“Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975”
Người dân Sài Gòn đổ ra đường đón quân giải phóng trong ngày 30/4/1975.
Ảnh: Tư liệu TTXVN
Ký ức người dân Sài Gòn trong ngày 30/4 lịch sử
Trong
ký ức người dân Sài Gòn hay những cán bộ từng tham gia “nội ứng”, ngày
30/4/1975 là một ngày đặc biệt với những dấu ấn không bao giờ quên trong
cuộc đời.
Chuẩn bị cho “nội ứng”
Khi nhắc về thời khắc lịch sử trước ngày đất nước thống nhất, những ký ức của bà Trương Mỹ Lệ (bí danh Tư Liêm) - lúc đó được giao quyền Bí thư Thành đoàn, lại ùa về như mới diễn ra. Bà Tư Liêm cho biết: “Vào đầu tháng 3/1975, đồng chí Mai Chí Thọ triệu tập tôi lên và hỏi: Nếu Tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, liệu lực lượng sinh viên học sinh trong nội thành có khả năng phát động nổi dậy ở những nơi nào?”. Để trả lời câu hỏi này, Thành đoàn phải rà soát lại và giao quyền Bí thư Thành đoàn Trương Mỹ Lệ chịu trách nhiệm nghiên cứu.
Sau khi rà soát, quyền Bí thư Thành đoàn đã báo cáo với ban chỉ đạo tiền phương: Lực lượng thanh niên, sinh viên nội thành có thể công khai và bán công khai phát động khởi nghĩa tại 5 khu vực. “Khu vực 1 gồm: Ngã Bảy, Bàn Cờ, Vườn Chuối (quận 3) do lực lượng sinh viên học sinh các trường Kỹ thuật Cao Thắng, Gia Long và cở sở sỹ quan ngụy do ta thực hiện binh vận thành công đã trở thành cở sở cách mạng của mình. Khu vực 2 gồm: Khánh Hội- Xóm Chiếu thuộc quận 4 và một phần quận Nhì (quận 2) do lực lượng các trường đại học Y, Nha, Dược và Nông súc sản phụ trách. Khu vực 3 gồm Cầu Kiệu - Võ Dung Nghiệp, ngã tư Phú Nhuận (nay là Phan Đình Phùng) do Đoàn Công tác xã hội sinh viên học sinh Sài Gòn phụ trách. Khu vực 4 gồm Cầu Bông - chợ Bà Chiểu (nay là đường Đinh Tiên Hoàng) do các cơ sở của các trường nữ, khối trung học tư thục phụ trách. Khu vực vùng ven Tân Sơn, Tân Phú, Bà Điểm thuộc quận Tân Bình do là nơi quy tụ nhiều đồng bào công giáo nên thanh niên công giáo cùng với các sở, cha xứ... phụ trách”, bà Tư Liêm cho biết.
Khi các khu vực đã ổn định về tổ chức, nhiệm vụ đầu tiên của những người phụ trách và lực lượng nòng cốt được khẩn trương tiến hành là điều tra nắm lại dân cư, khu xóm cũng như các trạm chốt phòng vệ, công an, chỉ điểm của địch; đồng thời vận động quần chúng để khống chế, cảnh cáo các lực lượng này. “Lực lượng nòng cốt ít nhất có 5-7 gia đình và các việc phải làm là trang bị cơ sở vật chất, cả vũ khí mang từ bên ngoài vào (các loại súng ngắn, lựu đạn...). Học sinh, sinh viên trường Cao Thắng còn chế tạo một số vũ khí để tự vệ”, bà Tư Liêm kể. Cùng với đó, các lực lượng này còn chuẩn bị tài liệu, phương tiện để in, chuẩn bị sẵn vải để may cờ Mặt trận giải phóng và làm khẩu hiệu, cùng với loa phóng thanh, máy cát-sét dùng pin và băng thu các nội dung như “Lời kêu gọi của Uỷ ban nhân dân cách mạng Sài Gòn - Gia Định”, “Bảy điều chính sách binh vận của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”. Ngoài ra, lực lượng này cũng phải chuẩn bị cả lương khô (gạo, muối, mắm) bằng hình thức thuê mướn nhà để mở tiệm bán hàng xén, trà khô để thuận tiện mua lương thực mà không bị nghi ngờ.
Những ngày cuối tháng 4/1975, tình hình của địch rất căng thẳng do liên tiếp thất bại trên chiến trường, mất dần các tỉnh, nhất là sau khi mất Phước Long. Tại Sài Gòn, quân địch lồng lộn, hầu như suốt đêm địch tuần tra, khám xét, thậm chí ra lệnh ai ra đường là bắn bỏ. “Đến 9 giờ sáng 30/4, vừa từ khu vực cầu Bông về trụ sở chỉ huy ở Bàn Cờ, tôi nhận được chỉ đạo của đồng chí Phạm Chánh Trực (Năm Nghị) từ người giao liên chạy từ quận 11 truyền đạt: Anh Năm Nghị yêu cầu chị Tư cho khởi nghĩa ngay. Ngay lập tức, tôi thông báo cho anh em cơ sở đồng loạt nổi dậy. Tại khu vực trụ sở chỉ huy, hai lá cờ nhanh chóng được treo lên căn nhà 115 Bàn Cờ và ở hai đầu đường Bàn Cờ băng rôn có nội dung “Hoan hô chính chủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được căng lên”, bà Tư Liêm nhớ lại.
Người dân nô nức ra đường
Bà Trương Mỹ Lệ cho biết: Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, lúc này bộ đội chủ lực chưa vào được khu vực mé Tây Nam, vì vậy lực lượng thanh niên tự vệ võ trang Sài Gòn – Gia Định đứng ra tuyên tuyền, nắm các vị trí mà quân địch bỏ lại. Dùng loa phóng thanh phát đi các thông điệp đã được ghi âm sẵn phát, đọc lời kêu gọi và treo cờ giải phóng khắp nơi.
Để phân biệt, lực lượng cách mạng đeo băng đỏ ở tay có hình hai ngôi sao vàng. Nhiều bà con thấy lực lượng cách mạng rất ngạc nhiên, ai cũng hỏi: “Tụi mày là Việt cộng hả”, bởi người dân đâu có thể hình dung được những người hôm qua là học sinh, thanh niên quen thuộc sinh sống xung quanh lại là chiến sĩ cách mạng.
Đến
trưa 30/4, sau khi địch đầu hàng, lực lượng thanh niên võ trang trở
thành những người nắm chính quyền lâm thời trước khi bàn giao lại cho
lực lượng quân quản. “Như đã chuẩn bị từ trước, ngay sau khi khởi nghĩa
thành công, lực lượng thanh niên võ trang đã tiến hành các công việc
tuyên tuyền, vận động quần chúng ổn định cuộc sống. Thanh niên đứng ra
tổ chức các bàn đăng ký trình diện của quân địch, tổ chức thu gom vũ
khí, quân tư trang do quân địch tháo chạy bỏ lại. Khi đó, hai căn nhà
bên cạnh nhà 115 Bàn Cờ, từng là trụ sở của phòng vệ quân sự của địch
được trưng dụng để chứa vũ khí đã đầy ắp”, bà Tư Liêm cho biết.
Tại nhiều điểm, nhân dân đã mang máy may, vải và cùng hỗ trợ may cờ giải phóng. Nhiều thanh niên, sinh viên và người dân ra đăng ký xin tham gia công tác. Thanh niên, sinh viên đứng ra vận động người dân góp sơn để đi xóa cờ “ba que” và vẽ lên trên cờ mặt trận.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Hảo (tại khu vực Xóm Chiếu - Khánh Hội, quận 4), cho biết: “Trước khi cuộc nổi dậy nổ ra, gần một nửa cơ sở của ta đã bị địch phát hiện, bắt bớ. Tuy chỉ còn một nửa cơ sở nhưng do chuẩn bị kỹ cùng với sự giúp sức của người dân nên nổi dậy diễn ra thành công. Lúc này, ta đã quy tụ được rất nhiều lực lượng từ các Đoàn công tác xã hội, sinh viên Y, Dược, Nha và những người có tình cảm với cách mạng sáp vào giúp lực lượng cách mạng. Họ giúp lập danh sách những người ra đầu hàng, thu gom súng đạn của địch bỏ lại. Ngoài ra, bọn du đãng lợi dụng tình hình hỗn loạn để gây mất trật tự an ninh nhưng người dân đứng ra hỗ trợ nên an ninh khu vực đó đã diễn ra rất trật tự và thuận lợi”.
Là một “cựu dân” Sài Gòn, được chứng kiến những thời khắc lịch sử diễn ra trong ngày 30/4, ông Nguyễn Đức Khôi ( nhà ở quận Tân Bình) chia sẻ: “Sáng hôm đó, tôi xuống trung tâm thành phố, nghe người dân râm rang kháo nhau rằng Cách mạng đã về, Sài Gòn sắp được giải phóng, tự dưng tôi thấy bồi hồi trong lòng. Đến trưa ngày 30/4, khi tôi đang ở quận 5, thấy mọi người cùng ùa ra đường, thanh niên thì cầm cờ Giải phóng, người già thì hô vang “Sài Gòn giải phóng rồi bà còn ơi”. Thật sự lúc đó trong lòng tôi dâng lên một cảm giác khó tả. Tôi hoà vào dòng người, đi hết tuyến phố này qua tuyến phố khác, ra đến quận 1 lúc nào không hay. Khi ấy, dòng người từ các quận lại hoà vào cùng dòng người đang reo hò ở trung tâm quận 1. Đến chiều, đường phố Sài Gòn vẫn còn ngổn ngang quần áo, mũ nón của lính nguỵ vứt lại khi bỏ chạy thoát thân vì sợ quân Cách mạng bắt giữ”, ông nhớ lại.
Nhiều người dân từng sống ở Sài Gòn trước 1975 cũng cho rằng, ngày 30/4 cách đây 40 năm cũng đã để lại cho họ nhiều ấn tượng khi chứng kiến thời khắc lịch sử trọng đại của đất nước. “Chỉ cần một tin loan báo là quân giải phóng đang tiến vào Sài Gòn thì hầu như người dân nào cũng bỏ dở cả việc đang làm mà chộn rộn chờ đợi để đến khi thấy bóng quân giải phóng thì cứ như vỡ oà. Lòng dân lúc đó khao khát lắm”, bà Trần Thị Bích Liên - sinh sống ở khu vực Thị Nghè trước năm 1975, chia sẻ.
Hoàng Tuấn - M.T
Chuẩn bị cho “nội ứng”
Khi nhắc về thời khắc lịch sử trước ngày đất nước thống nhất, những ký ức của bà Trương Mỹ Lệ (bí danh Tư Liêm) - lúc đó được giao quyền Bí thư Thành đoàn, lại ùa về như mới diễn ra. Bà Tư Liêm cho biết: “Vào đầu tháng 3/1975, đồng chí Mai Chí Thọ triệu tập tôi lên và hỏi: Nếu Tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, liệu lực lượng sinh viên học sinh trong nội thành có khả năng phát động nổi dậy ở những nơi nào?”. Để trả lời câu hỏi này, Thành đoàn phải rà soát lại và giao quyền Bí thư Thành đoàn Trương Mỹ Lệ chịu trách nhiệm nghiên cứu.
Người dân Sài Gòn đổ ra đường đón quân giải phóng trong ngày 30/4/1975.
|
Sau khi rà soát, quyền Bí thư Thành đoàn đã báo cáo với ban chỉ đạo tiền phương: Lực lượng thanh niên, sinh viên nội thành có thể công khai và bán công khai phát động khởi nghĩa tại 5 khu vực. “Khu vực 1 gồm: Ngã Bảy, Bàn Cờ, Vườn Chuối (quận 3) do lực lượng sinh viên học sinh các trường Kỹ thuật Cao Thắng, Gia Long và cở sở sỹ quan ngụy do ta thực hiện binh vận thành công đã trở thành cở sở cách mạng của mình. Khu vực 2 gồm: Khánh Hội- Xóm Chiếu thuộc quận 4 và một phần quận Nhì (quận 2) do lực lượng các trường đại học Y, Nha, Dược và Nông súc sản phụ trách. Khu vực 3 gồm Cầu Kiệu - Võ Dung Nghiệp, ngã tư Phú Nhuận (nay là Phan Đình Phùng) do Đoàn Công tác xã hội sinh viên học sinh Sài Gòn phụ trách. Khu vực 4 gồm Cầu Bông - chợ Bà Chiểu (nay là đường Đinh Tiên Hoàng) do các cơ sở của các trường nữ, khối trung học tư thục phụ trách. Khu vực vùng ven Tân Sơn, Tân Phú, Bà Điểm thuộc quận Tân Bình do là nơi quy tụ nhiều đồng bào công giáo nên thanh niên công giáo cùng với các sở, cha xứ... phụ trách”, bà Tư Liêm cho biết.
Khi các khu vực đã ổn định về tổ chức, nhiệm vụ đầu tiên của những người phụ trách và lực lượng nòng cốt được khẩn trương tiến hành là điều tra nắm lại dân cư, khu xóm cũng như các trạm chốt phòng vệ, công an, chỉ điểm của địch; đồng thời vận động quần chúng để khống chế, cảnh cáo các lực lượng này. “Lực lượng nòng cốt ít nhất có 5-7 gia đình và các việc phải làm là trang bị cơ sở vật chất, cả vũ khí mang từ bên ngoài vào (các loại súng ngắn, lựu đạn...). Học sinh, sinh viên trường Cao Thắng còn chế tạo một số vũ khí để tự vệ”, bà Tư Liêm kể. Cùng với đó, các lực lượng này còn chuẩn bị tài liệu, phương tiện để in, chuẩn bị sẵn vải để may cờ Mặt trận giải phóng và làm khẩu hiệu, cùng với loa phóng thanh, máy cát-sét dùng pin và băng thu các nội dung như “Lời kêu gọi của Uỷ ban nhân dân cách mạng Sài Gòn - Gia Định”, “Bảy điều chính sách binh vận của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”. Ngoài ra, lực lượng này cũng phải chuẩn bị cả lương khô (gạo, muối, mắm) bằng hình thức thuê mướn nhà để mở tiệm bán hàng xén, trà khô để thuận tiện mua lương thực mà không bị nghi ngờ.
Ảnh: Tư liệu TTXVN
|
Những ngày cuối tháng 4/1975, tình hình của địch rất căng thẳng do liên tiếp thất bại trên chiến trường, mất dần các tỉnh, nhất là sau khi mất Phước Long. Tại Sài Gòn, quân địch lồng lộn, hầu như suốt đêm địch tuần tra, khám xét, thậm chí ra lệnh ai ra đường là bắn bỏ. “Đến 9 giờ sáng 30/4, vừa từ khu vực cầu Bông về trụ sở chỉ huy ở Bàn Cờ, tôi nhận được chỉ đạo của đồng chí Phạm Chánh Trực (Năm Nghị) từ người giao liên chạy từ quận 11 truyền đạt: Anh Năm Nghị yêu cầu chị Tư cho khởi nghĩa ngay. Ngay lập tức, tôi thông báo cho anh em cơ sở đồng loạt nổi dậy. Tại khu vực trụ sở chỉ huy, hai lá cờ nhanh chóng được treo lên căn nhà 115 Bàn Cờ và ở hai đầu đường Bàn Cờ băng rôn có nội dung “Hoan hô chính chủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được căng lên”, bà Tư Liêm nhớ lại.
Người dân nô nức ra đường
Bà Trương Mỹ Lệ cho biết: Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, lúc này bộ đội chủ lực chưa vào được khu vực mé Tây Nam, vì vậy lực lượng thanh niên tự vệ võ trang Sài Gòn – Gia Định đứng ra tuyên tuyền, nắm các vị trí mà quân địch bỏ lại. Dùng loa phóng thanh phát đi các thông điệp đã được ghi âm sẵn phát, đọc lời kêu gọi và treo cờ giải phóng khắp nơi.
Để phân biệt, lực lượng cách mạng đeo băng đỏ ở tay có hình hai ngôi sao vàng. Nhiều bà con thấy lực lượng cách mạng rất ngạc nhiên, ai cũng hỏi: “Tụi mày là Việt cộng hả”, bởi người dân đâu có thể hình dung được những người hôm qua là học sinh, thanh niên quen thuộc sinh sống xung quanh lại là chiến sĩ cách mạng.
Những
trang sử hào hùng của Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh ghi lại sự kiện
ngày 30/4/1975: Đại quân ta ồ ạt tiến vào thành phố. Quần chúng rầm rộ
đổ ra đường. Thanh niên và đồng bào Sài Gòn – Gia Đình đã dẫn đường, đưa
quân tiến chiếm các mục tiêu quân sự, hành chánh của địch và ngay sau
đó trở thành lực lượng tiếp quản mang băng đỏ vào tay, cầm vũ khí canh
gác các cơ sở trước đây còn là của nguỵ quân, nguỵ quyền. Chỉ trong vòng
một buổi sáng 30/4/1975, dòng thác người xuống đường cướp chính quyền
với khí thế rực lửa cách mạng đã phối hợp nhịp nhàng với các lực lượng
cách mạng đang tiến vào giải phóng hoàn toàn thành phố.
|
Tại nhiều điểm, nhân dân đã mang máy may, vải và cùng hỗ trợ may cờ giải phóng. Nhiều thanh niên, sinh viên và người dân ra đăng ký xin tham gia công tác. Thanh niên, sinh viên đứng ra vận động người dân góp sơn để đi xóa cờ “ba que” và vẽ lên trên cờ mặt trận.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Hảo (tại khu vực Xóm Chiếu - Khánh Hội, quận 4), cho biết: “Trước khi cuộc nổi dậy nổ ra, gần một nửa cơ sở của ta đã bị địch phát hiện, bắt bớ. Tuy chỉ còn một nửa cơ sở nhưng do chuẩn bị kỹ cùng với sự giúp sức của người dân nên nổi dậy diễn ra thành công. Lúc này, ta đã quy tụ được rất nhiều lực lượng từ các Đoàn công tác xã hội, sinh viên Y, Dược, Nha và những người có tình cảm với cách mạng sáp vào giúp lực lượng cách mạng. Họ giúp lập danh sách những người ra đầu hàng, thu gom súng đạn của địch bỏ lại. Ngoài ra, bọn du đãng lợi dụng tình hình hỗn loạn để gây mất trật tự an ninh nhưng người dân đứng ra hỗ trợ nên an ninh khu vực đó đã diễn ra rất trật tự và thuận lợi”.
Là một “cựu dân” Sài Gòn, được chứng kiến những thời khắc lịch sử diễn ra trong ngày 30/4, ông Nguyễn Đức Khôi ( nhà ở quận Tân Bình) chia sẻ: “Sáng hôm đó, tôi xuống trung tâm thành phố, nghe người dân râm rang kháo nhau rằng Cách mạng đã về, Sài Gòn sắp được giải phóng, tự dưng tôi thấy bồi hồi trong lòng. Đến trưa ngày 30/4, khi tôi đang ở quận 5, thấy mọi người cùng ùa ra đường, thanh niên thì cầm cờ Giải phóng, người già thì hô vang “Sài Gòn giải phóng rồi bà còn ơi”. Thật sự lúc đó trong lòng tôi dâng lên một cảm giác khó tả. Tôi hoà vào dòng người, đi hết tuyến phố này qua tuyến phố khác, ra đến quận 1 lúc nào không hay. Khi ấy, dòng người từ các quận lại hoà vào cùng dòng người đang reo hò ở trung tâm quận 1. Đến chiều, đường phố Sài Gòn vẫn còn ngổn ngang quần áo, mũ nón của lính nguỵ vứt lại khi bỏ chạy thoát thân vì sợ quân Cách mạng bắt giữ”, ông nhớ lại.
Nhiều người dân từng sống ở Sài Gòn trước 1975 cũng cho rằng, ngày 30/4 cách đây 40 năm cũng đã để lại cho họ nhiều ấn tượng khi chứng kiến thời khắc lịch sử trọng đại của đất nước. “Chỉ cần một tin loan báo là quân giải phóng đang tiến vào Sài Gòn thì hầu như người dân nào cũng bỏ dở cả việc đang làm mà chộn rộn chờ đợi để đến khi thấy bóng quân giải phóng thì cứ như vỡ oà. Lòng dân lúc đó khao khát lắm”, bà Trần Thị Bích Liên - sinh sống ở khu vực Thị Nghè trước năm 1975, chia sẻ.
Hoàng Tuấn - M.T
Nguồn: http://baotintuc.vn/tu-lieu/ky-uc-nguoi-dan-sai-gon-trong-ngay-304-lich-su-20150428234106474.htm
Về bức ảnh xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập
Có mặt trong “tổ mũi nhọn” của Thông
tấn xã Việt Nam, nhà báo Trần Mai Hưởng (nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn
xã Việt Nam) đã có mặt tại Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975. Bức ảnh “Xe tăng
quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975” do ông chụp vào
thời khắc lịch sử trọng đại ấy đã trở thành tác phẩm tiêu biểu, có giá
trị lịch sử, được nhiều báo trong nước và quốc tế đăng tải.
Sự tình cờ ngẫu nhiên
Dịp
kỷ niệm 39 năm giải phóng miền Nam, nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn xã
Việt Nam Đỗ Phượng trong một lần trò chuyện với chúng tôi đã kể, tháng
3/1975, tổ phóng viên mà ông cử đi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh gồm
phóng viên ảnh Vũ Tạo, Lâm Hồng Long, Hứa Kiểm, Hoàng Thiểm, Ngọc Đản
(sau này là Tổng Biên tập Tạp chí Truyền hình), về sau có Đinh Quang
Thành và phóng viên tin là Trần Mai Hưởng - người mà ông gọi đi cuối
cùng, lái xe Ngô Văn Bình, điện báo viên Lê Thái. Lực lượng dự trữ của
Tổng xã đến tổ ấy là cuối cùng ném vào chiến trường.
Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975.
|
Sau khi giải phóng Đà Nẵng ngày 29/3, tổ công tác quay trở về Huế và nhận được điện mật từ Hà Nội do Phó Tổng Biên tập Đỗ Phượng ký, nội dung là: “Đưa các phóng viên ảnh Vũ Tạo, Lâm Hồng Long, Hứa Kiểm, Đinh Quang Thành cùng phóng viên tin Mai Hưởng đi tiếp vào trong…”. Tổ mũi nhọn đã chính thức được thành lập do phóng viên ảnh Vũ Tạo, phóng viên thông tấn quân sự làm tổ trưởng, lái xe là Ngô Bình, điện báo viên Thái.
Nhưng có một sự tình cờ ngẫu nhiên là, tổ phóng viên ấy đã gặp Sư đoàn 304, đi theo xe tăng của Lữ đoàn tăng thiết giáp 203 và Trung đoàn 66 bộ binh. “Tổ phóng viên mũi nhọn được cử đi từ Huế đã gặp được Nguyên Trưởng phòng thông tấn quân sự Trần Bình, lúc đó là Chính ủy sư đoàn 304 và đi cùng đội hình của Sư đoàn 304. Cũng chính vì đi theo đội quân chủ lực mũi thọc sâu mà nhóm phóng viên này cũng là nhóm phóng viên đầu tiên vào Sài Gòn và có mặt ở Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975”, nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam Đỗ Phượng nói.
Nhắc tới sự tình cờ này, nhà báo Trần Mai Hưởng cũng khẳng định rằng, ngoài việc ông nhất quyết xin đi chiến dịch vào tháng 3/1975 khi còn đang học dở dang trường Đại học Kinh tế Quốc dân và được Phó Tổng Biên tập Đỗ Phượng khi ấy đồng ý, thì có nhiều việc sau đó, nhất là khi chụp bức ảnh “Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975” là một sự tình cờ, ngẫu nhiên và cũng đầy may mắn.
“Khoảng 10/4, tất cả đi trên chiếc xe commăngca đít vuông của Liên Xô do Ngô Bình lái rời Huế, vào Đà Nẵng rồi đi thẳng vào phía Nam. Chỉ có điều chúng tôi không thể hình dung ra rằng, chỉ vài tuần sau đó đã có mặt ở Sài Gòn vào đúng ngày chiến thắng”, nhà báo Trần Mai Hưởng kể.
Bức ảnh nổi tiếng
Trong đội hình thọc sâu của Sư đoàn 304, đêm 29/4/1975, từ khu đồn điền cao su Ông Quế (Long Thành, Đồng Nai), tổ mũi nhọn tiến vào Sài Gòn. Ban đầu, phóng viên Đinh Quang Thành và Hứa Kiểm đi cùng xe với Trung đoàn 66 bộ binh. Các phóng viên Vũ Tạo, Trần Mai Hưởng, điện báo viên Thái đi xe do Ngô Bình lái. Chiếc xe commăngca lọt thỏm giữa những chiếc tăng T54, xe thiết giáp, xe tải quân sự GMC.
Phóng
viên tổ mũi nhọn của TTXVN, phóng viên Báo Quân đội Nhân dân, các chiến
sĩ xe tăng 846 trong buổi gặp mặt ngày 8/3/2015. Trong ảnh: Hàng phía
trước, từ trái sang: Lái xe tăng 846 Trần Bình Yên, chỉ huy xe tăng 846
Nguyễn Quang Hòa (người cầm bức ảnh), pháo thủ số 2 Nguyễn Bá Tứ. Hàng
phía sau, từ trái sang: phóng viên ảnh Đinh Quang Thành, nhà báo Trần
Mai Hưởng, nhà báo Nguyễn Mạnh Hùng (báo Quân đội Nhân dân), phóng viên
ảnh Hứa Kiểm (hàng sau, ngoài cùng bên phải).
|
Rạng sáng ngày 30/4, mũi đột kích tiến thẳng vào trung tâm Sài Gòn, mục tiêu là Dinh Độc Lập. “Từng đoàn xe nối đuôi nhau, xe tăng dẫn đầu, rồi đến xe thiết giáp, xe chở bộ binh. Từ trong thành phố, từng đoàn người bị dồn ép đang bung ra, đi ngược chiều về phía Biên Hòa bằng đủ loại phương tiện”, nhà báo Trần Mai Hưởng kể.
Khoảng 10 giờ sáng 30/4, khi gần đến cầu Thị Nghè, phóng viên Đinh Quang Thành và Hứa Kiểm gặp xe của nhóm phóng viên Vũ Tạo, Trần Mai Hưởng thì lên đi cùng. Cũng chính ở cầu Thị Nghè, phóng viên Nguyễn Mạnh Hùng (báo Quân đội nhân dân) khi đang đi trên một chiếc xe mui trần của Trung đoàn 66 cũng xuống đi nhờ tổ phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam vì lúc ấy ngay giữa cầu Thị Nghè có một xe thiết giáp của địch bị ta bắn cháy, đạn trong xe nổ tung từng đợt trùm lửa lên khắp mặt cầu. Các xe to khó có thể lách qua được.
Đường phố Sài Gòn có nhiều ngả rẽ, sau nhiều lần hỏi đường, xe của tổ phóng viên cũng tới nơi. Khi vào tới Dinh Độc Lập, điều đầu tiên đập vào mắt cả nhóm phóng viên là cánh cửa sắt đã bị hất tung. Các phóng viên nhảy ra khỏi xe. Lúc đó, xe tăng và bộ binh của ta vẫn đang tiếp tục tiến vào Dinh Độc Lập. Một chiếc xe tăng trong đội hình thọc sâu đang tiến qua cổng chính.
Một hình ảnh rất đẹp, mà sau này trong hồi ký “Năm tháng xa xanh”, nhà báo Trần Mai Hưởng đã viết: “Nắng rực rỡ, xe tăng vừa vào ngang cổng, cánh cửa sắt đổ sập vẫn nằm trên mặt đất, lá cờ giải phóng trên tháp pháo tung bay. Cùng với những người lính tăng là các chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn 66 cùng hành tiến hiên ngang bên tháp pháo”.
Đúng lúc đó, phóng viên Trần Mai Hưởng giơ máy lên chụp. Đấy chính là bức ảnh “Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975”, chụp xe tăng 846 (Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2). Sáng sớm 1/5/1975, toàn bộ phim của tổ phóng viên mũi nhọn với những thước phim có giá trị tư liệu lịch sử như xe tăng quân giải phóng chiếm Dinh Độc Lập, nội các Dương Văn Minh, cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập… đã được phóng viên Hứa Kiểm trực tiếp cầm lại để chuyển ra Hà Nội.
Bức ảnh “Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1075” của phóng viên Trần Mai Hưởng trong suốt những năm sau này cũng được nhiều báo lớn chọn làm biểu tượng khi tổ chức các chuyên trang, chuyên mục dịp kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam 30/4. Hiện nay, phim gốc của bức ảnh được lưu giữ tại kho Tư liệu ảnh quốc gia Thông tấn xã Việt Nam.
“Anh Vũ Tạo cũng chụp cảnh này nhưng khi xe tăng đã vào sâu hơn trong Dinh một chút. Phim này cũng được lưu giữ tại kho Tư liệu ảnh quốc gia của Thông tấn xã Việt Nam”, nhà báo Trần Mai Hưởng cho biết.
Tháng 3/2015, nhân dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tác giả của bức ảnh, những phóng viên của tổ mũi nhọn Hứa Kiểm, Đinh Quang Thành, nhà báo Nguyễn Mạnh Hùng (Báo Quân đội nhân dân) - những người có mặt tại Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975 và những chiến sĩ trên chiếc xe tăng 846 - chiếc xe tăng mà phóng viên Trần Mai Hưởng chụp trưa 30/4/1975 đã gặp lại nhau. Lúc này, các chiến sĩ xe tăng, gồm chỉ huy Nguyễn Quang Hòa, lái xe Trần Bình Yên, pháo thủ số 2 Nguyễn Bá Tứ (thiếu pháo thủ số 1 Trần Quý ở Hải Phòng do chưa liên lạc được) mới biết tác giả của bức ảnh.
Lời kể những người trong cuộc
Nguyên Tổng giám đốc TTXVN Đỗ Phượng: “Có
ý kiến nói bức ảnh đó được dựng lại hiện trường là không đúng. Trong
chiến tranh, chưa bao giờ có chuyện Thông tấn xã dựng lại hiện trường để
chụp. Thông tấn xã không bao giờ được phép làm việc đó. Chúng ta có
nhiều phóng viên và thực tế ảnh xe tăng vào Dinh Độc Lập nhiều phóng
viên chụp. Hơn nữa, những chứng nhân lịch sử còn cả. Anh Phạm Xuân Thệ
là người tổ chức cho tổ phóng viên ấy đi cùng Trung đoàn vào Dinh Độc
Lập, anh ấy thuộc lòng chuyện đó”.
Chỉ huy xe tăng 846 Nguyễn Quang Hòa: “Khi
vào Dinh Độc Lập, anh em vẫn được lệnh trong tư thế sẵn sàng chiến đấu
nếu như địch phản ứng lại. Đến 4 giờ chiều 30/4/1975, đội hình tăng được
lệnh rút ra tập kết ở Tổng kho Long Bình. Về đến tổng kho Long Bình,
anh em nhận vị trí, nhà ở và không có lúc nào quay lại Dinh Độc Lập nữa.
Vì vậy, không thể có tái diễn lần nào để mà chụp lại cả”.
Pháo thủ số 2 Nguyễn Bá Tứ: “Lần
vào Sài Gòn nhân kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng miền Nam, khi vào phòng
truyền thống của Dinh Độc Lập, thấy bức ảnh “Xe tăng chiếm Dinh Độc Lập
ngày 30/4”, tôi nhận ngay ra mình là người ngồi trên tháp pháo xe tăng
trong bức ảnh. Tôi đã gọi điện cho anh Nguyễn Quang Hòa, nói rằng: Đúng
ảnh xe tăng của mình anh ạ”.
Nhà báo, Đại tá Nguyễn Mạnh Hùng (Báo Quân đội nhân dân): “Khi
lái xe Ngô Bình cho xe vọt qua cánh cổng vào trong, mọi người lập tức
nhảy xuống. Xe tăng ta và các xe bộ binh của ta tiếp tục tiến vào Dinh
Độc lập, tiến vào đường Thống Nhất. Có một chiếc xe tăng tiến qua cổng
Dinh, đấy là lúc anh Trần Mai Hưởng bấm kiểu ảnh chính xác về xe tăng
846 mà sau này đã trở thành bức ảnh mà tôi cho rằng đấy là bức ảnh tiêu
biểu. Tôi thấy anh Hưởng và các phóng viêc khác của tổ mũi nhọn Thông
tấn xã Việt Nam chụp ảnh, nhưng bản thân tôi lúc ấy thì đang đi tìm
người cắm cờ. Phần khác máy ảnh đã hết phim”.
Trung tướng Phạm Xuân Thệ:
Tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng đi đầu của của Trung đoàn 66
cùng với lực lượng xe tăng lữ đoàn 203 đánh chiếm Dinh Độc Lập. Cùng đi
với chúng tôi có một tổ phóng viên báo chí từ Sư đoàn đưa xuống… Khi
tiến công vào Sài Gòn, bộ binh chúng tôi mỗi tiểu đội trên một chiếc xe
tăng, số còn lại ngồi trên xe thiết giáp, đội hình phía sau ngồi trên
các xe ô tô. Khi xe tăng húc bật cánh cửa cổng Dinh Độc Lập là các xe ào
vào liên tiếp rất nhanh… Sáng 1/5/1975 toàn bộ xe tăng và bộ binh chúng
tôi rút ra tập kết tại Tổng kho Long Bình… Vậy tôi khẳng định ngày 30/4
hoặc 1/5/1975 không có dựng lại cảnh xe tăng và bộ binh để chụp ảnh”.
Phóng viên ảnh Hứa Kiểm: “Đến
trưa ngày 30/4/1975 chúng tôi là một trong những nhóm phóng viên đầu
tiên có mặt tại Dinh Độc Lập. Tuy vậy chúng tôi vẫn không kịp chụp những
tốp xe tăng đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập. Những tốp xe tăng sau vẫn
tiếp tục vào dinh, anh Hưởng chụp được hình ảnh một trong những chiếc xe
tăng đó. Kết quả Trần Mai Hưởng đã có tác phẩm ảnh đẹp: Xe tăng tiến
vào cổng Dinh và lăn qua cánh cổng đã đổ. Tôi chứng nhận đây là tấm ảnh
chụp tại chỗ xảy ra ngày 30/4/1975 tại Dinh Độc Lập, Sài Gòn. Không phải
là ảnh dựng lại hay chụp lại. Vả lại nhiệm vụ của anh Hưởng là viết tin
và tìm cách chuyển phát nhanh về Hà Nội”.
Phóng viên ảnh Ngọc Đản: “Tôi
cũng có mặt tại Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975. Tôi khẳng định, việc
bố trí lại hiện trường là không có, làm sao lúc ấy bố trí được và bố trí
để làm gì? Không phóng viên nào có ý nghĩ ấy trong những giờ phút huy
hoàng của cả dân tộc”.
Hoàng Linh
|
Xuân Phong
Nguồn:http://baotintuc.vn/tu-lieu/ve-buc-anh-xe-tang-tien-vao-dinh-doc-lap-20150428203620677.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét