VI- " ĂN CƠM QUỐC GIA- THỜ MA CỘNG SẢN "
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Làn sóng biểu tình phản đối chiến
tranh Việt Nam rầm rộ trong lòng nước Mỹ và nhiều nước khác đã truyền đi
thông điệp phản chiến mạnh mẽ những năm 60 và đầu 70, là một trong các
nhân tố quan trọng dẫn đến kết thúc cuộc chiến cách đây tròn 40 năm.
Jan Rose Kasmir, vào thời điểm đó là học sinh cấp ba, tham gia cuộc
diễu hành đến Lầu Năm Góc để phản đối chiến tranh Việt Nam tháng
10/1967. Hình ảnh cô cầm hoa đứng trước hàng cảnh vệ được nhiếp ảnh gia
người Pháp Marc Riboud ghi lại đã trở thành biểu tượng của phong trào
phản chiến.
"Cô ấy chỉ nói chuyện, cố gắng thu hút sự chú ý của những người lính,
có thể là đang cố gắng trò chuyện cùng họ", Riboud nói trong một cuộc
phỏng vấn năm 2004. "Tôi có cảm giác là những người lính còn sợ cố ấy
hơn cô ấy sợ những lưỡi lê".
Nguồn: http://vnexpress.net/photo/tu-lieu/phong-trao-phan-doi-chien-tranh-viet-nam-thap-nien-60-3180469.html
Phong trào phản chiến của sinh viên Việt Nam tại Mỹ
Ban Truyền hình Đối ngoạiCập nhật 14:57 ngày 30/04/2016
VTV.vn - Phong trào phản chiến của du học sinh Việt Nam ngay trong lòng nước Mỹ là một trong những nhân tố quan trọng buộc Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam.
Có rất nhiều câu chuyện đề cập về chiến tranh Việt Nam. Theo các nhà sử học Mỹ, trong những năm 60, đầu những năm 70 của thế kỷ trước, phong trào phản chiến của du học sinh Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng buộc Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam.
Phóng viên Đài THVN đã có dịp tìm hiểu
về phòng trào phản chiến cách đây hơn 40 năm qua ký ức của những người
trong cuộc hiện đang sinh sống và làm việc tại Mỹ:
Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam tại TV Online!
Đọc nhiều
- Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Barack Obama qua ảnh
- Tổng thống Mỹ thăm Việt Nam - Cơ hội tuyệt vời quảng bá hình ảnh đất nước
- Thêm 180 điều dưỡng, hộ lý sang Nhật Bản làm việc
- Ukraine: Lãnh đạo Odessa xin lỗi cộng đồng người Việt
- Vị thế Việt Nam được nâng cao tại Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng
Nhìn lại phong trào phản chiến
trong cuộc chiến tranh VN
Trọng Đạt
CUỘC CHIẾN TẠI ĐẤT NHÀtrong cuộc chiến tranh VN
Trọng Đạt
Phản chiến từ 1965 tới 1971.
Giữa thập niên 60, nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các phương tiện truyền tin tối tân như truyền hình đã đem tin tức, hình ảnh chiến sự tới người dân khiến cho phong trào chống chiến tranh tại Mỹ bùng nổ mạnh. Phong trào chống đối chính phủ Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến Việt nam sở dĩ có ý nghĩa, lớn mạnh là vì đây là lần đầu tiên chiến tranh đã được giới truyền thông đưa vào quảng đại quần chúng
Từ sau 1975 đến nay, nhiều người thuộc mọi giới quân sự, chính trị, ký giả, sử gia… đã nhìn nhận phản chiến là nguyên nhân quan trọng nếu không nói là hàng đầu đưa tới sụp đổ Đông Dương. Hành pháp Hoa Kỳ đã thua tại mặt trận đất nhà, War at home chứ không phải tại chiến trường.
Chiến tranh Việt Nam lần thứ hai bắt đầu từ 1957, 1958… khi CS nằm vùng tại miền Nam bắt đầu dùng vũ khí bén nhọn dao găm, mã tấu để giết hại các trưởng ấp nhưng thực sự bắt đầu từ giữa thập niên 60. Năm 1964, lợi dụng tình hình chính trị xáo trộn BV gia tăng xâm nhập, chính phủ Hoa kỳ gửi cố vấn và viện trợ quân sự cho miền Nam . Năm 1965 Hoa Kỳ leo thang chiến tranh, đổ quân vào miền Nam khi BV ngày càng gia tăng áp lực, phong trào phản chiến cũng bắt đầu thành hình và phát triển theo thời gian như sau:
Ngày 2-5-1964 một trăm sinh viên diễn hành qua Times Square tại New York city, trong khi đó tại San Francisco có 700 người tham gia diễn hành, ngoài ra tại Boston, Seattle, Madison cũng có biểu tình nhưng ít hơn.
Ngày 24-5-1965 Một tổ chức chống chiến tranh của sinh viên tên là Student for a Democratic Societ lần đầu biểu tình tại Đại Học Michigan gồm 2,500 người tham dự, họ đã được 35 đại học khác trong toàn quốc hưởng ứng.
Ngày 17-4-1965 có 25,000 người diễn hành tại Washington DC chống chiến tranh Việt Nam, tháng 5 lần đầu tiên tại Đại học Berkeley một nhóm chống chiến tranh đã đốt thẻ trưng binh, khoảng 30,000 người biểu tình tới Văn phòng trưng binh địa phương, họ đốt hình nộm Tổng thống Lyndon Johnson.
Mặc dù có biểu tình phản chiến nhưng theo thăm dò của viện Gallup, tháng 5-1965 có 48% những người được hỏi tin tưởng chính phủ, 28% không tin, số còn lại không có ý kiến. Hạ tuần tháng 8 viện Gallup thăm dò cho thấy có 24% trong số được hỏi chống gửi quân sang Việt Nam , 60% đồng ý cho là không có gì sai trái.
Giữa tháng 10-1965, phản chiến lên cao và lan mạnh trở thành phong trào thế giới kéo hàng trăm ngàn người tham gia cùng một lúc tại 80 thành phố lớn tại Mỹ và cả tại Luân Đôn, Paris, La Mã…
Ngày 2-11-1965 Norman Morrison, 31 tuổi, nhà tranh đấu cho hòa bình tự thiêu dưới cửa sổ tầng thứ ba của Bộ trưởng quốc phòng McNamara tại Ngũ Giác Đài y như nhà sư Thích Quảng Đức năm 1963.
Ngày 27-11-1965 khoảng 40,000 người chống chiến tranh tới bao vây Tòa Bạch Ốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, cũng trong ngày này Tổng thống Johnson cho tăng quân leo thang từ 120,000 người tới 400,000 người tại Việt Nam.
Qua năm 1966 tình hình phản chiến đã gia tăng hơn trước, tháng 2 một nhóm 100 cựu chiến binh phản chiến tới Tòa Bạch Cung định ném trả huy chương nhưng bị đẩy lui.
Ngày 26-3-1966 phong trào phản chiến lan rộng toàn quốc và cả trên thế giới, tại New York có 20,000 người tham gia tại New York . Các cuộc thăm dò của viện Gallup cho biết 59% tin rằng chính phủ gửi quân sang Việt Nam là đúng.
Tháng 5-1966 một cuộc biểu tình lớn khoảng 10,000 người kêu gọi chấm dứt chiến tranh bên ngoài Tòa Bạch Cung, đài kỷ niệm Washington .
Thăm dò viện Gallup số người ủng hộ chính phủ xuống còn 41%, số chống đối tăng lên 37%, số còn lại không có ý kiến. Trong khi đó tại Luân Đôn ngày 3-7 có khoảng 4,000 người chống chiến tranh va chạm với cảnh sát bên ngoài tòa đại sứ Mỹ.
Như vậy trong năm 1966 mặc dù phản chiến có gia tăng hơn trước nhưng số người ủng hộ chính phủ tương đối vẫn còn cao hơn số người chống chiến tranh
Năm 1967 ngày 14 tháng 1 có từ 20,000 tới 30,000 người chống chiến tranh tại Golden Gate Park San Francisco.
Ngày 8-2-1967 Những người Thiên chúa giáo chống chiến tranh mở chiến dịch ăn chay vì hòa bình trên toàn quốc. Ngày 17-3-1967 một nhóm phản chiến tới Ngũ giác đài chống chính phủ can thiệp vào VN.
Ngày 25-3-1967 nhà tranh đấu nhân quyền (Civil-rights leader) Luther King dẫn 5,000 người biểu tình chống chiến tranh tại Chicago .
Ngày 15-4-1967 400,000 người biểu tình phản chiến tại New York city, họ đi từ Central Park tới trụ sở Liên Hiệp Quốc, cùng ngày có 100,000 người diễn hành tại Francisco.
Ngày 2-5-1967 nhà triết gia Anh Bertrand Russsell chủ tọa phiên xử của tòa án Russell tại Stockholm kết án Mỹ và đồng minh phạm tội ác chiến tranh tại VN.
Ngày 1-6-1967 hội Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans Against The War) đã được thành lập.
Ngày 30-7-1967 Viện Gallup thăm dò cho thấy 52% người Mỹ chống chính sách Johnson, 41% cho là sai lầm, 56% cho rằng Mỹ sẽ thua (losing the war) hoặc bế tắc (at an impasse).
Ngày 28-8-1967 dân biểu Tim Lee Carter Cộng Hòa, Kentucky nói:
“Chúng ta còn mạnh, hãy đem hết quân về nước, Việt Cộng chiến đấu hăng vì đó là nước của họ và chúng ta người ngoại quốc can thiệp vào nội bộ nước họ. Khi cần chiến đấu chúng ta chỉ chiến đấu tại đất nước ta hoặc tại bán cầu này”
Tháng 10-1967 tuần lễ chống động viên (Stop the draft) gây nhiều sô sát ở Oakland , California , hàng ngàn người trên toàn quốc trả thẻ động viên.
Ngày 21-10-1967 hàng 100,000 người biểu tình tại Lincoln Memorial, Hoa Thịnh Đốn, sau đó 30,000 người diễn hành tới Ngũ Giác Đài, họ tổ chức thức đêm không ngủ.
Như chúng ta thấy theo thời gian từ 1965 tới cuối 1967, tỷ lệ những người ủng hộ chính phủ giảm dần và tỷ lệ những người phản chiến ngày một cao hơn, con số thăm dò cho thấy cán cân nghiêng nhiều về phía chống.
Tháng 2-1968 Viện Gallup thăm dò cho thấy 35% ủng hộ Johnson, 50% chống, số còn lại không ý kiến, trong một thăm dò khác có 31% là Bồ câu (Doves) chủ trương hòa bình và 61% Diều hâu (Hawks), chủ trương đánh mạnh.
Ngày 12-3-1968 ứng cử viên phản chiến Eugene Mc Carthy được nhiều phiếu hơn dự định trong cuộc bầu cử sơ bộ tại New Hampshire cho thấy ý nghĩa của phản chiến đã rõ ràng hơn.
Ngày 17-3-1968 cuộc biểu tình tụ họp trước tòa Đại sứ Mỹ tại Luân Đôn trở thành bạo động, 86 người bị thương, 200 bị bắt, hơn 10,000 người biểu tình ôn hòa ở công trường Trafalgar nhưng bị cảnh sát ngăn chận.
Tháng 3-1968 Viện Gallup thăm dò cho biết 49% được hỏi cho biết can thiệp vào VN là sai lầm.
Ngày 17-4-1968 truyền thông quay phim cảnh bạo động tại Berkeley Cali, cảnh đàn áp của cảnh sát được chiếu tại Ba Lê, Bá Linh khiến cho dân chúng tại đây cũng phản ứng.
Thăm dò tháng 8-1968 của Viện Gallup cho biết 53% nói gửi quân sang VN là sai lầm.
Năm 1968 sau trận tổng công kích tết Mậu Thân, truyền thông Mỹ thổi phồng thắng lợi của CS khiến phong trào chống đối lên cao dữ dội, người dân Mỹ không còn tin tưởng vào chính phủ. Phong trào phản chiến tạo hy vọng cho CSBV, họ chỉ mong có thế, sau biến cố Tết mậu thân người dân Mỹ không tin chính phủ có thể thắng CS, vả lại trong năm 1968, số tử thương của quân đội Mỹ tại VN tăng lên quá cao 16,592 người (gồm lính Mỹ chết tại mặt trận và chết vì những lý do khác) khiến phong trào chống chính phủ đã trở nên quyết liệt hơn.
Tháng 3-1969 (dưới thời Nixon) Gallup thăm dò cho thấy 19% dân Mỹ muốn sớm chấm dứt chiến tranh, 26% muốn VN hóa chiến tranh, 19% ủng hộ chính phủ, 33% muốn đánh CS tới chiến thắng.
Tháng 7 năm 1969 viện Gallup thăm dò cho thấy 53% dân chúng ủng hộ Nixon, 30% không ủng hộ (New York times, July-31-69).
Ngày 15-10-1969 hàng triệu người Mỹ bỏ học, nghỉ việc để tham gia chống chiến tranh tại địa phương của mình, đây là những chống đối đầu tiên với chính phủ Nixon. Ngày 15-11-1969 có tới nửa triệu người tham gia biểu tình phản chiến tại Hoa Thịnh Đốn và một cuộc biểu tình tương tự ở San Francisco do Tân ủy ban vận động chấm dứt chiến tranh VN (New Mobilization Committee to End the War in Vietnam - New Mobe) và Ủy ban vận động sinh viên chấm dứt chiến tranh VN (Student Mobilization Committee to End the War in Vietnam - SMC).
Tháng 10-1969 Viện Gallup thăm dò cho thấy 58% số người được hỏi nói chiến tranh VN là một sai lầm.
Sang năm 1970 tình hình găng hơn trước khi Mỹ yểm trợ cho VNCH tấn công qua Miên cuối tháng 4-1970, ngày 4-5-1970 bốn sinh viên bị bắn chết trong một cuộc biểu tình tại Đại học Kent Ohio, một tuần sau có hằng 100 ngàn (100,000) người biểu tình tại Washington D.C chống đối việc bắn chết sinh viên và đưa quân sang Miên. Cảnh sát dùng xe bus bao vây xung quanh tòa Bạch Cung để ngăn cản đám biểu tình. Từ sáng sớm trước khi có biểu tình, Nixon tiếp xúc họ tại đài Tưởng niệm Lincoln nhưng không giải quyết được gì, cuộc biểu tình vẫn tiếp diễn.
Sinh viên toàn quốc bãi khóa (National Students Strike), hơn 450 trường đại học, trung học đóng cửa, có 4 triệu sinh viên tham gia, kể cả ôn hòa cũng như bạo động, đó là cuộc bãi khóa toàn quốc duy nhất trong lịch sử Mỹ.
Thăm dò Gallup tháng 5-1970 cho thấy 56% ý kiến nói gửi quân sang VN là sai lầm.
Ngày 29-8-1970 có 25,000 người Mỹ gốc Mễ tham gia biểu tình tại Los Angeles, cảnh sát dùng lựu đạn cay đàn áp, đám biểu tình bị giải tán, có hai người chết. Cảnh sát tấn công một quán gần đó bắn chết Ruben Salazar, chủ nhiệm báo Kmex bằng súng phóng lựu đạn cay.
Theo Nixon trong No more Vietnams (trang 126-127) tình hình chống đối chiến tranh Đông Dương gia tăng mạnh năm 1969. Năm 1968 thời Johnson phản chiến nói chung bất bạo động như biểu tình, đốt thẻ trưng binh nhưng sang năm 1969 khi Nixon lên làm TT đã tiến tới bạo động, sinh viên bắn cảnh sát, dùng dao uy hiếp ban giám đốc nhà trường, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học.
Năm 1969-1970 có 1,800 cuộc chống đối biểu tình, 7,500 người bị bắt, 247 vụ đốt nhà, 462 người bị thương, trong số này 2/3 là cảnh sát, 8 người chết. Bạo lực không chỉ ở trường học mà còn lan ra toàn quốc. Từ tháng 1-1969 tới tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném bom, âm mưu ném bom hoặc đe doạ ném bom hầu hết có liên hệ tới cuộc chiến, gây thiệt hại 21 triệu về tài sản, 43 người chết, mấy trăm người bị thương.
Sau khi chính phủ loan báo giúp VNCH hành quân sang Căm Bốt tháng 4-1970 thì một làn sóng chống đối bạo động lan tràn trong nước. Tại đại học Maryland có 50 người bị thương trong cuộc đụng chạm với cảnh sát khi họ khám xét phòng huấn luyện sĩ quan trừ bị (ROTC). Tại Kent, Ohio hàng trăm người biểu tình đứng nhìn hai người phóng hoả đốt phòng ROTC (Đại học Kent ) cháy rụi, Thống đốc Ohio kêu gọi quân đội tới can thiệp. Ít ngày sau một đám sinh viên ném gạch đá vào quân đội, đẩy họ lên một ngọn đồi. Lên trên đồi lính quay lại, vài người nổ súng, 4 người chết gồm 2 người biểu tình và 2 người đi coi biểu tình. Tháng 8 -1970 một xe van có chất nổ phát hoả nổ tung tại Đại học Wisconsin khiến 1 sinh viên chết, 4 người bị thương gây thiệt hại 6 triệu đồng. Nixon cho biết hành động của sinh viên đã khuyến khích Bắc Việt gây chiến không chịu đàm phán.
Năm 1971, 1972 việc không thi hành quân dịch tại VN sau này trở thành vấn đề đối với các chính trị gia, ứng cử viên. Những người bị chỉ trích gồm phó Tổng thống Dan Quayle, Dick Cheney, Tổng thống Bill Clinton, George w. Bush, Thượng nghị sĩ Norm Cloleman (Minesota).
Bên Úc cũng có phản chiến như bên Mỹ. Ngày 23-4-1971 Cựu chiến binh Mỹ tại VN trả lại 700 huy chương trên thềm phía Tây điện Capitol. Hôm sau có khoảng 500 ngàn người phản chiến, được coi là cuộc biểu tình lớn nhất từ sau cuộc diễn hành tháng 11-1969.
Hai tuần sau vào ngày 5-5-1971 có 1,146 người bị bắt tại điện Capitol vì âm mưu đóng cửa Quốc hội. Tổng số người bị bắt trong cuộc biểu tình vượt quá con số 12,000.
Ngày 19-4-1972 chính phủ gia tăng oanh tạc BV khiến sinh viên toàn quốc tràn vào các trường đại học đe dọa bãi khóa, tuần sau lại biểu tình phản chiến tại New York, San Francisco, Los Angeles và nhiều nơi khác.
Ngày 13-5-1972 biểu tình trên toàn quốc chống Nixon cho thả mìn phong tỏa cảng Hải Phòng và mở lại những cuộc oanh tạc BV. Cuộc oanh tạc Hà Nội ngày 24-12-1972 khiến Thủ tướng Thụy điển Olop Palme phản đối kịch liệt, ông cho hành động đó tàn ác như Đức Quốc Xã và Sô viết khiến bang giao Mỹ-Thụy điển lạnh nhạt cho tới tháng 3-1974.
Nhìn chung cho tới cuối 1968 tổng số lính Mỹ tử thương ở Việt nam lên 35,751 ngàn người (kể cả chết ngoài mặt trận và vì nhiều lý do khác) vượt quá dự đoán và cuộc chiến chưa biết bao giờ hết khiến đa số dân Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước. Người dân ủng chiến tranh VN giảm dần từ thập niên 60 và hai năm đầu thập niên 70. William L. Lunch và Peter W. Sperlich thu thập dữ kiện ý kiến chung đo lường sự ủng hộ chiến tranh từ 1965 tới 1971 như dưới đây (nguồn Wikipedia)
Tháng, năm - Tỷ lệ (những người ủng hộ)
8-1965 - 61%
3-1966 - 59%
5-1966 - 49%
9-1966 - 48%
11-1966 - 51%
2-1967 - 52%
5-1967 - 50%
7-1967 - 48%
10-1967 - 44%
12-1967 - 48%
2-1968 - 42%
3-1968 - 41%
4-1968 - 40%
8-1968 - 35%
10-1968 - 37%
2-1969 - 39%
10-1969 - 32%
1-1970 - 33%
4-1970 - 34%
5-1970 - 36%
1-1971 - 31%
5-1971 - 28%
Nhìn bảng so sánh tỷ lệ người ủng hộ chúng ta thấy số người ủng hộ ngày một giảm và như vậy số người chống ngày càng tăng: Từ cuối 1965 tới cuối 1966 số người ủng hộ giảm từ 61% xuống còn 51%, từ đầu 1967 tới cuối 1967 giảm từ 52% xuống còn 45%, từ đầu 1968 tới tháng 10-1968 giảm từ 42% xuống còn 37%, từ đầu 1969 tới tháng 10-1969 giảm từ 39% xuống 32%, từ đầu 1970 tới giữa 1971 giảm từ 33% xuống còn 28%.
Những nguyên nhân và các tổ chức.
Những lý do chính đưa tới phản chiến như chống quân dịch, lý do đạo đức, vấn đề hợp lý, những lý luận thực tiễn. Chính sách động viên khiến giới nghèo trung lưu phải nhập ngũ. Những người phản chiến vì lương tâm tuy ít nhưng tích cực, việc động viên cũng không được công bằng khiến giới bình dân Mỹ và da đen chống quân dịch ngoài ra do những tin tức không kiểm duyệt được phổ biến rộng rãi trên TV cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới phong trào.
Ngoài việc chống quân dịch, giới sinh viên thường lấy lý do đạo đức chống lại chính sách can thiệp cũa Mỹ vào VN. Đường lối của sinh viên khác với các thành phần dân chúng, họ tố cáo chính phủ có tham vọng đế quốc, chỉ trích chiến tranh vô nhân đạo. William F. Petter viết hàng triệu trẻ em đã bị giết, bị đốt cháy tại cuộc chiến VN, hình Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn một tên Việt Cộng trong dịp Tết Mậu Thân cũng tạo dư luận phản chiến ầm ỹ.
Một yếu tố khác của phản chiến là nhận thức về sự can thiệp của Mỹ qua thuyết Domino về sự đe dọa của CS không hợp lý. Có người cho thuyết Domino chỉ là con ngáo ộp che dấu tham vọng đế quốc, có người cho Mỹ can thiệp vào VN là can dự vào quyền dân tộc tự quyết của họ.
Người Mỹ bị phân hóa vì chiến tranh VN, những người ủng hộ cho rằng theo thuyết Domino hễ mất một nước các nước lân cận sẽ mất y như trong ván bài domino. Những nhà quân sự phản chiến cho rằng sự xung đột VN là một vấn đề chính trị, vai trò quân sự không thể hoàn thành mục tiêu. Nhóm phản chiến dân sự cho chính quyền miền Nam không hợp pháp về chính trị, yểm trợ cho nam VN là thiếu đạo đức, vô nhân đạo.
Khi người dân càng bất mãn với sự can thiệp của chính phủ vào VN, một số tổ chức chống chiến tranh được thành lập như Ủy ban bất bạo động (Committee for Non - violent action - CNVA), một tổ chức hòa bình chịu ảnh hưởng của Ghandi, dùng bất tuân dân sự (civil disobedience) chống lại hành động quân sự. Ủy ban nguyên tử phụng sự hòa bình (Committee for sane nuclear Policy - SANE) một tổ chức quốc tế thành lập từ 1957.
Từ thập niên 60 tại các trường đại học sinh viên tham gia những phong trào chính trị như chống chiến tranh, phong trào phản chiến trở thành đảng, họ chống lại những truyền thống Mỹ. Những hoạt động chính trị xâm nhập vào các trường đại học rất mạnh như tổ chức sinh viên Những Người Mỹ Trẻ Cho Tự Do (The Young Americains For Freedom – YAF), tổ chức bảo thủ tại một khu đại học thập niên 60, mục đích chính phát huy chủ trương bảo thủ, nguyên tắc chính là ngăn chặn bành trướng Cộng Sản, ủng hộ chính phủ Mỹ trong chiến tranh VN. Phong Trào Sinh viên Tự Do (Student Libertarian Movement) thành lập 1972 nguyên tắc chống chiến tranh, chống động viên.
Phong trào ngày càng lớn mạnh, tháng 11-1965 hai người phản chiến tự thiêu khiến cho người ta thấy chiến tranh vô nhân đạo. Ngày 2-11, một người tự thiêu trước Ngũ Giác Đài tên Norman Morrison 32 tuổi thuộc giáo phái Quaker. Ngày 9 tháng 11, một người nữa tên Roger Allen La Porte thuộc Catholic Worker Movement tự thiêu trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York City, họ học theo các nhà sư tranh đấu bên VN.
Phản chiến bắt đầu từ cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 đa số tại Mỹ, phong trào đã khiến chính phủ báo động, người ta bắt đầu điều tra những kẻ tình nghi giúp Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Biến cố Tết Mậu Thân 1968 đã khiến người Mỹ thay đổi lối nhìn của họ về chiến tranh VN. Giới chức quân sự trước đó báo cáo tình hình miền Nam đã được ổn định, trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu thân Mỹ và VNCH đã thắng lớn, CS bị thảm bại nhưng truyền thông Mỹ kể cả khuôn mặt đáng kính như Walter Cronkite đã nói ngược lại, họ thổi phồng thành chiến thắng của CS khiên người dân không tin vào chính phủ và chống chiến tranh mạnh hơn trước, họ nghĩ chính phủ sẽ không thể thắng cuộc chiến tại VN.
Ngày 15-10-1969 hàng trăm ngàn người đủ thành phần phản chiến toàn quốc tuy nhiên cũng không rõ tỉ lệ thành phần những người tham gia. Cuộc tàn sát Mỹ Lai được dùng làm tiêu biểu cho hành động ô nhục của quân đội.
Người Mỹ cho rằng VNCH cần được thu phục nhân tâm nên họ cũng đã thực hiện nhiều công tác dân dụng để giúp dân. Những đơn vị Mỹ do quân đội quản lý lo kiến thiết trường học, đường xá, công sở, mở mang chương trình y tế để giúp dân và để thu phục nhân tâm. Tuy nhiên những cuộc oanh tạc tàn phá làng mạc, những vụ thảm sát thường dân như Mỹ Lai đã mang lại hậu quả trái ngược vì mất lòng dân.
Mặc dù có nhiều tin xấu về chiến sự nhưng dưới thời Johnson, người dân vẫn ủng hộ hành pháp, ngoài thuyết Domino, nhiều người cũng nghĩ tới việc giữ thể diện trong trường hợp phải rút quân như Tổng thống Nixon nói “Mang lại hòa bình trong danh dự”. Ngoài ra tội ác của CS cũng đã được phổ biến sâu rộng như bài “Bàn tay đẫm máu của Hồ chí Minh” trong báo Reader’s Digest năm 1968.
Tuy nhiên tư tưởng phản chiến vẫn lên cao, nhiều người chống chiến tranh vì căn bản đạo lý trước sự tàn phá gây ra cho thường dân, nhiều người cho chính phủ Hoa Kỳ xâm phạm độc lập của VN hoặc can thiệp vào nội chiến của một nước khác. Những người phản chiến khác cho mục đích cuộc chiến không rõ ràng và không thể thắng được CS.
Năm 1968 Johnson chuẩn bị tái tranh cử, ngày 31-3 ông tuyên bố rút lui, ông cũng thông báo bắt đầu thương thuyết với Hà Nội. Robert Kennedy ra tranh cử sơ bộ 16-3 với chủ trương phản chiến, rút quân, phó tổng thống Humphrey cũng ra tranh cử sơ bộ, ông hứa tiếp tục ủng hộ VNCH.
Nghe lời khuyên của các nhà thông thái, cuối tháng 3-1968 Johonson tuyên bố không ra tái tranh cử, ông đã viết trong hồi ký như sau.
“Lo ngại lớn nhất của tôi không phải là vấn đề Việt Nam … mà chính là sự chia rẽ bi quan tại Mỹ… Tôi dùng bài diễn văn sắp đến như một cơ hội để lấy lại sự cân bằng cũng như mở rộng một sự hiểu biết tốt đẹp hơn. Tôi biết rõ ràng rằng sự sụp đổ của mặt trận tại đất nhà là những gì Hà Nội mong chờ” (Nguyễn Đức Phương - Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 34.)
Như vậy chính Johnson đã công nhận hành pháp Hoa Kỳ trúng kế của CSBV, họ đã nỗ lực đổ thêm dầu vào ngọn lửa phản chiến tại đất nhà.
Người Mỹ nói, đất nước dân tộc đã bị phân hóa, a people divided. Thật vậy toàn bộ nước Mỹ bị phân hóa vì chiến tranh VN, phe chống chiến tranh và phe ủng hộ chính phủ thường ẩu đả nhau vì lập trường trái ngược. Nhiều người cho rằng phản chiến do những cuộc biểu tình của sinh viên nhưng có lẽ quan trọng hơn là hai nguồn chống đối khác đó là những người nghèo và dân tộc thiểu số. Họ không được hoãn dịch vì lý do học vấn, dân da đen bị gọi nhập ngũ vì chính phủ cần nhân lực cho cuộc chiến tranh của Tổng thống Johnson khiến họ nghi ngờ chính phủ. Suốt thời kỳ chiến tranh VN, có 11 triệu người Mỹ đã phục vụ (luân phiên) cho ngành Quốc phòng, 2 triệu người đã (luân phiên) ở VN, 600 ngàn đã trốn quân dịch, trong số này 200 ngàn bị buộc tội trốn quân dịch; 300 ngàn tìm cách xin hoãn dịch bị từ chối; 170 ngàn được hoãn dịch, khoảng từ 30 cho tới 50 ngàn người trốn sang Canada và 20 ngàn người trốn tại Mỹ hay ra ngoại quốc (theo “The Vietnam War, A History In Documents”). Phong trào chống lệnh trưng binh lên cao.
Mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tuyên bố chống chiến tranh tháng 7-1965, ông ta tránh đề cập tới chiến tranh một thời gian nhưng cuối 1966 ông nản lòng khi thấy chiến tranh leo thang và phản chiến lan rộng tại Mỹ. Trong khi ấy hai phe phản chiến và ủng hộ chính phủ đánh nhau vì bất đồng chính kiến. Tháng 3-1967 Luther King dẫn đầu phong trào antiwar tại Chicago . Ngày 4-4-1967 tại nhà thờ Riverside Church New York ông đã lớn tiếng chống đối chính sách chiến tranh của chính phủ, King vừa đòi nhân quyền vừa chống chiến tranh, ông bị ám sát năm 1968.
Ngay trong quân đội cũng có những người chống chiến tranh, năm 1967 có 6 cựu quân nhân thành lập một tổ chức lấy tên Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans Against The War gọi tắt là VVAW), năm 1970 VVAW có 600 hội viên, mấy năm sau tăng gấp bội. Tháng 1-1971, họ tổ chức thuyết trình tại Detroit, 100 người cựu chiến binh dẫn chứng tội ác chiến tranh, từ 19-4 tới 23-4-1971 họ biểu tình tại Washington D.C rồi cắm dùi tại công viên Potomac Park. Những người này đã vận động Quốc Hội để sớm chấm dứt chiến tranh.
Bọn họ tố cáo lính Mỹ khi hành quân vào các làng mạc ở Việt Nam đã hãm hiếp, đốt làng, cắt tai, chặt đầu người dân y như quân Mông cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn.
Năm 1970, phó Tổng Thống Agnew tuyên bố tại trường Wespoint rằng chỉ có một thiểu số phóng đại những mặt xấu của bọn lưu manh côn đồ nhưng thực ra đa số chiến sĩ ta đã chiến đấu, chết tại những cánh đồng lúa Á Châu để bảo vệ tự do trong khi một thiểu số lợi dụng làm bậy. Bọn phản chiến đã dùng điểm này để công kích nỗ lực của ta ở Việt Nam .
Những cựu chiến binh này nói người dân Mỹ đã bị chính phủ đánh lừa, ta không thể thắng được cuộc chiến này nếu cứ tiếp tục như vậy, ta phải rút bỏ Việt Nam, họ nói tình hình Việt Nam không có gì để đe dọa Hoa Kỳ, thuyết môi hở răng lạnh là sai (The Vietnam War… trang 126).
Xã hội, đất nước bị phân hóa vì chiến tranh VN. Nhóm phản chiến in những tờ yết thị kêu gọi chấm dứt chiến tranh như một bích chương kêu gọi người da đen có in hình hai người lính da đen đang hành quân:
“Thời gian ra trận là chỉ có chết … Đa số lính da đen ở Việt Nam phải ra tiền tuyến để chiến đấu và chết cho cuộc chiến này, hãy chấm dứt chiến tranh vì nó sát hại chúng ta… (The Vietnam War, A History In Documents trang 144) ”
Một tờ yết thị khác cho thấy ngân quĩ chính phủ Johnson dành cho chương trình chống nạn nghèo đói đã chuyển sang cho chiến tranh VN. Tổng thống hy vọng vừa giải quyết nạn nghèo đói vừa giải quyết chiến tranh, nhưng cuối cùng chỉ giải quyết chiến tranh. Họ đăng hình hai ông Tướng Thiệu, Kỳ trông rất dữ tợn, nhe răng trợn mắt và viết.
“Bọn họ ăn hết của chúng ta, ăn hết cả nhà cửa, thành phố, trường học y tế, môi trường... bọn họ là Tổng thống Thiệu và Phó Tổng thống Kỳ, các quân nhân cầm quyền ở Việt Nam. Năm nay họ đã hút của ta 13 tỉ để xử dụng vào bộ máy chiến tranh của họ. Số tiền này đủ để xây 2,000 trường trung học, 10,000 chung cư bình dân, phục vụ y tế cho 165, 000 bệnh nhân, tăng chương trình chống ô nhiễm lên gấp 10 lần. (Trang 144, sách đã dẫn)
Những tờ yết thị, bích chương đầy những hình ảnh khích động chống chiến tranh đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng khiến cho phong trào ngày càng lên cao. Những nhà báo, ký giả, phóng viên Mỹ săn tin chiến tranh ở Việt Nam về viết bài phóng sự chống chiến tranh thổi phồng những khía cạnh xấu của cuộc chiến, lên giọng đạo đức giả xuyên tạc sự thật. Tại Âu châu phong trào phản chiến cũng bộc phát không kém phần vì Pháp bị Mỹ hất cẳng ra khỏi Đông Dương 1955 nay thọc gậy bánh xe phá Mỹ.
Sau trận Điện Biên Phủ Pháp cay cú Mỹ đã không giúp họ để thắng trận, năm 1955 lại bị ông Diệm hất cẳng ra khỏi VN nên đã trả thù bằng cách bài kích Mỹ và VNCH suốt cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Pháp tuyên truyền không công cho Hà Nội, trắng trợn hơn nữa họ còn cho Mặt Trận Giải Phóng miền Nam đặt văn phòng chính thức tại Paris. Ngoài ra CSBV cũng được CS Quốc tế tiếp tay quảng bá tuyên truyền chống Mỹ.
Tình hình phản chiến ở Hoa Kỳ từ 1965 đến 1971 khiến cho Hành pháp ngày một suy yếu, đất nước bị phân hóa, chính phủ vừa phải lo cuộc chiến Đông Dương vừa phải đối đầu với phong trào chống đối trong nước, nó xuất phát từ tâm lý của anh nhà giầu sợ chết, dù được che đậy dưới hình thức nào cũng không thể dấu diếm được cái bản chất hèn nhát của anh nhà giầu. Đầu năm 1969 có 35,751 người lính Mỹ chết tại Việt Nam , theo tin tức Mỹ riêng năm 1968 Cộng quân mất gần 290 ngàn cán binh, cho tới cuối 1968 có vào khoảng 500 ngàn Việt Cộngbị giết. Tính ra số tổn thất nhân mạng của Mỹ chỉ bằng 5% hoặc 10% so với số tử của CSBV nhưng CS không bao giờ có một lời than, người Mỹ đã sai lầm tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một người nghèo đói đánh thí quân.
Phản chiến đã tạo niềm tin cho CSBV, họ chỉ chờ có thế. Vào những năm 1952, 1953 người dân Pháp lúc ấy quá chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh Đông Dương vừa chết người tốn của, trong suốt cuộc chiến tranh 1947-1954 đã có 19 chính phủ Pháp bị đánh đổ vì không giải quyết được cuộc chiến. CS chỉ trông chờ vào phong trào phản chiến để đối phương phải chán ghét rồi bỏ cuộc, chiến lược “cố đấm ăn xôi” của CSVN đã từng thành công từ cuộc chiến tranh Việt - Pháp nay họ lại đem áp dụng vào cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Hậu quả
Qua các dữ kiện, con số thống kê nêu trên trích trong các sách báo, chúng ta có thể kết luận như sau:
Trong những năm khởi đầu leo thang chiến tranh từ 1965, 1966 mặc dù có biểu tình phản chiến nhưng số người ủng hộ chính phủ ở tỷ lệ 60%, 50% vẫn còn cao hơn số phản chiến khá nhiều. Qua năm 1967 số người ủng hộ chính phủ giảm còn 45%, 46% trong khi số phản chiến tăng lên 50, 51%. Tình hình đã tỏ ra bất lợi cho chính phủ Johnson. Năm 1968 sau trận Tổng công kích Tết Mậu Thân, qua sự thổi phồng của truyền thông nhất là những phóng sự của Walter Cronkite đã khiến cho người dân Mỹ không tin tưởng chính phủ có thể thắng CSVN. Phong trào phản chiến ngày càng lên cao hơn, cuối 1968 số ủng hộ chính phủ tụt xuống còn 37%, số phản chiến vượt lên trên 50%.
Sang năm 1969, Nixon lên nhậm chức Tổng thống người dân chưa chống đối mạnh vì tin tưởng ông sẽ mang quân về nước, tìm hòa bình trong danh dự, nhưng tháng 10-1969 họ bắt đầu bãi khóa, đình công chống đối mạnh mẽ, tỷ lệ ủng hộ tụt xuống còn 32%. Sau khi Nixon giúp VNCH tấn công qua Căm Bốt cuối tháng 4-1970, người dân càng chống đối dữ, ngày 4-5-1970 bốn sinh viên bị bắn chết trong một cuộc biểu tình tại Đại học Kent Ohio, một tuần sau có hằng 100 ngàn người biểu tình tại Washington D.C chống đối việc bắn chết sinh viên và đưa quân sang Miên.
Các chính khách phản chiến bắt đầu dành được nhiều phiếu của những người chống đối để vào Quốc hội, cuộc chiến tại đất nhà đã bước sang một giai đoạn mới. Phe phản chiến đã có thực lực trong tay, họ nắm được Quốc hội, lá phiếu của họ đã bắt đầu tạo ảnh hưởng đè nặng trên vai hành pháp. Một phần các chính khách Dân chủ mị dân, họ tiếp tay với phong trào chống chiến tranh để giữ ghế của mình, vả lại ta thường thấy đảng nọ luôn luôn phá đảng kia.
Bầu cử Tổng thống 7-11-1972 Nixon thắng 47 triệu phiếu phổ phông , 60.7% số phiếu bầu , hơn McGovern 18 triệu phiếu , thắng cử lớn nhất từ xưa tới nay
Năm 1972 đảng Dân chủ nắm 242 ghế Hạ Viện, Cộng Hòa 192 ghế, Dân chủ nắm đa số, họ chống đối chiến tranh VN mạnh khiến Hành pháp gặp nhiều khó khăn.
Cuối cùng Lập pháp gồm những vị dân cử phản chiến từ từ trói tay Hành pháp bằng những đạo luật khiến cho Tổng thống mất dần quyền hành trong cuộc chiến. Đầu năm 1973, Nixon ký Hiệp định Paris , đem về nước 587 tù binh.
Người Mỹ ký hiệp định Ba Lê để rút ra khỏi vũng lầy VN đồng thời lấy lại tù binh và để để tránh cho nước Mỹ khỏi phải cấu xé nhau tan nát. TT Nixon khi tranh cử 1968 hứa sẽ mang lại hòa bình trong nhiệm kỳ, nay tháng 11 -1972 nhiệm kỳ đã kết ông bị thúc ép phải ký Hiệp định Paris gấp vả lại ông phải vội vã vì Quốc hội sắp ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VN để rút quân lấy lại 580 tù binh còn bị BV giam giữ.
Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Đông Dương, được áp dụng từ giữa tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10-1973 Quốc Hội Mỹ ra Đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (Wars Powers Act), đòi hỏi Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Quân phí của Hoa kỳ trong chiến tranh Đông Dương bị quốc hội cắt giảm. Dần dần VNCH bị Quốc hội Mỹ cắt giảm quân viện xương tủy từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, cón số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471).
Bầu cử Hạ viện Năm 1974 khiến Dân chủ thắng thêm 49 ghế thành 291 ghế, Cộng hòa mất 48 ghế chỉ còn 144 ghế, Dân chủ chiếm đại đa số, 66.9% Hạ viện, Cộng hòa chỉ còn 33.1%
Quốc Hội Dân Chủ kiên quyết chống chiến tranh VN, trả thù cho McGovern thất bại nhục nhã trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972 bằng cắt giảm viện trợ quân sự cho miền Nam như trên để bỏ rơi đồng minh. Theo lới kể của Kissinger (Years of Renewal trang 479) Hà Nội xây dựng hệ thống đường xâm nhập tổng cộng trên 20 ngàn km để vận chuyển nhiều xe tăng, đại bác, hỏa tiễn, phòng không vào Nam. Văn Tiến Dũng nói hệ thống đường này như những sợi thừng ngày này qua ngày khác quấn quanh cổ, chân , tay con quỷ (VNCH) đợi lệnh xiết cổ giết nó.
Ngày 9-8-1974 Nixon từ chức vì vụ Watergate, Phó TT Gerald Ford lên thay, VNCH suy yếu vì bị cắt giảm viện trợ trong khi BV được Nga, Tầu tích cực giúp đỡ mở cuộc tấn công miền nam từ cuối năm 1974 tại Phước Long. TT Thiệu gửi thư cho TT Ford ngày 24 và 25 -1-1975 cho biết tình trạng thiếu thốn đạn dược tiếp liệu. Mặc dù Ford và Kissinger nỗ lực vận động tại Quốc hội để xin viện trợ bổ túc 300 triệu nhưng bị chống đối mạnh, họ tìm cách trì hoãn viện trợ, họ cử phái đoàn dân biểu sang Sài Gòn quan sát trong khi miền Nam đang sụp đổ dần dần
Theo Kissinger đám người to mồm tại Quốc hội và truyền thông chống liên hệ giúp đỡ Sài Gòn, sự chống đối lên tới tột đỉnh khi họ mở chiến dịch chống cung cấp phương tiện tự vệ cho các nước Đông Dương lâm nguy. Họ không bao giờ ý thức được việc làm tàn ác của mình, đối với họ chỉ có sinh mạng của người Mỹ mới là quan trọng, sinh mạng của nhân dân Đông Dương như cỏ rác không đáng cứu vớt.Trong số báo Los Angeles Times ngày 6-3-1975 kêu gọi bác bỏ khoản viện trợ bổ túc mà còn đề nghị cắt bỏ viện trợ quân sự dưới mức 700 triệu dù đã được chấp thuận, những người này đã tiếp tay với Hà Nội xiết cổ VNCH.
Theo Cựu Đại tướng Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87, 92) Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho Không quân VNCH phải giải tán hơn 200 phi cơ chiến đấu, oanh tạc, vận tải thám thính, giảm giờ bay thực tập và yểm trợ, yểm trợ giảm 50%, vận chuyễn trực thăng giảm 70%, không vận bằng vận tải cơ bị cắt giảm 50%. Hoạt động Hải quân bị cắt giảm 50%, hoạt động từ tháng 7-1974 ở sông ngòi giảm 70%, giải tán 600 giang thuyền…
Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hỏa lực giảm trên 70%. Vào tháng 2-1975, số lượng đạn tồn kho của tất cả các loại súng trường, phóng lựu, súng cối, đại bác, lựu đạn… tuột xuống con số nguy hiểm, chỉ còn đủ xử dụng từ 25 đến 31 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày.
Và cuối cùng trước áp lực CSBV quá mạnh, với tình trạng đạn dược tiếp liệu bị cắt giảm tới xương tủy, miền Nam sụp đổ.
Tổng thống Johnson đã được nhiều thuận lợi lúc cuộc chiến tại Việt Nam bắt đầu leo thang nhưng đã đưa phản chiến lên cao. Kế hoạch đánh giới hạn mục đích hăm dọa BV để họ phải đàm phán là một sai lầm lớn lao, ngoài ra ông đã giao toàn bộ kế hoạch quân sự cho McNamara một người dân sự bất tài, không được các Tướng lãnh kính nể khiến cho cuộc chiến kéo dài và nuôi dưởng phong trào chống đối đưa tới thảm bại.
Nixon lên nhậm chức đầu năm 1969 thừa hưởng một gia tài đổ nát do Johnson để lại, khác với Johnson đã được hưởng nhiều thuận lợi như đã nói ở trên, Nixon phải đương đầu với nhiều gian nan thử thách. Phong trào chống đối do chính phủ trước để lại đè nặng lên vai ông, Quốc hội nay đã nằm trong tay các nhà dân cử phản chiến chỉ tìm cách trói tay hành pháp buộc phải rút quân bỏ Đông Dương.
Nói về những nguyên nhân đưa tới sự sụp đổ VNCH chúng ta có thể kể: kế hoạch tái phối trí lực lượng của Tổng thống Thiệu thất bại, quân viện bị cắt giảm tới xương tủy, Nixon đã bắt tay được Trung Cộng... nhưng đó chỉ là những nguyên nhân gần
Một phần vì thuyết Domino lỗi thời, nhất là vì sự chống đối lên cao, phản chiến tuy là một nguyên nhân xa nhưng chính nó đã đóng vai chủ động trong tiến trình xóa bỏ sự tồn tại của VNCH và cả Đông Dương. Sự thực dù có nhiều khuyết điểm, hành pháp Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo VNCH, các vị Tướng lãnh… từ 1955 cho tới 1975 đã làm hết sức mình để giữ vững miền Nam nhưng phong trào phản chiến tại Mỹ đã làm đảo lộn tất cả mọi kế hoạch chính trị quân sự Việt-Mỹ đưa tới sụp đổ tan tành.
Phong trào phản chiến đã lộng hành như vậy phần lớn vì thuyết Domino đã lỗi thời, người Mỹ thấy đã đến lúc không cần phải giữ Đông Dương, CS không còn là mối đe dọa như trước.
Cuộc chiến tại đất nhà là điều mà chính người Mỹ cũng không thể ngờ nó có thể tai hại đến thế.
Trọng Đạt
Tài Liệu Tham Khảo.
Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.
English.illinois.edu/maps/vietnam/antiwar.html: Mark Barringer: The Anti-war Movement in the United States .
Radical times: The antiwar Movement of the 1960s, Politic and the Antiwar Movement.
Answer.com: Vietnam Antiwar Movement
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman - General Editor, A Bison-book 1985
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa, Vietnambibliography, 2003.
Phạm Văn Sơn, Lê Văn Dương, Nguyễn Ngọc Hạnh: Cuộc Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa Của Việt Cộng Mậu Thân 1968: Khối Quân Sử, Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH Xuất bản 1968, Đại Nam tái bản tại hải ngoại.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh, 2005.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1990.
Posted by Tiếng Thông Reo
TrọngĐạt
Nguồn:http://khaiphong.org/showthread.php?6839-Nh%ECn-l%26%237841%3Bi-phong-tr%E0o-ph%26%237843%3Bn-chi%26%237871%3Bn-trong-cu%26%237897%3Bc-chi%26%237871%3Bn-tranh-VN
MỘT SỐ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA SINH VIÊN MIỀN NAM VIỆT NAM (1954-1975)
Thứ năm, 02 Tháng 10 2014 04:34 |
Ths. Hoàng Thị Hồng Nga
Cộng đồng
đại học miền Nam Việt Nam đã từng chứng kiến nhiều phong trào đấu tranh
của giới sinh viên trong giai đoạn 1954-1975, đặc biệt nổi bật với các
phong trào đấu tranh chính trị vô cùng rầm rộ. Giới sinh viên miền Nam
Việt Nam đóng vai trò như một lực lượng “chính trị” có vai trò “xung
kích”, ngòi pháo trong các phong trào đấu tranh của đồng bào ở đô thị.
Trong số các phong
trào đấu tranh đó, có những phong trào sinh viên đấu tranh đòi quvền tự
trị, tự do cho giáo dục đại học của chính sinh viên. Bài viết này góp
phần làm sáng tỏ một số phong trào đó của sinh viên miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
1. Phong trào sinh viên đòi tự trị đại học
Quan điểm, chính sách của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ở miền Nam Việt Nam được thể
hiện trong “Hiến pháp Đệ nhị VNCH ngày 1-4-1967”. Điều 10, Chương II
nêu rõ: “Nền giáo dục đại học được tự trị”. Nền giáo dục đại học dưới
chính quyền VNCH theo đuổi ba nguvên tắc là tự do, tự trị và
phi chính trị. Trong một chừng mực nào đó, Viện Đại học độc lập đối với
các đảng phái chính trị, tôn giáo và tự trị đối với chính quyền.
Vấn
đề tự trị đại học được đặt ra ngay từ những ngày đầu còn phôi thai của
nền đại học ở miền Nam Việt Nam, lúc bấy giờ ngưòi ta đã nhắc đến tính
chất tự trị cần thiết cho sự phát triển đại học. Sở dĩ về sau rộ lên vấn
đề tự trị đại học là vì nó đã nhuốm màu sắc chính trị. “Vấn đề tự trị đại học là một trong những vấn đề đang được mọi giới chú ý và
bàn tán. Nhưng nó cũng là một trong những vấn đề bị hiểu lầm nhất trong
dư luận, trong giới sinh viên và ngay cả đại học, cũng như trong chính
quyền”[1].
Chính vai trò tự trị của một đại học không phải là điều mà nhà cầm
quyền nào cũng tán thành. Chính quyền Sài Gòn chỉ muốn xây dựng Viện Đại
học hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền hoặc đảng phái hay cá nhân người
lãnh đạo. Theo văn bản, Viện Đại học tùy thuộc Bộ Giáo dục. Cụ thể như
sau:
“Về
học vụ, sự thành lập các khoa, trường, ngành học, văn bằng, chứng chỉ
phải do Bộ Giáo dục chấp thuận, về nhân viên, việc tuyển dụng, lương
bổng, thăng thưởng, sa thải phải do Bộ Giáo dục và Tổng Nha Công vụ chấp
thuận, về Ngân sách: Quyền chuẩn chi được ủy nhiệm cho Viện trưởng”[2]. Như vậy, về hành chính, Viện Đại học trực thuộc Bộ Giáo dục, và có thể bị chi phối bởi Bộ Giáo dục và Tổng Nha Công vụ chứ “chưa hẳn” là tự trị.
Bởi vậy, trong cộng đồng sinh viên đại học miền Nam Việt Nam dấy lên phong trào đòi tự trị
đại học. Nguyên cớ làm phát sinh phong trào này trong giới sinh viên
chính là khi chính quyền Sài Gòn ra nghị định đổi cơ cấu lãnh đạo của Đại học Y khoa thành Trung tâm Y-Nha Dược trực
thuộc Phủ Thủ tướng Chính phủ VNCH và không còn nằm trong hệ thống Viện
Đại học Sài Gòn. Đây là hành động vi phạm nghiêm trọng tính độc lập của
nền giáo dục Việt Nam. Sinh viên Y khoa phản đối chính sách này của
chính quyền Sài Gòn. Trong ngày bàn giao Khoa trưởng, sinh viên Y khoa
biểu tình ngồi chặn trước cửa văn phòng Khoa trưởng. Tổng Giám đốc cảnh
sát Quốc gia là Nguyễn Ngọc Loan đã đích thân dẫn cảnh sát đến để đàn áp
sinh viên.
Từ
đó, một phong trào chống xâm phạm tự trị đại học nổ ra ở Đại học Y khoa
rồi lan ra Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học và các trường khác.
Tháng
8-1967, Đại hội sinh viên Sài Gòn đòi tự trị ở bậc đại học ra mắt. Ban
Chấp hành (BCH) Trung ương gồm Chủ tịch Hồ Hữu Nhựt. Tổng Thư ký là
Dương Văn Đầy. Có khoảng 2.500 sinh viên và giáo sư, ký giả, nhà văn ở
Sài Gòn dự. Đại hội ra Tuyên ngôn chủ trương một nền đại học tiến bộ,
chống việc can thiệp của chính quyền vào khuôn viên Đại học. Nhiệm kỳ
BCH của phong trào tự trị đại học ở Trung ương (Sài Gòn) và các cơ sở là
1 năm.
Phong
trào có Ban cố vấn gồm khoảng 30 giáo sư, giảng viên và cả viện trưởng ở
Sài Gòn. Cần Thơ và BCH các phân bộ tự trị Đại học Khoa học, Sư phạm, Y
khoa, Luật khoa. Dược khoa, Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ, Cao đẳng Nông
Lâm Súc. Các phân bộ tự trị đại học đều tổ chức hội thảo, đại hội sinh
viên trường và bầu ra BCH Phân bộ tự trị đại học. Phong trào xuất bản tờ
báo “Tự trị đại học”, nhiều trường ra nội san, tập san về tự trị đại học.
Chính
phủ VNCH bị sinh viên lên án là vi phạm nghiêm trọng quyền tự trị đại
học thông qua các chính sách can thiệp trực tiếp vào môi trường học tập
của sinh viên. Việc “quân đội chiếm đóng các phòng cao ốc và bao vây
Trường Đại học Văn khoa bằng hàng rào thép gai. Đây là hành động làm ô
nhục sinh viên Văn khoa vì sự chiếm đóng và canh gác này có thể khiến
cho dư luận hiểu lầm là sinh viên làm loạn nên chính quyền mới làm như
vậy”[3].
Đông đảo sinh viên cho rằng chính quyền xâm phạm nền tự trị đại học và
“đòi chính phủ phải giải thích trước dư luận quốc tế và quốc nội”.
Ngày
31-12-1968, sinh viên kiên quyết phản đối chính quyền bắt giữ một số
học sinh, sinh viên trong cuộc biểu tình ngày 24-12-1968. Nội dung phong
trào Tự trị đại học phân bộ Luật khoa đưa ra “chính quyền chà đạp hiến
pháp, coi thường chủ trương “thượng tôn pháp luật” tiếp tục xâm hại nền
tự trị đại học, gây không khí bất an và sợ hãi trong dân chúng, hầu thi
hành chủ trương cảnh sát trị”[4].
Năm 1970, một cuộc bãi khóa rầm rộ được phát động với những yêu cầu mà sinh viên đưa ra như sau:
- Quyền tự trị đại học, trong đó sinh viên có trụ sở sinh viên, có pháp lý sinh viên và có luật về tự trị đại học
- Duyệt xét các bản án của học sinh, sinh viên từ trước, trả tự do cho những học sinh, sinh viên không bị kêu án.
Đầu
tháng 3-1971, sinh viên Hạ Đình Nguyên bị cảnh sát bắt ngay trong khuôn
viên Trường Đại học Văn khoa. Việc sinh viên Nguyên bị bắt vô cớ đã tạo
nên không khí sôi sục trong sinh viên. Chính giáo sư Khoa trưởng Văn khoa đã lên tiếng chính thức đề nghị cơ quan an ninh trả
tự do cho học trò mình. Khẩu hiệu bích chương phản đối chính quyền đã
được đưa ra. Cho đến ngày 5-3-1971, các phân khoa đại học đã có phản ứng
rõ rệt là bãi khóa để phản đối chính quyền xâm phạm tự trị đại học và
bắt bớ sinh viên một cách trái phép. Tại Viện Đại học Vạn Hạnh, ngày
24-3-1971, trong khuôn viên của Viện cũng đã xuất hiện nhiều bích chương
đòi chính quvền trả tự do cho sinh viên Trần Hữu Quang-một sinh viên
cao học bị bắt trong kỳ tổ chức cứu lụt tại miền Trung. Lệnh bãi khóa
được ban hành và thực hiện[5]. Phong trào đòi tự trị đại học lan rộng và phát triển mạnh mẽ buộc chính quyền Sài Gòn phải có nhượng bộ.
Phong
trào tự trị đại học nhằm thống nhất hành động trong sinh viên chống lại
mọi sự can thiệp của chính quyền Sài Gòn vào các sinh hoạt đại học, hỗ
trợ cho phong trào đòi chuyển ngữ Việt ở đại học. Đây là một phong trào
rộng lớn có sự tham gia của nhiều vị giáo sư, giảng viên đại học tạo thế
công khai hợp pháp, hỗ trợ cho sinh viên đấu tranh. Phong trào không
chỉ mở rộng tổ chức xuống cơ sở các trường đại học ở Sài Gòn mà mở rộng
đến Huế, Cần Thơ, Đà Lạt... tạo thành một lực lượng chống lại mọi sự đàn
áp, bắt bớ của chính quyền Sài Gòn.
2. Phong trào đấu tranh đòi dạy tiếng Việt ở bậc đại học
Một
trong những vấn đề ở bậc đại học được nhiều giới, cả trí thức, giáo sư
và sinh viên đại học miền Nam Việt Nam quan tâm đó là vấn đề ngôn ngữ.
Trước năm 1954, giáo dục đại học chủ yếu nằm trong tay người Pháp và
dùng ngôn ngữ là tiếng Pháp. Sau 1954, người Pháp chuyển quản tự trị đại
học cho chính quyền
Sài Gòn, do vậy yêu cầu phải chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Việt được
đặt ra. Câu hỏi lớn đặt ra là: “Khi nào có thể dùng hoàn toàn tiếng Việt
làm chuyển ngữ tại cấp đại học”, vấn đề chuyển ngữ được đặc biệt lưu
tâm vì mấy lý do sau:
-
Số sinh viên tốt nghiệp bậc trung học tại các trường Quốc gia ngày càng
tăng, so với số trường trung học dạy bằng ngoại ngữ đào tạo.
-
Viện đại học có dạy bằng tiếng Việt thì mới khuyến khích được các giáo
sư, sinh viên, các nhà trí thức biên soạn ngày càng nhiều những tác phẩm
văn hóa, khoa học bằng tiếng Việt.
-
Một nền văn hóa hoàn toàn quốc gia dân tộc lý thuyết sẽ không những
được phát triển bằng quốc văn, mà vẫn có những giao lưu cần thiết và
thường xuyên vối những trào lưu tư tưởng quốc tế.
Việc
chuvển ngữ trải qua 2 giai đoạn: thời kỳ chuyển tiếp (1955-1960) những
ngành học tương đối đủ giáo chức Việt Nam, việc chuyến ngữ bắt đầu được
áp dụng (Luật học, Hán Việt ...). Còn những ngành kỹ thuật các danh từ
chuyên môn được thiết lập. Trong niên học 1961-1962 sẽ phổ biến việc
dùng tiếng Việt khắp các trường trực thuộc Viện. Tuy nhiên cũng khuyến
khích sinh viên trao đổi thêm ngoại ngữ bằng cách bắt họ tham gia tích
cực những cuộc hội thảo ngoại ngữ để diễn đạt tư tưởng, đọc những sách
nước ngoài.
Tuy
nhiên, trên thực tế việc chuyển ngữ gặp nhiều khó khăn vì ảnh hưởng của
văn hóa, giáo dục Pháp quá nặng. Năm 1954, tiếng Việt được dùng đầu
tiên ở đệ thất-trung học và đến năm 1956 chương trình học bằng tiếng
Việt được áp dụng tại Trường Đại học Luật khoa và Viện Đại học Huế năm
1957.
Đến
năm 1961, việc chuyển ngữ ở bậc đại học chỉ được Bộ Giáo dục chính
quyền Sài Gòn khuyến cáo chứ chưa có chính sách phải thực hiện triệt để
“chúng tôi chưa thể thực hiện việc chuyển ngữ bằng tiếng Việt trong niên
khóa 1961-1962 mà phải mất thời gian nữa... việc chuyển ngữ là vấn đề
quan trọng, chúng tôi chưa thể áp dụng trước khi có một sự thống nhất
danh từ khoa học”[6].
Phải đến 1965 mới được thực hiện, bởi việc chuyển ngữ còn có nhiều ý
kiến khác nhau, một số người vẫn muốn duy trì Pháp ngữ trong một số
ngành học, đặc biệt là những ngành kỹ thuật. Vì theo họ bỏ hẳn ngoại ngữ
đồng nghĩa với việc từ chối những tiến bộ từ nước ngoài, mà những ngành
học đại học ở nước ngoài phát triển hơn Việt Nam. Vì thế không nên coi
tiếng Việt là phương tiện duy nhất.
Cuối
năm 1966 đầu năm 1967, phong trào đòi dạy tiếng Việt ở bậc dại học bùng
nổ. Ở Đại học Y khoa, 500 sinh viên tổ chức hội thảo chủ trương phản
đối dạy bằng tiếng ngoại quốc, nêu khẩu hiệu “Dân tộc Việt học tiếng
Việt”. Phong trào này được sinh viên Đại học Sư phạm và Đại học Khoa học
hưởng ứng, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, biểu tình. Phong trào nhanh
chóng lan rộng sang nhiều trường đại học và cả trường phổ thông trong
thành phố và các trường ở các đô thị khác ở miền Nam và được sự ủng hộ
của nhiều nhân sĩ, trí thức. Các lực lượng trên đã tập hợp lại thành một
mặt trận chống lại nền giáo dục thực dân mới ở đại học. Đầu năm 1967,
tại Trường Đại học Sư phạm, ủy ban thanh niên, học sinh, sinh viên đòi
chuyển ngữ Việt ở đại học được thành lập do Hồ Hữu Nhựt làm Chủ tịch.
Thông qua tờ báo “Chuyển ngữ”, phong trào ngày càng thu hút được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trí thức Sài Gòn. Tại Trường Đại học Khoa học, giáo sư Lê Văn Thới đã cùng nhiều cán bộ giảng dạy khác soạn thảo cuốn “Từ điển Danh từ khoa học”, làm cơ sở cho việc giảng dạy bằng tiếng Việt ở đại học.
Kết quả là vào đầu năm 1967, các trường đại học ở miền Nam Việt Nam đều dạy tiếng Việt, trừ Đại học Y khoa, vẫn còn một hệ học theo chương trình Mỹ và dạy bằng tiếng Anh.
3. Phong trào chống quân sự hóa học đường
Mục
đích chính của chính sách quân sự hóa học đưòng của Mỹ là biến các
trường đại học trở thành nơi cung cấp binh lính cho quân đội Sài Gòn.
Chính quyền Sài Gòn đã ban hành nhiều điều luật để hợp pháp hóa chính
sách này như: học sinh đến 19 tuổi không đậu đại học sẽ bị sung lính,
những sinh viên nào không lên lớp được cũng bị gọi nhập ngũ. Sinh viên
và học sinh đang đi học bị buộc phải tham gia vào các tổ chức quân đội
của chính quyền Sài Gòn và được sử dụng như một lực lượng quân đội dự bị
phục vụ cho cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Sinh viên tham gia đấu
tranh chống chính phủ bị bắt
sẽ gọi vào quân đội mà không cần lý do. Chính quyền Sài Gòn hợp pháp
hóa những âm mưu trên bằng các sắc lệnh động viên và “Tổng động viên”.
Sinh
viên Trường Đại hoc Sư phạm và Đại học Khoa học đã tổ chức hội thảo
phản đối Luật Tổng động viên số 04/67 của Nguyễn Văn Thiệu. Tổng hội
sinh viên Sài Gòn lên tiếng công kích Luật Tổng động viên là bất hợp
hiến.
Sau
“biến cố” Tết Mậu Thân (1968) Mỹ và chính quyền Sài Gòn ban hành Luật
Tổng động viên số 3/68, tại Sài Gòn, lập “Sư đoàn sinh viên bảo vệ thủ
đô” buộc sinh viên tập luyện quân sự và phát súng đi gác. Các khoa thuộc
các trường đại học đều có một liên đoàn do một sĩ quan (thiếu tá hoặc
trung tá) chỉ huy. Sinh viên phải đi học quân sự học đường và là một môn
thi bắt buộc trong các kỳ thi tốt nghiệp. Nữ sinh phải vào lực lượng
phòng vệ hậu phương mà chủ yếu là học cứu thương.
Mặt
khác, để thực hiện có hiệu quả chính sách “quân sự hóa học đường” chính
quyền Sài Gòn đã chủ trương “tách chính trị ra khỏi học đường”. Mục
đích của chính sách này là tách rời học sinh, sinh viên ra khỏi đời sống
hiện tại của xã hội, là
“che mắt, bịt tai” lớp người trí thức, tạo cho họ đầu óc cầu an tự kỷ,
buông xuôi, vô trách nhiệm với vận mệnh lịch sử. Đồng thời, chính sách
trên nhằm phủ nhận vai trò chính trị của học sinh, sinh viên và âm mưu
dập tắt ngọn lửa đấu tranh của họ. Mặc cho sinh viên sục sôi phản đối
chương trình quân sự học đường, chính quyền Sài Gòn vẫn tiếp tục thi hành. Tình trạng o ép mà chính quyền Sài Gòn tạo ra đối với sinh viên đã làm dấy lên những phong trào phản đối.
Sinh
viên cho rằng “Đưa chính trị ra khỏi học đường” nhằm mục đích “khóa
miệng, cùm tay” học sinh, sinh viên, hạn chế tối đa các phong trào đấu
tranh chống chính phủ của họ. Để chống lại những hành động của chính
quyền Sài Gòn, Tổng hội sinh viên lập ra Ủy ban chống quân sự hóa học đường
và kêu gọi sinh viên bất phục tùng huấn luyện viên. Những cuộc míttinh,
hội thảo có nội dung chống quân sự hóa học đường, chống đôn quân bắt
lính diễn ra liên tiếp. Ngay từ cuối năm 1969, trên 400 sinh viên thuộc 9 trường đại học và cao đẳng đã tổ chức hội thảo tại Trung tâm giáo dục Y khoa Hồng Bàng, hô hào chống quân sự hóa học đưòng, không đi quân trường. Tiếp đó, một cuộc hội thảo lớn được tổ chức với chủ đề “sinh viên và quân trường” có trên 2.000 sinh viên thuộc nhiều trường đại học ở Sài Gòn tham dự. Tại hội thảo này, sinh viên đã nêu một hình thức đấu tranh độc đáo là “biểu tình ngồi”, “đêm không ngủ”. Trên 200 sinh viên Đại học Dược khoa nêu cao các khẩu hiệu như: “Toàn thể sinh viên tuyệt thực vô hạn định”, “Hãy tôn trọng quyền tự trị đại học”, “Hãy trả lại cho sinh viên nhiệm vụ học vấn thuần túy”[7].
Các cuộc biểu tình của sinh viên đã tạo nên không khí đấu tranh sôi nổi
trong môi trường đại học và đã lôi kéo được lực lượng quần chúng khác ở
đô thị cùng tham gia đấu tranh. Phong trào đã tranh thủ được sự ủng hộ
của các thầy, cô giáo ở một số trường đại học. Ngày 30-9-1970, 20 giáo
viên đại học và trung học, tiểu học trong đó có các giáo sư Lý
Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Châu Tâm Luân, Phạm Trọng Cầu... tập hợp
tại Viện Đại học Sài Gòn để tuyệt thực với biểu ngữ “giáo chức yêu cầu
Tổng thống Thiệu giải quyết cấp bách, trả tự do cho sinh viên học sinh
bị bắt”.
Tổng
nha cảnh sát Quốc gia chính quyền Sài Gòn đã phải thừa nhận “một số
sinh viên quá khích trong BCH sinh viên đã tổ chức một cuộc hội thảo
nhằm mục đích chống lại chương trình huấn luyện quân sự học đường”[8].
Ở các trường học, phong trào chống quân sự hóa học đường diễn ra sôi
nổi, rầm rộ, lôi kéo được hầu hết sinh viên tham gia. Họ cho rằng:
“chính phủ đã xem nhẹ vấn đề huấn luyện thiếu thực tế, chú trọng nhiều
hình thức mà quên hẳn sức khỏe đã khiến cho một số sinh viên bị bệnh và
thậm chí bị chết trong thời gian theo học quân sự (điển hình là cái chết
của sinh viên Văn khoa Trần Ngọc Thảo). Việc huấn luyện quân sự chỉ là
hình thức không thực tế và làm tổn hại sức khỏe sinh viên”[9]. Đồng thời, sinh viên yêu cầu Chính phủ cải thiện toàn diện vấn đề huấn luyện quân sự để họ không có ấn tượng là bị cưỡng
bách thụ huấn “như một người đi đày”; lên án Chính phủ đưa ra lập luận
“Vấn đề tổng động viên là giải pháp chính trị của cuộc thương thuyết và
được đặt ra với mục đích tăng cường tiềm năng hòa bình”. Hàng loạt các
phong trào đấu tranh với nội dung là chống quân sự hóa học đường đã diễn
ra trong suốt 3 tháng (7, 8, 9-1970). Phong trào phát triển mạnh mẽ có
đến 30.000 sinh viên trốn lệnh điều động, không đi học quân sự. Kết quả là trước sức ép của quần chúng và sinh viên, chính quyền Sài Gòn buộc phải giải tán “Sư đoàn bảo vệ thủ đô’. Âm mưu tách chính trị ra khỏi học đưòng và quân sự hóa học đường của chính quyền Sài Gòn và Mỹ thất bại.
Tự trị đại học là một nội dung lớn mà bất cứ một nền giáo dục đại học nào cũng muốn hướng tới. Chính quyền, giới trí thức đại học lẫn cộng đồng sinh viên các trường đại học miền Nam Việt Nam đều có những tranh luận, những quan điểm để xác lập nội dung quan trọng này cho giới đại học. Đối với giới sinh viên các viện đại học ở miền Nam lúc bấy giờ, đã có những phong trào đấu tranh đòi tự trị đại học, đòi dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ ở bậc
đại học, chống quân sự hóa học đường để nói lên tiếng nói “độc lập” của
giới mình. Các cuộc đấu tranh hướng tới đòi những quyền tự trị của nền
đại học, đòi chính quyền trả lại những nhiệm vụ thuần túy cho giới đại
học. Nó đã góp phần đập tan những luận điệu “giả hiệu” của chính quyền
Sài Gòn về tự trị đại học trên giấy tờ, những âm mưu, luận điệu trá hình
để hạn chế quyền tự do, tự trị, độc lập vốn có của giới đại học. Sinh
viên đã biết kết hợp đấu tranh cho tự trị đại học, cho bản thân giới
mình cũng như đòi được những quyền lợi chính trị chính đáng cho giới trí thức, học
sinh, sinh viên để thể hiện được vai trò “xung kích” trong phong trào
đấu tranh đô thị miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
Nguồn: Tạp chí Lịch sử quân sự, số 271 (tháng 7-2014), tr.22-27.
[2] Theo lời của Giáo sư Lê Thanh Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Đại học Huế, dẫn theo Tập san Phát triển xã hội (Hội KHXH Việt Nam), Phỏng vấn về giáo dục đại học, tr.185-192.
[4] Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Phiếu trình Thủ tướng của Tổng cục Cảnh sát Quốc gia, số 001505, /TCCSQG/S1 /D/A ngày 13-1-1969.
[6] Công báo Việt Nam Cộng hòa, trích Nghị định số 922 GD/NĐ tổ chức kỳ thi phổ thông, tiếng Việt ở bậc sơ đẳng và trung đẳng tại vùng Cao nguyên miền Nam và ấn định thành phần giám khảo những kỳ thi này, số 52 ra ngày 10-11-1956, Bản lưu tại Thư viện Viện Sử học, tr.2803.
[7] Nhiều tác giả, Phong trào cách mạng đô thị Sài Gòn và các thành thị Nam Bộ (1945-1975), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2004. tr.31.
Nguồn:http://khoalichsu.edu.vn/bai-nghien-cu/579-mt-s-phong-trao-u-tranh-ca-sinh-vien-min-nam-vit-nam-1954-1975 |
SƠ LƯỢC TỔ CHỨC CỘNG SẢN TRONG GIỚI HỌC SINH, SINH VIÊN SÀI GÒN TRƯỚC 1975 & CÁC CÁN BỘ CỐT CÁN CỦA NHỮNG TỔ CHỨC NÀY
Bạch Diện Thư Sinh
I. THỜI CHIẾN TRANH QUỐC – CỘNG, ĐÃ CÓ MỘT MẶT TRẬN TẠI ĐẠI HỌC
Trước 30 tháng 4 năm
1975, nhằm mục tiêu nhuộm đỏ toàn cõi đất nước Việt Nam, Cộng sản hoạt
động khắp nơi, dưới mọi hình thức, mở ra nhiều mặt trận. Trong đó, có
mặt trận đô thị mà mũi xung kích là lực lượng thanh niên, sinh viên, học
sinh. Học đường, nhất là Đại học, thật sự đã trở thành một mặt trận.
Ngoài Huế, cũng có mặt trận Đại học hết sức sôi động, nhưng mặt trận Đại
học mở ra tại Sài Gòn là quan trọng nhất vì Sài Gòn là Thủ đô, là chỗ
tai mắt cho dư luận trong cả nước và cho quốc tế.
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa,
đã có tổ chức hoạt động học đường của Cộng sản, nhưng còn lẻ tẻ, yếu ớt.
Những đợt đấu tranh sôi nổi của sinh viên Sài Gòn trong giai đoạn này (1963-1965)
do các sinh viên quốc gia, như Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho… cầm đầu.
Đối tượng đấu tranh của họ nhắm vào chính quyền quốc gia! (Lê Hữu Bôi bị Cộng sản giết chết tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968).
Đồng thời, cũng khoảng thời gian này (1963,1964,1965),
khi thấy người Mĩ và một số thành phần chính trị và tôn giáo bắt đầu có
những hoạt động mưu toan khuynh loát chính quyền thì Cộng sản khôn
lanh, vội kiện toàn tổ chức, rồi chớp lấy thời cơ để len lỏi vào một số
Phân khoa Đại học, một số trường Trung học và tổ chức thanh niên Phật
tử, từng bước gây ảnh hưởng, lèo lái và cuối cùng là nắm lấy quyền lãnh
đạo các tổ chức này. Từ đó, họ liên tục mở ra các đợt tranh đấu làm rối
loạn ngay tại Thủ đô Sài Gòn, gây tiếng vang rất lớn. Chỉ nguyên việc họ
liên tục nắm giữ được tổ chức hợp pháp quan trọng là Tổng hội Sinh viên
Sài Gòn suốt 4 nhiệm kì đã là một thành tích đáng kể (1966-67: Hồ Hữu Nhựt, 1967-68: Nguyễn Đăng Trừng, 1968-69: Nguyễn Văn Qùy, 1969-70: Huỳnh Tấn Mẫm).
Thời ấy, ngoài những cơ
quan có trách nhiệm về an ninh, dân Sài Gòn nói chung, khối đa số sinh
viên, học sinh ‘thầm lặng’ nói riêng, có thái độ thờ ơ lãnh đạm, không
quan tâm, không tìm hiểu về những phong trào sinh viên, học sinh tranh
đấu; lại càng không biết gì về hệ thống tồ chức cũng như thành phần cán
bộ Cộng sản cốt cán lãnh đạo những tổ chức này. Vì thế, một số đã có cảm
tình hoặc đã tiếp tay, tham gia vào những phong trào tranh đấu do các
cán bộ Cộng sản kích động.
Để vãn hồi trật tự Thủ
đô, lực lượng an ninh phải nhập trận. Kết quả là đã phát hiện và bắt giữ
được một số khá lớn cán bộ thuộc Thành Đoàn (tức Thành Đoàn
Thanh niên Lao động Việt Nam hay Thành Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách
mạng, nay là Thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh, có
nhiệm vụ vận động thanh niên nội thành và ngoại ô Sài Gòn – Gia Định ) và đã đưa một số những đối tượng này ra tòa xét xử (xin coi bài Trùm Sinh Viên Tranh Đấu Huỳnh Tấn Mẫm, Quả Chanh Bị Vắt Cho Hết Nước của Bạch Diện Thư Sinh. Motgoctroi.com, Mục Lịch sử Cận đại).
Trong số các cán bộ
Thành Đoàn bị bắt, có những tên tuổi nổi tiếng trong và ngoài nước, như
Huỳnh Tấn Mẫm, Chủ tịch Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn 1969-70, Lê Văn Nuôi,
Chủ tịch Tổng Đoàn Học sinh Sài Gòn 1970-71…Thật ra, những tên tuổi này
lúc ấy chỉ là cấp thấp, nằm trong hệ thống mặt nổi. Những cán bộ mặt
chìm cao cấp hơn, mới thực sự lãnh đạo mặt trận Đại học. Đa số họ còn
nằm trong bóng tối. Tuy nhiên, lực lượng an ninh quốc gia cũng đã vô
hiệu hóa (chết, giam giữ hoặc đã từng bắt giữ) được một số cán bộ Thành
Đoàn nòng cốt như: Lê Quang Vịnh, Lê Minh Quới (7 Tương, 7 Lễ), Trần Quang Cơ (8 Lượng), Hồ Hảo Hớn (3 Lực, 2 Nghị), Nguyễn Ngọc Phương (3 Triết, bí thư Đoàn ủy), Phan Chánh Tâm (5 Pha, 3 Vạn), Lê Hồng Tư (5 thợ hồ), Phan Văn Dinh (8 Bông, 9 Kế, Đoàn ủy), Dương Văn Đầy (7 Không, 3 Niên, Đoàn ủy) Trầm Khiêm (2 Lâm, Đoàn ủy), Trần Thị Ngọc Hảo (4 Tín, cán bộ điều khiển Huỳnh Tấn Mẫm),
Lê Công Giàu…Tiếc thay, công lao của lực lượng an ninh kể trên chưa đem
tới thành công triệt để. Qua xét xử, nhiều lần quan tòa đã thả những
cán bộ Thành Đoàn Cộng sản nòng cốt ra, bởi vì luật pháp quốc gia đòi
hỏi phải có thêm bằng chứng, đồng thời chính quyền lúc đó phải chịu áp
lực dư luận báo chí thiên tả trong nước và quốc tế rất nặng nề.
Đến cuối năm 1971, sau
vụ Giáo sư Nguyễn Văn Bông và Sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật bị ám sát
chết, Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia kiêm Đặc ủy
trưởng Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo (Phủ ĐUTƯTB)
VNCH, đã giao cho ông Nguyễn Thành Long thành lập Ban A 17 với nhiệm vụ
ổn định Đại học. Chỉ trong một thời gian ngắn, được sự cộng tác tích
cực của lực lượng Cảnh sát Đặc biệt Thủ đô, Ban A 17 đã gặt hái thắng
lợi nhanh chóng và tuyệt đối: Giải tỏa áp lực của Thành Đoàn Cộng sản,
giúp cho hàng ngũ sinh viên quốc gia lần lượt giành lại quyền kiểm soát
Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn và Ban đại diện Sinh viên các Phân khoa Đại
học, phát hiện và bắt giữ được một số khá lớn các cán bộ Thành đoàn với
đầy đủ tang chứng có giá trị pháp luật. Số chạy thoát, phải trốn ra căn
cứ hoặc là phải lặn thật sâu.
Đây là thắng lợi lớn và
dứt khoát của lực lượng an ninh quốc gia Thủ đô Sài Gòn tại mặt trận Đại
học. Tài liệu của Cộng sản đã nhìn nhận sự thất bại của họ trong mặt
trận Đại học như sau: ‘…từ năm 1972, địch đã ra tay khủng bố, càn quét,
hòng đè bẹp các phong bị trào đấu tranh. Hầu hết những trụ sở tập họp
công khai của thanh niên, sinh viên, học sinh đều chúng phá hủy hoặc
chiếm đóng…Tình hình im ắng, căng thẳng, không một cuộc đấu tranh công
khai lớn nhỏ nào nổ ra được’. (Hàng Chức Nguyên. Trui Rèn Trong Lửa Đỏ. Nxb Trẻ, 2005. Trang 186).
Để góp phần nhỏ bé vào
việc giải mật cho những ai còn quan tâm tìm hiểu về các nguyên nhân dấu
mặt của sự thành bại trong cuộc chiến Quốc – Cộng trước 1975; đàng khác,
cũng hi vọng có thể cung cấp thêm chút ít tài liệu cho bài học lịch sử,
sau đây, chúng tôi sẽ đúc kết tóm lược về các tổ chức Cộng sản trong
giới học sinh, sinh viên Sài Gòn và các cán bộ lãnh đạo cốt cán của
những tổ chức này, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 1954 tới ngày
30 tháng 4 năm 1975. Lấy mốc thời gian này là vì năm 1954 ông Ngô Đình
Diệm lên làm Thủ tướng. Cũng là năm bùng nổ cuộc di cư tị nạn Cộng sản
của gần một triệu đồng bào miền Bắc, lôi cuốn theo 1.200 sinh viên, tức
2/3 tổng số sinh viên của Viện Đại học Hà Nội. Với số sinh viên này,
hợp cùng số sinh viên thuộc chi nhánh Viện Đại học Hà Nội có từ trước
tại Sài Gòn, chính quyền đã lập ra Viện Đại học Quốc gia Việt Nam. Tới
1957 (Đệ nhất Cộng Hòa),
đổi thành Viện Đại học Sài Gòn, sau khi có một Viện Đại học khác vừa
được thành lập ngoài Huế. Khi Cộng sản chiếm được Sài Gòn (30.4.1975), Viện Đại học Sài Gòn bị giải thể.
Viết bài này, chúng tôi đã tham khảo một số tài liệu do Thành Đoàn Cộng sản xuất bản sau 1975, như cuốn Theo Nhịp Bước Lên Đàng (Đoàn Thanh niên Cộng sản Tp. HCM / nhiều tác giả. Nhà xuất bản Trẻ, năm 2000) và cuốn Trui Rèn Trong Lửa Đỏ (Tập ký sự truyền thống Thành Đoàn / nhiều tác giả. Cũng do nhà xuất bản Trẻ, năm 2005).
II. SƠ LƯỢC TỔ CHỨC CỘNG SẢN TRONG GIỚI HỌC SINH, SINH VIÊN SÀI GÒN TRƯỚC 1975 VÀ CÁC CÁN BỘ CỐT CÁN CỦA NHỮNG TỔ CHỨC NÀY
Thời gian trước 1954:
Sau khi Thế chiến thứ
hai kết thúc năm 1945, người Pháp trở lại Việt Nam, nhiều học sinh bỏ
trường đi chống Pháp. Trong số lớp trẻ xếp bút nghiên đi làm cách mạng
này, một số đã gia nhập tổ chức Cộng sản.
Năm 1947, Thành ủy Sài
Gòn – Gia Định của Cộng sản giao cho Thành ủy viên Phùng Lượng phụ trách
công tác thanh niên, học sinh nội thành Sài Gòn và họ lập ra Hội Học sinh Việt Nam Nam bộ (thực chất chính là Đoàn Học sinh Cứu quốc trong nội thành Sài Gòn – Chợ Lớn). Hồi đó chỉ có Viện Đại học Hà Nội, cho nên chưa có tập thể sinh viên ở Sài Gòn.
Tại một số trường Trung học, CS đã cấy vào được một vài cán bộ nồng cốt. Tất cả tạm thời góp lại thành chi bộ ghép. Chi bộ ghép tiên khởi này gồm có Trần Huỳnh Long (Trường Petrus Ký), Đỗ Ngọc Thạnh, Nguyễn Ngọc Hà (Trường Chasseloup Laubat), Đỗ Thị Kim Chi (Trường Gia Long), nữ sinh Ngân tức Xinh (Trường Lê Bá Cang).
Về hoạt động: Tuyển mộ thêm cán bộ, rải truyền đơn, phổ biến báo chí và tài liệu.
Năm 1949, Cộng sản thành lập ra Ban Chấp hành Hội Học sinh Nội thành gồm 5 ủy viên: Đỗ Ngọc Thạnh (bỏ học), Tạ Trung Quốc (Trường Chasseloup Laubat), Đỗ Thị Kim Chi (Trường Gia Long). Võ Kim Lang (Trường Lê Bá Cang), Nguyễn Bình Thanh (Trường Marie Curie). Ngoài ra còn có một số cán bộ nòng cốt khác như: Trần Huỳnh Long (Trường Petrus Ký), Nguyễn Quang Cho (Trường Nguyễn Văn Khuê), Trần Quang Cơ (từ Trường Le Myre de Vilers, ở Mĩ Tho lên), Lê Hồng Kê (tức Bùi Văn Trạch) từ
trong ‘khu’ về thành. Cộng sản mở những lớp huấn luyện cán bộ ở Vườn
Thơm, Đồng Tháp Mười. Hoạt động: rải truyền đơn, bãi khoá.
Thời gian này nổ ra vụ
trò Ơn, gây tiếng vang rất lớn: Ngày 09.01.1950, một số học sinh nội trú
Trường Petrus Ký, do học sinh Nguyễn Minh Mẩng cầm đầu, kéo nhau đi xin
chính quyền thả 2 học sinh của trường bị bắt trước đây. Không có bằng
chứng nào nói Cộng sản khởi động vụ này, nhưng Cộng sản đã mau lẹ chớp
lấy thời cơ để cướp công. Xảo thuật cướp công lần này giống hệt vụ Việt
Minh cướp chính quyền ở Hà Nội trước đó 5 năm (ngày 17.8.1945).
Mới đây, Bs. Nguyễn Minh Tân, hiện đang cư ngụ ở Pháp, là em ruột của
thủ lãnh học sinh Nguyễn Minh Mẩng năm xưa, đã xác nhận chính ông lúc ấy
cũng là học sinh nội trú Trường Petrus Ký và đích thân đã chứng kiến,
tham gia biến cố Trần Văn Ơn. Và ông đã lên tiếng khẳng định như sau:
‘Biến cố Trần Văn Ơn do học sinh Petrus Ký có sáng kiến đi gặp chính
quyền để xin khoan hồng cho hai học sinh của trường bị câu lưu. Lúc đó
anh em không bao giờ nghe hai tiếng biểu tình. Phong trào đó được dân
chúng ủng hộ tham gia và giúp đỡ, trong chiều hướng quốc gia chống Pháp.
Một số người trong Chánh quyền lúc đó cũng không có nặng tay đối với
học sinh mà có thể cũng đã thầm kín giúp tay cho học sinh.
Cộng sản đã tìm cách lòn vào chóp credit và tuyên truyền hầu dụ dỗ các học sinh vào khu.
Biến cố bạo động sau
đó, đốt xe đốt chợ là của CS, muốn thừa dịp tái bản vụ Trần Văn Ơn 2.
Nhưng họ đã thất bại vì không được học sinh và dân chúng ủng hộ nên bị
xẹp một cách nhanh chóng’ (Bs. Nguyễn Minh Tân. Biến Cố Trần Văn ƠN. Người Việt Dallas-Fort Worth. Số 763, ngày 12.9.2008. Trang 4D).
1950: Lập ra Ban cán sự phụ trách công tác học sinh gồm có Lê Hồng Kê (7 Kê, Bùi Văn Trạch), Đỗ Ngọc Thạnh tức ‘Ba học sinh’, Trần Quang Cơ, Nguyễn Đông Hà (3 Lam), Huỳnh Ngọc Anh (Tư Nhỏ).
Khoảng thời gian 1954 – 1960
Để có thể tuyển mộ thêm thành viên, Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định chỉ đạo mở rộng tổ chức thành Ban cán sự thanh niên, học sinh, sinh viên, giáo chức và kí giả. Phụ trách: Võ Văn Tuấn (2 Trúc), Bùi Văn Trạch (7 Kê), Trần Quang Cơ (8 Lượng), Lê Minh Quới (7 Tương, 7 Lễ), Hồ Hảo Hớn (2 Nghị), Trần Văn Nguyên (Thanh Giang).
Họ lãnh đạo một số chi bộ học sinh và sinh viên nằm vùng tại các trường
cao đẳng Vô Tuyến Điện, Hàng Hải, Y-Dược, Luật…Giai đoạn này là giai
đoạn Liên chi ủy lãnh đạo.
Các lớp huấn luyện tổ chức vào các kì nghỉ Hè, tại Bến Dược, Củ Chi, Bàu Trai, Đức Hòa (Long An), Long Tân (Ông Kèo) huyện Long Thành, Mộc Hóa…Phát hành tờ Học Sinh Cứu Nước.
Khoảng thời gian 1960 – 1964
Đầu năm 1960, Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định Võ Văn Kiệt (9 Dũng, 6 Dân), chỉ thị thành lập Ban Vận động học sinh, sinh viên Sài Gòn – Gia Định
với chủ trương tích cực xây dựng và cài lực lượng bí mật, bán công khai
và công khai vào các tổ chức học đường. Cán bộ chủ chốt: Phan Chánh
Tâm (phụ trách), Lê Quang Vịnh (bị bắt tháng 8, 1961 tại Củ Chi), Lê Văn Tân (6 Ninh, 3 Phú), Phạm Chánh Trực (10 Dũng, 3 Thạch, 5 Nghị).
Cộng sản cũng bắt đầu
mở những khoá huấn luyện như: khoá Rừng Già tại Dương Minh Châu 6, 1960;
khoá Rừng Xanh cuối 1960 tại Nhuận Đức, Củ Chi. Khoá ‘Đại Tây Dương’
tại Ba Thu, huyện Đức Hòa. Nội dung huấn luyện cán bộ về 5 bước công
tác: điều tra, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện, đấu tranh. Các nguyên
tắc hoạt động: bí mật, ngăn cách, quan hệ đơn tuyến hoặc tổ tam tam; tổ
chức bí mật không được nhập nhằng với công khai. Quan hệ không xé rào
hoặc dính chùm. Bị bắt phải giữ khí tiết cách mạng, không khai báo.
Cuối 1960, tại khoá Rừng Xanh, Cộng sản tuyên bố thành lập Ban Cán sự Thanh niên Học sinh Sinh viên Khu Sài Gòn – Gia Định. Bí thư: Trần Quang Cơ (8 Lượng, 2 Lực), Lê Thanh Hải (10 Nhom, 10 Hải); Phó bí thư: Hồ Hảo Hớn (3Lực, 2 Nghị); Ủy viên thường vụ: Lê Minh Châu (3 Cảnh), Phan Chánh Tâm (3 Vạn), Nguyễn Đông Hà (3 Lam), Nguyễn Thị Tràm (3 Võ), Tăng Anh Dũng (2 Minh, 6 Thơ), Lê Hồng Tư (5 thợ hồ), Nguyễn Văn Tỵ (2 Thu).
Các ban phụ thuộc:
Ban cán sự học sinh: Lê Minh Châu (Thường vụ phục trách) Phan Chánh Tâm (5 Pha. 3 Tiền, 3 Vạn) phụ trách các trường vùng Gia Định, Tân Định, Phú Nhuận, Đa Kao; Lê Hồng Tư (5 thợ hồ) phụ trách các trường vùng trung tâm Sài Gòn; Hồ Hảo Hớn (3 Lực, 2 Nghị) phụ trách các vùng còn lại.
Ban cán sự sinh viên: Hồ Hảo Hớn, Nguyễn Thị Mỹ Diệm (6 Thanh), Nguyễn Thị Loan Anh (5 Nga).
Mỗi cánh có căn cứ riêng để tiện lẩn tránh hoặc để
học tập. Cánh Phan Chánh Tâm đặt căn cứ ở Thạnh Lộc thuộc xã An Phú
Đông; cánh Lê Hồng Tư đặt dưới Long An; cánh Hồ Hảo Hớn đặt tại ấp Chánh
xã Tân Thông Hội….
Hoạt động:
Giai đoạn này Cộng sản mới chỉ xâm nhập lẻ tẻ vào hiệu đoàn một số
trường Trung học và tham gia công khai các sinh hoạt học đường như báo
chí, du ngoạn, thể thao, công tác xã hội. Họ chưa nắm được một Ban đại
diên sinh viên nào.
Tuy năm 1960 là năm Cộng
sản phát động ‘Đồng khởi’ khắp nơi ở miền Nam, nhưng họ chưa đủ khả
năng chủ động mở mặt trận trong học đường. Chính họ đã phải thú nhận: ‘Nhớ
lại thời kì Phật giáo đấu tranh 1963-1964, cơ sở cách mạng trong học
sinh, sinh viên chưa đủ mạnh để có thể phát động độc lập các phong trào
lớn trực diện đấu tranh chính trị với chính quyền Sài Gòn, cho nên Khu
ủy chỉ đạo ‘Phải tấp vô cùng đồng bào và Phật giáo đấu tranh’(Theo Nhịp Khúc Lên Đàng. Nhà xuất bản Trẻ, 2000. Trang 19).
Về báo chí: báo bí mật như Cờ Giải Phóng, Suối Thép, học sinh có tờ Lửa Thiêng; báo công khai có Hồn Trẻ.
Các bộ phận trực thuộc khác:
Xâm nhập vào một số tổ chức học đường; Phật tử; Mặt Trận Dân Tộc Tự
Quyết; các nhóm ‘Sao Băng’, ‘Sao xẹt’; một số cơ sở bí mật ở Đakao, Tân
Định, quận 3; bộ phận công tác an ninh; lực lượng vũ trang.
Bề ngoài, các tổ chức Đảng phụ trách thanh niên, học sinh, sinh viên này mang tên một tổ chức có tính cách ‘mặt trận’ là Hội Liên hiệp Thanh niên Sinh viên Học sinh Giải phóng Sài Gòn – Gia Định lập ra ngày 09 tháng 01 năm 1961 để dễ tập hợp sinh viên, học sinh.
Khoảng thời gian 1965 – 1967
1. Tổ chức bí mật:Đoàn
Thanh niên Nhân dân Cách mạng Đặc khu Sài Gòn – Gia Định (Cộng sản chia
lãnh thổ thành các Khu: Khu 9, Khu 8, Khu 7…riêng Sài Gòn – Gia Định
được gọi là Đặc khu vì tầm mức quan trọng đặc biệt).
Ban chấp hành: Bí thư:
Phạm Trọng Danh (tức Lê Thanh Hải, 10 Hải, 10 Nhom), Phó bí thư: Hồ Hảo
Hớn (3 Lực, 2 Nghị), Ủy viên thường vụ: Lê Quang Thành (4 Thành), Nguyễn
Tuấn Giao (5 Giang), Lê Minh Châu ( 3 Cảnh), 8 Quang (bổ sung tháng 6,
1965).
Ủy viên Ban chấp hành:
Phan Chánh Tâm, Lê Thiết (4 Kiếng), Lê Tấn Quốc, Nguyễn Đông Hà, Nguyễn
Văn Minh (3 Minh), 6 Thắm. Tháng 6, 1965, bổ sung thêm: Phạm Chánh Trực,
Đỗ Hoàng Hải, 5 Lộc (3 Thoại), Lê Mỹ Lệ (5 Trang), Phạm Văn Hai.
Đoàn ủy học sinh:
Bí thư: Phan Chánh Tâm (3 Vạn), phó bí thư: 5 Lộc (3 Thoại). Tháng 11,
1965, Phan Chánh tâm chuyển qua đoàn ủy sinh viên, 5 Lộc lên làm bí thư.
Đoàn ủy sinh viên:
Bí thư: Lê Thiết, Phan Chánh Tâm lên thế vào 11, 1965; Phó bí thư: Phạm
Chánh Trực. Tháng 01, 1966, Phạm Chánh Trực lên bí thư, Phan Văn Dinh (8 Bông, 9 Kế) lên phó bí thư. Các ủy viên: Hoàng Thị Kim Dung (7 Bích, 2 Cường), Nguyễn Thị Loan Anh (5 Nga), Nguyễn Ngọc Phương (3 Triết), Nguyễn Hữu Phuớc (4 Hữu, 3 Thành), Võ Ngọc An (7 Câu), Lê Thanh Văn, Đặng Thiện.
Các ban ngành khác:
Ban vận động thanh niên trí thức; Ban quân sự và lực lượng biệt động
Khu đoàn; Ban an ninh vũ trang; Ban tuyên huấn; các trường nữ và nữ
thanh: Nguyễn Thị Tràm (3 Võ), Lê Mỹ Lệ (5 Trang); Binh vận; Phân Khu đoàn Thủ Đức; Phân Khu đoàn Dĩ An; Phân Khu đoàn Bình Tân; Phân Khu đoàn Nhà Bè, Gò Môn, Củ Chi.
2. Tổ chức công khai:
Học sinh: Ban đại diện học sinh các trường công và tư; Học sinh vụ thuộc Tổng Hội sinh viên; Tổng Đoàn Học sinh Sài Gòn.
Sinh viên: Ban đại diện sinh viên các Phân khoa, các trường Đại học; Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn.
Thanh niên công nhân: Đoàn thanh niên phụng sự lao động (Chủ tịch: Nguyễn Văn Toản).
Phân công cán bộ để nắm và lèo lái hoạt động của tổ chức Thanh niên Phật tử.
Khu ủy Sài Gòn – Gia Định cử Lê Thanh Hải đặc trách tổ chức Phong trào Dân tộc Tự quyết và Hòa bình, lôi kéo các nhân sĩ, trí thức tên tuổi và lấy lực lượng sinh viên, học sinh làm nòng cốt.
Khoảng thời gian 1967 – 1972
-
Tổ chức bí mật:
a. Thành Đoàn Sài Gòn – Gia Định
Bí thư: Hồ Hảo Hớn (Bí thư tiên khởi của Thành Đoàn), Phan Chánh Tâm (lên thay khi Hớn bị bắt), phó bí thư: Phạm Chánh Trực, Lê Mỹ Lệ (chuẩn bị trận Tết Mậu Thân 1968). 1970, Trang Văn Học (5 Tranh) lên bí thư thay Phan Chánh Tâm (bị bắt). Khi Phan Chánh tâm vượt ngục thành công, đã nắm lại chức bí thư, Phạm Chánh Trực và Lê Mỹ Lệ (5 Trang) làm phó bí thư như trước.
Thường vụ: Trương Mỹ Lệ (4 Liêm), Nguyễn Văn Chí (7 Điền, 6 chí), Nguyễn Ngọc Phương (3 Triết), Trang Văn Học.
Đoàn ủy sinh viên: Nguyễn Ngọc Phương, Trần Khiêm, Dương Văn Đầy, Nguyễn Văn Sự, Lê Công Giàu, Trần Thị Ngọc Hải.
Đoàn ủy học sinh: Lê Mỹ Lệ (bí thư), Nguyễn Thị Nghĩa (9 Ngân), Nguyễn Thị Thiên Bình.
b. Tổ chức bí mật trong chiến dịch tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
1/ Lực lượng 1: Lực lượng vũ trang và biệt động: Chỉ huy: Lê Tấn Quốc. Phó: Trang Văn Học. Thành viên: Nguyễn Văn Minh (10 Minh), Phan Thanh (3 Tung), Bùi Thị Thanh (4 Hoành), Huỳnh Công Khanh (6 Vĩnh), Lê Văn Hưng (10 Hưng), ‘dì’ Sáu Hòa.
2/ Lực lượng 2: Lực lượng chính trị vũ trang. Chỉ huy: Nguyễn Văn Dũng (Trung ương Cục điều động bổ sung). Phó: Phạm Chánh Trực.
3/ Lực lượng 3: Chính trị công khai: Chỉ huy: Phan Chánh Tâm (3 Vạn). Phó: Phan Văn Dinh (9 Kế) và Dương Văn Đầy (3 Niên).
Trong trận tổng tấn
công tổng nổi dậy hồi Tết Mậu Thân 1968, Cộng quân đã bị đánh bại thê
thảm trong cả đợt 1 cũng như đợt 2 cho nên những lực lượng nằm vùng vừa
kể trên đều mất liên lạc với bộ chỉ huy và đã không có bất cứ hành động
nào đáng ghi nhận. Thực ra trước đó, Thành ủy đã tưởng có thể gặt hái
được chút thành công, cho nên đã cắt tới 2/3 lực lượng Thành Đoàn để
đưa về các quận, lập ra các đảng ủy liên phường, coi như bộ khung chính
quyền trong trường hợp họ đạt được thắng lợi.
Tổ chức công khai và bán công khai:
Ban đại diện các trường học; Trung tâm cứu trợ; Đoàn thanh niên Phật tử; Thanh Sinh Công (thanh niên, sinh viên Công giáo); Thanh Lao Công (thanh niên lao động Công giáo của đám linh mục Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ…).
Khoảng thời gian 1973 – 1975
1. Tổ chức bí mật
a. Thành Đoàn Sài Gòn – Gia Định:
Bí thư: Phạm Chánh Trực, phó bí thư: Nguyễn Văn Nguyên (10 Nguyên) và Trương Mỹ Lệ (10 Trương).
b. Các bộ phận trực thuộc:
Đoàn ủy sinh viên; Đoàn ủy học sinh; Đoàn ủy các xí nghiệp trọng điểm;
Ban công tác mặt trận thanh niên; hệ thống đoàn các cấp: Quận đoàn và
Huyện đoàn; Ban quân sự Thành Đoàn; Ban Tuyên huấn; Ban Tổ chức; Văn
phòng Thành Đoàn.
c. Đảng ủy các trường Đại học và Trung học trọng điểm:
Thành ủy chỉ thị thành
lập ra Đảng ủy các trường Đại học và Trung học trọng điểm với nhiệm vụ
bám trụ nội thành để chỉ đạo trực tiếp phong trào sinh viên, học sinh.
Bí thư: Phạm Chánh Trực, Phó bí thư: Trương Mỹ Lệ, Đảng ủy: Dương Văn
Đầy.
2. Tổ chức công khai
a. Sinh viên: Tổng hội Sinh viênViệt Nam, Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (28.7.1971), Tổng hội Sinh viên Vạn Hạnh, Ban đại diện Sinh viên các trường Đại học.
b. Học sinh: Tổng Đoàn Học sinh Sài Gòn (ra đời 15.10.1964, Nguyễn Chơn Trung tức 4 Lý, 6 Quang, là chủ tịch đầu tiên; Trung là chủ tịch Petrus Ký), Đoàn học sinh Sài Gòn, Văn đoàn học sinh Sài Gòn, Đội Thiếu niên Phù Đổng, Đội Thiếu niên khăn quàng đỏ.
c. Các tổ chức khác: Đoàn Văn nghệ Sinh viên Học sinh, Đoàn Công tác Xã hội Sinh viên Học sinh Sài Gòn, một phần trong Ủy ban Cải thiện Chế độ Lao tù, một phần trong Ủy ban Đòi Quyền Sống Đồng bào, một phần trong Mặt trận Nhân dân Cứu Đói.
VÀI NHẬN XÉT
1. Nói chung: Cho
đến bây giờ, thỉnh thoảng vẫn còn có người viết lách mắng mỏ Cộng sản
là ngu dốt. Thiển nghĩ chỉ đúng một phần, bởi vì rõ ràng họ rất dở trong
việc làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng có thể khẳng định ngay một điều
là Cộng sản rất ‘giỏi’ trong loại chiến tranh lật đổ nhằm cướp chính
quyền mà họ tiếm danh là làm cách mạng, bởi vì họ được huấn luyện thuần
thục loại chiến tranh này.
2. Riêng về Thành Đoàn Cộng sản trong mặt trận Đại học:
* Tổ chức : Có 2 mặt:
chìm và nổi. Mặt chìm gồm hầu hết là những đảng viên, chỉ một ít là đoàn
viên. Họ là thành phần cốt cán và lãnh đạo phong trào sinh viên, học
sinh từ trong bóng tối. Họ ít bị hi sinh hơn. Mặt nổi là mặt công khai
gồm những sinh viên học sinh được tuyển chọn để tranh lấy những vị trí
trong các tổ chức học đường như Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, Vạn Hạnh,
Tổng Đoàn Học sinh Sài Gòn hay Ban đại diện Sinh viên các phân khoa, các
Ban văn nghệ, các Ban cứu trợ…
* Tuyển mộ kĩ lưỡng:
Đối tượng không thuộc gia đình quân nhân công chức cao cấp, có tư tưởng
‘tiến bộ’. Đầu tiên, đối tượng được xếp loại ‘quần chúng tốt’, rồi lên
Hội viên (Hội Liên hiệp Thanh niên Sinh viên Học sinh Giải phóng Khu Sài Gòn – Gia Định), tiếp theo là Đoàn viên (Thành Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng), cuối cùng mới được kết nạp đảng.
*
Huấn luyện: Huấn luyện tại chỗ hoặc được giao liên bí mật đưa vào căn
cứ. Học 5 bước: điều tra, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện, đấu tranh.
Hoạt động đơn tuyến hoặc tổ tam tam. Hoạt động bí mật không được lẫn lộn
với công khai. Không được xé rào khi tiếp xúc. Tránh quan hệ dính chùm.
Bị bắt phải giữ khí tiết không khai báo, áp dụng công thức: nhất lí nhì
lì tam suy tứ tử: cãi lí, lì chịu đòn, giả bệnh, giả chết để tìm cơ hội
vượt ngục.
*
Hoạt động: Về lí thuyết, khai thác tối đa ý chí bài ngoại, chống ‘đế
quốc Mỹ xâm lược’, ‘chính quyền VNCH chỉ là bù nhìn, tay sai’, còn ‘Cách
mạng’ là chính nghĩa, là dân tộc, hi sinh chiến đấu giải phóng miền
Nam, vì độc lập, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, cơm no áo ấm cho đồng bào.
Về chiến thuật thì khi
yếu, lợi dụng tối đa những nhân vật, tổ chức, hội đoàn tiến bộ hợp pháp,
công khai và bán công khai để bảo toàn lực lượng và dần dần cài người
vào. Khi đã nắm được quyền thì tiến công liên tục dưới mọi hình thức,
làm cho Sài Gòn càng rối loạn bao nhiêu càng ‘tốt’ bấy nhiêu.
* Kết quả: Thành đoàn Cộng sản đã thành công giành được các Ban chấp hành Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1966-67, 1967-68, 1968-69, 1969-70),
Tổng hội Sinh viên Vạn Hạnh, Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn và một số Ban
đại diện các phân khoa… Đã lôi kéo được một lớp sinh viên học sinh tạo
thành phong trào sinh viên, học sinh tranh đấu sôi nổi trong một thời
gian ngay trong lòng Thủ đô Sài Gòn.
3. Khối đa số sinh viên quốc gia thầm lặng: Chỉ
lo học hành. Không tham gia bầu cử Ban đại diện sinh viên. Không thích
Cộng sản, nhưng cũng không làm gì để chống hay tẩy chay các hoạt động
của Cộng sản trong nhà trường. Vì thế, một liên danh ứng cử Ban đại diện
một Phân khoa do Thành đoàn Cộng sản đưa ra, chỉ cần đạt số phiếu rất
nhỏ so với tổng số sinh viên thuộc Phân khoa là có thể đắc cử. Khi liên
danh đó đắc cử, nghiễm nhiên có quyền đại diện ăn nói chính thức, hợp
pháp. Họ bảo bãi khoá, tức thì cả trường đóng cửa. Họ nhân danh toàn thể
sinh viên để yêu sách, đòi hỏi, tố cáo…Và họ liên kết với các thành
phần thiên tả, thân Cộng để liên tục mở ra nhiều đợt, nhiều hình thức
đấu tranh. Chẳng những khối sinh viên thầm lặng mà ngay cả một số giáo
sư và một số giới chức nhà trường cũng bị họ khống chế dễ dàng!
4. Luật pháp của một quốc gia tự do dân chủrõ
ràng đã trói tay chính quyền trong cuộc chiến đối đầu với bọn Cộng sản
qủy quyệt. Vì thế, lực lượng an ninh quốc gia tốn công sức rất nhiều mới
thâu thập đủ bằng chứng để có thể giam giữ một cán bộ Cộng sản cốt cán.
Đến khi Cộng sản nắm được chính quyền thì luật pháp đối với họ chỉ là
cái bình phong, là công cụ của chính trị, là loại luật rừng ‘vừa đá banh
vừa thổi còi’. Nghi ngờ: bắt! Nhiều trường hợp bắt để đề phòng! Sau
30.4.1975, Cộng sản giam giữ hàng vạn người không cần xét xử. Chỉ cần
một tờ giấy hành chánh, họ đã nhốt hàng vạn sĩ quan, viên chức chính
quyền VNCH vô thời hạn.
5. Tại sao A 17 đánh bại được Thành Đoàn Cộng sản trong mặt trận Đại học?
Vì ở thế chính quyền bao giờ cũng mạnh tuyệt đối.
Có đủ nhân sự và phương tiện.
Ông Nguyễn Thành Long
lãnh đạo Ban A 17 là một cấp chỉ huy xuất sắc: tốt nghiệp Học viện Quốc
Gia Hành Chánh và Luật khoa Đại học Sài Gòn, trẻ, độc thân, thanh liêm,
có trí nhớ rất tốt, quyết định nhanh và dứt khoát, với một tinh thần
quốc gia chân chính và được thượng cấp giao trọn quyền.
Thành viên Ban A 17 hơn
phân nửa đã tốt nghiệp Đại học, số còn lại đã xong vài ba chứng chỉ, cho
nên họ không xa lạ hoặc mặc cảm với môi trường Đại học. Hơn nữa, họ
thân quen với các bạn bè sinh viên thuộc đủ mọi thành phần chính kiến,
rất thuận lợi cho việc thâu thập tin tức đối phương. A 17 cũng được sự
hợp tác của một số cán bộ Thành Đoàn Cộng sản bị bắt (vẫn chưa tiện nêu danh tính).
Cuối cùng, A 17 còn được ngành Cảnh sát Đặc biệt Thủ đô tích cực cộng
tác, khiến cho nhiệm vụ ổn định Đại học càng mau chóng gặt hái thành
công to lớn.
6. Ôn cố nhi tri tân:
Bài học rút ra từ bài viết trên đây, nói gì với người Việt quốc gia
đang sống tại hải ngoại? Bài học đó nói: bất cứ nơi nào có cộng đồng
người Việt quốc gia, CSVN đều tìm cách cài người vào để hoạt động lũng
đoạn, khuynh loát, và cuối cùng, chiếm lấy độc quyền lãnh đạo.
Từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập trong Hội nghị tại Hong Kong,
từ ngày 3 tới 7 tháng 2 năm 1930, cho tới nay là 80 năm. Đảng Cộng sản
nào cũng đặc biệt chú trọng đến công tác an ninh, tình báo. Suốt 80 năm
qua, nhờ yếu tố có sự lãnh đạo liên tục lâu dài, CSVN đã tích lũy được
vốn liếng an ninh, tình báo rất đáng kể.
Khi xẩy ra biến cố đồng
bào miền Bắc ồ ạt di cư vào miền Nam để tị nạn Cộng sản sau Hiệp định
Genève 1954, Cộng sản đã nhanh tay bố trí các điệp viên vào dòng người
di cư. (Một thí dụ cụ thể là vụ án cụm tình báo chiến lược A
22 làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước vào cuối 1969. Vụ án đó,
chính quyền VNCH đã đem ra tòa xét xử các điệp viên Cộng sản: Vũ Ngọc
Nhạ, Nguyễn Xuân Hòe, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Đồng, Lê Hữu Thúy, Huỳnh
Văn Trọng…).
Tương tự, tình báo
chiến lược CSVN cũng đã lén lút gửi nhiều điệp viên của họ ra hải ngoại
theo các đợt người vượt biên, vượt biển và có thể cả trong các đợt HO.
Khi CSVN có Tòa Đại sứ và 2 Tòa Lãnh sự tại Hoa Kì thì những nơi này
đang đảm nhiệm vai trò lãnh đạo mạng lưới tình báo của CSVN. Hiện nay,
chắc chắn Cộng sản Việt Nam đã cài xong mạng lưới tình báo chiến lược
tại hải ngoại và họ đang vận hành mạng lưới đó tại khắp nơi có cộng đồng
người Việt cư ngụ. Mặc dù mắt dân thường không thấy, nhưng mạng lưới
tình báo chính trị chiến lược này của CSVN tại hải ngoại vẫn là một sự
thật hiển nhiên.
Để tưởng nhớ các bạn A 17 Lê Quảng Lạc, Hứa Minh Chánh và Nguyễn Thanh Nhàn.
BDTS.
Nguồn:https://saigoncapital.wordpress.com/2011/11/01/s%C6%A1-l%C6%B0%E1%BB%A3c-t%E1%BB%95-ch%E1%BB%A9c-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-trong-gi%E1%BB%9Bi-h%E1%BB%8Dc-sinh-sinh-vien-sai-gon-tr%C6%B0%E1%BB%9Bc-1975-cac-can-b%E1%BB%99-c%E1%BB%91t-can-c/
Nguồn:https://saigoncapital.wordpress.com/2011/11/01/s%C6%A1-l%C6%B0%E1%BB%A3c-t%E1%BB%95-ch%E1%BB%A9c-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-trong-gi%E1%BB%9Bi-h%E1%BB%8Dc-sinh-sinh-vien-sai-gon-tr%C6%B0%E1%BB%9Bc-1975-cac-can-b%E1%BB%99-c%E1%BB%91t-can-c/
Xem thêm:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét