Thứ Bảy, 21 tháng 10, 2017

Ai vi phạm Hiệp định Genève (20-7-1954)?

Ai vi phạm Hiệp định Genève (20-7-1954)?

Trần Gia Phụng (Danlambao) - ...Trong khi chính phủ QGVN rồi VNCH tôn trọng hiệp định Genève, thi hành nghiêm túc tất cả những quy định trong hiệp định Genève, thì nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay từ trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết. Đặc biệt VNDCCH vi phạm hiệp định có “biên nhận” do Trung Cộng cung cấp. Năm 1973, chuyện vi phạm hiệp định Paris lại tái diễn. Do đó, chẳng những “đừng tin những gì cộng sản nói” (lời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), mà còn đừng tin những gì cộng sản viết, và cũng đừng tin những gì cộng sản cam kết, dù cam kết trên giấy tờ như hiệp định Genève...
*
Gần đây, nhân chuyện phim The Vietnam War ra mắt, có nhiều người bàn luận sôi nổi. Có người còn đặt câu hỏi ai đã vi phạm hiệp định Genève để đưa đến chiến tranh?
Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở phía bắc, thường được gọi là Bắc Việt Nam (BVN). Quốc Gia Việt Nam (QGVN), đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955, ở phía nam, thường được gọi là Nam Việt Nam (NVN).
1.- Hiệp định Genève không đề cập chuyện thống nhất đất nước
Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Ngoài Pháp và VNDCCH tức Việt Minh, các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Trung Cộng, Lào, Cambodia. Hai chính phủ QGVN và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.

Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm có 6 chương, 47 điều, chỉ là một hiệp định có tính cách thuần túy quân sự, hai bên ngưng chiến đấu, rút quân về vị trí chỉ định trong hiệp định, thời biểu rút quân... Hiệp định không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam, nghĩa là hoàn toàn không đề cập đến chuyện tổng tuyển cử thống nhứt đất nước.
Gần một năm sau, thủ tướng QGVN Ngô Đình Diệm tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn ngày 6-7-1955 rằng chính phủ QGVN không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng buộc phải thi hành hiệp định nầy. Chính phủ QGVN không phản đối nguyên tắc tổng tuyển cử, nhưng không có bằng chứng cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) 
Ngày 19-7-1955, thủ tướng VNDCCH là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhứt đất nước. Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, và xác nhận lại chủ trương của chính phủ QGVN đã được đưa ra ngày 6-7-1955. Quốc Gia Việt Nam được đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955.
Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối, thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, nhằm chứng tỏ VNDCCH quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Hiệp định Genève hoàn toàn không đề cập đến chuyện tổng tuyển cử thống nhất đất nước, nên luận điệu của VNDCCH cho rằng VNCH không hiệp thương để tổng tuyển cử, vi phạm hiệp định Genève, là luận điệu vu cáo trắng trợn. Luận điệu vu cáo nầy được cộng sản lập đi lập lại nhiều lần, cho đến ngày nay trong nước vẫn còn tồn tại luận điệu vu cáo nầy.
2.- Việc tổng tuyển cử được đề cập trong bản tuyên bố không chữ ký
Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cùng các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". 
Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhứt là điều 7, ghi rằng: "Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Bản Pháp văn: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)
Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng, VNDCCH, Lào và Cambodia trả lời miệng rằng "đồng ý". Tất cả đều trả lời miệng, không phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký
Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký, thì không thể là một hiệp ước, vì không ai ký tên cam kết để thi hành những điều đã cùng nhau thỏa ước (nên mới gọi là hiệp ước). Bản tuyên bố không chữ ký chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn mà thôi. Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là một bản tuyên bố không chữ ký? (Ở đây xin đưa ra một ví dụ đơn giản: hai người nam nữ tuyên bố kết hôn mà không ký kết hôn ước thì có hợp pháp hay không?)
Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của mình. 
Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm thi hành đúng đắn hiệp định Genève ngày 20-7-1954, tập trung và rút toàn bộ lực lượng QGVN về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định Genève. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, không có tài liệu nào cho thấy là chính phủ QGVN đã vi phạm hiệp định Genève. 
Riêng bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève..." ngày 21-7-1954 không có chữ ký, không ai ký tên cam kết sẽ thi hành, chỉ có tính cách khuyến cáo mà thôi, nên không bắt buộc VNCH phải thi hành. Vì vậy, cũng không thể vu cáo Việt Nam Cộng Hòa và Tổng Thống Ngô Đình Diệm không thi hành hiệp định Genève, rồi động binh gây chiến.
3.- Ai vi phạm Hiệp định Genève?
Muốn biết ai vi phạm hiệp định Genève, xin trở lại thời gian hội nghị Genève. Hội nghị khai mạc ngày 8-5-1954, kéo dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhứt từ ngày 8-5 đến ngày 20-6-1954; giai đoạn thứ hai từ ngày 10-7-1954 đến ngày 21-7-1954. 
Giữa hai giai đoạn là thời gian 20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo và nghỉ ngơi. Trong thời gian nầy, xảy ra ba sự kiện quan trọng: 1) Tại Pháp, Mendès France được cử làm thủ tướng ngày 17-6-1954. Ông hứa hẹn với dân chúng Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ, và sẽ ký kết hiệp ước đình chiến chậm nhứt là ngày 20-7-1954, nghĩa là Pháp dứt khoát rời bỏ Việt Nam. 2) Tại Việt Nam, Ngô Đình Diệm được quốc trưởng Bảo Đại đề cử giữ chức thủ tướng QGVN. Ông Diệm nhận chức ngày 7-7-1954, thường được gọi là ngày “Song thất”. 3) Thủ tướng và là trưởng phái đoàn Trung Cộng tại hội nghị Genève, Châu Ân Lai về nước trong thời gian nghỉ họp, mời Hồ Chí Minh (HCM), chủ tịch VNDCCH, bí mật gặp nhau tại Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Hoa), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954. Lúc đó, dư luận thế giới hoàn toàn không hay biết đến hội nghị quan trọng nầy. 
Hội nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và HCM diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết. Tháp tùng theo HCM có Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Hoan. Vào họp, Châu Ân Lai báo cho phái đoàn Việt Minh biết có ba cách để đối phó với tình hình mới: 1) Thượng sách là hòa. 2) Trung sách là đánh rồi hòa. 3) Hạ sách là đánh tiếp.
Châu Ân Lai khuyên HCM và Việt Minh chấp nhận thượng sách là hòa để tránh mở rộng chiến tranh, vì nếu mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ có thể can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giải quyết riêng chuyện Việt, Miên, Lào, đồng thời chia hai Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến 16. Với kinh nghiệm Trung Cộng qua chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên HCM không nên đòi hỏi thái quá, khiến Pháp sẽ ở vào thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp. Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ có thể lật ngược tình thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây. Như vậy, theo Châu Ân Lai, Việt Minh sẽ đuổi được kẻ địch yếu (Pháp), nhưng lại rước kẻ địch mạnh (Hoa Kỳ). Hơn nữa, cũng theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giúp thủ tướng Mendès-France để ông ta không bị quốc hội Pháp lật đổ. Nếu Mendès France không thành công, chính phủ Mendès France sẽ bị lật đổ, thì có thể bất lợi cho phía cộng sản. (Tiền Giang, Châu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Châu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Châu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn: Internet).
Châu Ân Lai còn bàn thêm rằng sau khi chia hai Việt Nam, Việt Minh rút quân về phía Bắc Việt Nam (BVN), nhưng không có nghĩa là Việt Minh rút hết võ khí, mà võ khí nào cất giấu được, thì phân tán mà cất giấu để tránh bị phát hiện. Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Minh chấp nhận thi hành kế hoạch của Châu Ân Lai.
Tại hội nghị nầy, Võ Nguyên Giáp đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam (NVN), mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại NVN như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm... (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273).
Sau hội nghị Liễu Châu, trong báo cáo của HCM tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động ngày 15-7-1954, HCM chỉ nhắc sơ là có gặp và trao đổi với thủ tướng Châu Ân Lai. Việt Minh không công khai loan báo kế hoạch của Châu Ân Lai cũng như kế hoạch mai phục cán bộ ở lại miền Nam của Võ Nguyên Giáp để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Lý do đơn giản là nếu công khai, thì sẽ bị lộ ra âm mưu vi phạm hiệp định Genève. Về sau, khi ấn hành lại bản báo cáo nầy trong Hồ Chí Minh toàn tập tập 7, Nxb Chính Trị Quốc Gia, thì ban biên tập chỉ chú thích sơ lược cuộc gặp gỡ ở cuối trang 315.
Về phía Châu Ân Lai, sau khi hội nghị Genève kết thúc ngày 21-7-1954, thì Trung Cộng mới đăng lên Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh ngày 8-8-1954 bản “Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung-Việt của chính phủ Trung Quốc”, được dịch nguyên văn như sau:
“Thủ tướng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa Châu Ân Lai và chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh đã cử hành hội đàm tại biên giới Trung-Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ tướng Châu Ân Lai và chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao đổi ý kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục hòa bình tại Đông Dương và các vấn đề có liên quan khác. Tham gia hội nghị còn có: Hoàng Văn Hoan, đại sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc và Kiều Quán Hoa, cố vấn đoàn đại biểu nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tại hội nghị Genève.” (Tiền Giang, sđd., bản dịch đã dẫn, chương: "Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet) Bản tuyên bố nầy cũng chỉ xác nhận có cuộc hội họp giữa Châu Ân Lai và HCM mà không đề cập đến nội dung chi tiết, như việc chôn giấu võ khí, hay cài cán bộ ở lại NVN.
Kết luận
Như thế, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN rồi VNCH tôn trọng hiệp định Genève, thi hành nghiêm túc tất cả những quy định trong hiệp định Genève, thì nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay từ trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết. Đặc biệt VNDCCH vi phạm hiệp định có “biên nhận” do Trung Cộng cung cấp. 
Năm 1973, chuyện vi phạm hiệp định Paris lại tái diễn. Do đó, chẳng những “đừng tin những gì cộng sản nói” (lời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), mà còn đừng tin những gì cộng sản viết, và cũng đừng tin những gì cộng sản cam kết, dù cam kết trên giấy tờ như hiệp định Genève.
20.10.2017


Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2017/10/ai-vi-pham-hiep-inh-geneve-20-7-1954.html#more

Thứ Năm, 19 tháng 10, 2017

Người Việt thờ ơ dân chủ và thích quân đội?

Người Việt thờ ơ dân chủ và thích quân đội?

  • 18 tháng 10 2017
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Cử tri Việt Nam vừa bỏ phiếu bầu Quốc hội tháng Năm 2016
Một thăm dò quốc tế vừa cho thấy đa số người Việt Nam chỉ ưa thích "vừa phải" hệ thống chính trị dân chủ nhưng đồng thời cũng ủng hộ một chính phủ do quân đội nắm quyền.
Trung tâm Nghiên Cứu PEW, trụ sở tại Washington D.C, công bố khảo sát đã làm ở 38 quốc gia (www.pewglobal.org/2017) để hỏi người dân nghĩ gì về dân chủ.

Ba mức độ khác nhau

Báo cáo này phân loại người trả lời khảo sát thành ba nhóm.
Đầu tiên là những người "ủng hộ dân chủ hết lòng" nếu họ ủng hộ hệ thống chính trị do dân bầu, phản đối cai trị của giới chuyên gia (kỹ trị), và không ưa một lãnh đạo mạnh hay quân đội nắm quyền.
Nhóm thứ nhìn là người trả lời "ủng hộ dân chủ vừa phải" (less-committed democrats) nếu họ cho rằng nền dân chủ đại diện thì tốt nhưng cũng thích ít nhất một hình thức chính quyền phi dân chủ (như quân đội).
Loại thứ ba là những người "phi dân chủ" vì không thích chế độ dân chủ đại diện và ủng hộ ít nhất một hình thức phi dân chủ khác.
 Quân đội Việt Nam
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Quân đội Việt Nam
Chiếu theo xếp loại này, khảo sát tại Việt Nam cho thấy chỉ có 8% được xem là "ủng hộ dân chủ hết lòng", còn kém hơn cả 9% "phi dân chủ".
Còn lại, 79% người Việt được thăm dò được xem là "ủng hộ dân chủ vừa phải", nghĩa là vừa ủng hộ nền dân chủ đại diện nhưng cũng thích ít nhất một hình thức phi dân chủ.
Nền dân chủ đại diện hay dân chủ đại nghị được sự ủng hộ cao nhất tại Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Đức, Hà Lan và các nước Bắc Âu, trong đó có Thụy Điển là cao nhất, nơi 52% người dân hoàn toàn ủng hộ dân chủ (xem bảng cuối bài).
Trong 38 nước được khảo sát, Việt Nam là nước ủng hộ mạnh nhất cho một chính quyền quân nhân.
Khi được hỏi về chính quyền quân nhân (military rule), tới 29% người Việt Nam xem đây là thể chế "rất tốt", 41% coi là "hơi tốt" và chỉ có 3% xem là "rất xấu".
Đại hội Đảng 12 năm 2016

Khác biệt thế hệ

Khảo sát nói rằng một nguyên do có thể vì hoài niệm quá khứ ở riêng Việt Nam, nơi 46% người Việt trên 50 tuổi được hỏi đã thể hiện quan điểm ủng hộ một chính quyền quân nhân, trong khi chỉ có 23% người trong độ tuổi 18 đến 29 ủng hộ.
Người Việt được khảo sát cũng thích một chính quyền "kỹ trị", tức là để các chuyên gia, thay vì người do dân bầu, quyết định theo cách mà họ nghĩ tốt cho đất nước.
Khảo sát cho thấy Việt Nam có vẻ 'lạc điệu' với thế giới khi chuẩn toàn cầu của PEW cho thấy 78% người trả lời câu hỏi coi 'dân chủ đại diện' là rất tốt, và chỉ có 17% coi là thể chế xấu.
Các câu hỏi trong khảo sát liên quan Việt Nam
Mức độ tin tưởng của bạn về việc chính phủ làm điều tốt cho đất nước - nhiều, một chút, không nhiều, không hề?
Nhiều Một chút Không nhiều Không hề
31 51 16 1
Hệ thống dân chủ mà ở đó, công dân - chứ không phải viên chức do dân bầu - sẽ bỏ phiếu trực tiếp về những vấn đề lớn của quốc gia để quyết định có trở thành luật pháp hay không
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
28 45 12 4
Hệ thống dân chủ, mà ở đó đại diện do dân bầu sẽ quyết định ra luật pháp.
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
33 54 4 2
Một lãnh đạo mạnh có thể quyết định mà không bị can thiệp của quốc hội hay tòa án?
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
9 33 30 17
Chuyên gia, thay vì người do dân bầu, quyết định theo cách mà họ nghĩ tốt cho đất nước?
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
17 50 17 5

Quân đội cai trị đất nước?
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
29 41 19 3

Khảo sát tại Việt Nam cho thấy chỉ có 8% được xem là
  
 
Bản quyền hình ảnh PEW
Image caption Khảo sát tại Việt Nam cho thấy chỉ có 8% được xem là "ủng hộ dân chủ hết lòng", còn kém hơn cả 9% có quan điểm "phi dân chủ"
Nguồn: http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-41667806

Nghiên cứu mới: dân chúng Việt Nam nói dân chủ tốt nhưng vẫn ủng hộ chính phủ phi dân chủ


Nghiên cứu mới: dân chúng Việt Nam nói dân chủ tốt nhưng vẫn ủng hộ chính phủ phi dân chủ

RFA
2017-10-16
Hình minh họa. Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại tòa án thành phố Nha Trang hôm 29/6/2017.
Hình minh họa. Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại tòa án thành phố Nha Trang hôm 29/6/2017.
AFP
Trung tâm Nghiên Cứu PEW, trụ sở tại Washington D.C, vào ngày 16 tháng 10 công bố báo cáo cho thấy trên khắp thế giới xu hướng ủng hộ cho nền dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp được sự ủng hộ rộng rãi. Tuy nhiên cũng có những ý kiến thuận với các giải pháp thay thế phi dân chủ khác.
Theo báo cáo đưa ra thì hơn phân nửa số người được hỏi ý kiến thăm dò tại 38 quốc gia cho rằng nền dân chủ đại diện là cách rất tốt hay cũng tốt phần nào đó cho công cuộc quản trị đất nước.
Tại tất cả các nước có người được hỏi ý kiến, thái độ ủng hộ nền dân chủ cùng tồn tại, theo những mức độ khác nhau, với thái độ mở đối với những hình thức quản trị đất nước không dân chủ gồm có sự quản trị bởi giới chuyên gia, bởi một nhà lãnh đạo cứng rắn, hay bởi quân đội.
Có nhiều yếu tố tác động đến chiều sâu của công chúng trong cam kết đối với dân chủ đại diện so với giải pháp phi dân chủ. Người dân tại những quốc gia giàu có hơn và tại những nơi mà hệ thống dân chủ đầy đủ hơn thường có khuynh hướng cam kết hơn với dân chủ đại diện. Và tại nhiều quốc gia, những người  dân ít được giáo dục hơn, những người theo ý thức hệ cực hữu và những người không hài lòng với cách nền dân chủ vận hành tại đất nước họ thì lại mong muốn xem xét những giải pháp phi dân chủ hơn.
Trung bình có 66% người được hỏi trên toàn thế giới cho rằng dân chủ trực tiếp (theo đó chính công dân hơn là những viên chức được bầu ra, bỏ phiếu cho những vấn đề lớn) sẽ là cách tốt để quản trị đất nước.
Việt Nam cũng nằm trong số 38 quốc gia mà PEW tiến hành cuộc thăm dò vừa nêu. Kết quả thăm dò cho thấy có đến gần 80% người Việt Nam được hỏi cho rằng dân chủ đại diện là tốt nhưng cũng đồng thời ủng hộ ít nhất một hình thức chính phủ không dân chủ.
Thăm dò ở Việt Nam cũng cho thấy có 31% những người được hỏi ý kiến cho rằng họ tin chính quyền đang làm điều đúng cho đất nước.
Khi được hỏi ‘một hệ thống dân chủ nơi mà công dân, chứ không phải những viên chức, bỏ phiếu trực tiếp cho những vấn đề lớn của đất nước nhằm đưa ra luật lệ sẽ tốt hay xấu cho quốc gia của bạn’, có 16% cho rằng rất xấu.
Có 47% người được hỏi ý kiến tại Việt Nam trả lời rằng ‘hoàn toàn xấu’; khi được nêu câu hỏi ‘Một hệ thống mà theo đó một nhà lãnh đạo cứng rắn có thể đưa ra quyết định không cần sự can thiệp của quốc hội hay tòa án là cách tốt hay xấu trong quản trị đất nước?’
Báo cáo của PEW về dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện như vùa nêu được tiến hành từ ngày 16 tháng 2 đến ngày 8 tháng 5 vừa qua dựa trên trả lời của gần 42 ngàn người tại 38 nước.

Nguồn:http://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/globally-broad-support-for-representative-and-direct-democracy-10162017143548.html

Người Sĩ Quan Tiên Tri.

 NGƯỜI SĨ QUAN TIÊN TRI...!!
   Tiên tri, là điều đoán định một sự kiện nào đó sẽ xẩy ra trong tương lai,cho đúng sự, việc mà mình nghiên cứu, học hỏi qua kinh dịch. tử vi và bói toán!. Và vì vậy, chúng tôi- Sĩ quan Bộ Tổng Tham Mưu/Q. VNCH có tham vọng muốn đưa bộ môn khoa học huyền bí này vào quân sử, quân sự VNCH,để bổ xung vào bộ môn ' Binh pháp Tôn Tử ' trên chiến trường VN.Và hiện đại hóa Sĩ Quan QL.VNCH- Chủ nhân tương lại lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa.
1- Phương diện chiến trường- Biết địch biết ta; trăm trận trăm thắng!
Sĩ quan phải rành rẽ về- Ngũ hành và âm dương sinh khắc, để đoán định chiến thuật hành quân giữa ta và địch thù

2- Phương diện ngoại giao
 Sĩ quan phải học khoa khiêu vũ; nhảy đầm...và bói toán hay nhân tướng học, để lấy lòng các bà phu nhân chánh khách ngoại giao quốc tế, vì cần lịch thiệp, hào hoa, phong nhã của Sĩ quanVN,để lấy lòng các bà hơn đức ông chồng!
3- Và- Triệt tướng cầm quân- Thắng địch
...
Ta có thể nhờ  khoaTử vi, Tướng số...để biết sinh khắc và tử mệnh của nhà cầm binh đối nghịch, mà đưa ra đối sách tướng cầm quân trên mặt trận chiến truờng, một cách chiến thắng hợp thời theo binh pháp Tôn Tử.
Đây là những bộ môn khoa học huyền bí cổ xưa...nhưng nó vẫn là môn ' khoa học nhâ văn 'ngày nay, nó không mất tính tinh hoa, trật tự và hài hòa thiên nhiên vũ trụ, nếu ta biết áp dụng tính xung khắc ngũ hành và tính hài hòa âm dương trong xã hội và cuộc sống thì nó mang hạnh phúc,tự do, hòa bình Việt Nam!!

Nhưng, rất tiếc những dự trù đưa bộ môn Tử Vi- Dịch lý- tướng số học là môn Khoa học huyền bí, vào các quân trường Sĩ quan QL.VNCH, để đào tạo lớp người trẻ tuổi Sĩ quan toàn tài, toàn đức lãnh đạo Việt Nam. Và vì biến cố lịch sử 30-Tháng 4- 1975, gẩy súng tan hàng, nên đành gác lại cho mai sau!!

 " Đức năng thắng số " là ' bản thể Tử vi ' của Trump thắng cử!
ĐÚNG & SAI?!..
.

Ảnh bìa hồ sơẢnh của tôi

nguoi-30-nam-doan-chinh-xac-bau-cu-tong-thong-my-chon-trump

 " Đức năng thắng số " là ' bản thể Tử vi ' của Trump thắng cử!
ĐÚNG & SAI?!..
.
Cổ nhân thường nói: " Thánh nhân nói 10 câu đúng, cũng có 1 câu sai; Thằng ngu nói 10 câu sai cũng có 1 câu đúng...!! "- Donald Trump nói 10 câu sai; cũng có 1 câu " ĐÚNG '". Làm ' thay đổi ' nước Mỹ, quá trì trệ và quá yếu, để đánh mất ngôi vị số 1- kinht tế, quân sự toàn cầu . Suýt chút nữa... bị Trung Quốc Cộng sản đuổi Mỹ ra khỏi Biển Đông Á/TBD. Cũng là do Đảng Dân chủ Mỹ lên cầm quyền lãnh đạo?!.
Thực sự ra: Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ đang điều hành và lãnh đạo đảng dân chủ Mỹ, do tập đoàn lãnh đạo ' phản chiến Hoa Kỳ- Obama-John Kerry- Joe Biden- muốn chia đôi Biển Đông Á/TBD, sống chung hòa bình Trung cộng, mà quên đi trách nhiệm dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam: bán rẽ lương tâm, danh dự.... Và vì quyền lợi nước Mỹ, mà bán đứng đồng minh VNCH- Huỳnh Mai St.8872

 PHỤC HỒI UY THẾ & DANH DỰ HOA KỲ!
Nước Mỹ của hiện tại và bây giờ, cần có sự thay đổi...?! để phục hồi lại Uy tín và danh dự sau phá sản chiến tranh VN & phản bội đồng Minh VNCH, và cho cuộc chiến ' dầu hỏa Trung Đông...?! '

Trò tâm lý chiến. Tất cả các tử vi đông tây đều chọn Clinton rồi.?!. Nhưng xin mọi người nhớ cho...Trong Tử Vi- Đẩu số, hay Hàm số của Việt Nam và Trung Hoa, đều có câu thòng an toàn: " ĐỨC NA8NGTHA81NG SỐ..! ". Vì thế, có hy vọng ông  Trump sẽ thắng cữ tước bà Clinton, dù cho bà có hội tụ đủ các bộ sao: Đế vương, Thanh Long, Thái tuế... và ram hóa liên châu: Khoa.- Quyền- Lộc củng cố, thì cũng như không có gì?! sự nghiệp đế vương cho bà Clinton, vì đảng dân chủ của bà Clinton suốt 16 năm qua, dưới trào TT clinton và Obama không mang trả lại công bằng tự do cho VNCH, mà Hoa Kỳ bán đứng Sài gòn Miền Nam VN. Đó là dều thất đức, thất nhân ta6mcua3 Mỹ, ảnh hưởng đến mệnh số của Clinton, không thể làm tổng thống Hoa Kỳ năm 2017. Hy vọng Ứng Cử Viên ÔngTrump, dù ông không hội đủ các sao quan cách lên  làm vua: lên làm Tổng thống Hoa Kỳ, trả lại Tự Do và sự công bằng Dân chủ Việt Nam, nhờ đức năng muốn thay đổi và giữ vị trí số 1 Hoa Kỳ trong thế giới Tự Do. Đó cũng là mệnh trời,,, cho Việt Nam được phầnTự Do- Không Cộng sản!!!- Huỳnh Mai St.8872
P/s-Thực ra, nước Mỹ cần phải thay đổi thể chế " Cộng Hòa Tự Do " hơn " Dân chủ Xã hội Công sản " cầm quyền Obana- Clinton
Nguồn: http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/10/uc-nang-thang-so-la-ban-tu-vi-cua-trump.html


Bậc thầy tiên đoán tương lai và hậu vận Donald Trump chính xác đến rợn người

https://youtu.be/stDCma37vnk

Xuất bản 18 thg 10, 2017
Hãy đăng ký kênh, để không bỏ lỡ những bài bình luận mới nhất từ chúng tôi. Lưu Ý : Buổi bình luận này chỉ thể hiện quan điểm cá nhân của các nhà bình luận gia. Không nhất thiết là quang điểm của " Dụng Channel " . Xin Cảm Ơn Qúy Bạn Hữu thân thiết gần xa, lời chào tri ân .


 Huỳnh Mai St.8872
Cựu Đại Úy Bộ TTM/TCQH/QL.VNCH

Thứ Tư, 18 tháng 10, 2017

QLVNCH và nỗi oan khuất

QLVNCH và nỗi oan khuất

Cánh Dù lộng gió (Danlambao) - Đây là một vấn đề nhức nhối mà bất cứ một người lính trong QLVNCH hay một người dân sống trong chế độ VNCH trước năm 1975 đều cay đắng ngậm ngùi cho số phận của một Quân Lực nổi tiếng trước năm 1975 được xếp hạng hùng mạnh thứ 4 trên thế giới trước năm 1975. (1)
Sức mạnh của QLVNCH tuy bị phân biệt bởi 2 dòng tướng lãnh thời Pháp và thời Mỹ nhưng không vì thế mà tiềm năng chiến đấu bị giảm sút. Sĩ quan thời đệ nhất Cộng Hòa bước qua nền đệ nhị Cộng Hòa đã trở thành những vị tướng lãnh trong quân đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Những vị tướng đã có một thời nổi tiếng trong các mặt thận trên 4 vùng chiến thuật như Đỗ Cao Trí, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Dư Quốc Đống v.v... Từng lẫy lừng khắp mọi trận địa miền Nam hồi đó, đã làm các tướng tá CSVN phải điên đầu và khiếp đảm mỗi khi có cuộc đụng độ và chạm trán với QLVNCH.
Miền Nam trước đây thời VNCH vừa phải nỗ lực xây dựng đất nước vừa phải xây dựng một quân đội tương đối thiện chiến trên mọi trận tuyến, vừa phải có kế sách đối phó với những kẻ ACQGTMCS gây chia rẽ trong nội bộ, chia rẽ tôn giáo, xách động mọi tầng lớp chống phá chính quyền VNCH.
Trong tất cả các cuộc hành quân QLVNCH đầu chiếm ưu thế áp đảo nên mọi âm mưu thôn tính của đối phương đều bị bẻ gãy. Tiếc thay người Mỹ vì quyền lợi đã nuốt lời hứa với đồng minh của mình khi rút quân về nước cũng như cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH sau năm 1973. Trong khi đó phe CS Quốc Tế là Liên Sô và Tàu cộng tăng viện trợ lên nhiều lần cho phía CS Bắc Việt hòng cưỡng chiếm miền Nam VN. Tuy bị bỏ rơi nhưng với quyết tâm bảo vệ Tổ Quốc, người lính VNCH không hổ danh với 3 lời tâm niệm Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm, nhiều đơn vị đã tử thủ cho tới giây phút cuối cùng trước khi có lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh.
Thật oan ức cho một quân đội trước năm 1975 khá nổi tiếng thế giới nhưng chỉ vì giải pháp chính trị đi nhanh hơn giải pháp quân sự nên đành bị trói tay ngậm ngùi buông súng khi vẫn còn sức chiến đấu. Tuy vũ khí đạn dược đã cạn kiệt nhưng chỉ vì 2 chữ chính nghĩa quê hương luôn nằm trong đầu mà họ chấp nhận hy sinh tính mạng để bảo vệ miền Nam chống lại sự xâm lăng của những người cùng máu đỏ da vàng đánh thuê cho Liên Sô và Tàu cộng là CS Bắc Việt.
Có những nơi như vùng 1 chiến thuật và vùng 2 chiến thuật chưa nổ một tiếng súng đã phải rút lui chiến thuật đạp lên nhau để kéo về Cam Ranh vì lệnh của Tổng Thống Thiệu phải cấp tốc rút hết trong vòng 24 giờ. Tướng lãnh bỡ ngỡ, kiếm mọi phương tiện để rút đi càng nhanh càng tốt, theo sau đó là vợ con của lính, những người dân nghe CS sẽ đánh chiếm vùng đó nên cũng khăn gói bồng bế nhau tìm đường sống trong cái chết trước mắt khi bị phục kích hay pháo của CS chận bắn, mọi liên lạc bằng vô tuyến đều ngưng trệ, không có người chỉ huy, họ như rắn mất đầu ai có thân người ấy lo tạo lên cảnh hỗn độn trên đường bộ và dưới đường thủy.
Cũng vì cái lệnh của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mà miền Nam nhanh chóng bỏ cuộc. Có nhiều người cho rằng ông Thiệu cho lệnh bỏ vùng 1+ vùng 2 để Mỹ động lòng suy nghĩ lại mà giữ lời đã cam kết trước khi rút quân là nếu CSVN tiếp tục vi phạm hiệp định đã ký kết thì quân đội Mỹ sẽ quay trở lại hay ít ra cũng viện trợ quân sự lại cho VNCH nhưng chỉ là vô ích vì phía Mỹ đã quyết tâm dứt bỏ ông bạn đồng minh của mình để đổi lấy sự đổ vỡ của khối Liên Sô, hay bắt tay ký kết những hợp đồng thương mại với phía Tàu cộng.
Ngay 2 quả bomb BLU 82 được thả ở Long Khánh Mỹ cũng đã tính toán kỹ lưỡng chỉ để lại 2 hột nổ còn lại mấy trái không có hạt nổ, vì phía CS Bắc Việt dồn hết vào mặt trận Long Khánh hòng dứt điểm QLVNCH để tiến vào Sài Gòn quá nhanh nên Mỹ mới cho dùng 2 quả bomb này để chận bớt sức tiến quân của quân CS hầu cho những người Mỹ cuối cùng rút ra khỏi VN. (2)
Như thế mọi tính toán của người Mỹ đã rõ ràng quyết định bỏ mặc VNCH cho phía CSVN tấn công và cưỡng chiếm miền Nam năm 1975.
Nhận định chung đầu tiên phía vùng 1 và vùng 2 chiến thuật chưa bị mất phần đất nào đã có lệnh rút lui làm mất tinh thần các binh sĩ, sau đó lệnh của tướng DVM trên đài phát thanh ra lệnh đầu hàng nên bắt buộc phải thi hành lệnh của thượng cấp, QLVNCH dù có ba đầu sáu tay cũng phải buông súng theo lệnh này, một số không khuất phục đã tự sát như toán Nhảy Dù ở mặt trận Long Khánh và vườn Tao Đàn.
Lịch sử đã sang trang, QLVNCH bị bôi nhọ, lớp vì các nhà báo, phóng viên phản chiến của Mỹ đòi rút quân đội Mỹ ra khỏi VN, quốc hội Mỹ không phê chuẩn viện trợ thêm một xu nào cho VNCH, trong khi đó khối Liên Sô và Tàu cộng tăng viện trợ cho CSBV lên gấp nhiều lần, lớp những kẻ ACQGTMCS như Thích Trí Quang, Lê Khắc Từ, Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫn, trong nước quậy phá biểu tình thường xuyên chống chính quyền VNCH, lớp tin tức nội bộ bị những gián điệp ngay trong phủ tổng thống như Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Xuân Ẩn đưa tin cho phía CSVN. Tất cả những lý do trên đã trói tay chân QLVNCH tạo cho CSVN có cớ nhục mạ bôi nhọ QLVNCH sau này như chúng đã từng rêu rao suốt mấy chục năm qua.
Nói cho cùng thì kẻ thắng cuộc dù thắng kiểu ma giáo thì chúng có quyền tự viết lịch sử theo ý chúng và QLVNCH là nạn nhân của những kẻ trước đây đã từng khuất phục trước nòng súng của các quân binh chủng QLVNCH.
18.10.2017

Chủ Nhật, 15 tháng 10, 2017

1954-1975: Quốc tế đã công nhận hai nhà nước Việt Nam như thế nào



Công pháp Quốc tế

1954-1975: Quốc tế đã công nhận hai nhà nước Việt Nam như thế nào

Bản đồ chia cắt hai miền Việt Nam 1954-1975. Ảnh: National Geographic (không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất giữa người Việt với nhau khi nói đến cuộc chiến Việt Nam trong giai đoạn từ 1954-1975 là về tính chính danh của hai nhà nước ở hai miền Nam-Bắc Việt Nam.
Hai điều khó có thể phủ nhận là: cả hai miền đều có sự ủng hộ riêng từ cộng đồng quốc tế, và kể từ 30/4/1975, Cộng hoà Miền Nam Việt Nam rồi tiếp đến là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thừa kế hàng loạt quyền và nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam Cộng hoà.
Hiệp định Geneva 1954 nhấn mạnh việc tạm thời chia đôi nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17 không đồng nghĩa với việc thiết lập ranh giới lãnh thổ và chính trị giữa hai miền Nam-Bắc. Chính phủ ở cả hai miền đều thể hiện rất rõ ràng điều này tại các bản hiến pháp của họ trong giai đoạn 1954-1975.
Từ thời điểm bắt đầu đàm phán Hiệp định Geneva 1954 cho đến khi chiến tranh kết thúc, cả hai chính thể được thành lập trước đó tại mỗi miền đều cho rằng chỉ duy nhất một mình họ là đủ tính chính danh để quản lý cả đất nước. Cũng như, chỉ có họ là được quốc tế công nhận.
Thế nhưng định nghĩa “quốc tế” của mỗi miền cũng không giống nhau. Khi ấy, chính cộng đồng quốc tế cũng chia rẽ thành hai khối, chứ không riêng gì đất nước Việt Nam.
Tháng 1, 1950, cùng với Trung Quốc và Liên Xô, các quốc gia cộng sản Đông Âu đều công nhận tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đối với lãnh thổ Việt Nam.
Cũng vào đầu năm 1950, Liên hiệp Pháp công nhận quyền tự trị và nền độc lập của Quốc gia Việt Nam (QGVN), tiền thân của Việt Nam Cộng hòa (VNCH), dựa trên một số hiệp ước được ký kết trước đó giữa hai nước vào năm 1949.
Đến tháng 2, 1950, Anh, Hoa Kỳ và một số nước Tây phương đều công nhận QGVN là thể chế lãnh đạo của nước Việt Nam.
Sau khi VNCH được thành lập vào năm 1955 và thay thế quyền lãnh đạo miền Nam của QGVN, Hoa Kỳ và các đồng minh Tây phương tiếp tục công nhận tính chính danh của VNCH. Đến năm 1966, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã thống kê là có 60 quốc gia trên thế giới công nhận chính thể VNCH của Nam Việt Nam.
Một số nước như Ấn Độ, Thuỵ Điển thì lại theo quy tắc không công nhận cả hai. Tuy nhiên, đến năm 1969, Thuỵ Điển trở thành nước Tây phương đầu tiên công nhận nhà nước VNDCCH của Bắc Việt Nam.
Việc công nhận thể chế nào tại Việt Nam mới thật sự đại diện cho cả đất nước vốn không hề ngã ngũ vào thời điểm Hiệp định Geneva 1954 được ký kết.
Ngược lại, cuộc giằng co này đã kéo dài đến hơn 20 năm sau.
Trong giai đoạn 1954-1975, ngoài sự công nhận của các nước trên thế giới bị chia rẽ theo hai cực cộng sản và tư bản trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, thì hai nhà nước Việt Nam còn được công nhận theo một số cách khác.
Cờ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Việt Nam Cộng hoà tại vĩ tuyến 17 trong thời kỳ chiến tranh. Ảnh: Tạp chí Life.
Gia nhập Liên Hiệp Quốc
Trước hết, VNCH đã từng xin tham gia vào LHQ từ đầu thập niên 1950. Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, VNDCCH cũng nộp đơn làm thành viên. Tuy nhiên, cả hai đều gặp phản đối từ thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an.
Chúng ta không cảm thấy khó hiểu khi biết được Liên Xô đã từng phản đối VNCH tham gia vào LHQ, và ngược lại thì Hoa Kỳ phản đối VNDCCH.
Cùng vì những sự phản đối này mà việc đăng ký làm thành viên LHQ của hai chính phủ Bắc-Nam Việt Nam đã khá lận đận trong vòng 20 năm.
Ngày 30/4/1975, chế độ VNCH bị thay thế bởi chính quyền của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMN), nhưng vẫn giữ vị thế một nhà nước độc lập đối với VNDCCH tại miền Bắc. Điều này được thể hiện rõ qua hai lá đơn xin tham gia LHQ riêng biệt của VNDCCH – Bắc Việt và CHMN – Nam Việt vào năm 1975.
Đến ngày 8/8/1975, Hội đồng Bảo an đã đồng thuận chấp nhận và đề cử với Đại Hội đồng LHQ cho cả hai quốc gia VNDCCH – Bắc Việt lẫn CHMN – Nam Việt được tham gia vào LHQ.
Việc Hội đồng Bảo an đưa ra đề cử với cả hai đơn xin tham gia LHQ của hai nhà nước Việt Nam vào tháng 8, 1975 càng làm rõ vấn đề là cả hai chính thể đều được đối xử như nhau và đều được LHQ công nhận.
Sau khi hai nhà nước VNDCCH và CHMN thống nhất và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời vào ngày 2/7/1976, thì Việt Nam mới trở thành một quốc gia với một chính phủ duy nhất. Sau đó, CHXHCN Việt Nam đã chính thức gia nhập LHQ vào tháng 9, 1977.
Trên danh nghĩa, kể từ ngày 30/4/1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam tiếp quản toàn bộ lãnh thổ do Việt Nam Cộng hoà quản lý trước đó. Ảnh: Uỷ ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định tổ chức họp báo quốc tế ngày 8/5/1975. Nguồn: Herve GLOAGUEN/Gamma-Rapho via Getty Images.
Tham gia với tư cách thành viên của các tổ chức Quốc tế
Có lẽ việc VNCH và VNDCCH đều tham gia làm thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) càng giúp chúng ta phân biệt được Việt Nam đã từng có hai chính phủ và được đối đãi như hai quốc gia riêng biệt.
Trước hết, đây là các tổ chức quốc tế mà thành viên tham gia hầu hết phải là các quốc gia có chủ quyền (sovereign states). Chúng ta có thể dùng Đài Loan làm ví dụ để so sánh vì Đài Loan chưa bao giờ là thành viên của WHO.
Thế nhưng, từ 17/5/1950, VNCH là thành viên của WHO, và là thành viên của WMO từ 1/4/1955.
Sau khi VNCH sụp đổ vào ngày 30/4/1975, VNDCCH mới xin gia nhập hai tổ chức này và trở thành thành viên của WMO ngày 7/8/1975, và của WHO vào ngày 22/10/1975. Điều này có nghĩa là tư cách thành viên của VNCH tại WHO và WMO lúc đó không bị xoá bỏ cho dù chính thể VNCH không còn tồn tại nữa.
Sau khi hai miền Nam Bắc đồng ý thống nhất và trở thành CHXHCN Việt Nam vào tháng 7, 1976, chính phủ mới đã gửi thông báo đến hai tổ chức này trong năm 1977 để yêu cầu cho phép CHXHCN Việt Nam tiếp nhận tư cách thành viên của cả hai chính phủ Nam-Bắc Việt Nam trước đó.
Điều này đồng nghĩa với việc trong thời gian trước năm 1977, đã có hai quốc gia Việt Nam là thành viên của WHO và WMO được các tổ chức quốc tế này công nhận.
Điểm này được nhấn mạnh bởi ngày tham gia vào WHO của Việt Nam hiện nay là ngày 17/5/1950. Đó là ngày mà VNCH tham gia vào WHO như đã nói ở trên, và có nghĩa là tư cách tham gia WHO với danh nghĩa một quốc gia của VNCH không hề bị ảnh hưởng bởi việc thống nhất đất nước vào năm 1976.
Ngoài ra, CHXHCN Việt Nam còn tiếp tục thay thế tư cách thành viên của VNCH với các tổ chức ILO, ITU, UPU, UNESCO, và IAEA. Đây là những tổ chức quốc tế mà trước năm 1975, chỉ có VNCH tham gia làm thành viên.
Kể từ năm 1977, Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là chính thể duy nhất quản lý toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ảnh: mard.gov.vn.
CHXHCN Việt Nam tiếp tục tư cách thành viên của VNCH đối với các định chế tài chính quốc tế
Trước tháng 4, 1975, chỉ có VNCH là thành viên của các định chế tài chính quốc tế. Đó là Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).
Sau khi được thành lập vào tháng 7, 1976, CHXHCN Việt Nam đã trình thư xin thay thế (substitution) tư cách thành viên của VNCH tại các định chế tài chính nói trên, chứ không phải là đơn xin gia nhập làm thành viên mới.
Cụ thể là khi thay thế tư cách thành viên của VNCH với ADB, CHXHCN Việt Nam đã tiếp quản 3.000 cổ phần của chính phủ VNCH tại ngân hàng này.
Đồng thời, CHXHCN Việt Nam cũng tiếp tục được nhận tất cả các khoản vay mà VNCH đã được ADB chấp thuận cho vay trong những năm trước đó. CHXHCN Việt Nam cũng bảo đảm sẽ chịu trách nhiệm chi trả cho những khoản vay này.
Vì vậy, ngày gia nhập ADB của Việt Nam hiện nay là ngày 22/9/1966, là ngày mà Quốc hội của chính phủ VNCH tại miền Nam đã phê chuẩn việc tham gia ADB.
CHXHCN Việt Nam tiếp tục công nhận một số hiệp ước mà VNCH đã ký kết 
Tương tự như việc tiếp tục tư cách thành viên của VNCH tại một số tổ chức và định chế tài chính quốc tế như đã nêu, CHXHCN Việt Nam còn tiếp tục công nhận ít nhất hai hiệp ước quốc tế mà VNCH đã ký kết trước ngày 30/4/1975.
Ngày 16/12/1976, nhà nước CHXHCN Việt Nam đã đệ trình đơn phê chuẩn Công ước Viễn thông Quốc tế 1973 (1973 International Telecommunication Convention) mà chính phủ VNCH đã ký kết vào ngày 25/10/1974 tại Hội nghị Málaga-Torremolinos nhưng chưa kịp phê chuẩn. Đơn đệ trình của CHXHCN Việt Nam nêu rõ là việc phê chuẩn được dựa trên những ký kết mà VNCH đã thực hiện trước đó.
Tương tự, VNCH được công nhận tư cách thành viên của Liên minh Bưu chính Quốc tế (UPU) từ năm 1951. Vào tháng 7/1974, chính phủ VNCH đã ký kết các văn bản liên quan đến Các Quy chế chung (General Regulations) và Công ước Liên minh Bưu chính Lausanne (Universal Postal Convention) của UPU nhưng chưa kịp phê chuẩn. Ngày 27/10/1976, Quốc hội của CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn các văn bản này và đệ trình lên tổ chức UPU với yêu cầu được thừa kế (succession) tư cách của VNCH.
Ngoài ra, vào ngày 4/7/1976, chỉ 2 ngày sau khi được thành lập, Bộ Ngoại giao của nhà nước CHXHCN Việt Nam đã gửi công hàm đến chính phủ Thụy Sỹ và tuyên bố khẳng định tiếp tục tham gia vào các hiệp ước của Công ước Geneva 1949 (Geneva Conventions of 1949) mà hai chính phủ VNDCCH VNCH đã ký kết trước đó về các vấn đề bảo vệ nạn nhân chiến tranh.
***
Qua những ví dụ kể trên chúng ta nhận thấy rằng, bằng nhiều hành động khác nhau, cả hai chính phủ VNCH và VNDCCH đã khẳng định tư cách quốc gia của mình trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam từ năm 1954-1975.
Tuy nhà nước Việt Nam hiện nay chưa bao giờ chính thức công nhận chính thể VNCH nhưng CHXHCN Việt Nam lại liên tục công nhận tư cách quốc gia của VNCH một cách gián tiếp, qua việc thừa kế hoặc tiếp nhận tư cách thành viên của VNCH tại các tổ chức và định chế tài chính quốc tế.
Ngày nay, có lẽ đối với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những thế hệ sinh ra và lớn lên sau năm 1975, tư cách quốc gia của VNDCCH tại miền Bắc Việt Nam là việc không còn phải tranh cãi.
Còn về chính thể QGVN – VNCH tại miền Nam, chúng ta có thể đọc lại những gì mà Đại Hội đồng LHQ đã phát biểu khi đề cử QGVN tham gia LHQ trong phiên họp năm 1952. Từ đó, chúng ta có thể phần nào hiểu thêm được một quan điểm khác về sự tồn tại và tính chính danh của chính thể QGVN – VNCH:
“Quan điểm của Đại Hội đồng cho rằng (Quốc gia) Việt Nam là một nhà nước yêu chuộng hòa bình đúng như định nghĩa của Điều 4 Hiến chương, đã thể hiện nguyện ý cũng như có khả năng thực hiện các nghĩa vụ của Hiến chương, và do đó nên được chấp thuận tham gia làm thành viên của Liên Hiệp Quốc.”
Tài liệu tham khảo:

Bình luận


Café Luật Khoa

Lịch sử gợi ý 3 cách giảm chênh lệch giàu nghèo: chiến tranh, cách mạng cộng sản và dịch bệnh.

Cảnh phân hoá giàu nghèo ở New York năm 1995. Bất bình đẳng về kinh tế luôn là vấn đề nhức nhối trong lịch sử Mỹ. Ảnh: AP Photo/Adam Nadel.
Chiến tranh, cách mạng cộng sản và dịch bệnh là ba yếu tố đã làm giảm bất bình đẳng về kinh tế trong hàng ngàn năm lịch sử vừa qua.
Bất bình đẳng về kinh tế đang tăng lên ở Mỹ đã và đang là động lực đầy sinh khí cho cả cánh tả lẫn cánh hữu. Cho dù đó là Thượng nghị sỹ Bernie Sanders hứa sẽ tạo ra những cộng đồng “cổ xanh” hay Tổng thống Trump cam kết “làm cho nước Mỹ một lần nữa trở nên vĩ đại”, các cương lĩnh chính trị hiện nay thường xoay quanh việc đưa trở lại tầng lớp trung lưu đầy khí thế và phân phối của cải công bằng hơn, như Mỹ đã từng trải qua trong những năm 1950, 1960 và 1970.
Tuy nhiên, nhìn rộng hơn về lịch sử, rõ ràng là giai đoạn mà bất bình đẳng giảm đi là ngoại lệ, và hiện tượng bất bình đẳng đang tăng lên hiện nay mới là trạng thái bình thường. Và khi bất bình đẳng giảm đi trong suốt chiều dài của lịch sử, thì giáo sư Walter Scheidel của Đại học Stanford khẳng định trong một cuốn sách mới xuất rằng đấy là vì những lý do mà chẳng có ai thích.
Trong tác phẩm The Great Leveler: Violence and the History of Inequality from the Stone Age to the Twenty-First Century (tạm dịch: Người cào bằng vĩ đại: Bạo lực và Lịch sử của bất bình đẳng từ thời kỳ đồ đá đến thế kỷ XXI), Scheidel đã xem xét các xã hội, từ lịch sử cổ đại đến thời hiện tại.
Ông thấy rằng cùng với thời gian, hầu hết các xã hội ngày càng trở nên bất bình đẳng hơn và ở những nơi mà bất bình đẳng được xóa bỏ thì hầu như bao giờ cũng được thực hiện bằng bạo lực – chiến tranh, cách mạng hay dịch bệnh. Tác phẩm này chứa đựng một số bài học làm người ta choáng váng về bản chất của bất bình đẳng và ý nghĩa của điều này đối với tương lai của chúng ta.
Cuộc phỏng vấn được biên tập để cho rõ ràng và ngắn gọn hơn.
Giáo sư Walter Scheidel là một nhà Sử học giảng dạy Lịch sử Cổ đại tại Đại học Stanford. Ảnh: Twitter.
Bất bình đẳng hiện nay so với bất bình đẳng trong lịch sử thì như thế nào? Khi nào thì bất bình đẳng đạt đỉnh điểm, còn khi nào thì giảm?
Nếu nhìn qua hàng trăm hoặc hàng ngàn năm, thì sẽ thấy mô hình lên xuống của bất bình đẳng. Nhưng đối với phần lớn lịch sử, bất bình đẳng hoặc là gia tăng hoặc ổn định ở mức cao. Bất bình đẳng giảm đáng kể là hiện tượng hiếm hoi. Về khía cạnh này, thế giới mà chúng ta đang sống là môi trường điển hình, trong đó bất bình đẳng đang gia tăng hay đã đạt đến mức rất cao, ở nhiều nước.
Trong Thế chiến I và Thế chiến II, chúng ta đã chứng kiến bất bình đẳng giảm nhanh một cách bất bình thường. Điều đó có định hình nhận thức của mọi người về bất bình đẳng hay không?
Có. Thời hậu chiến, những năm 1950, 1960 và 1970, đã trở thành điểm tham chiếu. Trong thời kỳ đó, kinh tế tăng trưởng khá mạnh, tầng lớp trung lưu phình ra và bất bình đẳng ở mức thấp, nếu so với các tiêu chuẩn hiện nay. Nhưng kể từ những năm 1980, kinh tế tăng trưởng chậm lại, và sự tăng trưởng mà chúng ta thấy lại làm lợi một cách không cân đối cho 1% những người có tiếng tăm, những người nằm trên đỉnh tháp phân phối thu nhập. Điều đó đánh dấu một sự thay đổi thực sự, kể từ giai đoạn hậu chiến, và điều đó được hiểu là hiện tượng không mong muốn. Nhưng nếu bạn nhìn lịch sử một cách rộng rãi hơn, thì thời hậu chiến là giai đoạn bất bình thường.
Khi Trump nói, “làm cho nước Mỹ một lần nữa trở nên vĩ đại”, có nghĩa là đã từng có thời kỳ mà mọi thứ đều tốt hơn, và trong ý thức của người dân, thì đó là giai đoạn hậu chiến, giai đoạn mà kinh tế tăng trưởng nhanh, tầng lớp trung lưu đầy sức mạnh và bất bình đẳng tương đối thấp. Nhưng đó là sự kết hợp không bình thường, và thật khó biết làm sao chúng ta có thể trở lại con đường đó.
Cuốn sách của ông lần ngược trở lại lịch sử để nghiên cứu bất bình đẳng. Làm sao ông nghiên cứu được bất bình đẳng trong xã hội cổ đại? Những thứ như đồ tùy táng và khảo cổ học có thể nói với chúng ta điều gì?
Nếu quay lại với những xã hội thậm chí không có chữ viết, về cơ bản, tất cả những cái chúng ta có là mồ mả. Một số người được chôn cất với nhiều thứ xa hoa hơn hẳn những người khác, chứng tỏ rằng họ có cuộc sống giàu có hơn và nắm giữ các vị trí quyền lực và có thẩm quyền.
Ông khẳng định rằng sự phát triển của nông nghiệp đã tạo ra bất bình đẳng. Xin ông giải thích và còn những lực lượng nào tạo ra bất bình đẳng nữa không?
Nếu bạn là người tập hợp các thợ săn lại với nhau, người ta thường làm như thế sau Kỷ Băng hà cuối cùng, thì bạn là người rất nghèo, nhưng bạn cũng là người tuyệt đối theo chủ nghĩa bình quân. Những người tập hợp các thợ săn lại với nhau không sản xuất được nhiều, họ không sở hữu nhiều, họ không để lại nhiều của cải cho con cái.
Khi bước vào nền văn minh du cư – trồng trọt và chăn nuôi gia súc – người ta chỉ đơn giản là làm ra nhiều của cải hơn. Họ cũng lập ra các thiết chế, luật và phong tục, giúp quản lý quyền sở hữu những của cải đó, quản lý quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế, tạo điều kiện cho họ để lại của cải cho các thế hệ tương lai. Nếu đợi đủ lâu, điều này hầu như sẽ tự động dẫn đến gia tăng bất bình đẳng, trừ khi có một số lực lượng gây hấn đẩy nó quay trở lại.
Nhưng nó thường bị lực lượng khác ngăn chặn, đó là quá trình thành lập nhà nước. Các chính phủ thường củng cố thêm xu hướng bất bình đẳng về thu nhập. Các tầng lớp thượng lưu, liên hệ chặt chẽ với những người nắm quyền, nắm được những lợi thế thái quá và bóc lột những người khác
Rồi, trong 200 năm qua, đặc biệt ở phương Tây, chúng ta cũng có cái mà các nhà kinh tế học gọi là những lực lượng của thị trường – vốn đầu tư vào thương mại, ngân hàng và các lĩnh vực khác. Một lần nữa, một nhóm người tương đối nhỏ được giữ vị trí để gặt hái những lợi ích không cân xứng với đóng góp của họ.
Cuốn sách của ông thảo luận về bốn nhân tố góp phần xóa bỏ bất bình đẳng trong suốt chiều dài của lịch sử. Thứ nhất là “cuộc chiến với sự tham gia của quần chúng”. Ông nói rằng không phải tất cả các cuộc chiến đều dẫn đến bình đẳng hơn. Cuộc chiến tranh này là thế nào?
Lịch sử đầy các cuộc chiến tranh, nhưng hầu hết đều không xóa bỏ một cách có hệ thống hiện tượng phân phối thu nhập và của cải một cách bất công. Đây thực sự là hiện tượng của nửa đầu của thế kỷ XX. Vì đây là lần đầu tiên, người ta thấy những cuộc chiến tranh trên quy mô thực sự lớn, trong đó lỷ lệ lớn đàn ông trưởng thành bị bắt lính, cả nam giới và nữ giới dân sự cũng được huy động cho các cuộc chiến tranh.
Để gây quỹ cho chiến tranh, chính phủ tăng thuế lên mức cực kỳ cao – trên 90% đối với những người có thu nhập cao nhất ở Mỹ, trong những năm 1940. Ở nhiều nước, chiến tranh phá hủy nhiều tài sản, nhà ở và nhà máy.
Người giàu mất nhiều hợp đồng. Đồng thời, người lao động không có tay nghề được lợi hơn, vì cần nhiều lao động hơn, và việc bắt lính dẫn đến không còn nạn thất nghiệp, làm cho tiền lương gia tăng. Mọi cái kết hợp lại theo cách đó, góp phần làm giảm đáng kể hiện tượng bất bình đẳng ở Mỹ, ở châu Âu, Nhật Bản và những nước tham gia vào các cuộc xung đột này.
Còn ba tác nhân khác?
Tác nhân thứ hai mà tôi thảo luận trong cuốn sách này là những cuộc cách mạng Cộng sản, thoát thai từ Thế chiến I và Thế chiến II, ví dụ, Nga và Trung Quốc. Các nhà cách mạng cộng sản sung công và quốc hữu hoá tất cả tài sản, đất đai và ngành công nghiệp. Họ tạo ra nền kinh tế kế hoạch hóa, định ra mức lương và giá cả. Kết quả là, trong hệ thống của họ, bất bình đẳng là không đáng kể.
Nhưng đấy là những sự kiện đầy bạo lực. Hàng chục triệu người đã thiệt mạng. Và bình đẳng chỉ tồn tại khi các chế độ này vẫn còn. Khi Liên Xô sụp đổ, ở Nga, bất bình đẳng đã gia tăng gấp đôi chỉ trong vòng vài năm. Trong những năm 1980, khi Trung Quốc tự do hoá nền kinh tế, nước này đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế cực kỳ lớn, nhưng bất bình đẳng cũng gia tăng.
Hai lực cuối cùng thường thấy hơn trong thời tiền hiện đại. Một là nhà nước sụp đổ, ví dụ, nền văn minh Maya, hay vụ sụp đổ của đế chế La Mã. Trong những trường hợp này, nếu nhà nước trước đó tạo ra hoặc làm gia tăng sự bất bình đẳng, thì việc hủy diệt nó tạo ra kết quả ngược lại. Giai cấp cầm quyền bị xói mòn hoặc, trong trường hợp cực đoan, biến mất hoàn toàn.
Cuối cùng là dịch bệnh nghiêm trọng, trận Dịch Hạch cuối thời Trung cổ ở Châu Âu. Khi đại dịch giết chết một tỷ lệ lớn dân chúng; đất và vốn vẫn còn nhiều như trước đây, nhưng người lao động thì ít, nhu cầu về lao động gia tăng và tiền lương cũng tăng. Người nghèo không còn nghèo như trước và người giàu cũng không giàu như trước, khoảng cách giàu nghèo thu hẹp đáng kể. Nhưng chuyện đó chỉ xảy ra khi dịch bệnh còn hoành hành. Khi dân số tăng lên, nhu cầu lao động giảm và bất bình đẳng gia tăng và trong một vài thế kỷ, người ta sẽ trở lại điểm xuất phát.
Cuốn sách của ông có đồ thị rất thú vị, chứng tỏ sự bất bình đẳng ở Châu Âu qua thời gian.
Có ba giai đoạn lớn trong lịch sử châu Âu, khi bất bình đẳng giảm. Một là vào cuối thời cổ đại, khi Đế quốc La Mã tan vỡ, phá hủy khoảng 1% La Mã. Bất bình đẳng gia tăng trở lại, nhưng sau đó, trong giai đoạn Dịch Hạch, thế kỷ XIV và XV, lại giảm. Và lần thứ ba là Cuộc đàn áp Vĩ đại, từ năm 1913 đến năm 1945, ở các nước phương Tây.
Biểu đồ biến thiên của hiện tượng bất bình đẳng ở châu Âu trong lịch sử. Nguồn: Sách “The Great Leveler”, tác giả Walter Scheidel/Washington Post.
Ở nhiều nơi, trong đó có châu Âu và Mỹ, bất bình đẳng hồi đầu thế kỷ XX là cao nhất trong lịch sử. Nói chung, hiện nay chúng ta chưa đạt đến mức đó. Mức độ bất bình đẳng hiện nay vẫn còn thấp so với giai đoạn trước các cuộc thế chiến.
Những vụ thu hẹp đáng kể bất bình đẳng này là do một cái gì đó rất tàn bạo hoặc rất đáng ghét. Ông khẳng định rằng xóa bỏ bất bình đẳng bằng những biện pháp hoà bình, như chế độ dân chủ, giáo dục và cải cách ruộng đất, gần như không hiệu quả, đúng không ạ?
Đúng thế. Không có ý nói rằng những việc này không có kết quả. Nếu chúng ta không có chế độ dân chủ xã hội, không có những biện pháp tái phân phối và giáo dục quần chúng ở Mỹ như ngày hôm nay, thì điều kiện sống sẽ xấu hơn rất nhiều. Nhưng nếu bạn đang tìm cách giảm bất bình đẳng trong phạm vi rộng lớn, thì lịch sử cho thấy các biện pháp hòa bình tự chúng sẽ không tạo ra nhiều thay đổi. Không có giai đoạn cào bằng nào trong lịch sử mà không liên quan tới một vụ đổ vỡ đầy bạo lực.
Có khả năng là lần này sẽ khác?
Tất cả đều có thể. Tôi vừa nghĩ đến những người sau Thế chiến II cũng có cùng ý tưởng như thế. Lúc đó, lần đầu tiên trong lịch sử, họ có một nền kinh tế đã công nghiệp hóa, có chế độ dân chủ, có giáo dục đại chúng. Lúc đó, nói rằng bất bình đẳng quá cao sẽ không bao giờ trở lại là giả thiết hợp lý. Nhưng hóa ra là không đúng, vì các lực lượng khác đã quay trở lại. Vì các xu hướng hiện nay là rõ ràng, như nền công nghệ, toàn cầu hóa, lão hóa; các tác nhân này cho thấy bất bình đẳng sẽ gia tăng, chứ không phải là giảm đi.
Chúng ta thường nghĩ về bất bình đẳng như là hiện tượng tiêu cực, nhưng ông đã liên kết bình đẳng với tất cả những sự kiện kinh hoàng trong suốt chiều dài của lịch sử. Nó tạo ra một hình ảnh phức tạp hơn về mặt đạo đức.
Bạn không muốn có xã hội hoàn toàn không còn bất bình đẳng. Đấy sẽ là xã hội rất kỳ quặc và cũng không công bằng, theo nghĩa nào đó. Chỉ là vấn đề mức độ. Khi nào thì bất bình đẳng  trở nên quá cao, đến mức nó có hại cho tăng trưởng kinh tế, cho ổn định xã hội và cơ hội của con người trong cuộc đời?
Rõ ràng, không có người nào, một lúc nào đó ủng hộ cho những lực lượng bạo lực này tái xuất hiện. Nhưng đây có thể là vụ thỏa hiệp không dễ dàng. Thế giới ngày nay yên bình hơn bất cứ giai đoạn nào khác trong lịch sử. Nếu bạn muốn có ổn định, tăng trưởng kinh tế và mức độ bạo lực không cao, thì có thể hiện tượng bất bình đẳng tương đối cao là kết quả hầu như không thể tránh khỏi.
Cái chúng ta cần tập trung vào là, trong môi trường như thế, tìm cho ra những việc làm khả thi về mặt chính trị nhằm giải quyết những vấn đề ở ngoại vi. Đối với tôi, hy vọng vào kiểu bình đẳng mà chúng ta đã thấy cách đây một thế hệ dường như là không thực tế. Sự cải thiện có thể không xảy ra nếu không sẵn sàng trả giá cực kỳ cao.

Bình luận


Café Luật Khoa

30/4 – Xâm lược hay Giải phóng: Từ góc nhìn công pháp quốc tế

Có đủ căn cứ và cơ sở để cho rằng tồn tại hai quốc gia tách biệt trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1955 cho đến năm 1975.
Bộ đội Bắc Việt chiếm lĩnh Sài Gòn, ngày 30/4/1975. Ảnh: Herve GLOAGUEN/GettyImages.
Đây là một bài viết mà người đọc cần đi đến cuối bài.
Một cách khách quan, để nhận định một cuộc chiến diễn ra dưới cơ chế là một cuộc xung đột nội địa hay quốc tế, trước tiên phải xác định được danh nghĩa pháp lý của các bên tham gia, mà cụ thể hơn, họ có được xem là quốc gia (“state”) theo quy định của pháp luật quốc tế hay không?
Sự công nhận của cộng đồng quốc tế không quan trọng?
Pháp luật quốc tế vẫn chưa có một định nghĩa hay tiêu chuẩn chính thức để xác định danh tính quốc gia. Cho đến nay, quốc gia, các tổ chức và các học giả quốc tế đều dựa vào 4 tiêu chuẩn từ Điều ước Montevideo về Quyền và trách nhiệm của Quốc gia, ký kết vào năm 1933.
Đây vốn chỉ là một điều ước khu vực giữa các quốc gia thuộc Châu Mỹ lục địa. Tuy nhiên, theo cân nhắc của nhiều học giả, các tổ chức học thuật có thẩm quyền (như International Law Association hay International Law Commission) và thực hành của nhiều quốc gia khác nhau; bốn tiêu chuẩn này thật sự chỉ pháp điển hoá tập quán pháp quốc tế. Vì vậy, chúng được xem là căn cứ hợp pháp để xác định tư cách quốc gia.
Bốn tiêu chuẩn được ghi nhận gồm: (1) Lãnh thổ xác định, (2) Dân cư xác định (cả hai tiêu chuẩn này không cần thiết phải tuân thủ theo một số lượng cụ thể), (3) Chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả và (4) Năng lực tham gia vào điều ước với quốc gia khác.
Có ba điểm cần chú ý trong bộ tiêu chuẩn nói trên.
Một là, khái niệm dân cư không đồng nghĩa với việc nó phải thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo nhất định. Theo đó, một quốc gia không nhất thiết chỉ có dân cư thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo. Ngược lại, không nhất thiết hai nhóm dân cư cùng thuộc một dân tộc, màu da hay tôn giáo thì phải cùng một quốc gia với nhau.
Hai là, dù chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành quốc gia, điều này không nên được hiểu đồng nghĩa với việc chính phủ, chính quyền đương thời tương đồng với sự tồn tại của chính quốc gia đó. Ta có thể hiểu rõ hơn vấn đề này thông qua vài ví dụ như Somalia, Palestine, và Đài Loan.
Somalia tính cho đến nay, có thể đã được xem là “failed state” – “một quốc gia thất bại”, nơi mà chính quyền trung ương biến mất (hoặc không đủ năng lực kiểm soát quốc gia) và được thay thế bởi chủ nghĩa bộ tộc và lãnh chúa địa phương. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quốc gia Somalia không còn tồn tại và ai cũng có thể xâm chiếm vùng lãnh thổ nói trên.
Tương tự, có thể nói rằng Palestine vẫn chưa có được một chính phủ hiệu quả thống nhất lãnh đạo. Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được xem là một đại diện lý tưởng cho Palestine, nhưng tranh chấp bạo lực giữa các phe phái như Hamas hay Fatah vẫn còn đó. Mặc dù vậy, việc không có một chính phủ hiệu quả đại diện cho nhóm dân cư này cũng không đồng nghĩa với việc quốc gia Palestine không tồn tại.
Đài Loan, xét mọi mặt, ở một mức độ mạnh mẽ và rõ ràng hơn, có thể xem là một quốc gia độc lập – đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Montevideo. Tuy nhiên, Đài Loan cũng đang đẩy mình vào thế khó theo mặt pháp lý,  tương đương với miền Nam Việt Nam mà bài viết sẽ phân tích ở phần sau.
Ba là, dù yêu cầu thứ tư có nhắc đến việc tham gia vào điều ước quốc tế với quốc gia khác, điều này không đồng nghĩa với việc chính phủ đó phải được cộng đồng quốc tế công nhận. Yêu cầu này nhằm nói đến quyền hạn và năng lực thực thi điều ước nếu được ký kết, không phải nhằm ám chỉ rằng quốc gia đó phải được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Hiển nhiên, điều này cũng chỉ mang tính tương đối.
Nhiều học giả đã và đang cân nhắc sức nặng của yếu tố cộng đồng quốc tế, hay cụ thể nhất là việc được tiếp nhận trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc (United Nations – UN). Trên thực tế, được UN hay các cường quốc công nhận là một bước đệm quan trọng, nhưng sự đồng thuận chung của cộng đồng học thuật thế giới và các tổ chức học thuật có thẩm quyền thì đây không phải, và không nên là một yêu cầu bắt  buộc.
Một dân tộc – hai quốc gia? Khả dĩ.
Với những thông tin như trên, chúng ta có thể tập hợp lại và tạo nên một bức tranh chung về “statehood” của hai miền Nam Bắc Việt Nam.
Vĩ tuyến 17 chia cắt Việt Nam làm hai miền. Ảnh: BBC.
Trước tiên, có đủ căn cứ và cơ sở để cho rằng tồn tại hai quốc gia tách biệt trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1955 cho đến năm 1975.
Cả hai quốc gia đều có lãnh thổ và dân cư xác định, có chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả; đều từng tham gia vào các hiệp ước, hiệp định quốc tế.
Vì vậy, dù chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các đồng minh có tuyên bố chính phủ Việt Nam Cộng hòa là ngụy quân, ngụy quyền, bù nhìn của Mỹ; hay ngược lại, dù chính quyền Việt Nam Cộng hòa có lên án chính quyền miền Bắc là quân cờ của Cộng sản, quên lịch sử cha ông… thì cũng không làm thay đổi danh tính pháp lý của họ theo quy chuẩn pháp luật quốc tế.
Tuy nhiên, cách nhìn nhận này cũng không hẳn là hoàn toàn không có kẽ hở.
Đầu tiên, cả hai quốc gia đều cho rằng mình là đại diện hợp pháp cho toàn Việt Nam; tương tự  như vấn đề “Một Trung Quốc ” (One China) giữa Đài Loan và Trung Quốc hiện tại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tranh chấp hai miền mang dáng dấp của một cuộc nội chiến hơn là tranh chấp liên quốc gia. Tuy nhiên, theo người viết, điều này không làm mất đi bản chất nhà nước của hai quốc gia theo tiêu chuẩn của Montevideo.
Thứ hai, phải tính đến luận điểm cho rằng Ngô Đình Diệm, chính quyền Bảo Đại và Hoa Kỳ đã không tôn trọng Hiệp định Geneva và không tuân thủ việc thi hành cuộc tổng tuyển cử 1956 như dự định.
Nhưng nếu cho rằng Hiệp định Geneva giải quyết được vấn đề Việt Nam thì cũng không tôn trọng quyền dân tộc tự quyết (self-determination) của một bộ phận người dân Việt Nam, quy định tại Khoản 2, Điều 1, Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt, bối cảnh pháp lý của hai chính quyền tồn tại song song ở thời điểm này tương đối phức tạp.
Tính chính danh của chính phủ VNDCCH chủ yếu dựa vào cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Tính chính danh này càng được tăng cường hơn sau khi vua Bảo Đại chính thức thoái vị và trao lại ấn tín, quốc bảo của hoàng triều Nguyễn cho đại diện chính Phủ VNDCCH Trần Huy Liệu ngày 25/8/1945.
Tuy nhiên, với Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt ngày 6/3/1946, được ký kết giữa ông Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và ông Hồ Chí Minh cùng ông Vũ Hồng Khanh, đại diện chính phủ VNDCCH; VNDCCH chỉ còn lại phía Bắc Việt Nam (và vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp), miền Nam Việt Nam vẫn thuộc nhà nước Cộng Hòa Pháp với lời hứa hẹn cho một cuộc trưng cầu dân ý – thống nhất với VNDCCH trong tương lai. Ngày 1 tháng 6 cùng năm, người Pháp thành lập Nam Kỳ Quốc đặt thủ phủ tại Sài Gòn.
Trong giai đoạn từ 1946 đến 1949, sự cứng đầu của cựu vương tân Quốc trưởng Bảo Đại đối với các đại biểu Pháp cũng đã giúp Quốc Gia Việt Nam thành lập với cơ sở của Hiệp ước Elysée (8/3/1949). Trải qua nhiều biến cố với cuộc “đảo chính bằng phiếu” của ông Ngô Đình Diệm, chính quyền Quốc gia Việt Nam cũng có nền tảng pháp lý khá tương đồng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vì vậy, việc Cộng hòa Pháp tự tiếp tục cho mình toàn quyền sắp đặt ngày tổng tuyển cử với Hiệp định Geneva là can dự vào nội bộ Việt Nam, một việc làm không thỏa đáng, đặc biệt khi hai bên duy nhất chấp nhận ký kết hiệp định chỉ có chính phủ kháng chiến của VNDCCH và nhà nước Cộng hòa Pháp, còn chính phủ Bảo Đại và Hoa Kỳ đều phản đối Hiệp định.
***
Với tất cả các thông tin nói trên, cân nhắc nền tảng pháp lý tương đồng, năng lực quản lý tương đương, có đầy đủ lý do (theo công pháp quốc tế) để cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai thực thể nhà nước hoàn toàn độc lập.
Vậy nên, hành vi dùng vũ lực quân sự để tước đoạt chính quyền, lãnh thổ của một quốc gia khác, theo định nghĩa của Điều 1, Nghị quyết 3314 năm 1974 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, là hành vi xâm lược theo công pháp quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
Toàn văn Hiến chương Liên Hiệp Quốc
Toàn văn Nghị quyết 3314 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
Thomas D. Grant; Defining Statehood: The Montevideo Convention and its Discontents (Columbia Journal of Transnational Law, 1999)
James Crawford; The Creation of State of Palestine: Too much too soon? (EJIL, 1990)
A Vietnam War Timeline
Vua Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy) – Lịch sử Việt Nam

Bình luận


Dân chủ hóa

Bốn cách tiếp cận dân chủ hóa ở Việt Nam – Kỳ 1: Đảng dẫn dắt

Đường phố được trang hoàng, chuẩn bị cho Đại hội ĐCS lần thứ 12 (tháng 1/2016). Ảnh: Báo Nhân Dân.
Bài viết dưới đây của học giả Benedict J. Tria Kerkvliet cho rằng có bốn cách tiếp cận trong việc thúc đẩy dân chủ hóa ở Việt Nam. Cách thứ nhất nhấn mạnh vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản (ĐCS) trong việc chuyển đổi hệ thống chính trị hiện tại sang hệ thống dân chủ. Cách tiếp cận thứ hai tập trung vào việc xây dựng các tổ chức để đương đầu và xóa bỏ ĐCS, qua đó nhanh chóng thiết lập một hệ thống dân chủ…
Cách tiếp cận thứ ba sử dụng việc tham dự vào chính quyền ở mọi cấp để thúc đẩy tiến bộ kinh tế xã hội, từ đó dẫn đến dân chủ hóa. Và cách tiếp cận cuối cùng hướng đến việc dân chủ hóa thông qua mở rộng và tăng cường các tổ chức xã hội dân sự. Một điểm cần nhấn mạnh trong cả bốn cách tiếp cận này là không cách nào ủng hộ việc thay đổi hệ thống chính trị bằng bạo lực.
Cách tiếp cận “Đảng dẫn dắt”
Một số nhà phê bình cho rằng ĐCS là nguyên nhân chính khiến cho Việt Nam tụt hậu. Vì vậy, họ kêu gọi ĐCS phải tiến hành dân chủ hóa đất nước, theo họ thì cách làm này sẽ giúp người Việt không phải phá bỏ tất cả các thiết chế hiện hành. Họ cho rằng Việt Nam vốn đã sở hữu một vài đặc điểm mang tính dân chủ. Chẳng hạn, Hiến pháp đã ghi rõ rằng quyền lực thuộc về người dân, và trong Hiến pháp cũng có các quy định về bầu cử cũng như bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Vấn đề chính ở đây là các yếu tố dân chủ này không hoặc rất hiếm khi được thực thi trong thực tế. Ấy là do ĐCS nắm quá nhiều quyền lực. Để giải quyết vấn đề, ĐCS có thể tiến hành dân chủ hóa đất nước và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Trần Độ là nhân vật tiêu biểu ủng hộ cho quan điểm đó. Ông sinh năm 1924 ở Thái Bình trong một gia đình công chức, trở thành thành viên của ĐCS vào năm 1940, và sau đó tham gia lực lượng kháng chiến. Ông là sĩ quan trong trận Điện Biên Phủ, nơi quân đội Việt Nam đã đánh bại quân Pháp vào năm 1954. Trong phần lớn cuộc chiến chống Mỹ, ông chiến đấu trên nhiều chiến trường ở miền Nam. Sau đó ông trở thành quan chức cao cấp trong chính quyền. Khi nghỉ hưu vào năm 1991, ông đang là Phó Chủ tịch Quốc hội.
Lý do chính khiến ông quyết định nghỉ hưu là sự vỡ mộng trước kiểu chính trị của đất nước. Ông cho rằng tham nhũng là hậu quả của một hệ thống chính trị vốn “không có cơ chế ràng buộc và kiểm soát quyền lực”. Và cái tình trạng tệ hại này lại bắt nguồn từ sự thống trị của ĐCS. Theo ông, thời chiến, vai trò lãnh đạo của ĐCS chính là yếu tố quyết định trong việc giành được độc lập khỏi Pháp năm 1954 và thống nhất đất nước năm 1975. Nhưng kể từ đó trở đi, sự kiểm soát của ĐCS đối với đất nước đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng.
Theo Trần Độ, nền kinh tế Việt Nam tuy khá nhỏ nhỏ bé so với nhiều nước ở châu Á, song đã được cải thiện đáng kể từ những năm 1980. Và ông xem thành tựu này là cơ sở cho lập luận về vai trò của ĐCS trong việc dân chủ hóa. Trong những năm 1980, ĐCS đã biết lắng nghe người dân, khi dân đang bất mãn với việc nhà nước kiểm soát sản xuất và phân phối. Bằng cách cho phép nền kinh tế thị trường, ĐCS đã giải phóng năng lượng và sự sáng tạo đang bị kìm hãm của người dân. Trần Độ nhấn mạnh rằng các bước tương tự – như ĐCS lắng nghe người dân, cho phép họ cất tiếng nói và tiến hành đổi mới – cần phải được thực hiện để Việt Nam phát triển hơn nữa. Nếu không, ĐCS sẽ tự làm suy yếu chính mình. Ông muốn hàm ý rằng, nếu không tiến hành dân chủ hóa, thì rồi những bất ổn sẽ lớn tới mức một ngày nào đó chúng sẽ khiến người dân phải xóa bỏ ĐCS.
Trần Ðộ đã thể hiện những quan điểm này trong vô số bài báo và thư từ, thường được gửi cho các quan chức cao cấp của Đảng (và lưu hành trên Internet) trong khoảng thời gian từ năm 1995 cho đến khi ông qua đời vào tháng 8/2002. Năm 1998, ông khiến các quan chức cấp cao cảm thấy khó chịu đến mức họ đã bàn cách để buộc ông phải im miệng. Có lẽ danh tiếng rộng khắp của ông đã khiến cho chẳng có ai dám bắt bớ ông, dù rằng ông và gia đình vẫn hay bị công an quấy rối thường xuyên. Vào đầu năm 1999, giới lãnh đạo ĐCS đã khai trừ ông ra khỏi Đảng.
Khoảng một thập niên sau khi Trần Độ mất, các tác phẩm của ông hoặc viết về ông đã được các nhà xuất bản chính thống ở Việt Nam in và phát hành. Ảnh: Hoàng Kim Phượng/Luật Khoa.
Các quan điểm cùng với danh tiếng của Trần Độ đã khiến ông trở thành một trong những nhà bất đồng chính kiến nổi bật nhất ở Việt Nam đương đại. Cho đến ngày nay, ông vẫn được nhiều người ngưỡng mộ. Tuy nhiên, không giống như nhiều nhà phê bình chế độ khác, ông cho rằng con đường hứa hẹn nhất cho dân chủ hóa là thông qua chính ĐCS.
Quan điểm của ông có ba phần chính. Thứ nhất, Việt Nam đã có nhiều đặc điểm dân chủ. Nếu những đặc điểm này được tận dụng, chúng sẽ thúc đẩy tiến trình dân chủ hoá. Do đó, nhiệm vụ trước mắt là thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế trong cách thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, ĐCS là tổ chức có vị trí tốt nhất để lãnh đạo quá trình này. Nó đã tạo ra một hệ thống dân chủ vào năm 1945-1946, tuy nhiên chiến tranh đã khiến cho hệ thống này không được áp dụng. Nhiều thành viên ĐCS ủng hộ dân chủ hoá và tin rằng Đảng phải chịu trách nhiệm cho những sai lầm của hệ thống chính trị. Hơn nữa, ĐCS đã có truyền thống hướng tới thực hiện những điều tốt nhất cho người dân. Các nhà lãnh đạo cần rút ra từ lịch sử của ĐCS các ý tưởng và sức mạnh để “tự đổi mới chính mình” và qua đó thay đổi hệ thống chính trị.
Thứ ba, lãnh đạo ĐCS có thể bắt đầu tiến trình dân chủ hóa bằng cách thực hiện các điều khoản về nhân quyền đã quy định trong Hiến pháp; tổ chức các cuộc bầu cử với sự tham gia của nhiều đảng chính trị; loại bỏ các quy định trong Hiến pháp về đặc quyền của ĐCS; tách ĐCS ra khỏi nhà nước; và tiến hành dân chủ hoá thủ tục nội bộ của chính nó.
Đường phố được trang hoàng, chuẩn bị cho Đại hội ĐCS lần thứ 12 (tháng 1/2016). Ảnh: báo Nhân Dân.
Một người có lập trường tương tự là Trần Huỳnh Duy Thức. Ông ít tuổi hơn Trần Độ rất nhiều, và xuất thân từ một bối cảnh hoàn toàn khác.
Ông sinh năm 1966, mẹ ông là nông dân và cha là giáo viên dạy tiếng Anh. Ông từng học tại Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh giữa những năm 1980. Đầu những năm 1990, ông và cộng sự đã xây dựng thành công các công ty máy tính và viễn thông. Chính trong quá trình làm việc, ông đã nhận thấy mức độ tham nhũng nghiêm trọng của chính quyền. Tự hỏi phải làm gì để chống tham nhũng, ông và một vài người bạn đã đọc rất nhiều tài liệu khoa học xã hội, chủ yếu bằng tiếng Anh.
Ông đi đến kết luận rằng một hệ thống chính trị đa đảng không phải là biện pháp khắc phục điều này, và có nhiều quốc gia tuy đa đảng song vẫn tham nhũng. Ngoài ra, cái gọi là dân chủ ở nhiều quốc gia là “chỉ là giả tạo”, chúng chỉ phục vụ cho một số ít người.
Vào cuối năm 2008, ông kết luận rằng việc tạo ra một nền dân chủ thực sự sẽ không bắt đầu bằng việc đa đảng. Thay vào đó, nền dân chủ xuất hiện theo thời gian thông qua cải thiện điều kiện sống của người dân, khiến họ ý thức được các quyền của mình, cùng với đó là việc chính quyền “quyết tâm xây dựng một nền dân chủ thực sự, đảm bảo các điều kiện cho phép người dân làm chủ”.
Từ việc nghiên cứu cũng như từ kinh nghiệm kinh doanh của mình, ông nói với chính quyền rằng việc giới hạn không gian của doanh nghiệp tư nhân trong nước và tình trạng phụ thuộc vào nhà nước của các nhà đầu tư nước ngoài chính là hai thực trạng đang đe dọa chủ quyền của Việt Nam. Trên các blog và trong các kiến nghị gửi tới các cơ quan chức năng trong giai đoạn 2006-2010, cũng như trong bản tóm lược của một cuốn sách, Trần Huỳnh Duy Thức cho rằng “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam sẽ đi đến sụp đổ. Dẫu nó cho phép mức độ tự do kinh tế cao hơn và nó cũng giúp cải thiện cuộc sống của người dân, song nền kinh tế này đã chạm tới giới hạn.
Để phát triển hơn nữa, người dân cần có sự tự do chính trị. Nếu không, ông cảnh báo, Việt Nam sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đến từ sự bất ổn và các giới hạn của nền kinh tế, từ những kẻ cơ hội sẽ sử dụng quyền lực chính quyền cho các mục đích tư lợi, và từ cái việc chính quyền lờ đi những người chỉ trích như ông – những người vốn tìm cách cải thiện hệ thống chính trị chứ không hề có ý lật đổ nó. Một nguyên nhân khác nữa là do sự khác biệt lớn giữa cái lý tưởng được ĐCS bảo vệ và hứa hẹn trong Hiến pháp với cái thực tế tham nhũng tràn lan, bè phái và đàn áp.
Trần Huỳnh Duy Thức vốn là một doanh nhân thành đạt. Ảnh: Dân Luận.
Để tránh tai hoạ, Trần Huỳnh Duy Thức kêu gọi chính quyền hãy nắm bắt cơ hội, theo cái cách mà nó đã làm trong những năm 1980 khi đẩy lùi thảm họa quốc gia bằng cách bãi bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung.
Giờ đây, ông cho rằng lãnh đạo chính quyền nên áp dụng nền kinh tế thị trường trong đó các doanh nghiệp Việt Nam được phát triển theo hướng dẫn của nhà nước, dựa trên các lý tưởng dân chủ xã hội và “tiến hành việc chuyển giao quyền lực chính trị cho người dân”. Có thể chuyển giao quyền lực cho người dân bằng cách đưa trí thức vào trong chính phủ, những người không phải là thành viên ĐCS nhưng có thể nâng cao năng lực của ĐCS trong việc đối phó với khủng hoảng. Chính quyền cũng có thể kích hoạt các đặc điểm dân chủ đã có trong Hiến pháp của Việt Nam, đặc biệt là các quy định về Quốc hội, bầu cử, các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, và tự do báo chí. Những điều này sẽ củng cố niềm tin để người dân có thể thực hành quyền của họ, mở rộng xã hội dân sự, và thúc đẩy Việt Nam trở thành một nền dân chủ mang những nét đặc trưng của riêng mình.
Nếu không có những biện pháp này, Trần Huỳnh Duy Thức sợ rằng cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra. Lúc đó những kẻ cơ hội trong nước sẽ “hợp tác với nước ngoài để bòn rút lợi ích quốc gia”. Hoặc người dân sẽ nổi dậy để giành lấy quyền lực và các quyền vốn thuộc về họ. Ông lo lắng một cuộc nổi dậy như vậy có thể làm bùng nổ sự thù hận dai dẳng giữa kẻ thắng và người thua trong cuộc nội chiến đã qua, làm cho hoàn cảnh quốc gia trở nên tồi tệ hơn, và biến nó trở thành cơ hội cho những kẻ tư lợi. Để tránh những hậu quả tai hại đó, sự tức giận của người dân phải được chuyển sang nhắm tới các hành động mang tính xây dựng. Trần Huỳnh Duy Thức cho rằng các tổ chức đối lập ở Việt Nam hiện nay quá non trẻ để có thể làm được điều đó. Theo ông, tuy ĐCS bị suy yếu nhưng vẫn giữ được cả khả năng lẫn trách nhiệm để hành động một cách tích cực, nó vẫn là “lực lượng duy nhất có thể tập trung sức mạnh của người dân”.
Vào tháng 5/2009, một tháng sau khi ông và Lê Công Định – một nhà bất đồng chính kiến khác – gặp nhau ở Thái Lan cùng với một người Mỹ gốc Việt chống đối chính quyền Việt Nam, chính quyền đã bắt giam ông. Tới tháng 6, họ cũng bắt Lê Công Định cùng với hai người khác. Tháng 1/2010, cả bốn người đều bị buộc tội âm mưu lật đổ chính quyền. Tuy không được phép tự bảo vệ mình trước tòa án, Trần Huỳnh Duy Thức đã kháng cáo, cố gắng chứng minh sự vô tội của mình. Tuy nhiên, tòa phúc thẩm vẫn giữ nguyên bản án 16 năm tù giam dành cho ông, lâu hơn bản án dành cho ba người còn lại.
Bài tiếp theo: Kỳ 2 – Đối đầu

Bình luận


Tin tức

Tổng thống Duterte bị kiện ra Tòa án Hình sự Quốc tế

Vào thứ hai, ngày 24/4/2017, luật sư Jude Sabio đã đệ trình đơn kiện Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte và các quan chức cao cấp của chính quyền Philippines lên Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), với tội danh “giết người hàng loạt”. Tổng thống Duterte trước đó cũng đã bị cộng đồng quốc tế chỉ trích là vi phạm nhân quyền trong cuộc chiến chống ma túy do ông phát động trên toàn quốc.
Trong 78 trang  khiếu kiện được New York Times công bố, luật sư Sabio cho rằng Tổng thống Duterte đã “liên tục, lặp đi lặp lại và vẫn đang tiếp diễn” các tội ác chống lại loài người, lại còn cho rằng việc giết nghi phạm ma túy và các tội phạm khác là “phương án tối ưu”. Vị luật sư yêu cầu bộ phận Tiền Xét xử của ICC đưa Duterte và các quan chức cấp cao tới Phòng Xét xử để tiến hành phiên tòa, sau đó buộc tội và kết án họ với những hình phạt thích đáng, thậm chí tù chung thân.
Từ các vụ lạm sát ở địa phương đến sát hại quy mô toàn quốc
Luật sư Sabio chỉ ra, đã có ít nhất 1.400 người bị tử hình bởi Đội Thi hành án Tử Davao (Davao Death Squad) trong thời gian ông Duterte còn làm thị trưởng Davao. Và trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, Duterte đã khiến ít nhất 7.000 người bị giết.
Đơn kiện được Sabio lấy tiêu đề là “Tình trạng giết người hàng loạt ở Philippines, Rodrigo Duterte: kẻ giết người hàng loạt” và gửi đến Fatou Bensouda, công tố viên của ICC ở Hague, Hà Lan.
Trong lá thư của mình, Sabio viết:
“Những động thái phù hợp của ông (Fatou Bensouda) đối với vấn đề này không chỉ phụng sự những mục tiêu cao quý của Tòa án Hình sự Quốc tế mà còn  đánh dấu sự khởi đầu cho việc chấm dứt một thời kỳ đen tối, ghê tởm, đẫm máu và tàn ác ở Philippines”.
Jude Sabio là luật sư của Edgar Matobato – cựu thành viên Đội Thi hành án Tử Davao đứng ra làm chứng tại Thượng viện Philippines, khai rằng đã hoạt động theo lệnh của Duterte.
Đây là lần đầu tiên công chúng biết đến việc khiếu kiện chống lại Duterte tại Tòa ICC, dựa trên sự làm chứng của Matobato và cảnh sát nghỉ hưu Arturo Lascanas, cũng như xác nhận từ các nhóm nhân quyền và thông tin báo chí, trong đó có chuỗi bài của Reuteurs về các vụ sát hại.
Trong đơn kiện của mình, Sabio cho rằng ông có những bằng chứng trực tiếp chứng minh Duterte vượt quá nguyên tắc “nghi ngờ hợp lý” khi cho thực hiện “phương án tối ưu” – xử tử nghi phạm tại Davao và tiếp diễn hành động đó trong cuộc chiến chống ma túy của mình khi trở thành tổng thống. Ông giải thích, các vụ giết người ở Davao có những điểm tương đồng với những vụ sát hại gần đây ở một số điểm sau:
  1. Có sự tham gia và chỉ huy của cảnh sát
  2. Có một sát thủ hoặc một kẻ tấn công vũ trang ẩn danh
  3. Có cơ chế khen thưởng cho mỗi lần giết người
  4. Có phần thưởng bằng tiền mặt
  5. Có danh sách nạn nhân
  6. Có sự hợp tác giữa thôn làng với quan chức cảnh sát
  7. Có tấm bảng cạc tông đánh dấu, và khuôn mặt hoặc toàn bộ thi thể được bọc bằng băng keo
  8. Sử dụng sát thủ đi xe gắn máy tấn công
  9. Sử dụng sát thủ bịt mặt hoặc đeo mặt nạ
  10. Có súng và ma túy
Luật sư Sabio cũng cho biết những tuyên bố công khai của Tổng thống Duterte “thể hiện rõ ràng ý định thúc đẩy, khuyến khích hoặc kích động cảnh sát và người dân giết người hàng loạt”.
Bên cạnh đó, ông Sabio cũng nêu ra 11 quan chức có khả năng phải đồng chịu trách nhiệm cùng Duterte.
Phía công tố của ICC xác nhận họ đã nhận được thông tin của ông Sabio và sẽ phân tích xử lý thỏa đáng.
Phản hồi từ phía Chính phủ Duterte
Ernesto Abella – người phát ngôn của Duterte – đã bác bỏ cáo buộc trên và xem nó như một “nỗ lực thô thiển” để hạ uy tín tổng thống.
“Cái gọi là “những vụ giết người không qua xét xử” không được nhà nước công nhận và tài trợ. Mục đích việc đệ đơn lên ICC rõ ràng là để gây rối và làm nhục tổng thống, cũng như làm suy yếu chính phủ hợp pháp của Philippines”.
Bộ Ngoại giao Philippines trong một tuyên bố riêng vào thứ hai cho biết họ đang lưu tâm đến vụ việc. Theo phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Robespierre Bolivar, “cũng như bất kỳ hồ sơ nào khác mà Văn phòng Công tố nhận được, hồ sơ này cũng sẽ trải qua đánh giá toàn diện để xác định liệu nó có đủ điều kiện theo Quy chế Rome về phạm vi và thẩm quyền xét xử hay không”.
Tổng thống Duterte hiện đang phải đối mặt với nhiều chỉ trích không chỉ trong đất nước Philippines mà còn trên phạm vi quốc tế về chiến dịch chống ma túy của ông. Trong đó có Nghị viện châu Âu – nơi vừa cảnh báo Philippines về nguy cơ có thể đánh mất các ưu đãi thương mại nếu tình trạng nhân quyền ở đất nước này không được cải thiện.
Về phần mình, Duterte trách mắng các quan điểm bất đồng với ông về cuộc chiến ma túy, với lý do làm vậy là cần thiết để bảo vệ lớp trẻ của đất nước.


Bình luận


Quyền con người

Báo cáo viên đặc biệt LHQ David Kaye: Luật pháp QT đứng về phía báo chí chân chính

Tháng 4/2017, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) công bố báo cáo thường niên về tự do báo chí toàn cầu, có tên Những cuộc tấn công vào báo chí năm 2017 (Attacks on the Press 2017).
Luật Khoa tạp chí xin giới thiệu đến bạn đọc bản dịch bài viết của Giáo sư David Kaye – Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về quyền tự do quan điểm và biểu đạt – được trích từ báo cáo này.
***
Vào thập niên 1920, nhà văn Nga Yevgeny Zamyatin cho ra đời một quyển tiểu thuyết xuất sắc, Chúng ta (We).
Đáng tiếc là cuốn sách này đã không được nhiều người đọc bằng những tác phẩm hậu duệ của nó, như 1984Thế giới mới quả cảm (Brave New World). Tuy vậy, không khó để có thể nhận thấy rằng George Orwell đã bị ảnh hưởng bởi tác phẩm của Zamyatin khi ông viết 1984.
Tác giả Yevgeny Zamyatin trên bìa tiểu thuyết Chúng ta
Zamyatin đã đưa ra một sự so sánh trực tiếp giữa tiểu thuyết và đời thực về việc kiểm soát thông tin, khi sự riêng tư cùng những giá trị nền tảng của tinh thần tự do chính trị hoàn toàn bị xoá bỏ.
Một nhà nước bí ẩn dưới sự dẫn dắt của một giáo chủ lãnh tụ, người có ham muốn khống chế sự riêng tư cá nhân, thông tin, và cả suy nghĩ của người dân.
Ở nơi ấy, tình yêu là một thứ bị cấm đoán và tự do thì bị thẳng thừng chối bỏ. Bạo lực và sự tàn bạo của quyền lực len lỏi phía dưới bề mặt của một xã hội nhìn như có vẻ hết sức sạch sẽ và trật tự.
Là nơi mà những từ ngữ thông dụng bị chính quyền định nghĩa lại. Ban tuyên giáo thì hoạt động và xuất hiện đầy rẫy trong đời sống người dân.
Tóm lại, đó là một thế giới mà người ta chối bỏ thực tế, trong khi lại ôm ấp sự giả dối và những điều mị dân.
Nhân vật chính trong câu chuyện của Zamyatin, người có bí danh D-503, dần nhận ra sự thật vốn rất khác những gì mà chính quyền nói với anh và những người dân.
D-503 phản tỉnh và trở thành một kẻ phản động, chống đối lại học thuyết của nhà nước. Xuyên suốt cuốn tiểu thuyết và bằng phương pháp ngoại suy, Zamyatin đã phản ánh và miêu tả cuộc sống đương đại trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa Bolshevik (Bolshevism).
Mặc dù tiểu thuyết Chúng ta của Zamyatin đã được viết gần một thế kỷ trước, và nó viết về viễn cảnh của một xã hội cách chúng ta hàng thế kỷ sau trong tương lai, nhưng sự xung đột cốt lõi trong câu chuyện này lại có vẻ như rất đúng thời điểm.
2016 là một năm đã cho chúng ta rất nhiều cơ hội nhìn thấy những giá trị của tự do đã liên tục bị các chính quyền phủ nhận và chối bỏ như thế nào.
Tuy hình ảnh nhà nước mà Zamyatin miêu tả không thể phản ánh một cách toàn diện bất kỳ một chính phủ nào mà chúng ta biết. Thế nhưng, hơn bao giờ hết, những mệnh đề chính trong tác phẩm của ông lại có ý nghĩa quan trọng đối với tình hình thế giới hiện nay.
Vì bây giờ chính là lúc chúng ta phải đối mặt với các chính phủ, và cả những nhân tố phi chính phủ, cũng như việc họ liên tục tìm cách thắt chặt, ngăn chặn, hay chặn đứng hoàn toàn sự lưu chuyển của thông tin trong xã hội. 
Nguồn: Freedom House
Thấy gì qua báo cáo Những cuộc tấn công vào báo chí 2017 của CPJ?
Chúng ta nhìn thấy có rất nhiều chính phủ của các nước trên thế giới đang đe dọa sự lưu chuyển của thông tin. Họ làm điều này bằng việc kiểm soát trên mạng, tấn công trực tiếp ngoài đời và sách nhiễu, sử dụng thủ tục pháp lý hay ban hành những luật lệ với khuôn khổ quá rộng để dễ dàng bắt bớ, cầm tù người dân.
Tất cả những hành vi ấy đều cho thấy, các chính phủ đó có cùng một nỗi sợ hãi và sự khát khao quyền lực không khác gì nhà nước trong tiểu thuyết của Zamyatin.
Những chính phủ này đều sợ rằng, nếu người dân được trao cho những công cụ giúp họ tự mình tìm ra sự thật (hoặc bất kỳ một thông tin chính xác nào đó), thì chính quyền sẽ suy yếu.
Càng tham lam và càng suy thoái vì quyền lực, thì những kẻ đứng đầu các chính phủ lại càng có động cơ để tìm cách ngăn chặn những cuộc tranh luận công khai và hạn chế việc người dân tiếp cận thông tin.
Không mấy ai còn nghi ngờ là những xu hướng chính phủ độc tài hiện đang trên đà trỗi dậy, và hậu quả mà nó mang đến là sự tấn công trực tiếp vào công việc của những người làm báo.
Nhưng không như thế giới trong tiểu thuyết Zamyatin, chúng ta may mắn có được một mạng lưới liên kết các thiết chế luật pháp quốc tế. Và điều này giúp đảm bảo rằng những quyền được tìm kiếm, tiếp nhận, và chia sẻ thông tin, sáng kiến thuộc mọi thể loại, không kể biên giới và bằng phương tiện truyền thông nào, cũng đều được bảo vệ như nhau. 
  Trong đó, quan trọng nhất là Điều 19 của Công Ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị. Các chính phủ vốn chỉ có thể giới hạn những quyền vừa được nêu ở trên khi có cả hai yếu tố sau đây.
Thứ nhất, việc giới hạn phải có căn cứ luật pháp. Và thứ hai, chính phủ có nghĩa vụ phải chứng minh việc giới hạn là cần thiết và tương xứng với mục đích mà chúng đề ra.
Hai yếu tố này phải nói là một chuẩn mực pháp lý rất khó để cho bất kỳ chính phủ nào có thể giới hạn được quyền tự do ngôn luận.

Thế nhưng, cho dù là với một khuôn khổ pháp luật quốc tế cùng các thiết chế giúp bảo vệ các quyền tự do ngôn luận như thế, vẫn có hàng chục các giới hạn từ phía các chính phủ khiến chúng ta cảm thấy cần phải nâng cao cảnh giác, hoặc thậm chí là e sợ.
Và đó chính là nội dung của bản báo cáo mà tôi, trong cương vị Báo cáo viên Đặc biệt về Quyền tự do bày tỏ quan điểm và tự do biểu đạt, đã gửi đến Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 10/2016 vừa qua.
5 hình thức giới hạn quyền tự do ngôn luận tôi muốn đặc biệt nhắc đến trong bài viết này, vì chúng có ảnh hưởng trực tiếp đến các phóng viên, ký giả, và nền báo chí nói chung.
1. Kiểm duyệt theo kiểu truyền thống
Những phương pháp kiểm duyệt truyền thống vẫn được các chính phủ sử dụng thường xuyên. Ở một số nơi, nhà nước tập trung đẩy mạnh việc giáo dục các chủ thuyết mà họ dùng để lý giải vì sao người dân không thể tiếp cận thông tin. Thông thường, họ sẽ sử dụng các lý do như đảm bảo chuẩn mực đạo đức hoặc ổn định trật tự xã hội.
Một trong những phương pháp đó chính là bức tường lửa vĩ đại (Great Fire Wall of China) do chính phủ Trung Quốc thiết lập để giới hạn cả số lượng lẫn chất lượng thông tin mà người dân có thể tiếp cận.
Các chính phủ khác thì tìm cách cản trở đường truyền Internet và các dịch vụ viễn thông, và họ làm điều này mà chẳng bao giờ giải thích gì với người dân cả. Hơn nữa, họ thường xuyên sử dụng phương pháp này vào những thời điểm có biểu tình, hay trong những ngày bầu cử.
Có khi, họ sẽ cắt mạng Internet toàn quốc, chặn mạng, hay làm chậm tốc độ tải một số các trang mạng và các mạng xã hội. Có khi, họ sẽ tìm cách phá sóng các dịch vụ viễn thông hay điện thoại di động của người dân. Tổ chức Access Now đã thống kê có 56 vụ việc cắt mạng Internet (shutdown) đã bị các chính phủ của 18 nước (ND: trong đó có Việt Nam) tiến hành trong năm 2016.
Trong các cuộc biểu tình đòi minh bạch vấn đề thảm họa môi trường biển miền Trung tại VN, đã có báo cáo về việc mạng xã hội bị chặn. Sài Gòn tháng 5/2016 (Ảnh: fvpoc.org)
Ngoài việc kiểm duyệt Internet, chính phủ các nước vẫn tiếp tục phương pháp giáo dục và tuyên truyền người dân, để họ cho rằng những thông tin mà các cơ quan truyền thông độc lập đưa ra là việc làm trái pháp luật.
Việc chính phủ Hoa Kỳ dùng từ “tin giả” (fake news) để tấn công các cơ quan truyền thông và báo chí được nhiều người cho rằng, nó không khác gì hình thức tuyên truyền mà các chính phủ độc tài vẫn sử dụng từ trước đến giờ.
2. Cuộc chiến chống khủng bố
Không ai có thể phủ nhận việc thế giới đang đối đầu với cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Chính phủ các nước có nghĩa vụ phải bảo vệ sự an toàn cho người dân của mình, và đó là điều hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, cũng có không ít các nước đã dùng việc chống khủng bố để tiện thể giới hạn quyền tự do ngôn luận và quyền được tiếp nhận thông tin của người dân.
Từ Trung Á, đến Châu Âu và lan sang Bắc Phi, chính phủ nhiều nước đã cho ra đời những điều luật chống khủng bố, nhưng đồng thời lại giới hạn quyền con người của người dân. Một nhóm gồm nhiều chuyên gia về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một tuyên bố chung, cảnh báo về hành vi vi phạm quyền con người này của các chính phủ vào năm 2016.
3. Rào cản pháp lý
Có rất nhiều quốc gia đã ban hành những đạo luật nhằm chấm dứt tất cả chỉ trích đối với chính phủ.
Những điều luật “tuyên truyền chống nhà nước” hay “bôi nhọ lãnh đạo” là một số ví dụ cho việc vi phạm quyền tự do ngôn luận bằng việc ban hành luật pháp một cách mơ hồ để kiểm soát.
Blogger Nguyễn Hữu Vinh – Ba Sàm – đã bị bắt và kết án vì Điều 258, một điều luật của Việt Nam liên tục bị quốc tế cho là vi phạm quyền tự do biểu đạt.
Một số chính phủ thì có những điều luật về tội “phỉ báng tôn giáo” và “xúc phạm hoàng gia”, hay những điều luật hết sức hà khắc cho tội mạ lỵ cũng như hình sự hóa hành vi này.
Chính phủ các nước cũng ngày càng gia tăng việc yêu cầu các nhà cung cấp mạng xã hội như Twitter, Facebook hoặc các công ty cung cấp dịch vụ như Google và YouTube, gỡ bỏ những nội dung mà chính quyền cảm thấy không hài lòng.
4. Theo dõi trên mạng
Người dân ngày càng bị mất đi quyền tự do riêng tư trên mạng. Chính phủ các nước đồng loạt gia tăng việc theo dõi và giám sát các hoạt động trên mạng của họ, cho dù không có bất kỳ nghi ngờ nào về hành vi phạm pháp.
Nó khiến người ta liên tưởng đến viễn cảnh của một thế giới như tiểu thuyết Zamyatin miêu tả. Nơi mà người dân sống trong những căn hộ bằng kính trong suốt và chính quyền có thể theo dõi hành vi của họ mọi nơi mọi lúc, trừ 1 tiếng đồng hồ mỗi ngày được phép kéo màn che lại cho không gian riêng tư.
Không chỉ theo dõi, chính quyền còn có thể tìm cách tấn công vào tài khoản cá nhân của người dân và tìm cách phá vỡ hoặc nghiêm cấm việc sử dụng mã hóa để bảo mật.
5. Sự biến dạng của không gian kỹ thuật số
Ngày nay, các công ty cung cấp mạng xã hội đã kiến tạo nên những không gian mới với hàng triệu, thậm chí là hàng tỷ người tham gia. Chúng ta sống, chia sẻ và chấp nhận những điều khoản, luật lệ mà các công ty cung cấp đề ra. Thậm chí, những thông tin mà chúng ta nhận được trong những không gian đó cũng được người khác tính toán và đưa cho chúng ta, trong khi chính bản thân thì không có quyền kiểm soát.
Có lẽ, lúc này đa số chúng ta vẫn cảm thấy điều này cũng ổn thôi. Tuy nhiên, chúng ta đang tham gia vào những không gian được kiểm soát bởi người khác đối với những việc mà đúng ra, thuộc về quyền cá nhân của mình. Vậy thì việc các công ty cung cấp dịch vụ này không cần phải tuân theo bất kỳ chuẩn mực nào về nhân quyền có vẻ không được ổn cho lắm.
***
Tôi muốn nhấn mạnh, những gì thế giới trải qua trong năm 2016 đã cho chúng ta một cơ hội thức tỉnh kịp thời, để tự nhắc nhở rằng, chúng ta không hẳn là châu chấu đá xe. Trái lại, chúng ta có đầy đủ công cụ để phản kháng lại sự kiểm soát của chính quyền.
Hơn bao giờ hết, đây là thời điểm chúng ta phải bảo vệ và cải tạo những thiết chế luật pháp mà chúng ta đang có, để chúng có thể thực sự giúp bảo vệ nhân quyền.
Làm được như vậy là chúng ta sẽ cùng tiến về một tương lai, nơi mà chúng ta có quyền tung hô hay phê bình thế giới xung quanh theo ý mình, chứ không phải là theo ý chính phủ hay lãnh đạo nhà nước.
Và đó chính là lý do mà một nền báo chí tồn tại.
Giáo sư David Kaye. Ảnh: United Nations
Tác giả, giáo sư David Kaye là giáo sư Luật Quốc tế tại trường Đại học California, Irvine. Vào năm 2015, ông được Liên Hiệp Quốc bổ nhiệm vào chức vụ Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt (Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression).
Báo cáo viên đặc biệt là một chức vụ danh dự do Hội đồng Nhân quyền LHQ bổ nhiệm  cho một chuyên gia độc lập với mục đích tìm hiểu, thăm viếng và báo cáo về tình trạng quyền con người ở các quốc gia. Mỗi báo cáo viên sẽ có trách nhiệm chuyên trách về một vấn đề nhân quyền nhất định.
Chi tiết về thủ tục bổ nhiệm các báo cáo viên đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền có thể đọc tại đây.
Tài liệu tham khảo:

Bình luận

Luật Khoa tạp chí là một ấn phẩm về pháp luật, ra đời ngày 05/11/2014, có mục đích cung cấp thông tin và kiến thức pháp lý cho cộng đồng, thảo luận về các vấn đề pháp lý cũng như các sinh hoạt chuyên môn của giới hành nghề luật và sinh viên luật, thúc đẩy việc học tập và nghiên cứu pháp luật ở Việt Nam.

Tổng biên tập: Trịnh Hữu Long
Gửi bài - Bản quyền: Bạn có thể gửi bài cho Luật Khoa qua địa chỉ email: editor@luatkhoa.org. Chúng tôi thanh toán nhuận bút trong vòng 15 ngày kể từ khi bài được đăng.
Tất cả các bài viết trên Luật Khoa đều là bài gốc. Bạn đọc có thể tự do sao chép, trích dẫn bài viết mà không cần hỏi ý kiến Luật Khoa, chỉ cần ghi rõ nguồn.
Copyright © 2017 - Luật Khoa tạp chí.
Nguồn: http://www.luatkhoa.org/2017/04/1954-1975-quoc-te-da-cong-nhan-hai-nuoc-viet-nam-nhu-the-nao/

Tiếp tục đi tìm sự thật…..( Việt Nam Cộng Hòa được Liên Hiệp Quốc công nhận là một quốc gia có chủ quyền )?

Các bạn thân mến….đây là 1 vấn đề rất thú vị…tuy đất nước VNCH tạm thời bị xâm lược nhưng những con người VNCH và sự thật vẫn luôn còn mãi….

Vấn đề này cũng không phải là vấn đề trọng tâm nhưng lại thể hiện được tính chính nghĩa của đất nước VNCH nên muốn nói đôi lời để mọi người tham khảo

Các bạn cùng xem tiếp bài viết này ở phần trả lời ở dưới nhé…phần này không đủ để viết…

Bài viết này còn rất sơ khai nên sẽ được chỉnh sửa liên tục…mong Các bạn hãy cùng đóng góp ý kiến

.
11 câu trả lời

Câu trả lời

Xếp hạng
Câu trả lời hay nhất:  .

Tiếp cho phần trên

Như chúng ta đã biết đát nước VNCH từ khi khai sinh cho đến năm 75 vẫn chưa phải là thành viên chính thức của Liên hiệp quốc….nhưng vấn đề là liên hiệp quốc có coi VNCH là 1 quốc gia hay chỉ là 1 thực thể tồn tại độc lập

______________

1) Thứ nhất : VNCH là 1 đất nước được quốc tế công nhận là 1 quốc gia có chủ quyền

Các bạn hãy cùng xem http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#Ngo.E1.BA.A1i_giao

Trích : Tính đến năm 1975 thì Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập ngoại giao với 87[22] quốc gia trên thế giới và 6 quốc gia ở cấp bán chính thức. Lập trường ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa là không chấp nhận bang giao với chính phủ nào muốn công nhận chính phủ của Mặt trận Giải phóng miền Nam

trích : Việt Nam Cộng hòa là thành viên trong một số tổ chức quốc tế như Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA (1957); Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF (1956); Tổ chức Y tế Quốc tế WHO (1950); Tổ chức Khí tượng Thế giới WMO (1955),[30] Ngân hàng Thế giới (1956),[31] và Ngân hàng Phát triển châu Á (1966).

>>>qua đây có thể thấy được tính đến năm 1975 VNCH đã thiết lập ngoại giao được với 93 quốc gia độc lập….bao gồm mỹ,các nước phương tây….và rất nhiều nước à thành viên của liên hiệp quốc cũng có quan hệ ngoại giao vói VNCH

>>>thêm vào đó VNCH tham gia rất tích cực vào các tố chức mang tính quốc tế của thế giới đã có bằng chứng cụ thể ở trên….Và tất cả những thành tích này hơn hẳn việt nam cộng sản

>>>từ đó suy ra VNCH được sự công nhận của quốc tế là 1 điều hét sức rõ ràng không cần bàn cãi

2) thứ hai : trong 1 bài viết của nhà báo đặng chí hùng cũng có nói cũng có nói tất cả về việc VNCH được LHQ và quốc tế công nhận đầy đủ http://danlambaovn.blogspot.com/2012/11/nhung-su-that-can-phai-biet-noi-day-hay.html

Trích : Những tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của cả thế giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng kể: Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài Gòn được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.” - (Tuyên Bố Của VNCH Về V/Đ Thống Nhất Đất Nước, Nguyễn Hội)

Trich “trong tài liệu của Liên Hiệp Quốc lưu chiểu tháng 2/1998 có ghi tại danh sách thành viên mục 3 trang 236 về Việt Nam cộng hòa có đoạn: “84 quốc gia trên thế giới đã từng đặt nền tảng bang giao với Nước Việt Nam Cộng Hòa từ 1954 – 1975.”

Trích : “trong cuốn sách “Chỉ dẫn lịch sử” của nhà xuất bản quốc gia Liên Xô do nhóm tác giả tại viện nghiên cứu lịch sư Liên Bang Xô Viết tại trang 42 có viết “Việt Nam Cộng Hòa là một Quốc Gia Hợp Pháp được công nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới qua Hiệp Định Genève 1954, đã từng có quy chế là một quốc gia quan sát viên của Liên Hiệp Quốc. Từ năm 1954 cho đến năm 1975.”

>>>hóa ra VNCH không chỉ được quốc tế công nhận mà còn là 1 quan sát viên thường trực của LHQ

3) thứ ba: VNCH tuy chưa phải là thành viên của LHQ nhưng lại là 1 quan sát viên của liên hiệp quốc ….điều đó đã nói hết trong bài viết của nhà báo đặng chí hùng ở trên

Đây là bằng chứng rõ nết nhất về điều đó khi VNCH có cả văn phòng trụ sở quan sát viên thường trực tại liên hiệp quốc http://www.svqy.org/8-2011/congvancuoicung.html

Thêm 1 bằng chứng nữa cho thấy VNCH là 1 quan sát viên của LHQ : http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/vi-sao-trung-quoc-danh-chiem-hoang-sa-2940443.html

Trích : Cũng thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa mới chỉ là quan sát viên mà chưa phải thành viên của Liên Hợp Quốc trong khi Trung Quốc là một trong 5 nước ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an

>>>thì ra báo đảng cũng đã công nhận VNCh là quan sát viên của LHQ…vậy thiof việt cộng chối sao đây

4) Thứ tư: các bạn hãy xem http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#Ngo.E1.BA.A1i_giao

Trích : Năm 1957, Việt Nam Cộng hòa đứng đơn gia nhập Liên hiệp quốc do Hoa Kỳ đề cử. Đại Hội đồng (General Assembly) bỏ phiếu 40 thuận, 8 chống. Việc này chuyển lên Hội đồng Bảo an chung quyết. Liên Xô muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (CS Bắc Việt) cùng gia nhập nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ việc này nên cuối cùng Liên Xô phủ quyết đơn của Việt Nam Cộng hòa.

>>>vậy là VNCH đã vinh dự được LHQ xét duyệt để làm thành viên

________________


vấn đề cần nói đến ở đây là : Sau tất cả các dẫn chứng trên có thể thấy được điều gì: ….VNCH đã được quốc tế công nhận chủ quyền…VNCH lại là quan sát viên của LHQ….câu hỏi đạt ra là vậy LHQ có coi VNCh là 1 quốc gia hay không????

>>>Chắc chắn là có bởi vì nếu như LHQ chỉ coi VNCH là 1 thực thể tồn tại thì VNCH sẽ không có vinh dự khi được LHQ bỏ phiếu xét duyệt về vấn đề cho gia nhập thành viên,,,mặc dù không phải là thành viên của LHQ…tuy nhiên nếu họ chỉ coi VNCH là 1 thực thể tồn tại thì họ sẽ không mất công đề xuất xét duyệt bỏ phiếu như vậy

thêm 1 ván đề nữa nảy sinh đó là : VNCH được làm quan sát viên của LHQ …nhưng với tư cách là thực thể quan sát viên hay là 1 quốc gia quan sát viên….

>>> Khi đã có vị trí quan sát viên trong liên hiệp quốc ..khi được đại hội đồng Liên hiệp quốc trân trọng và xét duyệt cho làm thành viên (tuy chưa được)…lại được quốc tế công nhận ủng hộ là 1 quốc gia 1 cách rõ ràng…vậy thì không có lý do gì LHQ lại chỉ coi VNCH là 1 thực thể

>>>>qua đó cho thấy VNCH tuy chưa phải là thành viên nhưng lại là 1 quốc gia quan sát viên phi thành viên của LHQ và có trụ sở đạt tại LHQ như đã dẫn chứng ở trên

>>>>liên hiệp quốc coi VNCh là 1 quốc gia quan sát viên thường trực phi thành viên….thì cũng có nghĩa là họ đã công nhận VNCH là 1 quốc gia độc lập chủ quyền

Đây là những sự thật của lịch sử cần được biết đến để thấy rõ tính chính nghĩa của đất nước VNCH

.
linh linh linh · 3 năm trước
5
6
2 bình luận
Xếp hạng của người hỏi 5 trên 5
  • Lần này chưa thấy @Hoài Thu vào quậy phá câu trả lời của bác @VCGĐ làm tôi thấy lạ! Hay chính @HT cũng đang đồng cảm là cái đảng csVN mắc dịch đã phá hoại đất nước suốt 40 năm sau chiến tranh?

    Ngoài ra cũng chưa thấy @Hoài Thu có phản ứng gì khi chính người trẻ @LLL cũng xuất thân từ xã hội của cs ra.

    Đáng khen thay!
    Honey · 3 năm trước
    3
    1
    Bình luận
  • -Không cần nói đến những chuyện quốc gia đại sự, chỉ nhìn vào những sự việc lẻ tẻ sau đây cũng đủ để thấy sự hiện hữu của Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia độc lập có chủ quyền, được cả Thế Giới Tự Do công nhận: Những chuyện nhỏ như chuyện con dân của quốc gia VNCH đã đoạt giải vô địch bóng tròn Đông Nam Á năm xưa; bóng bàn VNCH thì ở tầm cỡ thế giới, vô địch Á Châu; lực sĩ thể hình của VNCH cũng từng chiếm ngôi Lực Sĩ Đẹp Nhất Thế Giới (lực sĩ Nguyễn Công Án)… Ngay cả những lãnh vực khác như khoa học kỹ thuật, ví dụ như ngành Kiến Trúc thì VNCH cũng chiếm giải Khôi Nguyên Kiến Trúc của Thế Giới (kiến trúc sư Ngô Viết Thụ)…
    Trong khi đó thì cái Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Bắc Việt) chẳng có ai biết đến cả, người ta chỉ biết đến họ như một tổ chức khủng bố, cái Mũi Xung Kích của Nga Tầu!

    - Cũng không cần phải dẫn chứng xa xôi, chỉ cần đọc lại lời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “…Năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của Chính quyền Sài Gòn (tức Chính quyền Việt Nam Cộng hòa). Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên hiệp quốc can thiệp. Chính phủ Cách mạng lâm thời miền nam Việt Nam lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này…”

    Lời tuyên bố đó đã cho thấy 2 sự thật:
    1) Nay thì họ buộc lòng phải công nhận VNCH đã là một quốc gia có chủ quyền (Chứ nếu không có chủ quyền thì ông Dũng phải nói quần đảo Hoàng Sa trước đó thuộc quyền quản lý của Mỹ chứ không phải của VNCH!)
    2) Chỉ có VNCH chiến đấu bảo vệ hải đảo, chống trả hành vi xâm lược của Tàu; và sau đó Mật Trận GPMN ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng của Trung Cộng.
    Còn cộng sản Bắc Việt lúc đó chẳng những nín thinh để nhìn đất nước mình bị đồng chí Tàu xâm chiếm, mà họ còn ra sức đánh phá khắp nơi, buộc quân lực VNCH phải trải quân ra đối phó với chúng trên đất liền, góp phần cho Tàu chiếm Hoàng sa dễ dàng hơn, đến nỗi những đơn vị trừ bị của VNCH như Không quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Hải đã được lệnh ứng chiến chờ được đưa ra tiếp viện Hoàng Sa, nhưng lệnh đó phải bị hủy bỏ vì VNCH phải ưu tiên cho việc đối phó với quân Bắc Việt trên đất liền!
    SỰ THẬT LỊCH SỬ đang được phơi bày! Bộ mặt thật của quân gian trá bán nước buôn dân đang hiện nguyên hình.
    Vui Chơi Giữa Đời · 3 năm trước
    5
    3
    1 bình luận
  • Câu trả lời được Y! đánh giá uy tín: http://vnsat.org/tintuc/danhsachtin.html
    Nguồn: Câu trả lời được Y! đánh giá uy tín: http://vnsat.org/tintuc/danhsachtin.html
    ? · 3 năm trước
    1
    0
    Bình luận
  • Hiệp định Giơ Ne Vơ 1954 được thực hiện thì chia đôi Việt Nam và có 2 chính quyền ở 2 nửa đất nước. Bên nào thắng thì bên ấy được tiếp tục xây dựng và tiến lên.
    Thủ tướng vẫn phải kế thừa và tiếp tục gánh trọng trách mà chính quyền cũ để lại là do luật pháp quốc tế quy định như vậy.
    Sơn1955 · 3 năm trước
    1
    0
    Bình luận
  • Lại một kì tuyển sinh Đại Học, Cao ,Đẳng nữa lại qua và như mọi năm thông tin tuyển sinh của những ngành hot vẫn chuyếm được đông đảo lượng thí sinh đăng kí. Có thể kể đến một số ngành như Kinh Tế, Công nghệ thông tin, kỹ sư, vv. Bên cạnh đó có những ngành tuy đã có nhiều sự hỗ trợ nhưng số lượng học viên đăng kí theo học vẫn ở mức thấp. Tiêu biểu như ngành sư phạm mầm non.http://congthuonghn.edu.vn/nganh-giao-vien-su-pham-mam-non-khat-nhan-luc/
    huy · 3 năm trước
    0
    0
    Bình luận
  • đây là một âm mưu biến VN thành Triều Tiên và Hàn Quốc- Có điều thằng Tàu nó chọc gậy bánh xe. nó bắt tay với Mỹ để chiếm Hoàng Sa năm 1974.
    Trở lại câu hỏi của bạn: VNCH hay VNDCCH thực chất cũng là người VN thội.
    DẾ BẠC ĐẦU · 3 năm trước
    0
    0
    Bình luận
  • Sinh Viên Thủ Đô thì vô Văn Miếu vượt hàng rào an ninh để sờ đầu Cụ Rùa lấy may. Giáo Sư Hà Đình Đức thì bơi ra Hồ Gươm để Sờ Đuôi của Cụ Rùa để nghịch...
    Cho Hỏi ai ai cũng như đám vô văn hóa, mất dạy này thì các di tích của VN có còn tồn tại được nữa hay không?
    Tại sao VN không (Phê bình nghiêm khắc họ) nhất là nhà (Dùa học) Hà Đình Đức ạ.
    https://s.yimg.com/tr/i/eabb8046c74042e58813841520d10898_A.jpeg
    Ẩn danh · 3 năm trước
    1
    1
    Bình luận
  • Bài ngiên cứu của bạn LLL thật đáng khen, chứng tỏ v+ không thể nhồi sọ người VN, vẫn có những con người khao khát sự thật !!! Tuy nhiên, tôi cũng xin tặng thêm vào bài ngiên cứu của bạn LLL một sự thật hiển nhiên là mã số vùng điện thoại của VN "84" chính là mã số vùng của Saigon ngày xưa trước năm 1975, Bắc Việt KHÔNG CÓ mã số vùng !!! Đó là chứng cớ cho thấy Bắc Việt không liên lạc với thế giới. Cho đến khi cướp được Miền Nam chúng xin số vùng thì cơ quan truyền thông quốc tế chỉ có thể cấp số đã có sẵn, không thể thay đổi, đó là số của Saigon !!! Cũng vậy, mã số phi cảng chúng cũng không thể xin thay đổi, vì thế cho nên dù ép buộc dân VN phải viết tên Saigon bằng TPhcm, chúng vẫn không thể xin thay đổi mã số phi cảng TSN là SGN !!! Cũng nói luôn là mã số phi cảng của Hà nội cũng chỉ mới được cấp phát !!!
    Vô Vi · 3 năm trước
    4
    4
    Bình luận
  • đó là lý do tại sao tụi cs Bắc Việt dựng lên cái nhóm Mặt trận phỏng giái miền Nam VN để tiến hành cuộc chiến tranh cướp nước và treo cờ phỏng giái xanh đỏ khi tiến chiếm miền Nam...để che mắt quốc tế
    Tu · 3 năm trước
    Trich nguồn: https://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20150126035131AAVEC0w