Mai Nguyễn Huỳnh
Trận đánh cuối cùng: Sài Gòn thất thủ
30-4 Binh sĩ VNCH ngăn địch trên cầu xa lộ (Tân Cảng)
30-4 Binh sĩ VNCH ngăn địch trên cầu xa lộ (Tân Cảng)
Năm 1964, 65 lợi dụng tình hình chính trị miền nam bất ổn, Hà Nội đưa nhiều trung đoàn chính qui vào nam tấn công mạnh, VNCH có nguy cơ sụp đổ.
Giữa năm 1965 TT Johnson bắt đầu đưa quân vào VN mà người Mỹ gọi là can thiệp, số quân được tăng dần cho tới 1968 lên tới hơn nửa triệu trong khi Cộng sản Bắc Việt cũng gia tăng xâm nhập. Mặc dù Mỹ có thắng lợi nhiều về quân sự, gây tổn thất rất nặng cho địch khoảng trên mấy trăm ngàn người nhưng đầu năm 1968, trận Mậu Thân đã làm tiêu tan hy vọng chiến thắng. Người dân Mỹ không còn kiên nhẫn và chống đối rất mạnh, đòi chính phủ phải rút khỏi VN, gió đã đổi chiều.
Đầu năm 1969, tân Tổng thống Nixon tìm hòa bình trong danh dự, cuộc chiến có phần tàn khốc hơn trước nhưng không phải để thắng CS mà để chấm dứt chiến tranh rút bỏ Đông Dương. Tác giả George Donelson Moss (trong Vietnam, An American Ordeal) gọi cuộc chiến của Nixon là A war to end a war, một cuộc chiến để chấm dứt chiến tranh.
Cuối tháng 1-1973, Hiệp định Paris được ký kết, mục đích của Mỹ để rút hết quân lấy tù binh về nước, phía CSBV chờ Mỹ rút hết để tổng tấn công chiếm miền nam, họ mở xa lộ Đông Trường Sơn vận chuyển vũ khí và gia tăng xâm nhập để hoàn thành giấc mộng xâm lăng.
Sau khi ký Hiệp định khoảng một năm, Quốc hội Dân chủ Mỹ bắt đầu cắt giảm quân viện VNCH mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Quyết định cắt giảm ô nhục của Quốc hội đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của ông Cao Văn Viên (trong Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87) hậu quả là năm 1974 không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ.
Đạn dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn tấn một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn đủ đạn tất cả các loại súng cho 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần (Sách đã dẫn trang 92).
Trung Tướng Trần Văn Minh, cựu Tư lệnh không quân cho biết máy bay thiếu cơ phận thay thế, thiếu nhiên liệu nên phần nhiều năm ụ. Trong khi ấy theo Kissinger (Years of Renewal trang 481) Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Tháng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn.
Cuộc chiến VN là một cuộc chiến viện trợ tiếp liệu, cả hai bên đều không tự sản xuất được vũ khí đạn dược mà phải tùy thuộc vào quân viện nước ngoài, bên nào nhiều tiếp liệu, vũ khí đạn dược thì bên đó thắng.
Tình hình tháng 3 tới giữa tháng 4-1975
Cuối tháng 3 năm 1975 Quân Khu I hoàn toàn thất thủ, Quân khu 2 chỉ còn Phan Rang và Phan Thiết (trong tổng số 12 tỉnh), đến ngày 4-4 hai tỉnh này được sáp nhập vào Quân khu III. Trên thực tế cả hai Vùng I và II coi như đã mất vào tay CSBV, các Sư đoàn chủ lực của Quân khu II và Quân khu I phần tan rã, phần đã bị thiệt hại nặng nề tới 1/2 hay 2/3 lực lượng.
Cuộc triệt thoái Cao Nguyên đã khiến cho trên 75% chủ lực của Quân đoàn II bị tan rã, Sư đoàn 23 và 7 Liên đoàn Biệt động quân mất gần hết quân số. Sư đoàn 22 vùng duyên hải giao tranh dữ dội với các Sư đoàn BV cuối tháng 3 tại Bình Định, khi được tầu Hải quân đến cứu tại Qui Nhơn chỉ còn khoảng 2,000 người. Toàn bộ xe tăng và đại bác bị bỏ lại.
Các Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn I và Sư đoàn TQLC đã bị thiệt hại nặng trên đường triệt thoái, 90 ngàn chủ lực quân của Quân đoàn chỉ có 16 ngàn được tầu vớt chở về miền Nam trong đó khoảng 6,000 TQLC (45% quân số của Sư đoàn)
Vì TT Thiệu sai lầm cho tái phối trí lực lượng đã làm cho tình hình xấu đi một cách nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Cộng chiếm nốt phần đất còn lại của miền Nam. Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương hai Quân đoàn cùng triệt thoái giao lại đất cho địch.
CSBV bèn chớp thời cơ tập trung toàn bộ lực lượng tấn công chiếm Sài Gòn, họ dốc toàn bộ lực lượng vào cái gọi là “Chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử”. Trong chiến dịch tháng 3 – 1975, Bắc Việt đưa vào hai Quân khu I và II tổng cộng 14 Sư đoàn bộ binh, nay thấy thời cơ đã tới họ đưa nốt 3 Sư đoàn tổng trừ bị ở ngoài Bắc (thuộc Quân đoàn I CSBV) vào cộng với hơn mười Trung đoàn độc lập và đặc công đã đưa lực lượng tham gia chiến dịch này lên tới khoảng 20 Sư đoàn bộ binh chưa kể sự yểm trợ của hơn hai chục Trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không, công binh…
Tài liệu CS (hồi ký Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân) cho biết tại phiên họp ngày 25-3, Bộ Chính Trị Trung ương đảng khẳng định thời cơ chiến lược mới đã đến. Hà Nội có điều kiện sớm hoàn thành cuộc tổng tiến công xâm lược, tập trung các lực lượng binh khí kỹ thuật giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
BV hối hả chuyên chở bằng cả ba phương tiện đường thủy, đường bộ, đường hàng không để chuyển vận vũ khí, quân nhu, nhân lực … đánh một ván bài chót
Tài liệu CS (hồi ký Văn Tiến Dũng, các Chương XI, XII, XIII) cho biết Quân khu 5 của BV tổ chức một đoàn xe chở thẳng vào Nam bộ đạn dược tiếp liệu cũng như chiến lợi phẩm vừa lấy được của VNCH, đoàn xe do Thiếu Tướng Võ Thứ, phó Tư lệnh Quân khu V chỉ huy. Trong khi ấy các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Kontum…nhộn nhịp khác thường, các loại máy bay lên thẳng, vận tải, chở khách đều được huy động để chở người, súng đạn, vũ khí, chở sách báo phim ảnh, tranh, nhạc .. mà còn chở hàng tấn bản đồ Sài Gòn – Gia Định vừa in xong ở xưởng in Bộ Tổng tham mưu tại Hà Nội. Các bến sông Hồng, sông Gianh, sông Mã, sông Hàn và các bến cảng Hải Phòng, Cửa Hội, Thuận An, Đà Nẵng ngày đêm nhộn nhịp. Các mặt hàng quân sự được bốc xếp kịp thời lên các đoàn tầu vận tải của Bộ Giao Thông vận tải và tầu Hải Quân nhân dân để đưa vào Nam. Hà Nội huy động hết mọi phương tiện thủy bộ, hàng không để chuyển ra mặt trận một số lượng quân đội và vũ khí lớn chưa từng có.
Ngày 4-4-1975 Phan Rang và Phan Thiết được sáp nhập vào Quân khu 3. Tại Phan Rang lực lượng ta gồm 2 Trung đoàn bộ binh 4 và 5 thuộc Sư đoàn 2, 1 lữ đoàn Dù, 1 liên đoàn Biệt Động quân, 4 tiểu đoàn Địa phương quân, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, một giang pháo hạm, một hải vận hạm. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh tiền phương Quân đoàn III đóng tại Tháp Chàm.
Phan Rang phố xá vắng tanh, dân di tản về Phan Thiết rất nhiều, ngày 14-4 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang tại phi trường, một tiểu đoàn Dù đụng độ Việt Cộng, địch bỏ xác cả 100 tên. Ngày 15-4 Phó Thủ tướng đặc trách Quốc phòng Trần văn Đôn và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Khi phái đoàn vừa về thì Việt Cộng tấn công mạnh, địch tăng cường Sư đoàn 325 và nhiều chiến xa. Quân đội VNCH phản công dữ dội nhưng không thể chống lại lực lượng địch quá đông phải rút lui, Trung đoàn 4 và 5 tan rã. Khuya ngày 16-4 chỉ có 200 người thoát vòng vây, các sĩ quan thuộc Bộ tư lệnh tiền phương và Sư đoàn 6 không quân bị bắt hết, các đơn vị của VNCH tại đây coi như tan rã, BV chiếm được 40 máy bay tại Phan Rang.
Hai hôm sau ngày 18-4 Phan Thiết cũng bị lọt vào tay Cộng quân.
Quân đoàn 4 CSBV gồm các đơn vị đã chiếm QK II VNCH theo Quốc lộ 1, Quốc lộ 20 tiến về Sài Gòn, gần giao điểm của hai Quốc lộ này là Xuân Lộc thuộc tỉnh Long khánh cách Sài Gòn 60 cây số, Xuân lộc giữ vị trí quan trọng bảo vệ phi trường Biên Hoà.
Phạm vi trách nhiệm của Sư đoàn 18 là Long Khánh, phụ trách an ninh phía Bắc căn cứ Long Bình, Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân Biên Hoà. CSBV huy động Sư đoàn 6, Sư đoàn 7, Sư đoàn 341, Sư đoàn 1, Sư đoàn 325, Trung đoàn biệt lập 95B.
BV đánh Xuân Lộc nhằm các mục tiêu.
-Tấn công tuyến phòng thủ then chốt phía đông như Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tầu.
-Kéo lực lượng VNCH ra ngoài để tiêu diệt, mở cửa lớn để vào Sài Gòn.
-Thu hút lực lượng VNCH vào phía Đông để đưa các lực lượng khác tới Bắc và Tây Bắc Sài Gòn.
Sư đoàn 18 VNCH và CSBV hỗn chiến dữ dội từ sáng 9-4 cho tới ngày 15-4 khi chiến đoàn 52 bị BV tràn ngập. Sáng ngày 16-4 Tướng Toàn cho lệnh thả 2 trái bom Daisy Cutter tại Bắc Gầu Giây tiêu diệt nhiều đơn vị bộ binh, thiết giáp, pháo binh địch. Ngày 20-4 Tướng Toàn bay trực thăng vào Xuân Lộc gặp Tướng Đảo bàn kế hoạch lui binh. Sư đoàn 18 rút lui vào lúc đêm vừa đánh vừa rút, giữ trật tự bình tĩnh, tối 20 trung đoàn 48 về đến Long Giao đặt pháo binh yểm trợ tổng quát cho cuộc lui binh, sau đó truyền tin, công binh, pháo binh, quân y… rút theo.
Sư đoàn 18 thiệt hại 30% quân số, Địa phương quân nghĩa quân bị thiệt hại nặng.
Từ ngày 8-4 -1975 Lê Đức Thọ, trùm CSBV chủ toạ phiên họp tại Lộc Ninh với các cán bộ thuộc Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tổng tham mưu CS. Thọ tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn Chợ Lớn, Tư lệnh Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy Phạm Hùng, Phó Tư Lệnh Thượng Tướng Trần Văn Trà. Bộ Tư lệnh bàn kế hoạch đánh chiếm Bộ TTM, dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ đô, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Phi trường Tân Sơn Nhất.
Những ngày cuối tháng Tư đen 1975.
Ngày 21-4, Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng thống tại dinh Độc lập để rồi mấy hôm sau lên máy bay ra khỏi nước.
Phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay, trong khi ấy các nhà ngoại giao quốc tế ra sức vận động hai bên để tránh cho Sài Gòn khỏi trở thành bãi chiến trường. Mấy hôm sau Cộng quân bắn 4 trái hoả tiễn 120 ly vào Khánh Hội làm cháy mấy chục căn nhà. Đài BBC nói BV cảnh cáo chính phủ Trần Văn Hương phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ định, người ta hiểu ngay đó là nhóm chính khách thứ ba do ông Dương Văn Minh lãnh đạo. Ngày 27-4 lưỡng viện Quốc Hội nhóm họp để biểu quyết việc trao quyền cho Dương Văn Minh.
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly VC đồng thời bảo vệ các căn cứ quan trọng tại Biên Hoà, Củ chi, Lai Khê, Long Bình. (Theo Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập)
thelastbattlessaigon
Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi với Sư đoàn 25 BB và hai Liên đoàn 8, 9 Biệt động quân. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc với Sư đoàn 5 BB. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc với Sư đoàn 18 BB và lực lượng Xung kích Quân đoàn III. Tuyến Vũng tầu và Quốc lộ 15 do Lữ đoàn 1 Dù cùng với một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 3 BB và các đơn vị Thiết giáp, Địa phương quân, Nghĩa quân của Tiểu khu Phước Tuy phụ trách. Tuyến Long An phía Nam ngoài lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân cơ hữu còn có Sư đoàn 22 BB phụ trách cộng với sự tăng cường của Trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn 7 BB, Trung đoàn 14 thuộc Sư đoàn 9 BB và Liên đoàn 6 BĐQ.
Năm tuyến phòng thủ chính của VNCH cũng trùng với 5 hướng tấn công của năm Quân đoàn CSBV: Hướng Tây Nam là Đoàn 232, (Tư lệnh Trung Tướng Lê Đức Anh, Chính Uỷ Thiếu Tướng Lê Văn Tưởng) với các Sư đoàn 3, 5, 8, 9 BB và Sư đoàn 27 đặc công cộng với 4 Trung đoàn độc lập 16, 24, 88, 71 và Trung đoàn phòng không tiến từ sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa. Quân đoàn 3, (Tư lệnh Thiếu Tướng Vũ Lăng, Chính Uỷ Đại Tá Nguyễn Hiệp) gồm các Sư đoàn 10, 316, 320 và 968 tiến về phía Tây Ninh. Phía Bắc là Quân đoàn 1, (Tư lệnh là Thiếu Tướng Nguyễn Hoà, Chính Uỷ Thiếu Tướng Hoàng Minh Thi) gồm các Sư đoàn 312, 320B và 308 từ Lộc Ninh và Phước Long tiến về khu tập trung ở phía Nam sông Bé. Quân đoàn 4, (Tư lệnh Thiếu Tướng Hoàng Cầm, Chính Uỷ Thiếu Tướng Hoàng Thế Thiện) gồm các Sư đoàn 6, 7 và 341 sau khi chiếm Xuân Lộc đang tiến về Trảng Bom. Mũi sau cùng là Quân đoàn 2 (Tư lệnh Thiếu tướng Nguyễn Hữu An, Chính Uỷ Thiếu Tướng Lê Linh) gồm các Sư đoàn 3 Sao vàng, 304, 324B, và 325 tiến đánh Long Thành, Vũng Tầu, Phước Lễ. (dựa theo tác giả Nguyễn Đức Phương).
Kế hoạch CSBV như sau: Hướng Tây Bắc: Quân đoàn 3 và Địa phương quân Tây Ninh, Củ Chi, các lực lượng đặc công biệt động, tăng pháo tiến đánh căn cứ Đồng Dù, tiêu diệt Sư đoàn 25 VNCH từ Củ Chi đến Trảng Bàng rồi tiến đánh Tân sơn nhất, phối hợp với Quân đoàn 1 đánh Bộ Tổng Tham mưu sau đó tiến về Dinh Độc Lập. Hướng Bắc và Đông Bắc Quân đoàn 1, được tăng cường Trung đoàn 95 ( SĐ 325) cùng các lực lượng đặc công, pháo binh, hoả tiễn.. bao vây căn cứ Bình Dương, Bến Cát rồi đánh BTTM, BTL các binh chủng Gò gấp rồi tiến về dinh Độc Lập. Hướng Đông Quân đoàn 4 tiến đánh Biên Hoà, phi trường BH rồi tiến vào quận 1 Sài Gòn. Hướng Đông Nam Quân đoàn 2 đánh Bà Rịa, Vũng Tầu để chặn đường rút lui của VNCH, chiếm căn cứ Nước Trong Long thành, pháo kích phi trường Tân Sơn Nhất, chiếm Long Bình. Hướng Tây, Tây Nam Đoàn 232 và Chủ Lực quân Quân khu 8 đánh chiếm Hậu nghĩa, rồi tiến đánh Biệt Khu Thủ Đô, Tổng Nha Cảnh Sát, bến cảng Bạch Đằng. Các Quân đoàn đều có nhiệm vụ chiếm Dinh Độc Lập, Quân đoàn nào tới trước thì đánh trước.
Quân đội VNCH như chúng ta đã biết từ cuối tháng 3-1975 đã mất một nửa lực lượng chủ lực quân. Tại Quân khu III miền Nam chỉ còn 3 Sư đoàn 25BB, 5BB, 18 BB và các đơn vị di tản từ miền Trung về với quân số thiếu hụt, tổng cộng vào khoảng 5 Sư đoàn để đối đầu với khoảng 20 Sư đoàn CSBV. Về lực lượng hai bên, tác giả Nguyễn Đức Phương (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập) đã nói.
“Về tương quan lực lượng giữa hai bên thì QLVNCH chỉ có 6 sư đoàn để bảo vệ thủ đô chống lại một lực lượng đông đảo với quân số gần 20 sư đoàn CSBV. Ba sư đoàn 7, 9 và 21 BB thuộc quân đoàn IV QLVNCH không thể dùng để tiếp ứng do điều kiện an ninh lãnh thổ của vùng đồng bằng sông Cửu Long”
Tac giả trích tài liệu CS như sau:
“CS cũng đã xác nhận cán cân lực lượng trong chiến dịch này như sau:
Ta: 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và 232 bao gồm 15 sư đoàn bộ binh, 5 lữ đoàn bộ binh biệt lập, 4 trung đoàn tăng thiết giáp và 6 trung đoàn đặc công. Quân số tổng cộng khoảng 280 ngàn với 400 xe tăng và 420 pháo.
Địch: 5 sư đoàn bộ binh 5, 18, 22 và 25, sư đoàn TQLC, 2 lữ đoàn Dù, lữ đoàn 3 Kỵ binh và 4 liên đoàn Biệt động quân. Quân số tổng cộng khoảng 240 ngàn với 625 xe tăng thiết giáp và 400 pháo”
Quân số của BV gồm 280 ngàn người trong đó đa số là thành phần tác chiến, lính VC không có lương nên không có các đơn vị hành chánh tài chánh, họ cũng không có cứu thương y tế nên nói chung thực lực đông đảo hơn miền Nam. Sau khi chiếm được Quân Khu I và II VNCH, Cộng quân chỉ để lại Địa phương quân và du kích cai quản và đưa toàn bộ Chủ lực quận vào chiến dịch. Họ dốc toàn lực vào canh bạc cuối cùng này: 5 quân đoàn (1, 2, 3, 4 và 232) tổng cộng 15 Sư đoàn, công thêm trên 5 Trung đoàn độc lập và 6 Trung đoàn đặc công toàn bộ lực lượng vào khoảng gần 20 Sư đoàn.
Quân số của VNCH là 240 ngàn nhưng trong đó chỉ có khoảng 60 ngàn là lính nhà nghề, còn lại là Địa phương quân, Nghĩa quân và các thành phần không chiến đấu. BV có đầy đủ tiếp liệu đạn dược trong khi miền Nam đã kiệt quệ về tiếp liệu đạn dược nhất là lính pháo binh phải đếm từng viên đạn. Sau khi đoàn quân di tản từ miền Trung kéo vào Nam, Bộ Tổng tham mưu đã mở kho vét hết súng đạn để tái trang bị. Ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH trang 92 ) cho biết đạn dược chỉ đủ xử dụng trong khoảng hai tuần lễ. Lực lượng hai bên trên thực tế quá chênh lệch, ưu thế nghiêng hẳn về phía Cộng quân.
Từ 26-4-1975 CSBV đã bắt đầu tấn công vào Trường Thiết Giáp Long Thành, căn cứ Nước Trong, đặc công đánh Tân cảng , cầu xa lộ, đài ra đa Phú Lâm nhưng thất bại bị đẩy lui. Bắc Việt đã cho mở chiến dịch Hồ Chí Minh từ 26-4, hai ngày trước khi ông Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống, họ không đếm xỉa gì tới việc thương thuyết.
Sáng ngày 27-4 Sư đoàn 3 BV tấn công chiếm Phước Lễ, Lữ đoàn Dù rút về Vũng Tầu, Sư đoàn 18 được lệnh lui về giữ Trảng Bom. Phía Tây các căn cứ dọc theo Vàm Cỏ Đông lần lượt bị chiếm. CSBV pháo phi trường Biên Hoà dữ dội, Sư đoàn 3 Không quân phải di về Tân Sơn Nhất và Cần thơ. Phía Tây Nam Đoàn 232 CSBV (gồm 3 Sư đoàn) cắt Quốc lộ 4 nhiều nơi để chận viện binh từ Quân khu 4, phía Bắc Quân đoàn 1 BV tiến về Thủ Đầu Một, phía Tây Bắc Quân đoàn 3 BV cắt Quốc lộ 1 và 21 để chặn đường rút của Sư đoàn 25 BB.
Chiều ngày 28-4 ông Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng thống tại dinh Độc Lập, chừng một tiếng sau, phi công nằm vùng trung úy Nguyễn Thành Trung hướng dẫn năm phi cơ A-37 của VNCH do BV chiếm được ném bom phi trường Tân Sơn Nhất rung chuyển trời đất khiến dân chúng Đô Thành hốt hoảng. Tối hôm ấy BTL Quân đoàn 3 di chuyển từ Biên Hoà về Gò Vấp.
Tại Bộ TTM, từ chiều 28-4-1975 Đại tướng Cao Văn Viên và Chuẩn Tướng Thọ đã ra đi. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng rời BTTM trưa 29-4. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đã bỏ đi. Đến trưa 29-4 các Tướng có thẩm quyền tại BTTM đã ra đi gần hết. Ông Dương Văn Minh cử một số Tướng và cựu Tướng lãnh vào làm việc tại BTTM: Trung Tướng Vĩnh Lộc Tổng tham mưu trưởng, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh phụ tá, Lâm Văn Phát Tư Lệnh Biệt Khu Thủ đô. Chiều 29-4 Tướng Vĩnh Lộc họp các Tướng lãnh, sĩ quan cao cấp còn sót lại và kêu gọi cố gắng hoàn tất trách nhiệm. Tối 29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.
“Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hãy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”
Tân Tổng Tham mưu trưởng Vĩnh Lộc lớn tiếng chỉ trích Thiệu và kêu gọi anh em binh sĩ giữ vững phòng tuyến.
“…Y đã để cho cả một đạo quân tháo chạy như một lũ chuột, chính y gây ra thảm trạng này và bây giờ cũng chính y là người bỏ trốn…”
Từ 4 giờ sáng ngày 29-4 Bộ TTM, phi trường Tân Sơn nhất, BTL Hải quân bị pháo kích dữ dội. Cộng quân chiếm được Nhơn Trạch đặt hai khẩu 130 ly và bắn 300 quả vào Tân Sơn Nhất gây nhiều thiệt hại, các bãi đậu phi cơ, bồn chứa nhiên liệu, kho đạn bị trúng pháo kích gây nhiều đám cháy lớn. Sư đoàn 325 BV chiếm Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, tiến về Cát Lái. Sư đoàn 304 chiếm căn cứ Nước Trong.
Trong khi ấy ông Dương văn Minh cử ba người sứ giả đến trại David tại Tân Sơn Nhất để thương thuyết ngưng bắn với phái đoàn Quân sự VC nhưng bị Đại tá CS Võ Đông Giang bác bỏ.
Tại Biên Hòa lực lượng xung kích Quân đoàn III VNCH của Chuẩn Tướng Trần quang Khôi (gồm các Chiến đoàn 315, 318, 322) vẫn giữ được phòng tuyến. Buổi chiều Bộ Tư lệnh Hải quân và Không quân di tản. Một Liên đoàn BĐQ tại Bến Tranh Bắc Mỹ Tho được lệnh trực thăng vận về Cần Đước ngăn chận Việt Cộng trên liên tỉnh lộ 5A nhưng không có trực thăng, do đó Chợ Lớn được coi như bỏ ngỏ. Đến tối Cộng quân đụng độ với các Chiến đoàn 315, 322 tại hai hướng Đông Bắc thành phố. Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham mưu trưởng lệnh cho Sư đoàn 18 BB rút về giữ khu vực nằm giữa Thủ Đức và nghĩa trang Quân đội.
Phía Bắc, căn cứ Lai Khê của Sư đoàn 5 bị pháo kích dữ dội, quận Bến Cát bị tấn công.
Phía Tây 2 Liên đoàn 8, 9 BĐQ bị thiệt hại nặng, CSBV bỏ xác cả trăm người cùng 18 xe tăng bị bắn cháy, Quốc lộ 1 giữa Sài Gòn và Củ Chi bị gián đoạn.
Sư đoàn 22 BB vẫn làm chủ được tình hình phía Nam, mặc dù bị tấn công.
Chiều 29-4 Toà Đại sứ Mỹ bắt đầu di tản bằng trực thăng, sau 19 giờ bay liên tục 80 trực thăng đã chở đi được hơn 1,000 người Mỹ và khoảng 6,000 người Việt Nam ra ngoài hạm đội.
Ngày 30-4 Trung đoàn 24 CSBV (SĐ 10) giao tranh ác liệt với quân Dù tại Ngã Tư Bẩy Hiền và Lăng Cha Cả, BV bị thiệt hại nặng tới 50% quân số. Cộng quân tấn công trại Hoàng Hoa Thám, BTL không quân, căn cứ Sư đoàn 25 BB VNCH thất thủ, Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá bị bắt.
Cộng quân xâm nhập Ngã Tư Bẩy Hiền, trong vòng 15 phút có 6 chiến xa bị Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù bắn hạ, lính BV bị chận đánh phải rút khỏi ngã tư Bẩy Hiền.
Theo Tướng Hoàng Lạc, Đại tá Hà Mai Việt (Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990): TT Dương Văn Minh lại cử người tới Tân Sơn Nhất để thương thuyết với phái đoàn CS xem có vớt vát được tí nào không nhưng họ vẫn một mực đòi phải buông súng đầu hàng nếu không sẽ pháo kích ồ ạt vào Thủ đô. Sài Gòn bây giờ đang nằm trong tầm pháo của BV. Cộng quân đã vào sát thành phố, thấy không hy vọng cứu vãn được tình thế, ông Dương Văn Minh bèn lên tiếng trên đài phát thanh vào lúc 10 giờ 30 sáng kêu gọi các vị Tướng lãnh, các cấp chỉ huy QĐVNCH hãy liên lạc với các đơn vị Cộng Hoà Miền Nam nơi gần nhất giao nạp vũ khí thực hiện ngưng bắn tại chỗ để tránh đổ máu vô ích. Khi ấy tiếng súng trận khắp nơi đều đã im bặt.
Khi có lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, Chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù lấy xe Jeep vào Bộ TTM, lính gác cho biết ông Vĩnh Lộc đã ra đi từ 6 giờ sáng, các Tướng lãnh, sĩ quan cao cấp không còn ai. Thiếu tá Tài bèn gọi về phủ Tổng Thống xin nói chuyện với Đại Tướng Dương Văn Minh. Tài nói các chiến sĩ của ông đang tử chiến với VC để bảo vệ BTTM thì có lệnh ngưng bắn nhưng địch vẫn tiến vào, BTTM không còn ai, xin Tổng thống quyết định.
“Tướng Minh trả lời “các em chuẩn bị bàn giao đi”.
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại “Bàn giao là như thế nào thưa Đại Tướng, có phải là đầu hàng không?
Tướng Minh đáp “Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập”.
Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay “Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào Dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống”.
Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp “Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước hai ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng tham mưu”
Tướng Minh trả lời “Tuỳ các anh em”.
(Vương Hồng Anh, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH Những Ngày Cuối Cùng.)
Ông Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn thì Lê Đức Thọ ban lệnh cho các Quân đoàn BV không chấp nhận đình chiến và cứ tiến thẳng vào Sài Gòn.
Cộng quân tiến vào Thủ Đô đang bỏ ngỏ làm bốn ngả: Cánh thứ nhất từ Long Khánh theo xa lộ Biên Hoà, thứ hai từ Củ Chi qua Ngã Tư Bẩy Hiền, thứ ba từ Long An kéo lên qua ngả Phú Lâm Chợ Lớn, cánh cuối cùng từ Bình Dương theo xa lộ Đại Hàn vào Hàng Xanh.
Báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng 30-4 cho biết đoàn quân vào dinh Độc Lập trước nhất là cánh từ Long An, họ có chụp hình những chiếc xe lội nước PT-76 vào sân dinh và bộ đội thiết giáp CS trên xe nhẩy xuống. Theo tài liệu của ký giả ngoại quốc hoặc do lời kể của các viên chức chính phủ trong dinh Độc Lập thì cánh quân từ Biên Hoà cùng với các xe T-54 đã tiến chiếm dinh Độc Lập trước tiên.
Báo Sài Gòn Giải Phóng và Quân Đội Nhân Dân năm 1976 cho biết người đi đầu là một viên đại uý, được các viên chức tiếp đón tại cửa vào, y hỏi thăm đường lên lầu rồi vội kéo cờ vàng của VNCH xuống để treo cờ Mặt trận lên để chứng tỏ giang sơn này, đất nước này đã hoàn toàn thuộc về CS.
Quân đội CSBV bắt Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng. Theo lời kể của cựu dân biểu Lý Quí Chung thì cả những sĩ quan cấp úy BV khi mới vào dinh cũng quát tháo những người cầm đầu chính phủ và gọi họ bằng anh.
“Các anh phải hàng hết”
Sau khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì các mặt trận quanh Sài gòn đều im tiếng súng chỉ còn một vài trận lẻ tẻ như tại Hố Nai, bốn tiếng sau lệnh đầu hàng, Thiếu Uý Tư, Biệt kích Dù và năm người lính thân tín dùng súng chống chiến xa M-72 phục kích bắn cháy, lật một xe Jeep, một T-54, 2 xe Molotova… rồi chạy thoát hết.
Nghe lệnh đầu hàng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư Lệnh Quân đoàn II và Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 tự sát. Quân khu IV vẫn còn nguyên vẹn, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không cho giật sập cầu Long An như Tỉnh trưởng đề nghị. Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó tự tử chiều tối 30-4, hôm sau 1-5 Tướng Nam tự sát lúc 7 giờ rưỡi sáng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai Tư lệnh Sư đoàn 7 cũng tự vẫn. Ngoài ra có nhiều người tuẫn tiết trước ngày tàn của đất nước như Thiếu tá Đặng Sĩ Vinh thuộc BTL Cảnh sát Quốc gia tự sát lúc 2 giờ chiều 30-4 cùng vợ và 7 người con tại nhà riêng. Trung tá Vũ đình Duy, Trung tá Nguyễn Văn Hoàn thuộc Đơn vị 101 tự sát… Nhiều quân nhân Biệt kích Dù cũng như nhiều binh chủng khác đã mở lựu đạn tự tử thất vọng chán nản vì mất nước. Nhiều người tự sát ngoài mặt trận như Trung tá Nguyễn Hữu Thống Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 (Sư đoàn 22) khi tầu Hải quân vào Qui Nhơn cứu đám tàn quân của Sư đoàn cuối tháng 3-75 , Trung tá Thống từ chối di tản ở lại tự sát.
Tháng 4 năm 2006 một cựu sĩ quan tham mưu của Quân đoàn IV (VNCH) tiết lộ ngày 30-4-1975 họ đã dự định hành quân qua Miên sang Thái Lan hoặc ra Phú Quốc lập phòng tuyến chống lại CS, cũng có người cho rằng Quân khu IV chờ chính phủ Sài Gòn dời xuống để tiếp tục chiến đấu nhưng TT Dương Văn Minh lại đầu hàng địch. Theo lời kể của Trung uý Danh, tuỳ viên của Tướng Nam thì ông là người nhân ái, sùng đạo Phật không muốn đổ máu.
“Là một tư lệnh Quân đoàn, đã nắm trong tay nhiều đơn vị trung thành, tướng Nguyễn Khoa Nam có thể ra lệnh tiếp tục chiến đấu, nhưng là vị tướng có lòng nhân ái, không muốn binh sĩ và đồng bào đổ máu vô ích, ông không cho phá cầu, ông không muốn có người chết thêm”
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bút ký của Trung úy Lê Ngọc Danh.
Nhận xét về Tướng Dương Văn Minh nhiều người hồi đó cũng như bây giờ chỉ trích chê bai ông là kẻ đầu hàng địch, dâng nước cho CSBV, nhưng cũng có nhiều người tán đồng quyết định củaTướng Minh cho rằng tiếp tục chiến đấu sẽ chỉ gây thêm tang tóc đổ máu vô ích không hy vọng gì cứu vãn tình thế. Sau khi ra định cư tại Hải ngoại, Tướng Dương Văn Minh đã trả lời phỏng vấn:
“Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Theo Tướng Vanuxem, sáng 30-4-1975 Trung Tướng Vĩnh Lộc báo cáo với ông Dương Văn Minh tình hình mặt trận, ông xoè bàn tay cho biết đã hỏng hết rồi, Sư đoàn 25 tại Củ Chi và Sư đoàn 18 tại Thủ Đức bị tan rã hoặc rút lui, các lữ đoàn Dù và TQLC tại Vũng Tầu mất liên lạc, Sư đoàn 5 tại Lai Khê đang bị bao vây… Cộng quân đã vào tới Ngã Tư Bảy Hiền đang giao tranh với Biệt Cách Dù.
Sau 30-4-1975, Thủ trưởng trường học tập cải tạo Long Thành cho biết Dương Văn Minh đầu hàng vì ông đã thua hết cả, nếu lực lượng còn mạnh chưa chắc ông ta đã chịu cho buông súng.
BV bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài Gòn từ 26-4- 1975, bốn ngày sau phòng tuyến của VNCH sụp đổ. Trước khi Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống người ta đã đoán biết công việc của ông chỉ là để đầu hàng. Một viên chức hành chánh thân cận của ông Trần Văn Hương sau này tiết lộ hồi đó ông Hương cho biết người ta đã sắp đặt sẵn để ông Thiệu bàn giao cho ông Hương rồi ông Hương bàn giao cho ông Minh, ngay cả việc Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tuỳ viên quân sự DAO Mỹ rút lui cũng là do người ta sắp đặt cả.
Khi Dương Văn Minh đang làm lễ bàn giao ngày 28-4 thì đài BBC đã nói.
“Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử giữ chức vụ Quyền Tổng thống do ông Trần Văn Hương trao lại để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng”
Trong phim VietNam a Television History (Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình) do các ký giả, sử gia Mỹ, Anh, Pháp thực hiện đã được chiếu ở VN giữa thập niên 80, Chuẩn Tướng không quân Phan Phu Tiên trả lời phỏng vấn và kết luận.
“Chúng tôi là cấp lớn mà bỏ chạy đi như thế này thì cũng nhục nhã lắm nhưng mọi việc người ta đã sắp đặt sẵn cả rồi, dẫu muốn gì cũng đành bó tay không thể làm hơn được”
Khi hai ông Thiệu và Khiêm ra đi hôm 24-4-1975, quân dân hoàn toàn thất vọng , họ thừa hiểu số phận của miền Nam như thế nào, lại nữa hai hôm sau, Tổng Thống Trần Văn Hương hiệu triệu đồng bào về tình hình vô cùng bi đát của đất nước, ông đã khóc lóc trên làn sóng điện về viễn ảnh “núi xương sông máu của thành phố Sài Gòn” khiến cho người dân ai nấy hồn lạc phách siêu, chuyện bí mật Quốc gia đã được công khai tuyên bố trên đài phát thanh.
Quân đội VNCH không đủ lực lượng để chống lại gần 20 Sư đoàn Cộng quân và vì tiếp liệu đạn dược kiệt quệ. Đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến binh sĩ thất vọng. Lực lượng phòng thủ dần dần rã ngũ, một số đơn vị cảm tử chiến đấu tới cùng nhưng cũng không thể chống nổi lực lượng quá đông đảo của BV.
Trận đánh cuối cùng đã kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ kéo dài có mấy ngày từ 26-4 cho tới 30-4 -1975, cũng vào ngày này 30 năm trước đó, năm 1945 tại Bá Linh quân Đức đầu hàng Nga. Sài Gòn tái diễn lịch sử nước Đức Thế Chiến Thứ Hai, có khác chăng tại Bá Linh giới lãnh đạo không bỏ trốn và ép buộc quân đội của họ chiến đấu tới người lính cuối cùng.
Kể từ ngày Cộng quân đánh chiếm quận Đức Lập ngày 9-3-1975 và Ban Mê Thuột ngày 10-3 để mở đầu cuộc Tổng tấn công cho tới ngày 30-4-1975, ngày kết thúc chỉ vỏn vẹn có năm mươi mấy ngày.
Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp tại Hà Nội nửa đêm 19-12-1946 là ngày khởi đầu cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ đến trưa ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc tính ra đã được ba mươi năm và Việt Nam đã trở thành bãi chiến trường tan nát vì bom đạn.
Những kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn núi xương sống máu sẽ đời đời đắc tội với Non sông Tổ quốc.
Trận chiến tại Cầu Tân Cảng ngày 28-4-1975
Trọng Đạt
Tham Khảo
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003.
Đoàn Thêm: 1969 Việc Từng Ngày, Xuân Thu.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng, Nam Việt 2006
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005
Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.
Trần Quang Khôi: Chiến Đấu Đến Cùng: Vai Trò Của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích QĐ III Trong Năm Ngày Cuối Của Cuộc Chiến Việt Nam. Nguoivietboston.com .
Phạm Bá Hoa: Giờ Thứ 25, Người Việt Dallas, số ngày 21-8-2009.
Trần Văn Đôn: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối, Trích trong Hồi ký Việt nam Nhân Chúng.
Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas 30-6-2005.
Motgoctroi.com: Đài VOA Ngày 2-7-2007: Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ (Laird) :Việt Nam Cộng Hoà Thua Trận Vì Bị Mỹ Cằt Viện Trợ.
Motgoctroi.com: Vương Hồng Anh: Những Ngày Cuối CủaViệt Nam Cộng Hoà,
- See more at: http://namviet.net/b…/tran-danh-cuoi-cung-sai-gon-that-thu/…
30-4 Binh sĩ VNCH ngăn địch trên cầu xa lộ (Tân Cảng)
30-4 Binh sĩ VNCH ngăn địch trên cầu xa lộ (Tân Cảng)
Năm 1964, 65 lợi dụng tình hình chính trị miền nam bất ổn, Hà Nội đưa nhiều trung đoàn chính qui vào nam tấn công mạnh, VNCH có nguy cơ sụp đổ.
Giữa năm 1965 TT Johnson bắt đầu đưa quân vào VN mà người Mỹ gọi là can thiệp, số quân được tăng dần cho tới 1968 lên tới hơn nửa triệu trong khi Cộng sản Bắc Việt cũng gia tăng xâm nhập. Mặc dù Mỹ có thắng lợi nhiều về quân sự, gây tổn thất rất nặng cho địch khoảng trên mấy trăm ngàn người nhưng đầu năm 1968, trận Mậu Thân đã làm tiêu tan hy vọng chiến thắng. Người dân Mỹ không còn kiên nhẫn và chống đối rất mạnh, đòi chính phủ phải rút khỏi VN, gió đã đổi chiều.
Đầu năm 1969, tân Tổng thống Nixon tìm hòa bình trong danh dự, cuộc chiến có phần tàn khốc hơn trước nhưng không phải để thắng CS mà để chấm dứt chiến tranh rút bỏ Đông Dương. Tác giả George Donelson Moss (trong Vietnam, An American Ordeal) gọi cuộc chiến của Nixon là A war to end a war, một cuộc chiến để chấm dứt chiến tranh.
Cuối tháng 1-1973, Hiệp định Paris được ký kết, mục đích của Mỹ để rút hết quân lấy tù binh về nước, phía CSBV chờ Mỹ rút hết để tổng tấn công chiếm miền nam, họ mở xa lộ Đông Trường Sơn vận chuyển vũ khí và gia tăng xâm nhập để hoàn thành giấc mộng xâm lăng.
Sau khi ký Hiệp định khoảng một năm, Quốc hội Dân chủ Mỹ bắt đầu cắt giảm quân viện VNCH mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Quyết định cắt giảm ô nhục của Quốc hội đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của ông Cao Văn Viên (trong Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87) hậu quả là năm 1974 không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ.
Đạn dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn tấn một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn đủ đạn tất cả các loại súng cho 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần (Sách đã dẫn trang 92).
Trung Tướng Trần Văn Minh, cựu Tư lệnh không quân cho biết máy bay thiếu cơ phận thay thế, thiếu nhiên liệu nên phần nhiều năm ụ. Trong khi ấy theo Kissinger (Years of Renewal trang 481) Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Tháng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn.
Cuộc chiến VN là một cuộc chiến viện trợ tiếp liệu, cả hai bên đều không tự sản xuất được vũ khí đạn dược mà phải tùy thuộc vào quân viện nước ngoài, bên nào nhiều tiếp liệu, vũ khí đạn dược thì bên đó thắng.
Tình hình tháng 3 tới giữa tháng 4-1975
Cuối tháng 3 năm 1975 Quân Khu I hoàn toàn thất thủ, Quân khu 2 chỉ còn Phan Rang và Phan Thiết (trong tổng số 12 tỉnh), đến ngày 4-4 hai tỉnh này được sáp nhập vào Quân khu III. Trên thực tế cả hai Vùng I và II coi như đã mất vào tay CSBV, các Sư đoàn chủ lực của Quân khu II và Quân khu I phần tan rã, phần đã bị thiệt hại nặng nề tới 1/2 hay 2/3 lực lượng.
Cuộc triệt thoái Cao Nguyên đã khiến cho trên 75% chủ lực của Quân đoàn II bị tan rã, Sư đoàn 23 và 7 Liên đoàn Biệt động quân mất gần hết quân số. Sư đoàn 22 vùng duyên hải giao tranh dữ dội với các Sư đoàn BV cuối tháng 3 tại Bình Định, khi được tầu Hải quân đến cứu tại Qui Nhơn chỉ còn khoảng 2,000 người. Toàn bộ xe tăng và đại bác bị bỏ lại.
Các Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn I và Sư đoàn TQLC đã bị thiệt hại nặng trên đường triệt thoái, 90 ngàn chủ lực quân của Quân đoàn chỉ có 16 ngàn được tầu vớt chở về miền Nam trong đó khoảng 6,000 TQLC (45% quân số của Sư đoàn)
Vì TT Thiệu sai lầm cho tái phối trí lực lượng đã làm cho tình hình xấu đi một cách nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Cộng chiếm nốt phần đất còn lại của miền Nam. Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương hai Quân đoàn cùng triệt thoái giao lại đất cho địch.
CSBV bèn chớp thời cơ tập trung toàn bộ lực lượng tấn công chiếm Sài Gòn, họ dốc toàn bộ lực lượng vào cái gọi là “Chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử”. Trong chiến dịch tháng 3 – 1975, Bắc Việt đưa vào hai Quân khu I và II tổng cộng 14 Sư đoàn bộ binh, nay thấy thời cơ đã tới họ đưa nốt 3 Sư đoàn tổng trừ bị ở ngoài Bắc (thuộc Quân đoàn I CSBV) vào cộng với hơn mười Trung đoàn độc lập và đặc công đã đưa lực lượng tham gia chiến dịch này lên tới khoảng 20 Sư đoàn bộ binh chưa kể sự yểm trợ của hơn hai chục Trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không, công binh…
Tài liệu CS (hồi ký Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân) cho biết tại phiên họp ngày 25-3, Bộ Chính Trị Trung ương đảng khẳng định thời cơ chiến lược mới đã đến. Hà Nội có điều kiện sớm hoàn thành cuộc tổng tiến công xâm lược, tập trung các lực lượng binh khí kỹ thuật giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
BV hối hả chuyên chở bằng cả ba phương tiện đường thủy, đường bộ, đường hàng không để chuyển vận vũ khí, quân nhu, nhân lực … đánh một ván bài chót
Tài liệu CS (hồi ký Văn Tiến Dũng, các Chương XI, XII, XIII) cho biết Quân khu 5 của BV tổ chức một đoàn xe chở thẳng vào Nam bộ đạn dược tiếp liệu cũng như chiến lợi phẩm vừa lấy được của VNCH, đoàn xe do Thiếu Tướng Võ Thứ, phó Tư lệnh Quân khu V chỉ huy. Trong khi ấy các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Kontum…nhộn nhịp khác thường, các loại máy bay lên thẳng, vận tải, chở khách đều được huy động để chở người, súng đạn, vũ khí, chở sách báo phim ảnh, tranh, nhạc .. mà còn chở hàng tấn bản đồ Sài Gòn – Gia Định vừa in xong ở xưởng in Bộ Tổng tham mưu tại Hà Nội. Các bến sông Hồng, sông Gianh, sông Mã, sông Hàn và các bến cảng Hải Phòng, Cửa Hội, Thuận An, Đà Nẵng ngày đêm nhộn nhịp. Các mặt hàng quân sự được bốc xếp kịp thời lên các đoàn tầu vận tải của Bộ Giao Thông vận tải và tầu Hải Quân nhân dân để đưa vào Nam. Hà Nội huy động hết mọi phương tiện thủy bộ, hàng không để chuyển ra mặt trận một số lượng quân đội và vũ khí lớn chưa từng có.
Ngày 4-4-1975 Phan Rang và Phan Thiết được sáp nhập vào Quân khu 3. Tại Phan Rang lực lượng ta gồm 2 Trung đoàn bộ binh 4 và 5 thuộc Sư đoàn 2, 1 lữ đoàn Dù, 1 liên đoàn Biệt Động quân, 4 tiểu đoàn Địa phương quân, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, một giang pháo hạm, một hải vận hạm. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh tiền phương Quân đoàn III đóng tại Tháp Chàm.
Phan Rang phố xá vắng tanh, dân di tản về Phan Thiết rất nhiều, ngày 14-4 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang tại phi trường, một tiểu đoàn Dù đụng độ Việt Cộng, địch bỏ xác cả 100 tên. Ngày 15-4 Phó Thủ tướng đặc trách Quốc phòng Trần văn Đôn và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Khi phái đoàn vừa về thì Việt Cộng tấn công mạnh, địch tăng cường Sư đoàn 325 và nhiều chiến xa. Quân đội VNCH phản công dữ dội nhưng không thể chống lại lực lượng địch quá đông phải rút lui, Trung đoàn 4 và 5 tan rã. Khuya ngày 16-4 chỉ có 200 người thoát vòng vây, các sĩ quan thuộc Bộ tư lệnh tiền phương và Sư đoàn 6 không quân bị bắt hết, các đơn vị của VNCH tại đây coi như tan rã, BV chiếm được 40 máy bay tại Phan Rang.
Hai hôm sau ngày 18-4 Phan Thiết cũng bị lọt vào tay Cộng quân.
Quân đoàn 4 CSBV gồm các đơn vị đã chiếm QK II VNCH theo Quốc lộ 1, Quốc lộ 20 tiến về Sài Gòn, gần giao điểm của hai Quốc lộ này là Xuân Lộc thuộc tỉnh Long khánh cách Sài Gòn 60 cây số, Xuân lộc giữ vị trí quan trọng bảo vệ phi trường Biên Hoà.
Phạm vi trách nhiệm của Sư đoàn 18 là Long Khánh, phụ trách an ninh phía Bắc căn cứ Long Bình, Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân Biên Hoà. CSBV huy động Sư đoàn 6, Sư đoàn 7, Sư đoàn 341, Sư đoàn 1, Sư đoàn 325, Trung đoàn biệt lập 95B.
BV đánh Xuân Lộc nhằm các mục tiêu.
-Tấn công tuyến phòng thủ then chốt phía đông như Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tầu.
-Kéo lực lượng VNCH ra ngoài để tiêu diệt, mở cửa lớn để vào Sài Gòn.
-Thu hút lực lượng VNCH vào phía Đông để đưa các lực lượng khác tới Bắc và Tây Bắc Sài Gòn.
Sư đoàn 18 VNCH và CSBV hỗn chiến dữ dội từ sáng 9-4 cho tới ngày 15-4 khi chiến đoàn 52 bị BV tràn ngập. Sáng ngày 16-4 Tướng Toàn cho lệnh thả 2 trái bom Daisy Cutter tại Bắc Gầu Giây tiêu diệt nhiều đơn vị bộ binh, thiết giáp, pháo binh địch. Ngày 20-4 Tướng Toàn bay trực thăng vào Xuân Lộc gặp Tướng Đảo bàn kế hoạch lui binh. Sư đoàn 18 rút lui vào lúc đêm vừa đánh vừa rút, giữ trật tự bình tĩnh, tối 20 trung đoàn 48 về đến Long Giao đặt pháo binh yểm trợ tổng quát cho cuộc lui binh, sau đó truyền tin, công binh, pháo binh, quân y… rút theo.
Sư đoàn 18 thiệt hại 30% quân số, Địa phương quân nghĩa quân bị thiệt hại nặng.
Từ ngày 8-4 -1975 Lê Đức Thọ, trùm CSBV chủ toạ phiên họp tại Lộc Ninh với các cán bộ thuộc Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tổng tham mưu CS. Thọ tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn Chợ Lớn, Tư lệnh Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy Phạm Hùng, Phó Tư Lệnh Thượng Tướng Trần Văn Trà. Bộ Tư lệnh bàn kế hoạch đánh chiếm Bộ TTM, dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ đô, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Phi trường Tân Sơn Nhất.
Những ngày cuối tháng Tư đen 1975.
Ngày 21-4, Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng thống tại dinh Độc lập để rồi mấy hôm sau lên máy bay ra khỏi nước.
Phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay, trong khi ấy các nhà ngoại giao quốc tế ra sức vận động hai bên để tránh cho Sài Gòn khỏi trở thành bãi chiến trường. Mấy hôm sau Cộng quân bắn 4 trái hoả tiễn 120 ly vào Khánh Hội làm cháy mấy chục căn nhà. Đài BBC nói BV cảnh cáo chính phủ Trần Văn Hương phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ định, người ta hiểu ngay đó là nhóm chính khách thứ ba do ông Dương Văn Minh lãnh đạo. Ngày 27-4 lưỡng viện Quốc Hội nhóm họp để biểu quyết việc trao quyền cho Dương Văn Minh.
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly VC đồng thời bảo vệ các căn cứ quan trọng tại Biên Hoà, Củ chi, Lai Khê, Long Bình. (Theo Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập)
thelastbattlessaigon
Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi với Sư đoàn 25 BB và hai Liên đoàn 8, 9 Biệt động quân. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc với Sư đoàn 5 BB. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc với Sư đoàn 18 BB và lực lượng Xung kích Quân đoàn III. Tuyến Vũng tầu và Quốc lộ 15 do Lữ đoàn 1 Dù cùng với một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 3 BB và các đơn vị Thiết giáp, Địa phương quân, Nghĩa quân của Tiểu khu Phước Tuy phụ trách. Tuyến Long An phía Nam ngoài lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân cơ hữu còn có Sư đoàn 22 BB phụ trách cộng với sự tăng cường của Trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn 7 BB, Trung đoàn 14 thuộc Sư đoàn 9 BB và Liên đoàn 6 BĐQ.
Năm tuyến phòng thủ chính của VNCH cũng trùng với 5 hướng tấn công của năm Quân đoàn CSBV: Hướng Tây Nam là Đoàn 232, (Tư lệnh Trung Tướng Lê Đức Anh, Chính Uỷ Thiếu Tướng Lê Văn Tưởng) với các Sư đoàn 3, 5, 8, 9 BB và Sư đoàn 27 đặc công cộng với 4 Trung đoàn độc lập 16, 24, 88, 71 và Trung đoàn phòng không tiến từ sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa. Quân đoàn 3, (Tư lệnh Thiếu Tướng Vũ Lăng, Chính Uỷ Đại Tá Nguyễn Hiệp) gồm các Sư đoàn 10, 316, 320 và 968 tiến về phía Tây Ninh. Phía Bắc là Quân đoàn 1, (Tư lệnh là Thiếu Tướng Nguyễn Hoà, Chính Uỷ Thiếu Tướng Hoàng Minh Thi) gồm các Sư đoàn 312, 320B và 308 từ Lộc Ninh và Phước Long tiến về khu tập trung ở phía Nam sông Bé. Quân đoàn 4, (Tư lệnh Thiếu Tướng Hoàng Cầm, Chính Uỷ Thiếu Tướng Hoàng Thế Thiện) gồm các Sư đoàn 6, 7 và 341 sau khi chiếm Xuân Lộc đang tiến về Trảng Bom. Mũi sau cùng là Quân đoàn 2 (Tư lệnh Thiếu tướng Nguyễn Hữu An, Chính Uỷ Thiếu Tướng Lê Linh) gồm các Sư đoàn 3 Sao vàng, 304, 324B, và 325 tiến đánh Long Thành, Vũng Tầu, Phước Lễ. (dựa theo tác giả Nguyễn Đức Phương).
Kế hoạch CSBV như sau: Hướng Tây Bắc: Quân đoàn 3 và Địa phương quân Tây Ninh, Củ Chi, các lực lượng đặc công biệt động, tăng pháo tiến đánh căn cứ Đồng Dù, tiêu diệt Sư đoàn 25 VNCH từ Củ Chi đến Trảng Bàng rồi tiến đánh Tân sơn nhất, phối hợp với Quân đoàn 1 đánh Bộ Tổng Tham mưu sau đó tiến về Dinh Độc Lập. Hướng Bắc và Đông Bắc Quân đoàn 1, được tăng cường Trung đoàn 95 ( SĐ 325) cùng các lực lượng đặc công, pháo binh, hoả tiễn.. bao vây căn cứ Bình Dương, Bến Cát rồi đánh BTTM, BTL các binh chủng Gò gấp rồi tiến về dinh Độc Lập. Hướng Đông Quân đoàn 4 tiến đánh Biên Hoà, phi trường BH rồi tiến vào quận 1 Sài Gòn. Hướng Đông Nam Quân đoàn 2 đánh Bà Rịa, Vũng Tầu để chặn đường rút lui của VNCH, chiếm căn cứ Nước Trong Long thành, pháo kích phi trường Tân Sơn Nhất, chiếm Long Bình. Hướng Tây, Tây Nam Đoàn 232 và Chủ Lực quân Quân khu 8 đánh chiếm Hậu nghĩa, rồi tiến đánh Biệt Khu Thủ Đô, Tổng Nha Cảnh Sát, bến cảng Bạch Đằng. Các Quân đoàn đều có nhiệm vụ chiếm Dinh Độc Lập, Quân đoàn nào tới trước thì đánh trước.
Quân đội VNCH như chúng ta đã biết từ cuối tháng 3-1975 đã mất một nửa lực lượng chủ lực quân. Tại Quân khu III miền Nam chỉ còn 3 Sư đoàn 25BB, 5BB, 18 BB và các đơn vị di tản từ miền Trung về với quân số thiếu hụt, tổng cộng vào khoảng 5 Sư đoàn để đối đầu với khoảng 20 Sư đoàn CSBV. Về lực lượng hai bên, tác giả Nguyễn Đức Phương (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập) đã nói.
“Về tương quan lực lượng giữa hai bên thì QLVNCH chỉ có 6 sư đoàn để bảo vệ thủ đô chống lại một lực lượng đông đảo với quân số gần 20 sư đoàn CSBV. Ba sư đoàn 7, 9 và 21 BB thuộc quân đoàn IV QLVNCH không thể dùng để tiếp ứng do điều kiện an ninh lãnh thổ của vùng đồng bằng sông Cửu Long”
Tac giả trích tài liệu CS như sau:
“CS cũng đã xác nhận cán cân lực lượng trong chiến dịch này như sau:
Ta: 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và 232 bao gồm 15 sư đoàn bộ binh, 5 lữ đoàn bộ binh biệt lập, 4 trung đoàn tăng thiết giáp và 6 trung đoàn đặc công. Quân số tổng cộng khoảng 280 ngàn với 400 xe tăng và 420 pháo.
Địch: 5 sư đoàn bộ binh 5, 18, 22 và 25, sư đoàn TQLC, 2 lữ đoàn Dù, lữ đoàn 3 Kỵ binh và 4 liên đoàn Biệt động quân. Quân số tổng cộng khoảng 240 ngàn với 625 xe tăng thiết giáp và 400 pháo”
Quân số của BV gồm 280 ngàn người trong đó đa số là thành phần tác chiến, lính VC không có lương nên không có các đơn vị hành chánh tài chánh, họ cũng không có cứu thương y tế nên nói chung thực lực đông đảo hơn miền Nam. Sau khi chiếm được Quân Khu I và II VNCH, Cộng quân chỉ để lại Địa phương quân và du kích cai quản và đưa toàn bộ Chủ lực quận vào chiến dịch. Họ dốc toàn lực vào canh bạc cuối cùng này: 5 quân đoàn (1, 2, 3, 4 và 232) tổng cộng 15 Sư đoàn, công thêm trên 5 Trung đoàn độc lập và 6 Trung đoàn đặc công toàn bộ lực lượng vào khoảng gần 20 Sư đoàn.
Quân số của VNCH là 240 ngàn nhưng trong đó chỉ có khoảng 60 ngàn là lính nhà nghề, còn lại là Địa phương quân, Nghĩa quân và các thành phần không chiến đấu. BV có đầy đủ tiếp liệu đạn dược trong khi miền Nam đã kiệt quệ về tiếp liệu đạn dược nhất là lính pháo binh phải đếm từng viên đạn. Sau khi đoàn quân di tản từ miền Trung kéo vào Nam, Bộ Tổng tham mưu đã mở kho vét hết súng đạn để tái trang bị. Ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH trang 92 ) cho biết đạn dược chỉ đủ xử dụng trong khoảng hai tuần lễ. Lực lượng hai bên trên thực tế quá chênh lệch, ưu thế nghiêng hẳn về phía Cộng quân.
Từ 26-4-1975 CSBV đã bắt đầu tấn công vào Trường Thiết Giáp Long Thành, căn cứ Nước Trong, đặc công đánh Tân cảng , cầu xa lộ, đài ra đa Phú Lâm nhưng thất bại bị đẩy lui. Bắc Việt đã cho mở chiến dịch Hồ Chí Minh từ 26-4, hai ngày trước khi ông Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống, họ không đếm xỉa gì tới việc thương thuyết.
Sáng ngày 27-4 Sư đoàn 3 BV tấn công chiếm Phước Lễ, Lữ đoàn Dù rút về Vũng Tầu, Sư đoàn 18 được lệnh lui về giữ Trảng Bom. Phía Tây các căn cứ dọc theo Vàm Cỏ Đông lần lượt bị chiếm. CSBV pháo phi trường Biên Hoà dữ dội, Sư đoàn 3 Không quân phải di về Tân Sơn Nhất và Cần thơ. Phía Tây Nam Đoàn 232 CSBV (gồm 3 Sư đoàn) cắt Quốc lộ 4 nhiều nơi để chận viện binh từ Quân khu 4, phía Bắc Quân đoàn 1 BV tiến về Thủ Đầu Một, phía Tây Bắc Quân đoàn 3 BV cắt Quốc lộ 1 và 21 để chặn đường rút của Sư đoàn 25 BB.
Chiều ngày 28-4 ông Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng thống tại dinh Độc Lập, chừng một tiếng sau, phi công nằm vùng trung úy Nguyễn Thành Trung hướng dẫn năm phi cơ A-37 của VNCH do BV chiếm được ném bom phi trường Tân Sơn Nhất rung chuyển trời đất khiến dân chúng Đô Thành hốt hoảng. Tối hôm ấy BTL Quân đoàn 3 di chuyển từ Biên Hoà về Gò Vấp.
Tại Bộ TTM, từ chiều 28-4-1975 Đại tướng Cao Văn Viên và Chuẩn Tướng Thọ đã ra đi. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng rời BTTM trưa 29-4. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đã bỏ đi. Đến trưa 29-4 các Tướng có thẩm quyền tại BTTM đã ra đi gần hết. Ông Dương Văn Minh cử một số Tướng và cựu Tướng lãnh vào làm việc tại BTTM: Trung Tướng Vĩnh Lộc Tổng tham mưu trưởng, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh phụ tá, Lâm Văn Phát Tư Lệnh Biệt Khu Thủ đô. Chiều 29-4 Tướng Vĩnh Lộc họp các Tướng lãnh, sĩ quan cao cấp còn sót lại và kêu gọi cố gắng hoàn tất trách nhiệm. Tối 29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.
“Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hãy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”
Tân Tổng Tham mưu trưởng Vĩnh Lộc lớn tiếng chỉ trích Thiệu và kêu gọi anh em binh sĩ giữ vững phòng tuyến.
“…Y đã để cho cả một đạo quân tháo chạy như một lũ chuột, chính y gây ra thảm trạng này và bây giờ cũng chính y là người bỏ trốn…”
Từ 4 giờ sáng ngày 29-4 Bộ TTM, phi trường Tân Sơn nhất, BTL Hải quân bị pháo kích dữ dội. Cộng quân chiếm được Nhơn Trạch đặt hai khẩu 130 ly và bắn 300 quả vào Tân Sơn Nhất gây nhiều thiệt hại, các bãi đậu phi cơ, bồn chứa nhiên liệu, kho đạn bị trúng pháo kích gây nhiều đám cháy lớn. Sư đoàn 325 BV chiếm Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, tiến về Cát Lái. Sư đoàn 304 chiếm căn cứ Nước Trong.
Trong khi ấy ông Dương văn Minh cử ba người sứ giả đến trại David tại Tân Sơn Nhất để thương thuyết ngưng bắn với phái đoàn Quân sự VC nhưng bị Đại tá CS Võ Đông Giang bác bỏ.
Tại Biên Hòa lực lượng xung kích Quân đoàn III VNCH của Chuẩn Tướng Trần quang Khôi (gồm các Chiến đoàn 315, 318, 322) vẫn giữ được phòng tuyến. Buổi chiều Bộ Tư lệnh Hải quân và Không quân di tản. Một Liên đoàn BĐQ tại Bến Tranh Bắc Mỹ Tho được lệnh trực thăng vận về Cần Đước ngăn chận Việt Cộng trên liên tỉnh lộ 5A nhưng không có trực thăng, do đó Chợ Lớn được coi như bỏ ngỏ. Đến tối Cộng quân đụng độ với các Chiến đoàn 315, 322 tại hai hướng Đông Bắc thành phố. Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham mưu trưởng lệnh cho Sư đoàn 18 BB rút về giữ khu vực nằm giữa Thủ Đức và nghĩa trang Quân đội.
Phía Bắc, căn cứ Lai Khê của Sư đoàn 5 bị pháo kích dữ dội, quận Bến Cát bị tấn công.
Phía Tây 2 Liên đoàn 8, 9 BĐQ bị thiệt hại nặng, CSBV bỏ xác cả trăm người cùng 18 xe tăng bị bắn cháy, Quốc lộ 1 giữa Sài Gòn và Củ Chi bị gián đoạn.
Sư đoàn 22 BB vẫn làm chủ được tình hình phía Nam, mặc dù bị tấn công.
Chiều 29-4 Toà Đại sứ Mỹ bắt đầu di tản bằng trực thăng, sau 19 giờ bay liên tục 80 trực thăng đã chở đi được hơn 1,000 người Mỹ và khoảng 6,000 người Việt Nam ra ngoài hạm đội.
Ngày 30-4 Trung đoàn 24 CSBV (SĐ 10) giao tranh ác liệt với quân Dù tại Ngã Tư Bẩy Hiền và Lăng Cha Cả, BV bị thiệt hại nặng tới 50% quân số. Cộng quân tấn công trại Hoàng Hoa Thám, BTL không quân, căn cứ Sư đoàn 25 BB VNCH thất thủ, Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá bị bắt.
Cộng quân xâm nhập Ngã Tư Bẩy Hiền, trong vòng 15 phút có 6 chiến xa bị Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù bắn hạ, lính BV bị chận đánh phải rút khỏi ngã tư Bẩy Hiền.
Theo Tướng Hoàng Lạc, Đại tá Hà Mai Việt (Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990): TT Dương Văn Minh lại cử người tới Tân Sơn Nhất để thương thuyết với phái đoàn CS xem có vớt vát được tí nào không nhưng họ vẫn một mực đòi phải buông súng đầu hàng nếu không sẽ pháo kích ồ ạt vào Thủ đô. Sài Gòn bây giờ đang nằm trong tầm pháo của BV. Cộng quân đã vào sát thành phố, thấy không hy vọng cứu vãn được tình thế, ông Dương Văn Minh bèn lên tiếng trên đài phát thanh vào lúc 10 giờ 30 sáng kêu gọi các vị Tướng lãnh, các cấp chỉ huy QĐVNCH hãy liên lạc với các đơn vị Cộng Hoà Miền Nam nơi gần nhất giao nạp vũ khí thực hiện ngưng bắn tại chỗ để tránh đổ máu vô ích. Khi ấy tiếng súng trận khắp nơi đều đã im bặt.
Khi có lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, Chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù lấy xe Jeep vào Bộ TTM, lính gác cho biết ông Vĩnh Lộc đã ra đi từ 6 giờ sáng, các Tướng lãnh, sĩ quan cao cấp không còn ai. Thiếu tá Tài bèn gọi về phủ Tổng Thống xin nói chuyện với Đại Tướng Dương Văn Minh. Tài nói các chiến sĩ của ông đang tử chiến với VC để bảo vệ BTTM thì có lệnh ngưng bắn nhưng địch vẫn tiến vào, BTTM không còn ai, xin Tổng thống quyết định.
“Tướng Minh trả lời “các em chuẩn bị bàn giao đi”.
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại “Bàn giao là như thế nào thưa Đại Tướng, có phải là đầu hàng không?
Tướng Minh đáp “Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập”.
Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay “Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào Dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống”.
Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp “Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước hai ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng tham mưu”
Tướng Minh trả lời “Tuỳ các anh em”.
(Vương Hồng Anh, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH Những Ngày Cuối Cùng.)
Ông Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn thì Lê Đức Thọ ban lệnh cho các Quân đoàn BV không chấp nhận đình chiến và cứ tiến thẳng vào Sài Gòn.
Cộng quân tiến vào Thủ Đô đang bỏ ngỏ làm bốn ngả: Cánh thứ nhất từ Long Khánh theo xa lộ Biên Hoà, thứ hai từ Củ Chi qua Ngã Tư Bẩy Hiền, thứ ba từ Long An kéo lên qua ngả Phú Lâm Chợ Lớn, cánh cuối cùng từ Bình Dương theo xa lộ Đại Hàn vào Hàng Xanh.
Báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng 30-4 cho biết đoàn quân vào dinh Độc Lập trước nhất là cánh từ Long An, họ có chụp hình những chiếc xe lội nước PT-76 vào sân dinh và bộ đội thiết giáp CS trên xe nhẩy xuống. Theo tài liệu của ký giả ngoại quốc hoặc do lời kể của các viên chức chính phủ trong dinh Độc Lập thì cánh quân từ Biên Hoà cùng với các xe T-54 đã tiến chiếm dinh Độc Lập trước tiên.
Báo Sài Gòn Giải Phóng và Quân Đội Nhân Dân năm 1976 cho biết người đi đầu là một viên đại uý, được các viên chức tiếp đón tại cửa vào, y hỏi thăm đường lên lầu rồi vội kéo cờ vàng của VNCH xuống để treo cờ Mặt trận lên để chứng tỏ giang sơn này, đất nước này đã hoàn toàn thuộc về CS.
Quân đội CSBV bắt Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng. Theo lời kể của cựu dân biểu Lý Quí Chung thì cả những sĩ quan cấp úy BV khi mới vào dinh cũng quát tháo những người cầm đầu chính phủ và gọi họ bằng anh.
“Các anh phải hàng hết”
Sau khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì các mặt trận quanh Sài gòn đều im tiếng súng chỉ còn một vài trận lẻ tẻ như tại Hố Nai, bốn tiếng sau lệnh đầu hàng, Thiếu Uý Tư, Biệt kích Dù và năm người lính thân tín dùng súng chống chiến xa M-72 phục kích bắn cháy, lật một xe Jeep, một T-54, 2 xe Molotova… rồi chạy thoát hết.
Nghe lệnh đầu hàng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư Lệnh Quân đoàn II và Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 tự sát. Quân khu IV vẫn còn nguyên vẹn, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không cho giật sập cầu Long An như Tỉnh trưởng đề nghị. Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó tự tử chiều tối 30-4, hôm sau 1-5 Tướng Nam tự sát lúc 7 giờ rưỡi sáng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai Tư lệnh Sư đoàn 7 cũng tự vẫn. Ngoài ra có nhiều người tuẫn tiết trước ngày tàn của đất nước như Thiếu tá Đặng Sĩ Vinh thuộc BTL Cảnh sát Quốc gia tự sát lúc 2 giờ chiều 30-4 cùng vợ và 7 người con tại nhà riêng. Trung tá Vũ đình Duy, Trung tá Nguyễn Văn Hoàn thuộc Đơn vị 101 tự sát… Nhiều quân nhân Biệt kích Dù cũng như nhiều binh chủng khác đã mở lựu đạn tự tử thất vọng chán nản vì mất nước. Nhiều người tự sát ngoài mặt trận như Trung tá Nguyễn Hữu Thống Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 (Sư đoàn 22) khi tầu Hải quân vào Qui Nhơn cứu đám tàn quân của Sư đoàn cuối tháng 3-75 , Trung tá Thống từ chối di tản ở lại tự sát.
Tháng 4 năm 2006 một cựu sĩ quan tham mưu của Quân đoàn IV (VNCH) tiết lộ ngày 30-4-1975 họ đã dự định hành quân qua Miên sang Thái Lan hoặc ra Phú Quốc lập phòng tuyến chống lại CS, cũng có người cho rằng Quân khu IV chờ chính phủ Sài Gòn dời xuống để tiếp tục chiến đấu nhưng TT Dương Văn Minh lại đầu hàng địch. Theo lời kể của Trung uý Danh, tuỳ viên của Tướng Nam thì ông là người nhân ái, sùng đạo Phật không muốn đổ máu.
“Là một tư lệnh Quân đoàn, đã nắm trong tay nhiều đơn vị trung thành, tướng Nguyễn Khoa Nam có thể ra lệnh tiếp tục chiến đấu, nhưng là vị tướng có lòng nhân ái, không muốn binh sĩ và đồng bào đổ máu vô ích, ông không cho phá cầu, ông không muốn có người chết thêm”
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bút ký của Trung úy Lê Ngọc Danh.
Nhận xét về Tướng Dương Văn Minh nhiều người hồi đó cũng như bây giờ chỉ trích chê bai ông là kẻ đầu hàng địch, dâng nước cho CSBV, nhưng cũng có nhiều người tán đồng quyết định củaTướng Minh cho rằng tiếp tục chiến đấu sẽ chỉ gây thêm tang tóc đổ máu vô ích không hy vọng gì cứu vãn tình thế. Sau khi ra định cư tại Hải ngoại, Tướng Dương Văn Minh đã trả lời phỏng vấn:
“Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Theo Tướng Vanuxem, sáng 30-4-1975 Trung Tướng Vĩnh Lộc báo cáo với ông Dương Văn Minh tình hình mặt trận, ông xoè bàn tay cho biết đã hỏng hết rồi, Sư đoàn 25 tại Củ Chi và Sư đoàn 18 tại Thủ Đức bị tan rã hoặc rút lui, các lữ đoàn Dù và TQLC tại Vũng Tầu mất liên lạc, Sư đoàn 5 tại Lai Khê đang bị bao vây… Cộng quân đã vào tới Ngã Tư Bảy Hiền đang giao tranh với Biệt Cách Dù.
Sau 30-4-1975, Thủ trưởng trường học tập cải tạo Long Thành cho biết Dương Văn Minh đầu hàng vì ông đã thua hết cả, nếu lực lượng còn mạnh chưa chắc ông ta đã chịu cho buông súng.
BV bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài Gòn từ 26-4- 1975, bốn ngày sau phòng tuyến của VNCH sụp đổ. Trước khi Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống người ta đã đoán biết công việc của ông chỉ là để đầu hàng. Một viên chức hành chánh thân cận của ông Trần Văn Hương sau này tiết lộ hồi đó ông Hương cho biết người ta đã sắp đặt sẵn để ông Thiệu bàn giao cho ông Hương rồi ông Hương bàn giao cho ông Minh, ngay cả việc Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tuỳ viên quân sự DAO Mỹ rút lui cũng là do người ta sắp đặt cả.
Khi Dương Văn Minh đang làm lễ bàn giao ngày 28-4 thì đài BBC đã nói.
“Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử giữ chức vụ Quyền Tổng thống do ông Trần Văn Hương trao lại để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng”
Trong phim VietNam a Television History (Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình) do các ký giả, sử gia Mỹ, Anh, Pháp thực hiện đã được chiếu ở VN giữa thập niên 80, Chuẩn Tướng không quân Phan Phu Tiên trả lời phỏng vấn và kết luận.
“Chúng tôi là cấp lớn mà bỏ chạy đi như thế này thì cũng nhục nhã lắm nhưng mọi việc người ta đã sắp đặt sẵn cả rồi, dẫu muốn gì cũng đành bó tay không thể làm hơn được”
Khi hai ông Thiệu và Khiêm ra đi hôm 24-4-1975, quân dân hoàn toàn thất vọng , họ thừa hiểu số phận của miền Nam như thế nào, lại nữa hai hôm sau, Tổng Thống Trần Văn Hương hiệu triệu đồng bào về tình hình vô cùng bi đát của đất nước, ông đã khóc lóc trên làn sóng điện về viễn ảnh “núi xương sông máu của thành phố Sài Gòn” khiến cho người dân ai nấy hồn lạc phách siêu, chuyện bí mật Quốc gia đã được công khai tuyên bố trên đài phát thanh.
Quân đội VNCH không đủ lực lượng để chống lại gần 20 Sư đoàn Cộng quân và vì tiếp liệu đạn dược kiệt quệ. Đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến binh sĩ thất vọng. Lực lượng phòng thủ dần dần rã ngũ, một số đơn vị cảm tử chiến đấu tới cùng nhưng cũng không thể chống nổi lực lượng quá đông đảo của BV.
Trận đánh cuối cùng đã kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ kéo dài có mấy ngày từ 26-4 cho tới 30-4 -1975, cũng vào ngày này 30 năm trước đó, năm 1945 tại Bá Linh quân Đức đầu hàng Nga. Sài Gòn tái diễn lịch sử nước Đức Thế Chiến Thứ Hai, có khác chăng tại Bá Linh giới lãnh đạo không bỏ trốn và ép buộc quân đội của họ chiến đấu tới người lính cuối cùng.
Kể từ ngày Cộng quân đánh chiếm quận Đức Lập ngày 9-3-1975 và Ban Mê Thuột ngày 10-3 để mở đầu cuộc Tổng tấn công cho tới ngày 30-4-1975, ngày kết thúc chỉ vỏn vẹn có năm mươi mấy ngày.
Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp tại Hà Nội nửa đêm 19-12-1946 là ngày khởi đầu cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ đến trưa ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc tính ra đã được ba mươi năm và Việt Nam đã trở thành bãi chiến trường tan nát vì bom đạn.
Những kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn núi xương sống máu sẽ đời đời đắc tội với Non sông Tổ quốc.
Trận chiến tại Cầu Tân Cảng ngày 28-4-1975
Trọng Đạt
Tham Khảo
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003.
Đoàn Thêm: 1969 Việc Từng Ngày, Xuân Thu.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng, Nam Việt 2006
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005
Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.
Trần Quang Khôi: Chiến Đấu Đến Cùng: Vai Trò Của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích QĐ III Trong Năm Ngày Cuối Của Cuộc Chiến Việt Nam. Nguoivietboston.com .
Phạm Bá Hoa: Giờ Thứ 25, Người Việt Dallas, số ngày 21-8-2009.
Trần Văn Đôn: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối, Trích trong Hồi ký Việt nam Nhân Chúng.
Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas 30-6-2005.
Motgoctroi.com: Đài VOA Ngày 2-7-2007: Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ (Laird) :Việt Nam Cộng Hoà Thua Trận Vì Bị Mỹ Cằt Viện Trợ.
Motgoctroi.com: Vương Hồng Anh: Những Ngày Cuối CủaViệt Nam Cộng Hoà,
- See more at: http://namviet.net/b…/tran-danh-cuoi-cung-sai-gon-that-thu/…
Năm 1964, 65 lợi dụng tình hình chính trị miền nam bất ổn, Hà…
namviet.net
Nguồn: https://www.facebook.com/mai.nguyenhuynh.3/posts/1085900648149811
Trận chiến tại Cầu Tân Cảng ngày 28-4-1975
Xuất bản 25 thg 6, 2012
Battle
for Newport Bridge VIETNAM: Newport Bridge: 28.4.1975 South Vietnamese
troops pinned down on bridge. Troops mill around armoured personnel
carrier. Troops fire mortar. Soldier carrying injured comrade on back
along bridge. Troops on bridge under fire. Man fires M16 weapon. Troops
bringing back wounded. Shaky tracking shots as troops and film crew
retreat under fire. Troops ignore wounded man lying in middle of road.
Wounded being treated. More fighting. Battle continues. South Vietnamese
troops carrying wounded children. Wounded North Vietnamese female
soldier carried on stretcher. Michael Nicholson piece to camera.
(Source: http://www.itnsource.com/en/compilati... )
Vietnam war 1972 - 1975 | VNCH - Sài Gòn thất thủ 30/4/1975 | HD | 2011 | Created by NTTnew01
https://youtu.be/KCUrb8K4ofc
Sang Bui Kim đã thêm 2 ảnh mới.
TRẢ " DANH DỰ " LAI CHO QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA .
Đó là một phần trích đoạn , trong cuốn sách của tác giả Uwe Siemon Netto ,mang tựa đề ..(ĐỨC .Tình yêu của một phóng viên cho một dân tộc nhiều đau thương.)
-Với những lập luận sâu sắc và chứng cớ rõ ràng , ông đã chứng minh là . Sự thất bại của VNCH và các đồng minh là do thái độ không trung thực của giới truyền thông Hoa Kỳ vào thời điểm đó , trong lúc ngoài mặt trận , các đơn vị của Hoa Kỳ và VNCH không hề bị thất trận thì giới truyền thông Hoa Kỳ đã bóp méo sự thật , dẫn đến sự phân hóa trong dư luận công chúng nước Mỹ và làm dấy lên phong trào phản chiến khiến giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải nghĩ đến giải pháp rút chân ra khỏi miền nam VN , cũng như đánh nuốt lời hứa bỏ rơi VNCH.
Ông nói ." Là một quân đội mà có đến 5 tướng lãnh , chưa kể vô số những sĩ quan các cấp khác , đã quyên sinh vào những giây phút cuối cùng . thì không thể là một quân đội hèn yếu như cộng sản và giới truyền thông lá cải Mỹ thường bêu rếu . Điểm lại quân sử thế giới , có lẽ chỉ có quân đội hoàng gia Nhật mới có những vị tướng anh hùng , thà chết chứ không để mất danh dự như vậy ." Có một đoạn khi ông kể về một tiểu đoàn VNCH bị vc tràn ngập , giết hết bộ chỉ huy . thoạt đọc , tưởng chừng tiểu đoàn VNCH này vô dụng những suy nghĩ một chút , chúng ta cảm nhận rằng . một đơn vị mà toàn bộ sỹ quan chỉ huy chết trước lính , thì đó rõ ràng không thể nào là một quân đội hèn nhát ....
Đó là một phần trích đoạn , trong cuốn sách của tác giả Uwe Siemon Netto ,mang tựa đề ..(ĐỨC .Tình yêu của một phóng viên cho một dân tộc nhiều đau thương.)
-Với những lập luận sâu sắc và chứng cớ rõ ràng , ông đã chứng minh là . Sự thất bại của VNCH và các đồng minh là do thái độ không trung thực của giới truyền thông Hoa Kỳ vào thời điểm đó , trong lúc ngoài mặt trận , các đơn vị của Hoa Kỳ và VNCH không hề bị thất trận thì giới truyền thông Hoa Kỳ đã bóp méo sự thật , dẫn đến sự phân hóa trong dư luận công chúng nước Mỹ và làm dấy lên phong trào phản chiến khiến giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải nghĩ đến giải pháp rút chân ra khỏi miền nam VN , cũng như đánh nuốt lời hứa bỏ rơi VNCH.
Ông nói ." Là một quân đội mà có đến 5 tướng lãnh , chưa kể vô số những sĩ quan các cấp khác , đã quyên sinh vào những giây phút cuối cùng . thì không thể là một quân đội hèn yếu như cộng sản và giới truyền thông lá cải Mỹ thường bêu rếu . Điểm lại quân sử thế giới , có lẽ chỉ có quân đội hoàng gia Nhật mới có những vị tướng anh hùng , thà chết chứ không để mất danh dự như vậy ." Có một đoạn khi ông kể về một tiểu đoàn VNCH bị vc tràn ngập , giết hết bộ chỉ huy . thoạt đọc , tưởng chừng tiểu đoàn VNCH này vô dụng những suy nghĩ một chút , chúng ta cảm nhận rằng . một đơn vị mà toàn bộ sỹ quan chỉ huy chết trước lính , thì đó rõ ràng không thể nào là một quân đội hèn nhát ....
Van Nguyen Phuoc hoi han thi cung da nuon roi
Nguyễn An Khong co gi am-y moi chuyen roi cung on
Tiếp theo...Kỷ niệm Hiệp Định Paris: từ Vinh Quang quá khứ đến Ô Nhục thời đại |
từ Vinh Quang quá khứ đến Ô Nhục thời đại
Lội Ngược
Sau Hiệp Định Paris, ký ngày 27.01.1973, người ta nhắc tới câu thơ "Nam quốc sơn hà, Nam đế cư" (được coi như Tuyên Ngôn Độc Lập của dân tộc ta đổi với Bắc triều), với hàm ý Hiệp Định Paris cũng là văn bản thừa nhận Độc Lập của dân tộc ta đổi với thế giới và mở ra một kỷ nguyên mới, Kỷ Nguyên Độc Lập (1), kể từ khi bị thực dân Pháp xâm chiếm tới ngày này.
Sau ngày 30.04.1975, bộ máy tuyên truyền của Hà Nội đưa ra luận điểm "kể từ nay, đất nước ta sạch bóng quân thù" và nhắc lại câu "nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước bằng 5, bằng 10 ngày nay" (tuyên bố của ông Hồ Chí Minh khi Mỹ bắt đầu oanh tạc miền Bắc, chiến tranh lan rộng ra trên toàn lãnh thổ Việt Nam).
Về mặt lịch sử, nhìn từ góc độ Cách Mạng Tháng Tám (khởi đầu là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc), trải qua gần 30 năm chiến tranh (1945-1973), chí ít là về mặt lý thuyết, với văn bản lịch sử này, người ta có thể coi đây là kết quả của cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta, với bao hy sinh, gian khổ, mất mát của nhân dân ta (đại đa số là nông dân ta gánh chịu).
Khi nhìn lại lịch sử, từ sau Hiệp Định Paris, 30 năm đã qua, chúng ta không khỏi bàng hoàng, xót xa khi thấy từ Vinh Quang quá khứ (1973) lại biến thành Ô Nhục thời đại:
1. Một năm sau Hiệp Định Paris, năm 1974, Trung Quốc đem quân xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa, lúc đó thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH, miền Nam cũ). Có lẽ theo tính toán của họ, thì :
Hoa Kỳ đang bỏ rơi miền Nam và cả Đông Dương (với kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh hay nói cách khác là "thay đổi mầu da của xác chết", còn kết quả của cuộc chiến này không còn là mối quan tâm của Hoa Kỳ), chiến tranh Việt Nam sắp kết thúc và đây là cơ hội để chiếm Hoàng Sa vì khó có khả năng Hoa Kỳ can thiệp trở lại và đối đầu với Trung Quốc trong thời điểm này, VNCH còn phải nỗ lực tiếp tục chiến tranh nên không có sức đề kháng, còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH, miền Bắc cũ) chịu ảnh hưởng, áp lực của họ nên tất nhiên không dám hó hóe; do đó, đây là cơ hội bằng vàng để tạo ra tình trạng đã rồi.
Ngày nay, đối với Trung Quốc, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc về họ, không còn điều gì phải thương thuyết cả !
Sau đó, theo chính sách gặm nhấm, Trung Quốc đã liên tục, từng bước chiếm đóng một số đảo trong quần đảo Trường Sa, lập các đầu cầu quân sự tại các đảo này và họ sẵn sàng "thương thuyết" song phương với một số nước trong vùng cũng lên tiếng đòi chủ quyền, ngoại trừ Việt Nam (!), vì đối với họ Việt Nam không có tiếng nói nào tại quần đảo này cả (viện dẫn công hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ Tướng Chu Ân Lai trước đây).
Để thấy rõ hơn ý nghĩa của việc Trung Quốc, năm 1974, xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa, hãy giả sử là từ sau 30.04.1975, nếu quần đảo Hoàng Sa vẫn còn là của Việt Nam, thì việc các nước khác, kể cả Trung Quốc, muốn xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì không phải là việc dễ !. Vì, ngoài lãnh vực quân sự (là điều Trung Quốc có khả năng thực hiện), trên mọi lãnh vực khác (chính trị, ngoại giao, ...) điều này có nghĩa là có chiến tranh giữa hai nước; trong trường hợp Trung Quốc chiếm được Hoàng Sa, thì điều này có nghĩa là Trung Quốc sử dụng vũ lực xâm lăng nước ta !. Chính vì Trung Quốc đã chiếm được quần đảo Hoàng Sa nên họ dễ dàng dùng chính sách gặm nhấm song song với áp lực chính trị để từng bước lấn chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa, các cuộc đụng độ được giới hạn mức độ để tránh sự chú tâm của dư luận.
2. Năm 1979, lợi dụng lúc Việt Nam đang phải đối phó với Pôn-pốt (tay sai của Trung Quốc) ở miền Nam (có nghĩa là quân chính quy tập trung ở vùng biên giới Việt-Miên, tại biên giới Việt-Trung chỉ còn lại quân địa phương mà thôi), Đặng Tiểu Bình đem quân sang đánh, để "cho Việt Nam một bài học". Trong cuộc chiến tranh biên giới này, Trung Quốc đã lấn chiếm nhiều vùng biên giới, sau đó gài hàng chục triệu quả mìn trước khi rút quân (2), khiến cho Việt Nam không dễ gì lấy lại các vùng bị lấn chiếm. Có lẽ họ đã chuẩn bị tiền đề cho một Hiệp Định Biên Giới Việt-Trung sau này !. Cũng cần nhắc lại là trước và sau chiến tranh biên giới, Trung Quốc vẫn thường xuyên lấn chiếm các vùng đất khác dọc theo biên giới và chẳng ai ngây thơ tới nỗi nghĩ rằng các vùng đất bị lần chiếm chỉ là các nơi "khỉ ho, cò gáy", có mất cũng không sao !, các chiến lược gia của họ tất nhiên phải tính toán địa điểm và giá trị chiến lược của các địa điểm mà họ muốn lấn chiếm (thí dụ: các cao điểm và sử dụng các sắc tộc miền núi)
3. Năm 1999, Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ký tại Hà Nội ngày 30-12-1999, do bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Đường Gia Truyền (Tang Jia-xuan) và bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm ký.
Ngoại trừ các quan chức chóp bu của đáng CSVN, không ai biết gì về nội dung của hiệp ước, do đó chúng ta có quyền nghi ngờ rằng đây là hiệp ước "nhượng đất" cho Trung Quốc, vì nếu đây là một hiệp ước (tương đối) bình đẳng, Việt Nam không bị thiệt thòi quá đáng thì chẳng việc gì Hà Nội phải dấu diếm cả. Một dấu hiệu của sự "nhượng đất" này là ông Lê Khả Phiêu đã bị mất chức Tổng Bí Thư sau đó, trong đại hội 9 đảng CSVN, vì bị chê trách là đã nhượng bộ Trung Quốc quá nhiều và theo các nguồn tin ở trong nước thì chính hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh đã chửi ông Phiêu là "ngu" và đã tiết lộ một số nhân nhượng trong hiệp ước với mục đích là hạ bệ ông này.
Vì Hà Nội mới chỉ công bố Hiệp ước này (ngày 29.08.2002, trên báo Nhân Dân điện tử, trong mục "Đời Sống Chính Trị", tiểu mục "Tìm hiểu pháp luật" (!)) và không công bố các bản đồ (mặc dù chính Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Công Phụng đã tuyên bố: "Bộ bản đồ này là một bộ phận cấu thành và không tách rời của Hiệp ước năm 1999." ! (3)), phụ lục đính kèm, nên không ai biết đich xác là Việt Nam mất bao nhiêu đất đai và đây có phải là các vùng đã bị xâm chiếm trong cuộc chiến tranh biến giới hay không (nói cách khác, đây có phải là hiệp ước nhằm chính thức hóa các vùng đã bị Trung Quốc lấn chiếm hay không). Theo ước tính của những người trong nước thì mất khoảng 720-900 km2 (so với Tân Gia Ba chỉ có khoàng 660 km2).
4. Năm 2000, Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ký tại Bắc Kinh ngày 25-12-2000, do bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Đường Gia Truyền và bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên ký, có chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân và chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương chứng kiến. Hiệp định này được ký cùng một lúc với Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Cũng giống như Hiệp ước biên giới, cho tới nay, Hà Nội không công bố hai Hiệp định này, chỉ được biết qua miệng ông Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng trong cuộc phỏng vấn "dành cho phóng viên VASC Orient trong chiều 28/1/2002" (4): "chúng ta được 53,2% tổng diện tích và Trung Quốc được 46,8% tổng diện tích Vịnh Bắc Bộ".
So với Hiệp Ước Thiên Tân ký giữa Pháp và nhà Thanh, với Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ thì Việt Nam mất khoảng 10.000 km2 vùng biển, đâu là cơ sở pháp lý, công pháp quốc tế để biện minh cho sự mất mát to lớn này ?. Hơn nữa, từ sự mất biển này, đâu là các hậu quả về kinh tế, quốc phòng, ngoại giao, ... ?.
Hiệp định hợp tác nghề cá, với bề ngoài có vẻ như là một hiệp định kinh tế, nhưng điều này cũng có nghĩa là Trung Quốc có quyền giao thông và khái thác vùng biển này và họ có dùng quyền này vào các mục đích quân sự hay không thì không ai biết được.
Đối với Việt Nam, hai Hiệp định về lãnh hải này có nghĩa là dân tộc ta không những bị thiệt thòi rất lớn về kinh tế mà về quốc phòng cũng cần đặt câu hỏi: Việt Nam còn có điều kiện tối thiểu và tối cần để phòng ngự ?.
Đối với toàn vùng Đông Á và thế giới, hai Hiệp định về lãnh hải này có ý nghĩa chiến lược rất lớn: điều này có nghĩa là Trung Quốc kiểm soát được Vịnh Bắc Bộ, và cùng với Hoàng Sa và một phần Trường Sa, làm bàn đạp khống chế toàn bộ vùng Biển Đông !
Các nước trong vùng và thế giới, đặc biệt là các cường quốc như Hoa Kỳ, Nhật Bản, ... sẽ phản ứng ra sao ?, khi Trung Quốc dễ dàng dùng đường biển chuyển hàng lậu, khả nghi, ... qua các nước trong vùng ?, khi giao thông trên Biển Đông bị Trung Quốc khống chế ?, khi Trung Quốc đang trở thành một cường quốc quân sự, với tham vọng bá quyền, bành trướng (5) và với những kẻ cầm quyền độc tài, dùng chiêu bài dân tộc quá khích, ôm mộng phục thù phương tây ?, ... Bài học lịch sử về Hitler còn đó, các chiến lược gia tây phương không đến nỗi dễ quên, hơn nữa, họ làm việc rất có hệ thống, do đó chắc chắn họ có các sách lược, phương án đề phòng (tất nhiên là để bảo vệ quyền lợi của họ) (6).
Đối với dân tộc ta, câu hỏi cần đặt ra là: giả sử như Trung Quốc khống chế Biển Đông, từ đó có khả năng dẫn tới tranh chấp với các cường quốc khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản thì tương lai của dân tộc ta ra sao ?. Hơn nữa, với tiềm năng dầu khí ở vùng Trường Sa, cần nhắc lại câu "nơi nào có dầu khí, nơi đó có tiếng súng !" (Có thể ở Hoàng Sa cũng có dầu khí, nhưng nay Trung Quốc đã chiếm đoạt rồi, đụng vào thì họ xiết cổ dân ta lại !. Trong khi đó ông Lê Công Phụng vẫn lên gân "hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa này là thuộc chủ quyền của Việt Nam" ! (3))
-- (Elvis-Khoeo@BaGia.Com), December 26, 2004
Answers
Response to Kỷ niệm Hiệp Định Paris: từ Vinh Quang quá khứ đến Ô Nhục thời đại
5. Cũng năm 2000, Tuyên Bố Chung Về Hợp Tác Toàn Diện Trong Thế Kỷ Mới Giữa Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Và Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, ký tại Bắc Kinh ngày 25 tháng 12 năm 2000, với Đại diện nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên và Đại diện nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đường gia Triền.Bản Tuyên Bố Chung này khẳng định:
Ix/ Hai bên nhất trí cho rằng, việc hai nước ký kết " Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", "hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", "hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, sẽ thúc đẩy hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển mạnh hơn nữa trong thế kỷ 21. Hai bên cam kết sẽ nghiêm chỉnh thực hiện các thỏa thuận liên quan đã ký kết giữa hai nước, tích cực hợp tác, nỗ lực xây dựng biên giới hai nước thành biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài. Tuyên Bố Chung này cũng khẳng định:
Tháng 2 năm 1999, Tổng Bí thư hai Đảng đã xác định phương châm 16 chữ phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Điều này phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. ..... Để thực hiện có hiệu quả phương châm chỉ đạo 16 chữ, không ngừng thúc đẩy quan hệ hai nước bước sang một giai đoạn phát triển mới trong thế kỷ 21, hai bên đồng ý tăng cường và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực sau: ..... Mặc dù bản Tuyên Bố Chung này không phải là một hiệp định, vời các điều khoản cụ thể phải thực thi, nhưng có ý nghĩa chính trị rất lờn. Hãy xem bản Tuyên Bố Chung Thượng Hải, ký giữa Hòa Kỳ và Trung Quốc năm 1972 (thời kỳ Mao bắt tay Nixon): về thực chất đây là một liên minh ma quỷ, giữa Hòa Kỳ và Trung Quốc nhằm phá vỡ thế quân bình chiến lược "tam quốc" (Hòa Kỳ, Trung Quốc và Liên Xô), đây là một nguyên nhân khiến về sau này Liên Xô "sập tiệm". Trở lại bản Tuyên Bố Chung, với 16 chữ vàng và Hợp Tác Toàn Diện Trong Thế Kỷ Mới: phải chăng điều này có nghĩa là Việt Nam đã bán linh hồn cho quỷ, nhóm cầm quyền Hà Nội đã chính thức tuyên bố thần phục Bắc Kinh ?, tiếp tục và vĩnh viễn trong thế kỷ mới ở thế môi hở, răng lạnh và nếu có tranh chấp Hòa Kỳ - Trung Quốc, thi Việt Nam sẵn sàng làm đội tiền phong của phe xã hội chủ nghĩa (với 5 nước cộng sản còn lại) để đánh đế quốc Mỹ tới người (Việt Nam) cuối cùng, để bảo vệ quê hương (thử hai) của phe xã hội chủ nghĩa (là Trung Quốc) ?
Hơn nữa, đối với Trung Quốc, phải chăng Hợp Tác Toàn Diện Trong Thế Kỷ Mới cũng có nghĩa là Việt Nam không còn có thể có thái độ chống đối Trung Quốc như trong thời kỳ Tổng Bí Thư Lê Duẩn ?. Các chiến lược gia Trung Quốc không đến nỗi chậm hiểu, mau quên !. Và tất nhiên là họ phải đề ra các giải pháp, biện pháp, thủ đoạn để thực hiện ý đồ của họ; nói cách khác, đằng sau các Hiệp định, Tuyên bố chung, họ đã đem cái thòng lọng thắt vào cổ dân ta rồi và khi cần thì họ xiết cổ lại !.
* * *
Các sự kiện năm 1974, 1979, 1999 và 2000 đã phủ nhận câu "kể từ nay, đất nước ta sạch bóng quân thù" !. Nói cách khác "quân thù" không còn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nữa mà chính là Trung Quốc, với chủ nghĩa bá quyền và chính sách bành trướng lãnh thổ, lãnh hải của họ !.
Chỉ cần nhìn lại lịch sử từ 1973 đến nay, theo đúng trình tự thời gian với các mốc thời gian nêu trên, có thể khẳng định rằng Trung Quốc thực sự có âm mưu bành trướng và khống chế Việt Nam, rằng họ thực hiện ý đồ này rất có hệ thống, theo chính sách "tằm ăn lá dâu".
Để thấy rõ hơn ý đồ của họ, cần xem lại các sự kiện trước đó và tình hình hiện nay:
1. Ban đầu, trong thời 2 cuộc chiến tranh Việt Nam, Mao chỉ dùng các mẹo vặt để lấn chiếm đất đai, ve vãn các sắc tộc vùng biên giới làm tay sai cho họ, cài người vào guồng máy đảng và nhà nước ta, rõ rệt nhất là trong vụ Cải Cách Ruộng Đất với ý đồ thay thế người đương quyền (chụp cho họ cái mũ cường hào, địa chủ) và có thể cả trong vụ Xét Lại, Chống Đảng (chụp cho họ cái mũ Xét Lại, là danh từ Mao dùng để ám chỉ Liên Xô; các ông Vũ Đinh Huỳnh, Hoàng Minh Chính, tướng Đặng Kim Giang, ... là nạn nhân của vụ án này; ngoài ra đây cũng là một cách để cô lập hóa Đại Tướng Võ Nguyên Giáp) để cài người của họ vào các chức vụ trọng yếu. Khi thời cơ tới, họ thẳng thừng đem quân chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và sau đó liên tục lấn chiếm các hòn đảo trong quần đảo Trường Sa, chuẩn bị làm bàn đạp chiếm trọn quần đảo này khi có cơ hội. Năm 1979, lợi dụng lúc Việt Nam đang phải đối phó với Pôn-pốt, Đặng Tiểu Bình xua quân qua biên giới và rút về sau khi đã chiếm được các trọng điểm đúng với mục tiêu chiến lược của họ. Về mặt pháp lý, Hiệp ước biên giới trên đất liền, năm 1999, chính thức hóa các vùng đã bị Trung Quốc lấn chiếm; việc đóng cọc biên giới cũng có nghĩa là quân đội biên phòng của họ thường trú tại đó và muốn đòi lại đất đai đã bị chiếm thì chỉ còn nước nổ súng và trong trường hợp này Việt Nam sẽ bị họ (và có lẽ cả thế giới, Liên Hiệp Quốc, ...) kết án là xâm lăng Trung Quốc !. Việc "nhượng đất, nhượng biển" phải chăng là "kết quả" của việc cài tay sai vào trong guồng máy đảng, quân đội và công an (khi Trung Quốc đã có đủ người rồi thì không ai có thể lên tiếng chống đối nữa) ?
2. Việc ông nguyên Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu sang cầu cạnh Trung Quốc đến mức bán đất, bán biển mong sao được họ "giúp đỡ" để giữ cái ghế ngồi của mình, là một bằng chứng cho thấy là Trung Quốc đã có một đám tay sai và chắc chắn là không phải chỉ có mình ông này chạy theo Trung Quốc.
Việc ông Phiêu không "trụ" được có thể có nhiều lý do khác nhau: 1) người lạc quan cho rằng dù sao đám tay sai này chỉ là thiểu số và nay ông ta bị "thất sủng" rồi thì không còn gì phải lo nữa, 2) người bi quan cho rằng vì ông ta quá kém cỏi không "phục vụ tốt" nên Trung Quốc phải bỏ và thay thế bằng tay sai khác (bị động thay ngựa), 3) bi quan hơn, có thể Giang Trạch Dân bỏ Phiêu vì đã "hoàn thành nhiệm vụ lịch sử" và dùng ông này làm vật tế thần, chịu mọi tiếng xấu, đỡ đạn cho người mới lên "còn sạch" (chính sách thay ngựa từng giai đoạn) !. Cần nhắc lại là chính "triều đại" Nông Đức Mạnh đã thừa nhận Hiệp ước biên giới trên đất liền, ký 2 Hiệp Định về lãnh hải và Tuyên Bố Chung !.
Một câu hỏi cần được đặt ra là với khả năng kinh tế hiện nay của Việt Nam, Hà Nội lấy đâu ra tiền để nuôi cả một guồng máy thống trị, bạo lực khổng lồ bao gồm đảng (2 triệu đảng viên), quân đội, công an (từ công an thường tới các đội công an đặc nhiệm, tình báo) ?
3. Ngoài "mẹo vặt" của Mao, "cho Việt Nam một bài học" của Đặng Tiểu Bình, "mua chuộc tay sai" của cả ba vị Mao, Đặng và Giang, ngày nay Trung Quốc ý thức được sức mạnh kinh tế của mình và khả năng dùng sức mạnh này để khống chế Việt Nam là điều khó tránh !.
Trước đây, "giặc ngoại xâm" có hình hài, văn hóa khác ta, thẳng thừng xâm chiếm nước ta, nhìn sơ cũng biết kẻ thù là ai. Ngày nay, "bóng quân thù" như ma quỷ, rắn độc ẩn nấp trong lùm cây, bóng tối, đội lốt người, bầy ra các mưu ma chước quỷ nhằm khống chế dân ta. Trong khi đó, dân ta, sống bằng cảm tính, bị bưng bít đủ điều và vì vừa mới qua cơn đói khát nên mải mê nhìn miếng ăn trước mắt mà quên cả sự đời !. Từ Mùa Thu 1945 tới nay, đã gần 60 năm qua, dân tộc ta vẫn còn trầm luân trong bể khổ, chừng nào mới thấy bến bờ ?. Phải chăng người thời nay đành chịu lỗi với Tiền Nhân mà cảm khái:
Nam quốc sơn hà, nô lệ cư ! Bruxelles, ngày 27.01.2003 Lội Ngược
----------------------------- (1): Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2.9.1945 chỉ có giá trị lý thuyết, vì như mọi người đều biết, sau đó là thời kỳ chiến tranh. (2): Xem mục Thời Sự: Giai đoạn đầu của công tác phân định ranh giới Trung Quốc và Việt Nam vừa kết thúc (3): Xem Lê Công Phụng trả lời về những vấn đề liên quan đến biên giới (2) (4): VASC: Đây chỉ là một website, "trang nhà" của một cơ sở thương mại (một "provider Internet") mà thôi !. Xem Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng Giải Thích Về Hiệp Định (1) (5): Xem Le Monde: Appétits rivaux en mer de Chine (bản đồ) (6): Xem ABC News 29/11/2002 - Hoa Kỳ và TQ có thể đụng nhau !
-
Mai Nguyễn Huỳnh- công khai
Mai Nguyễn Huỳnh- công khai
Oct 10, 2015
Xem tiếp:
Xem tiếp:
VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ BỨC TỬ ( LA MORT DU VIETNAM )
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/tie-theo-viet-nam-cong-hoa-bi-buc-tu-la.html
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/tie-theo-viet-nam-cong-hoa-bi-buc-tu-la.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét