mặc chiếc áo thị thành thì lập tức họ giở quẻ chơi trò tráo trở
lưu manh, thay trắng đổi đen, đạp người tài xuống tận đáy cùng của xã
hội sau khi vắt cạn kiệt ngón nghề của người tài! Gán cho họ một cái tội
“phản động” vu vơ nào đó rồi tống vào tù! Thầy giáo tháo giầy! Kẻ sĩ
vào chuồng khỉ!
Với CS, ngụy là ngụy! Mà ngụy thì chỉ có loại trừ và đày đọa!
CIA cài lại cả đấy! Trừ một ít viên chức VNCH cấp thấp trong ngành giáo
dục và y tế tuy được chế độ mới tái sử dụng, nhưng luôn bị canh chừng
và nhiều khi bị đặt vào những vị trí lệch với khả năng chuyên môn của
mình. Khốn nạn nhất là, khi các viên chức ấy đến tuổi hưu, “thâm niên công vụ” của họ chỉ được xem xét để cho hưởng chế độ hưu bổng kể từ sau 30/4/1975; còn thời gian phục vụ trước đó thì đều là công dã tràng,
bị xóa hoàn toàn, dù trong thực tế dưới chế độ cũ lẫn chế độ mới, họ
cũng đều miệt mài trong lãnh vực giáo dục tuổi thơ, mầm non của Tố quốc
và phục vụ bệnh nhân!
Thế nên, nơi thiên đường CS, chuyện trọng dụng nhân tài, chuyện chiêu
hiền đãi sĩ là chuyện không tưởng! Ai cho phép chiêu hiền đãi sĩ để bọn
hiền sĩ chiếm lĩnh quyền đảng? Đảng ta ưu việt! Đỉnh cao trí tuệ! Cho
nên tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư, phó giáo sư đều phải từ đảng mà ra! Đảng
độc quyền trong mọi lãnh vực! Nhưng trên thực tế, mấy ông “sĩ” bà “sư”
trong đảng lại nhờ đến đô-la Mỹ mới có được mấy mảnh bằng trương lên lòe
chức sư, chức sĩ, để được tăng lương và thăng chức! Toàn bằng mua, bằng
giả, hoặc bằng thật học giả! Khiến cho bầy trẻ nít dung dăng dung dẻ
bài đồng dao “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Vậy mà người ta vẫn vênh vênh tự đắc… đại trí thức, trưng bằng, trưng chức, trưng học vị ào ào! “Trí thức – cục phân”, có lẽ lời của Mao Trạch Đông áp dụng đúng nhất cho loại trí thức “ngu” và “dốt” này!
Kỳ thị là căn tính và là sự sống còn của đảng CSVN.
Sau 30/4/1975, cả triệu công chức, cán bộ, quân nhân VNCH bị tống vào
các trại tù gọi là “trại cải tạo” sau khi bị đóng khắc tự “ngụy”, bị ép
lao động khổ sai quần quật năm này sang năm khác chẳng hề được xét xử.
Không bản án, nhưng không biết ngày nào, tháng nào, năm nào ra khỏi nhà
tù!
Đảng hô hào “cải tạo tốt, về sớm”! Nhưng đố ai biết được như thế nào là
tốt, tốt tới đâu, lúc nào thì được nhìn nhận là đã “cải tạo tốt”? Năm
năm, sáu năm, bảy năm, mười năm, mười lăm năm, hai mươi năm, ba mươi
năm, “quyền họa phúc đảng tranh mất cả”. (nhại Kiều)! Vợ con ở ngoài xã hội thì luôn bị khủng bố dọa dẫm: “Các người ở ngoài mà lộn xộn không chấp hành tốt, thì chồng con các người đừng hòng được tha về”. Khốn nạn chưa cái án ngụy? Ngụy trong nhà tù, ngụy ngoài nhà tù đều điêu đứng!
Nhiều nạn nhân “cải tạo” ngã chết tức tưởi trong trại tù: Chết vì thiếu
ăn, bị bỏ đói? Chết vì ngộ độc? Chết vì đau bệnh không được chữa trị?
Chết vì bị hành hạ, đánh đập, bức tử? Mặc kệ! Ngụy chết, hết chuyện! Một
manh chiếu rách, mấy tấm gỗ cưa xẻ thô, sai tù hình sự mang xác vùi
chôn giữa rừng già, không để lộ dấu vết! Một tờ khai tử “chết vì sốt ác tính”! Thế là xong!
Những người may mắn sống sót trở về, kẻ thì thân tàn ma dại, bệnh hoạn
tật nguyền, kẻ khác mắc chứng tâm thần, xóm làng dè bỉu… Khốn nạn nhất
là ở tù về, người cựu tù lại cứ mãi mang cái khắc tự “ngụy” không gỡ ra
được, không xóa được! Tù quản chế!
Thương phế binh “ngụy”
Tội nghiệp nhất là các anh em Thương Phế Binh VNCH. Các anh bị “chung
thân ngoài đời” do sự tật nguyền của mình. Vì thương tật, các anh không
sinh lãi mà có thể báo cô cái chế độ toàn trị là CSVN, các anh TPB/VNH
không bị lôi vào nhà tù cùng với đồng đội, nên các anh không được coi là
cựu tù nhân chính trị. Các anh không đi tị nạn chính trị. Nhưng tội
nghiệp thay! Ở lại Việt Nam, các anh vẫn là “ngụy”, những “tên ngụy”
nguy hiểm cho chế độ CS. Các anh đối diện với sự ngược đãi, sống lay
lất trên đất nước giữa những người đang phân biệt đối xử nhân danh ý
thức hệ, coi khinh, giày xéo các anh, dù thân thể của các anh chẳng còn
gì khác ngoài những mảnh hình hài dị dạng lê lết thảm thương trên những
nẻo đường vắng thôn quê hay phố phường. Tên các anh bị liệt vào sổ bìa
đen; và dĩ nhiên “lý lịch đen” của các anh là: phần tử phản động cần theo dõi!
Bạn bè từ hải ngoại nhớ thương bạn đồng đội xấu số, gửi về chút quà! Quà
bị đoạt sạch! Các anh bị hạch sách, gây khó dễ! Những xe lăn, gậy
chống, chút ít đô la ăn sáng đều bị lên án có “yếu tố nước ngoài”, có “bàn tay lông lá CIA”, hoặc do “bọn ngụy quân, ngụy quyền cực kỳ phản động”
chuyển về, nuôi hận thù, kích động âm mưu lật đổ! Tấm thân tàn các anh
còn gì nữa để mà tiếp tay cho ai đến nỗi bị đối xử tàn nhẫn đến như
vậy?
Truyền thống đạo lý của dân tộc ta nay hết rồi cái lý tưởng của một dân tộc “đạo nghĩa”, “chí nhân”, hay “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”!
(Bình Ngô đại cáo). Rõ ràng CSVN không hề thuộc về dân tộc Việt Nam mà
chỉ là bầy tôi của cái đảng cướp mang danh quốc tế vô sản chuyên gây ác
mà nhân loại đã đào thải từ hơn 20 năm nay!
Kinh Tế Mới, nơi nhốt gia đình“ngụy”!
Chồng làm, vợ chịu, con mang! Đó là lý lẽ và luật lệ của Cộng sản. Cứ
theo cái lý và cái luật ấy mà trừng trị: Lùa gia đình “ngụy” vào các nơi
khỉ ho cò gáy được gọi là Vùng Kinh Tế Mới (KTM), cô lập khỏi cộng đồng
xã hội trong nước. KTM lập ra không hề có mục đích phục vụ kinh tế-xã
hội như Khu Trù mật, Khu Dinh điền của thời đệ nhất Cộng hòa hay những
Ấp Tân sinh thời đệ nhị Cộng hòa! Vùng KTM của CSVN là nhà tù kiểu mới,
nơi đày ải, cô lập gia đình “ngụy” cùng một số “đối tượng” thù địch của
chế độ! Tù nhân không án chôn vùi đời mình ở đó, mãn đời mãn kiếp từ thế
hệ này sang thế hệ khác, theo kế hoạch đảng đã vạch.
Đằng sau sách lược đày ải này, CSVN còn bộc lộ lòng tham vô độ hết sức
bẩn thỉu: Lợi dụng khai mở vùng KTM mới, CSVN còn nhằm mục đích tư lợi,
tư túi, phá rừng, đoạt gỗ, nhất là các loại danh mộc, bất chấp hậu quả
của việc xâm hại môi trường, gây bão lụt thiệt hại mùa màng và đời sống
người dân. Lùa đẩy người dân thành thị về nông thôn hay đi KTM đều là
mánh khóe bọn quan chức CS bày ra để đoạt nhà, cướp đất, vơ vét tài sản
của “ngụy” và của “tư sản” trong thành phố một cách ngang nhiên vô liêm
sỉ. Hoảng hốt trước sự đối xử tàn bạo của nhà cầm quyền CS, người dân
tìm cách thoát thân. Nhà cầm quyền CS âm mưu lợi dụng những cuộc trốn
thoát ra khỏi nước bằng đường vượt biên vượt biển để tiếp tục đoạt vàng,
cướp của và chiếm hữu nhà cửa, đất đai của những người trốn chạy ấy.
Người rừng phút chốc bỗng trở nên giàu to, chẳng phải mất một giọt mồ
hôi, nước mắt!
Ngoài những người đã trốn thoát thành công bằng đường vượt biên, nếu từ
Liên Xô, Gorbachov không thổi lên luồng gió đổi mới và mở cửa vào cuối
thập niên 1980, chẳng biết đến bao giờ các gia đình “ngụy” mới thoát
khỏi cạnh ngục tù mang tên Kinh Tế Mới ấy, và số phận họ chẳng biết sẽ
bị đẩy vào đâu. Tuy nhiên, thoát khỏi nhà tù KTM, các bà mẹ, người vợ và
con cái “nhà ngụy” chưa hẳn đã được yên. Nhà cửa, đất đai của họ trong
thành phố trước đây nay đã thuộc về chủ mới! Quyền cư trú của họ cũng đã
bị tước đoạt. Họ đành thất tha thất thểu chui nhủi nơi các khu lầy lội
tối tăm trong thành phố hay lẫn trốn quanh các công viên, vỉa hè… “ăn
lậu ở lậu”, đi nhặt từ mảnh giấy vụn và ve chai để đổi lấy miếng cơm
manh áo sống lay lất qua ngày. Muốn có sổ hộ khẩu, phải chạy chọt lâu
dài và mua bằng vàng! Trong khi cái bản án “ngụy” thì cứ bám chặt vào
thân phận bọt bèo của những người đã bị xô ngã, nhận chìm!
40 năm chưa hết hằn học sỉ vả “ngụy”.
Có người phản bác rằng, đã 40 năm rồi, làm gì còn có chuyện phân biệt
“ngụy” hay không “ngụy”? Xin dẫn ra 2 bằng chứng mới nhất ở đầu năm 2015
này. Đó là 2 bài báo, một trên tờ Quân Đội Nhân Dân, và một trên báo
Đời Sống & Pháp Luật dưới đây.
Bài 1 (báo QĐND ngày 02/01/2015) của tác giả Hương Ngọc “Nhà tình báo kể chuyện... gặp may” ghi lại lời tường thuật của chính “Đại tá, Anh hùng Tình báo Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) ở Sài Gòn”. Một bài báo ngắn mà từ “ngụy” trải dài từ đầu tới cuối: ngụy, lính ngụy, tên ngụy, tên sĩ quan ngụy, bên ngụy, quân ngụy, thằng sĩ quan (ngụy).
Bài 2 (báo Đời Sống & Pháp Luật ngày 22/02/2015) của tác giả Chí Công: “Đại tá tình báo và cuộc chiến cân não với ‘toà án Ngụy quyền’ Tết 1972” có những câu chữ như “Ngụy, Ngụy quyền, Bọn an ninh Ngụy quyền, Vùng I chiến thuật Ngụy, thành phố Sài Gòn (sào huyệt của Mỹ - Ngụy)” vân vân. Tất cả từ Ngụy
ở đây đều viết N (chữ hoa)! Không hiểu ông đại tá tình báo hay tác giả
bài viết có ý đồ gì cho từ Ngụy (ngụy viết N hoa) ở đây?
“Tên riêng” của một nhóm người đó chăng? Hay là ngầm ý bày tỏ sự trân trọng như từ Nhân dân (với N viết hoa) trong bản Hiến pháp 2013 mà các báo luồng đảng đều tung hô là “lầu đầu tiên, từ Nhân dân (N viết hoa) được Hiến pháp ta trân trọng”.
Nhưng, đọc hết bài báo, mới hay từ “Ngụy” (N viết hoa) chỉ dùng cốt để
thóa mạ, hạ nhục, dìm “ngụy” xuống tận đáy cùng xã hội, phe thắng cuộc
vẫn chưa hả dạ!
Rõ ràng, lời hô hào “hòa hợp hòa giải” từ trước đến giờ của tập đoàn CSVN chỉ là những lời lừa phỉnh dối trá để che mắt thiên hạ chứ không hề là một thiện chí, một “thái độ biết điều của kẻ ở thế thượng phong”. Đã đánh ai là đánh cho chết; mới hả hê với lời thề “phanh thây, uống máu”. Một tay giơ cao búa đập vào đầu “ngụy”, tay kia dùng liềm cắt cổ vợ con “ngụy”! Búa vẫn lơ lửng trên đầu, liềm
mãi kề sát cổ đối phương! Suốt 40 năm cứ thế! Có là bậc thánh tu rừng
thời thượng cổ tự bịt tai bịt mắt mới không hận, không căm bọn quỷ khát
máu.
Búa và liềm không phải chỉ nhắm vào “ngụy” mà còn là vũ khí hiểm độc
đánh vào toàn dân Việt Nam. Mỗi khi có dịp, cụ thể mỗi năm, khi gần tới
ngày 30/4, truyền thông CS luôn moi ra cho được một vài hình ảnh xấu xa
xưa nào đó của vài cá nhân để làm bằng chứng kể lể “tội ác của Mỹ-ngụy”!
Nhưng tập đoàn CSVN lại cố tình làm ngơ trước bao hình ảnh chứng minh
cụ thể người dân Việt Nam sợ hãi, trốn chạy CS và quyết cùng sống chết
với những người mà phe CS bôi xấu! Sợ loài ác quỉ hiện hình thành bầy ác
thú ăn thịt người! Mỗi lần ác thú xuất hiện ở đâu, dù núp dưới chiêu
bài “giải phóng dân tộc” gì gì đi nữa, nhân dân cũng đều khiếp
hãi tháo chạy trối chết! Cuộc di cư 1954 từ Miền Bắc, Mùa hè Đỏ lửa 1972
ở Quảng Trị, biến cố 1975… là những chứng tích sống động! Người dân
không tháo chạy vì “bị VNCH tuyên truyền” như CS xuyên tạc, mà là phản
ứng tự nhiên từ kinh nghiệm bản thân của mỗi người về những hành động
gian ác của CS đối với mọi tầng lớp dân chúng trong vô vàn trường hợp
trước đây.
Hàng triệu người “được cách mạng giải phóng”, sướng quá đi chứ! Sao dân không ở lại với CS, không chạy theo CS để sống cõi “thiên đàng CS”?
Trái lại, ai nấy đều ùn ùn chạy theo “Mỹ-ngụy” bất chấp CS truy đuổi,
bắn giết bằng đại pháo, bằng súng liên thanh, súng trường và lựu đạn cá
nhân? VNCH tuyên truyền đó ư? Hãy xem kìa: Người dân Đông Đức xô ngã bức
tường Bá Linh có phải do Tây Đức tuyên truyền không? Dân Đông Âu và cả
Nga cùng các nước chư hầu Liên Xô cùng vùng lên quật ngã thần tượng Lê
Nin và cái sản phẩm Cộng sản chủ nghĩa thối tha kia là do đâu?
Sau 30/4/1975, Miền Bắc từng được ơn mưa mốc của Đảng hơn 20 năm ròng,
thế sao dân Miền Bắc (người của xhcn đấy) lại theo chân dân “ngụy” Miền
Nam trốn chạy, ào ào vượt biên, vượt biển tìm tới những thứ “nước tư bản
đang giãy chết”? Hoặc ùn ùn “di cư” vào Nam hít thở chút bầu khí thị
trường tự do đang còn le lói chút ánh sáng trước khi bị CS tìm cách thủ
tiêu!
Chế độ xhcn ưu việt lắm! Thế sao đến bây giờ vẫn chưa dứt những cuộc
tháo chạy hối hả kinh hoàng? Tháo chạy qua đường dây xuất khẩu lao động!
Tháo chạy trong thân phận cô dâu Đài Loan, Đại Hàn và cả Trung Cộng…,
nhục nhã ê chề! Tháo chạy trong nỗi nhục nô lệ tình dục qua buôn bán phụ
nữ, trẻ em! Tháo chạy bằng núp bóng hôn nhân ghép, giả. Tháo chạy bằng
đường du học Mỹ, Nhật, Úc, Pháp, Đức, Canada…học xong không về! Và cả
tháo chạy bằng tổ chức vượt biên lậu sang Pháp, sang Úc, sang Anh, sang
Mỹ những năm gần đây, mỗi đầu người “đi lậu” mất hàng chục ngàn đô la
Mỹ, bất kể bao tai họa chờ đợi họ! Nghĩa là thà chọn “ngụy” hơn là sống
với quỷ!
Thế lực thù địch.
Khi từ “ngụy” trở thành “gậy ông đập lưng ông” đối với CSVN, nhà cầm
quyền chế độ CS chuyển sang độc chiêu khác, thâm độc không kém. Mỗi khi
có dấu hiệu tình hình bất lợi cho chế độ là mỗi lần CSVN gán tội cho một
thế lực vô hình có tên gọi là “thế lực thù địch”. Và bất
cứ người nào “khả nghi” cũng đều là thế lực thù địch. Thế lực thù địch
không chỉ ám chỉ “ngụy quân, ngụy quyền” chế độ cũ, mà còn với cả những
ai không a dua, đồng tình với Đảng CSVN về một khía cạnh nào đó.
Dân oan đòi hỏi giải quyết nỗi oan chồng chất của mình: thế lực thù địch!
Dân phản đối chặt cây thành phố Hà Nội cũng bị vu là
thế lực thù địch! Chính Phạm Quang Nghị, Bí Thư TP Hà Nội phát ngôn chắc nịch:
“Nhân danh bảo vệ cây xanh nhưng thực ra là chống chế độ, chống lại chính quyền các cấp. Tôi nói đây là cái kích động từ bên ngoài chứ không nhầm lẫn với cái bức xúc của người dân phê bình chúng ta chính đáng.” (Người Buôn Gió - Bản lĩnh lãnh đạo của Phạm Quang Nghị qua vụ chặt cây xanh, 31/3/2015. Re.
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/229612/vu-cay-xanh--khong-xu-oan-sai-cung-khong-ne-tranh.html).
Trung Cộng xâm lăng biển đảo VN, dân uất ức biểu tình phản kháng quân xâm lược: thế lực thù địch. Thế lực bá quyền xâm lược nước ta không là thế lực thù địch, mà nhân dân bày tỏ lòng yêu nước lại bị gán là thế lực thù địch, là làm sao?
Dân phản đối những hành vi bức hiếp của chính nhà cầm quyền hay bọn tay sai nhà cầm quyền: thế lực thù địch.
Dân tổ chức vinh danh những chiến sĩ vị quốc vong thân ở Hoàng Sa và Trường Sa cũng bị quy kết là thế lực thù địch.
Trong khi bọn thảo khấu côn đồ được chính các cơ quan đảng-nhà nước
CSVN sử dụng làm công cụ mang tên “dư luận viên” đánh phá dã man những
cuộc tưởng niệm yêu nước thì lại được tuyên dương, cổ võ!
Cả những cuộc biểu tình đấu tranh cho nhân quyền và dân quyền cho Việt
Nam hay cho quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng cũng là “phản động”,
là “thế lực thù địch”.
Biểu tình vì “Hoàng Sa-Việt Nam, Trường Sa-Việt Nam” cũng bị ghép là “thế lực thù địch”. Đàn áp bằng lực lượng chính quy (Công An) chưa đủ, nhà cầm quyền sử dụng tới cả côn đồ đàn áp thô bạo!
Kiêu đảng, loạn quan… bán nước.
Làm sao không căm hận khi trước mắt mình vẫn tái hiện cái cảnh kiêu binh
trấn áp dân lành. Suốt 40 năm thống trị, CSVN không ngừng tổ chức ăn
chặn, cướp giật tổ chức có hệ thống quy mô từ trên xuống, từ dưới lên.
Họ vỗ ngực khoe khoang thành quả phục vụ công ích xã hội với những công
trình cầu cống, đường sá, dinh thự “hoành tráng”! Nhưng đều là từ vốn
ODA! Vốn viện trợ hay vay mượn từ các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp, Đức,
Nhật! Dùng vốn ấy cho công trình công ích chỉ một phần, rút ruột chia
chác nhau đến hai ba phần! Cho nên rút cuộc, công trình nào cũng vỡ,
cũng đổ ngay sau khi khánh thành, chưa kịp đưa vào sử dụng. (Những PMU
18, Xa lộ Đông Tây, Dự án Đường Sắt, Đường Cao tốc, Đập Thủy Lợi… là
bằng chứng).
Rồi đến những “công ty quốc doanh” núp dưới cái vỏ bọc “kinh tế thị trường định hướng xhcn”
để cướp giật, chia nhau trắng trợn hàng tỉ tỉ bạc. Chỉ mới lòi ra 2 đại
công ty quốc doanh Vinashin và Vinalines trong hàng chục, hàng trăm
công ty đội lốt quốc doanh chuyên rút ruột, ăn cướp, ăn giật mà đã lộ ra
hàng triệu, thậm chí hàng tỉ đô-la thâm lạm. Hệ lụy của “kinh tế thị trường định hướng xhcn” đấy! Thế mà, kẻ nào dám bảo thị trường định hướng xhcn là quái thai, kẻ ấy bị quy kết ngay là “thế lực thù địch”.
Cái đuôi định hướng xhcn
Thử đọc bài báo nhan đề “Chỗ cần nhà nước thì không thấy đâu” trên tờ VietNamNet để xem người ta nói gì về cái gọi là “kinh tế thị trường định hướng xhcn”?
Đây lời giáo đầu bài báo trên: “Các chuyên gia kinh tế hàng đầu VN
thừa nhận thực tế suốt gần 30 năm đổi mới, đã có nhiều cuộc thảo luận,
nghiên cứu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng câu trả lời vẫn chưa rõ ràng”.
Trong phần 1 bài giới thiệu “cuộc phỏng vấn bàn tròn với TS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch Đầu tư và TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế VN”, VietNamNet nêu ra lời nhận định xót xa của TS Trần Đình Thiên như sau:
“Trước kia, chúng ta mới chỉ hiểu về kinh tế thị trường, còn thực
tiễn nó vận hành như thế nào thì còn khá mơ hồ. Tất nhiên, thực tiễn
cũng có. Ví dụ như sau giải phóng, kinh tế thị trường vốn rất phát
triển từ phía nam đã âm thầm lan dần ra bắc theo mạch vận động ngầm của
người dân trong bối cảnh cấm đoán, ‘ngăn sông cấm chợ’. Nhưng ngược lại, lúc đó cũng có một luồng quan điểm về CNXH đóng đinh về mặt nguyên lý trong nhận thức
chúng ta là gắn với kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể mà về bản chất là công hữu. Luồng tư duy này tràn vào nam theo con
đường quốc doanh hóa.
Hai làn sóng ngược chiều này trên thực tế đã xung đột nhau dữ dội và càng chứng tỏ cho chúng ta thấy CNXH và kinh tế thị trường không thể tương dung được, đến mức chúng ta phải đổi mới. Luận đề đổi mới là chấp nhận kinh tế thị trường.”
Lời nhận định trên đây cho thấy cái đuôi “định hướng xhcn” lòng thòng lừa bịp vô nghĩa nay không còn lý do gì tồn tại được nữa!
Kết: Thà Vẫn Ngụy như Ngụy Văn Thà!
Chúng tôi kết thúc bài viết với lòng bùi ngùi nhớ thương người anh em chiến sĩ anh dũng của VNCH Ngụy Văn Thà, Thà Vẫn Ngụy,
cùng với 73 chiến sĩ đồng đội liều hy sinh vì Tổ Quốc Việt Nam yêu dấu
hơn là sống ô nhục liếm gót giặc phương bắc như bọn CSVN tham tàn!
Tin chắc hết thảy quân-dân-cán-chính VNCH cùng một lòng Thà Vẫn Ngụy như Ngụy Văn Thà chứ không chịu khuất phục tà quyền Cộng sản hèn với giặc ác với dân, đang tâm bán nước cho Hán tặc.(3)
Thiết tưởng cũng cần nói rõ rằng, qua chứng cứ lịch sử, không hề có bút tích văn tự nào cho thấy có bất cứ một quân-dân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa
giao nộp cho bất kỳ thế lực ngoại lai nào một rẻo đất nhỏ từ nội địa
cho tới hải đảo xa xôi của quốc gia. Trái lại, ai nấy cùng một lòng hy
sinh xương máu bảo vệ từng tấc đất bờ cõi non sông Tổ Quốc trong mọi
hoàn cảnh và mọi biến cố của lịch sử. Trong khi giấy trắng mực đen từ
văn kiện chính thức cấp nhà nước (Công hàm 1958, rồi Hiệp định Biên giới 1990) đến sách giáo khoa (bản đồ sách Địa lý) và truyền thông (báo nhân Dân
1956 & 1958)… là bằng chứng mạnh mẽ xác quyết CSVN công khai nộp
đảo, dâng đất thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam cho Tàu Cộng.
Người quốc gia VNCH không bao giờ là “ngụy” đối với Tổ quốc mình dù bọn
Cộng sản cố tình gán cho cái từ NGỤY sỉ vả nham nhở hạ cấp đầy khiêu
khích, hòng che đậy bản chất tà quyền của họ, một chế độ CS vô Tổ quốc
buôn dân bán nước trắng trợn mà nhân dân cả nước đang vạch trần!
(Tháng Tư 2015)
____________________________________
Chú thích:
(1) Chế độ phân biệt đẳng cấp ưu tiên đến nay vẫn tồn tại tuy rằng có
phần giảm nhẹ hơn phần nào so với trước đây . Báo VNExpress ngày
28/2/2015 nêu rõ: “Điểm ưu tiên để xét công nhận tốt nghiệp THPT được
tính theo 3 diện (1, 2 và 3)”. Trong đó diện 2 con ông cháu cha được
cộng thêm điểm…
(2) Giai đoạn 1975 tới 1991, CSVN chưa liệt kê các tôn giáo khác vào
nhóm đối tượng nguy hiểm như với Thiên Chúa Giáo (Công Giáo và Tin
Lành).
Nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2015/04/40-nam-hon-danh-nguy-va-nhung-tran-on.html#more
Bình luận
Mấy anh là người chiến thắng cứ nói cho sướng mồm nhá!. Em thì tin rằng chả có cái gì tồn tại mãi. Ta cứ chờ xem nhá!
Nói đến cs thế giới kinh tởm đều nấy tồn tại mãi
Bị dan chúng chửi thì Câm như hến. Thời đại ngày nay họ nói như sau:
Hoà hợp hoà giải cái con Kẹt . Mở mồm ra là gieo thù hận .Không thù
hận thì xoá Sổ Nghĩa Trang Quân Đội làm chi?Rõ ràng CS sợ ngay cả với
người lính Cộng Hoà đã chết.Trả thù với Quân Dân Cán Chính VNCH với
chiêu bài cải tạo.Ăn cướp 40 năm mà vẫn Đói,bây giờ phải cướp đến tiền
BHXH thì quá cùn rồi .NHỤC.ĐMCS
Cuộc chiến đỏ như đêm 30'
•
2 giờ trước
30/4/1975 là ngày c.e bị đèn đỏ nó quấy rầy, ngày hết tháng,ngày tới tháng,
đó là ngày của:
"Cuộc
chiến Xã Hội Hóa Dân Tộc Việt Nam" = "Giải phóng phóng Miền Nam thống
nhất đất nước" <<=>> "Nước Việt Nam là một, Dân Tộc Việt Nam
là một, Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ
thay đổi".
"Cuộc chiến Xã Hội Hóa Dân Tộc Việt Nam" đã thống nhất
được 'sông núi Việt Nam là một'(bị vì có sức người sỏi đá cũng thành cơm
mà); Thống nhất được 'Nước với Dân Tộc' Việt Nam cũng chung là một(bộ
đội với dân như cá với nước, Lê khả Phiêu muốn thằng nào ngu thì cho
chúng nó 'mênh mong tình dân luôn', bình địa luôn - sống chung với lũ
'đỏ' muôn đời vậy đó đa). Tất cả dân tộc việt nam chúng ta là 'một XHCN
đại đồng thiên Nga'. huhu
Trên thế giới này, có ai mong muốn được
sống trong 'cái hang đại đồng đỏ' triền miên không? ngoại trừ bị ép buộc
bằng ngày '30/4 đỏ lè'. Tại sao? dân tộc VN lại chịu làm tiền đồn cho
chủ nghĩa xã hội tụi nó hoành hành vậy? Ai ngu? dân tộc vn ngu hay chế
độ XHCNvn ngu?
Đmcs, không ngu quá lợn thì không phải là cộng sản nòi mà.
Tù Cải Tạo: Tội ác chống nhân loại của Cộng sản VN. Tác giả Đỗ Ngọc Uyển.
http://www.vietlist.us/SUB_Nan...
-
Tội Ác Thủ Tiêu Mất Tích 165,000 Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa.
Mang Kẻ Phạm Tội Ra Trước Công Lý và Mang Công Lý Tới Nạn Nhân.
http://vietnamdefence.info/toa...
- Đời Sống Người Tù Cải Tạo. Tác giả bác Sĩ Nguyễn Ý Đức.
http://www.machsongmedia.com/l...
LTS.
Chế độ tập trung cải tạo cho quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa được thi
hành sau khi Cộng Sản miền Bắc thôn tính miền Nam. Bài này đúc kết lời
kể của các cựu tù nhân chính trị; mục đích là để thế hệ mai sau, trong
và ngoài nước, biết các khó khăn, đau khổ của cha chú họ, như một bài
học đắt giá cho nhân loại, để tránh tái diễn chứ không phải để giữ mãi
hận thù.
Trình Diện Để Đi Tù Đầy
Mấy tuần lễ sau khi miền
Nam thất thủ thì chiến dịch rỉ tai về học tập cải tạo bắt đầu được tung
ra. Nhưng mãi đến đầu tháng sáu 1975 Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố mới ra
lệnh cho các quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa phải trình diện để đi “Học
Tập Cải Tạo”. Uỷ Ban ra thông cáo vào các ngày 10-6, 11-6 và 20-6-75
trên đài phát thanh và báo chí, chỉ định rõ địa điểm và ngày giờ trình
diện.
Hạ sĩ và nhân viên chính quyền từ chủ sự trở xuống học tập
ba ngày tại phường. Các cấp thấp hơn như binh sĩ, cán bộ phường khóm
được khoan hồng miễn trình diện. Cả mấy trăm ngàn người nô nức đi trình
diện học tập vì họ nghĩ rằng học tập cho xong để hy vọng sớm trở về làm
ăn. Họ đi học từ sáu giờ sáng đến tối.
Binh sĩ VNCH bị bắt đi tù cải tạo sau ngày 30 tháng 4, 1975. AFP/Getty Images.
Ðối
với các phó quận trưởng, trưởng ty, cấp úy, thì mỗi người phải mang
theo giấy bút, quần áo, mùng mền vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc
để dùng trong mười ngày kể từ ngày trình diện.
Với các cấp chỉ huy
từ giám đốc trở lên, sĩ quan từ cấp tá, các dân biểu nghị sĩ, các lãnh
tụ đảng phái thì thông cáo ra lệnh mang theo giấy bút, vật dụng cá nhân,
số tiền là 13,000 đồng đủ cho việc ăn uống trong 30 ngày kể từ ngày học
tập đầu tiên. Thông cáo nói rõ: “các học viên phải mang theo một tháng
tiền ăn và những đồ đạc cần thiết. Nhà hàng Ðồng Khánh sẽ phụ trách việc
ăn uống...”
Nhiều người vì sức khỏe yếu được miễn trình diện.
Nhưng vì quá tin vào thông cáo của chính quyền, học tập có một tháng,
nên họ vẫn tình nguyện xin đi để tỏ thiện chí cũng như làm cho xong để
còn về được an ổn kiếm kế sinh nhai.
Có người được nhân viên tiếp
nhận cho về vì không hội đủ tiêu chuẩn như thông cáo nhưng vẫn nằn nì
giải thích chức vụ để xin đi cho chắc bụng. Chẳng hạn, có vị khai chức
vụ quốc vụ khanh chính phủ. Cán bộ không biết đó là chức gì mà coi danh
sách không thấy có nên đuổi về. Vị chính khách này phải cố gắng giải
thích chức vụ của mình ngang hàng tổng trưởng. Họ cũng không biết tổng
trưởng là gì, đến khi nói là bộ trưởng thì họ mới cho nhập trại. Ai cũng
nghĩ là trước sau rồi cũng phải học tập nên xin đi cho nó xong. Thực
ra, thông cáo rất mập mờ. Lúc đầu ghi danh đi học tập cải tạo phải chuẩn
bị thực phẩm hoặc đóng tiền ăn cho một tháng. Rồi pháp lệnh nói cải tạo
viên phải học tập ba năm rồi đổi ra vô hạn định một cách âm thầm.
Kỷ
Nguyên Tù Ðầy Cải Tạo bắt đầu. Sau khi đã bước vào trại tù cải tạo thì
ngày ra dường như vô tận vì một số thiệt mạng, hầu hết tiếp tục tù đầy
cho tới mươi mười lăm năm sau.
Theo bản tường tình của Aurora
Foundation năm 1983 do bà Ginetta Sagan và ông Stephen Denney thực hiện
thì có hơn một triệu người đã đi cải tạo mà rất ít được về sau thời hạn
mười ngày hay một tháng. Trên toàn quốc lúc bấy giờ có trên 150 trại
cải tạo. Có khoảng 500,000 người được trả tự do trong vòng ba tháng;
200,000 ở trại từ hai đến bốn năm; 240,000 ít nhất năm năm; nhiều chục
ngàn người trên mười năm.
Trong một trại cải tạo, học viên thắc mắc về thời gian cải tao như sau:
“Thưa
cán bộ, theo như chính sách 12 điểm của chính phủ Cộng Hòa Miền Nam
Việt Nam thì sau ba năm chúng tôi được trả tự do để đoàn tụ với gia
đình; bây giờ đã quá 3 năm sao chúng tôi còn phải ở trong trại?”
Cán bộ trả lời:
-
Các anh thông minh, các anh phải hiểu rằng Chính Phủ Cộng Hòa miền Nam
(của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) đâu có phải là Chính Phủ Việt nam Dân
Chủ Cộng Hòa; vả lại chính phủ Cộng Hòa Miền Nam không còn tồn tại thì
những gì chính phủ ấy quy định cũng không còn tồn tại.
- Hơn nữa,
các anh thông minh nhưng chưa hiểu thế nào là 3 năm. Các anh hiểu cứ mỗi
năm là 365 ngày như bọn tư sản thì hỏng bét, do đó các anh khiếu nại là
phải rồi. Nếu các anh phân tích một cách sâu sát thì các anh sẽ thấy
rằng có 3 năm định tính và 3 năm định lượng. Một anh có thể có 3 năm
định lượng, nghĩ a là đã cải tạo đúng ba năm không thiếu ngày nào, nhưng
lại không có đủ 3 năm định tính vì tính chất cải tạo quá tồi, cải tạo
không tốt, do đó mà chưa được về sum họp với gia đình.”
(Phan Phát Huồn: AK và Thập Giá)
Còn tiếp.
(TT và hết)
* Các dữ kiện trong bài viết này là những lời kể lại của nhiều tù nhân cải tạo sống sót.
Tổ Chức Trại Cải Tạo
Trại
được chia ra làm nhiều khu. Mỗi khu có nhiều đại đội trại viên. Dưới là
nhóm gọi là “B”. Mỗi B có 30 trại viên do một cán bộ hạ sĩ quan phụ
trách. Trại viên còn được gọi là phạm nhân hoặc cải tạo viên. Họ phải
học làm lòng tài liệu “38 điều Nội Quy” và “Bốn tiêu chuẩn cải tạo”.
Bốn tiêu chuẩn cải tạo là:
1-Thành khẩn khai báo
2- Lao động tự giác
3-Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy và các pháp lệnh nhà nước
4- Giúp bạn cải tạo cùng tiến bộ
Một
cựu tù nhân cho hay: nhiều người không nhớ các tiêu chuẩn này, nên đã
dùng bốn thú vật tiêu biểu cho từng tiêu chuẩn: ngu như bò, có gì khai
hết; lao động như trâu; bảo sao làm vậy như con cừu và sủa như chó để
báo cáo các hành động của bạn tù.
Có người đã ví việc thực hiện
các tiêu chuẩn này chẳng khác gì sự xét mình, ăn năn tội lỗi, xưng tội
và dốc lòng không sai phạm của một tôn giáo. Nội quy có các điều khoản
về nguyên tắc chung, kỷ luật học tập, kỷ luật về lao động, kỷ luật về
nếp sống hàng ngày, kỷ luật về viết thư và gặp gia đình, tổ chức phạm
nhân, và khen thưởng-kỷ luật.
Ðiều nào cũng bắt đầu bằng các chữ quyết liệt như “Phải chấp hành…” hay “Tuyệt đối tuân theo…”
Chẳng hạn điều Một ghi rõ:
“Phải triệt để tuân theo đường lối, chính sách giam giữ cải tạo của Ðảng, pháp luật của nhà nước...”
Ðiều 2: “Phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, phải ra sức học tập cải tạo tư tưởng, thành khẩn nói hết lỗi lầm của mình.”
Ðiều 8: “Phải trực tiếp tham gia lao động sản xuất. Ðể rèn luyện ý thức lao động, lấy lao động để cải tạo tư tưởng…”
Ðiều 12: “Không được dùng tiếng ngoại ngữ và không được nói tiếng lóng”
Ðiều 18: “Thường xuyên cạo râu, không được để râu” .
Ðiều
20: “Tránh có thái độ ngang bướng, khúm núm, nịnh hót. Khi có việc cần
gặp cán bộ phải đứng xa 5-7 mét ở tư thế nghiêm. Xin báo cáo với Giám
thị, cán bộ”.
Trại có rất nhiều khẩu hiệu về học tập chính trị như:
“Chính sách khoan hồng của Ðảng trước sau như một.”
“Học tập cải tạo là con đường duy nhất để trở thành người công dân lương thiện.”
“Học tập nghiêm túc, đi sát đi sâu, đào sâu, suy nghĩ, thảo luận đúng ý...”
Khai Lý Lịch
Cải
tạo viên nào cũng phải khai lý lịch. Ðây là một việc làm rất nhức đầu
vì họ phải khai đi khai lại cả chục lần. Khai xong mang nộp, rồi bị cán
bộ hạch hỏi đủ điều. Việc khai lý lịch thường là do đoàn công tác liên
bộ Quốc Phòng và Công An phối hợp thực hiện. Mẫu khai có ba mục chính
với nhiều tiểu mục và tiết mục. Rầm rộ phát động chiến dịch khai báo,
cho ăn đồ tươi.
1-Lý lịch cuộc đời cá nhân: bản thân người khai,
gia cảnh và lý lịch thân nhân, từ ông cố tổ bốn đời. Từng địa chỉ đã
sống trong suốt đời. Một địa chỉ có thể là 1 tuần ở quốc nội hoặc bốn
mươi tám giờ ở quốc ngoại.
Về lý lịch thân nhân, phải khai đầy đủ
chi tiết về bản thân kèm thêm đánh giá từng người về quá trình chính
trị, xã hội, giai cấp.
2-Quá trình hoạt động: Trong suốt đời, với 3
giai đoạn: từ 1945 trở về trước; từ 1945 đến 1954 và từ 1954 đến 1975.
Phải khai cho đầy đủ các chi tiết về ngày tháng, sinh hoạt, chức vụ, ở
đâu với ai, diễn tiến công việc, kết quả công việc, ảnh hưởng của công
việc vào xã hội. Khai các cá nhân, đoàn thể chống cộng ở miền Nam: tên
tuổi, tổ chức nào, hoạt động ở đâu, cách tổ chức chống cộng... Kê khai
bạn bè thâm giao và bạn bè thường, rồi các sinh hoạt của họ ở đâu bây
giờ. Kê khai mọi cấp chỉ huy, đồng sự với các chi tiết như của mình...
Hiện giờ họ ở đâu, quan điểm chính trị của họ. Khai rõ về các vấn đề tổ
chức, kỹ thuật chiến thuật của miền Nam.
3-Kê khai tài sản: Của
nổi của chìm, trong nước, ngoài nước, mình đứng tên hay nhờ người đứng
tên, vợ con đứng tên; hiện có, đã sang nhượng, cúng dâng cho các tổ
chức. Tiền từ đâu có.
Phạm nhân được dành cho một tuần để khai;
ban đêm cho phép đốt đèn cầy để khai. Khai xong ký cam đoan là đúng sự
thực rồi nộp cho cán bộ. Phạm nhân phải thức thâu đêm để khai; nhiều khi
đi cầu, đi ăn cũng tập trung suy nghĩ coi đã làm gì, ở đâu, ngày nào...
Sau
khi nộp thì mấy ngày sau lại phải khai lại vì: thiếu thành khẩn, thiếu
tự giác, không khai hết sự thật, ngoan cố, giấu diếm bao che các tổ chức
chính trị và cá nhân phản động.
Rằng nhân dân đã biết rõ về mình
rồi, đã có hết tất cả hồ sơ tại công tư sở, đừng hòng giấu diếm. Có phạm
nhân còn bị gọi lên để hạch hỏi chi tiết, hù doạ là vợ khai khác mà
mình khai khác hoặc để đối chiếu lời khai của thân nhân với lời mình
khai. Rồi bản khai được cất đi và phạm nhân phải khai lại từ đầu...Việc
khai báo kéo dài cả mấy tháng. Một chiến dịch cổ võ cho việc khai báo
cuộc đời được diễn ra. Học viên còn được cho ăn uống linh đình và được
miễn lao động trước ngày khai báo bắt đầu.
Cải tạo tư tưởng-Học tập chính trị
Mục
đích của cải tạo là “để thay đổi con người từ chế độ lỗi thời vào kỷ
nguyên mới của những công dân tốt, với các giáo điều tốt lành của chủ
nghĩa Anh Hùng Cách Mạng”.
Theo các cựu tù nhân kể lại, bài học nhồi sọ nhắm vào việc:
“Ðả
phá chủ nghĩa đế quốc Mỹ, kẻ thù của nhân dân Việt Nam và thế giới. Sự
thất bại của chủ nghĩa đế quốc Mỹ; Ðế quốc Mỹ là con đỉa hai vòi: một
vòi hút máu mủ nhân dân trong nước, còn vòi kia vươn sang các nước khác
để hút máu mủ nhân dân các nước này bằng cách bán súng đạn, tạo ra các
cuộc chiến tranh diệt chủng. Tội ác của ngụy quyền ngụy quân miền Nam,
bán nước, tay sai. Chính sách khoan hồng của Ðảng, nghĩa vụ của người có
tội, lao động là vinh quang. Những thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt
Nam.”
Các buổi học tập chính trị gồm có:
a. Nhận đề cương nội dung bài.
b. Tìm hiểu nội dung.
c. Nghe giáo viên giảng bài.
d. Suy nghĩ về nội dung và lời giảng của giáo viên.
e. Không bàn thảo với ai. Viết một bài nhận định để trình bày với tổ.
g. Phát biểu trước tổ học tập.
h. Hội thảo cấp B cao hơn với ba tổ.
i. Hội thảo toàn trại.
k. Rồi viết bài tổng kết học tập dài cả chục trang.
i. Tổng kết và giải đáp thắc mắc.
Kỹ
thuật nhồi sọ áp dụng nguyên tắc nước chảy đá mòn, nói nhiều nói mãi
một đề tài, nhắc đi nhắc lại một luận điệu, biến con người thành cái
máy... Sau cả nhiều tháng học tập chính trị, hầu hết đều bị chê là:
“chưa được rèn luyện, cải thiện bằng các tư tưởng cao siêu của Chủ Nghĩa
Xã Hội, vẫn còn ngoan cố, không chịu tiếp thu bài học, không chịu gột
rửa toàn diện tư tưởng xấu của bản thân, nên cần được cải tạo bằng lao
động”.
Lao động
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.
Cuốc đất: 150m2/ngày/người
Trồng mì: 5000m2 /ngày/4 người
Khai quang: 300m2/ngày/người
Lấy
cây đường kính 30cm, dài 4 thước, hai người một cây, mang về trại cách
xa 3 cây số; đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày.
Tranh lợp nhà: 10 bó theo tiêu chuẩn của trại. (Theo Trại Tù Cải Tạo-Phạm Quang Giai).
Ăn uống
Sau đây là kinh nghiệm người cựu tù:
“Cộng
Sản không cần đánh đập, không cần kết án, mà họ đã dùng cái máy chém vô
hình và im lặng: ÐÓI. Họ lôi cái máy này đến mọi nơi, mọi chốn có tù
nhân chính trị miền Nam để trả thù, trả hận mà vẫn không mang tiến là ác
độc, là giết người.” (Phạm Quang Giai: Trại cải Tạo)
“Cái lon
nhôm sữa bột guigoz, được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn đồng hành thân
thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước
uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ
dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào Gô rồi nhờ nhà
bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau
cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì
“canh có người lái”, tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt,
chất protein bổ dưỡng. Tù có câu: “con gì nhúc nhích là ăn được, rau gì
không chết thì ăn”... (Nguyễn Chí Thiệp: Trại Tù Kiêm Giang)
“Tiêu
chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày
hai bữa hai chén nhỏ xíu. Ðến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ,
vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa
phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí
phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người
được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện
một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh
bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm
bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.” (Nguyễn chí ThiệpTrại Tù Kiêm Giang)
Vệ Sinh Trại
Tù
nhân kể lại là trại chật trội ngào ngạt hơi người, mùi hôi của mọi
người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người
có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước. Ðể lâu không dùng nên chuột
bọ chết thối đầy đáy giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Ði cầu vào các
dẫy hố đào trên mặt đất.
Bệnh Tật
“Mặt đứa nào đứa nấy trông
như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác
chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về
uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng
trầm kha...” (Hà Thúc Sinh: Ðại Học Máu)
Kiểm tra tư trang
“Ông cán bộ tới chỗ tôi và bắt đầu lục soát.
- Cho tôi xem cuộn giấy. Giấy này là giấy gì đây?
- Thưa cán bộ đây là giấy vệ sinh.
- Giấy vệ sinh là giấy gì?
- Thưa cán bộ là giấy đi cầu.
Ông cầm cuộn giấy, xem rất kỹ, chê bai đủ điều rồi nói tiếp:
-
Ðây chính là tài liệu mật mã bọn Mỹ ngụy để lại cho các anh xử dụng để
quấy phá cách mạng, nhưng làm sao qua mắt cách mạng được. Tôi ra lệnh
tịch thu toàn bộ những cuộn giấy này của anh và của các anh khác.” (Phan
Phát Huồn: AK và Thập Giá)
Thăm viếng và thư từ của gia đình
Theo
điều 29, “hai tháng phạm nhân được gặp người nhà một lần. Phạm nhân có
trách nhiệm hướng dẫn người nhà chuẩn bị giấy tờ cần thiết khi đến thăm
mình.”
Ðiều 27: “Phạm nhân mỗi tháng được viết một lá thư cho gia
đình; thư phải đưa lên cán bộ duyệt trước khi gửi; không được dùng tiếng
ngoại quốc, tiếng lóng.”
Tết 1977 là lần đầu tiên phạm nhân được
viết thư cho thân nhân ở trong Nam. Thư gửi qua Trung Ðoàn 52-A, Chí Hòa
Sài Gòn. Họ không được phép tiết lộ nơi đang học tập. Quà do thân nhân
gửi không được quá 5 kí. Trà, cà phê, rượu, muối bị cấm tuyệt. (Trần Vĩ)
Kết luận
Chế
độ tù cải tạo dưới chế độ Cộng Sản vào những thập niên 70 và 80 của thế
kỷ trước đã đưa đến sự tàn phá tâm thần và thể xác cho nhiều quân cán
chính Việt Nam Cộng Hòa. Ðây là một thảm họa mà đến nay thế giới loài
người văn minh cũng như con cháu chúng ta vẫn chưa biết được tường tận.
Các
vị cựu nhân cải tạo sống sót hình thức tù đầy này cũng nên ghi lại
những bài học đắt giá, những hy sinh của chính mình, của các bạn tù đã
nằm xuống. Và các bà vợ tù nhân cải tạo cũng có nhiều cay đắng cuộc đời.
Một thân phải tần tảo chăm sóc bầy con giữa những kỳ thị của chế độ
mới, rồi lại còn trèo đèo lặn suối đi thăm nuôi chồng bị đầy ải nơi
rừng thiêng nước độc. Ghi lại để các thế hệ con cháu, trong ngoài nước,
hiểu nỗi lòng của mình. Cũng như để tránh tái diễn, nhất là đối với
những người cùng chung dòng giống. Chứ không phải để nuôi mãi lòng thù
hận nhau.
xem thêm
Với nhà nước pháp quyền, đảng cầm quyền chỉ có thể tổ chức bộ máy nhân sự trong các cơ quan nhà nước là người của đảng. Chính sách mà đảng ban hành thông qua đại hội đảng phải được "luật hóa" rồi mới thi hành được, không thể tùy tiện phát ra văn bản dưới luật can thiệp vào chính quyền và xã hội. Việc "luật hóa" cũng phải dựa vào cơ sở cụ thể để thực hiện, hạn chế cái sự duy ý chí như chuyện "20 nghìn tiến sỹ đào tạo ra trong 10 năm".
Việc chặt cây ở Hà Nội là chuyện nội bộ của thành phố Hà Nội. Để xảy ra chuyện này, thậm chí có người còn dám tuyên bố "không cần hỏi ý dân" là vì họ dựa vào văn bản dưới luật "qua mặt" cơ quan đại diện dân là Hội Đồng Nhân Dân thành phố Hà Nội. Quốc hội còn bị qua mặt thì HĐND địa phương là cái quái gì. Chưa kể, trong các cơ quan đại diện dân này không thiếu các "dân biểu" kiêm quan chức chính quyền. Đó là lý do vì sao tôi luôn chống đối cái sự kiêm nhiệm "vô lý" đã tồn tại từ rất lâu.
Dù anh là đảng viên, anh chỉ có MỘT chức trách duy nhất và anh phải tuân thủ luật. Anh đảng viên quốc hội giám sát anh đảng viên chính phủ, chất vấn, tranh luận, đề nghị xử lý kỷ luật anh đảng viên chính phủ hoàn toàn dựa vào luật, không có đồng chí đồng chiếc gì cả. Cái chuyện đồng chí đồng chiếc chỉ được thể hiện trong các cuộc họp đảng mà thôi. Đó cũng chính là cơ sở của nhà nước pháp quyền.
Xưa nay việc kiêm nhiệm chỉ diễn ra trên ngành dọc, ví như bộ trưởng kiêm nhiệm 1 chức trách của 1 thứ trưởng nào đó. Tức là anh cảm thấy chức vụ bộ trưởng quá mức rảnh rỗi, kiêm nhiệm thêm để lĩnh 2 lần lương. Ví như tổng thống Mỹ có lương to như thế là vì ông ta kiêm luôn công việc của thủ tướng chính phủ (Mỹ không có chức thủ tướng, người đứng đầu nhà nước đồng thời đứng đầu nội các).
Kiêm nhiệm theo ngành ngang cũng đụng chạm đến trật tự của "tam quyền phân lập". Vừa là quan chức chính quyền vừa là đại biểu dân cử, rút cục anh đại diện cho ai ? Đại biểu dân cử là đại diện cho dân ở nơi "cử" anh chớ không phải đại diện cho nhân dân 1 cách chung chung. Đại biểu dân cử khi phát biểu trước quốc hội phải luôn nói câu "kinh điển" sau "tôi, tên gì đó, đại diện cho cử tri ở khu vực bầu cử nào thuộc địa phương nào, đề nghị quốc hội làm gì đó" rồi mới phát biểu chớ không có chuyện "dân biểu" tỉnh a, thành phố b. Như vậy cử tri mới có điều kiện giám sát đại diện của mình. Trước khi đưa vấn đề ra quốc hội, "dân biểu" phải tiếp xúc (họp) toàn bộ cử tri nơi anh/chị ta được bầu để thảo luận đưa ra ý kiến thống nhất, không thể chỉ vì vài vị doanh nhân hoặc "sưu tầm" sự kiện trên báo chí, hoặc tệ hơn, tiếp xúc cử tri "có chỉ định", mà tự quyết. Dân biểu có quyền chất vấn chính phủ những sự việc có liên quan đến quốc gia hoặc 1 nhóm các địa phương lân cận nhau báo chí biết mà quốc hội không biết. Như vậy, dù dân biểu có là đảng viên đi nữa thì "ý dân phải trên ý đảng". Mà ý dân, nói xin lỗi các ông lãnh đạo, không phải là ý của 1 nhóm "bất đồng chính kiến" linh tinh mà chỉ là những vấn đề liên quan đến dân sinh, đến "cơm áo gạo tiền" của họ.