Giới thiệu: V- SÀI GÒN THẤT THỦ- NHƯNG KHÔNG ĐẦU HÀNG
Sài Gòn Thất Thủ
Sài Gòn Thất Thủ
“Sàigòn thất thủ” là tựa đề một loạt ký sự được đăng tải liên tục suốt gần một tháng trên Nhật Báo Sankei trong mục “Đặc Phái Viên của Thế Kỷ 20” từ
ngày 29/10 cho đến ngày 27/11/1998. Người thực hiện loạt ký sự này là
ký giả Komori Yoshihisa, một đặc phái viên kỳ cựu của Nhật Bản đã có mặt
tại Sài Gòn trước và sau thời điểm 30/4/1975. Ông Komori Yoshihisa từng
là ký giả của tờ báo Mainichi được biệt phái đến Sài Gòn từ năm 1972
với tính cách là trưởng ban biên tập tại Sài Gòn. Sau đó, đến năm 1987,
ông chuyển sang làm việc cho tờ báo Sankei.
Cũng qua loạt bài viết liên quan đến sự kiện “Sài Gòn Thất Thủ” , năm 1976 ông Komori Yoshihisa đã nhận được giải thưởng danh giá “Phóng Viên Quốc Tế”Vaugh/Ueda
Prize do hai cơ quan truyền thông Mỹ- Nhật UPI và Dentsu sáng lập. Hiện
nay, ông đã 72 tuổi và nổi tiếng là một nhà bình luận thời cuộc thế
giới kiêm công việc giáo sư danh dự tại trường đại học quốc tế Akita ở
Nhật Bản. Ngoài ra, ông cũng từng được biết là một võ sư hướng dẫn môn
Nhu Đạo tại đại học Georgetown ở thủ đô Washington, Hoa Kỳ.
Vì được chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử liên
quan đến chuyện Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam cũng như nội
tình của chính phủ Sài Gòn lúc đương thời, ông đã có cái nhìn rất trung
thực và đứng đắn về cuộc chiến Việt Nam -vốn rất phức tạp trong một tình
thế tương tranh gay gắt mà phe Cộng sản chiếm phần ưu thế lúc bấy giờ,
hơn nữa còn bị đảng Cộng sản Việt Nam xuyên tạc bóp méo để đánh lừa dư
luận thế giới. Nhận thấy tính cách giá trị lịch sử của loạt bài này, dù
đã được viết hơn 15 năm trước, xin giới thiệu phần trích lược trong số
23 bài ký sự của ông Komori Yoshihisa qua phần chuyển dịch của Khôi
Nguyên.
Cũng cần nhắc lại, trước đây các phần chuyển
dịch này của Khôi Nguyên từng được một số báo chí, trang web người Việt
hải ngoại đăng tải và đọc lại.
Kỳ 1: “Kẻ ở, người đi và một sự thật bình thường”
“Nếu 500 ngàn trong tổng số 3 triệu dân Sài
Gòn cầm súng chiến đấu với một tinh thần quyết tử thì chắc là quân cộng
sản Bắc Việt phải chuốc lấy những thất bại nặng nề, và Sài Gòn sẽ trở
thành một Stalingrad thứ hai. Lúc đó, dư luận thế giới bắt buộc phải
quan tâm để đưa đến những cuộc thương thuyết về vấn đề ngưng chiến tại
Việt Nam”.
Ngồi trước mặt tôi và sau lưng là những người
lính cận vệ trong bộ quân phục Không Quân hùng dũng, cựu tướng Nguyễn
Cao Kỳ với một giọng chắc nịch và quả quyết, đã nói như vậy trong buổi
phỏng vấn vào ngày 25/4/1975 tại nhà thờ Lộc Hưng ở ngoại ô thành phố
Sài Gòn.
Ông Kỳ vốn là một nhân vật nổi tiếng vì trước đó
đã giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam như Tư Lệnh
Không Quân, Thủ Tướng, Phó Tổng Thống. Ông đã được biết qua báo chí thế
giới bằng hình ảnh một người đàn ông có dáng gầy, cao vừa phải, dung mạo
đẹp trai, và nhất là bộ ria đen nhánh. Vợ ông là một phụ nhữ xinh đẹp,
xuất thân từ giới tiếp viên hàng không.
Tuy nhiên, từ
năm 1971, trong cuộc tranh đua quyền lực, ông Kỳ đã bại dưới tay ông
Nguyễn Văn Thiệu, một nhân vật từng sát cánh với ông lúc trước. Vì thế,
ông đã bị hất văng ra khỏi chính trường miền Nam. Sau đó, người ta ít
thấy ông Kỳ xuất hiện và cho đến gần thời điểm nguy ngập vào mùa Xuân
năm 1975, ông Kỳ đã lên tiếng chỉ trích những thất sách về mặt quân sự
cũng như sự thối nát về mặt chính trị của chính quyền Sài Gòn.
Vào ngày
25/4/1975 nói trên, trong một buổi tập họp được Ủy Ban Hành Động Cứu
Nước do linh mục Trần Hữu Thanh lãnh đạo đứng ra tổ chức, ông Kỳ đã đến
tham dự và phát biểu. Khi ông Kỳ dùng xe jeep đến nhà thờ Lộc Hưng thì
nơi đây đã có gần 3 ngàn giáo dân tụ tập sẵn ngoài sân từ bao giờ. Địa
phận Lộc Hưng vốn là nơi cư trú của đa số người Công Giáo miền Bắc tỵ
nạn Cộng sản di cư về đây từ năm 1954. Trước khi đến đây, ông Kỳ đã nhận
trả lời phỏng vấn của những phóng viên ngoại quốc như chúng tôi.
“Nếu đồng
báo nhất trí đoàn kết, thì chúng ta sẽ còn con đường sống. Chúng ta phải
cương quyết chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Quân cộng sản chỉ chờ
đợi nơi chúng ta tự chia rẽ và tự tan rã mà thôi. Tôi sẽ ở lại Sài Gòn
và chiến đấu cho tới chết. Tôi muốn nói lên quyết tâm này với dân chúng
Sài Gòn. Những người bỏ chạy ngay bây giờ trước khi quân địch tấn công
vào đều là những kẻ hèn nhát”.
Đứng trên bục
gỗ trước máy phóng thanh, lời kêu gọi của ông Kỳ vang dội đến mấy ngàn
giáo dân Công Giáo như càng làm tăng thêm dũng khí cho họ.
Lúc này, quân
Bắc Việt đã tràn đến những cứ điểm phòng thủ cuối cùng quanh vòng đai
Sài Gòn sau khi nuốt gọn Xuân Lộc. Và Sài Gòn đang trong tình trạng hồi
hộp, căng thẳng về một cuộc tổng công kích cuối cùng của quân Bắc Việt
vào ngay lòng thủ đô. Tuy vậy, lúc nghe ông Kỳ diễn thuyết, tôi cũng cảm
thấy yên tâm phần nào vì miền Nam vẫn có thể tránh khỏi một cuộc chiến
bại toàn diện.
Thế nhưng vào
sáng ngày 29/4/1975 ông Kỳ đã dùng trực thăng tháo chạy ra ngoại quốc,
bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông từng hùng
hồn tuyên bố trước đó bốn ngày.
Từ lúc ông Kỳ
bỏ chạy cho đến giây phút cuối cùng khi Sài Gòn rơi vào tay quân Bắc
Việt, chỉ đúng một ngày. Trong khoảng thời gian này, số những tướng lãnh
cùng binh sĩ VNCH ở lại chiến đấu cũng không phải là ít và có những vị
tướng đã hy sinh.
***
Dọc
theo quốc lộ 13, cách Sài Gòn khoảng 50 km về hướng Bắc là căn cứ Lai
Khê do sư đoàn 5 VNCH trấn giữ. Đây là một trong năm sư đoàn được phối
trí theo thế chiến lược bảo vệ vòng đai thủ đô Sài Gòn. Lúc này, Tổng
Tham Mưu chỉ huy quân Bắc Việt là tướng Văn Tiến Dũng đã huy động tất cả
5 quân đoàn gồm 15 sư đoàn với quân số khoảng 200 ngàn để chọc thủng
những tuyến phòng thủ vòng đai cuối cùng hầu tiến chiếm Sài Gòn.
Đúng vào buổi sáng 30/4/1975, sư đoàn 5 của VNCH
đã phải hứng chịu những áp lực nặng nề trước sức tấn công mãnh liệt của
quân đoàn 1 Bắc Việt, cuối cùng vì lực lượng quá ít so với quân số hùng
hậu của quân Bắc Việt, sư đoàn 5 tan vỡ và vị Tư Lệnh sư đoàn là tướng
Lê Nguyên Vỹ đã tự kết liễu vận mạng bằng cái chết hiên ngang, bất
khuất.
Tướng Lê Nguyên Vỹ, TL SĐ5 BB
Mặt khác, tại cứ địa Củ Chi cách Sài Gòn khoảng
30km về hướng Tây Bắc, sư đoàn 25 của VNCH cũng bị tấn công dữ dội và
ngã gục trước quân đoàn 3 Bắc Việt. Tư Lệnh sư đoàn là tướng Lý Tòng Bá
vì muốn bảo vệ sinh mạng binh sĩ nên đã chịu hàng và bị bắt làm tù binh.
Tướng Lý Tòng Bá, TL SĐ25 BB
Ngay
cửa khẩu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long là căn cứ Tân An nằm ở
hướng Tây Nam Sài Gòn được sư đoàn 22 VNCH trấn thủ cũng không tránh
khỏi sự tấn công mãnh liệt của lực lượng Bắc Việt và đã bị tiêu diệt. Kế
đến là lực lượng những binh sĩ còn lại của sư đoàn 18 dưới sự chỉ huy
của tướng Lê Minh Đảo đang trấn đóng tại phía Đông Sài Gòn đã bị đột
kích bằng chiến thuật biển người của quân đoàn 2 Bắc Việt. Sau khi thất
thủ, tướng Lê Minh Đảo bị bắt làm tù binh.
Tướng Lê Minh Đảo, TL SĐ18 BB
Trong
tình thế hiểm nghèo này, chỉ còn lại lực lượng duy nhất của sư đoàn 7 ở
Mỹ Tho là tương đối có khả năng kéo về Sài Gòn tiếp ứng nhưng vì các
trục lộ giao thông đã bị địch quân cắt đứt nên ngay sau khi Sài Gòn thất
thủ, sư đoàn 7 VNCH cũng đành phải đầu hàng.
(*ghi chú của HVR: Tư lệnh SĐ7BB, Tướng Trần Văn Hai đã tự vẫn ngay trong doanh trại đơn vị)
Tướng Trần Văn Hai, TL SĐ7BB
Tiếp
theo tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân Khu 4 của VNCH là nơi kiểm soát toàn
bộ khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã tận lực trong việc bảo vệ và tiếp
ứng cho hai sư đoàn 9 và 21 đang bị uy hiếp trầm trọng, nhưng kết cuộc
cũng đành phải bó tay. Vị Tư Lệnh quân khu là tướng Nguyễn Khoa Nam cùng
Tư Lệnh Phó là tướng Lê Văn Hưng đã chọn cái chết để bảo vệ khí tiết
ngay tại căn cứ Cần Thơ.
Tướng Nguyễn Khoa Nam, TL QĐ4 QK4
Tướng Lê Văn Hưng, TLP QĐ4 QK4
***
Đối
với tôi, thì việc trong hàng ngũ những tướng lãnh và nhân viên cao cấp
của chính quyền miền Nam, người nào bỏ chạy, người nào ở lại tử thủ đã
trở thành đối tượng cho sự suy nghĩ về những phương cách xử thế ở đời và
là một bài học kinh nghiệm cho bản thân.
Những người thường hô hào chiến đấu chống cộng
tới cùng, hoặc kêu gọi sự đoàn kết và lòng yêu nước theo chủ nghĩa dân
tộc một cách kịch liệt nhất, lại là những người chạy trốn sớm nhất.
Ngược lại, những người có vẻ như thân Mỹ hay thân Pháp lẽ ra phải nhanh
chân chạy thoát thì lại hy sinh ở lại chiến đấu. Thêm một lần nữa, tôi
cảm nhận được một sự thật rất bình thường là “nếu chỉ dựa vào lời nói của một người, ta sẽ không thể phán đoán hành động của họ như thế nào”.
Sau ngày Sài Gòn thất thủ hai năm, tôi được
chuyển sang làm đặc phái viên ở Hoa Kỳ và đã có dịp ghé thăm nơi ở mới
của ông Nguyễn Cao Kỳ tại California.
Từ lúc được chính phủ Hoa Kỳ tiếp nhận cho định
cư, ông Kỳ đã mở một siêu thị để kinh doanh ở gần thành phố Los Angeles
cách nhà ông khoảng chừng 20km, một ngôi nhà thuộc hạng sang trọng đối
với tiêu chuẩn của vùng này. Sau khi nhấn chuông, tôi được ông Kỳ đích
thân mở cửa đón tiếp. Trong bộ quần áo màu vàng nâu, ông Kỳ có dáng vẻ
của một vị trưởng giả và nếu gọi là có sự thay đổi nơi ông thì có lẽ chỉ
là màu của bộ ria nay đã trở thành màu tro nhạt.
Ông
tiếp tôi tại phòng khách và nhận trả lời cuộc phỏng vấn. Sau khi kể lại
những khó khăn ban đầu từ lúc ông cùng vợ và 6 người con 4 trai 2 gái
đặt chân tới đây, ông hồi tưởng lại chuyện chiến tranh: “Tôi
đã từng chủ trương rằng, hòa hợp hòa giải với thế lực cộng sản kết cuộc
chỉ là một ảo tưởng. Điều này hoàn toàn đúng. Vì vậy, đối với cộng sản
chỉ có chọn lựa một trong hai con đường: hoặc đầu hàng, hoặc chiến đấu
tới cùng. Về điểm này có thể nói là những nhận thức của Tổng Thống Thiệu
rất đúng đắn và chính xác”.
Tuy nhiên, ông Kỳ đã không chiến đấu tới cùng với cộng sản.
Việc ông vừa tuyên bố sẽ tử thủ tại Sài Gòn sau
đó lại bỏ chạy như vậy, quả thật đã khiến tôi khó đề cập đến vì thái độ
biểu hiện của ông quá chai cứng: “Tôi đã cố gắng đến cuối cùng và
biết rằng miền Nam sẽ hoàn toàn thất trận nên phải ra đi. Vả lại, tôi
cũng chỉ là một dân thường mà thôi. Nếu như lúc đó tôi ở vào vị trí
trọng yếu của chính quyền thì chắc chắn tôi sẽ ở lại tử thủ. Tuy vậy,
đối với những chiến sĩ VNCH đã chiến đấu đến giờ phút cuối thì tôi rất
kính phục và không biết phải dùng lời lẽ gì để biểu hiện cho sự kính
phục này”.
Nói tóm lại, những lời biện minh, giải thích của
ông Kỳ cho dù nghe ở một góc độ nào chăng nữa, quả thật người ta cũng
không cảm nhận được ý nghĩa gì cả!
Kỳ 2: “Xuân Lộc, một chiến thắng ngắn ngủi làm nức lòng dân”
Xuân Lộc là một thành phố chính yếu của tỉnh
Long Khánh, có vị trí cách thủ đô Sài Gòn khoảng 60km về hướng Đông Bắc.
Ở vào thời điểm cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam thì trận đụng độ tại
nơi này giữa quân đội Bắc Việt và VNCH được coi như là một trận chiến
khốc liệt nhất trước khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị thất thủ. Đây là
trận chiến duy nhất mang tính cách quy mô toàn diện trong giai đoạn
cuối của kế hoạch xâm chiến miền Nam, qua đó quân Bắc Việt đã tận dụng
hết toàn bộ lực lượng quân chính quy với những hỏa lực hùng hậu nhất
nhằm tấn công triệt để quân đội VNCH hầu tạo thế quyết định chiến
trường.
Phù hiệu SĐ18BB
Nhưng
có một điều mỉa mai và đau lòng đối với chính quyền Sài Gòn là qua trận
chiến ác liệt này mặc dù sư đoàn 18 bộ binh của VNCH dưới sự chỉ huy
của dũng tướng Lê Minh Đảo đã chiến đấu thật kiên cường và đẩy lui những
đợt sóng tấn công ào ạt của địch hoàn thành sứ mạng bảo vệ Xuân Lộc
trong một chiến thắng oanh liệt cũng như chiến thắng này đã đưa tên tuổi
của tướng Lê Minh Đảo trở thành một vị anh hùng trong quân sử VNCH,
nhưng chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó chính quyền Sài Gòn phải sụp đổ
tan tành.
Tướng Lê Minh Đảo
Thành phố Xuân Lộc có khoảng 100 ngàn dân cư,
được những đồn điền cao su dày đặc bao bọc xung quanh. Trong thành phố,
người ta thấy có rất nhiều tiệm buôn nho nhỏ xen kẽ với nhà cửa dân
chúng và sự nổi bật của những ngôi nhà thờ nghiêm trang, cung kính như
làm tăng thêm phần thanh nhã, êm đềm vốn là đặc tính của phong cảnh nơi
này. Tôi cũng đã có nhiều dịp dùng xe đi ngang thành phố Xuân Lộc mỗi
khi phải thực hiện phóng sự tại các tỉnh cao nguyên Trung phần và các
thị trấn ven biển của miền Trung.
Mức độ tấn công của quân Bắc Việt vào Xuân Lộc
đã thực sự trở nên ác liệt từ ngày 9/4/1975, tức thời điểm trước khi Sài
Gòn thất thủ đúng 3 tuần lễ.
Đầu tiên, để uy hiếp và trấn áp tinh thần của sư
đoàn 18 bộ binh VNCH, quân Bắc Việt đã dùng loại pháo 130 ly liên tục
pháo kích vào những cứ điểm đóng quân của sư đoàn này và hầu hết những
địa điểm trong ngoài thành phố Xuân Lộc. Loại pháo 130 ly này có xạ
trình đến 27 km do Liên Xô và Trung Quốc phối hợp chế tạo và là một
trong những vũ khí có sức công phá dữ dội nhất của quân Bắc Việt.
Sau khi Sài Gòn bị rơi vào tay quân đội Bắc
Việt, tôi đã được chúng kiến tận mắt loại pháo 130 ly này với một số
lượng không sao đếm hết. Đồng thời, với kích thước to lớn của nó, cũng
đã cho thấy phần nào hỏa lực hùng mạnh của quân Bắc Việt.
Đại bác 130 ly của CSBV
Với chiến thuật vừa pháo kích, vừa cho xe tăng
bộ đội xâm nhập vào Xuân Lộc, cộng sản Bắc Việt trong chiến lược tấn
công nơi này đã sử dụng toàn bộ lực lượng binh sĩ thuộc quân đoàn 4. Đây
là một quân đoàn được hình thành từ việc sát nhập 3 sư đoàn quân Bắc
Việt gồm sư đoàn 6, sư đoàn 7 và sư đoàn 341. Quân đoàn 4 của Bắc Việt
có vị trí đóng quân tại những vùng phụ cận biên giới Campuchia, nằm về
hướng Bắc của thủ đô Sài Gòn.
Qua việc tận dụng cả lực lượng chính quy của
quân đoàn 4 trong mục tiêu đánh chiếm Xuân Lộc đã cho thấy phía Bắc Việt
rất coi trọng địa điểm này trên quan niệm vị trí chiến lược xung yếu.
Đó là, nếu chiếm được Xuân Lộc thì những lộ quân của Bắc Việt xuất phát
từ đây sẽ dễ dàng phối hợp cùng những tuyến quân xâm nhập từ phía Đông
Nam để chọc thủng các hàng rào phòng thủ cuối cùng quanh thủ đô Sài Gòn.
Từ đó, Xuân Lộc đã trở thành mục tiêu hàng đầu
trong chiếc lược tấn công của Bắc Việt. Mặt khác, nếu nhìn từ Sài Gòn ta
sẽ thấy Xuân Lộc quả thật là một thành trì quan trọng nằm ở hướng Đông,
có khả năng che chở cho cả thủ đô vì nó là giao điểm của quốc lộ số 1
dọc theo các bờ biển Trung phần và quốc lộ số 2 từ các tỉnh cao nguyên
miền Trung. Nếu cho quân thẳng tiến vào Nam thì phải đi theo 2 tuyến
đường quốc lộ nói trên nên Bắc Việt có nhu cầu phải giải tỏa nút chặn
chiến lược trọng yếu Xuân Lộc. Cũng vì vậy mà lúc đương thời Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã hạ lệnh cho quân đội VNCH phải tử thủ Xuân Lộc bằng
mọi giá.
Sau
khi chịu đựng những đợt pháo kích liên tục như bão táp mưa sa của quân
Bắc Việt, lực lượng phòng thủ sư đoàn 18 VNCH với tương quan quân lực
kém hẳn địch thủ là 1 đối 3 bắt đầu tổ chức những đợt phản công đánh trả
lại một cách hữu hiệu. Và thật đáng kinh ngạc, những chiến sĩ sư đoàn
18 đẩy lui không biết bao nhiêu đợt tấn công xâm nhập vào Xuân Lộc của
địch với gần 1000 xác quân Bắc Việt và mấy chục chiến xa phải bỏ lại tại
thành phố đầy lửa đạn này.
Chiến xa CSBV bị bắn hạ tại Xuân Lộc
Trong tình thế liên tiếp mấy ngày liền bị vây
hãm như vậy, chính quyền Sài Gòn đã phái một số quân tinh nhuệ thuộc Sư
đoàn Nhảy Dù lúc đó đang đóng tại phía Bắc Sài Gòn, dùng trực thăng đến
Xuân Lộc để tiếp ứng. Dưới sự chỉ huy tài tình của dũng tướng Lê Minh
Đảo, những chiến sĩ VNCH đã kiên cường cố thủ cũng như phản kích mạnh
mẽ. Đối với họ, sự nhận thức về Xuân Lộc là một cứ điểm vô cùng quan
trọng trong việc bảo vệ thủ đô Sài Gòn đã tạo nên một tinh thần quyết tử
cao độ.
Kết quả, sau ba ngày tấn công tới tấp vào Xuân
Lộc, quân Bắc Việt đã bị nhiều tổn thất nặng nề nên đành phải ngưng
chiến. Liên quan đến sự kiện này, tướng Văn Tiến Dũng của Bắc Việt, tổng
tham mưu cuộc tấn công Xuân Lộc, đã viết: “Tại Xuân Lộc, lần đầu
tiên quân đội ta chạm phải một đội quân quyết tử của địch. Tuy quân ta
đã nhiều lần xâm nhập được vào trong thành phố và tạo được thế uy hiếp
mạnh mẽ nhưng đều bị đánh lui trở lại. Điều này chứng tỏ quân đoàn 4 của
ta đã không lượng định được chính xác sức đề kháng kiên cường của
địch”.
Chiến lợi phẩm của CSBV bị tịch thu
Tù binh CSBV tại Xuân Lộc tháng Tư 1975
Thế là phía Bắc Việt đã thú nhận sự thất bại qua
cuộc công kích vào Xuân Lộc lần đầu tiên và ngược lại đối với quân VNCH
thì đây là trận chiến thắng mang nhiều ý nghĩa to lớn trong việc củng
cố niềm tin của dân chúng miền Nam. Do đó, chính quyền Sài Gòn đã truyền
đạt và phổ biến rộng rãi đến các cơ quan truyền thông ngoại quốc cũng
như người dân miền Nam về chi tiết trận chiến thắng ở Xuân Lộc
Dĩ nhiên là người dân Sài Gòn rất hoan hỷ và
càng tăng niềm hy vọng, tin tưởng nơi khả năng chiến đấu, bảo vệ lãnh
thổ của quân đội VNCH.
Sau chiến thắng tại Xuân Lộc, tôi đã có dịp gặp
hai viên sĩ quan trẻ tuổi phụ trách việc thông tin cho sư đoàn 18 tại
văn phòng hãng thông tấn UPI ở Sài Gòn. Hai viên sĩ quan này vừa đưa tôi
xem những hình ảnh của trận chiến Xuân Lộc vừa nói: “Sư đoàn 18 Number One!” , vì họ đã đánh lui được một phần lớn quân cộng sản Bắc Việt.
Tại thành phố Sài Gòn, không khí thật náo nức và
nhộn nịp trong nỗi hân hoan chào mừng chiến thắng Xuân Lộc, một sự
chiến thắng không ngờ. Với thắng lợi này, đa số dân chúng thủ đô đều
nghĩ rằng quân Bắc Việt sẽ mỏi mệt và cần một thời gian khá dài để dưỡng
sức, nhất là nếu có tướng Lê Minh Đảo thì Sài Gòn sẽ bình yên vô sự.
Cho đến này 13/4/1975 thì sinh hoạt tại Xuân Lộc
đã tương đối trở lại bình thường với đường phố tấp nập xe cộ, người qua
lại đông đúc. Cảnh mua bán rộn rịp, tưng bừng hẳn lên, hầu như họ đã
quên rằng cách đó chỉ mấy chục cây số, quân Bắc Việt vẫn còn đóng chốt
và chuẩn bị cho những cuộc tấn công khác.
Quả nhiên, quân Bắc Việt sau một thời gian ngắn
ngủi tạm ngưng chiến đã dồn hết nỗ lực để bao vây chặt chẽ các khu vực
chiến lược xung quanh Xuân Lộc tạo thế cô lập đối phương bằng cách cắt
đứt các tuyến đường tiếp vận huyết mạch. Lúc này, 3 sư đoàn thuộc quân
đoàn 2 Bắc Việt đã từ những vùng ven biển miền Trung kéo quân tiến đến
Xuân Lộc để tăng cường thế công và tổng cộng có 3 sư đoàn của phía Bắc
Việt với quân số đầy đủ vây hãm duy nhất một sư đoàn 18 của VNCH.
Sau đúng một ngày cầm cự, chịu đựng không nổi
trước chiến thuật áp đảo của địch, sư đoàn 18 VNCH đã bắt đầu triệt
thoái khỏi thành phố Xuân Lộc vào ngày 20/4/1975. Sau đó, sư đoàn này
được tái tập trung và đóng quân phòng thủ ngay sát nách Sài Gòn về phía
Đông, nhưng đã quá muộn màng vì quân Bắc Việt gỡ được nút chận Xuân Lộc
và các tuyến quân Nam tiến của họ đã tựa như thế chẻ tre tiến công ào ạt
về Sài Gòn khiến cho quân đội miền Nam bị tan rã thành từng mảnh, từng
mảnh.
Dũng tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh sư đoàn 18 cùng
các binh sĩ của ông chiến đấu đến giờ phút cuối cùng nên bị quân Bắc
Việt bắt giữ. So với một số tướng lãnh VNCH đã tháo chạy từ những ngày
trước đó, tướng Lê Minh Đảo đã được dân chúng ngưỡng mộ và ca ngợi tinh
thần dấn thân vì nước của ông.
Tướng Lê Minh Đảo
Sau ngày miền Nam sụp đổ, tướng Lê Minh Đảo cũng
như đa số sĩ quan cao cấp của VNCH đã bị nhà cầm quyền cộng sản giam
giữ tại các trại tù khổ sai, cưỡng bức lao động. Kết cuộc, nhờ vào sự
can thiệp của chính phủ Hoa Kỳ, sau mười mấy năm tù đầy, tướng Lê Minh
Đảo đã được sang Mỹ để đoàn tụ cùng gia đình vào năm 1994.
Người Hùng Xuân Lộc năm nào nay đã trở thành người hùng cô đơn với nhiều tâm sự mà ít người thấu hiểu.
Kỳ 3: Hoa Kỳ triệt thoái
ĐS Graham Martin @On the Net
Lần đầu tiên bắt tay với ông Graham Martin, vị
đại sứ của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, tôi đã có một cảm giác lạ kỳ mà
cho tới nay tôi vẫn không thể nào quên được, vì nơi lòng bàn tay của
ông ta không có một chút sức lực nào tập trung vào đó cả.
Tôi đã được gặp ông Martin lúc ấy vào khoảng
thời gian cuối năm 1973 tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đặt ngay trung tâm thành
phố Sài Gòn. Sau này nghe kể lại tôi mới biết ông Martin vì bị trọng
thương do một tai nạn giao thông trước đó đã lâu nên lực bóp của bàn tay
đã trở nên yếu hẵn.
Ông Martin là vị đại sứ cuối cùng của Hoa Kỳ tại
miền Nam. Với thân hình gầy ốm, trông ông tôi có cảm giác như ông là
một người không được sáng sủa cho lắm. Chuyên về ngành ngoại giao, ông
đã làm đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Ý và Thái Lan. Vào tháng 7/1973, ông
Martin lúc đó đã 67 tuổi được bổ nhiệm đến Sài Gòn. Tuy ông là một người
thường hay đau yếu bệnh hoạn, nhưng ông rất kỳ vọng vào chính quyền
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và có lập trường chống cộng rất triệt để đối
với thế lực của MTGPMN. Trong lúc Quốc Hội Hoa Kỳ có những do dự trước
việc tiếp tục trợ giúp quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn thì đại
sứ Martin cũng là người đã có nỗ lực vận động nhiều nhất để yêu cầu Hoa
Kỳ nên tái viện trợ cho VNCH.
Đại sứ G. Martin trình ủy nhiệm thư tháng 7/1973 @On the net
Có giả thuyết cho rằng sở dĩ ông nhiệt tâm trong
vấn đề này vì ông có một người con trai là binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ đã tử trận tại Khe Sanh vào năm 1968 trong cuộc đụng độ với quân
Bắc Việt.
Sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết, ông Martin
đã đưa ra một kế hoạch với chủ trương là nếu Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ
thật dồi dào cho VNCH trong khoảng 5 năm nữa thì miền Nam sẽ trở thành
một quốc gia có tư thế chính thức trong khối tự do và đủ sức bảo vệ lãnh
thổ của mình. Vì vậy, ông lại càng được sự ủng hộ của chính quyền miền
Nam.
Đến thời điểm tháng 3/1975, khi quân Bắc Việt mở
những cuộc tiến công như vũ bão trên các địa bàn rộng lớn, tạo thế nguy
ngập cho chính quyền miền Nam thì mọi người rất trông đợi cũng như hy
vọng tràn trề vào quyết định của Quốc Hội chính phủ Hoa Kỳ lúc đó đang
thảo luận việc viện trợ khẩn cấp 700 triệu mỹ kim cho miền Nam để đảo
ngược cục diện. Nhưng không ngờ Quốc Hội Hoa Kỳ đã lạnh lùng cắt đứt
luôn toàn bộ nguồn viện trợ cơ bản.
Riêng cá nhân ông Martin vẫn tin tưởng rằng cho
dù Bắc Việt với thế lực đại quân số có tấn công trực tiếp vào Sài Gòn đi
nữa thì miền Nam cũng chưa đến nỗi mất hết hy vọng nên ông đã vận động
những cuộc thương thuyết để giải quyết vấn đề và cho đến phút cuối ông
vẫn chống lại những mệnh lệnh triệt thoái toàn diện từ Washington.
Công điện ĐS Martin gửi NT Kissinger ngày 28/4/1975
ĐS Martin-Tướng Weyand-NT Kissinger-TT Ford 1975 @On the Net
Đối với phía Hoa Kỳ, cuộc triệt thoái cuối cùng
của họ chính thức bắt đầu từ lúc 2 giờ trưa ngày 29/4/1975. Họ đã dùng
trực thăng quân sự để di tản các nhân viên chính phủ Hoa Kỳ tại Sài Gòn
cũng như những nhân viên, cán bộ, binh sĩ của chính quyền miền Nam cùng
thân nhân đến chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ đang đậu tại
biển Đông tiếp giáp với cửa khẩu sông Sài Gòn.
@On the Net
Trong khi đó, đối với những ngoại quốc ở Sài
Gòn, Hoa Kỳ đã dùng ám hiệu để thông báo về một cuộc triệt thoái cuối
cùng bằng cách cho phát thanh liên tục bản nhạc “White Christmas” ngay
tại vùng đất nhiệt đới nóng bức này. Tuy nhiên, vì muốn ở lại cho đến
giờ phút cuối cùng với một số ít nhân viên phụ tá, ông Martin đã yêu cầu
chính phủ Hoa Kỳ cho kéo dài thêm thời gian cuộc triệt thoái nói trên.
Nhưng cho đến lúc nhận được những mệnh lệnh trực tiếp và nghiêm khắc từ
cố vấn Kissinger thì ông Martin đã không còn cách nào khác nên đành rời
khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ sáng ngày 30/4/1975. Vì vậy, ông Martin là
người Mỹ cuối cùng theo đúng danh nghĩa đã rời khỏi Việt Nam.
Theo tôi, ý nghĩa của cuộc triệt thoái này được
kết luận rằng đó là những dấu hiệu sau cùng cho thấy sự can thiệp của
cường quốc Hoa Kỳ vào VN từ thập niên 1950 đã hoàn toàn không đạt được
mục đích gì và Hoa Kỳ phải ra đi trong sự thất bại, nhưng nếu mục kích
quang cảnh sự di tản của Hoa Kỳ thì nhiều người thường có những nhận
định thật lầm lẫn như “Những người Mỹ cuối cùng đã bị đánh bại trước
thế lực của quân Bắc Việt và dùng trực thăng tẩu thoát trước khi Sài
Gòn thất thủ”.
Bởi vì trên thực tế, quân đội Hoa Kỳ đã rút quân
khỏi VN từ hai năm trước đó và đối với họ thì những liên hệ trực tiếp
về quân sự với cuộc chiến tranh VN đã thực sự chấm dứt từ lúc đó. Nói
cách khác, Hoa Kỳ đã tuân theo đúng tinh thần của hiệp định Ba Lê và
triệt thoái toàn bộ quân đội vào năm 1973. Tôi cũng đã chứng kiến cảnh
những người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi VN vào ngày 29/3/1973.
Quân đội Hoa Kỳ thực sự có mặt tại VN vào năm
1962 khi những viện trợ về nhân lực, vũ khí được gửi đến VN từ căn cứ
Okinawa tại Nhật Bản. Năm 1964, lực lượng TQLC Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng
đánh dấu sự kiện lần đầu tiên Hoa Kỳ đưa những chiến sĩ bộ binh của mình
vào VN. Từ năm 1968 đến 1969, tổng số quân lính của Hoa Kỳ trú đóng tại
VN đã lên đến hơn 540.000 người và từ cuối tháng 3/1973 những liên hệ
quân sự này đã hoàn toàn chấm dứt.
Nghi thức tiễn biệt cuối cùng để đưa quân đội
Hoa Kỳ về nước được chính quyền miền Nam tổ chức tại căn cứ không quân ở
phi trường Tân Sơn Nhất vào ngày 29/3/1973 dưới những cơn gió thật lớn,
thổi mạnh mà cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ.
Tướng Cao Văn Viên -Tướng Federick Weyand- 1973
Lúc đó, đứng ngay cạnh tôi là nhà văn Kaiko
Takeshi cũng đang ghi chép để thực hiện bài phóng sự về buổi lễ này.
Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng VNCH đã đọc bài diễn văn bằng
Anh ngữ để chuyển lời cảm tạ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng
Frederick Weyand, vị Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ đặc trách viện trợ quân sự
cho miền Nam đã đọc lời từ biệt bằng tiếng VN một cách ấp úng như sau: “Quân đội của quý vị nay đã có đủ khả năng chiến đấu để tự bảo vệ và điều này đã được chứng thực rõ ràng”.
Dĩ nhiên là lời nói này hoàn toàn không đúng với
hiện thực, nhưng trên thực tế có 516 quân nhân các cấp của Hoa Kỳ mới
chính là những quân nhân cuối cùng rời khỏi VN sau đó. Đa số họ là những
sĩ quan, cố vấn và hạ sĩ quan của Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại VN. Trong tư
thế điềm nhiên, những quân nhân Hoa Kỳ trông rất bình thản leo lên máy
bay C-141 để về nước. Tuy vậy, cũng có một số người đã tuôn rơi dòng lệ
xúc cảm. Vì thế, sau này khi Sài Gòn thất thủ sự chú ý của tôi đã hướng
về sự kiện người VN di tản nhiều hơn sự di tản của những người Mỹ cuối
cùng tại đây.
Vào ngày 29 đến ngày 30/4/1975, số người Hoa Kỳ
dùng trực thăng rời khỏi Sài Gòn ước chừng khoảng 1000 người và phần lớn
là nhân viên ngoại giao, chuyên viên kỹ thuật chỉ có một số ít là dân
thường. Riêng những người có mang vũ khí đều là những tướng tá và binh
sĩ có nhiệm vụ bảo vệ toà Đại Sứ, con số này chỉ vỏn vẹn có 10 mấy người
mà thôi.
Ngược lại, trong cùng thời điểm này các trực
thăng Hoa Kỳ đã thực hiện cuộc di tản cho gần 10.000 người VN, tức gấp
10 lần số người Mỹ vằ nếu tính luôn vài ngày trước đó thì Hoa Kỳ đã giúp
đỡ việc di tản cho người VN gấp 10 mấy lần nhân số của họ. Nói khác
hơn, Hoa Kỳ đã tận lực trong trách nhiệm cuối cùng của mình khi Sài Gòn
hấp hối.
Xế trưa ngày 29/4/1975, từ văn phòng làm việc ở
một cao ốc, tôi đã nhìn thấy từ xa những cảnh di tản hỗn loạn, ồn ào
trên các đường phố Sài Gòn. Trên bầu trời vang dội những âm thanh gay
gắt của loại trực thăng AH-1G Cobra và Cobra bay khắp nơi trong thành
phố. Nhìn từ cửa sổ, tôi trông thấy quang cảnh chính diện trên sân
thượng của Trung Tâm Văn Hóa Pháp có nhiều người VN cả nam lẫn nữ đang
đứng xếp hàng nối đuôi nhau như một đàn kiến và từng người một leo lên
chiếc thang của những trực thăng Hoa Kỳ bay đến rồi đáp xuống tại đây.
Nói chung là ở vào cục diện cuối cùng của cuộc
chiến tranh VN, điều khẳng định xác thực là Hoa Kỳ không phải là một
nhân vật chính mà đây chỉ là sự xung đột làm chuyển đổi lịch sử giữa một
bên phòng thủ là miền Nam và một bên tấn công để xâm chiếm là phía Bắc
Việt.
Kỳ 4: Hư cấu về MTGPMN
@On the Net
“Tại lãnh thổ miền Nam VN, thế lực chống lại
chính quyền Sài Gòn và lực lượng quân đội Hoa Kỳ là thế lực nào? Những
người đã dùng hình thức quân sự để tấn công quân đội và chính phủ miền
Nam là ai?”. Đó là những câu hỏi trực tiếp liên quan đến bản chất
của cuộc chiến tranh VN mà mỗi khi đặt vấn đề này, chúng ta cần phải
nhận thức cho rõ ràng. Đối với một đặc phái viên của tờ báo Mainichi ở
Sài Gòn lúc đó như tôi thì sau khi đặt chân đến đây, đó là những vấn đề
trọng yếu hàng đầu mà tôi thường suy nghĩ để tìm hiểu.
Những người đấu tranh ở miền Nam tự xưng là MTGP
và thế lực này đã chủ trương rằng chính phủ miền Nam vốn chỉ là một sản
phẩm của thực dân Pháp trước đó và sau này trở thành chính quyền bù
nhìn của chủ nghĩa đế quốc Mỹ để được nhận viện trợ, vì vậy họ đã tuyên
bố chống lại chính phủ miền Nam trong mục đích đánh đuổi ngoại bang,
giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, giành lại độc lập quốc gia.
@On the Net
Vào năm 1960, thế lực này đã chính thức kết
thành một tổ chức gọi là MTGPMN. Tổ chức này đưa ra chủ trương rằng
những hoạt động của họ là đấu tranh vì tự do độc lập cho dân tộc, chứ
không đặt dưới một chủ nghĩa hay ý thức hệ nào khác. So với phía Bắc
Việt, họ là một tổ chức riêng biệt của những người dân thuần túy ở miền
Nam. Đương thời, MTGPMN đã sử dụng các hình thức quân sự để chiến đấu
với chính quyền ông Ngô Đình Diệm, mặt khác họ còn thực hiện không biết
bao hành vi khủng bố để tạo áp lực khiến cho chính quyền lúc đó cũng có
phản ứng lung lay dao động.
Tuy nhiên, ông Diệm với sự viện trợ của Hoa Kỳ
từ trước đó, đã thành công trong việc củng cố thế lực và tăng cường sức
mạnh quân đội nên chính quyền miền Nam tương đối tạo được nền tảng vững
chắc.
Năm 1969, MTGP tuyên bố thành lập chính phủ
CMLTMNVN để khuếch trương thế lực chính trị và tạo thế hiện hữu song
hành cùng chính phủ VNCH. Đương nhiên, họ cũng vẫn tuyên bố là “không hề dính líu với phía Bắc Việt cũng như tại miền Nam không hề có sự hiện diện chiến đấu của quân lính cộng sản Bắc Việt”.
Những tuyên bố trên đây quả là điều hư cấu vĩ
đại, hay nói khác đi đó là sự nguỵ tạo lịch sử to lớn do phía Bắc Việt
dựng nên vì trong lịch sử hơn 30 năm của cuộc chiến VN từ đầu chí cuối
đều là do quân đội Bắc Việt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản VN gây
ra.
Đạo quân này đã giữ một vai trò chính yếu trong
tất cả những cuộc tấn công về quân sự lẫn chính trị để chống lại miền
Nam VN. Ngoài ra, lồng trong cuộc chiến đấu với mục đích vì độc lập tự
do của dân tộc mà họ nêu ra, quân Bắc Việt còn được trang bị bằng những ý
thức hệ của chủ nghĩa Mác- Lênin một cách cuồng tín nhằm thực hiện một
cuộc cách mạng theo khuynh hướng chủ nghĩa cộng sản. Ngay chính đảng
cộng sản VN sau khi chiếm được miền Nam cũng đã bộc lộ một cách trắng
trợn đến mức làm cho mọi người phải kinh ngạc về cái gọi là “cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc”
của MTGPMN vốn thuần túy dân tộc không bị áp đặt
dưới một ý thức hệ chính trị nào, khi cho thấy đây chỉ là tấm bình
phong ngụy tạo bằng cách khai tử lập tức tổ chức MTGPMN.
Hội nghị "Hiệp thương thống nhất" 27-11-1975
Việc những người thực hiện cuộc đấu tranh cách
mạng vì lòng tin của họ trên quan điểm chính nghĩa và họ tự đặt ra những
điều hư cấu để tác động vào mặt tuyên truyền hầu đạt được mục đích
chiến thắng tuy là một điều hết sức tự nhiên, nhưng đối với những người
thứ ba đứng ngoài cuộc chiến, tức không có liên hệ gì lại đi thông tin
và truyền đạt rộng rãi những điều tuyên truyền mang tích cách hư cấu này
thì nó lại là một vấn đề khác.
Đó chính là trường hợp của đa số những người trí
thức và giới báo chí truyền thông Nhật Bản. Tuy có nhiều người biết
hoặc không biết về sự thật hay sự ngụy tạo của ý nghĩa cuộc chiến tranh
VN nhưng dường như tất cả vẫn mặc nhiên chấp nhận và loan tải một cách
không suy xét, tức là “nghe sao nói vậy” .
Bản thân tôi cũng xuất thân từ môi trường hiểu
biết cũng như những nhãn quan chính trị của Nhật Bản rồi sau đó lại được
có cơ hội sống tại VN nên việc tôi tương đối nhận thức được mức độ cách
biệt giữa sự chân thật và ngụy tạo nơi cuộc chiến VN cũng không có gì
là lạ lùng.
Và giờ đây nghĩ lại, quả thật là trong 3 năm
rưỡi ở VN đã cho tôi rất nhiều kinh nghiệm về những lường gạt chính trị
vĩ đại này qua việc từng chiếc mặt nạ trá hình lần lượt bị rơi xuống
phơi bày những sự thật rõ ràng.
Đường mòn HCM
Đơn vị chính quy CSBV trên đường vào Nam
Võ Nguyên Giáp và các Tướng CSBV trên đường mòn HCM
Khi quyết định sống ở Sài Gòn, tôi đã cố gắng
nhớ tiếng Việt và tiếp xúc với thật nhiều người bản xứ. Đầu tiên, tôi đã
hiểu rằng việc người dân ở đây gọi thế lực chống lại chính quyền miền
Nam bằng danh từ “cộng sản” vốn là điều thông thường. Và ai cũng biết
rằng thế lực của cộng sản với phía Bắc Việt thật ra chỉ là một cho nên
sự nhận thức này của họ được suy diễn rộng ra như vậy cũng là mang tính
cách đương nhiên. Nhưng ở Sài Gòn cũng có người gọi lực lượng cộng sản
là lực lượng cách mạng.
Tuy nhiên, trong giới truyền thông Nhật Bản lại thường sử dụng từ ngữ “lực lượng giải phóng” để
ám chỉ những thành phần chống lại chính phủ miền Nam. Mặc dù tổ chức
MTGPMN được gọi tắt là MTGP, nhưng ta không thể nào gán ghép từ ngữ “giải phóng” vào những danh xưng như “quân giải phóng”, “phe giải phóng”, “lực lượng giải phóng” để gọi tên các thế lực chống đối miền Nam một cách tùy tiện và chủ quan như vậy được.
Ngay cả giới truyền thông quốc tế như các hãng thông tấn AP, UPI, AFP v.v.., họ cũng chỉ dùng các từ như “quân Bắc Việt”, “phía cộng sản”, “việt cộng” hoặc “lực lượng cách mạng” mà thôi. Theo sự hiểu biết giới hạn của tôi, thì họ không bao giờ sử dụng các từ ngữ “quân giải phóng”, “phe giải phóng”, “lực lượng giải phóng” để nói về MTGP hoặc quân đội Bắc Việt cả.
Biểu tình phản đối chiến tranh VN tại Nhật, 27-4-1965
Do đó, danh xưng MTGP chỉ là một trường hợp đặc
biệt, vì ý nghĩa của ngôn từ giải phóng đã mang theo một tác động tâm lý
về mặt tuyên truyền rất hiệu quả là cởi mở sự trói buộc để trở thành tự
do. Có nghĩa là tự thân của từ ngữ này đã vô hình chung mang một ý
nghĩa rất chủ quan.
Trong một cuộc đấu tranh, nếu ta gọi một bên là
phe giải phóng thì tất nhiên ta đã coi bên kia là phía trói buộc, đàn áp
tự do và chẳng khác nào ta đã nhận định chủ quan để phân chia ra hai
bên gồm một bên thiện và một bên ác, trong khi ta lại chưa rõ hư thực
thế nào.
Và nếu như vậy thì ta đặt trường hợp ở bán đảo
Triều Tiên xảy ra cuộc chiến do phía Bắc Hàn thực hiện việc Nam tiến để
đánh lại quân đội Hoa Kỳ và Đại Hàn thì lúc đó giới truyền thông Nhật
cũng gọi quân Bắc Hàn là “quân giải phóng” hay “lực lượng giải phóng” hay sao?
Vì từ trước đến nay, Bắc Hàn luôn đề xướng một
cuộc giải phóng để đánh đổ chính quyền Đại Hàn và chủ nghĩa đế quốc Hoa
Kỳ. Rõ ràng là khi Bắc Hàn đưa ra chủ trương giải phóng như vậy, ta đã
nhận thấy tính phi hiện thực nơi lập trường cực đoan của họ vì khách
quan mà nhìn nhận thì Bắc Hàn mới chính là nơi cần được giải phóng.
Ngược lại, đứng trên lập trường dư luận quốc tế,
Nhật Bản là một quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ lẫn Đại Hàn thì nếu
trường hợp Đại Hàn bị bại dưới tay Bắc Hàn, liệu giới truyền thông có
thấy được sự kỳ dị của “sự giải phóng” này không? Và lúc đó nên gọi là “sự kiện” gì đây?
Cải táng nạn nhân bị Việt Cộng thảm sát, Huế 1968
Tóm lại, những lực lượng đấu tranh tự xưng mình
là lực lượng giải phóng, lực lượng cách mạng chỉ phản ảnh sự chủ quan về
cách nhìn nơi cuộc chiến đấu mà họ cho là có chính nghĩa. Cũng như nếu
nhìn ngược lại từ phe đối lập thì phe giải phóng hoặc phe cách mạng cũng
chỉ là những thành phần phản loạn mà thôi. Cho nên khi người thứ ba
đứng ngoài cuộc chiến gọi một bên là lực lượng giải phóng thì chỉ cho
thấy một sự phán đoán không trung thực và thiên kiến.
Đặc biệt là trong thời gian chiến tranh tại VN
tất cả báo chí toàn quốc Nhật Bản đều lấy tin tức liên quan từ hãng
thông tấn Kyodo một cách thật cực đoan, mà hãng Kyodo cũng chỉ dịch lại
những bài ký sự của những hãng thông tấn ngoại quốc như UPI, AP một cách
sai lạc về từ ngữ, vì trong khi nguyên văn tiếng Anh là “quân Bắc Việt”, “quân cộng sản” thì ban dịch thuật của Kyodo lại chuyển dịch thành “quân giải phóng”, “lực lượng giải phóng” khiến dư luận Nhật Bản vốn đã mù mờ về cuộc chiến VN càng trở nên lệch lạc thêm nhiều hơn.
Nếu thực sự họ có ý đồ bẻ cong ngòi bút dịch
thuật như vậy thì họ đã trở thành những nhà báo thiên kiến quá đáng,
không làm tròn chức năng của người ký giả trong lĩnh vực truyền thông
quốc tế.
Kỳ 5: Sự bắt đầu của màn chung kết
Ngày 10/3/1975, thị xã Ban Mê Thuột của tỉnh Đắc
Lắc ở cao nguyên Trung phần miền Nam Việt Nam sau khi bị quân Bắc Việt
đột kích và tấn công dữ dội đã thất thủ. Tính từ ngày này cho đến vỏn
vẹn 50 ngày sau đó thì thủ đô Sài Gòn cũng chịu chung số phận như Ban Mê
Thuột, đưa đến sự sụp đổ toàn diện của chính quyền miền Nam và mở đầu
cho giai đoạn chấm dứt cuộc chiến Việt Nam kéo dài hơn 30 năm.
Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia nhận được viện
trợ về kinh tế lẫn quân sự từ Hoa Kỳ một cách liên tục. Tuy một phần
lãnh thổ bị quân Bắc Việt chiếm đóng, nhưng quốc gia này vẫn kiểm soát
được khoảng 20 triệu dân và có khoảng 1 triệu quân nhân, đồng thời được
sự công nhận của hơn 90 quốc gia trên thế giới lúc bấy giờ. Việt Nam
Cộng Hòa đã hứng chịu sự de dọa và công kích của phía Bắc Việt trong
suốt một thời gian dài để rồi cuối cùng sau một chiến dịch tấn công quân
sự quy mô trong vòng 50 ngày của đối phương, quốc gia này đã bị tiêu
diệt hoàn toàn. Đây là một sự kiện hiếm có đối với nền lịch sử cận đại
của thế giới.
Trong những giai đoạn chuyển biến quan trọng
cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, tôi đã có mặt ở Sài Gòn với
nhiệm vụ thông tin. Thời gian 3 năm làm công tác phóng viên tại đây, đối
với tôi là một chuỗi ngày dài với những bận rộn về viết lách, những lúc
di động cấp tốc để bám sát chiến trường, những nỗi khủng hoảng lo sợ về
tình hình chiến cuộc căng thẳng, những phẫn nộ về các mưu mô chính trị,
những cảm xúc trước tình cảnh bị thương v.v..., tất cả đều là những sự
kiện mà đối với sự suy nghĩ thông thường của một đặc phái viên, có nằm
trong mơ tôi cũng không thể tưởng tượng được các diễn biến đột ngột và
khích động này.
Từng đợt sóng cuồng ào ạt dâng lên trong tình
thế dầu sôi lửa bỏng, có lúc tạm lắng yên và tưởng đâu nó sẽ trở lại
bình thường nhưng chỉ trong khoảng khắc cường độ sôi động của chiến
trường lại tăng lên gấp bội, đưa đến những cục diện phũ phàng. Cuộc
chiến tranh Việt Nam là như vậy đó.
Thị xã Phước Bình, tỉnh Phước Long
Đối với miền Nam, trong ngày Tết Nguyên Đán năm
1975 đã xảy ra một điềm bất thường là việc thị trấn Phước Bình của tỉnh
Phước Long cách Sài Gòn khoảng 130km về hướng Bắc đã bị quân Bắc Việt
chiếm đoạt. Phước Bình vốn là một thị trấn nhỏ nằm trong vùng núi non
hiểm trở. Kể từ khi hiệp định Ba Lê được ký kết, tại nơi đây không xảy
ra một cuộc giao tranh quân sự nào cả. Vì thế, đây là một hành động vi
phạm trắng trợn điều khoản cơ bản hiệp định Ba Lê của phía Bắc Việt,
nhưng họ vẫn tiếp tục mở rộng địa bàn tấn công và sau đó đã làm chủ tình
hình toàn bộ tỉnh Phước Long. Trâng tráo hơn nữa là phía Bắc Việt đã
tuyên bố rằng vì quân đội miền Nam vi phạm hiệp định Ba Lê nên họ phải
tấn công bằng quân sự như vậy. Nhưng về sự kiện này, Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu lại có hành động khó hiểu là không cho viện binh đến Phước
Long để tiếp cứu.
@ on the Net
Xét về mặt chiến lược, Phước Long là một cứ địa
nằm dọc theo biên giới Campuchia, có dân số ít ỏi lại thiếu tài nguyên,
đồng thời nó cũng nằm sát ngay khu vực của đường mòn HCM nên khá bất lợi
trong việc đưa quân đến đây để phản kích lại quân Bắc Việt. Nhưng điều
quan trọng hơn là có lẽ ông Thiệu đã muốn chứng minh cho Hoa Kỳ thấy
rằng Bắc Việt đang ngang nhiên vi phạm hiệp định Ba Lê và uy hiếp miền
Nam, như vậy, Hoa Kỳ sẽ không thể ngưng viện trợ được. Đây chính là một
sách lược của ông Thiệu.
TT Nguyễn văn Thiệu và TT Richard Nixon @ nixonlibrary.gov
Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ đã không có một phản ứng
gì về việc này, hay nói đúng hơn là ngoài việc lên tiếng chỉ trích, phê
phán Bắc Việt vi phạm hiệp định Hoa Kỳ đã không có một hành động can
thiệp nào và Quốc Hội Mỹ vẫn tiếp tục chương trình cắt giảm ngân sách
viện trợ cho miền Nam. Bởi vì lúc đó, Tổng Thống Nixon, người từng tuyên
bố: “Hoa Kỳ sẽ không ngồi yên nhìn Bắc Việt vi phạm hiệp định ngưng bắn”, đã
phải từ chức sau vụ tai tiếng “Watergate” và dư luận dân chúng Hoa Kỳ
cũng đang tạo áp lực mạnh mẽ lên Quốc Hội về việc yêu cầu chính phủ chấm
dứt những hành động can thiệp vào Việt Nam.
@ The New York Times
Đối với những nhân vật đầu não của Bắc Việt thì
thái độ của Hoa Kỳ lúc này chính là một yếu tố quyết định trong kế hoạch
tấn công quy mô cuối cùng để chiếm lấy miền Nam và nó cũng mang ý nghĩa
chiến lược có tầm vóc lịch sử. Theo hồi ký của Văn Tiến Dũng, thời điểm
này Bắc Việt đã hoàn tất một kế hoạch tổng tấn công quy mô sau khi phán
đoán về phương tiện chiến đấu giảm sút của quân đội Việt Nam Cộng Hòa
vì bị Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ. Tuy vậy, phản ứng của Hoa Kỳ vẫn còn là
chìa khoá quyết định thành bại của kế hoạch tổng tấn công cho nên theo
nhận định này thì nếu Hoa Kỳ tiếp tục ứng viện cho miền Nam bằng những
cuộc oanh tạc miền Bắc thì quân cộng sản Bắc Việt sẽ có khó cơ hội chiến
thắng. Đây quả là một chiến lược khôn khéo tránh đối đầu trực tiếp với
Hoa Kỳ của phía Bắc Việt và cũng vì vậy mà họ đã tung quân đánh chiếm
Phước Long để dò thử phản ứng của Hoa Kỳ.
Thế nhưng, sau khi chiếm được Phước Long một
cách dễ dàng thì Bắc Việt đã đi đến quyết định là cho dù Hoa Kỳ có phản
ứng ra sao đi nữa thì họ vẫn không lùi bước. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử cuộc chiến, Bắc Việt đã có một quyết định dứt khoát tấn công
triệt để.
Võ Nguyên Giáp, Hà Nội 1-1975 @ on the Net
Trước đó, vào ngày 8/1/1975, bộ chính trị trung
ương đảng lao động Việt Nam, tức đảng cộng sản VN đã dự định trong kế
hoạch tấn công nói trên rằng: “Sẽ bắt đầu tổng công kích miền Nam vào
mùa Xuân năm 1975 và trong vòng hai năm, tức đến giữa năm 1976 sẽ giải
phóng hoàn toàn miền Nam”. Tóm lại, cuộc tấn công Ban Mê Thuột vào tháng
3/1975 đã chính thức mở màn cho chiến dịch tổng tấn công này.
Để thực hiện cuộc tổng tấn công, Văn Tiến Dũng
đã bí mật rời khỏi Hà Nội vào tháng 2/1975 vào Nam bằng những con đường
mòn bí mật mới được thiết lập tại phía Đông dãy Trường Sơn. Tại đây, Văn
Tiến Dũng đã trực tiếp chỉ huy những cuộc tấn công bất ngờ vào Ban Mê
Thuột và lúc đó ở chung quanh tỉnh Pleiku, một trong các cứ địa hiểm yếu
của miền Trung cũng đã bị bao vây chặt chẽ bởi đại quân của Bắc Việt
với mục địch ngụy trang cho một cuộc tấn công chính thức vào đây hầu
phân tán sự phòng thủ của quân đội VNCH tại Ban Mê Thuột. Tuy nhiên,
trên thực tế đã có tới 3 sư đoàn quân Bắc Việt đã hiện diện sẵn để chuẩn
bị cho những cuộc tấn công bất ngờ vào Ban Mê Thuột. Trong khi đó,
thành phần chủ lực của VNCH là sư đoàn 23 được điều động về Pleiku để
tiếp ứng tạo thành một lực lượng phòng thủ hùng hậu duy nhất tại đây.
Điều này cho thấy sự thay đổi mục tiêu tấn công
trong lúc có đầy đủ binh lực với thế áp đảo đối phương của Bắc Việt, lần
đầu tiên đã trở thành một điều căn bản trong chiến lược của họ. Cùng
thời điểm này, tại quân khu 2 bao gồm toàn thể miền Trung, quân VNCH
đang hiện diện với quân số tương đương với 2 sư đoàn nhưng Bắc Việt cũng
đã phối trí tại đây tới 5 sư đoàn. Với tương quan lực lượng về quân số
như vậy, dĩ nhiên là những trận tập kích sau đó vào Pleiku của quân Bắc
Việt được coi như sẽ dễ dàng tạo áp lực nặng nề cho quân đội VNCH. Hơn
nữa, Pleiku lại là một cứ điểm quan trọng của Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 VNCH
nên ai cũng nghĩ rằng quân đội miền Nam sẽ tử thủ để bảo vệ cứ địa này.
Trong tình thế khẩn cấp như vậy, vào buổi sáng
ngày 16/3/1975 khi tôi đang có mặt ở Sài Gòn thì phóng viên kỳ cựu
Nguyễn Gia Thôi của đài phát thanh chính phủ miền Nam hớt hãi báo tin
cho tôi biết rằng: “Ông ơi, tại Pleiku hình như đã xảy ra chuyện gì
rồi, vì đột nhiên những tin tức truyền từ đó về đây đã hoàn toàn bị cắt
đứt. Nhưng quân cộng sản vẫn chưa tấn công vào Pleiku kia mà? Thật là
khó hiểu quá” . Đối với tôi thì đây là một nguồn tin có tính cách liên quan đến biến chuyển lịch sử bại trận hoàn toàn của quân đội miền Nam.
Thì ra, ông Thiệu bỗng nhiên ra lệnh bỏ Pleiku
và triệt thoái cao nguyên, rút hết toàn bộ quân đội đang phòng thủ ở
miền Trung về Nam. Ông Thiệu đã nhận định là vì Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ
nên quân đội miền Nam đã không đủ vũ khí đạn dược để chiến đấu cùng
quân số hùng hậu của quân BV. Sau khi rút quân từ miền Trung, quân đội
VNCH sẽ tập trung để tạo thành tuyến phòng thủ bao bọc các nơi đông dân
cư ở ven biển và thủ đô Sài Gòn trong một chiến thuật triệt để tử thủ
phần đất miền Nam còn lại.
Thế nhưng, chiến thuật này đã hoàn toàn thất bại
vì đội quân triệt thoái của miền Nam đã tựa như những mảnh băng sơn tan
rả và bị chôn vùi dưới cơn hồng thủy lánh nạn của người dân miền Trung
lúc đó thật ào ạt và mãnh liệt.
Nói khác đi là quân đội VNCH đã mất đi thế lực
chiến đấu. Sự kiện này đối với Văn Tiến Dũng chẳng khác nào một cơ hội
bằng vàng vì “bất chiến tự nhiên thành” và theo kế hoạch về một tình thế
khống chế toàn bộ miền Trung sẽ bắt đầu từ năm 1976 nay lại hoàn thành
sớm hơn dự định. Vì vậy, Văn Tiến Dũng đã ra lệnh cho toàn quân Bắc Việt
truy kích ráo riết các tuyến đường tháo lui của quân đội miền Nam.
Vào lúc này, Hà Nội đã dốc hết toàn lực để sớm
đánh chiếm Sài Gòn bằng cách đưa thêm quân số của quân đoàn 2 cùng dân
quân tự vệ vượt qua vĩ tuyến17 để đột nhập Quảng Trị và Huế, đồng thời
còn tận dụng cả lực lượng dân quân trừ bị khiến cho số lượng nhân viên
trong bộ máy hành chính và sản xuất đã giảm xuống còn 1/3. Nói chung là
Hà Nội đã rót hết lực lượng chiến đấu vào miền Nam với tổng cộng 20 sư
đoàn dân quân lúc đó đang trên đường Nam tiến.
Kết quả là phía miền Nam đã từ từ mất Huế, Đà
Nẵng và các khu vực chung quanh Sài Gòn cũng lần lượt bị rơi vào vòng
kiểm soát của quân Bắc Việt.
Trong quá trình này đã có tới mấy triệu người
dân miền Nam phải bỏ chạy lánh nạn cũng như có biết bao thảm cảnh bi
thương thống khổ đã xảy ra khắp nơi tại miền Nam Việt Nam.
Kỳ 6: Những cảm nhận sâu sắc về sự tàn ác của chủ nghĩa cộng sản
Ông Trần Văn Đỗ, circa 1990 @ On the Net
“Lẽ ra hai miền Nam Bắc Việt Nam đã được
tiếp tục chung sống một cách lâu dài theo tinh thần của hiệp định đình
chiến Genève, nhưng vì phía Bắc Việt đã chủ trương dùng quân sự thôn
tính miền Nam nên đã bắt đầu cho một cuộc chiến kéo dài cho đến ngày hôm
nay”. (Cựu Ngoại trưởng VNCH Trần Văn Đỗ)
Người đã từng 3 lần giữ chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại
Giao của miền Nam là ông Trần Văn Đỗ, một nhân vật mà thỉnh thoảng gợi
lên nơi tôi sự tưởng tượng về hình ảnh của loài chim hạc trắng vì dáng
người ông cao ốm, mảnh mai nhưng cử động nhanh nhẹn, cộng thêm mái tóc
bạc mềm mại và khuôn mặt trắng, thon dài. Tóm lại, tất cả những biểu
hiện bên ngoài nơi ông đã khiến cho tôi có cảm giác như vậy.
Cho đến thời điểm cận ngày Sài Gòn thất thủ, tôi
vẫn thường ghé thăm ông và được nghe ông nói chuyện về tình hình chính
trị cũng như về mặt ngoại giao của VNCH. Nhà ông ở một căn apartment
không lớn lắm nằm trên đại lộ Hồng Thập Tự gần ngay Dinh Độc Lập. Những
lúc gặp gỡ như vậy, ông thường nói chuyện rất dài và lúc nào cũng tiếp
đãi khách bằng những ly trà nóng thơm mùi hoa lài. Và nếu càng nghe ông
phân tích về những biến chuyển tình thế của từng giai đoạn, ta sẽ càng
cảm nhận sâu sắc thêm về ý nghĩa của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ông Đỗ sinh năm 1931 tại miền Bắc Việt Nam. Ông
đã tốt nghiệp đại học Y khoa tại Paris nên được coi là một trong những
nhân tài ưu tú của VN dưới thời Pháp thuộc. Sau đó, ông đã phục vụ cho
Pháp lẫn Việt Nam qua cương vị bác sĩ và cho đến năm 1951 khi vua Bảo
Đại trở thành nguyên thủ quốc gia thì ông được tuyển nhiệm làm chức vụ
Giám Đốc Quân Y. Vào năm 1954, ông Đỗ là người đại diện cho chính phủ
miền Nam VN tại hội nghị Genève, đồng thời kiêm luôn chức Bộ Trưởng Bộ
Ngoại Giao cho đến năm sau đó, tức năm 1955 khi chính quyền Tổng Thống
Ngô Đình Diệm được thành lập.
Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ 1967 @ on the Net
Sau khi chính quyền ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ
qua cuộc đảo chính năm 1963 thì đến năm 1965, ông Đỗ trở thành Phó Thủ
Tướng trong nội các của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Từ đó cho đến năm 1967,
mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn nhưng ông cũng đã giữ chức Bộ
Trưởng Bộ Ngoại Giao lần thứ hai. Với quá trình thay đổi chức vụ của ông
Đỗ liên tục như vậy, cũng phần nào cho thấy sự phức tạp của dòng lịch
sử cận đại Việt Nam.
BS Trần Văn Đỗ và Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu TTK/UBLĐQG 1967 @ on the Net
Lúc tôi quen biết được ông thì ông cũng đã
khoảng 70 tuổi và mỗi khi tôi ngỏ ý được tiếp kiến thì ông đều vui vẻ,
sảng khoái nhận lời. Qua những lần gặp gỡ đó, ông Đỗ tuy vốn có trình độ
Anh ngữ cao, nhưng ông đã sử dụng lối giải thích thật dễ hiểu để phân
tích cho tôi nghe về tình hình và lịch sử VN cũng như những vấn đề liên
quan đến cục diện quốc tế. Có lần ông đề cập đến việc quân đội Nhật xâm
chiếm bán đảo Đông Dương trong thời Pháp thuộc như sau: “Quân đội
Nhật khi đến VN thì kể cả sĩ quan và binh linh đều có một tinh thần kỷ
luật cao độ và uy thế của họ đã áp đảo hẳn quân đội Pháp thời bấy giờ.
Tôi rất ngưỡng mộ tinh thần tôn trọng kỷ luật của họ”.
Đối với tôi, những điều đã được học hỏi từ trước
đến nay về hành động xâm chiếm Đông Nam Á của quân đội Nhật được coi
như là một chuyện không đúng nên nhận xét của ông Đỗ đã khiến tôi thật
bất ngờ. Có lẽ là một người đã từng trải và có nhiều kinh nghiệm về lịch
sử nên ông tỏ ra có lập trường dứt khoát nơi sự thiện cảm đối với tinh
thần kỷ luật quân đội Nhật.
Rồi kế đến, những nhận xét của ông về hội nghị
Génève lại càng súc tích và sâu sắc hơn. Ông nói rằng với cương vị đại
diện cho phái đoàn miền Nam Việt Nam lúc đó, ông đã không có một sự
nhượng bộ nào để làm mất danh dự cho quốc gia mình và hội nghị Genève
1954 nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp tại Việt Nam trong một tình
thế hỗn loạn khi quân đội Pháp đang chiến đấu chống lực lượng Việt Minh
do HCM lãnh đạo khởi đầu cho giai đoạn 1 của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Hội nghị Geneve 1954 @ on the Net
Trong hội nghị này đã có sự tham dự của đại diện
các nước như Ngoại Trưởng Bidault của Pháp, Ngoại Trưởng Eden của Anh,
Ngoại Trưởng Motolov của Liên Xô, Ngoại Trưởng Dulles của Hoa Kỳ. Phía
Trung Quốc và Bắc Việt cũng cử hai đại diện là Thủ Tướng Chu Ân Lai và
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng.
Đại diện 4 nước CS tại hội nghị Geneve 1954
Nam Il (Bắc Hàn) Molotove (liên Sô) Chu Ân Lai
(Trung Cộng) P V Đồng (CSVN)
|
Tại hội nghị Genève đã ký kết một bản hiệp định
đình chiến giữa các phe tham chiến ở Việt Nam và đưa ra một bản tuyên
ngôn cuối cùng quy định về việc tạm thời chia cắt Việt Nam ra làm hai
miền và hai năm sau đó sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất
quốc gia. Nhưng trên phương diện áp buộc của luật pháp quốc tế thì chỉ
có việc đình chiến là được thực hiện còn bản tuyên ngôn cuối cùng nói
trên thì không một đại diện nước nào chịu ký kết vào đó cả. Hơn nữa,
phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa cũng biểu quyết phản đối bản tuyên ngôn
này, và vì vậy ông Đỗ đã nhấn mạnh rằng: “Lẽ ra hai miền Nam Bắc
Việt Nam đã được tiếp tục chung sống một cách lâu dài theo tinh thần của
hiệp định đình chiến Génève, nhưng vì phía Bắc Việt đã chủ trương dùng
quân sự thôn tính miền Nam nên đã bắt đầu cho một cuộc chiến kéo dài cho
đến ngày hôm nay”.
Ông cũng cho rằng qua hiệp định Ba Lê được ký
kết năm 1973, trên thực tế Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa coi như đã đầu
hàng quân Bắc Việt: “Hiệp định Génève đã thành công hơn hiệp định Ba
Lê rất nhiều vì nó quy định được việc rút quân của phía Bắc Việt và
người dân hai miền Nam Bắc đều được tự do chọn lựa nơi sinh sống của
mình. Còn thì hiệp định Ba Lê chỉ đề cập đến việc quân đồng minh triệt
thoái khỏi lãnh thổ Việt Nam và chấp nhận sự hiện diện của quân xâm lăng
Bắc Việt tại miền Nam Việt Nam. Trong khi Hoa Kỳ với 500.000 binh sĩ mà
không diệt được quân Bắc Việt, còn chúng tôi với lực lượng đơn độc làm
sao có thể thắng được kẻ địch. Tóm lại, với nỗ lực ngoại giao của ông
Kissinger vị cố vấn tối cao của một cường quốc hạng nhất thế giới là Hoa
Kỳ trong ba năm qua là sự lãng phí vô ích và rốt cuộc chỉ nhận được kết
quả là sự đầu hàng mà thôi”.
Ngoại trưởng Mỹ Kissinger và Lê Đức Thọ, bên lề hội nghị Paris 1973 @ on the Net
Ông Đỗ đã vạch cho ra cho tôi biết về bản chất
thật sự của cuộc chiến tranh Việt Nam, đó là một cuộc chiến được kết hợp
bởi sự chiến đấu giành lại độc lập dân tộc với một cuộc cách mạng mang
đặc tính chủ nghĩa cộng sản cũng chủ trương giành lại độc lập, nhưng chủ
nghĩa cộng sản có thật sự tốt hay không hoặc chủ nghĩa cộng sản có đại
diện cho chính nghĩa hay không thì đó còn là một nghi vấn. Hơn nữa, để
lật đổ chế độ thực dân tại sao lại chỉ áp dụng phương pháp cách mạng đặc
tính của chủ nghĩa cộng sản.
Ông Đỗ còn giải thích rõ cho tôi nghe về lịch sử
cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau khi bị đặt dưới ách thống trị của thực
dân Pháp kể từ những năm đầu thập niên 1880, tinh thần đấu tranh vì độc
lập của người Việt Nam ngày càng dâng cao mãnh liệt. Đương thời, những
tổ chức kháng chiến chống Pháp có hệ thống chặt chẽ là Việt Nam Quốc Dân
Đảng, Việt Nam Quang Phục Hội, đảng Đại Việt v.v... Vì những tổ chức
này không tiêm nhiểm tư tưởng cộng sản nên được gọi là những lực lượng
chủ nghĩa dân tộc. Trong khi chủ thuyết Mác Lênin do HCM đề xướng tại
Việt Nam, lúc đó đang có những liên hệ mật thiết với khối cộng sản quốc
tế. Còn những lực lượng chủ nghĩa dân tộc đối với phe theo chủ thuyết
Mác Lênin thì có hai lập trường một là không màng đến, hai là coi như kẻ
địch. Và ông Trần Văn Đỗ là một trong những nhân vật tiếp nối hệ phổ
của những người đã từng có kinh nghiệm đấu tranh thuộc đảng Đại Việt và
Việt Nam Quốc Dân Đảng đương thời đang ở Sài Gòn như ông Trần Văn Tuyên
Dân Biểu Hạ Viện Quốc Hội, ông Đặng Văn Sung Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội,
giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, v.v...
Sau khi quân Nhật đầu hàng vào năm 1946, các thế
lực kháng chiến Việt Nam đã kết hợp lại để thành lập chính phủ liên
hiệp kháng chiến và một cán bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng là ông Trần
Văn Tuyên đã cho biết về kinh nghiệm liên hiệp với phe HCM như sau: “Trong
chính phủ liên hiệp, đảng cộng sản Việt Nam đã dùng tất cả những thủ
đoạn để loại trừ các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc”.
HCM và chính phủ Liên hiệp kháng chiến 1945 @ on the Net
Âm mưu của đảng cộng sản Việt Nam là, đầu tiên,
để chống lại kẻ thù chung thực dân Pháp họ đã kêu gọi sự tập hợp của
những lực lượng kháng chiến theo chủ nghĩa dân tộc hầu lợi dụng những
thành phần này để bành trước thế lực, sau đó phe cộng sản lại giết hại
bất cứ những ai không đi theo chủ nghĩa cộng sản như họ, để độc quyền
thao túng vũ đài chính trị tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Ngọc Huy và ông Đặng Văn Sung cũng đã
đưa ra nhiều bằng chứng xác thực về trường hợp những nhà cách mạng dân
tộc không theo chủ nghĩa cộng sản thời đó đã bị phe Việt Minh, tức cộng
sản dùng các thủ đoạn tinh vi để lường gạt hoặc sát hại. Tóm lại, đối
với những thế lực chính trị không đồng thuận cùng tử tưởng với chủ nghĩa
cộng sản thì họ đã cảm nhận đến xương cốt và hiểu biết một cách sâu sắc
về bản chất tàn ác của chủ nghĩa cộng sản.
Vào thời điểm cuối cùng tháng 4/1975 trong tình
thế nguy ngập, ông Đỗ đã rời khỏi Sài Gòn đi tỵ nạn ở ngoại quốc và cho
đến những giây phút cuối ông vẫn lên tiếng chỉ trích, phê phán hành động
phản bội đồng minh của phía Hoa Kỳ.
Từ lúc Sài Gòn thất thủ cho đến 15 năm sau đó,
tôi vẫn tiếp tục liên lạc với ông Đỗ đã định cư tại Pháp và sống chung
với người con trai là bác sĩ có phòng mạch tại Paris. Cứ khoảng hai năm
một lần tôi đều đến viếng thăm ông. Nhà ông ở trong một chung cư gần đại
lộ Victor Hugo và vẫn như lúc còn ở Sài Gòn ông luôn tiếp đãi tôi bằng
những ly trà thơm dịu mùi hoa lài cùng với lối ăn mặc chỉnh tề. Ông phân
tích cho tôi nghe chuyện chiến tranh Việt Nam. Mặc dù đã là quá khứ
nhưng tôi cứ tưởng như những chuyện đang xảy ra trước mắt mình.
Vào mùa Thu năm 1990, thật là hiếm hoi khi tôi nhận được thư ông nhắn rằng: “Xin mời anh đến để chúng ta cùng nói chuyện” .
Và tôi lập tức bay sang Pháp thăm ông. Thời điểm này, Việt Nam đang sa
lầy vào cuộc chiến Campuchia và tình hình quốc nội đang gặp phải nhiều
khó khăn cùng cực. Qua cuộc gặp gỡ này, ông Đỗ có vẻ như già yếu hẳn đi,
ông nói: “Việt Nam hiện nay tựa như một căn nhà đang chìm đắm tai ương hoạn nạn” . Cuộc gặp ông lần đó đã để lại trong tôi một tình cảm lạ kỳ, thật khó tả.
Một tháng sau, tôi nhận được tin ông Đỗ đã qua đời.
***
(Ghi chú của HVR: Thân phụ ông Trần Văn Đỗ
là cụ Trần Văn Thông, từng làm Tổng đốc Nam Định 17 năm. Cậu ruột ông là
cụ Bùi Quang Chiêu, người sáng lập Đảng Lập Hiến Đông Dương. Ông là em
ruột luật sư Trần Văn Chương, nguyên Đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ thời đệ nhất
Cộng Hòa, bà Trần Lệ Xuân vợ Cố vấn Ngô Đình Nhu gọi ông là chú).
©Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR
Nguồn: http://bacaytruc.com/index.php?option=com_content&id=1305:sai-gon-tht-th
" Ôm yên , gối trống đã chồn , nằm vùng cát trắng , ngủ cồn rêu xanh ."...........Mai Nguyễn Huỳnh Xin cảm ơn những ai đã hiểu đời lính....! Họ có trái tim dân tộc, và tình đời yêu mến Tự Do!!!
Phong Hoàng
Phong Hoàng Tư hào là ngươi linh
Thiện Bửu
Thiện Bửu Không biết nói gì. Chỉ biết yêu mến và rất tự hào về người lính VNCH. ước muốn được trở thành lính VNCH. Biểu tượng cảm xúc smile
Nhu Tam Pham
Nhu Tam Pham Đọc bài viết này không biết tại sao nước mắt cứ trào ra ... Thì ra tôi đã khóc , 41 năm rồi tôi vẫn nhớ , nhớ nhiều lắm không sao quên được ...
Thiện Bửu Không biết nói gì. Chỉ biết yêu mến và rất tự hào về người lính VNCH. ước muốn được trở thành lính VNCH. Biểu tượng cảm xúc smile
Nhu Tam Pham
Nhu Tam Pham Đọc bài viết này không biết tại sao nước mắt cứ trào ra ... Thì ra tôi đã khóc , 41 năm rồi tôi vẫn nhớ , nhớ nhiều lắm không sao quên được ...
Công khai
Jan 01, 2016
ĐỂ TRẢ LỜI CHO 580 SĨ QUAN TPB/QL.VNCH CÒN ' KẸT LẠI VN ' CHO CÁI ' ĐỂU CÁNG ' CỦA MỸ PHẢN BỘI ĐỒNG MINH VNCH!
LỜI CHÚC LÀNH & HẠNH PHÚC CHO VIỆT NAM- QUÊ HƯƠNG TÔI...!!!
* Ghi Chú:" Hoa Kỳ là một tên đểu cáng quốc tế, một con buôn chính trị bán đứng đồng minh VNCH cho Trung Cộng. Họ không biết xấu hổ, khi nói lên điều tồi bại của Mỹ: " Nếu chúng tôi- Hoa Kỳ- lấy hết các anh em sĩ quan về Mỹ, thì Việt Nam các anh sẽ mất nước... như các anh đã mất Hoàng Sa & Trường Sa.. Vì Sĩ Quan các anh là rườn cột, là linh hồn của Tự Do cuối cùng xót lại của Việt Nam...!!! ".
Tôi xin cảm ơn cái đểu của người Mỹ. Và nhận định thật lòng của chúng tôi:
" Mỹ Cộng & Việt Công bắt tay!
Hai thằng đối tác- Việt Nam ăn mày...??! "
Huỳnh Mai St.8872
Cựu Đại Úy Nguyễn Huỳnh Mai
Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH/TCQH
{ Sưu tầm và phổ biến tập tin }
Xem thêm
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/01/loi-chuc-lanh-hanh-phuc-cho-viet-nam.html?spref=fb
Vu Pham với Nguyen Thi Hong và 16 người khác.
· Phuong Lam ·
Thứ Ba ngày 29/4/1975- Di tản khỏi Sài Gòn --
Di tản khỏi Sài Gòn
https://www.youtube.com/watch?v=Nz0F-OCFeVo&feature=youtu.be
Với bất cứ giá nào hàng ngàn dân chúng tháo chạy khỏi Sài Gòn bằng mọi cách trước khi giặc Cộng đến!
-- Tại bến cảng Sài Gòn, bằng bất cứ giá nào, hơn ngàn người dân tuyệt vọng, cố gắng leo qua bờ tường rào cát để xuống bên tầu. Hàng ngàn người cố gắng liều mạng vượt ra biển bằng mọi giá có thể sống hoặc có thể chết Chúng tôi phải chạy vòng đến tòa đại sứ thì dân chúng tìm cách leo lên xe buýt, và bám vào hông xe. Xe buýt đàng sau phải chạy hơi nhanh , trẻ con bám vào thành xe rồi bị rớt xuống đường và bị bánh xe cán. Dân chúng bám theo những chiếc xe Mỹ di tản chiếc này đến chiếc kia khiến đường phố bị kẹt cứng xe cộ. Cảnh sát họ muốn dùng súng đạn để đe dọa dân chúng, nhưng dân chúng bây giờ chẳng còn sợ gì cả . Những điều mà bây giờ họ đang sợ thì nó kinh khiếp hơn rất rất nhiều.( Sợ không thoát khỏi tay giặc Cộng). Những người dân chạy bám theo người Mỹ đến tòa đại sứ, họ ng
Di tản khỏi Sài Gòn
Với bất cứ giá nào hàng ngàn dân chúng tháo chạy khỏi Sài Gòn bằng mọi cách trước khi giặc Cộng đến!
-- Tại bến cảng Sài Gòn, bằng bất cứ giá nào, hơn ngàn người dân tuyệt vọng, cố gắng leo qua bờ tường rào cát để xuống bên tầu. Hàng ngàn người cố gắng liều mạng vượt ra biển bằng mọi giá có thể sống hoặc có thể chết Chúng tôi phải chạy vòng đến tòa đại sứ thì dân chúng tìm cách leo lên xe buýt, và bám vào hông xe. Xe buýt đàng sau phải chạy hơi nhanh , trẻ con bám vào thành xe rồi bị rớt xuống đường và bị bánh xe cán. Dân chúng bám theo những chiếc xe Mỹ di tản chiếc này đến chiếc kia khiến đường phố bị kẹt cứng xe cộ. Cảnh sát họ muốn dùng súng đạn để đe dọa dân chúng, nhưng dân chúng bây giờ chẳng còn sợ gì cả . Những điều mà bây giờ họ đang sợ thì nó kinh khiếp hơn rất rất nhiều.( Sợ không thoát khỏi tay giặc Cộng). Những người dân chạy bám theo người Mỹ đến tòa đại sứ, họ ng
hĩ
oó thế họ có cơ hội thoát khỏi Việt Nam hoặc là không. Cổng tòa đại sứ
đã khóa đóng, chúng tô( nhân viên Mỹ) phải đánh lộn để bò được lên cổng
tường,và chúng tôi đã bò....
https://www.facebook.com/vu.pham.73113/posts/942462215868950?notif_t=like_tagged¬if_id=1464010113484296
Trận Đánh Quyết Tử…
Phim tài liệu về những ngày cuối tháng 4/1975 : Những chiến sĩ hào hùng
và những người dân tự vệ nhất quyết đánh giặc Cộng đến cùng. Những cảnh
người dân lũ lượt chạy giặc, không muốn sống với lũ mọi của "thiên đàng "
Cộng Sản.
https://youtu.be/nLvAR76ByXY
https://www.facebook.com/vu.pham.73113/posts/942462215868950?notif_t=like_tagged¬if_id=1464010113484296
Trận Đánh Quyết Tử…
https://youtu.be/nLvAR76ByXY
Xem thêm:
/viet-cho-ngay-304-noi-au-nao-lon-hon
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/viet-cho-ngay-304-noi-au-nao-lon-hon.html
Xem thêm:
Trận đánh cuối cùng: Sài Gòn thất thủ
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/tiep-theo-tran-anh-cuoi-cung-sai-gon.html
Trận đánh cuối cùng: Sài Gòn thất thủ
Giữa năm 1965 TT Johnson bắt đầu đưa quân vào VN mà người Mỹ gọi là can thiệp, số quân được tăng dần cho tới 1968 lên tới hơn nửa triệu trong khi Cộng sản Bắc Việt cũng gia tăng xâm nhập. Mặc dù Mỹ có thắng lợi nhiều về quân sự, gây tổn thất rất nặng cho địch khoảng trên mấy trăm ngàn người nhưng đầu năm 1968, trận Mậu Thân đã làm tiêu tan hy vọng chiến thắng. Người dân Mỹ không còn kiên nhẫn và chống đối rất mạnh, đòi chính phủ phải rút khỏi VN, gió đã đổi chiều.
Đầu năm 1969, tân Tổng thống Nixon tìm hòa bình trong danh dự, cuộc chiến có phần tàn khốc hơn trước nhưng không phải để thắng CS mà để chấm dứt chiến tranh rút bỏ Đông Dương. Tác giả George Donelson Moss (trong Vietnam, An American Ordeal) gọi cuộc chiến của Nixon là A war to end a war, một cuộc chiến để chấm dứt chiến tranh.
Cuối tháng 1-1973, Hiệp định Paris được ký kết, mục đích của Mỹ để rút hết quân lấy tù binh về nước, phía CSBV chờ Mỹ rút hết để tổng tấn công chiếm miền nam, họ mở xa lộ Đông Trường Sơn vận chuyển vũ khí và gia tăng xâm nhập để hoàn thành giấc mộng xâm lăng.
Sau khi ký Hiệp định khoảng một năm, Quốc hội Dân chủ Mỹ bắt đầu cắt giảm quân viện VNCH mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Quyết định cắt giảm ô nhục của Quốc hội đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của ông Cao Văn Viên (trong Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87) hậu quả là năm 1974 không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ.
Đạn dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn tấn một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn đủ đạn tất cả các loại súng cho 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần (Sách đã dẫn trang 92).
Trung Tướng Trần Văn Minh, cựu Tư lệnh không quân cho biết máy bay thiếu cơ phận thay thế, thiếu nhiên liệu nên phần nhiều năm ụ. Trong khi ấy theo Kissinger (Years of Renewal trang 481) Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Tháng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn.
Cuộc chiến VN là một cuộc chiến viện trợ tiếp liệu, cả hai bên đều không tự sản xuất được vũ khí đạn dược mà phải tùy thuộc vào quân viện nước ngoài, bên nào nhiều tiếp liệu, vũ khí đạn dược thì bên đó thắng.
Tình hình tháng 3 tới giữa tháng 4-1975
Cuối tháng 3 năm 1975 Quân Khu I hoàn toàn thất thủ, Quân khu 2 chỉ còn Phan Rang và Phan Thiết (trong tổng số 12 tỉnh), đến ngày 4-4 hai tỉnh này được sáp nhập vào Quân khu III. Trên thực tế cả hai Vùng I và II coi như đã mất vào tay CSBV, các Sư đoàn chủ lực của Quân khu II và Quân khu I phần tan rã, phần đã bị thiệt hại nặng nề tới 1/2 hay 2/3 lực lượng.
Cuộc triệt thoái Cao Nguyên đã khiến cho trên 75% chủ lực của Quân đoàn II bị tan rã, Sư đoàn 23 và 7 Liên đoàn Biệt động quân mất gần hết quân số. Sư đoàn 22 vùng duyên hải giao tranh dữ dội với các Sư đoàn BV cuối tháng 3 tại Bình Định, khi được tầu Hải quân đến cứu tại Qui Nhơn chỉ còn khoảng 2,000 người. Toàn bộ xe tăng và đại bác bị bỏ lại.
Các Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn I và Sư đoàn TQLC đã bị thiệt hại nặng trên đường triệt thoái, 90 ngàn chủ lực quân của Quân đoàn chỉ có 16 ngàn được tầu vớt chở về miền Nam trong đó khoảng 6,000 TQLC (45% quân số của Sư đoàn)
Vì TT Thiệu sai lầm cho tái phối trí lực lượng đã làm cho tình hình xấu đi một cách nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Cộng chiếm nốt phần đất còn lại của miền Nam. Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương hai Quân đoàn cùng triệt thoái giao lại đất cho địch.
CSBV bèn chớp thời cơ tập trung toàn bộ lực lượng tấn công chiếm Sài Gòn, họ dốc toàn bộ lực lượng vào cái gọi là “Chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử”. Trong chiến dịch tháng 3 – 1975, Bắc Việt đưa vào hai Quân khu I và II tổng cộng 14 Sư đoàn bộ binh, nay thấy thời cơ đã tới họ đưa nốt 3 Sư đoàn tổng trừ bị ở ngoài Bắc (thuộc Quân đoàn I CSBV) vào cộng với hơn mười Trung đoàn độc lập và đặc công đã đưa lực lượng tham gia chiến dịch này lên tới khoảng 20 Sư đoàn bộ binh chưa kể sự yểm trợ của hơn hai chục Trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không, công binh…
Tài liệu CS (hồi ký Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân) cho biết tại phiên họp ngày 25-3, Bộ Chính Trị Trung ương đảng khẳng định thời cơ chiến lược mới đã đến. Hà Nội có điều kiện sớm hoàn thành cuộc tổng tiến công xâm lược, tập trung các lực lượng binh khí kỹ thuật giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
BV hối hả chuyên chở bằng cả ba phương tiện đường thủy, đường bộ, đường hàng không để chuyển vận vũ khí, quân nhu, nhân lực … đánh một ván bài chót
Tài liệu CS (hồi ký Văn Tiến Dũng, các Chương XI, XII, XIII) cho biết Quân khu 5 của BV tổ chức một đoàn xe chở thẳng vào Nam bộ đạn dược tiếp liệu cũng như chiến lợi phẩm vừa lấy được của VNCH, đoàn xe do Thiếu Tướng Võ Thứ, phó Tư lệnh Quân khu V chỉ huy. Trong khi ấy các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Kontum…nhộn nhịp khác thường, các loại máy bay lên thẳng, vận tải, chở khách đều được huy động để chở người, súng đạn, vũ khí, chở sách báo phim ảnh, tranh, nhạc .. mà còn chở hàng tấn bản đồ Sài Gòn – Gia Định vừa in xong ở xưởng in Bộ Tổng tham mưu tại Hà Nội. Các bến sông Hồng, sông Gianh, sông Mã, sông Hàn và các bến cảng Hải Phòng, Cửa Hội, Thuận An, Đà Nẵng ngày đêm nhộn nhịp. Các mặt hàng quân sự được bốc xếp kịp thời lên các đoàn tầu vận tải của Bộ Giao Thông vận tải và tầu Hải Quân nhân dân để đưa vào Nam. Hà Nội huy động hết mọi phương tiện thủy bộ, hàng không để chuyển ra mặt trận một số lượng quân đội và vũ khí lớn chưa từng có.
Ngày 4-4-1975 Phan Rang và Phan Thiết được sáp nhập vào Quân khu 3. Tại Phan Rang lực lượng ta gồm 2 Trung đoàn bộ binh 4 và 5 thuộc Sư đoàn 2, 1 lữ đoàn Dù, 1 liên đoàn Biệt Động quân, 4 tiểu đoàn Địa phương quân, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, một giang pháo hạm, một hải vận hạm. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh tiền phương Quân đoàn III đóng tại Tháp Chàm.
Phan Rang phố xá vắng tanh, dân di tản về Phan Thiết rất nhiều, ngày 14-4 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang tại phi trường, một tiểu đoàn Dù đụng độ Việt Cộng, địch bỏ xác cả 100 tên. Ngày 15-4 Phó Thủ tướng đặc trách Quốc phòng Trần văn Đôn và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Khi phái đoàn vừa về thì Việt Cộng tấn công mạnh, địch tăng cường Sư đoàn 325 và nhiều chiến xa. Quân đội VNCH phản công dữ dội nhưng không thể chống lại lực lượng địch quá đông phải rút lui, Trung đoàn 4 và 5 tan rã. Khuya ngày 16-4 chỉ có 200 người thoát vòng vây, các sĩ quan thuộc Bộ tư lệnh tiền phương và Sư đoàn 6 không quân bị bắt hết, các đơn vị của VNCH tại đây coi như tan rã, BV chiếm được 40 máy bay tại Phan Rang.
Hai hôm sau ngày 18-4 Phan Thiết cũng bị lọt vào tay Cộng quân.
Quân đoàn 4 CSBV gồm các đơn vị đã chiếm QK II VNCH theo Quốc lộ 1, Quốc lộ 20 tiến về Sài Gòn, gần giao điểm của hai Quốc lộ này là Xuân Lộc thuộc tỉnh Long khánh cách Sài Gòn 60 cây số, Xuân lộc giữ vị trí quan trọng bảo vệ phi trường Biên Hoà.
Phạm vi trách nhiệm của Sư đoàn 18 là Long Khánh, phụ trách an ninh phía Bắc căn cứ Long Bình, Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân Biên Hoà. CSBV huy động Sư đoàn 6, Sư đoàn 7, Sư đoàn 341, Sư đoàn 1, Sư đoàn 325, Trung đoàn biệt lập 95B.
BV đánh Xuân Lộc nhằm các mục tiêu.
-Tấn công tuyến phòng thủ then chốt phía đông như Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tầu.
-Kéo lực lượng VNCH ra ngoài để tiêu diệt, mở cửa lớn để vào Sài Gòn.
-Thu hút lực lượng VNCH vào phía Đông để đưa các lực lượng khác tới Bắc và Tây Bắc Sài Gòn.
Sư đoàn 18 VNCH và CSBV hỗn chiến dữ dội từ sáng 9-4 cho tới ngày 15-4 khi chiến đoàn 52 bị BV tràn ngập. Sáng ngày 16-4 Tướng Toàn cho lệnh thả 2 trái bom Daisy Cutter tại Bắc Gầu Giây tiêu diệt nhiều đơn vị bộ binh, thiết giáp, pháo binh địch. Ngày 20-4 Tướng Toàn bay trực thăng vào Xuân Lộc gặp Tướng Đảo bàn kế hoạch lui binh. Sư đoàn 18 rút lui vào lúc đêm vừa đánh vừa rút, giữ trật tự bình tĩnh, tối 20 trung đoàn 48 về đến Long Giao đặt pháo binh yểm trợ tổng quát cho cuộc lui binh, sau đó truyền tin, công binh, pháo binh, quân y… rút theo.
Sư đoàn 18 thiệt hại 30% quân số, Địa phương quân nghĩa quân bị thiệt hại nặng.
Từ ngày 8-4 -1975 Lê Đức Thọ, trùm CSBV chủ toạ phiên họp tại Lộc Ninh với các cán bộ thuộc Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tổng tham mưu CS. Thọ tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn Chợ Lớn, Tư lệnh Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy Phạm Hùng, Phó Tư Lệnh Thượng Tướng Trần Văn Trà. Bộ Tư lệnh bàn kế hoạch đánh chiếm Bộ TTM, dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ đô, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Phi trường Tân Sơn Nhất.
Những ngày cuối tháng Tư đen 1975.
Ngày 21-4, Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng thống tại dinh Độc lập để rồi mấy hôm sau lên máy bay ra khỏi nước.
Phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay, trong khi ấy các nhà ngoại giao quốc tế ra sức vận động hai bên để tránh cho Sài Gòn khỏi trở thành bãi chiến trường. Mấy hôm sau Cộng quân bắn 4 trái hoả tiễn 120 ly vào Khánh Hội làm cháy mấy chục căn nhà. Đài BBC nói BV cảnh cáo chính phủ Trần Văn Hương phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ định, người ta hiểu ngay đó là nhóm chính khách thứ ba do ông Dương Văn Minh lãnh đạo. Ngày 27-4 lưỡng viện Quốc Hội nhóm họp để biểu quyết việc trao quyền cho Dương Văn Minh.
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly VC đồng thời bảo vệ các căn cứ quan trọng tại Biên Hoà, Củ chi, Lai Khê, Long Bình. (Theo Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập)
Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi với Sư đoàn 25 BB và hai Liên đoàn 8, 9 Biệt động quân. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc với Sư đoàn 5 BB. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc với Sư đoàn 18 BB và lực lượng Xung kích Quân đoàn III. Tuyến Vũng tầu và Quốc lộ 15 do
Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng, Nam Việt 2006
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 19
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005
Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 200
Trần Quang Khôi: Chiến Đấu Đến Cùng: Vai Trò Của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích QĐ III Trong Năm Ngày Cuối Của Cuộc Chiến Việt Nam. Nguoivietboston.com .
Phạm Bá Hoa: Giờ Thứ 25, Người Việt Dallas, số ngày 21-8-2009.
Trần Văn Đôn: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối, Trích trong Hồi ký Việt nam Nhân Chúng.
Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas 30-6-2005.
Motgoctroi.com: Đài VOA Ngày 2-7-2007: Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ (Laird) :Việt Nam Cộng Hoà Thua Trận Vì Bị Mỹ Cằt Viện Trợ.
Motgoctroi.com: Vương Hồng Anh: Những Ngày Cuối CủaViệt Nam Cộng Hoà,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét