Ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản Trịnh Công Sơn & Khánh Ly
Chẳng
qua là có một số người vẫn còn mê muội ca tụng TCS xem hắn như một
thiên tài, một hiện tượng của nền âm nhạc VN…mỗi năm cứ đến đầu tháng 4
thì lại làm giổ, tổ chức tưởng niệm, vinh danh… cho tên cs nằm vùng họ Trịnh nầy.
Năm
nay nhằm để tránh những chống đối nếu chỉ có tên TCS đơn độc, những tên
con buôn âm nhạc ma mị kéo thêm tên lão già mất nết P.Duy vào đứng
chung với TCS (thật ra cái tên P.Duy cũng chẳng thơm tho gì).
Họ
ra rã nói là chúng tôi vì nghệ thuật chứ không vì tiền, chi phí tổ chức
rất tốn kém, nếu vé bán không được 2/3 coi như lỗ nặng…Ha!Ha!Ha!!! biết lỗ mà vẫn bỏ ra bao công sức để làm, vì nghệ thuật hay vì muốn tiếp tục ru ngủ cộng đồng NVHN để họ bớt chống đối nhà nước csVN, như là bọn
csVN đã từng dùng TCS (một thành viên trong cái gọi là Tổ chức trí vận
của Thành Ủy Việt cộng Huế) để ru ngủ gây suy sụp tinh thần yêu nước của
thanh niên, sinh viên, học sinh miền nam trước 1975, tạo nên phong
trào chống chiến tranh (một chiều) khắp nơi để gây hổn loạn, bất mãn
trong miền nam, đòi người Mỹ rút quân…tiếp tay cho bọn cs chiếm trọn
miền nam Việt Nam.
Miền
nam Việt Nam không mất trên chiến trường mà mất trên bàn hội nghị Ba
lê, mất ngay tại thủ đô Washington DC của Mỹ, hậu quả của những cuộc
biểu tình phản chiến (một chiều) khắp nơi do bọn cs quốc tế giựt dây. Không
ai chịu hiểu rằng người dân miền nam chúng tôi cũng đã chịu quá nhiều
đau thương từ cuộc chiến tranh triền miên đó, chúng tôi cũng mong ước có
hòa bình trên đất nước mình, nhưng không thể đứng yên để kẻ cướp vào
nhà cướp đi hết mọi thứ, trói tay chủ nhà và gọi đó là giãi pháp hòa
bình, chúng tôi phải tự vệ mà thôi.
Thế
mà bây giờ vẫn còn một số người chưa tỉnh thức, vẫn cho rằng Trịnh Công
Sơn là một “thần thoại”, một “di sãn văn hóa” cần phải bảo tồn (?). Nếu
là những thành phần trẻ sinh sau 1975 hay thành phần ở lại sống dưới
chế độ csVN nhiều năm thì còn có thể châm chế được, tuy nhiên cũng còn
một số người thuộc thành phần trí thức trước 75 mà vẫn còn u mê không
nhận thức được những ngôn từ được dùng trong các bài nhạc của người ns
họ Trịnh nầy chỉ là vay mượn trong các tác phẩm triết học của các triết
gia hiện sinh thời bấy giờ như Jean Paul Sartre, Albert Camus…(xem bài
viết của tác giả Kim Phạm người bạn học của TCS tại trường Jean-Jacques
Rousseau dưới đây).
Mỗi năm vào đầu tháng 4, cùng với trong nước họ dựng cái xác TCS lên để sơn phết lại cho xứng với bản chất “siêu phàm” của một tên cs trá hình, đã từng là cánh tay đắc lực của cs để làm sụp đỗ miền nam VN. Hãy nghe những lời kêu gọi của TCS trong ngày “giải phóng” 30-4-75 dưới đây.
Cũng đừng quên cs Khánh Ly như là “cái bóng” của TCS (đó là do chính KL nói), bà ta đã tiếp tay TCS để phổ biến những ca khúc “phản chiến một chiều”
của TCS như: Ca Khúc Da Vàng, Ca Khúc TCS, Kinh Việt Nam…gần đây bà ta
còn hát trong một buổi tiếp tân tại nam Cali. của tên phó LS csVN Trần như Sơn (xem video).
Lãng Tử 75
Tài liệu âm thanh kèm theo đây là tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh vào trưa ngày 30.4.1975.
Tiếp theo là lời của ông Nguyễn Hữu Thái, cựu lãnh đạo sinh viên miền Nam,
Lời chấp nhận đầu hàng của một sĩ quan Quân đội Nhân dân.
Rồi ông Nguyễn Hữu Thái giới thiệu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trước khi nhạc sĩ phát biểu.
Nguyên văn phát biểu của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em văn nghệ sĩ ở miền nam Việt Nam này. Hôm nay là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta, đó là ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này.
Cũng
như những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do và thống
nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả những kết quả đó.
Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền nam Việt Nam hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam.
Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.
Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước chúng ta.
Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ đến đây với thái độ hoà giải tốt đẹp.
Các bạn không có lí do gì sợ hãi để phải ra đi cả.
Đây là cơ hội đẹp đẽ và duy nhất để đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước từ mấy chục năm nay.
Tôi
xin tất cả các bạn, thân hữu cũng như những người chưa quen với tôi xin
ở lại và chúng ta kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng Lâm thời để góp
tiếng nói xây dựng đất miền Nam Việt Nam này
(Không rõ) Gặp tất cả anh em ở trong Ủy ban Cách mạng Lâm thời.
Hiện
tại chúng tôi đang ở tại đài phát thanh Sài Gòn và tôi mong các bạn
chuẩn bị sãn sàng để đến đây góp tiếng nói, lên tiếng để tất cả mọi
người đều yên tâm.
Và tôi xin tất cả các anh em sinh viên học sinh của miền nam Việt Nam này hãy yên ổn kết hợp lại với nhau, khóm phường đều kết hợp chặt chẽ chuẩn bị để đón chờ Ủy ban Cách mạng Lâm thời đến.
Xin chấm dứt. Và tôi xin hát một bài.
Hiện tại ở trên đài thì không có đàn ghi-ta.
Tôi xin hát lại cái bài “Nối vòng tay lớn”.
Hôm nay thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết.
Trịnh Công Sơn: Phản Chiến Hay Việt Cộng Nằm Vùng
Trước Ngày 30-4-1975?
Mường Giang
Tháng 5-1970 tại Ðại Học Kent State ở tiểu bang Ohio (Hoa Kỳ), đã trở thành trung tâm của một cuộc bạo loạn đẩm máu chưa từng có, giữa đám biểu tình phản chiến chống chiến tranh VN và lực lượng vệ binh quốc gia. Kết quả có nhiều sinh viên trúng đạn chết và bị thương. Thảm kịch trên đã tạo nên một sự chia rẽ trầm trọng trong chính quyền Mỹ và người dân Hoa Kỳ. Hậu quả sau đó khiến Tổng Thống Nixon không còn con đường nào lựa chọn, nên đã ra lệnh triệt thoái quân đội Mỹ ra khỏi VN, bỏ mặc Miền Nam cho Cộng Sản Bắc Việt cưởng chiếm vào trưa ngày 30-4-1975 bằng súng đạn mua chịu của Nga Tàu.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, tại Mạc tư Khoa, Nguyễn Hửu Thọ đã bày tỏ lòng tri ân xâu xa tới “ các phóng viên và báo chí phương tây “, trong số này quan trong nhất vẫn là Hoa Kỳ, vì đã mang lại chiến thắng “ từ trên trời rớt xuống “ cho VC một cách bất ngờ, mà ngay các chóp bu của đảng, cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn không biết đâu mà mò.
Chính
bọn trí thức bất lương này, đã lợi dụng thiên chức “ báo chí “ để bẻ
cong ngòi bút, đổi trắng thay đen, loan tin bừa bãi một chiều, ca ngợi
Cộng Sản xâm lăng bắn giết đồng bào vô tội. Tất cả cũng chỉ với mục đích làm mất uy tín của chính phủ Miền Nam trên diễn đàn quốc tế và xuyên tạc cuộc chiến đấu chính nghĩa của QLVNCH.
Nhờ
vậy, Việt Cộng dù đã bại trận khắp chiến trường Miền Nam, từ Mậu Thân
1968 tới trận chiến long trời lở đất tại Quảng Trị, An Lộc, Kon Tum năm
1972 .. nhưng cuối cùng lại “ đại thắng mùa xuân “ ngay trên bàn giấy thủ đô Hoa Thịnh Ðốn,
làm cho siêu cường số 1 của thế giới, phải cúi mặt nhục nhã từ ấy đến
nay vẫn chưa hết nhục vì bị chính đồng bào mình đâm sau lưng mình một
cách tận tuyệt.
Ðó
là chuyện của nước Mỹ. Tại VN, hiệp định Genève chia đôi đất nước được
cái gọi là Liên Hiệp Quốc, áp đặt vào dân tộc nhược tiểu VN từ tháng
7-1954, trong khi chính người dân cả nước đã hy sinh máu xương suốt chín
năm kháng chiến, để giành lại đất nước mình trong tay thực dân Pháp.
Giữa lúc chính phủ miền Nam dồn hết nhân vật lực để kiến tạo lại quê
hương bị tàn phá sau 100 năm bị giặc Tây đô hộ, hầu mang ấm no hạnh phúc
cho muôn dân, thì trên đất Bắc, không khí chiến tranh gần như nguyên
vẹn. Bức tranh vân cẩu đã được nhà thơ Phùng Quán vào tháng 10-1956 , vẽ
lên khi ông chứng kiến được những sự thật não lòng.
“ Ta đã đi qua những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt
Tôi đã gặp những bà mẹ già quấn giẽ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo giây thép gai tay máu chảy ròng
Bới đồn giặc trồng ngô tỉa lúa
Tôi đã gặp những cô gái trồng bông
Hai mươi ? ba mươi ? Tôi không nhìn ra nữa
Mồ hôi sôi trên lưng, mặt trời như mõ hàn xì lửa
Ðốt đôi vai cháy hồng .. “.
Tôi đã gặp những bà mẹ già quấn giẽ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo giây thép gai tay máu chảy ròng
Bới đồn giặc trồng ngô tỉa lúa
Tôi đã gặp những cô gái trồng bông
Hai mươi ? ba mươi ? Tôi không nhìn ra nữa
Mồ hôi sôi trên lưng, mặt trời như mõ hàn xì lửa
Ðốt đôi vai cháy hồng .. “.
Ðiều này cũng dễ hiểu, vì Hà Nội lúc nào cũng phải trường kỳ chiến đấu trong thân phận của một mũi xung kích, do cọng đảng quốc tế giao phó. Bao nhiêu khuôn vàng thước ngọc của Mao Trạch Ðông ban truyền từ năm 1942 tại Diên An, đều đước các đảng viên cao cấp mang về VN xào nấu lại thành cái lý thuyết chỉ đạo văn nghệ tập thể vô sản chuyên chính. Sau cùng để cho hợp với hoàn cảnh từng giai đoạn chiến tranh, những lập thuyết đề cương văn nghệ mới lại tiếp tục ra đời như thi đua ái quốc và chủ nghĩa anh hùng, qua cái bình phong hội văn nghệ giải phóng miền Nam, giải văn nghệ Nguyễn đình Chiểu..
Ðọc
văn biết người nhưng trong dòng văn học miền Bắc, thì chỉ cần nhìn tựa
sách cũng đủ biết hết nội dung.Tất cả các văn thi sĩ đã thành danh thời
tiền chiến như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn công Hoan,
Thanh Tịnh, Cù huy Cận, Thế Lữ, Xuân Diệu.. cho tới những người mới nổi
như Nguyễn Ngọc, Lê Lựu, Nguyễn Sáng.. kể luôn nhóm cọng sản đang nằm
vùng tại miền Nam như Giang Nam, Ðoàn Giỏi, Nguyễn văn Bổng.(trong bưng)
, Thái Ngọc San, Ðông Trình, Trần Duy Phiên, Trần Hồng Quang, Trường
Sơn, Tần Hoài Dạ Vũ, Huỳnh Ngọc Sơn, Trần Hữu Lục, Tiêu Dao Bảo Cự, Ngụy
Ngữ, Võ Quê. Bửu Chỉ, Ngô Kha..(trong mặt trận văn hóa dân tộc miền
Trung).. đều viết theo đơn đặt hàng, đằng đằng sát khí, cổ võ hờn căm,
phân chia bạn thù , chống Mỹ, chống ngụy, để cứu nước.
Vì
là nền văn học nghệ thuật chuyên chính, nên mọi người viết hay sáng tạo
gần giống nhau, cách mạng đánh đâu thắng đó, còn Mỹ-Ngụy thì thua chạy
bò càng, máy bay bị bắn rớt liên tục và người chết như rạ. Ðảng ta thì
nhân ái vì dân vì nước, trái lại Mỹ Ngụy thì hung ác bao tàn hiếu sát..
Tóm lại người làm văn nghệ mìền Bắc hay bọn “ văn nghệ sỷ nằm vùng miền
Nam “ chỉ như một cái máy hay con vẹt của đảng, không biết đau lòng
trước mọi hoàn cảnh, không có cảm xúc nhưng phải biết đề cao để làm sáng
chói tính đảng, tính giai cấp, tính siêu việt của xã nghĩa. Không có
cái ta hiện hữu ở đây mà chỉ có tập thể, chỉ có niềm vui chung do đảng
quyết định, còn mọi thứ khác phải cất giữ trong đáy lòng, hó hé , kêu
than sẽ bị mút mùa cải tạo hay đi mò tôm kể luôn gia đình cũng bị liên
lụy. Phải đổ hết mọi tội lỗi ‘ gây chiến tranh ‘ cho Mỹ-Ngụy, để đảng có
chính nghĩa dân tộc. Ðó mới chính sự thành công của người ‘ Sáng Tạo ‘
dù viết văn, làm thơ hay kịch nhạc..
Bao
nhiêu năm trời phải bịa đặt, lừa dối, từ trẻ nít cho tới kẻ bạc đầu để
có tem phiếu mà sống. Rồi nhà văn, thi sĩ còn phải biết hèn cúi, nịnh
nọt để yên thân, khỏi bị hạ tầng công tác hay tống vào Nam
làm bia đỡ đạn. Một vài con chim lạc đàn, vô tình hay cố ý bay lệch bầu
trời , sẽ bị trừng trị không thương tiếc, những Nguyễn Kiên Giang ( nằm
vùng), Hoàng minh Chính, Nguyễn Duy, Phạm tiến Duật, kể cả Việt Phương,
thư ký của Phạm văn Ðồng, làm thơ, viết văn lệch hướng đảng đều bị
nghiêm phạt. Dòng thơ phản kháng của Nguyễn chí Thiện hay Bút Tre chẳng
qua cũng chỉ là những con đom đóm , cho một chút ánh sáng le lói, rồi
lại vụt tắt trong bóng đêm trùng trùng :
“..anh đi công tác Pơ Lây
Cu dài giằngđặc, biết ngày nào ra..
Anh đi công tác Buôn Me
Thuột xong một cái lại về với Em..
Chị em du kích tài thay
Bắn tầu bay Mỹ rơi ngay cửa mình.”.
( Bút Tre)
Cu dài giằngđặc, biết ngày nào ra..
Anh đi công tác Buôn Me
Thuột xong một cái lại về với Em..
Chị em du kích tài thay
Bắn tầu bay Mỹ rơi ngay cửa mình.”.
( Bút Tre)
Ở
miền Bắc, thiên đường xã hội chủ nghĩa là thế đó, trong khi tại miền
Nam, dù bị chiến tranh, mọi người vẫn có hoàn cảnh tự do tối thiểu để
sáng tạo theo ý mình, cũng như không hề có dòng văn nghệ một chiều hay
chuyên chính. Bởi vậy mới có trăm hoa đua nở, từ văn chương chống cộng
lúc đầu, sau đó thành chống chiến tranh dù chiến tranh được cọng sản
mang từ miền Bắc vào. Cũng do chiến tranh quá dài và dai dẳng, nên ai
cũng buồn phiền và chán ghét chiến tranh. Rốt cục, chính phủ và người
lính miền Nam
phải gồng mình ôm đồm tất cả, trong lúc hậu phương buông thả hững hờ.
Mọi người gần như bế tắc và chỉ còn biết bơi lội quanh quẩn trong kiếp
sống hiện sinh.
Giữa
lúc thời cuộc quay cuồng theo tiếng bom đạn , thì một bọn ký sinh đứng
ngoài lề cuộc sống khổ đau của miền Nam, lợi dụng tự do, nhân danh tôn
giáo , khơi dậy trong lòng phiền muộn của những người trong cuộc bằng
trò hề phản chiến, chống chính phủ, chấp tay cầu nguyện cho bồ câu trắng
hiện hình trên bầu trời miền Nam, trong lúc xe tăng, đại pháo và cả
triệu bộ đội miền Bắc đang hiện diện.
Góp
phần hoàn thành “ cảnh địa ngục trần gian “ của VN ngày nay dưới cùm
gông cộng sản, là công đức của những kẻ “ tu hành có lộng “ và công sức
của đám phản tặc học đường, bàn giấy “ no cơm ấm cật, no lòng rửng mỡ “
trên đường phố, với bom xăng trong chiến dịch “ đốt xe Mỹ” và dòng nhạc tuyên truyền một chiều của Trịnh Công Sơn, mới nghe tưởng là “phản chiến”. Nhưng
thật sự đó là những vết dao trí mạng của kẻ thù , nhắm vào người lính
trận Miền Nam, dù họ ngày đêm bán mạng, bán máu, bán cả tương lai đời
mình, để tạo sự an toàn cho thiên hạ tại hậu phương nhởn nhơ đờn ca nhảy
nhót, đổi vợ thay chồng..như thay áo..
Sau
ngày 30-4-1975, chân tướng của họ Trịnh được phơi bày qua bia miệng. Từ
đó chúng ta mới biết được nhiệm vụ của con tắc kè nửa xanh nửa đỏ, được
đảng cho thay da đổi lốt tuỳ theo giai đoạn, từ vai trò “ phản chiến
công khai giữa đám đông “ trước Tết Mậu Thân (1968) ,tới “ nằm vùng
trong bóng tối “đến khi tàn cuộc chiến..
1 - CHÂN TƯỚNG CỦA HỌ TRỊNH QUA BIA MIỆNG LƯU TRUYỀN:
Trước
năm 1960, trong cảnh thanh bình khắp chốn tại miền Nam, chiến tranh
thật sự tạm vắng bóng trên chiến trường, nhưng trong văn chương chữ
nghĩa miền Nam, nó vẫn hiện hữu bên cạnh các tác phẩm khác viết về tình
yêu, tuổi trẻ, phong tục và triết lý. Sau đó nhóm “ Sáng Tạo” ra
đời, bắt đầu một cuộc phá phách, gây xáo trộn trong thị trường chữ
nghĩa một thời, dù thực tế họ chỉ là những kẻ đi tiếp con đường vạch sẵn
của phong trào thơ mới, của tiểu thuyết hiện sinh, của nhóm đệ tứ cọng
sản quốc tế đả tàn lụn tại VN vì sự thanh trừng nội bộ.
Những
thơ văn sáng tác của Thanh tâm Tuyền, Quách Thoại, Tô thùy Yên, Duy
Thanh, .. mang cái ám ảnh của chiến tranh, dù trong tưởng tượng lúc đó,
để có cái cớ sống hiện sinh, cá nhân, triết lý siêu hình.. như kiểu cách
của các triết gia tây phương Albert Camus, Alain Robbegrillet, Nathalie
Sarraute.. nghĩa là phải sống cho cái bản ngã riêng mình vì hoài nghi
hết mọi người chung quanh.
Nhưng
trong cái không khí sống chết mặc bây, may thay đã thấy xuất hiện Nhã
Ca (đêm nghe tiếng đại bác, người tình ngoài mặt trận, giãi khăn sô cho
Huế.), Ý Uyên (bão khô, tượng đá sườn non, ngựa tía.), Dương nghiễm Mậu (
địa ngục có thật, khi người chết có mặt..) Trang Châu (y sĩ tuyền
tuyến), Văn Quang, Ðổ Tấn, Võ hữu Hanh, Phan nhật Nam,
Vũ ngự Chiêu.. viết về tình yêu, tình đồng đội và thảm trạng chiến
tranh, bằng lương tâm của người cầm bút trong cuộc, những người lính
sống thật với lửa đạn chiến trường.
Cuộc binh biến 1-11-1963, tiếp tới ba năm xáo trộn (1964-1967) khiến xã hội miền Nam bắt đầu quây cuồng trong cơn lốc chính trị, do lòng tham lãnh tụ của bọn “ loạn tướng kiêu tăng” tạo
cơ hội cho cọng sản miền Bắc trỗi dậy và hiện diện trùng trùng khắp ngõ
ngách VNCH. Những trận đánh đẫm máu, những cái chết của đồng đội, sự
thương vong đổ vở của đồng bào trong vùng chiến nạn, cộng với cảnh lố
lăng, tham nhũng, trò lộng hành của đám lãnh tụ sa lông cuồng ngông ở đô
thành.. và cuộc sống sa đọa theo đồng đô la xanh đỏ, của gái điếm, me
Mẽo, Ba Tàu, bọn quan tướng có thế lực.. làm cho tuổi trẻ và giới trí thức trở thành mất lòng tin, hoài nghi tất cả, nên lao đầu vào cuộc sống hiện sinh không bến bờ.
Tường
đổ thì bìm leo, một số cọng sản nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lữ
Phương, Lưu Nghi, Vân Trang, Minh Quân, Nguyễn ngọc Lan, Nhất Hạnh, Thế
Nguyên .. trên các tờ Hành Trình, Ðối Diện, Tin văn, Ðất nước.. liên tục
tố cáo chính quyền tham nhũng, bất công, đòi liên hiệp với cọng sản.
Trong khi đó, Văn và Bách Khoa cũng đăng những bài thơ phản chiến của
lớp người mới nổi sau năm 1970 như Ngụy Ngữ, Thái Ngọc San, Tần Hoài Dạ
Vũ, Ngô Kha.. bôi bẩn danh dự của QLVNCH một cách không nhân nhượng.
Còn
gì bi thảm hơn cho những người lính đang cầm súng chiến đấu, để bảo vệ
quê hương, lại bị những tên phản chiến như Ngụy Ngữ mạt sát “chúng tôi là một thứ quân đội viễn chinh.. và quê hương bát ngát này không cần đến bọn viễn chinh.”.
Văn
chương sắt máu, phản bội kiểu này, nếu sống dưới chế độ cọng sản, liệu y
có còn mạng để sống, chứ đừng mơ tưởng để viết. Ðó là mặt thật của hai
cảnh đời trái ngược. Người miền Nam như vậy, tại sao chúng ta không mất
nước và thua trận ?
Trong cảnh tranh tối tranh sáng của ba năm xáo trộn (1964-1966), miền Nam
gần như vô chính phủ vì thay đổi liên tục, bỏ ngõ phường phố cho sinh
viên học sinh Sài Gòn, Huế.. tha hồ xuống đường biểu tình hoan hô đã
đảo. Trong một cuộc biểu tình quanh khu vực Chợ Bến Thành (Sài Gòn) để
đả đão Nguyễn Khánh và đòi xé bỏ cái gọi là ‘ Hiến Chương Vũng Tàu’, có
một nữ sinh trường Bồ Ðề tên Quách Thị Trang, đã bị lạc đạn chết giữa
đêm tối.
Một
Quán Cà Phê “ Sinh Viên “ mang tên Văn cũng được ra đời trên khu đất
trống mà Pháp dự định xây Bót Catina, giữa các đường Lê Thánh Tôn, Công
Lý, Nguyễn Trung Trực.. do Nguyễn Khánh tặng, để ve vuốt bớt sự căm phẩn
của giới SVHS lúc đó, sau cái chết của Quách Thị Trang. Nơi này cũng là trụ sở của tổng hội Sinh Viên Sài Gòn, lúc đó do Lê Hữu Bôi và Nguyễn Trọng Nho lãnh đạo.
Quán Văn do sinh viên của trường Ðại Học Văn Khoa tạo dựng, nên hằng
đêm được sự ủng hộ đông đảo của các sinh viên trên, tụ tập cả ngàn
người.Trong phong trào hát du ca lúc đó, có cặp “ Trịnh Công Sơn-Khánh Ly” tới hát, với những “Ca Khúc Da Vàng”.
Căn
cứ vào tài liệu của ký giả sân khấu kịch nghệ Nguyễn Việt, viết cho tờ
Tinh Hoa của Nguyễn Thạch Kiên tại Sài Gòn trước tháng 5-1975, thì cặp
Sơn-Ly mới từ Ðà Lạt xuống. Lúc đó Khánh Ly rất bụi đời, đi chân đất,
tay luôn kẹp điếu Salem, hát những bản nhạc của họ Trịnh, cũng là người
đệm đàn cho Khánh Ly hát.
Thời
gian này Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhiều bản nhạc như Ướt Mi, Lời Buồn
Thánh.. nhưng không được các ca sĩ thời đó để ý vì họ chỉ hát các tác
phẩm của những nhạc sĩ nổi tiếng đương thời như Lam Phương, Mạnh Phát,
Châu Kỳ, Lê Dinh, Anh Bằng, Trần Thiện Thanh, Y Vân, Lan Ðài, Phạm Mạnh
Cương, Duy Khánh, Trúc Phương.. mang tính cách đại chúng. Trong khi đó
nhạc của Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn.. vừa
mới nổi lên, lại chỉ hạn chế trong giới tuổi trẻ nên không được đón
nhận nhiều.
Ngay
tại Quán Cà Phê Văn, cặp Ly-Sơn cũng bị dội ngược bởi cặp Thanh Lan-Vũ
Thành An với “ những bài không tên “, rồi Thanh Lan-Từ Công Phụng, Thanh
Lan-Ngô Thụy Miên.. được giới sinh viên ủng hộ đông đảo.
Ðây cũng là điều dễ hiểu, vì trong lúc cặp “Ly-Sơn” hát
toàn những bài phản chiến giữa lòng đất nước đang bị Cộng Sản Bắc Việt
xâm lăng, dầy xéo. Còn nhạc của Sơn toàn nói chuyện trên trời dưới biển,
chỉ có những kẻ ăn không ngồi rồi mới có thời giờ thấu triệt. Trong lúc
đó Thanh Lan là sinh viên của Văn Khoa, lại hát nhạc của Vũ Thành An,
Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên.. rất ủy mị trữ tình, chỉ ca ngợi tình yêu
tuổi trẻ.. được coi như là những người đã khai phóng nét mới lạ cho Văn
suốt thời gian tồn tại. Vì vậy những đêm có mặt họ, được mọi người đông
đảo ủng hộ hơn là thời gian có sự hiện diện của Khánh Ly và Trịnh Công
Sơn.
Một biến cố lớn đã xãy ra trong đêm Giáng Sinh 1968 tại Quán Văn, khi một thanh niên lên máy vi âm tuyên bố “hôm nay văn nghệ ăn mừng ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng MN (MTGPMN)”. Nhưng sv Ngô Vương Toại lên giựt máy nên đã bị tên này bắn trọng thương. Từ đó, họ Trịnh cũng bỏ trốn luôn và sống trong bóng tối mà sau này trên tờ Ðất Việt do hội kiều bào VC xuất bản, Sơn cho biết “mình đã trở về với nhân dân từ năm 1968”.
Chiều
ngày 30-4-1975, tại Ðài Phát Thanh Sài Gòn trên đường Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Trịnh Công Sơn xuất hiện, kêu gọi giới văn nghệ sĩ Sài Gòn theo
VC sau đó hát bài “nối vòng tay lớn” coi như một cột móc kết thúc cuộc
đời của một tên đặc công văn nghệ, nằm vùng tại miền Nam VN, đang sống
trên đời nhưng đã bị xã hội khai trừ nguyền rũa.
Trong
tác phẩm “Theo chân những tiếng hát” nhà văn Hồ Trường An có viết về
Khánh Ly và Trịnh Công Sơn: “ sự xuất hiện của Trịnh Công Sơn cùng với
Khánh Ly mới từ Ðà Lạt xuống… rất mờ nhạt. Trong lúc đó Thanh Thúy hát
‘Ướt Mi’, Thái Thanh thâu dĩa ‘Diễm Xưa’, Hà Thanh trình bày ‘Hạ Trắng’.
Tất cả do Trịnh Công Sơn sáng tác nhưng đã không được giới hâm mộ đón
chào, dù những ca sĩ trình bày các bản nhạc trên đều là những người đang
nổi tiếng và rất được ái mộ. Phải đợi đến Bạch Yến hát ‘Lời Buồn Thánh‘
và Lệ Thu qua bài ‘Xin Mặt Trời Ngủ Yên’.. thì thiên hạ mới bắt đầu dòm
ngó tới họ Trịnh “.
Nhưng đây cũng không phải là lý do chính đưa Trịnh góp mặt với đám đông. Phải đợi tới năm 1967, khi Trịnh đưa hai tập nhạc của mình ‘Ca Khúc Da Vàng và Ca Khúc Trịnh Công Sơn’ cho Tô Thùy Yên nhờ viết tựa và giới thiệu.
Nhưng đây cũng không phải là lý do chính đưa Trịnh góp mặt với đám đông. Phải đợi tới năm 1967, khi Trịnh đưa hai tập nhạc của mình ‘Ca Khúc Da Vàng và Ca Khúc Trịnh Công Sơn’ cho Tô Thùy Yên nhờ viết tựa và giới thiệu.
Cũng theo Hồ Trường An, thì chính
Tô Thùy Yên mới là động lực bắt thang đưa Sơn lên mây khi phóng bút ca
Sơn hết cở , lại còn đem họ Trịnh so sánh với vua David qua những bài ‘
Thánh Vịnh’, ‘Diễm Tình Ca‘ của vua Salomon hay những chàng du ca
(troubadour thời Trung cổ.. Nhờ những lời bốc này mà Trịnh đã bay thật
xa và dính vào mắt của giới trẻ thời đó, phần đông chuộng thời thượng và
ưa làm dáng trí thức dõm.
Nên
không lạ gì có nhiều kẻ biết mình sẽ bị thiên hạ chữi rủa, khinh miệt
khi mở miệng hát những bài do Trịnh sáng tác, trù ẻo cuộc đời, đất nước,
dân tộc, theo kiểu triết lý hiện sinh nôn mữa của đám Tứ Quái nghiện
ngập ‘The Beatles’ bên Mỹ, qua các bài “Xin Mặt Trời Ngủ Yên”, “Vết Lăn
Trầm”. Ðây là chuyện quái gỡ ... nhưng vẫn cứ đeo mặt nạ để hát, vì kẻ
đó sẽ được coi như là vĩ nhân thời thượng. Dịp này, Sơn còn ngông nghê
muốn mời nhà văn Nguyễn Thị Hoàng theo mình đi du ca tứ xứ sau khi đã bị
cả Thanh Thúy lẫn Lệ Thu từ chối hợp tác văn nghệ kiểu Khánh Ly...
Mới đây trên tờ Kiến Thức Ngày Nay số đặc biệt Xuân Ðinh Hợi 2007, Nguyễn Ðắc Xuân
có nhắc tới “một người yêu của Trịnh Công Sơn” tên Nga My đang ở Orange
County CA. Bà nay quen biết với Họ Trịnh từ giữa thập niên 60 khi còn ở
Huế, nên viết hồi ký kể lại chuyện của hai người. Tình nhất là việc
chàng rất ngông với tật bắn tàn thuốc lá lên nóc mùng và bất chấp có
người khác nằm bên cạnh, vẫn cứ đòi nàng cho mình “một đứa con”. ( KTNN
số 593, trang 58-61). Kỳ hơn là việc Trịnh đã yêu bà dì là Nga My, còn
đèo thêm cô cháu là cs Hồng Nhung (đang ở Mỹ) nên đã sáng tác “mùa thu
Hà Nội” để dụ khị nàng.
Chân tướng của Trịnh Công Sơn là vậy đó, thế mà cũng có người đòi tôn vinh gã, coi như là một di sản văn hóa của dân tộc Việt Cộng.
Chân tướng của Trịnh Công Sơn là vậy đó, thế mà cũng có người đòi tôn vinh gã, coi như là một di sản văn hóa của dân tộc Việt Cộng.
2-TRỊNH CÔNG SƠN PHẢN CHIẾN HAY NẰM VÙNG ?
Họ
Trịnh đã chết từ tháng 4-2001 nhưng tới nay vẫn không yên mồ vì cái đám
bợ đít cứ dựng dậy sơn phết một thây ma đã rã mục, chọc tức thiên hạ để
mọi người có dịp “ đào mồ cuốc mã” một tên điếm văn nghệ, đã góp phần
đem thê lương đói rách tới Dân Tộc Việt.
Vì chính nó đã “ăn cơm quốc gia, thờ ma Hồ tặc“ như lời gã thú nhận lúc
trưa 30-4-1975, trên đài phát thanh Sài Gòn “ rừng núi dang tay nối lại
biển xa, ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà. Từ Bắc vô Nam nối liền
nắm tay..” trong lúc cả miền
Nam đang chìm trong biển khổ .. thật đúng với cái cảnh “một ngàn năm đô
hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, ba mươi năm nội chiến từng
ngày…” và cái thảm kịch đó do ai gây ra? chắc chắc Trịnh Công Sơn phải
biết vì y dù gì chăng nữa cũng là một giáo chức, đã có thời gian từng
đứng trên bục gổ dạy dổ học trò mình.
Rồi
thì “gia tài của mẹ” quằn quại trong cảnh đau thương, tương tàn.. đã
được nối tiếp, làm cho người miền Nam thêm nưc nở đau lòng trước thảm
kịch chiến tranh. Ðiều này đã nói lên được tài hoa của nhạc sĩ họ Trịnh
nhưng có điều gã lại quên không giải thích cho đồng bào mình biết: Chính
Việt Cộng là kẻ đã mang chiến tranh và thù hận tới cho đất nước này.
Nên muốn sớm có hòa bình vĩnh cửu, có tự do no ấm thật sự cho dân tộc và
đất nước, mọi người phải đoàn kết một lòng “chống Cộng” để tiêu diệt
chúng, chấm dứt cái cảnh “ba mươi năm nội chiến từng ngày”.
Hai
mươi năm tồn tại của VNCH (1955-1975) cho dù không phải là cảnh thiên
đàng hạ giới như tại các quốc gia tiền tuyến Âu Mỹ nhưng ít nhất cũng
tạo cho người miền Nam một cuộc sống bình thường, có cơm ăn áo mặc nếu
không bị CS từ miền Bắc xua quân xâm lăng. Riêng đối với cái đám lục
bình ăn trên ngồi trước tại Huế, Sài Gòn như Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, Ngô Kha.. kể cả Trịnh Công Sơn,
xét cho cùng đâu có thiếu thốn gì nếu so với dân nghèo lao động và
người lính trận đói rách áo cơm. Như vậy thì tại sao lại phải “hạt bụi
nào hóa kiếp thân tôi?” trong
lúc chỉ biết chui rúc trong thành phố, để nghe “đại bác đêm đêm dội vào
thành phố, người phu quét đường dừng chân đứng nghe” . Thế nhưng ai bắn đại bác và hỏa tiển vào nơi thị tứ đông người, cớ sao họ Trịnh không bao giờ nhắc tới?
Trong
lúc cả triệu nam nữ thanh niên miền Nam, hàng hàng lớp lớp tiến ra sa
trường để ngăn chận giặc thù CS xâm lăng cướp nước, thì Trịnh Công Sơn
làm kẻ hèn nhát (trốn lính), chui rúc sống ký sinh trong các phòng trà
hộp đêm tại Sài Gòn, để tiếp tục thả nọc độc vào đám đông với những giọt
nước mắt cá sấu. Trong
khi đó cả trăm ngàn cảnh tượng đau thương chết chóc của đồng bào vô tội
bị VC tàn sát dã man trong Tết Mậu Thân tại Huế, trên đại lộ kinh hoàng
Quảng Trị, Kon Tum, An Lộc năm 1972, trên đường di tản liên tỉnh lộ 7
từ Phú Bổn về Tuy Hoà và nhiều cảnh chết chóc thương tâm khác tại các
bến tàu khắp miền Nam vào những ngày cuối tháng 4-1975.. đâu có bao giờ
nghe thấy Trịnh Công Sơn nhắc tới một lời ?
Ngược lại lúc nào cũng ra rã gào thét kết tội chiến tranh “một chiều” để đổ tội cho VNCH gây ra chiến tranh với mục đích “chạy tội hèn trốn lính” . Ngày nay có dịp đọc lại những lời nhạc của gã họ Trịnh như “từng
chuyến bay đêm con thơ giật mình, hầm trú tang hoang, ôi da thịt vàng
từng đêm soi sáng lạ mắt quê hương.. hay từng vùng thịt xương có mẹ có
em, người già co ro buồn nghe tiếng nổ, em bé lỏa lồ khóc tuổi thơ đi.”
lại càng thêm thương những đồng đội đã chết oan khiên trong cuộc chiến,
vì sự bất lực của chính quyền , đã đồng lỏa dung túng một tên đặc công
văn nghệ, đâm sau lưng QLVNCH.
Tóm
lại từ sau Tết Mậu Thân 1968, lập trường chính trị của Trịnh Công Sơn
đã lột xác, không còn giữ thái độ phản chiến chung chung như trước, mà
là ra mặt chống đối Miền Nam thật sự như một tên CS Bắc Việt chính hiệu,
qua những ca khúc trong “kinh VN, ta phải thấy mặt trời..”. Từ đấy Trịnh đã là một tên đặc công đỏ, đứng hẳn về phía giặc Hồ. Trong phụ khúc “tình ca của người mất trí” họ
Trịnh đã lên án Mỹ qua các cuộc dội bom miền Bắc “tôi mất trong chiến
tranh này, bao nhiêu bao nhiêu người tình, người tình của tôi lớn lên,
từ ngày miền Bắc dội bom”. Và phản bội trắng trợn nhất là bài “Ta phải
thấy mặt trời” :
“ còn sống xin các anh quyết còn cách mạng
đời ta ta lo xin xếp vũ khí
bàn tay không tiến lên
đã qua bao năm hy sinh thịt xương
nay ta quyết phải sống
toàn nước chiến đấu
ta bền vững một lòng với nhau..”
đời ta ta lo xin xếp vũ khí
bàn tay không tiến lên
đã qua bao năm hy sinh thịt xương
nay ta quyết phải sống
toàn nước chiến đấu
ta bền vững một lòng với nhau..”
Bởi
vậy không thể nói là ngẫu hứng khi Dương Văn Minh vừa ra lệnh cho toàn
thể QLVNCH buông súng đầu hàng CS Bắc Việt, thì họ Trịnh đã có mặt ngay
tại Ðài phát thanh Sài Gòn đễ hát bài “nối vòng tay lớn Huế, Sài Gòn, Hà
Nội…” mà y nói là đã soạn sẳn từ năm năm trước. Chỉ cần một bài hát
này, cũng đủ để cho mọi người vạch trần bộ mặt phản bội đồng bào miền
Nam là nơi mà Trịnh đã được sinh ra và lớn lên với một cuộc sống ấm no
đủ đầy.
Từ
tháng 5-1975 về sau, để minh định chổ đứng của mình trong thiên đàng xã
nghĩa, họ Trịnh đã viết hơn 150 ca khúc để bợ đít chế độ như “Huyền thoại Mẹ, Em nông trường em ra biên giới, Ra chợ ngày thống nhất, Ánh sáng Mạc tư Khoa..” như là những bằng chứng xác nhận vai trò của một tên VC nằm vùng tại Miền Nam VN.
Ðể thêm sáng tỏ vai trò của Trịnh Công Sơn tại miền Nam, trong suốt cuộc chiến từ 1965-1975, hãy nghe Y trả lời cuộc phỏng vấn trên báo Ðảng “Năm 1963 tôi lên Lâm Ðồng trốn lính nên tình cờ gặp được Khánh Ly và chúng tôi đã rủ nhau về Sài Gòn hát trong phong trào Du Ca của sinh viên Văn Khoa. Ðến khi xãy ra vụ nổ súng tại Quán Văn trong đêm Giáng Sinh 1968, thì tôi không hát trước đám đông nữa’.
Ðể thêm sáng tỏ vai trò của Trịnh Công Sơn tại miền Nam, trong suốt cuộc chiến từ 1965-1975, hãy nghe Y trả lời cuộc phỏng vấn trên báo Ðảng “Năm 1963 tôi lên Lâm Ðồng trốn lính nên tình cờ gặp được Khánh Ly và chúng tôi đã rủ nhau về Sài Gòn hát trong phong trào Du Ca của sinh viên Văn Khoa. Ðến khi xãy ra vụ nổ súng tại Quán Văn trong đêm Giáng Sinh 1968, thì tôi không hát trước đám đông nữa’.
Sau
khi Miền Nam bị cưởng chiếm hoàn toàn, họ Trịnh được đảng thưởng công,
cho đi tham quan miền Bắc “thiên đường” mà Trịnh hoài mơ ước một đời. Về
Nam, Trịnh được phong chức Uỷ viên Biên chế, nắm quyền sinh sát giới
văn nghệ sĩ Miền Nam lên hương từ đó.
Ðã
có một ít người tới nay vẫn còn xưng tụng Trịnh Công Sơn, nào là thiên
tài âm nhạc, kẽ yêu nước thương nòi. Họ còn cao hứng mở đại nhạc hội
vinh danh, làm đám giổ và đòi phải lưu giữ sự nghiệp của Trịnh như là
một “di tản văn hóa”.. Ðây là cái quyền của mọi người nhất là ở một nước
tự do như Hoa Kỳ. Tuy nhiên muốn là một chuyện, còn thực hiện được hay
không lại là một chuyện khác. Phương chi Trịnh Công Sơn ngay từ thời
gian trước năm 1975, đã bị đám đông khinh miệt và phỉ nhổ như một tên
hèn nhát trốn quân dịch, sống chui rúc trong bóng tối đẻ mưu sinh cầu
sống.
Ðó
là lúc mà mặt thật của tên bán nước, ăn chén đá bát , chưa bị phanh
phui. Còn ngày nay, qua một cuộc đổi đời, hình tướng của Trịnh đã được
phơi bày từ trong hang cùng ngõ hẹp cho tới trang sách, bia miệng và
chốn thị phi. Hầu hết ai cũng khinh nhờn căm giận và muốn ăn tươi nuốt
sống gã, thì thử hỏi, sao không giúp cho một thây ma được nằm yên vĩnh
viễn trong lòng đất, để xoa dịu lòng người, nhất là lúc này ai cũng căm
thù VC bán nước hại dân làm tay sai cho Trung Cộng .
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 5-2011
Mường Giang
Tháng 5-2011
Mường Giang
TRỊNH CÔNG SƠN, NGƯỜI BẠN, KẺ ĐỐI NGHỊCH
Người chuyển bài : KIM PHẠM
Niên
khóa 1959-60, tôi lên lớp Terminale (lớp Tú Tài 2) ở trường
Jean-Jacques Rousseau, Sài Gòn. Lúc ấy, trường này không mang tên
Chasseloup Laubat nữa, như một ông tác giả nào đó còn gọi.
Lớp
học là một phòng riêng biệt nằm ở góc đường Công Lý và Hồng Thập Tự,
gần dinh Độc Lập. Trong lớp Terminale, ban Philosophie, có một số học
sinh cũ từ dưới lên, có một số ở các trường ngoài vào, hoặc "học nhờ",
như các nữ sinh Marie Curie. Ca sĩ Kim Tước, mà tôi rất mê tiếng hát, là
nữ sinh Marie Curie, cũng "học nhờ" Philo tại Jean-Jacques Rousseau,
nhưng trên tôi một, hai năm, tôi không nhớ rõ, vì chị lớn hơn tôi một,
hai tuổi gì đó, nhưng hồi ấy, đâu có biết nhau, thấy chị, chỉ đứng xa mà
nhìn, kính nhi viễn chi.
Trịnh Công Sơn là học sinh từ ngoài vào Jean-Jacques Rousseau học Philo,
tôi chẳng rõ từ đâu tới mà cũng chẳng bao giờ hỏi. Lần đầu, các học
sinh chọn chỗ ngồi, đâu vào đó rồi, không ai được thay đổi nữa, vì các
thầy cô muốn vậy để dễ nhận diện, như thế cho đến hết năm học. Sơn đeo
kính cận, gọng đồi mồi lớn, mặt mày, râu ria, và dáng dấp gầy gầy giống
tôi, nên các thầy cô, nhất là Monsieur Pezeu, thầy Sử-Địa, một giáo sư
vào tuổi sồn sồn (nổi tiếng dê cụ, nghĩa là lúc giảng bài cứ hay đưa mắt
dòm dòm về phía các cô cười cười), thường lẫn lộn Sơn với tôi.
Nhiều
lần Pezeu gọi lên khảo bài, tên thì gọi đúng của tôi, nhưng ông hất
hàm, đưa mắt nhìn Sơn, hoặc ngược lại, gọi Sơn mà cứ đăm đăm ngó tôi,
khiến hai đứa bối rối, nhìn nhau, tự hỏi không biết đứa nào sẽ phải "hy
sanh", và có khi tôi, có khi Sơn, nếu hôm đó đứa nào thuộc bài, tự
nguyện đứng lên bục trả lời thay cho đứa khác. Rủi là hai đứa đều kém Sử
Địa một cách tồi tệ giống nhau, nên điểm đứa nào cũng dưới trung bình.
Tôi nhớ một lần, lên "hy sanh" cho tôi, bị hỏi một câu về Địa khó quá,
Sơn đứng như trời trồng, nhìn Pezeu cười trừ, vẻ rất ngây thơ vô tội, và
bị ông thầy phết cho con 03 (trên 20), nhưng khổ một nỗi đó là điểm
mang tên... tôi. Biết thế, nhưng chả đứa nào cải chính, vì hai đứa đều
dốt và ghét Sử-Địa ngang nhau. Đó có lẽ là kỷ niệm duy nhất tôi có về
Sơn.
Trong
lớp Philo năm đó, có khoảng 40 tên. Ngoài Trịnh Công Sơn, tôi nhớ còn
Nguyễn Văn Hòa, có Vương Quang Sơn, có Lê Hoàng Ân, có Trương Cam Hiển,
có ba anh Tây con, mà tôi chỉ nhớ hai: Claude Desboeufs (Desboeufs có
nghĩa "của những con bò", đúng ra phải đọc là Đề-Bơ, khi boeuf (bớp) ở
số nhiều, nhưng chúng tôi muốn chọc anh ta gọi là thằng Đề Bớp, anh ta
bực lắm, và Alain Bui (đọc là Bui, chứ không phải Bùi, Tây chính cống,
đẹp trai, dễ thương, chơi thân, vì vậy nhớ đến anh ta tôi bèn lấy tên
Julien Bui trên email cho có vẻ... nặc danh bí hiểm một chút). Những
người bạn học này, tôi không biết tin tức gì từ ngày rời trường, năm
1960, tức đã đúng nửa thế kỷ rồi.
Có ba người tôi biết tin chính xác. Đó là:
1) Hoàng Văn Kim,
rất đẹp trai, trắng trẻo, người Bắc, năm 1963, tôi về Nha Trang dạy
học, thì bất ngờ gặp Kim đang là SVSQ tại Trung tâm Huấn Luyện Không
Quân. Về sau, lúc tôi ra Thủ Đức, về đơn vị ở Ban Mê Thuột, Kim trở
thành phi công lái khu trục A37 và năm nào đó, Kim lái biểu diễn tại
quân trường Thủ Đức nhân dịp Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa một buổi lễ lớn.
Theo
báo chí, máy bay của Kim đâm xuống đất sâu mấy thước. Khi TCS viết bản
nhạc "Cho một người nằm xuống" (Anh nằm xuống sau một lần đã đến
đây...), tôi cứ tưởng anh ta làm để tưởng niệm Kim, một bạn học cũ.
Nhưng nghĩ lại Sơn không chơi thân với Kim hay bất cứ ai trong lớp bèn
thắc mắc không biết đối tượng là ai, cho đến sau này, qua cô ca sĩ "mùa chay nào cũng có nước mắt" mách trên sân khấu mới rõ là cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương, người đã chứa chấp cho Sơn trốn quân dịch và Sơn khóc để trả ơn.
Nhân
đây tôi cũng xin mở ngoặc nói thêm về bài hát trên. Đó là một trong
những bài phản chiến nặng nhất của TCS, cùng với bài "Kỷ vật cho em" của
Phạm Duy, có hậu quả, hoặc mục đích, làm nhụt ý chí chiến đấu của các
chiến sĩ QLVNCH.
Không ai muốn chiến tranh, và phản chiến tự nó không có gì xấu. Nhưng
trường hợp TCS, cái nghịch lý làm khó chịu là ở chỗ, anh ta cũng như các
tay phản chiến quốc tế, mà tôi xin phép được gọi một cách bình dân là "cà chớn" hoặc nặng hơn, xuẩn động, như Bob Dylan, Jane Fonda, John Kerry, Jean-Paul Sartre, Bertrand Russell v.v...
chỉ biết to mồm kết án Miền Nam mà quên, hoặc không dám, động gì đến
lông chân của bọn lãnh đạo Cộng sản miền Bắc, thậm chí còn ca ngợi
chúng - thực ra mới là lũ gây chiến, hiếu chiến,
đã xua hàng trăm ngàn quân, thôn tính Miền Nam, muốn nhuộm đỏ cả nước
Việt Nam (điều chúng thực sự đã làm sau từ khi cưỡng chiếm đất nước ta,
tháng 4, 1975), trong khi quân dân VNCH không đưa quân ra Bắc, mặc dầu
dư sức làm điều ấy, chỉ thi hành nhiệm vụ tự bảo vệ. Kêu gọi chấm dứt
chiến tranh một chiều như thế là tiếp tay cho VC trong mưu đồ, chiến
thuật bắt Miền Nam đầu hàng mà thôi. Nếu thực sự yêu hòa bình chân chính,
tại sao TCS, hay Phạm Duy, không làm bài hát nào thương khóc cho đồng
bào ở Huế bị VC chôn sống vào Tết Mậu Thân, và lên án bọn đao phủ VC? Có không? Rồi, không hiểu sao, Trung tâm băng nhạc Asia, nổi tiếng hay tự cho là chống Cộng, mới đây, trong băng vinh danh người lính VNCH, lại đưa bài hát "cực kỳ" phản chiến này của TCS vào?
Cẩu thả, dốt nát, hay chạy theo nhu cầu thị trường phải thỏa mãn tất cả
khách hàng, thượng vàng hạ cám? Dĩ nhiên, ai thích nhạc TCS thì cứ việc
mở máy thưởng thức một mình ở nhà, không ai thắc mắc, nhưng bắt người khác nghe theo mình, đó là áp chế.
2) Phan Quang Tuệ, con của Thủ tướng Phan Quang Đán, hiện là thẩm phán Di trú tại San Francisco. Tuệ lúc còn ở trường chơi với tôi khá thân, thường nói chuyện qua lại, giọng của Tuệ hình như là Nghệ An, Hà Tĩnh lai Nam. Mấy năm trước, chị Kiều Mỹ Duyên cho tôi số điện thoại làm việc hay cell của Tuệ, tôi gọi mấy lần không được, nên bỏ luôn.
3) Trần Quý Phong,
con nhà giàu, chủ khách sạn Catinat, sau này trở thành dân biểu VNCH.
Từ lâu tôi nghe tin ai nói, và đinh ninh, rằng Phong đã chết trong ngục
tù cải tạo. Nhưng cách đây mấy tháng thôi, tôi đọc trên báo một bài
tường thuật lễ kỷ niệm nào đó ở vùng DC hay Virginia, có nhắc rõ ràng
tên "cựu dân biểu Trần Quý Phong" tham dự. Tôi dụi mắt, đọc lại cho kỹ. Té ra anh ta còn sống, mừng lắm! Không lẽ trước đây có hai ông dân biểu Trần Quý Phong?
Trở
lại Trịnh Công Sơn. Anh ta rất đơn độc, suốt niên học không nói chuyện
với ai, trừ tôi ngồi cạnh, nhưng cũng chỉ thỉnh thoảng thôi, để hỏi bài
vở. Ít nói, không thân thiện, nhưng không làm phiền ai bao giờ. Trái
lại, tôi thấy vẻ ngoài Sơn dễ thương. Xong các giờ học, không thấy anh
ta đâu nữa. Riết rồi chẳng ai còn nhớ sự hiện diện trong lớp của Sơn.
Tôi nghĩ bây giờ những người học lớp Philo năm đó, không chắc có ai còn
nhớ đến Sơn, trừ sau khi đọc bài này của tôi.
Lúc
ấy, tiếng tăm của Sơn chưa nổi. Sơn sinh hoạt tại Jean-Jacques Rousseau
như một bóng mờ. Khi đọc báo nghe biết anh soạn nhạc từ thời đi học,
tôi rất ngạc nhiên, vì ít ra suốt thời gian còn ngồi cạnh nhau, tôi
không hề thấy anh trong lớp viết lén nhạc hoặc ca âm ỉ trong miệng, trái
lại học hành chăm chỉ, đôi khi tay chống cằm lơ đãng nhìn ra phía đường
Công Lý, dập dìu xe cộ.
Niên
học của tôi cũng là năm đầu tiên chính phủ Pháp áp dụng thủ tục mới thi
Bac II: thi hai lần, không có vấn đáp. Tháng 4 thi đợt đầu, hai tháng
sau, đợt hai, tại khuôn viên trường Marie Curie. Điểm số của hai đợt
được cộng lại để lấy trung bình cho đậu hay rớt. Cũng như với Bac I, bài
thi từ Paris gửi đến
qua Tòa đại sứ Pháp Sài Gòn. Tôi được đậu, nhờ bài Triết (số điểm ấn
định cho môn này là 40 thay vì 20 cho các môn khác) mà tôi đầu tư vào
tối đa, vì tôi biết mình kém về các môn khác, chủ trương "được ăn cả ngả
về không", như hiện giờ thỉnh thoảng đánh phé tapis (all in) với bạn
bè, em út. Năm đó, Trịnh Công Sơn, tôi dò đọc, không thấy tên trên bảng
vàng. Và anh biến mất khỏi trường, khỏi trí nhớ tôi.
Chuyện
về Trịnh Công Sơn và bài viết của tôi có thể kết thúc tại đây. Nhưng
thời gian phục vụ tại trường Đại Học CTCT, một đêm nào, tôi đi lang
thang, tắp vào một quán cà phê, Tùng hay Domino (?), bất ngờ gặp lại
Trịnh Công Sơn đang trình diễn nhạc ở đấy. Sơn không nhớ tôi, phải nhắc
trường JJR, Monsieur Pezeu và chuyện "hy sanh" trả bài Histoire-Géo cho
nhau, Sơn mới "à" ra, cười thành tiếng -điều rất hiếm hoi. Sơn còn nhái
giọng nói của Pezeu khi gọi tên hai đứa: Ngu-y-en-Kim-Ky và
Chin-Kông-Xon. Tôi cũng cười. Vì không khí ồn ào và Sơn bận tíu tít, tôi
từ giã ra về, sau đó lòng thấy dửng dưng không buồn, không vui, bởi vì
cả hai không thân nhau.
Rồi ngày 30/4/1975, trong lúc đất nước hấp hối, và quân trường CTCT vừa mới tan hàng, tôi và tất cả quân dân Miền Nam nghe trên radio tiếng hát của Sơn, trong bài "Nối vòng tay lớn".
Hát rồi nói, nói rồi hát tiếp, lặp đi lặp lại, giọng mỗi lúc một to hơn:
"Hôm
nay ngày vinh quang của dân tộc, ngày này chúng đã mong đợi từ lâu, mời
các bạn văn nghệ sĩ hãy về đây cùng ca với chúng tôi Nối Vòng Tay Lớn,
vòng tay của anh em, của tình thương, của bẻ gẫy xích xiềng, của chống
Mỹ, của diệt Ngụy."
Tôi
ngỡ ngàng, đau xót, tức giận, buột miệng chửi thề: "Salaud, thằng khốn
nạn!" Trên đường về nhà, đường Lê Văn Duyệt, thấy những chiếc xe tăng
đầu tiên chở lúc nhúc những "sâu bọ" và những "đàn bò vào thành phố"
(chữ của TCS), tôi nghẹn ngào, nước mắt chảy quanh.
Đọc trên báo, thấy có người "quốc gia phe ta" lên tiếng bênh vực hành động này của Sơn (ví dụ, Sơn bị bắt buộc),
nhưng lập luận của họ quá ấu trĩ, không thuyết phục nổi ai. Những tài
liệu tôi đọc được chứng minh rằng anh ta là VC nằm vùng thứ thiệt từ
lâu. Nhưng đây không phải là chủ đích bài này.
Rồi năm 1989, tôi đang ở Paris. Cô cháu gái tôi từ Việt Nam
trở về. Cháu khoe với tôi, có ông nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đi cùng chuyến
Air France, mang theo nhiều bức tranh, "bị cảnh sát phi trường Orly
chận hỏi, ông ta cãi lại, bằng tiếng Pháp, cũng lưu loát lắm." Tôi nói,
"ông đó học cùng lớp với cậu ở trường Jean-Jacques Rousseau Sài Gòn
trước kia." Cháu reo lên, "hèn gì ổng nói giỏi tiếng Pháp."
Quả
vậy, năm đó, Trịnh Công Sơn đến Paris để triển lãm tranh, hay trình
diễn ca nhạc gì đó, dưới sự bảo trợ của tòa đại sứ VC. Dĩ nhiên, còn lâu
tôi mới đi tìm gặp anh ta, xem tranh, hay nghe hát. Trịnh Công Sơn, một
người bạn học cũ, đã chết trong tôi như một kẻ đối nghịch, một đứa phản
bội, ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, kể từ ngày 30 tháng 4, 1975,
trước khi chết thật, vào năm 2001.
Những
người yêu nhạc Trịnh Công Sơn ca tụng nhạc của anh hay, lời óng chuốt
như thơ. Tôi không nghĩ vậy. Tôi không rành về nhạc, nhưng có thể nói mà
không sợ sai rằng nhạc Trịnh Công Sơn đơn điệu (monotone), tẻ nhạt quá, bài nào cũng một âm giai, nghèo nàn, buồn rầu,
nghe là biết của anh liền, so với những ca khúc của Phạm Duy, phong
phú, biến đổi (varié), mỗi bài mỗi khác, hay của Văn Cao nghe sang, cổ
điển, cung điệu trầm bổng, thay đổi ngay trong cùng một bài, như "Thiên
Thai" hoặc "Bến Xuân".
Còn lời ca? Những
chữ như rong rêu, sỏi đá, ghế đá, đá xưa, đá ngây ngô, hòn cuội, công
viên, sâu bọ, kiếp người, hư vô, tiền kiếp, cát bụi, hóa kiếp, trần
gian, hiện tại, xa lạ, một ngày như mọi ngày v. v... đều là những cụm
chữ lấy từ những bài học Triết dựa trên tác phẩm của Sartre, như La
Nausée (Buồn nôn), và Camus, như L'Étranger (Kẻ xa lạ), chẳng hạn,
mà Trịnh Công Sơn đã lấy dịch ra và được thấy nhan nhản trong Sáng Tạo
của lớp nhà văn, nhà thơ hiện sinh mới. Chả có gì mới mẻ đối với văn học
sử Pháp và chúng tôi, thuộc lớp Philo tại Jean-Jacques Rousseau đầu
thập niên 60.
Tại
Qui Nhơn năm nào, sau một cuộc hành quân trở về, tôi cùng với anh hạ sĩ
tài xế vào một tiệm kem, chuyên chơi nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi đến quán
ấy không phải để nghe Trịnh Công Sơn, mà để ngắm cô chủ tiệm có mái tóc
thoảng hương bưởi, nước da trắng bóc và đôi mắt tình không chịu nổi. Lúc
ấy, trong băng cassette, Khánh Ly đang hát bài "Ru mãi ngàn năm". Đến
câu "bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm..." anh tài xế nói nhỏ với
tôi: "Bàn tay em nào chả năm ngón, ông nhạc sĩ này thiệt kỳ, còn nếu bàn
tay em có sáu ngón thì làm sao đây?" Anh ta không biết rằng, bàn tay
năm, sáu ngón ấy Trịnh Công Sơn lấy từ một bài thơ của một ông thi sĩ trường phái Siêu thực Pháp nào đó mà thơ thuộc loại "hũ nút" như của Thanh Tâm Tuyền, hoặc Bùi Giáng. Hay cụm từ dài tay em mấy trong câu dài tay em mấy thuở mắt xanh xao là một cấu trúc văn phạm quen thuộc trong thơ Pháp (tĩnh từ hay trạng từ đứng trước danh từ). Những mưa hồng, nắng thủy tinh v.v... là hình ảnh, ẩn dụ rất thường gặp trong văn chương Pháp.
Bởi
vì bài của tôi không có chủ đích phê bình nhạc và lời của Trịnh Công
Sơn, nên xin phép tạm ngưng ở đây. Muốn viết một bài phê bình hẳn hoi,
phải nêu ra nhiều dẫn chứng, ví dụ, điều mà tôi nghĩ sẽ, hay đã, có
người khác làm.
Nhạc
Trịnh Công Sơn là nhạc phản chiến nặng, cộng thêm những bức ảnh của
Nick Út, một tên Việt gian khác, chẳng hạn, đã góp phần vào sự sụp đổ
của đất nước Miền Nam thân yêu của chúng ta bằng cách tiếp tay cho Cộng
sản Việt Nam trong mưu đồ xâm lược (kêu gọi phản chiến một chiều)
của chúng, tác động ít nhiều trên tinh thần đấu tranh của toàn quân
toàn dân ta trước thực trạng bi thảm của chiến tranh (một cuộc chiến
tranh do chính lũ Cộng Phỉ gây nên), và nhất là trên cái đầu tăm tối,
xuẩn ngu của những chính trị gia và ký giả quốc tế vô luân. Chúng
ta mất nước, ra đi tỵ nạn, gia đình tan nát, cá nhân bị bắt bớ, tù đày,
thân nhân bị hãm hiếp, hoặc vùi thây trong lòng đại dương, và xa hơn
những đồng bào ruột thịt tại quê nhà đang rên siết dưới gông cùm Cộng
sản, tất cả cũng bởi vì những món độc dược văn hoá nguy hiểm ấy.
Vả lại, nhạc
và lời của Trịnh Công Sơn đâu đặc sắc gì lắm đâu, mà những kẻ đầu nhỏ
như đầu chim sẻ phải khen ngợi, mê man, ca ngợi rối rít, ầm ĩ.
Tuy
nhiên, tôi tôn trọng ý thích của mọi người, miễn là họ đừng viết những
bài để thổi Trịnh Công Sơn và sự nghiệp âm nhạc của anh ta lên tận mây
xanh, các chủ băng video đừng bắt đồng hương quyết tâm chống Cộng tới
chiều, như tiện nhân đây, và những thế hệ con em lớn lên sau chiến
tranh, chưa biết Cộng sản là gì, phải nghe những ca khúc Trịnh Công Sơn
trong khi họ lợi dụng danh nghĩa chiến sĩ, thương phế binh, tử sĩ VNCH
để bán hàng. Những việc làm vô ý thức đó rất mâu thuẫn, có tính cách
phản bội, và đâm sau lưng chiến sĩ đấy.
Không ai cấm các người mê nhạc Trịnh, chúng ta đang ở trong một nước tự do, dân chủ mà! Chỉ
xin các người làm ơn hát, nghe hát nó trong xe, trong phòng ngủ, phóng
tắm, như khi các người làm việc cá nhân kín đáo. Đừng bắt thiên hạ mê
theo các người, khổ lắm!
Các người cũng đừng ngụy biện rằng nghệ sĩ, nghệ thuật là phi chính
trị, và Trịnh Công Sơn là nghệ sĩ nên không cần biết lập trường của anh
ta là gì. Sai, chủ trương "nghệ thuật vị nghệ thuật" là ảo tưởng.
Có
giỏi cứ đem vấn đề này ra tranh luận với Việt Cộng, là bọn chuyên bắt
nghệ thuật (kể cả thơ con cóc của Bác) phục vụ cho mọi ý đồ chính trị
đen tối. Tranh luận đi, chúng sẽ cười cho thối mũi.
Còn
những người tỵ nạn lưu đày chân chính? Chúng ta hãy luôn tỉnh táo, đừng
thấy ai khen, mình cũng vỗ tay khen theo, nức nở. Xưa rồi.
Kim Thanh Nguyễn Kim Quý, SQCH
Kim Thanh Nguyễn Kim Quý, SQCH
Nguồn: http://langtu75.blogspot.com/2012/03/com-quoc-gia-tho-ma-cong-san-trinh-cong.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét