Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2017

Go Easylinks - MỌI NGƯỜI ĐANG TRÔNG ĐỢI THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ ...

MỌI NGƯỜI ĐANG TRÔNG ĐỢI THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ HẢY QUAN TÂM ĐỌC LỊCH SỬ CẬN ĐẠI CỦA VIỆT NAM và về SỰ HIỆN DIỆN CỦA:
CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CÔNG HÒA LÂM THỜI CHÍNH THỐNG TỪ HƠN 20 NĂM NAY TẠI MỶ.
Như Chính quyền Trung ương Tây Tạng của ngài Đạt-lại Lạt-ma ở Daramsala, Ấn Độ với Thủ tướng Tây Tạng, Ông Lobsang Sangay, một học giả Harvard ...
BẠCH HÓA LỊCH SỬ: sự thật về ông Nguyễn Hửu Chánh.
***********************
Chanh Van Phong Pngvn đã thêm 8 ảnh mới.
15 Tháng 7 lúc 3:30 ·
Vua Hùng dựng nước Văn Lang
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI
HỢP PHÁP - DUY NHẤT

(Nhiều SỰ THẬT phải bạch hóa)
1. Năm 2879 TCN (trước công nguyên) Vua Hùng dựng Nước Văn Lang, truyền cho đến nay đã gần 5000 năm. Nhiều anh hùng dân tộc đã đứng lên đánh đuổi quân Tầu, dành độc lập cho Dân Tộc, chứng tỏ tinh thần anh dũng, bất khuất có truyền thống của Việt Nam.
2. Sau ngày 3/8/1949, lịch sử đối chiếu cận đại Pháp-Việt chứng minh Hoàng Đế Bảo Đại là Quốc Trưởng Quốc Gia Việt Nam sau khi Quốc Hội và Tổng Thống Pháp ký một văn kiện trao trả nền Độc Lập, Thống Nhất và Toàn Vẹn Lãnh Thổ cho CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM (CP/QGVN) do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng. Sự trao trả chủ quyền này mặc nhiên được cộng đồng thế giới thừa nhận. Việt Cộng bấy giờ chỉ là một bọn thổ phỉ ở biên giới Việt Trung, và là đội quân đánh thuê cho Trung Cộng.
3. Ngày 7/2/1950, sau khi Hoa Kỳ công nhận CP/QGVN do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng, thì tiếp theo có 26 quốc gia khác công nhận CP/QGVN: Anh, Pháp, Trung Hoa Quốc Gia, Ý, Hòa Lan, Bỉ, Úc, New Zealand, Canada, Thái Lan, Malayia, Singapur, Philippines, Vatican, Miên, Lào, Maroc, Vương Quốc Arab, Tunisia. CP/QGVN đã là hội viên chính thức của hầu hết các tổ chức quốc tế của LHQ như: UNESCO, FAO, UNICEF, WHO, OLYMPIC...
4- Tháng 9/1951, CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng đã được mời tham dự Hội Nghị Quốc Tế “Hòa Bình cho Nhật Bản” tại San Francisco. Cờ Vàng 3 sọc đỏ đã tung bay ngang hàng với 50 quốc gia hùng mạnh khác tại diễn đàn LHQ.
Sau khi Hoàng Đế Bảo Đại là ḥôi viên chính thức của LHQ thì Hồ Chí Minh còn lội trong hang động.
5. Ngày 2/9/1952, CP/QGVN do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng đã được chấp thuận trở thành Hội Viên Chính Thức của Liên Hịêp Quốc với 10 trong 11 Hội Viên của Hội Đồng Bảo An LHQ bỏ phiếu thuận.
6. Ngày 14/10/1952 CP/QGVN với cờ vàng ba sọc đỏ được mời đến tham dự Hội Nghị “Workshop of Peace” do LHQ tổ chức tại Manhattan gồm có 57 quốc gia. Đó là Hội nghị Kiến Tạo Hòa Bình, nói đúng hơn là Hội nghị “Ngăn Ngừa sự hiếu chiến của CS”. Sau đó, có trên 60 quốc gia khác thừa nhận CP/QGVN. Trong khi đó, bè lũ HCM với lá cờ máu, đang được Mao huấn luyện ở Vân Nam và Quảng Châu, như 1 loại giặc cỏ, chỉ làm bình phong cho 12 sư đoàn Nam Chinh của Mao.
Phó Tổng Thống Nixon thăm Chiến Sĩ Quốc Gia tại Bắc Việt.
7. Ngày 01/11/1953 Phó TT Nixon qua thăm VN, cam kết giúp Quân Đội Quốc Gia VN và quân Pháp chiến đấu chống CS xâm lược, bảo vệ Đông Dương. TT Nixon còn đi thăm các đơn vị hành quân biên giới phía bắc để hỗ trợ tinh thần chiến đấu chống quân Bắc phương xâm lược. Hoa Kỳ đã biểu tỏ tình đồng minh với Quân Đội QGVN ngay từ đầu thập kỷ những năm 50.
Việt C̣ông ký chia ̣đôi lãnh thổ Việt Nam
8. Đầu năm 1954, nhờ sự trợ giúp của Pháp và Hoa Kỳ, CP/QGVN và Quân Đội QGVN đã thực sự kiểm soát toàn bộ đất nước. Tuy nhiên, vì nước Pháp bị lọt vào tay của 3 đảng CS ở Pháp và tên CS Mendes France trở thành Thủ Tướng nước Pháp. Mendes France (Pháp) liền cấu kết với Molotov (Liên Sô) và Chu Ân Lai (Trung Cộng) cắt một nửa Giang Sơn Việt Nam giao cho tên tay sai CS Hồ Chí Minh.
Năm 1954 hàng trịêu đồng bào miền Bắc lánh ṇan C̣ông S̉an cḥay về miền Nam Vịêt Nam
9- Ngày 20/7/1954, Hoa Kỳ không thừa nhận sự chia cắt và CP/QGVN đồng thời cũng hoàn toàn phản đối thủ đoạn phân đôi lãnh thổ Việt Nam một cách cưỡng chế, phi pháp này. Nhân dân Việt Nam cũng không thể để vài anh Cộng Sản Tây, Tầu Cộng và tên điệp cộng Hồ Chí Minh tự ý chia cắt dân và đất nước của mình, nên tìm chạy về phương Nam, phía Quốc Gia Tự Do hẹn ngày về khôi phục quê hương mình.
10- Ngày 23/10/1954, Qua cuộc “trưng cầu dân ý”, nhân dân Việt Nam chọn chế độ Cộng Hòa với vị lãnh đạo Chính Phủ là Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, thay thế chế độ Quân Chủ Lập Hiến của Quốc Trưởng Bảo Đại.
11. Ngày 26/10/1955, Quốc Gia Việt Nam chính thức có vị Tổng Thống đầu tiên do dân bầu sau gần 5000 năm lập Quốc là Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người lập trang sử mới, chính thức khai sinh nền Đệ Nhất Cộng Hòa, do ý dân và dám chết vì dân.
Trung Tướng Nguyễn Vân Thịêu
12. Ngày 16/09/1967, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia được bầu làm Tổng Thống kế vị nền Đệ Nhất Cộng Hòa của Quốc Gia Việt Nam để lãnh đạo nền Đệ Nhị Cộng Hoà tiếp nối.
13. Ngày 27/01/1973, Hiệp Định Paris là văn kiện quốc tế tái xác nhận Chính Phủ nền Đệ Nhị Cộng Hòa do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo. CP/VNCH là Pháp Nhân đại diện của Quốc Dân Việt Nam: có đầy đủ Chủ Quyền, có Lãnh Thổ, có Hiến Pháp và Do Dân bầu ra.
14. Ngày 21/4/1975, trước áp lực quân sự của CSVN và vì dư luận quần chúng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải tuyên bố từ chức, trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông được xem là vị tổng thống dân sự cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa.
15. Ngày 28/04/1975, Tổng Thống Trần Văn Hương bị thúc ép trao quyền lãnh đạo cho “Tổng Thống phi hiến pháp, không do dân bầu” là Tướng Dương Văn Minh để thực hiện chủ trương “liên hiệp”. Kế hoạch đó bất thành, DVM phải đầu hàng vô điều kiện hầu tiết kiệm xương máu dân, quân, cán, chính VNCH.
16. Ngày 30/04/1975, bằng bạo lực Cộng Sản Quốc Tế, Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam bị đem chôn dưới sự điều khiển của Cộng Sản Nga Tàu, bè lũ tay sai CSVN lập kế “linh miêu tráo chúa”, dùng tên điệp Cộng Hồ Chí Minh giả làm Nguyễn Sinh Côn, tức Nguyễn Ái Quốc cầm đầu đảng CSVN để thi hành âm mưu cưỡng chiếm toàn bộ lãnh thổ VN.
17. Sau 30/4/75 Dân chúng chỉ tạm thoát được cảnh máu xương trong thời gian ngắn. Nhưng sau khi CS chiếm được Sài Gòn, đại đa số DÂN-Quân-Cán-Chính VNCH rơi vào tình trạng bị trả thù dần đến đời con cháu. Chỉ một số ít liều chết vượt biên, vượt biển, thoát được ra hải ngoại, phải tạm thời sống lưu vong nơi xứ người. Nhưng hẹn ngày trở về Phục Quốc. CSVN cũng trà trộn theo làn sóng dân, quân, cán, chính VNCH đào thoát khắp thế giới, dùng mọi âm mưu, thủ đoạn ngăn cản VNCH thành lập Chính Phủ lưu vong.
18. Ngày 03/09/1990 Tên Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư Đảng CSVN và Đỗ Mười, Chủ tịch cái gọi là “Hội Đồng Bộ Trưởng CHXHCNVN” đại diện cho phía “Việt Nam” và Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư đảng CS Trung Quốc và Lý Bằng Thủ Tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung quốc họp trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990 tại Thành đô. Đảng CSVN và nhà nước Việt nam xin Trung quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Việt Cộng tự nguyện làm hết mình để vun đắp “tình hữu nghị lâu đời” vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Mao trạch Đông và Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ. Việt Cộng bảy tỏ sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung quốc để Việt nam được hưởng quy chế khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh, như Trung quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho Đảng CSVN trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Đồng bào ủy thác cho ông Đào Minh Quân trọng nhịêm: Lấy Lại Đất Tổ, giải thể tà quyền CS ṭai VN mà không trao cho ông 1 phương tịên nào, ngoại trừ những giọt lệ đắng cay. Nhưng ông đã kính cẩn qùy xuống đón nhận như 1 NGƯỜI CHIẾN SĨ RA TTRẬN TUYẾN.
19. Ngày 21/10/1990, CSVN đã thất bại, không ngăn cản được ý dân, không phá nổi quyết tâm của đồng bào Việt Nam thành lập Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lưu Vong. Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ cũng được dấy lên, phục vụ đồng bào Việt Nam cùng với quý vị trong ba (3) thế hệ gồm:
a. Lão Niên, là những bô lão trên 60 tuổi
b. Trung Niên, là những vị trong hạng tuổi từ 40 cho đến 60 tuổi
c. và Thanh Niên là những người từ 20 tuổi đến 40 tuổi
Ba thế hệ này đã thành công trong quyết tâm thành lập một Chính Phủ Quốc Gia Truyền Thống Việt Nam ngay tại Trung Tâm Thủ Đô Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, vùng Nam Cali, Tiểu Bang California với danh xưng là CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI và vị Thủ Tướng được đề cử để lãnh đạo Chính Phủ là cụ Nguyễn Trân. Từ đây, Chính Thể Việt Nam Cộng Hoà tuy đã bị đem chôn năm 1975, nhưng chưa chết, và đã sống dậy.
Ông Đào Minh Quân chuẩn bị tuyên thệ nhận trọng nhiệm Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Vịêt Nam Lâm Thời ngày 16/02/1991 tức Mồng Hai Tết Tân Mùi, tại quận Cam-California (Little Saigon, Thủ đô của người Việt tỵ nạn Cộng sản)
20. Ngày 16/02/1991, vì bạo bệnh, Thủ Tướng Nguyễn Trân xin từ nhiệm và ông Đào Minh Quân, Chủ Tịch Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ, đang Xử Lý Văn Phòng Thường Trực của CP/QGVNLT được tín nhiệm của những vị trong ba (3) thế hệ Việt Nam để thay thế nhận trọng nhiệm Thủ Tướng. Đại Lễ tuyên thệ của Thủ Tướng Đào Minh Quân được cử hành công khai trước Quốc Dân và đồng bào lúc 12:00 giờ trưa ngày 16/02/1991 (nhằm ngày Mồng Hai Tết Tân Mùi) tại số 12812 Brokhurst Street, thành phố Garden Grove, quận Cam (Orange County).Thủ Tướng Đào Minh Quân lại tiếp nối tiền nhân Quốc Gia Việt Nam và duy trì được Hoàng Kỳ Chính Nghĩa và Quốc Thể Quốc Gia Việt Nam cho đến hôm nay.
Sau khi được T̉ông Thống Bill Clinton gửi Công hàm đến CPQGVNLT ngày 28/01/1994 mời ḥơp tác, thì hơn 10 năm sau, ngày 5 tháng 7 năm 2005, Dân Bỉêu Gary Miller chính thức mời ông Đào Minh Quân phát biểu tại Đại Hội đảng Cộng Hòa với tư cách Thủ Tướng CPQGVNLT.
21. Ngày 28/01/1994, vị Tổng Thống do dân bầu thứ 42 của Hoa Kỳ, Bill Clinton, đã chính thức gửi công hàm đầu tiên nhìn nhận Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời (CP/QGVNLT) và vai trò của Thủ Tướng Đào Minh Quân.
22. Tóm lại:
22.1 CP/QGVN do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng là kế thừa từ vua Hùng, qua các triều đại chính tông: Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn.
22.2 CP/VNCH do Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng Thống Trần Văn Hương lãnh đạo là kế thừa CP/QGVN.
22.3 CP/VNCH do Tướng Dương Văn Minh đứng đầu là chiêu bài “liên hiệp”, vi hiến, nên chỉ tồn tại trong vài ngày.
22.4 CSVN xin Trung Cộng cho hưỡng qui chế tự trị, không đại diện cho nguyện vọng của toàn dân Việt Nam.
22.5 CP/QGVNLT duy nhất đại diện cho Quốc Gia Việt Nam và NHỮNG NGƯỜI VIỆT ĐANG BỊ CỘNG SẢN CƯỚP NƯỚC được Chính Phủ Hoa Kỳ nhìn nhận hợp pháp tại Hoa Kỳ và đã tồn tại gần suốt 20 năm qua. Chính Phủ này hiện đang hoạt động và do Thủ Tướng Đào Minh Quân lãnh đạo, là kế thừa CP/QGVN, một Chính Phủ Việt Nam Danh Chính Ngôn Thuận trước Quốc Dân và Quốc Tế.
22.6 CP/VNTD do ông “Nguyễn Hoàng Dân” trong bí mật và sau đó chuyển qua ông Nguyễn Hữu Chánh, để thực hiện kế hoạch Dương Đông Kích Tây, theo chiến dịch “Thả Lưới” của CP/QGVNLT, nay đã hoàn tất nhiệm vụ và đã giải tán ngày 17/08/2008.
23. Những chi tiết đáng nhớ:
23.1 Ngày 14/06/1989 56 quốc gia họp tại Geneva để đưa ra kế hoạch hồi cư người tỵ nạn CS về cố hương.
23.2 Ngày 03/09/1990 Việt Cộng dâng đất nước Việt Nam cho Trung Cộng để xin hưởng quy chế tự trị.
23.3 Ngày 01/05/1990, bằng văn thư, Bộ Xã Hội, Chính Phủ Hoa Kỳ, Tiểu Bang California ký nhìn nhận Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ (PT/VNTDC) đã góp rất nhiều công sức trong việc tái nhập định cư đồng bào Việt Nam vào đời sống mới tại Hoa Kỳ.
23.4 Ngày 15/08/1990, sau khi biết các trại tỵ nạn CS tại Đông Nam Á hết ngân khoản, phải đóng cửa, PT/VNTDC cử ông Nguyễn Hữu Chánh liên lạc với Chính Phủ Vanuatu để xin định cư đồng bào Việt Nam tại đảo quốc này.
23.5 Ngày 21/10/1990 Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ đứng ra triệu tập Đại Hội Dân Chủ - Đoàn Kết để thỉnh thị ý kiến của quốc Dân, đồng bào VN xin thành lập Chính Phủ Quốc Gia Lưu Vong để lo cho đồng bào và đương đầu với CSVN. Đại Hội đã chuẩn nhận thành lập Chính Phủ với danh xưng là “Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời”. Biến cố lịch sử này đã được loan báo đến nhiều quốc gia và truyền thông, báo giới Việt Nam và quốc tế.
23.6 Ngày 16/02/1991, ông Đào Minh Quân, Chủ tịch Phong Trào Việt Nam Tân Dân chủ, người đang xử lý Văn Phòng Thường Trực của CP/QGVNLT chính thức tuyên thệ nhận trọng nhiệm Thủ Tướng Chính Phủ. Được tin Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời được thành lập dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Đào Minh Quân, người Việt trên khắp thế giới rất phấn khởi và nô nức tham gia. Đặc biệt là những đồng bào đang bị ngược đãi trong các trại tỵ nạn Cộng Sản vùng Đông Nam Á, như Hồng Kông, Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân và Nam Dương, kể cả những cán bộ Cộng Sản Ly Khai và người Thượng Du cũng mạnh mẽ đứng lên ủng hộ CP/QGVNLT. Các Văn Phòng Đại Biểu CP/QGVNLT đã được thành lập tại năm (5) quốc gia, nơi đang dung chứa đông đảo tỵ nạn. Đồng bào và cán bộ Tân Dân Chủ đã nêu cao ngọn cờ Vàng Chính Nghĩa Quốc Gia, cùng dựa vào danh nghĩa CP/QGVNLT để anh dũng đấu tranh bảo vệ Công Lý, Nhân Quyền và khát vọng muốn sống Hoà Bình, chống cưỡng bách hồi hương. VNCH không những sống dậy mà còn sống rất mạnh dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Đào Minh Quân.
23.7 Ngày 11/03/1991, ông Nguyễn Hữu Chánh, người có công lớn mời được Thủ Tướng Walter H. Lini và đoàn tùy tùng từ đảo quốc Vanuatu sang Hoa Kỳ diện kiến Thủ Tướng Đào Minh Quân để ký kết thoả ước định cư năm mươi ngàn (50,000) đồng bào Việt Nam tại Vanuatu.
23.8 Ngày 25/04/1991, sau khi nhận được báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, dựa vào tài liệu “Vietnam: The Road Ahead”, theo bản cung khai (Testimony) của ông Richard H. Solomon, Phụ Tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đặc trách Á Châu Thái Bình Dương Sự Vụ trước ông Chủ Tịch Ủy Ban Đông Á-Thái Bình Dương và Thượng Nghị Sĩ Murkowshi, về chính sách Hoa kỳ, lộ trình bình thường hoá quan hệ với CSVN, viễn ảnh kinh tế, vấn đề Cam Bốt, Nhân Quyền, POW/MIA, di dân ODP (Orderly Departure Program) và các trại tỵ nạn phải đóng cửa, CP/QGVNLT phải một mặt tiến hành tìm một mảnh đất cho đồng bào định cư, một mặt phải tìm cách giúp đỡ và bảo vệ dân chúng hồi cư nên phải cố gắng thúc đẩy hiện thực chương trình CPA (Comprehensive Plan of Action) do 56 quốc gia họp tại Geneva trong tháng 06/1989 để có ngân khoản yểm trợ người tỵ nạn hồi hương. Mặt khác, phải ráo riết vận động Hoa Kỳ và thế giới nhìn nhận sự hiện hữu và tính chất hợp pháp của CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI thay thế cho cái gọi là “CP Cộng Hòa Chủ Nghĩa Việt Nam đã cam tâm làm tay sai lệ thuộc Trung Quốc.
23.9 Ngày 28/01/1994, cuộc vận động của CP/QGVNLT thành công. Chính vị Tổng Thống do dân bầu thứ 42 Hoa Kỳ, Bill Clinton, đã chính thức gửi công hàm đầu tiên nhìn nhận Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời (CP/QGVNLT) và vai trò của Thủ Tướng Đào Minh Quân. Và sau đó, nhiều Công Hàm tiếp theo. Từ Ngoại Trưởng Collin Powell (nội các của Tổng Thống thứ 43 của Hoa Kỳ, George W Bush) và những vị Dân Cử trong Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ luôn quan hệ với vị Lãnh Đạo CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI là Thủ Tướng Đào Minh Quân với Tước hiệu ngoại giao tôn kính: “Honorable Prime Minister of the Provisional National Government of Vietnam”. Những Công Hàm quan hệ giữa hai (2) vị Nguyên Thủ và Chính Phủ Hoa Kỳ/Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam được ký và chính thức phổ biến kể từ ngày 28 tháng Giêng năm 1994. CSVN đã run sợ nên ráo riết đưa cộng nô vào chính trường Hoa Kỳ và tung tiền mua chuộc truyền thông, báo giới, nhất là những chương trình phát thanh Việt Ngữ với thủ đoạn "dụ-dỗ-dọa-diệt," bưng bít, ếm nhẹm tin tức hoạt động của CP/QGVNLT, mong cản trở sự tham gia, ủng hộ của toàn dân khi Chính Phủ này chuẩn bị ra trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc đòi lại CHỦ QUYỀN CỦA ĐẤT NƯỚC ĐANG DO CSVN CƯỠNG CHIẾM phi pháp.
23.10 Ngày 21/07/1995, gần hai (2) năm sau, Hoa Kỳ thiết lập quan hệ nhân đạo với CSVN và cái gọi là “Chính Phủ/CHXHCNVN”.
23.11 Ngày 30/06/2002, Do lo sợ cuống cuồng, CSVN còn mua chuộc một thành viên trong CP/QGVNLT để thành lập 1 Chính Phủ thứ 2 với danh xưng là “CP/Việt Nam Tự Do” với bảy (7) âm mưu sau đây:
1. Khua chuông trống rình rang, lập lờ đánh lận con đen khiến dân chúng ngộ nhận không biết đâu là Chính Phủ THẬT và đâu là Chính Phủ GIẢ.
2. Gây chia rẽ trong các thành phần chống Cộng tại hải ngoại.
3. Chuẩn bị chia phiếu nếu TỔNG TUYỂN CỬ đựơc tiến hành.
4. Đưa gián điệp Cộng Sản trà trộn trong “CP/Việt Nam Tự Do” để theo dõi sinh hoạt cộng đồng và dụ dỗ những kẻ nhẹ dạ làm tay sai cho CSVN.
5. Tạo những phương thức làm ăn phi pháp để trói tay những người có nhiệt tình chống Cộng, nhưng thiếu kiên nhẫn.
6. Làm nản lòng những người có tâm huyết, sau khi tham gia CP/VNTD mới nhìn ra sự thật là có sự trà trộn, điều khiển, tiếp tay của CSVN và Trung Cộng trong tổ chức này.
7. Gài bẫy để triệt hạ những người có nhiệt huyết muốn trở về nước hoạt động chống Cộng.
Để phá tan âm mưu gián điệp của CSVN, với kế sách “dụng nhân như dụng nhân”, CP/QGVNLT đã tương kế tựu kế thi hành “tối mật phản gián”, dùng ông Nguyễn Hữu Chánh trong kế hoạch Dương Đông Kích Tây, tập trung trên 6,000 người Việt lưu vong tỵ nạn CS ngày 30/06/2002 tưng bừng thành lập một Chính Phủ giả tạo tại miền Nam California có tên là Chính Phủ Việt Nam Tự Do (“CPVNTD”) đưa ông Nguyễn Hữu Chánh thay thế Thủ Tướng ảo “bí mật” tên là Nguyễn Hoàng Dân” theo chiến dịch "Thả Lưới". Nay CP/VNTD (Việt Nam Tự Do) đã giải tán sau khi làm tròn nhiệm vụ, khiến hầu hết cộng nô, kể cả điệp viên Tầu cộng bị dính lưới, lộ nguyên hình vào sổ đen CIA, FBI, và ban An Ninh Nội Chính của CPQGVNLT. Đây là công lớn thứ nhì của ông Nguyễn Hữu Chánh sau khi gia nhập Phong Trào Tân Dân Chủ.
Sau khi vụ án “LINH MIÊU TRÁO CHÚA” của tên điệp Cộng Hồ Chí Minh là người Tầu giả làm người Việt Nam Nguyễn Sinh Cung (Côn) bị chúng ta lật tẩy tại UNESCO (Cơ quan Văn Hóa Khoa Học Liên Hiệp Quốc) ngày 19-05-1989, thì LHQ và các Đồng Minh yêu Dân Chủ, tự do, nhân quyền, bình đẳng, thân thiện, đã ngầm hỗ trợ cho CP/QGVNLT lấy lại chủ quyền và thu hồi toàn bộ lãnh thổ, phất cao ngọn Cờ vàng chính nghĩa, đưa Dân Tộc VN vào vị trí xứng đáng giữa cộng đồng nhân loại, bằng cách đưa CSVN vào làm thành viên Liên Hiệp Quốc để việc thay đổi quyền lực tại Việt Nam sẽ xảy ra trong ôn hòa, hợp tình, hợp lý, không cần bạo lực đổ máu.
Muốn thoát vòng kìm tỏa của Trung Cộng, CSVN không còn con đường nào khác để chọn lựa, ngoại trừ việc thay đổi quyền lực êm thắm KHÔNG LÀM KHỔ DÂN với Chương Trình Thay Đổi Tài Công cho Con Thuyền Quốc Gia Việt Nam do CPQGVNLT đã vạch ra. Bình minh đang ló dạng từ chân trời.
Ông Đào Minh Quân được quý Dân Cử Hoa Kỳ mời đ̣oc thông điệp tại Thư Viện Nixon với tư cách là ThủTướng Chính Phủ Quốc Gia Vịêt Nam ngày 15 tháng 10 năm 2010.































Nguồn:https://www.facebook.com/GoEasylinks/posts/169959896757672

Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2017

PHỤ LỤC & SƯU TẦM- QUỐC HỒN VIỆTNAM- P. 17

PHỤ LỤC & SƯU TẦM- QUỐC HỒN VIỆTNAM- P. 17

BIỂU TƯỢNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
PHỤ LỤC & SƯU TẦM- QUỐC HỒN VIỆTNAM- P. 17
{ Tài liệu nhiều tập- Không hồi kết thúc! }

Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2017


HOÀNG SA & TRƯỜNG SA VNCH- GIẢI PHÁP BIỂN ĐÔNG Á/TBD

HOÀNG SA & TRƯỜNG SA VNCH- GIẢI PHÁP BIỂN ĐÔNG Á/TBD
Rất cảm ơn Tứ Đại Anh Thư Nguyen Thi Hong,Hậu Duệ VNCH đã công bố tài liệu về Hoàng+ Trường Sa VNCH, để tưởng niệm " HẢI CHIẾN HOÀNG SA " , ngày 19/1/1974- 2916 của Trung /Tá Ngụy văn Thà, anh hùng Hải quân/QL/VNCH. Đã nói lên sự kiên cường bất khuất của Quân dân- Cán chánh- QL.VNCH quyết tâm bảo vệ chủ quyền Biển đảo Tự do dân tộc Miền Nam VNCH.
Công cuộc chiến đấu đó, chúng ta đành phải thất bại trước lợi quyền của 2 đế quốc cường quyền Hoa Kỳ & Trung cộng chia đôi quyền lực kinh tế tại Biển Đông Á/TBD với chính sách " Một nước Trung Quốc " của Hoa Kỳ từ 41 năm qua, kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4 /1975, sau trận thảm chiến Hoàng Sa VN/1974.kéo theo sự suy sụp trầm trọng kinh tế của Hoa Kỳ, cho sự phá sản chiến tranh " Dầu hỏa " của Mỹ ờ Á Rập- Trung Đông, do hậu quả Mỹ bỏ rơi và bán đứng đồng minh VNCH & Đài Loan, cho Trung cộng chiếm lãnh toàn phần Biển đông và hất cẵng Mỹ ra khòi khu vực Đông Nam Á/TBD...
Nay, Mỹ muốn có mặt và hiện diện quyền lực của chính phủ mới đắc cử Donald Trump, dể lấy lại Uy tín của niềm tin đồng minh khối Asean và ngôi vị số 1 toàn cầu trong danh dự..TT. Donal Trump Hoa kỳ phải ' ăn ý ' với ông Tổng thư ký Antonio Guterres LHQ, vừa dắc cử; nghiên cứu tài liệu sưu tầm " Hải chiến Hoàng Sa " của Hậu duệ VNCH- Viết như trên- Ngỏ hầu, tìm ra một giải pháp tối ưu để giải quyết rốt ráo trật tự-an ninh- hòa bình Khu vực Biển Đông/TBD và trả lại sự công bằng Tự Do cho Việt Nam!- Cựu chiến binh QL.VNCH- Huỳnh Mai St.8872
GIẢI PHÁP VNCH CHO TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
Nguy cơ xung đột nếu Mỹ cấm Trung Quốc lên đảo ở Biển Đông
Việc Mỹ sử dụng biện pháp quân sự để ngăn Trung Quốc tiếp cận đảo nhân tạo ở Biển Đông có thể làm gia tăng đáng kể nguy cơ nổ ra chiến tranh.
Panda cho rằng dù việc Trung Quốc triển khai vũ khí, đưa tàu chiến, máy bay tới các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông là hành động đi ngược lại luật pháp quốc tế, trái với phán quyết mà Tòa Trọng tài đã đưa ra hồi tháng 7 năm ngoái, Mỹ cũng không hề có bất cứ cơ sở pháp lý thuyết phục nào để ngăn cản các phương tiện quân sự của Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông.
Mặc dù chưa phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS), hải quân Mỹ hiện nay hoạt động trên Biển Đông chủ yếu dựa trên cơ sở pháp lý của văn kiện này, trong đó nhấn mạnh các bên đều có quyền tự do đi lại trên những vùng biển quốc tế.
Nếu hải quân Mỹ thực hiện theo những gì ông Tillerson đề xuất, điều tàu chiến, máy bay ngăn chặn các phương tiện quân sự của Trung Quốc tiếp cận đảo nhân tạo phi pháp trên Biển Đông, Mỹ lại đang vô tình vi phạm các quy định về tự do hàng hải trong UNCLOS, bởi Mỹ không hề có lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải trên Biển Đông. Hải quân các nước chỉ có thể hạn chế hoạt động qua lại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải hoặc vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, chứ không phải trên vùng biển quốc tế...
Phần góp ý:
Lần Đầu Tiên Giải-Pháp VNCH Cho Tranh Chấp Biển Đông Được Trình Bày Tại Thượng Viện Canada
Bắt đầu vào phần trình bầy, Bác-sĩ Nguyễn Thể Bình được yêu-cầu đọc một lá thư mà cựu-Quốc-vụ-khanh VNCH, ông Lê Trọng Quát, viết từ Paris, Pháp-quốc, gởi Thủ-tướng Stephen Harper của Canada và nhờ TNS Ngô Thanh Hải chuyển đi giùm, nói lên ý-chí của người dân miền Nam phải được quyền tự-quyết dân-tộc đúng như lời hứa của Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973.
Vào phần trình bầy chính của buổi hội, Giáo-sư Nguyễn Ngọc Bích đã đọc tóm lược của một bài thuyết-trình sáu trang mà ông đã gởi trước lên Thượng-viện Canada để được dịch sang tiếng Pháp và được in sẵn trong một hồ-sơ đầy đủ cho các tham-dự-viên. Bài thuyết-trình này đi sâu vào trong chi-tiết những vấn-đề như: (1) chủ-quyền lịch-sử của VN trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa, ít nhất cũng từ TK 17; (2) chủ-quyền này đã được quốc-tế công-nhận qua những hiệp-định quốc-tế như Hiệp-định Hòa-bình San Francisco 1951 (có 51 nước tham-dự), Hiệp-định Genève 1954 chia đôi VN với HS-TS được xác-định rõ ràng là thuộc về miền Nam (sau là VNCH), Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973 định nghĩa sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam dựa trên định-nghĩa ở Genève, và Định-ước Quốc-tế do 12 nước ký dưới sự chứng-kiến của Tổng-thư-ký Liên-hiệp-quốc vào ngày 2/3/1973 bảo đảm việc thực-thi Hiệp-định Paris 1973. Như vậy thì chủ-quyền của VNCH trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa đã quá rõ, không ai có thể phủ-nhận được. Dựa vào vai trò trung-lập và đứng đắn của Canada qua sự hiện-diện của Canada trong hai ủy-hội quốc-tế đình chiến 1954 và hòa-bình 1973, ông Bích đề nghị Canada, một trong 12 quốc-gia có ký tên trong Định-ước quốc-tế tháng 3/1973, có thể đứng ra vận-động tái-nhóm hòa-đàm Paris để quyết-định phải trái trong việc Trung-Cộng xâm-chiếm Hoàng-sa bằng vũ-lực vào tháng 1/1974 (vi-phạm sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam) và Hà-nội cưỡng-chiếm miền Nam (vi-phạm toàn-bộ Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973) làm triệt-tiêu quyền dân-tộc tự-quyết của người dân miền Nam. Mà trong một hội-nghị Paris được tái-nhóm thì Bắc-kinh không có quyền phủ-quyết như họ có ở Hội-đồng An-ninh LHQ, chặn đứng được mọi nỗ lực đem vấn-đề tranh chấp Biển Đông ra trước quốc-tế.
Xem tiếp: https://vietbao.com/…/lan-dau-tien-giai-phap-vnch-cho-tranh…
https://vietbao.com/…/lan-dau-tien-giai-phap-vnch-cho-tranh…
Nguyen Thi Hong với Nhat Tam Huynh41 người khác.
QUÂN DÂN VNCH CHUNG LÒNG TRONG VIỆC
BẢO VỆ HOÀNG SA
Một tâm niệm bất di bất dịch cho các chiến sĩ của Việt tộc từ xưa cho tới nay: "người lính yêu nước phải có trách nhiệm bảo vệ sự toàn chủ quyền, bảo vệ ngưòi dân của minh trước sự đe dọa bằng bạo lực trước các thế lực ngoại bang". Từ 8 thế kỷ trước, vua Đại Việt Trần Nhân Tông (1258-1308) từng căn dặn với quốc dân và con cháu:
"Các người phải nhớ lời ta dặn
không để mất một tấc đất của tiền nhân để lại,
hãy đề phòng quân đại hán Trung Hoa!"
Lời nhắn nhủ trên cũng là lời di chúc cho muôn đời con cháu nước Nam ta.
Tiếng súng Hoàng Sa của Nguỵ văn Thà tuy đã im từ 41 năm qua, Hoàng Sa giờ đây đang tạm thời nằm trong tay Trung cộng, nhưng người dân Việt Nam dù ở trong hay ngoài nước, đều cảm nhận một nỗi đau mất mát to lớn khi một phần lãnh thổ bị rơi vào tay ngoại bang. Người chiến sĩ VNCH, đã hết mình trong trọng trách bảo vệ tổ quốc trước dã tâm của người láng giềng nước lớn xấu tính. Thiếu tá Hạm trưởng tàu HQ 10 của Hải quân VNCH đã ý thức được lời dặn của tiền nhân, tiếng hờn của tổ quốc trước hiễm hoạ xâm lăng của quân bắc phương....anh đã hiên ngang chỉ huy con tàu của anh đi vào lịch sử. Tiếng súng từ tàu HQ 10 do anh chỉ huy cùng đồng đội đã anh dũng nã súng vào đầu giặc xâm lược, để nói lên tiếng nói bất khuất của nhân dân miền nam về quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước của mình.
VNCH VỚI QUYẾT TÂM BẢO VỆ CHỦ QUYỀN HOÀNG -TRƯỜNG SA
Trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20 đầy biến động, Việt Nam cũng như nhiều nước khác bị thực dân đế quốc đô hộ, nhưng nhà nước phong kiến Việt Nam đã khéo léo trong việc thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là việc kế thừa văn hóa biển lâu đời của người Việt, mà bằng chứng thể hiện trên Trống Đồng Ngọc Lũ hay các di chỉ ven biển Đông cũng như các di tích khảo cổ ven bờ và các hòn đảo.
Triều đình nhà Nguyễn tiếp nhận sự quản lý đối với Hoàng Sa từ triều Lê với nhiều văn bản cấp quốc gia quản lý Hoàng Sa. Năm 1802 dưới thời vua Gia Long đã thiết lập Đội Hoàng Sa đã kiểm soát và khai khẩn quần đảo.
Những năm đầu thập niên 1920, Pháp thường xuyên cho tàu tuần hành khu vực Hoàng Sa, từng khám xét tàu Nhật chuyên chở phốt phát từ đảo Phú Lâm, như sự ghi nhận của tác giả người Pháp:
“Khi được thẩm vấn, người Nhật Bản cầm đầu doanh nghiệp này nói rằng đại diện của công ti Mitsui Bussan Kaisha của họ đâu dám tự tiện tiến hành việc khai thác vào cuối năm 1920 mà không thông báo trước cho Tư lệnh Hải quân Sài Gòn, và vị tư lệnh này, đứng về quan điểm quân sự, đã không thấy cần thiết ra lệnh cấm đoán... chính quyền Pháp đã thấy không cần thiết phải hủy bỏ sự cho phép hầu như chính thức mà tư lệnh Hải quân đã cung cấp một cách hơi dễ dãi, (vì) người Nhật đã hành xử đúng phép tắc đối với nhà chức trách Pháp và họ không hề phủ nhận quyền của Pháp đối với các đảo Hoàng Sa.”
Tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Pháp.
Từ giữa đến cuối thập niên 1920, nhiều đoàn khảo sát khoa học của chính quyền Đông Dương thực hiện nghiên cứu ở Hoàng Sa (và Trường Sa), bao gồm chuyến đi đến đảo Phú Lâm.
Nghị định ra ngày 15/6/1932 toàn quyền Đông Dương đã đặt Hoàng Sa thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Thừa Thiên, tức là dưới sự quản lý trực tiếp của Triều đình Huế. Binh lính được đưa ra đảo đồn trú. Năm 1938 có chỉ dụ của Đại Nam Hoàng Đế Bảo Đại số 10, ngày 30/3/1938 về Hoàng Sa. Mặc dù đất nước chịu họa xâm lăng của người Pháp, nhưng triều đình nhà Nguyễn vẫn là nhà nước nắm giữ chính quyền, đặc biệt là sự kiểm soát chặt chẽ địa lý hành chính khu vực miền Trung nơi có kinh đô Huế.
Tháng 6 năm 1938, Pháp cho xây trên đảo Phú Lâm “một đài khí tượng phòng mưa bão và một hoả đăng thường trực nhằm bảo đảm an toàn hàng hải”.
Trong những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Đông Dương tiếp tục quản lý đảo Phú Lâm nói riêng và Hoàng Sa-Trường Sa nói chung.
Cuối năm 1946 sang đầu năm 1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên Hoàng Sa-Trường Sa, dưới danh nghĩa giải giới quân Nhật. Khi quân Tưởng đến đảo Phú Lâm, Pháp phản đối. Chính quyền Tưởng bác bỏ đề nghị để quốc tế giải quyết của Pháp. Đầu năm 1950, quân Tưởng rút khỏi đảo Phú Lâm.
Tháng 10 năm 1950, sau khi ký kết Hiệp ước Elysée, Pháp chính thức trao quyền kiểm soát Hoàng Sa-Trường Sa cho QGVN
Sau khi hiệp định Genève được ký kết vào tháng 7/1954. Sau thời gian ổn định quốc gia VNCH, phía nam vĩ tuyến 17, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tái xác nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ VNCH bằng một văn bản do ngoại trưởng Vũ văn Mẫu ký ngày 8/6/1956, để đáp lại văn thư do Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố ngày 29/5/1956, qua đó quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 20/2/1957 Chính phủ VNCH cũng tái xác nhận chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hai quần đảo nầy cũng được đặt dưới quyền kiễm soát của quân đội VNCH.
Để củng cố vấn đề hải phận VNCH đã cụ thể hóa bằng Sắc lệnh số 81-NG của Thủ tướng chính phủ VNCH ngày 27/5/1965 ấn định hai khu vực: Một khu vực gọi là Khu vực phòng vệ trong giới hạn 03 Hải lý kể từ bờ. Một khu vực gọi là Khu vực kế cận kể từ ranh giới ngoài hải phận đến giới hạn 12 hải lý kể từ bờ. Trong khu vực kế cận, văn kiện ấn định cho quốc gia những thẩm quyền tương đương với quyền mà thỏa ước Geneve quy định cho một quốc gia ven biển, đối với vùng kế cận hải phận của mình.
Năm 1969, VNCH đã thành lập một Ủy ban Liên bộ soạn thảo dự luật quy định hải phận quốc gia.
Vấn đề thềm lục địa cũng nóng lên cùng với những hoạt động con thoi: Một bản tuyên cáo của Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia ngày 7/9/1967 xác định phần lòng đất và đáy biển thềm lục địa là một phần lãnh thổ quốc gia, và thuộc thẩm quyền của Chính phủ VNCH.
Năm 1968, VNCH thành lập một Ủy ban nghiên cứu thềm lục địa, sau đó giao công việc lại cho Ủy ban Quốc gia dầu hỏa 2/6/1971.
Ngày 13/7/1961 dưới thời Đệ nhất cộng hòa, Tổng thống VNCH đã ban hành sắc lệnh 174NV đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam thay vì tỉnh Thừa Thiên và thành lập lại quần đảo này thành xã Định Hải, quận Hòa Vang.
Dưới thời Đệ nhị cộng hòa, Nghị định số 709-BNV/HC ngày 21/10/1969 của Thủ tướng chính phủ VNCH đã sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.
Trong việc bảo vệ chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa, chính quyền VNCH đã tích cực làm đúng theo di chúc của tiền nhân và thể hiện đúng trách nhiệm của một chế độ vì dân và vi tổ quốc VN.
Trách nhiệm lớn nhất của một chính quyền là phải bảo quốc an dân. Trong suốt thời gian hiện hữu, chính quyền VNCH trong quá khứ đã làm hết trách nhiệm về việc bảo vệ đất nước và người dân. Với sức mạnh quân đội dồn hầu hết vào không quân và bộ binh, Hải quân VNCH trước 1975, chỉ có một số chiến hạm chiến đỉnh khiêm tốn, nhưng tất cả đã được trưng dụng vào mục tiêu bảo vệ từ sông đến biển của tổ quốc ngày đêm, chứ không “bám bờ” hay thỉnh thoảng khoe đã đi “tuần tiễu chung” với hải quân (kẻ thù) Trung Cộng như CHXHCNVN ngày nay.
Tất cã tàu lạ lẩn các tàu đánh cá Thái Lan mổi khi vi phạm hải phận Việt Nam đều bị HQ.VNCH bắt đưa về Phú Quốc hay Kiên Giang, bất kể Thái Lan đang là một đồng minh quan trọng. Nhìn qua việc bảo vệ chặt chẻ bờ biển miền nam VN của chính quyền VNCH, cho thấy rõ được bản chất của chê độ hết lòng trong việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Ngày nay thì tàu lạ liên tục đâm chìm tàu của ngư dân VN, mà hải quân hay lực lượng Cảnh Sát Biển đều không can thiệp được sự an toàn cho ngư dân trong lúc nguy khốn trước tàu lạ.
Trước các vấn nạn lớn của đất nước, người dân miền nam VN vào thời điễm đó đã tự động tham gia góp phần cùng lo lắng, cùng báo động, cùng góp ý giải quyết chứ không chờ xin phép ai. Một trường hợp điển hình là Tập San Sử Địa thời đó. Đây là một tập san sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn tự đứng ra thực hiện, phát hành mỗi 3 tháng. Số cuối cùng “Đặc Khảo về Trường Sa và Hoàng Sa”, thu thập và trình bày nhiều tài liệu lịch sử chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo này mà hiện nay nhà nước CSVN đang phải dùng tới.
BẢN CHẤT HÈN CỦA NGỤY QUYỀN HÀ NỘI TRONG VẤN ĐỀ HOÀNG-TRƯỜNG SA
Trong thời điễm anh hùng Nguy văn Thà hiên ngang chống giặc ngoài biển đông thì Hải quân miền bắc và nguy quyền Hà Nội đã có thái độ đồng loã với giặc trong việc tranh chấp chủ quyền biển đảo với bọn xâm lược Tàu Cộng, ngụy quyền cộng sản Hà Nội đã hoàn toàn giữ im lặng và bất động khi Trung Cộng tung ra huyền thoại về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa cũng như khi Trung Cộng ngang nhiên dùng vũ lực cướp đoạt quần đảo. Hà Nội đã không nói một lời ủng hộ nào, hay phác họa một cử chỉ nào để yểm trợ Việt Nam Cộng Hòa trong nỗ lực phải đối, chống trả bọn xâm lăng nước ngoài và yêu sách chúng phải hoàn trả Hoàng Sa cho Việt Nam. Thái độ bàng quan tiêu cực ấy dĩ nhiên đã làm cho bọn xâm lược vững lòng hơn để tiếp tục hành động trái phép, cũng như đã triệt tiêu phần lớn tín lực và hiệu quả của những điều khẳng quyết của Việt Nam Cộng Hòa, theo đó quần đảo Hoàng Sa chính thức thuộc chủ quyền của mình và toàn dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền này.
Chất hèn muôn năm của đám đầu lĩnh Ba Đình không những có từ 40 năm về trước nay cũng không kém gì xưa. Khi giàn khoan HD 981 tiến vào vùng biển VN, chắc hẳn nhân dân VN không quên câu nói lịch sử của Hán ngụy Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng BQP nước CHXHCNVN, một người trong đám đầu lĩnh Ba Đình, đã phát biểu vào ngày 31.5.2014 tại "Đối Thoại Shangri-La" ở Singapore:
"..... đặt lợi ích của quốc gia trong lợi ích của khu vực và quốc tế; lựa chọn giải pháp hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao để giữ gìn quan hệ hữu nghị giữa các nước........ không sử dụng máy bay, tàu tên lửa, tàu pháo... mà chỉ dùng tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển và tàu cá của ngư dân, phối hợp với lực lượng chấp pháp để bảo vệ chủ quyền, không chủ động đâm va, không phun vòi rồng vào các tàu của Trung Quốc...."
Mật độ hèn đã lên tới đỉnh khi súng nước của Cảnh sát Biển mà chúng cũng không dám dùng để tắm cho các đại ca xâm lược. Đã vậy chúng còn sợ người yêu nước tổ chức biểu tình tuần hành chống lại hành động ngang ngược của Tàu khựa, nên chúng lên tiếng khuyên những ngưòi yêu nước đừng có manh động với Tàu khựa. Hán Ngụy Phùng Quang Thanh nói : "Xu thế ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc" ?! Tủi hổ cho một đất nước mà hàng ngủ lãnh đạo toàn là một đám hèn cao cấp.
Thật là nhục nhã cho những con người khi họ mang một căn cước mà trong đó có ghi là quốc tịch VN.
Xin mời đọc tiếp bài viết "QUÂN DÂN VNCH CHUNG LÒNG TRONG VIỆC BẢO VỆ HOÀNG SA" tại blog: http://lybichthuy.blogspot.de/
Nguyen Thi Hong (12/1/2015
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=320463125016571&id=100011586582626

HOÀNG SA & TRƯỜNG SA VNCH- GIẢI PHÁP BIỂN ĐÔNG Á/TBD

HOÀNG SA & TRƯỜNG SA VNCH- GIẢI PHÁP BIỂN ĐÔNG Á/TBD
Rất cảm ơn Tứ Đại Anh Thư Nguyen Thi Hong,Hậu Duệ VNCH đã công bố tài liệu về Hoàng+ Trường Sa VNCH, để tưởng niệm " HẢI CHIẾN HOÀNG SA " , ngày 19/1/1974- 2916 của Trung /Tá Ngụy văn Thà, anh hùng Hải quân/QL/VNCH. Đã nói lên sự kiên cường bất khuất của Quân dân- Cán chánh- QL.VNCH quyết tâm bảo vệ chủ quyền Biển đảo Tự do dân tộc Miền Nam VNCH.
Công cuộc chiến đấu đó, chúng ta đành phải thất bại trước lợi quyền của 2 đế quốc cường quyền Hoa Kỳ & Trung cộng chia đôi quyền lực kinh tế tại Biển Đông Á/TBD với chính sách " Một nước Trung Quốc " của Hoa Kỳ từ 41 năm qua, kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4 /1975, sau trận thảm chiến Hoàng Sa VN/1974.kéo theo sự suy sụp trầm trọng kinh tế của Hoa Kỳ, cho sự phá sản chiến tranh " Dầu hỏa " của Mỹ ờ Á Rập- Trung Đông, do hậu quả Mỹ bỏ rơi và bán đứng đồng minh VNCH & Đài Loan, cho Trung cộng chiếm lãnh toàn phần Biển đông và hất cẵng Mỹ ra khòi khu vực Đông Nam Á/TBD...
Nay, Mỹ muốn có mặt và hiện diện quyền lực của chính phủ mới đắc cử Donald Trump, dể lấy lại Uy tín của niềm tin đồng minh khối Asean và ngôi vị số 1 toàn cầu trong danh dự..TT. Donal Trump Hoa kỳ phải ' ăn ý ' với ông Tổng thư ký Antonio Guterres LHQ, vừa dắc cử; nghiên cứu tài liệu sưu tầm " Hải chiến Hoàng Sa " của Hậu duệ VNCH- Viết như trên- Ngỏ hầu, tìm ra một giải pháp tối ưu để giải quyết rốt ráo trật tự-an ninh- hòa bình Khu vực Biển Đông/TBD và trả lại sự công bằng Tự Do cho Việt Nam!- Cựu chiến binh QL.VNCH- Huỳnh Mai St.8872
GIẢI PHÁP VNCH CHO TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
Nguy cơ xung đột nếu Mỹ cấm Trung Quốc lên đảo ở Biển Đông
Việc Mỹ sử dụng biện pháp quân sự để ngăn Trung Quốc tiếp cận đảo nhân tạo ở Biển Đông có thể làm gia tăng đáng kể nguy cơ nổ ra chiến tranh.
Panda cho rằng dù việc Trung Quốc triển khai vũ khí, đưa tàu chiến, máy bay tới các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông là hành động đi ngược lại luật pháp quốc tế, trái với phán quyết mà Tòa Trọng tài đã đưa ra hồi tháng 7 năm ngoái, Mỹ cũng không hề có bất cứ cơ sở pháp lý thuyết phục nào để ngăn cản các phương tiện quân sự của Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông.
Mặc dù chưa phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS), hải quân Mỹ hiện nay hoạt động trên Biển Đông chủ yếu dựa trên cơ sở pháp lý của văn kiện này, trong đó nhấn mạnh các bên đều có quyền tự do đi lại trên những vùng biển quốc tế.
Nếu hải quân Mỹ thực hiện theo những gì ông Tillerson đề xuất, điều tàu chiến, máy bay ngăn chặn các phương tiện quân sự của Trung Quốc tiếp cận đảo nhân tạo phi pháp trên Biển Đông, Mỹ lại đang vô tình vi phạm các quy định về tự do hàng hải trong UNCLOS, bởi Mỹ không hề có lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải trên Biển Đông. Hải quân các nước chỉ có thể hạn chế hoạt động qua lại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải hoặc vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, chứ không phải trên vùng biển quốc tế...
Phần góp ý:
Lần Đầu Tiên Giải-Pháp VNCH Cho Tranh Chấp Biển Đông Được Trình Bày Tại Thượng Viện Canada
Bắt đầu vào phần trình bầy, Bác-sĩ Nguyễn Thể Bình được yêu-cầu đọc một lá thư mà cựu-Quốc-vụ-khanh VNCH, ông Lê Trọng Quát, viết từ Paris, Pháp-quốc, gởi Thủ-tướng Stephen Harper của Canada và nhờ TNS Ngô Thanh Hải chuyển đi giùm, nói lên ý-chí của người dân miền Nam phải được quyền tự-quyết dân-tộc đúng như lời hứa của Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973.
Vào phần trình bầy chính của buổi hội, Giáo-sư Nguyễn Ngọc Bích đã đọc tóm lược của một bài thuyết-trình sáu trang mà ông đã gởi trước lên Thượng-viện Canada để được dịch sang tiếng Pháp và được in sẵn trong một hồ-sơ đầy đủ cho các tham-dự-viên. Bài thuyết-trình này đi sâu vào trong chi-tiết những vấn-đề như: (1) chủ-quyền lịch-sử của VN trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa, ít nhất cũng từ TK 17; (2) chủ-quyền này đã được quốc-tế công-nhận qua những hiệp-định quốc-tế như Hiệp-định Hòa-bình San Francisco 1951 (có 51 nước tham-dự), Hiệp-định Genève 1954 chia đôi VN với HS-TS được xác-định rõ ràng là thuộc về miền Nam (sau là VNCH), Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973 định nghĩa sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam dựa trên định-nghĩa ở Genève, và Định-ước Quốc-tế do 12 nước ký dưới sự chứng-kiến của Tổng-thư-ký Liên-hiệp-quốc vào ngày 2/3/1973 bảo đảm việc thực-thi Hiệp-định Paris 1973. Như vậy thì chủ-quyền của VNCH trên hai quần-đảo Hoàng-sa và Trường-sa đã quá rõ, không ai có thể phủ-nhận được. Dựa vào vai trò trung-lập và đứng đắn của Canada qua sự hiện-diện của Canada trong hai ủy-hội quốc-tế đình chiến 1954 và hòa-bình 1973, ông Bích đề nghị Canada, một trong 12 quốc-gia có ký tên trong Định-ước quốc-tế tháng 3/1973, có thể đứng ra vận-động tái-nhóm hòa-đàm Paris để quyết-định phải trái trong việc Trung-Cộng xâm-chiếm Hoàng-sa bằng vũ-lực vào tháng 1/1974 (vi-phạm sự toàn vẹn lãnh-thổ của miền Nam) và Hà-nội cưỡng-chiếm miền Nam (vi-phạm toàn-bộ Hiệp-định Hòa-bình Paris 1973) làm triệt-tiêu quyền dân-tộc tự-quyết của người dân miền Nam. Mà trong một hội-nghị Paris được tái-nhóm thì Bắc-kinh không có quyền phủ-quyết như họ có ở Hội-đồng An-ninh LHQ, chặn đứng được mọi nỗ lực đem vấn-đề tranh chấp Biển Đông ra trước quốc-tế.
Xem tiếp: https://vietbao.com/…/lan-dau-tien-giai-phap-vnch-cho-tranh…
https://vietbao.com/…/lan-dau-tien-giai-phap-vnch-cho-tranh…
Nguyen Thi Hong với Nhat Tam Huynh41 người khác.
QUÂN DÂN VNCH CHUNG LÒNG TRONG VIỆC
BẢO VỆ HOÀNG SA
Một tâm niệm bất di bất dịch cho các chiến sĩ của Việt tộc từ xưa cho tới nay: "người lính yêu nước phải có trách nhiệm bảo vệ sự toàn chủ quyền, bảo vệ ngưòi dân của minh trước sự đe dọa bằng bạo lực trước các thế lực ngoại bang". Từ 8 thế kỷ trước, vua Đại Việt Trần Nhân Tông (1258-1308) từng căn dặn với quốc dân và con cháu:
"Các người phải nhớ lời ta dặn
không để mất một tấc đất của tiền nhân để lại,
hãy đề phòng quân đại hán Trung Hoa!"
Lời nhắn nhủ trên cũng là lời di chúc cho muôn đời con cháu nước Nam ta.
Tiếng súng Hoàng Sa của Nguỵ văn Thà tuy đã im từ 41 năm qua, Hoàng Sa giờ đây đang tạm thời nằm trong tay Trung cộng, nhưng người dân Việt Nam dù ở trong hay ngoài nước, đều cảm nhận một nỗi đau mất mát to lớn khi một phần lãnh thổ bị rơi vào tay ngoại bang. Người chiến sĩ VNCH, đã hết mình trong trọng trách bảo vệ tổ quốc trước dã tâm của người láng giềng nước lớn xấu tính. Thiếu tá Hạm trưởng tàu HQ 10 của Hải quân VNCH đã ý thức được lời dặn của tiền nhân, tiếng hờn của tổ quốc trước hiễm hoạ xâm lăng của quân bắc phương....anh đã hiên ngang chỉ huy con tàu của anh đi vào lịch sử. Tiếng súng từ tàu HQ 10 do anh chỉ huy cùng đồng đội đã anh dũng nã súng vào đầu giặc xâm lược, để nói lên tiếng nói bất khuất của nhân dân miền nam về quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước của mình.
VNCH VỚI QUYẾT TÂM BẢO VỆ CHỦ QUYỀN HOÀNG -TRƯỜNG SA
Trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20 đầy biến động, Việt Nam cũng như nhiều nước khác bị thực dân đế quốc đô hộ, nhưng nhà nước phong kiến Việt Nam đã khéo léo trong việc thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là việc kế thừa văn hóa biển lâu đời của người Việt, mà bằng chứng thể hiện trên Trống Đồng Ngọc Lũ hay các di chỉ ven biển Đông cũng như các di tích khảo cổ ven bờ và các hòn đảo.
Triều đình nhà Nguyễn tiếp nhận sự quản lý đối với Hoàng Sa từ triều Lê với nhiều văn bản cấp quốc gia quản lý Hoàng Sa. Năm 1802 dưới thời vua Gia Long đã thiết lập Đội Hoàng Sa đã kiểm soát và khai khẩn quần đảo.
Những năm đầu thập niên 1920, Pháp thường xuyên cho tàu tuần hành khu vực Hoàng Sa, từng khám xét tàu Nhật chuyên chở phốt phát từ đảo Phú Lâm, như sự ghi nhận của tác giả người Pháp:
“Khi được thẩm vấn, người Nhật Bản cầm đầu doanh nghiệp này nói rằng đại diện của công ti Mitsui Bussan Kaisha của họ đâu dám tự tiện tiến hành việc khai thác vào cuối năm 1920 mà không thông báo trước cho Tư lệnh Hải quân Sài Gòn, và vị tư lệnh này, đứng về quan điểm quân sự, đã không thấy cần thiết ra lệnh cấm đoán... chính quyền Pháp đã thấy không cần thiết phải hủy bỏ sự cho phép hầu như chính thức mà tư lệnh Hải quân đã cung cấp một cách hơi dễ dãi, (vì) người Nhật đã hành xử đúng phép tắc đối với nhà chức trách Pháp và họ không hề phủ nhận quyền của Pháp đối với các đảo Hoàng Sa.”
Tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Pháp.
Từ giữa đến cuối thập niên 1920, nhiều đoàn khảo sát khoa học của chính quyền Đông Dương thực hiện nghiên cứu ở Hoàng Sa (và Trường Sa), bao gồm chuyến đi đến đảo Phú Lâm.
Nghị định ra ngày 15/6/1932 toàn quyền Đông Dương đã đặt Hoàng Sa thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Thừa Thiên, tức là dưới sự quản lý trực tiếp của Triều đình Huế. Binh lính được đưa ra đảo đồn trú. Năm 1938 có chỉ dụ của Đại Nam Hoàng Đế Bảo Đại số 10, ngày 30/3/1938 về Hoàng Sa. Mặc dù đất nước chịu họa xâm lăng của người Pháp, nhưng triều đình nhà Nguyễn vẫn là nhà nước nắm giữ chính quyền, đặc biệt là sự kiểm soát chặt chẽ địa lý hành chính khu vực miền Trung nơi có kinh đô Huế.
Tháng 6 năm 1938, Pháp cho xây trên đảo Phú Lâm “một đài khí tượng phòng mưa bão và một hoả đăng thường trực nhằm bảo đảm an toàn hàng hải”.
Trong những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Đông Dương tiếp tục quản lý đảo Phú Lâm nói riêng và Hoàng Sa-Trường Sa nói chung.
Cuối năm 1946 sang đầu năm 1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên Hoàng Sa-Trường Sa, dưới danh nghĩa giải giới quân Nhật. Khi quân Tưởng đến đảo Phú Lâm, Pháp phản đối. Chính quyền Tưởng bác bỏ đề nghị để quốc tế giải quyết của Pháp. Đầu năm 1950, quân Tưởng rút khỏi đảo Phú Lâm.
Tháng 10 năm 1950, sau khi ký kết Hiệp ước Elysée, Pháp chính thức trao quyền kiểm soát Hoàng Sa-Trường Sa cho QGVN
Sau khi hiệp định Genève được ký kết vào tháng 7/1954. Sau thời gian ổn định quốc gia VNCH, phía nam vĩ tuyến 17, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tái xác nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ VNCH bằng một văn bản do ngoại trưởng Vũ văn Mẫu ký ngày 8/6/1956, để đáp lại văn thư do Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố ngày 29/5/1956, qua đó quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 20/2/1957 Chính phủ VNCH cũng tái xác nhận chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hai quần đảo nầy cũng được đặt dưới quyền kiễm soát của quân đội VNCH.
Để củng cố vấn đề hải phận VNCH đã cụ thể hóa bằng Sắc lệnh số 81-NG của Thủ tướng chính phủ VNCH ngày 27/5/1965 ấn định hai khu vực: Một khu vực gọi là Khu vực phòng vệ trong giới hạn 03 Hải lý kể từ bờ. Một khu vực gọi là Khu vực kế cận kể từ ranh giới ngoài hải phận đến giới hạn 12 hải lý kể từ bờ. Trong khu vực kế cận, văn kiện ấn định cho quốc gia những thẩm quyền tương đương với quyền mà thỏa ước Geneve quy định cho một quốc gia ven biển, đối với vùng kế cận hải phận của mình.
Năm 1969, VNCH đã thành lập một Ủy ban Liên bộ soạn thảo dự luật quy định hải phận quốc gia.
Vấn đề thềm lục địa cũng nóng lên cùng với những hoạt động con thoi: Một bản tuyên cáo của Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia ngày 7/9/1967 xác định phần lòng đất và đáy biển thềm lục địa là một phần lãnh thổ quốc gia, và thuộc thẩm quyền của Chính phủ VNCH.
Năm 1968, VNCH thành lập một Ủy ban nghiên cứu thềm lục địa, sau đó giao công việc lại cho Ủy ban Quốc gia dầu hỏa 2/6/1971.
Ngày 13/7/1961 dưới thời Đệ nhất cộng hòa, Tổng thống VNCH đã ban hành sắc lệnh 174NV đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam thay vì tỉnh Thừa Thiên và thành lập lại quần đảo này thành xã Định Hải, quận Hòa Vang.
Dưới thời Đệ nhị cộng hòa, Nghị định số 709-BNV/HC ngày 21/10/1969 của Thủ tướng chính phủ VNCH đã sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.
Trong việc bảo vệ chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa, chính quyền VNCH đã tích cực làm đúng theo di chúc của tiền nhân và thể hiện đúng trách nhiệm của một chế độ vì dân và vi tổ quốc VN.
Trách nhiệm lớn nhất của một chính quyền là phải bảo quốc an dân. Trong suốt thời gian hiện hữu, chính quyền VNCH trong quá khứ đã làm hết trách nhiệm về việc bảo vệ đất nước và người dân. Với sức mạnh quân đội dồn hầu hết vào không quân và bộ binh, Hải quân VNCH trước 1975, chỉ có một số chiến hạm chiến đỉnh khiêm tốn, nhưng tất cả đã được trưng dụng vào mục tiêu bảo vệ từ sông đến biển của tổ quốc ngày đêm, chứ không “bám bờ” hay thỉnh thoảng khoe đã đi “tuần tiễu chung” với hải quân (kẻ thù) Trung Cộng như CHXHCNVN ngày nay.
Tất cã tàu lạ lẩn các tàu đánh cá Thái Lan mổi khi vi phạm hải phận Việt Nam đều bị HQ.VNCH bắt đưa về Phú Quốc hay Kiên Giang, bất kể Thái Lan đang là một đồng minh quan trọng. Nhìn qua việc bảo vệ chặt chẻ bờ biển miền nam VN của chính quyền VNCH, cho thấy rõ được bản chất của chê độ hết lòng trong việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Ngày nay thì tàu lạ liên tục đâm chìm tàu của ngư dân VN, mà hải quân hay lực lượng Cảnh Sát Biển đều không can thiệp được sự an toàn cho ngư dân trong lúc nguy khốn trước tàu lạ.
Trước các vấn nạn lớn của đất nước, người dân miền nam VN vào thời điễm đó đã tự động tham gia góp phần cùng lo lắng, cùng báo động, cùng góp ý giải quyết chứ không chờ xin phép ai. Một trường hợp điển hình là Tập San Sử Địa thời đó. Đây là một tập san sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn tự đứng ra thực hiện, phát hành mỗi 3 tháng. Số cuối cùng “Đặc Khảo về Trường Sa và Hoàng Sa”, thu thập và trình bày nhiều tài liệu lịch sử chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo này mà hiện nay nhà nước CSVN đang phải dùng tới.
BẢN CHẤT HÈN CỦA NGỤY QUYỀN HÀ NỘI TRONG VẤN ĐỀ HOÀNG-TRƯỜNG SA
Trong thời điễm anh hùng Nguy văn Thà hiên ngang chống giặc ngoài biển đông thì Hải quân miền bắc và nguy quyền Hà Nội đã có thái độ đồng loã với giặc trong việc tranh chấp chủ quyền biển đảo với bọn xâm lược Tàu Cộng, ngụy quyền cộng sản Hà Nội đã hoàn toàn giữ im lặng và bất động khi Trung Cộng tung ra huyền thoại về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa cũng như khi Trung Cộng ngang nhiên dùng vũ lực cướp đoạt quần đảo. Hà Nội đã không nói một lời ủng hộ nào, hay phác họa một cử chỉ nào để yểm trợ Việt Nam Cộng Hòa trong nỗ lực phải đối, chống trả bọn xâm lăng nước ngoài và yêu sách chúng phải hoàn trả Hoàng Sa cho Việt Nam. Thái độ bàng quan tiêu cực ấy dĩ nhiên đã làm cho bọn xâm lược vững lòng hơn để tiếp tục hành động trái phép, cũng như đã triệt tiêu phần lớn tín lực và hiệu quả của những điều khẳng quyết của Việt Nam Cộng Hòa, theo đó quần đảo Hoàng Sa chính thức thuộc chủ quyền của mình và toàn dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền này.
Chất hèn muôn năm của đám đầu lĩnh Ba Đình không những có từ 40 năm về trước nay cũng không kém gì xưa. Khi giàn khoan HD 981 tiến vào vùng biển VN, chắc hẳn nhân dân VN không quên câu nói lịch sử của Hán ngụy Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng BQP nước CHXHCNVN, một người trong đám đầu lĩnh Ba Đình, đã phát biểu vào ngày 31.5.2014 tại "Đối Thoại Shangri-La" ở Singapore:
"..... đặt lợi ích của quốc gia trong lợi ích của khu vực và quốc tế; lựa chọn giải pháp hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao để giữ gìn quan hệ hữu nghị giữa các nước........ không sử dụng máy bay, tàu tên lửa, tàu pháo... mà chỉ dùng tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển và tàu cá của ngư dân, phối hợp với lực lượng chấp pháp để bảo vệ chủ quyền, không chủ động đâm va, không phun vòi rồng vào các tàu của Trung Quốc...."
Mật độ hèn đã lên tới đỉnh khi súng nước của Cảnh sát Biển mà chúng cũng không dám dùng để tắm cho các đại ca xâm lược. Đã vậy chúng còn sợ người yêu nước tổ chức biểu tình tuần hành chống lại hành động ngang ngược của Tàu khựa, nên chúng lên tiếng khuyên những ngưòi yêu nước đừng có manh động với Tàu khựa. Hán Ngụy Phùng Quang Thanh nói : "Xu thế ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc" ?! Tủi hổ cho một đất nước mà hàng ngủ lãnh đạo toàn là một đám hèn cao cấp.
Thật là nhục nhã cho những con người khi họ mang một căn cước mà trong đó có ghi là quốc tịch VN.
Xin mời đọc tiếp bài viết "QUÂN DÂN VNCH CHUNG LÒNG TRONG VIỆC BẢO VỆ HOÀNG SA" tại blog: http://lybichthuy.blogspot.de/
Nguyen Thi Hong (12/1/2015
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=320463125016571&id=100011586582626