Thứ Bảy, 10 tháng 2, 2018

Bản lên tiếng về quyền được nói và nghe sự thật

Bản lên tiếng về quyền được nói và nghe sự thật

RFA
2018-02-09
Hình minh họa. Một người phụ nữ khóc than trên xác người chồng được tìm thấy cùng với xác của 47 người khác trong một mộ tập thể ở gần Huế hôm 11/4/1969.
Hình minh họa. Một người phụ nữ khóc than trên xác người chồng được tìm thấy cùng với xác của 47 người khác trong một mộ tập thể ở gần Huế hôm 11/4/1969.
AP
Một văn bản có tên Bản Lên Tiếng Về Quyền Được Nói và Nghe Sự Thật được công khai trên mạng Internet vào ngày 9 tháng 2 kêu gọi các tổ chức cùng cá nhân trong và ngoài nước ký tên.
Văn bản này đưa nhận định về hàng loạt những diễn biến gần đây liên quan đến các bản án xét xử người bất đồng chính kiến tại Việt Nam.
Cụ thể đề cập đến các phiên toà xử các nhà hoạt động là blogger bác sĩ Hồ Văn Hải, Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc, Hoàng Đức Bình và Nguyễn Nam Phong. 6 nhà hoạt động này lần lượt bị truy tố theo Điều 88 và 257, 258 Bộ luật hình sự Việt Nam.
Bản Lên Tiếng phản đối 3 phiên toà của 6 bị cáo trên đã diễn ra không công bằng, có ý đồ lấp liếm sự thật khi ngăn cản không cho luật sư biện hộ thực hiện công tác bào chữa.
Bản Lên Tiếng cũng chỉ trích hoạt động ăn mừng cuộc tấn công miền Nam và thảm sát đồng bào năm Mậu Thân 1968.
Ngoài việc đưa ra nhận định, Bản Lên Tiếng tuyên bố đòi hỏi nhà cầm quyền phải tôn trọng quyền được nói và được nghe sự thật của nhân dân; yêu cầu huỷ bỏ Điều 79, 88 và 258 của BLHS Việt Nam, trả tự do cho những tù nhân lương tâm đã bị kết án; kêu gọi trả lại toàn bộ sự thật liên quan đến cuộc chiến Mậu Thân 1968.
Nhóm ký tên đầu tiên gồm 30 tổ chức độc lập trong và ngoài nước cùng hơn một chục nhân sĩ, trí thức tham gia.
Nguồn: https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/statement-about-the-rights-to-speak-and-listen-to-the-truth-02092018083012.html

Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ





(Được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Có hiệu lực ngày 23/3/1976, căn cứ theo điều 49)
LỜI NÓI ĐẦU
Các quốc gia thành viên Công ước này,
Xét rằng, theo những nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, việc công nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng và bất di dịch của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hoà bình trên thế giới;
Thừa nhận rằng, những quyền này bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người;
Thừa nhận rằng, theo Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người thì chỉ có thể đạt được lý tưởng về con người tự do không phải chịu sợ hãi và thiếu thốn, nếu tạo được những điều kiện để mỗi người có thể hưởng các quyền dân sự và chính trị cũng như các quyền kinh tế, xã hội văn hoá của mình;
Xét rằng, theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do của con người;
Nhận thấy rằng, mỗi cá nhân, trong khi có nghĩa vụ đối với người khác và đối với cộng đồng của mình, phải có trách nhiệm phấn đấu cho việc thúc đẩy và tôn trọng các quyền đã được thừa nhận trong Công ước này;
Đã nhất trí những điều khoản sau đây:
2. Vì lợi ích của mình, mọi dân tộc đều có thể tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình, miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dân tộc.
3. Các quốc gia thành viên Công ước này, kể cả các quốc gia có trách nhiệm quản lý các Lãnh thổ uỷ trị và các Lãnh thổ Quản thác, phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết dân tộc và phải tôn trọng quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
2. Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiện bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này.
3. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết:
a) Bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước này đều nhận được các biện pháp khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành vi của những người thừa hành công vụ gây ra;
b) Bảo đảm rằng bất kỳ người nào có yêu cầu về các biện pháp khắc phục sẽ được các cơ quan tư pháp, hành pháp hoặc lập pháp có thẩm quyền hoặc bất kỳ cơ quan nào khác có thẩm quyền do hệ thống pháp luật của quốc gia quy định, xác định quyền lợi cho họ và sẽ mở rộng khả năng áp dụng các biện pháp khắc phục mang tính tư pháp;
c) Đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền sẽ thi hành các biện pháp khắc phục đã được đề ra.
2. Điều này không được áp dụng để hạn chế các quyền quy định trong điều 6, 7, 8 (các khoản 1 và 2), 11, 15, 16 và 18.
3. Bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước này khi sử dụng quyền được hạn chế nêu trong điều này đều phải thông báo ngay cho các quốc gia thành viên khác, thông qua trung gian là Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, về những quy định mà quốc gia đó đã hạn chế áp dụng và lý do của việc đó. Việc thông báo tiếp theo sẽ được thực hiện, cũng thông qua trung gian trên, vào thời điểm quốc gia chấm dứt việc áp dụng sự hạn chế đó.
2. Không được hạn chế hoặc huỷ bỏ bất kỳ quyền cơ bản nào của con người mà đã được công nhận hoặc hiện đang tồn tại ở bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước này trên cơ sở luật, điều ước, các quy định pháp luật hoặc tập quán, với lý do là Công ước này không công nhận những quyền ấy hoặc công nhận ở một mức độ thấp hơn.
2. Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xoá bỏ thì chỉ được phép áp dụng án tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện và không được trái với những quy định của Công ước này và của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng. Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật, do một toà án có thẩm quyền phán quyết.
3. Khi việc tước mạng sống của con người cấu thành tội diệt chủng, cần hiểu rằng không một quy định nào của điều này cho phép bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước này, bằng bất kỳ cách nào, được giảm nhẹ bất kỳ nghĩa vụ nào mà họ phải thực hiện theo quy định của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng.
4. Bất kỳ người nào bị kết án tử hình đều có quyền xin ân giảm hoặc xin thay đổi mức hình phạt. Việc ân xá, ân giảm hoặc chuyển đổi hình phạt tử hình có thể được áp dụng đối với mọi trường hợp.
5. Không được phép tuyên án tử hình với người phạm tội dưới 18 tuổi và không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai.
6. Không một quy định nào trong điều này có thể được viện dẫn để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xoá bỏ hình phạt tử hình tại bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước.
2. Không ai bị bắt làm nô dịch.
3.a) Không ai bị yêu cầu phải lao động bắt buộc hoặc cưỡng bức;
b) Mục a, khoản 3 điều này không cản trở việc thực hiện lao động cưỡng bức theo bản án của một tòa án có thẩm quyền ở những nước còn áp dụng hình phạt tù kèm lao động cưỡng bức như một hình phạt đối với tội phạm.
c) Theo nghĩa của khoản này, thuật ngữ "lao động bắt buộc hoặc cưỡng bức" không bao gồm:
i) Bất kỳ công việc hoặc sự phục vụ nào không được nói tại điểm b, mà thông thường đòi hỏi một người đang bị giam giữ theo quyết định hợp pháp của toà án hoặc một người khi được trả tự do có điều kiện phải làm;
ii) Bất kỳ sự phục vụ nào mang tính chất quân sự và bất kỳ sự phục vụ quốc gia nào do luật pháp của một nước quy định đối với những người từ chối làm nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm, trong trường hợp quốc gia đó cho phép từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm;
iii) Bất kỳ sự phục vụ nào được yêu cầu trong trường hợp khẩn cấp hoặc thiên tai đe doạ đến tính mạng hoặc đời sống của cả cộng đồng;
iv) Bất kỳ công việc hoặc sự phục vụ nào là một phần của các nghĩa vụ dân sự thông thường.
2. Bất cứ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo vào lúc bị bắt về những lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ.
3. Bất cứ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra toà án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do. Việc tạm giam một người trong thời gian chờ xét xử không được đưa thành nguyên tắc chung, nhưng việc trả tự do cho họ có thể kèm theo những điều kiện để bảo đảm họ sẽ có mặt tại toà án để xét xử vào bất cứ khi nào và để thi hành án nếu bị kết tội.
4. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước toà án, nhằm mục đích để toà án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp.
5. Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi thường.
2.a) Trừ những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt với những người đã bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với quy chế dành cho những người bị tạm giam;
b) Những bị can chưa thành niên phải được giam giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng sớm càng tốt.
3. Việc đối xử với tù nhân trong hệ thống trại giam nhằm mục đích chính yếu là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội. Những phạm nhân vị thành niên phải được tách riêng khỏi người lớn và phải được đối xử phù hợp với lứa tuổi và tư cách pháp lý của họ.
2. Mọi người đều có quyền tự do rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình .
3.Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận.
4. Không ai bị tước đoạt một cách tuỳ tiện quyền được trở về nước mình
1. Mọi người đều bình đẳng trước các toà án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự. Báo chí và công chúng có thể không được phép tham dự toàn bộ hoặc một phần của phiên toà vì lý do đạo đức, trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hoặc vì lợi ích cuộc sống riêng tư của các bên tham gia tố tụng, hoặc trong chừng mực cần thiết, theo ý kiến của toà án, trong những hoàn cảnh đặc biệt mà việc xét xử công khai có thể làm phương hại đến lợi ích của công lý. Tuy nhiên mọi phán quyết trong vụ án hình sự hoặc vụ kiện dân sự phải được tuyên công khai, trừ trường hợp vì lợi ích của người chưa thành niên hay vụ việc liên quan đến những tranh chấp hôn nhân hoặc quyền giám hộ trẻ em.
2. Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật.
3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau đây:
a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;
b) Có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn;
c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý;
d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả;
e) Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình, và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên toà và thẩm vấn họ tại toà với những điều kiện tương tự như đối với những người làm chứng buộc tội mình;
f) Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà;
g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội.
4. Tố tụng áp dụng đối với những người chưa thành niên phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của họ.
5. Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật.
6. Khi một người bị kết án về một tội hình sự bởi một quyết định chung thẩm và sau đó bản án bị huỷ bỏ, hoặc người đó được tha trên cơ sở tình tiết mới hoặc phát hiện mới cho thấy rõ ràng có sự xét xử oan, thì người đã phải chịu hình phạt theo bản án trên, theo luật, có quyền yêu cầu được bồi thường, trừ trường hợp cơ quan tố tụng chứng minh rằng việc sự thật không được làm sáng tỏ tại thời điểm đó hoàn toàn hoặc một phần là do lỗi của người bị kết án gây ra.
7. Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước.
2. Không một quy định nào trong điều này cản trở việc xét xử hoặc trừng phạt bất kỳ người nào vì bất kỳ hành động hoặc không hành động nào của họ mà tại thời điểm thực hiện được coi là tội phạm theo những nguyên tắc pháp luật chung đã được cộng đồng các quốc gia công nhận.
2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.
2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ.
3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
4. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ, và của những người giám hộ hợp pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ.
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:
a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.
2. Mọi chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực đều phải bị pháp luật nghiêm cấm.
2. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác. Điều này không ngăn cản việc đặt ra những hạn chế hợp pháp trong việc thực hiện quyền này đối với những người làm việc trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát.
3. Không một quy định nào của điều này cho phép các quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về tự do lập hội và bảo vệ quyền lập hội năm 1948 của Tổ chức Lao động quốc tế được tiến hành những biện pháp lập pháp hoặc hành pháp làm phương hại đến những bảo đảm nêu trong Công ước đó.
2. Quyền kết hôn và lập gia đình của nam và nữ đến tuổi kết hôn phải được thừa nhận.
3. Không được tổ chức việc kết hôn nếu không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai.
4. Các quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm của vợ và chồng trong suốt thời gian chung sống và khi ly hôn. Trong trường hợp ly hôn, phải có quy định bảo đảm sự bảo hộ cần thiết với con cái.
2. Mọi trẻ em đều phải được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời và phải có tên gọi.
3. Mọi trẻ em đều có quyền có quốc tịch.
a) Tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn;
b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm đảm bảo cho cử tri được tự do bày tỏ ý nguyện của mình;
c) Được tiếp cận với các dịch vụ công cộng ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng.
2. Thành viên Uỷ ban là công dân của các quốc gia thành viên Công ước này và phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, được thừa nhận là có năng lực trong lĩnh vực về quyền con người, có xem xét tới lợi ích từ việc tham gia của những người có kinh nghiệm pháp lý.
3. Các thành viên của Uỷ ban sẽ được bầu ra để làm việc với tư cách cá nhân.
1. Mỗi quốc gia thành viên Công ước có thể đề cử không quá hai người. Những người này phải là công dân của quốc gia đề cử.
2. Một người đã được đề cử vẫn có thể được tái đề cử.
2. Ít nhất bốn tháng trước ngày tiến hành mỗi cuộc bầu cử vào Uỷ ban, ngoại trừ cuộc bầu cử nhằm bổ sung ghế trống quy định ở điều 34, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi thư tới các quốc gia thành viên Công ước để mời đề cử người vào Uỷ ban trong khoảng thời hạn ba tháng.
3. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ lập danh sách theo thứ tự bảng chữ cái La-tinh tên những người đã được đề cử, kèm theo tên các quốc gia thành viên đã đề cử những người đó, và thông báo danh sách này cho các quốc gia thành viên Công ước chậm nhất một tháng trước thời hạn mỗi cuộc bầu cử.
4. Việc bầu cử các thành viên của Uỷ ban được thực hiện trong một phiên họp gồm các quốc gia thành viên Công ước này do Tổng thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập tại trụ sở Liên Hợp Quốc. Phiên họp này phải có tối thiểu 2/3 tổng số quốc gia thành viên Công ước tham dự; những người được bầu vào Uỷ ban là những ứng cử viên đạt số phiếu cao nhất và phải thu được đa số tuyệt đối trong số phiếu của đại diện các quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu.
2. Việc bầu cử các thành viên của Uỷ ban phải tính đến sự phân bố công bằng về mặt địa lý và sự đại diện của các nền văn hoá khác nhau, cũng như các hệ thống pháp lý chủ yếu.
2. Khi chấm dứt nhiệm kỳ, các cuộc bầu cử lại được tiến hành theo những quy định tại các điều khoản nêu trên của Công ước này.
2. Trong trường hợp một thành viên của Uỷ ban bị chết hoặc từ chức, Chủ tịch Uỷ ban sẽ thông báo ngay cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc biết để tuyên bố ghế của thành viên đó bị trống, kể từ ngày chết hoặc ngày việc từ chức có hiệu lực.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ lập một danh sách theo thứ tự chữ cái La-tinh tên những người được đề cử và thông báo danh sách này cho các quốc gia thành viên Công ước. Việc bầu bổ sung phải được tiến hành theo những quy định tương ứng ở phần này của Công ước.
3. Thành viên của Uỷ ban được bầu vào ghế trống theo điều 33 sẽ làm việc cho tới hết phần nhiệm kỳ còn lại của thành viên đã bỏ trống ghế phù hợp với quy định của điều đó.
2. Sau phiên họp đầu tiên, Uỷ ban sẽ họp theo lịch trình quy định trong quy tắc về thủ tục mà Uỷ ban thiết lập.
3. Thông thường, Uỷ ban sẽ họp ở trụ sở chính của Liên Hợp Quốc ở Nữu- ước, hoặc ở văn phòng của Liên Hợp Quốc tại Giơ-ne-vơ.
2. Uỷ ban sẽ đặt ra quy tắc về thủ tục của mình; những quy tắc này, không kể những nội dung khác, phải gồm những quy định sau đây,:
a) Số đại biểu cần thiết cho mỗi phiên họp là 12 thành viên;
b) Quyết định của Uỷ ban phải được thông qua với đa số phiếu của các thành viên có mặt.
a) Trong thời hạn một năm kể từ ngày Công ước này có hiệu lực đối với quốc gia thành viên liên quan;
b) Và sau đó, mỗi khi có yêu cầu của Uỷ ban.
2. Tất cả các báo cáo sẽ được đệ trình lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc để chuyển cho Ủy ban xem xét. Các báo cáo phải nêu rõ những yếu tố và khó khăn, nếu có, ảnh hưởng tới việc thực hiện Công ước này.
3. Sau khi tham khảo ý kiến của Uỷ ban, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc có thể gửi cho các tổ chức chuyên môn liên quan bản sao các phần của các báo cáo liên quan tới những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của các tổ chức đó.
4. Uỷ ban sẽ nghiên cứu những báo cáo do các quốc gia thành viên Công ước trình lên. Uỷ ban sẽ gửi cho các quốc gia thành viên báo cáo của mình và những bình luận chung nếu xét thấy thích hợp. Uỷ ban cũng có thể chuyển cho Hội đồng Kinh tế và Xã hội những bình luận này kèm theo bản sao các báo cáo mà Uỷ ban nhận được từ các quốc gia thành viên Công ước.
5. Các quốc gia thành viên Công ước có thể đệ trình lên Uỷ ban những nhận xét về bất kỳ bình luận nào được đưa ra theo khoản 4 điều này.
1. Mỗi quốc gia thành viên Công ước này đều có quyền tuyên bố theo điều này, vào bất kỳ thời điểm nào, là quốc gia đó công nhận thẩm quyền của Uỷ ban được tiếp nhận và xem xét những thông cáo theo đó một quốc gia thành viên khiếu nại rằng một quốc gia thành viên khác không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ theo Công ước. Những thông cáo theo điều này chỉ được Uỷ ban tiếp nhận và xem xét nếu đó là của quốc gia thành viên đã tuyên bố công nhận thẩm quyền của Uỷ ban về việc này. Uỷ ban không tiếp nhận thông cáo nếu nó liên quan đến một quốc gia thành viên chưa có tuyên bố như vậy. Các thông cáo được tiếp nhận theo điều này sẽ được giải quyết theo thủ tục sau đây:
a) Nếu một quốc gia thành viên Công ước cho rằng một quốc gia thành viên khác không thực hiện những quy định của Công ước, thì có thể gửi một thông cáo bằng văn bản lưu ý quốc gia thành viên ấy về vấn đề đó. Trong thời gian ba tháng, kể từ ngày nhận được thông cáo, quốc gia nhận được thông cáo phải có hồi đáp giải thích cho quốc gia gửi thông cáo, hoặc phải có những hình thức khác bằng văn bản để làm sáng tỏ vấn đề, trong đó đề cập đến, trong chừng mực có thể và thích hợp, những thủ tục trong nước cùng những biện pháp khắc phục mà quốc gia được thông cáo đã, đang hoặc sẵn sàng thực hiện để giải quyết vấn đề.
b) Nếu trong thời gian sáu tháng kể từ ngày nhận được thông cáo đầu tiên mà vấn đề không được giải quyết một cách thoả đáng đối với cả hai bên liên quan, thì một trong hai quốc gia đó có quyền đưa vấn đề ra Uỷ ban bằng cách gửi thông báo cho Uỷ ban và cho quốc gia kia.
c) Uỷ ban chỉ xem xét vấn đề sau khi đã chắc chắn rằng mọi biện pháp khắc phục sẵn có trong nước đều đã được quốc gia nhận thông cáo áp dụng triệt để, phù hợp với các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế. Quy định này không áp dụng trong trường hợp việc tiến hành những biện pháp khắc phục bị kéo dài một cách vô lý.
d) Uỷ ban sẽ họp kín khi xem xét những thông cáo theo điều này.
e) Căn cứ theo quy định tại mục (c), Uỷ ban sẽ giúp đỡ các quốc gia thành viên liên quan giải quyết vấn đề một cách thân thiện, trên cơ sở tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người như đã được Công ước này công nhận;
f) Khi xem xét các vấn đề được chuyển đến, Uỷ ban có thể yêu cầu các quốc gia liên quan nêu tại mục (b) cung cấp bất kỳ thông tin liên quan nào;
g) Các quốc gia liên quan nêu tại mục (b) có quyền có đại diện khi vấn đề được đưa ra xem xét tại Uỷ ban và có thể trình bày quan điểm bằng miệng và/hoặc bằng văn bản;
h) Trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo theo mục (b), Uỷ ban sẽ đệ trình một báo cáo:
i) Nếu đạt được một giải pháp theo quy định tại mục (e), Uỷ ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn tắt về sự việc và giải pháp đã đạt được;
ii) Nếu không đạt được một giải pháp theo quy định tại mục (e), Uỷ ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn tắt về sự việc. Các ý kiến bằng văn bản và biên bản ghi những lời phát biểu do các quốc gia thành viên liên quan đưa ra sẽ được đính kèm báo cáo.
Trong mọi trường hợp, báo cáo sẽ được gửi cho các quốc gia thành viên liên quan.
2. Quy định của điều này sẽ có hiệu lực khi mười quốc gia thành viên Công ước ra tuyên bố theo khoản 1 điều này. Những tuyên bố đó sẽ được các quốc gia thành viên nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi các bản sao cho các quốc gia thành viên khác. Tuyên bố có thể được rút lại vào bất kỳ lúc nào bằng việc thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Việc rút lại tuyên bố không cản trở việc xem xét bất kỳ vấn đề nào nêu trong thông cáo đã được chuyển cho Ủy ban theo điều này; không một thông cáo nào của bất kỳ quốc gia thành viên nào được tiếp nhận sau khi Tổng thư ký đã nhận được thông báo rút lại tuyên bố, trừ khi quốc gia thành viên liên quan đưa ra tuyên bố mới.
b) Tiểu ban này sẽ gồm năm uỷ viên được sự chấp thuận của các quốc gia thành viên liên quan. Nếu trong thời hạn ba tháng các quốc gia thành viên liên quan không đạt được thoả thuận về toàn bộ hay một phần thành viên của Tiểu ban thì số uỷ viên chưa được nhất trí sẽ được Uỷ ban bầu bằng bỏ phiếu kín với đa số 2/3 các thành viên Uỷ ban.
2. Các uỷ viên của Tiểu ban làm việc với tư cách cá nhân. Các uỷ viên không được là công dân của các quốc gia thành viên liên quan, hoặc của một quốc gia không tham gia Công ước, hoặc của một quốc gia thành viên chưa có tuyên bố nêu ở điều 41.
3. Tiểu ban bầu ra chủ tịch và thông qua quy tắc về thủ tục của mình.
4. Thông thường, Tiểu ban triệu tập các cuộc họp của mình ở trụ sở Liên Hợp Quốc ở Nữu-ước, hoặc ở Văn phòng Liên Hợp Quốc ở Giơ-ne-vơ; tuy nhiên, cũng có thể họp ở những nơi thích hợp khác do Tiểu ban quyết định sau khi tham khảo ý kiến của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và của các quốc gia thành viên liên quan.
5. Bộ phận hành chính được cung cấp theo điều 36 cũng sẽ hỗ trợ công việc cho Tiểu ban được chỉ định ở điều này.
6. Những thông tin do Uỷ ban nhận được và xem xét sẽ được chuyển cho Tiểu ban và Tiểu ban có thể yêu cầu các quốc gia thành viên liên quan cung cấp cho mình bất kỳ thông tin nào khác có liên quan.
7. Sau khi đã xem xét kỹ vấn đề nhưng không muộn hơn mười hai tháng kể từ khi vấn đề được chuyển đến Tiểu ban, Tiểu ban sẽ gửi một báo cáo cho Chủ tịch Uỷ ban để thông báo cho các quốc gia liên quan:
a) Nếu Tiểu ban không thể hoàn thành việc xem xét vấn đề trong mười hai tháng, thì Tiểu ban sẽ phải có một tuyên bố vắn tắt về hiện trạng vấn đề mà Tiểu ban đang xem xét:
b) Nếu đã đạt được một giải pháp hoà giải giữa các bên liên quan trên cơ sở tôn trọng các quyền con người được công nhận trong Công ước này thì Tiểu ban báo cáo vắn tắt về sự việc và giải pháp đã đạt được;
c) Nếu không đạt được một giải pháp theo quy định tại mục (b) thì Tiểu ban sẽ nêu trong báo cáo những ý kiến của mình về mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp của các quốc gia thành viên liên quan, cũng như nhận định của Tiểu ban về các khả năng có thể đạt được một giải pháp hoà giải cho vấn đề. Báo cáo này cũng bao gồm những ý kiến bằng văn bản và biên bản ghi những phát biểu do đại diện của các quốc gia thành viên liên quan đưa ra;
d) Nếu báo cáo của Tiểu ban được đưa ra theo mục (c), thì các quốc gia thành viên liên quan, trong thời hạn ba tháng sau khi nhận được báo cáo, phải thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban biết là họ chấp nhận hay không chấp nhận nội dung báo cáo của Tiểu ban.
8. Những quy định tại điều này sẽ không làm phương hại đến trách nhiệm của Uỷ ban nêu ở điều 41.
9. Mọi chi phí cho các uỷ viên của Tiểu ban được phân bổ đều cho các quốc gia thành viên liên quan, theo bản thống kê của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
10. Nếu cần thiết, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thanh toán chi phí cho các thành viên của Tiểu ban trước khi các quốc gia thành viên liên quan hoàn trả theo quy định ở khoản 9 điều này.
2. Công ước này đòi hỏi phải được phê chuẩn. Các văn kiện phê chuẩn sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
3. Công ước này để ngỏ cho tất cả các quốc gia nêu ở khoản 1 điều này gia nhập.
4. Việc gia nhập sẽ có hiệu lực khi văn kiện gia nhập được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc .
5. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả các quốc gia đã ký hoặc gia nhập Công ước này về việc nộp lưu chiểu của từng văn kiện phê chuẩn hay gia nhập.
2. Đối với quốc gia nào phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này sau ngày văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 35 đã được lưu chiểu, thì Công ước này sẽ có hiệu lực sau ba tháng kể từ ngày nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hoặc văn kiện gia nhập của quốc gia đó.
1. Các quốc gia thành viên Công ước có thể đề xuất sửa đổi Công ước và phải gửi đề xuất đó đến Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển mọi đề xuất sửa đổi cho các quốc gia thành viên Công ước, cùng với yêu cầu cho Tổng thư ký biết liệu họ có muốn triệu tập một hội nghị các quốc gia thành viên để xem xét và thông qua những đề xuất sửa đổi đó hay không. Nếu như có tối thiểu 1/3 số quốc gia thành viên Công ước tuyên bố tán thành triệu tập hội nghị nói trên thì Tổng thư ký sẽ triệu tập hội nghị dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Mọi sửa đổi được thông qua với đa số số phiếu của các quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu tại hội nghị sẽ được trình lên Đại hội đồng Liên Hợp Quốc để chuẩn y.
2. Những sửa đổi sẽ có hiệu lực khi được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chuẩn y, và được 2/3 các quốc gia thành viên Công ước này chấp thuận theo thủ tục pháp luật của mình.
3. Khi có hiệu lực, những sửa đổi sẽ chỉ ràng buộc những quốc gia chấp nhận sửa đổi. Các quốc gia thành viên khác chỉ bị ràng buộc bởi những quy định của Công ước này và bất kỳ sửa đổi nào mà trước đó họ đã chấp nhận.
a) Việc ký, phê chuẩn và gia nhập Công ước này theo Điều 48;
b) Ngày Công ước này có hiệu lực theo Điều 49 và ngày các sửa đổi, bổ sung có hiệu lực theo Điều 51.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển các bản sao có chứng thực của Công ước này tới tất cả các quốc gia nêu trong điều 48.
 Nguồn:https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-quoc-te-ve-quyen-dan-su-va-chinh-tri-270274.aspx

Rưng rưng Tết vùng cao


Rưng rưng Tết vùng cao

TTTVN
2018-02-09
Một phụ nữ Cơ Tu
Một phụ nữ Cơ Tu
Courtesy TTVN
Tết về, hoa mơ hoa mận nở trắng triền núi Tây Bắc, mai rừng vàng sắc nắng miền Nam. Dường như Tết ở vùng cao vẫn còn rất gần với thiên nhiên, đất trời. Sự gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, trời đất của người vùng cao biểu hiện trong tính thật thà, thân thiện và cả cái nghèo thê thiết, nghèo như một cái cây trút lá rùng mình đơm bông mà chẳng cần hỏi đất có phì nhiêu hay không. Cái Tết nghèo của người miền cao như một định mệnh, và họ sống vui với định mệnh ấy khiến cho người miền xuôi phải thấy chạnh lòng, thấy Tết miên man…

Lấy gì mà ăn Tết?

Bà Đinh Thị Tưởng, người dân tộc Cơ Tu ở Quảng Nam, chia sẻ: “Tết là thường thường thiếu gạo ăn, mất mùa, phải đi mua, may mà năm nay nhà nước có hỗ trợ gạo ăn Tết. Năm nay hơi mất mùa, thiếu gạo ăn…”
Bà Tưởng cho biết thêm là từ xưa tới giờ, từ thời ông cố, đến ông nội, rồi cha mẹ bà và bây giờ là bà, chẳng mấy ai biết mình tuổi con gì, và cũng chẳng mấy ai được ăn Tết cho ngon miệng giống như người miền xuôi. Với người miền núi, Tết về, chỉ cần có thêm một ít thịt là coi như quá sang trọng. Nhà nào sang một chút thì có thịt heo, nhà nào nghèo thì vẫn nuôi heo Tết nhưng để bán lấy tiền mua sắm áo quần, mứt, hạt dưa, bánh kẹo.
Tết là thường thường thiếu gạo ăn, mất mùa, phải đi mua, may mà năm nay nhà nước có hỗ trợ gạo ăn Tết. - Bà Đinh Thị Tưởng
Những gia đình thiếu ăn thì thời gian gần đây, chính phủ Việt Nam hỗ trợ gạo và bánh kẹo để ăn Tết. Mỗi gia đình nghèo, khó khăn được chính phủ cho 10 ký gạo để ăn Tết, cũng có khi thêm mứt và hạt dưa. Và với ngần đó gạo, biết ăn nhín uống nhịn, biết siêng năng rình rập ngày đêm để bẫy chuột, bắt ếch, ra suối bắt cá về làm thịt và hong lên giàn bếp thì Tết sẽ có thêm món thịt hun khói, Tết sẽ ấm bụng và ngon hơn.
Bà Blong A Líu, dân tộc Cơ Tu, vùng núi cao Quảng Nam, chia sẻ: “Không có cái chi lấy chi mà ăn chừ. Đồ vật cũng không có, thứ chi cũng không có hết, nghèo khổ, họ có thì họ ăn chớ…”.
Bà Blong A Líu nói rằng vài năm trở lại đây, thời tiết rừng núi lạnh quá, nhà cửa cũng tuềnh toàng hơn bởi ai có tiền thì mua xi măng về xây nhà, ai không có tiền thì làm nhà gỗ tạm bợ. Mà gỗ thì bị nhà nước cấm khai thác, phải xuống dưới đồng bằng để mua về nên làm nhà hết sức khó khăn. Cuối cùng, người nghèo như bà phải ở nhà tạm bợ, lạnh lẽo vì thiếu gỗ để che chắn, gió lùa bốn phía tường. Những đêm trời rét, bà phải đốt lửa trong nhà cả đêm để xua đi cái lạnh.
Tết về, bà nói rằng may mắn cho bà là tập tục người vùng cao rất hiếu khách và thơm thảo. Nhà nào nghèo thì cứ nhắm đến hàng xóm khá hơn mà sang ăn Tết. Tết đến, người khó khăn sẽ sang thăm người khá giả, ngồi chơi thật lâu, đợi đến bữa ăn thì cùng ngồi vào ăn một bữa no nê rồi lại ra về.
Ba ngày Tết, cứ đi lòng vòng các nhà khá giả mà thăm thú, chúc Tết, nhất định sẽ no bụng. Nhưng bà cũng nói thêm là bà chẳng muốn làm vậy, nghiệt nỗi khổ quá, hơn nữa dân trong bản làng đã có tập tục này nên bà cũng đỡ thèm ăn, đỡ tủi thân trong ba ngày Tết.

Có cái ăn mà thiếu cái mặc

Anh Blong Vương Sĩ, người dân tộc thiểu số Cơ Tu, sống trên dãy Trường Sơn, rày đây mai đó, chia sẻ: “Trẻ, mấy đứa nhỏ thiếu quần áo, mùa lạnh đi học thiếu quần áo cũng là do điều kiện thiếu thốn. Thường thì nhịn ăn sáng để đi học, mặc vài ba cái áo thun nhỏ dồn lại để giữ ấm, đi học cũng xa, ba bốn cây số…”.
Theo anh Blong Vương Sĩ, vấn đề áo ấm mặc vào mùa lạnh vẫn là vấn đề nhức nhối của người vùng cao. Vì công việc hằng ngày với thu nhập cao nhất là 200 ngàn đồng thì một số người đàn ông chủ chốt trong gia đình phải loay hoay làm lụng suốt năm mới đủ cơm ăn cho gia đình. Chuyện mua sắm áo Tết là một chuyện nan giải, đầy chông gai và thử thách cho người đàn ông. Bởi vậy, họ phải nhờ vào người phụ nữ nuôi con heo, con gà bán trong dịp Tết để mua sắm áo quần.
Trẻ, mấy đứa nhỏ thiếu quần áo, mùa lạnh đi học thiếu quần áo cũng là do điều kiện thiếu thốn. - Anh Blong Vương Sĩ
Nếu không may trời lạnh quá, heo, gà lăn ra chết thì cả nhà chỉ biết ứa nước mắt mà ra rừng tìm xác nó về để mổ thịt, đón Tết sớm. Cảm giác đáng sợ nhất của người vùng cao là phải đón Tết sớm bằng thịt heo, thịt gà chết lạnh. Ngược lại, nếu như heo, gà sống sót để bán Tết thì cả một con heo đen mà người đồng bằng gọi là heo mọi cũng chỉ bán được cao nhất là 500 ngàn đồng. Vì nhà buôn chỉ trả đến mức giá đó là cùng. Và với 500 ngàn đồng, khó mà mua đủ cho con cái vừa là áo ấm, vừa là áo quần Tết để ra Giêng mặc đi học.
Ông Blíu Ruk, thợ bóc vỏ cây, làm rừng thuê, chia sẻ: “Ba mươi bắt đầu mới mua đồ ăn, mua đồ quần áo chi đó…”.
Với ông, dường như Tết chỉ bắt đầu từ Giao Thừa, và sang Mồng Bốn Tết thì ông cũng bắt đầu làm việc trở lại, có thể là đi bốc hàng thuê hoặc ai gọi gì làm nấy. Hiện tại, đã 24 tháng Chạp nhưng ông vẫn phải vác rựa vào rừng để làm cỏ cho keo lá tràm. Mỗi ngày được trả 150 ngàn đồng, cơm trưa chủ rừng cho ăn. Ông không thể nghỉ Tết sớm vì cần thêm tiền để mua áo quần Tết cho con.
Và với kinh nghiệm của một người nghèo, ông thường chọn mua áo quần cho con vào đêm 30 tháng Chạp, lúc đó ít ai mua áo quần Tết nên người ta sẽ bán rẻ hơn. Nhưng cũng có năm, đi muộn một chút, chợ vãng, chẳng còn ai bán áo quần, cha con ông phải đi bộ hàng chục cây số quay về nhà. Những lúc như vậy, ông thấy có lỗi với vợ con và chỉ biết khóc thầm.
Có thể nói rằng có thiên hình vạn trạng câu chuyện Tết nghèo, Tết sâu thẳm nỗi buồn rừng rú, Tết phong phanh áo mỏng đại ngàn, Tết miệt mài áo cơm thiếu thốn, Tết bẽ bàng ăn ké người thân… nơi rẻo cao khuất lấp. Bởi đời sống của người miền cao, cho dù có cố gắng, nỗ lực cách gì thì họ vẫn khó bề mà thoát nghèo, khó bề mà sung sướng.
Cái nghèo quanh quẩn người vùng cao, Tết về, dường như chỉ có cây rừng, hoa rừng, hương rừng là bầu bạn, tâm tình cùng những số phận nghèo khổ một cách chí thiết, thâm sâu. Thêm một cái Tết nữa đang về trên vùng cao!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Nguồn: https://www.rfa.org/vietnamese/news/reportfromvn/tet-in-the-highland-02092018114633.html

Thứ Năm, 8 tháng 2, 2018

NỖI BUỒN CHIẾN TRANH

Chia sẻ bài viết của Anh Trân- Facebook
https://www.facebook.com/ignatioanhtran?fref=nf
Ảnh đại diện của Anh Tran, Trong hình ảnh có thể có: 3 người
Một câu chuyện cảm động.
Nguyễn Duy An là người Á Châu đầu tiên đảm nhận chức vụ Senior Vice President National Geographic tổ chức văn hóa khoa học lớn nhất thế giới.
* * *
Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của Sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng:
– Duy à… Có chuyện rồi! Ðại uý Morrow cần gặp riêng Duy. Bà ta vội vã quay lưng, với tay đóng cửa và buớc nhanh ra ngoài. Tôi vừa bắt tay đại uý Morrow vừa hỏi:
– Mời đại uý ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng?
– Xin lỗi anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3 nguời ‘homeless’ cứ nằng nặc đòi gặp anh cho bằng duợc. Nhân viên an ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp ông để thảo luận. Những nguời này có vẻ không đàng hoàng… nhưng có một nguời tên Norman khai rằng anh là bạn của hắn ta.
– Ồ… Ðó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện ngầm Farragut West đó mà. Anh ta đàng hoàng lắm. Không sao đâu. Ðể tôi xuống gặp họ.- Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp để canh chừng vì hai anh chàng kia trông có vẻ ‘ngầu’ lắm. Mấy tay này cứ luôn miệng chửi thề và ‘càm ràm’ với giọng điệu rất hung hăng về cuộc chiến Việt Nam. Tôi đoán chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt Nam mắc bệnh tâm thần… Anh tính sao?
– Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi biết tôi không thể dẫn họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào ‘cafeteria’ uống ly nuớc, chắc không sao chứ?
– Cũng được, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Ðể tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở ‘cafeteria’. Anh không ngại chứ?
– Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân.
Trong lúc theo với đại uý Morrow xuống nhà gặp ‘khách’, tôi nghĩ về kỷ niệm quen biết Norman từ gần 10 năm trước.
Hồi đó, tôi mới về làm cho National Geographic, vì chưa quen đường sá ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn nên thuờng đi làm bằng xe ‘Metro’. Một buổi sáng Thứ Sáu, tôi đi trễ hơn bình thuờng vì phải ghé qua truờng học để ký một số giấy tờ cho các con truớc ngày tựu truờng. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở trạm Farragut West, tôi nghe vọng lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang ‘rên rỉ’ bài Hạ Trắng:
Gọi nắng… trên vai em gầy đường xa áo bay
Nắng qua mắt buồn, lòng hoa buớm say
Lối em đi về… trời không có mây
Ðuờng đi suốt mùa nắng lên thắp dầy…
Lên khỏi cầu thang ở trạm xe điện, tôi sững sờ khi trông thấy một nguời Mỹ ‘homeless’ đang ‘ngất nguởng’ thả hồn vào một cõi xa xăm vô định, miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán thuởng, vừa bỏ một vài đồng bạc lẻ vào cái mũ vải bên cạnh… Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc $10 bỏ vào mũ biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt Nam vì anh ta đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman Walker trên túi áo và bên cạnh còn treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi chưa kịp bỏ tiền vào mũ, anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt:
– Mày Việt Nam hả? Biết bài hát vừa rồi không?
– Ðương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng Việt cũng giỏi.
– Ðại khái thôi. Kêu mày tao được rồi. Tao đã từng đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhưng khi trở về bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt Nam nên tập thổi nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng mua cơm mua cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ cuộc chiến.
– Ông…
– Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải nguời Việt tụi mày vẫn nói thế sao?
– Tôi không quen gọi nguời lạ như thế. Hay gọi nhau là ‘anh tôi’ được không?
– Tùy mày. Tiếng Việt tụi mày rắc rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa?
Tao phải tiếp tục thổi thêm vài tiếng nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11giờ, mày có thể tới nói chuyện. Nếu bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu không chê, mày có thể trở lại.
– Tôi sẽ trở lại truớc 11 giờ. Văn phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn.
-Mày không sợ hả?
-Sợ gì?
-Tụi tao là loại nguời bị ruồng bỏ và khinh chê.
– Không có đâu. Tôi sẽ trở lại.
– Ði đi. Hẹn gặp lại.
Tôi đã trở lại gặp Norman và mời anh ta cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm động, và chúng tôi trở thành ‘bạn’ từ dạo dó. Tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu tại sao hôm nay Norman không gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn theo hai nguời bạn tới văn phòng tìm tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối.
Tôi chỉ sợ Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National Geographic cũng như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở ‘hạch hỏi’. Ðã từ lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần và tính tình chân thật của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp đường phố thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Có những nguời đã từ bỏ tất cả để sống kiếp lang thang tại vùng thủ đô để thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tuờng cẩm thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial).
Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm, quần áo rách nát và bẩn thỉu, thân thể xâm đầy những bức hình ngổ ngáo hay những dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc khoải trong đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân quý những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt Nam của chúng ta.
Vừa gặp mặt, Norman siết chặt tay tôi cuời lớn, rồi lên giọng:
– Gặp mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh nhé. Bạn tao không biết tiếng Việt và tao cũng không muốn đám ‘cớm dổm’ ở đây nghi ngờ, gây thêm phiền phức cho thằng bạn nguời Việt rất thân của tao.
Norman đổi giọng, nói tiếng Anh:
– Ðây là thằng Duy rất thân của tao. Nó là nguời Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây. Chắc nó giúp được tụi mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân ‘homeless’ của tao.
Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi lên tiếng mời:
– Mời các bạn xuống ‘cafeteria’ uống nuớc và nói chuyện.
– Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện.
– Không sao đâu. Tuy nhiên, Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu. Norman cuời ha hả trả lời bằng tiếng Việt:
– Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi! Ðúng không?Rất đúng. Nghe giống hệt ‘một ông già Bắc kỳ’ thứ thiệt.
Chúng tôi vui vẻ buớc vào gọi cà phê, cùng tiến về một bàn trống phía trong cùng truớc bao nhiêu con mắt kinh ngạc của những nguời đang có mặt trong ‘cafeteria’ sáng hôm dó. Vừa ngồi xuống bàn, Norman vội vàng lên tiếng:
– Ðể khỏi mất thì giờ của mày, tao vào đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc thấy ở đâu đó nói tuần này National Geographic sẽ có ‘preview’ cuộn phim ‘Inside the Vietnam War’ truớc khi trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân. Ðúng không?
-Ðúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này.
– Ðài của tụi mày chỉ có trên ‘Cable’ và ‘Direct-TV’. Dân ‘homeless’ tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn mời mày 2 vé ‘preview’ mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa tao đi xem với. Ðược không?
– Chắc được. Mấy lần truớc tôi đưa vé cho bạn nhưng có bao giờ xuất hiện đâu!
– Lần này khác… vì họ nói về tụi tao và những bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.
Ðể giữ sĩ diện cho tôi, cả 3 nguời ‘bạn’ cựu chiến binh đều ăn mặc quần áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng chờ ngoài hành lang ‘Explorer Hall’ cả giờ đồng hồ truớc khi tôi xuống dẫn vào xem phim trong hội truờng chính của National Geographic. Sau khi cầm trong tay 4 tấm vé ‘preview’, tôi đã liên lạc nhờ mấy nguời trong nhóm ‘Audio & Video’ của sở sắp xếp để chúng tôi ngồi trong góc cuối của hội truờng, tránh xa những vị ‘tai to mặt lớn’ trong sở cũng như những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu Chiến Binh, Quốc Hội, và viên chức Chính Phủ Mỹ.
Sau những lời giới thiệu, những bài diễn văn theo thủ tục, cuộn phim bắt đầu chiếu. Mấy nguời bạn cựu chiến binh Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt nguời nào cũng long lanh ngấn lệ, cùng siết chặt tay nhau để nén lại những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong tim của mỗi nguời.
Thỉnh thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên khắp hội truờng. Ba nguời bạn của tôi vẫn ‘án binh bất động’ dõi mắt đăm chiêu theo từng tấm hình, từng tiếng súng, từng buớc đi, từng câu nói, từng tiếng khóc… trên màn ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt Nam bị ‘dân Mỹ’ và có lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng khóc thật lớn, rồi Bernie, rồi Norman và một vài nguời chung quanh cùng khóc theo!
Ai đó đã ra lệnh tạm ngưng. Ðèn hội truờng bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những nguời chung quanh rồi vội vàng ‘kéo’ ba nguời bạn cựu chiến binh ra khỏi hội trường. Cả ba vừa đi vừa khóc, lững thững lê gót ‘khật khưỡng’ buớc theo tôi như ba cái xác không hồn!
Mấy ngày sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu ‘Inside the VietNam War’ nhờ tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 nguời bạn cựu chiến binh ‘homeless’ đã cùng tôi đi xem ‘preview’ hôm đó, và cũng nhờ họ mời thêm những bạn bè khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài viên chức trong chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ.
Có lẽ đã tới lúc nguời Mỹ nhận thức được ‘món nợ phải trả’ cho sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam.
Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?
NGUYỄN DUY-AN

Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

Facebook Tips And Tricks 2017 [Ultimate Guide]


Posted By on 21 Mar 2017


Facebook tricks and tips: In this article, we gonna share, Facebook tips and tricks so that you can surprise your friends. So here is the best collection of Facebook tips for all. All the Facebook tricks are tested and working 100%. Get more attraction among your friends and family members with these Facebook tricks. All the latest Facebook Tricks and Tips compilation. These are best working Facebook tips and tricks over the internet and will help you improve your experience.

Why Facebook Tips and Tricks should be known?

These days almost most the population uses Facebook, some for entertainment purpose, others for business. Facebook has now become part of our life. Most the people don’t know about these tricks, so we want to aware people with these. There is a lot to be done over Facebook apart from just messaging and posting statuses. If you are a Facebook addict. Here is something new for you to practice. These Facebook tricks will certainly help you a lot. Here is a collection of best Facebook tricks. Use these Facebook hacks 2018 to make your user experience bounce up to a whole new level.

Facebook was basically Developed to connect different People from Different Location World Wide. On the Other Hand, Facebook is also a Spot for Entertainment Where People Upload Pictures, Videos, and Status and Share with Their Friends. Check Out the below list of All Facebook tricks and Hacks. Hope some of them would be Helpful to You and you can use it yourself.

Top Best Facebook Tips and Tricks 2018



Facebook being world’s best and most popular social networking sites website, helps us find our old friends and people over the internet. You can chat with them and share memories.Facebook also helps us discover new friends. Facebook has millions of daily users.These numbers are increasing day by day. It creates its own maximum active members records and breaks them. Recently it touched 1 billion active users mark. We share content over Facebook, use it daily for entertainment purpose, we chat with our friends, share comments, emoticons, and much more.
Here is the Compilation of All Latest Facebook Tricks & Hacks 2018. By Using These simple tweaks, you can Effectively use Facebook and Make your Work Easy. It Includes Tips and Tricks Related to Facebook that many people don't know. So here are Best Facebook tricks.

1. How to Hide Message Seen time



There are times when you want to read the message, but don’t want to allow the user to know that message has been read. This trick comes handy at those times. Facebook haven't officially announced such feature. But with the help of certain plugins, you can do so. 


Install the desired plugin for your browser. We are sharing Extensions for Chrome and Mozilla. Then just follow and get it.
1- For Google Chrome

Just enable it and done, It will automatically work.


Developer: fbunseen.com
Price: Free 


2- For Mozilla Firefox

First, install Grease Monkey in your Mozilla Firefox

After than just install Stealth.
This will help you hide the message seen time.


2. Post to Multiple Groups in one g0

Have you joined too many groups and want to post content to all of them? This trick is the solution for you. You won't have to paste the same message to the number of groups individually. But don’t try again and again because it will make spamming on this social site and you know spamming not allow by Facebook.
Here Are two sites which provide this feature for multiple group share.
You can try any one like getnitrosedge.com or maherpost.com

3. How to post Facebook status in blue color


  1. Log-in to Your Facebook Account.
  2. Go For a Status Update Now Copy the Below Code & Paste in Your Status, Replace Your Status Here With Your Status @[1: ]@@[1:[0:1: Your Status Here ]]
  3. Now you can Post Facebook Status…

4. Check who Visited Your Facebook Profile

 


Most of us are curious to know who viewed our profile in last few days or months. This Facebook Trick 2018 is used for the same. Use this browser source code Facebook tricks to trace your Facebook profile visitors.

Track Your Timeline or Facebook wall visitor By Browser Source Code


  1. First, you should go to your timeline or wall.
  2. Now right click of the mouse and click on View Page source.
  3. You will see all coding of your profile in the new page.
  4. Now just press Control + F, You will see search Box on Upper right corner of Chrome.
  5. You can go directly view-source.
  6. Now paste  [InitialChatFriendsList] on Find box.
  7. Then you will see many Friends profile ID code after InitialChatFriendsList
  8. Just copy any Profile ID code and Past After https://www.Facebook.com/
  9. example https://www.Facebook.com/xxx id code xxx
You will see who recently viewed your profile.

5. Post Facebook comment in blue color


1. Log-In to Your Facebook Account
2. Open the Facebook Post on Which you want to do Blue Comment
3. Now Copy the Below Code And Paste in Facebook Comment, Replace Your Comment Here with Your Comment. @[1: ]@@[1:[0:1: Your Comment Here]]

6. Invite all Facebook friends



Facebook doesn’t allow you to select all friends to invite to like your new page. Here a tip and trick which will let you do so. Follow these steps to invite all friends on Facebook with just a single click.


  1. First, you need to go your Specific Facebook page.
  2. Now just click on Build Audience on the right corner.
  3. You will see invite Friends Option-click on it.
  4. In many accounts, you will not see this option so try with the different account.
  5. After clicking one Invite friends, you will see all friends list.
  6. Just scroll down all friends.
  7. Now Simple press Shift+ Control + J or F12 directly.
  8. You will see the console box under the browser.
  9. Just click, copy below codes and paste it in the console box using Control +V
  10. var inputs = document.getElementsByClassName(‘uiButton _1sm’); for(var i=0; i
  11. It will take few minutes. As it depends on the number of friends.

5. Facebook photo tag bypass verification trick


This Facebook tip and trick will let you  Bypass Facebook Photo Tag Verification. Kindly Follow the below 
Requirements: Android Phone or Computer with Internet access, Email/Phone & Password of Blocked Facebook Profile, Date of Birth of the Profile
Kindly Follow the below Steps
  1.  Open Bypasstunnel.com
  2.  After Opening Bypass tunnel, there will be a field to Enter URL, Enter Facebook.com
  3.  Now The Mobile View of Facebook Will Open, Log-In With the Blocked ID & Password
  4. Now it Will Ask You For DOB or Mobile Number Verification
  5.  Now Enter the DOB or Verify Your Number, & Your Profile will be Unlocked.
That's it. Now you will easily bypass the verification step. 

6. Make a single name Facebook Profile


To Make a single name Facebook profile: First Download the Hola App on Your Android Mobile.
Developer: Hola
Price: Free 

  1. Now Open the Hola App & Open the Browser of Hola App
  2. Now, Type m.facebook.com in the Address Box.
  3. Now Go to Settings > General > Language & Change It to Bhasha Indonesia.
  4. Main Step: Now You will see a Country Sign on the Upper Side of Hola Browser, Click on that & Select Indonesia. Now, the browser will start reloading, Cancel It By Click on Cross Sign (X)
  5. Now Go to Settings > General > Name & Delete Your Last Name & Keep Your First Name Only, Click Review Change & You Are Done.
Now you can easily make a single name Facebook profile.
Note: These tricks and images are from different sources. Thus haven't given credits to any.


7.Accept all Facebook friend request at Once



  1. Open you Google Chrome Web Browser and Go to Chrome Web Store.
  2. Then You need to Find a Chrome Extension named “Facebook Friends Requests Accept/ Reject”.
    Developer: getmyscript.com
    Price: Free 
  3. You can also Get this Extension.
  4. After Add this Extension in your Google Chrome. You can see a Small Icon on Top of Right Side Corner.001
  5. Now Login your Facebook Account and Open your Friends Requests that you want to Accept or Reject it.
  6. Then Click on that Icon Located at Top of Right Side Corner in Browser.
  7. On the Next page,  there is Pop Up Dialog Box in Which you have two Option one is to Accept Friends Request
  8. at Once or Reject Friends Request.
  9. Just Choose any of Them and Click on Below Green Button and the Process is Start.
  10. You can See the Count on Screen. Job Done Successfully.

8. How to change Facebook Theme



If you are bored of default blue Facebook theme? Change Facebook's default theme and switch to a new one. However,  you can always revert back all the changes and switch to default theme again.


Developer: www.templah.com
Price: Free 
  • Now Go to Chrome Extension Where you see all of your Installed Chrome Extension.
  • Now Click on Explore and Choose your Favorite Theme.
  • Hit Install on your Favorite Theme and See the Magic.

9.Download Facebook Videos



There must have been situations when you would have seen a funny video over Facebook and have wanted to download it,  but have failed. This is because Facebook doesn’t provide the feature to download Facebook videos. We have a trick for that.
Here is the trick.
  1. First Go to Facebook Video that you Want to Download.
  2. You can See the Facebook Video Link in Browser URL, Just Copy that Link.Just Copy Facebook video’s download link.
  3. Then Go to Clip Convertor and Paste the Video’s Link and Click “Continue”. Paste that Facebook video link and click continue
  4. After Clicking on Continue, It can go to next Page Where it can Show the Video Quality according to Pixels.
  5. Choose your Video Quality & Size and Hit “Start” Button and Wait Until Conversion of Video Finish.Download Facebook Video
  6. Now you see the Last Step. Click on “Download” and Your Video starts Downloading.

10. Delete Facebook Account Permanently



Deleting is separate from deactivating your account. It will permanently delete your account data and images .
  1. Log in to Facebook with your email and password.
  2. Go to Settings >> General Account Settings
  3. Download a copy of your Facebook data.
  4. Go to the following link and enter your password when asked.
  5. Now just click delete my Facebook account 
  6. That’s it. You are done.

Facebook takes 14 days to process the request and permanently delete your account. Do not log into the account at any time or the request will be void.
These were the best tweaks from the Facebook tips and tricks 2018 guide. Hope you would have liked these Facebook tricks 2018 edition. Most of the Facebook tricks include security Tips, Hacking Tricks and Other Tips and Tricks regarding Facebook. These all working fine, you can call them secret Facebook tips and tricks 2018.

If you have gone through any new Facebook tips and tricks, please feel free to mention in the comments so that we could update the posts. This will help us share updated info with our users. Keep sharing the posts, because sharing knowledge doesn’t cost you anything. You can bookmark this page also to get time to time updates of Facebook tips and tricks.

We are Social