Khu vực Núi Thị, nơi trấn giữ của Tiểu
đoàn 2/43, là vị trí quan trọng trong trận chiến Xuân Lộc. Nếu là một
cấp chỉ huy giỏi, có học trường lớp đàng hoàng, Tướng Trà và Tướng Cầm
phải ưu tiên tiêu diệt vị trí này. Núi Thị không cao lắm, diện tích lối ½
cây số vuông, nằm cách xa thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây. Tại đỉnh
cao nhất, một cây thị lớn còn sót lại, nay trở thành cây cổ thụ có thân
cây lớn hơn hai vòng tay ôm, nên ngọn núi được người dân địa phương gọi
là Núi Thị. Về phương diện chiến thuật, cao điểm Núi Thị có thể khống
chế Xuân Lộc về hướng Đông, và Dầu Giây về hướng Tây. Trước khi trở
thành điểm cao quân sự, Núi Thị là sở hữu của viên chủ đồn điền cao su
người Pháp. Núi có hình thế yên ngựa. Một tòa lâu đài cỗ, với những bức
tường dày bằng bê tông cốt sắt, sừng sững chiếm hết đỉnh cao của ngọn
núi. Không khí trong các phòng ốc mát lạnh như khí hậu ở Đàlạt, hàn thử
biểu thường chỉ trên dưới 22 độ C. Được biết hàng năm Bộ Quốc Phòng VNCH
phải trả tiền trưng dụng tòa lâu đài đó với số tiền 3 triệu đồng. Từ
lâu, Núi thị là Hậu cứ của Tiểu đoàn 2/43, từng bị VC đánh đặc công một
lần, khi đơn vị này đang hành quân vượt biên sang Kampuchia năm 1970.
Trong những ngày chuẩn bị trận chiến, Tướng Đảo cho thiết lập tại đây
một Trung tâm Hành quân dự phòng cho Sư đoàn với đầy đủ thiết bị, có đài
siêu tầng số. Hệ thống truyền tin tại Núi Thị hoạt động rất tốt. Suốt
trong 12 ngày đêm của trận chiến, truyền tin tại Núi Thị không hề bị
gián đoạn. Hai pháo đội 105ly, một pháo đội 155ly được kéo lên đây để có
thể bắn yểm trợ cho Xuân Lộc và Dầu Giây. Trung đội pháo 105ly diện địa
vốn được bố trí tại đây, được kéo trả về cho Tiểu khu Long Khánh. Những
người lính Tiểu đoàn 2/43 rất sung sướng khi được chỉ định trấn giữ đất
nhà. Nhưng việc bảo vệ điểm cao chiến thuật, và giữ gìn an ninh cho
giàn pháo hùng hậu của Sư đoàn không phải là dễ. Tuyến phòng thủ của đơn
vị phải mở rộng, phải có những toán tiền đồn, phục kích từ xa, hầu ngăn
chận không cho cộng quân mon men đến gần dùng đạn bắn thẳng hay súng
cối, bắn vào uy hiếp các pháo thủ. Trung đội Biệt kích Tiểu đoàn
(BK/TĐ), một tổ chức ngoài bảng cấp số, được thành lập từ khi Tướng Đảo
về giữ chức Tư lệnh, với quân số đầy đủ trên 42 chiến sĩ, đặt dưới quyền
chỉ huy của một Thiếu úy tốt nghiệp Võ bị Đàlạt, phụ tá là một Trung sĩ
Nhất từng phục vụ trong Binh chủng Lực lượng Đặc biệt, nằm tiền đồn xa,
hoạt động rất hữu hiệu. Các chiến binh của Trung đội này đều được gửi
đi học các khóa Viễn Thám và Rừng Núi Sình Lầy tại Trung tâm Huấn luyện
BĐQ/Dục Mỹ. Họ là những chiến binh đa năng đa dụng, rất dũng cảm. Họ
từng nhảy vào Tánh Linh cắm cờ và rút lui an toàn, khi quận này bị quân
CSBV đánh chiếm hồi mùa Thu năm 1974. Trước khi trận chiến mở màn, các
toán trinh sát và cấp chỉ huy của Sư đoàn 341/CSBV tìm cách mon men đến
gần Núi Thị điều nghiên, đã bị các toán phục kích và tiền đồn của TĐ2/43
tiêu diệt. Đêm 8.4.75, tại sườn đông Núi Ma, cách căn cứ hoả lực Núi
Thị lối 2 cây số về hướng Tây-Bắc, một toán trinh sát địch trên 10 tên,
gồm có tên tiền sát viên pháo và các tên chỉ huy cao cấp lọt vào tuyến
phục kích của Trung đội BK/TĐ. Chúng đã bị diệt gọn do các trái mìn
clamore được kích nổ kịp thời, và những tràng tiểu liên M.16 bắn chính
xác. Từ đó, các toán trinh sát của địch không còn dám mạo hiểm đến gần.
Suốt trong trận chiến, căn cứ hỏa lực Núi Thị không hề bị đạn bắn thẳng
hay súng sối địch quấy phá. Mặc dù Tiểu đoàn Đặc công thường xuyên bám
sát.
Sáng sớm ngày 9 tháng Tư, sau trận mưa
pháo kéo dài lối một tiếng đồng hồ, Sư 341 tung Trung đoàn 270 có đơn vị
đặc công dẫn đường, mở cuộc tấn công biển người, quyết san bằng căn cứ
hỏa lực Núi Thị.
Dưới cặp mắt của một nhà quân sự, hai việc cần phải ưu tiên làm truớc nhất để đánh chiếm Xuân Lộc là:
- Thứ nhất, phải triệt hạ Núi Thị, vì đó là một cao điểm quân sự quan trọng, có thể khống chế Xuân Lộc và ngã ba Dầu Giây.
- Thứ hai, tiêu diệt Chiến đoàn 52 ở ngã ba Dầu Giây, vì từ đây, quân bạn có thể tiếp cứu Xuân Lộc, cũng là vị trí nối liền Biên Hòa và Xuân Lộc.
Tướng Trà đã thấy được điểm này, nên ngay
sau khi từ sào huyệt Lộc Ninh xuống đến chỉ huy sở Quân đoàn 4 của Cầm
đóng trên bờ sông La Ngà, sau khi nghe báo cáo tình hình thực tế, Trà đã
đồng ý với ý kiến của Hoàng Cầm là phải “Tiêu diệt Trung đoàn 52 ngụy ở ngả ba Dầu Giây và Núi Thị. Sau đó đánh chiếm Xuân Lộc…”
Thật ra Cầm chậm hiểu, hay nói một cách
khác là Cầm đã không tiên liệu được hoạt động hữu hiệu của căn cứ hỏa
lực Núi Thị. Với suy nghĩ đơn giản, nếu không chiếm đuợc Núi Thị, thì
chỉ cần khống chế bằng các loại pháo là được. Nhưng Cầm đã lầm. Các pháo
thủ Sư đoàn 18 tại Núi Thị đã “đội pháo” giặc để bắn yểm trợ đơn vị bạn
khi cần thiết. Quân đoàn 4 đã không chỉ thị rõ ràng và quyết liệt cho
Đại tá Trần Văn Trấn, Chỉ huy Sư 341 phải ưu tiên triệt hạ Núi Thị,
trước khi tiến đánh khu vực cổng số 1 của thị xã. Với trình độ chỉ huy
tác chiến kém cỏi của Trấn, sau khi tung Trung đoàn 270 tiến đánh Núi
Thị thất bại, đã cho lệnh rút ra, để tăng cường cho mũi tấn công của
Trung đoàn 266 đang bị cầm chân ở làng Thương Phế Binh và đầu thị xã.
Trấn đã không có “tư duy” của một nhà chỉ huy quân sự cấp Sư đoàn.
Mũi tiến công của Trung đoàn 270 đã bị
chận đứng ngay tại tuyến phòng ngự bên ngoài. Bộ đội CSBV từ ấp Suối
Tre, từ hướng giữa đèo Mẹ Bồng Con và Núi Ma, với chiến thuật biển người
cố hữu, sau khi dứt loạt đạn pháo cuối cùng, và khi nhìn thấy hai trái
hỏa châu lóe sáng trên bầu trời, như dấu hiệu tấn công, đã ồ ạt vượt qua
sân bay đồn điền cao su, vượt qua đường QL1, tiến vào phòng tuyến Đại
đội 1 của Trung úy Chánh và Đại đội 2 của Trung úy Mười. Đám bộ đội
vượt qua khu đất trống trải là miếng mồi ngon cho những trái mìn
claymore được kích nổ kịp thời, những tràng đạn tiểu liên M.16, đại liên
M.60 nổ dòn, những trái lựu đạn M-26 được ném ra, đã đốn ngã tất cả bọn
chúng. Một số nát thây khi lọt vào bãi mìn. Lớp trước ngã, lớp sau tiến
lên, chúng như những con thiêu thân lao vào ánh đèn, với những tiếng la
xung phong đặc sệt giọng Nghệ – Tỉnh rất man rợ. Dù liều chết, dù quyết
tâm, chúng đành phải “sinh Bắc-tử Nam”, vẫn không chọc thủng được phòng
tuyến quân bạn. Xác địch nằm la liệt trước phòng tuyến. Trời sáng dần.
Chúng cố gắng mang theo đồng đội bị thương vong, nhưng vất lại vũ khí,
lủi sâu vào ấp Suối Tre và Núi Ma.
Tấn công Núi Thị thất bại, tên Thủ trưởng
được lệnh cho rút bớt 1 Tiểu đoàn, di chuyển về thị xã, hợp lực cùng
Trung đoàn 266, tấn công cạnh sườn Tiểu đoàn 1/48 và Chi đoàn 3/5 Thiết
kỵ đang phản công chiếm lại làng TPB và Cua Heo.
Khi màn đêm xuống, toàn bộ Trung đoàn 270
được lệnh bỏ mục tiêu Núi Thị, chi viện Trung đoàn 266 đang bị cầm chân
ở thị xã, chỉ để lại Tiểu đoàn đặc công. Tấn công bằng quân bộ chiến
thất bại, chúng chuyển qua tấn công bằng pháo. Những trận mưa pháo tàn
bạo, có tính cách hủy diệt, liên tục trút lên Núi Thị. Nhưng những pháo
thủ vẫn can trường “đội pháo” bắn yểm trợ quân bạn. Dù sao, những trận
mưa pháo của giặc cũng gây tổn thất đáng kể cho Tiểu đoàn. Một Đại úy
Đại đội trưởng, một Thiếu úy Đại đội phó, một Sĩ quan Tham mưu và nhiều
binh sĩ bị thương vong. Trực thăng tản thương phải liều lĩnh đáp xuống
trong lưới đạn phòng không dày đặc, để kịp đưa các chiến sĩ bị thương
nặng về Long Bình cứu chữa. Những chiến binh bị thương nhẹ vẫn ở lại
tiếp tục chiến đấu. Những ai chẳng may qua đời, đơn vị đành phải an táng
tại chỗ. “Vùi nông một nấm”, và sau ngày 21.4.75, đành phải “mặc tình cỏ hoang”.
Tiểu đoàn được tăng phái một Toán Kỹ
thuật thuộc Biệt đội Kỹ thuật của Đại úy Phát, Phòng 7/BTTM. Trưởng toán
là một Trung sĩ trẻ, anh Út, hiện định cư ở San Diego, California, rất
thành công. Út thông minh và nhanh nhẹn. Nhờ giải mã mau lẹ các cuộc
điện đàm của địch, đơn vị đã giảm thiểu được tối đa sự tổn thất. Rất
nhiều lần, Út báo cho TĐT những đợt tấn công pháo của Bắc quân. Có lúc
lệnh cho quân sĩ xuống hầm, chờ mãi một hai phút sau đạn pháo địch mới
đến. Toán Kỹ thuật cũng đưa cho xem những bản mật điện trao đổi giữa cấp
chỉ huy của quân CSBV có nội dung rất bi đát, nhưng cũng khá là khôi
hài. Có một bản văn do một Thủ trưởng D, tức TĐT, gửi cho Thủ trưởng E,
tức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 266 với nội dung:
“Báo cáo đồng chí Thủ trưởng, đơn vị chỉ còn 25 chiến sĩ, lương thực hết, đạn dược hết, nước uống không có, xin được rút ra”.
Bản văn trả lời của tên Thủ trưởng:
“Phải bám sát trận địa, sẽ có quân chi viện. Các đồng chí phải khắc phục!”
Đại loại nội dung các bản văn đều gần
giống nhau. Cấp dưới thì tuyệt vọng, tinh thần xuống thấp. Cấp trên thì
cứ hứa hẹn suôn, và giải quyết vấn đề là hai chữ “Khắc phục”, như một
liều thuốc tiên!
Các Toán Kỹ Thuật là những quân nhân làm
việc âm thầm trong một căn phòng nhỏ, với nhiều máy móc truyền tin. Họ
là những chiến sĩ vô danh, nhưng đã gián tiếp góp công lớn trong chiến
thắng Xuân Lộc. Khi bắt được những bức điện mật của quân CSBV, họ giải
mã mau lẹ, và gửi ngay về Sư đoàn. Tại đây, Trung tá Thịnh, Trưởng Phòng
2/SĐ và bộ tham mưu của ông phân tích, đánh giá, phân loại, rồi trình
lên tướng Tư lệnh. Nhờ những tin tức tương đối chính xác đó, đối chiếu
với nhiều nguồn tin khác, Tướng Tư lệnh cho bắn pháo và xin đánh bom.
Mỗi ngày Sư đoàn 3/KQ đã cung cấp đến 50 phi xuất, với những loại bom
250, 500, và 750 cân Anh đánh lên đầu giặc. Pháo binh Sư đoàn thì rất
dồi dào trong những ngày đầu của trận chiến. Đây cũng là điểm son của
ông Tư lệnh. Như ta đã biết, đạn dược và quân dụng của QLVNCH bị giới
hạn bởi điều khoản “một đổi một” của Hiệp định Paris, nên ngay
sau khi Hiệp định có hiệu lực, Tướng Đảo đã chỉ thị các đơn vị trưởng
báo cáo con số tiêu thụ đạn dược gấp hai hay ba lần con số thực. Số sai
biệt đó, các đơn vị chôn dấu để qua mắt Phái đoàn Thanh tra của
BTTM/QLVNCH. Chính nhờ số đạn dự trử được chôn dấu đó, được các chiến
binh Sư đoàn 18BB đem ra xử dụng tối đa trong những ngày đầu của trận
chiến, đã ngăn chận được những đợt tấn công biển người của quân giặc.
Suốt 12 ngày đêm của trận chiến Xuân Lộc,
căn cứ Núi Thị vẫn đứng vững. Trung đoàn 270 thuộc Sư 341/CSBV do tên
Đại tá Trần Văn Trấn chỉ huy, phối hợp cùng 1 Tiểu đoàn Đặc công, đã hai
lần mở cuộc tấn công qui mô, nhưng đều thảm bại. Bộ đội địch đã không
thể nào vượt qua khỏi tuyến chiến đấu ngoài cùng của đơn vị phòng thủ.
Vô số bọn cán binh CSBV bị thương vong, vẫn không chọc thủng được phòng
tuyến. Tên Sư trưởng Trấn đành phải bỏ cuộc, lệnh cho đơn vị này nằm tại
chỗ bao vây, và đơn vị đặc công tìm cách đột nhập quấy phá. Mười hai
khâu pháo tại căn cứ là miếng mồi ngon cho những tên “sinh Bắc tử Nam”
này. Nhưng dù có liều lĩnh, dù “cố đấm ăn xôi”, trước sau đều thất bại.
Trong số xác cộng quân để lại tại trận địa, ta phát hiện một tên cấp
Thiếu úy, chức vụ C trưởng (đại đội trưởng). Thế nhưng CSBV vẫn lếu láo.
Và Tướng Trà trong quyển “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, trang 262,
đã viết: “Đêm 13 rạng ngày 14.4, theo quyết tâm mới của quân đoàn 4,
sư đoàn 6 đã tiêu diệt gọn một tiểu đàn của trung đoàn 52 thuộc sư đoàn
18 và mộ chi đoàn thiết giáp, giải phóng ngã ba Dầu Giây. Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”
c/- Góc chiến trường hướng Tây:
- Sư đoàn 6/CSBV:
- Trung đoàn 812 làm lực lượng trừ bị. Trung đoàn này thuộc Quân khu 6, còn có tên là Sư đoàn Sông Mao. Trong những ngày cuối tháng 3, tham gia chiến dịch đánh chiếm Võ Đắc và Võ Su của quận Hoài đức. Sau đó tiến về hướng Bắc, đánh chiếm Di Linh của tỉnh Lâm Đồng.
- Trung đoàn 274 tiến chiếm Đèo Mẹ Bồng Con, cách Núi Thị lối 3 cây số về hướng Tây. Đơn vị này đã tổ chức hệ thống kiềng chốt khá kiên cố để có thể ngăn chận quân bạn cứu viện từ Dầu giây, từ Xuân Lộc hay ngược lại. Một con suối nhỏ chảy qua Đèo, nối liền Núi Ma đến cánh rừng phía Nam, đi ngang qua đồn điền cao su de Suzannah. Đó là con đường tiến sát rất an toàn, có rừng cây che mắt phi cơ quan sát. Một bộ phận tiến chiếm ấp Trần Hưng Đạo (chỉ có 1 Trung đội NQ giữ an ninh).
- Trung đoàn 33 tiến chiếm ấp Phan Bội Châu (cách ngã ba Dầu Giây hơn 1 cây số về hướng Nam), và đánh xã Hưng Lộc – Hưng Nghĩa. Tại đây, lực lượng trú phòng chỉ là NQ và Nhân Dân Tự Vệ. Nhưng các chiến sĩ áo đen đã chống trả quyết liệt. Họ đã giữ được Hưng Nghĩa, nhưng Hưng Lộc lọt vào tay giặc. Ngã ba Dầu Giây được Tiểu đoàn 1/52 của Thiếu tá Cam Phú trấn giữ, và chỉ mất vào tay giặc buổi tối ngày 13.4.75. Trung đoàn 33 còn có tên Trung đoàn Quyết Thắng Long Khánh. Đơn vị này dù mang danh là Quyết Thắng, nhưng đã hơn ba lần đại bại trước Tiểu đoàn 2/43 (Trận đánh Cẩm Mỹ, trận đánh tại ngã ba Dầu Giây ngày đình chiến tháng 1.73, và trận Võ Đắc – Võ Su tháng 12 năm 1974). Tên Thủ trưởng Trung đoàn 33 đã chỉ thị cho bộ đội của hắn tránh đụng độ TĐ2/43. Khi tao ngộ chiến, phải tìm cách chém vè, nếu không muốn bị tiêu diệt (Theo cung từ tên tù binh Trung đội trưởng thuộc Trung đoàn 33 bị bắt tại trận đánh ở ngã ba Dầu Giây, và một mảnh giấy viết vội để lại trên một đống vũ khí tại Võ Đắc ghi: “chúng tôi thua phen này, hẹn gặp lại”).
Tình thế đã bất lợi về phía quân CSBV.
Trần Văn Trà thú nhận trong tập hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30
Năm”: “… vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căn thẳng. Địch phản
kích điên cuồng tuy chúng bị thiệt hại nặng. Máy bay địch đánh phá ác
liệt, có tính chất hủy diệt các mục tiêu chúng đã mất (sai, chỉ mất khu
bến xe và khu chợ trong buổi sáng đầu tiên, nhưng chỉ tái chiếm bằng bộ
binh, không hề đánh bom, vì nằm bên trong thị xã). Quân đoàn đã kêu
thiếu đạn các loại nhất là sư đoàn 1 (tức 341) và sư đoàn 6. sư đoàn 7
thì thiếu quân số…Rồi báo báo cáo từng vị trí ta chiếm được phải bỏ lần
lượt. Có vị trí thay đổi chủ vài lần (khu bến xe và khu chợ). Số thương
vong của sư đoàn 1 cao hơn các đơn vị khác vì kinh nghiệm chiến đấu chưa
nhiều ở chiến trường ác liệt. Tình hình rất gay go.”
Lịch sử cái gọi là “Quân đội Nhân
dân” viết: “Trong 3 ngày đầu tiên (9,10,11/4/75) Sư đoàn 7 thiệt hại 300
chiến sĩ, và Sư đoàn 341 tổn thất 1,200, hầu hết pháo 85ly và 57ly bị
tiêu hủy”.
Lê Đức Thọ: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”.
Ngày 11.4, sau 3 ngày tấn công vào Xuân
Lộc thất bại, tên “Thái Thượng Hoàng” không ngai Lê Đức Thọ cùng Phạm
Hùng, Văn Tiến Dũng, Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) và Trần
Văn Trà họp khẩn cấp để tìm “phương án” mới.
Sau cuộc họp của các tên đầu sỏ, Trần Văn
Trà được phái đến mặt trận Xuân Lộc tìm hiểu cụ thể để có thể đề ra
“phương án” mới thực tế hơn, thích hợp hơn với tình hình đang biến
chuyển mau lẹ, nếu cần, Trà sẽ trực tiếp nắm quyền chỉ huy mặt trận Xuân
Lộc.
Chiều ngày 11 tháng Tư, Trà lên đường đến
thẳng chỉ huy sở của Quân đoàn 4 đóng trên bờ sông La Ngà. Trà vượt
sông Đồng Nai bằng phà tại bến Tà Lài, ra gặp QL.20 ở Phương Lâm. Sau
khi quan sát thế trận tại chỗ, theo dõi hoạt động không quân và pháo
binh của ta, được báo cáo kỹ tình hình diễn biến trận đánh, tình hình
quân ta và thực lực của chúng, Trà quyết định chọn một giải pháp mới.
Quân đoàn 4 được tăng cường thêm Trung
đoàn 95B vừa từ ngoài Trung vào. Đó là một trong những đơn vị thiện
chiến nhất của quân CSBV. Đơn vị này đã tham gia chiến dịch tấn công Ban
Mê Thuột, rồi được tăng cường cho Sư đoàn 320 ngăn chận đoàn quân di
tản của Quân đoàn II từ Cao Nguyên, trên con đường 7B. Các đơn vị của
Cầm gấp rút được bổ sung quân số và đạn dược, chúng lại được tăng cường
thêm 1 đại đội xe tăng, một số pháo tầm xa và cao xạ phòng không.
Trận chiến đã bước sang ngày thứ ba, bộ
đội của Cầm vẫn dậm chân tại chỗ. Sau khi quan sát tình hình thực tế,
nhất là khi thấy Xuân Lộc được quân Dù tăng viện, Trần Văn Trà quyết
định triễn khai kế hoạch mới. Với kế hoạch này, giặc không đánh trực
diện, mà tìm cách đánh vào những vị trí ngoại vi của Xuân Lộc:
1/- Ngã ba Dầu Giây:
Tuyến phòng thủ chỉ là CĐ52 (-) của Đại tá Ngô Kỳ Dũng (TĐ2/52 của Đại
úy Huỳnh Văn Út đã được lệnh xuất phái cho Xuân Lộc từ chiều ngày 11.4).
Tuyến bố phòng chưa được vững chắc vì mới di chuyển về đây chiều ngày
8.4 thì rạng sáng ngày 9.4 trận chiến đã mở màn. Quân số không nhiều.
2/- Núi Thị: Tuyến phòng
thủ chỉ có một Tiểu đoàn. Dù hệ thống bố phòng vững chắc, nhưng nếu lực
lượng tấn công là cấp Trung đoàn, được tăng cường thêm đơn vị đặc công,
lấy nhiều đánh ít, thì lực lượng trú phòng khó chống đở. Nếu là mộ cấp
chỉ huy quân sự giỏi, Tướng Trà và Tướng Cầm phải bằng mọi cách triệt hạ
Núi Thị trước khi tiến đánh Xuân Lộc. Hay là cùng tiến đánh, nhưng mục
tiêu Núi Thị phải ưu tiên hàng đầu. Trà và Cầm đã bỏ lỡ cơ hội “ngàn
vàng”.
Lúc này lực lượng trấn thủ Xuân Lộc đã có
thêm TĐ2/48 của Thiếu tá Đổ Duy Luật đang bảo vệ thị xã Hàm Tân (Bình
Tuy) được trực thăng vận về; TĐ2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út đang trấn
đóng vùng ngã ba Dầu Giây được lệnh tăng cường Xuân Lộc. Như vậy đến
cuối ngày 11.4.75, lực lượng trú phòng tại Xuân Lộc đã có 2 Trung đoàn
Bộ binh, 1 Tiểu đoàn BĐQ, 1 Thiết đoàn (-), và ĐĐ18TS.
Tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân “Giải
Phóng” và Tướng Hoàng Cầm, TL/QĐ4 đều nhận định không thể tiếp tục đánh
Xuân Lộc. Vì đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ, càng đánh càng thua.
Trà chỉ thị Hoàng Cầm:
- Xử dụng 1 Sư đoàn tiêu diệt CĐ 52 ở Dầu Giây và TĐ 2/43 ở Núi Thị.
Lực lượng mạnh của QĐ4 (Sư 7) kèm chặt Xuân Lộc.
Ngày 12 tháng Tư, Quân đoàn III xử dụng
một trong hai lực lượng trừ bị cuối cùng (lực lượng kia là Lữ đoàn 3
Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi), là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá
Nguyễn Văn Đỉnh, cho trực thăng vận vào Xuân Lộc. Đơn vị này vừa từ
ngoài Trung vào, chưa kịp nghỉ ngơi, nhưng với quyết tâm “Nhảy Dù! Cố
gắng!”, những thiên thần mũ đỏ gồm các Tiểu đoàn 1, 8, 9, ĐĐ1/TS,
ĐĐ3/CB, ĐĐ1/QYDù và TĐ3/PBDù, đã làm cho Sư 7 của Lê Nam Phong thất điên
bát đảo!
Khi Lữ đoàn 1 Dù vào, Chiến đoàn 48 bàn
giao trách nhiệm, di chuyển về bố trí dọc theo LTL.2 từ ngã ba Tân Phong
(Chi khu Xuân Lộc), phía Nam thị xã, đến căn cứ Long Giao (Hậu cứ Trung
đoàn 48); trở thành lực lượng trừ bị cho Sư đoàn.
Theo Hồi ký Chiến trường của Trung tá
Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ đoàn trưởng LĐ1Dù, vừa nhảy vào trận địa, các đơn vị
Dù liền mở cuộc hành quân phản công địch. TĐ9Dù tiến quân về hướng
Đông, tìm cách bắt tay với lực lượng Nghĩa Quân tại hai ấp Bảo Định và
Bảo Bình. Mặc dù là lực lượng bán quân sự với quân số rất khiêm nhường,
nhưng các chiến sĩ Nghĩa Quân đã chiến đấu kiên cường, giữ được xã ấp
cho đến khi quân Dù đến. Nhưng một tin xấu đã đến với quân Dù, do không
liên lạc được với nhau, những trái đạn súng cối từ trong ấp bắn ra đã
gây thương tích trầm trọng cho vị TĐT, Trung tá Nho và hai binh sĩ. Sau
khi bắt tay được với lực lượng trú phòng, TĐ9 và TĐ1 hoán đổi nhiệm vụ.
TĐ8Dù tiến quân tảo thanh hướng Bắc QL.1,
đã chạm súng mạnh với TĐ1/141/CSBV, hạ sát nhiều quân giặc. Với lối
đánh thần tốc và táo bạo của các thiên thần mũ đỏ, vòng vây quân CSBV bị
tan rã dần.
Tại trận chiến Xuân Lộc, Biệt Đội Kỹ
Thuật thuộc Phòng 7/BTTM, với những chuyên viên giải mã giỏi, đã góp
công lớn tạo nên chiến thắng mà bớt đổ máu. BĐKT bắt được những mật điện
của chúng với nội dung hoàn toàn tuyệt vọng:
“Tình hình thật khẩn trương. Đồng chí
N. (TĐT/TĐ1) và nhiều đồng chí khác hy sinh, phải chôn tại chỗ. Chúng
tôi đang tìm đường rút, nhưng bị quân Dù ngụy bao vây mọi hướng.”
Nhưng sau 35 năm trận chiến, Lê Nam
Phong đã là Trung tướng, được đề bạt chỉ huy Quân đoàn 1, trong một bài
phỏng vấn, đã nói khoác: “Bộ đội chúng tôi ngừng tấn công thị xã,
chuyển ra tấn công trên QL.1 để bao vây Xuân Lộc, chỉ để lại một đơn vị
nhỏ bám sát trận địa. Nhưng địch lầm tưởng chúng đã đẩy chúng tôi ra…”
Thật ra chúng không bị đẩy ra, mà bị bao vây chia cắt, bị tấn công tiêu
diệt, không rút ra được. “Đơn vị nhỏ” mà Tướng Lê Nam Phong nói là Sư
đoàn 7 do hắn chỉ huy!
Một bức điện mật khác:
“Lương thực hết. Hơn 100 chiến sĩ hy
sinh, phải vùi họ ngay tại chỗ. Nhiều đồng chí bị thương. Chúng tôi
không thể mang theo số vũ khí và máy truyền tin. Xin đồng chí Thủ trưởng
cho chỉ thị…”
Mật điện trả lời của tên Thủ trưởng:
“Nếu không mang theo được thì hãy
chôn và đánh dấu…Tôi muốn nhắc nhở các đồng chí…hãy nhớ đến chiến thắng
Điện Biên Phủ và Tàu Ô. Đêm nay tôi sẽ cho Đại đội Trinh sát vào mang
các đồng chí ra”.
Nhờ BĐKT giải mã kịp thời, quân bạn biết
được ý định của quân CSBV, cho dàn trận phục kích. Đêm đó, khi đơn vị
trinh sát địch xuất hiện, chúng đã lọt vào bẫy sập của TĐ1Dù, tất cả bị
diệt gọn.
Một vài bức điện mật khác của quân CSBV:
“Hiện tại chúng tôi chỉ còn 39 chiến
sĩ, nhưng đã có gần 200 đồng chí bị thương. Việc di chuyển rất khó khăn.
Chúng tôi không thể bắt tay được với đơn vị trinh sát”.
“Đêm nay TĐ2 sẽ chi viện các đồng chí. Các đồng chí phải giữ vững tinh thần.”
TĐ1Dù lại áp dụng chiến thuật cũ, nhưng
lần này, TĐ3/PBDù đã góp công lớn. Những loạt đạn với đầu nổ cao, đầu
chạm nổ, đã tiêu diệt hoàn toàn những tên sống sót của đơn vị thuộc
Trung đoàn 141, Sư đoàn 7/CSBV.
Chính nhờ hoạt động hữu hiệu của Toán
BĐKT, quân bạn đã có hành động đúng lúc, đúng chỗ. Do đó sự thiệt hại
của quân CSBV là không tránh khỏi.
Nhưng tên cựu Sư trưởng Sư 7 Lê Nam
Phong đã nói dốc không biết ngượng miệng: “…Đối diện với hiểm nguy bị
tiêu diệt, Tướng Đảo phải bỏ Xuân Lộc và đã chuồn đi trong đêm mưa. Ngày
21 tháng Tư, 1975, sau 13 ngày chiến đấu ác liệt, thị xã Xuân Lộc và
toàn tỉnh long Khánh hoàn toàn được giải phóng.
Tiêu diệt cánh cửa thép Xuân Lộc,
Quân đoàn 4 đã mở con đường cho đại quân của ta tiến về Sàigòn, với tinh
thần ‘một ngày bằng 20 năm’…”
Nếu không được lệnh bỏ ngõ Xuân Lộc, vẫn
giữ trận địa, cứ để cho QĐ2 và các đơn vị QK5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh
từ hướng QL.15 đánh lên, QĐ3 từ hướng QL.20 đánh xuống, ta xử dụng bom
BLU-82 hay CBU-55 đánh hủy diệt các mũi tiến công của chúng, rồi lực
lượng ta từ Xuân Lộc đánh tập hậu, thì liệu quân CSBV có vượt qua được
sông Đồng Nai để tiến về Sàigòn ngày 30.4.75 (?), hay đã bị tan tác.
Qua các bức điện mật, và những cuộc điện
đàm được giải mã, ta thấy rõ TĐ1 Trung đoàn 141 thuộc Sư đoàn của hắn đã
bị quân Dù xóa sổ, các đơn vị khác cũng kiệt quệ, có tiểu đoàn chỉ còn
39 tên. Nhưng cái bệnh ba hoa khoác loác, làm láo báo cáo hay của con
người cộng sản thì đã thành cố tật, không thể sửa chữa được. Cố Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu đã để lại một câu nói để đời:
“Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm”.
Từ chủ động tấn công, chọn thời gian,
chọn địa điểm, bây giờ quân xâm lăng CSBV đã rơi vào thế bị động. Chúng
chỉ lo co cụm và chống đở, hoặc tìm cách “chém vè” để sống sót. Các đơn
vị tham chiến của Hoàng Cầm hầu như hoàn toàn tan rã và mất tinh thần.
Cái hào quang Điện Biên Phủ năm nào, khi Cầm là Trung đoàn trưởng cùng
bộ đội Việt Minh cắm lá cờ chiến thắng lên nóc hầm của Tướng bại trận de
Castries, đã tiêu tan. Bây giờ Cầm chỉ là tên bại Tướng! Tên Hoàng
Nghĩa Khánh, Tham mưu trưởng Quân đoàn làm một bản phân tích tình hình,
rồi đề nghị:
“Bỏ Long Khánh, đi vòng diệt Trảng
Bom rồi đánh Biên Hòa”. Hoàng Cầm thì đề nghị: “…diệt Trung đoàn 52 ở
ngã ba Dầu Giây và Tiểu đoàn 2/43 ở Núi Thị, rồi đánh chiếm Xuân Lộc.”
Sau khi tổng hợp các ý kiến, Trà kết luận:
“Xuân Lộc là điểm then chốt quan
trọng, nên địch cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế. Ta
không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là
không lợi…Địch từ Túc Trưng đến ngã ba Dầu Giây không mạnh. Ta phải tận
dụng lợi thế này của đường 20 và sơ hở này của địch …”
Căn cứ vào những phân tích ấy, Trà quyết định:
- Xử dụng 1 sư đoàn tiêu diệt Trung đoàn 52 ở Dầu Giây và Tiểu đoàn 2/43 ở Núi Thị. Chận và diệt quân tiếp viện từ Trảng Bom ra.
- Lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc.
Chính Trà quyết định lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc, thế mà Tướng Lê Nam Phong nói: “chỉ để lại một đơn vị nhỏ…”. Thật
là láo khoét. Lịch sử được viết lại theo quan điểm của kẻ thắng. Mặc dù
Sư 7 của Lê Nam Phong, Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm bị đại bại, nhưng đứng
trong phe chiến thắng, nên chúng tha hồ “vẽ rắn thêm chân”. Bảo Ninh,
một tên văn nô Hànội, cũng với giọng điệu Lê Nam Phong, viết trong quyển
“Nổi Buồn Chiến Tranh”, rằng “…Hồi bọn tớ tràn qua Xuân Lộc đuổi
đánh bọn lính sư đoàn 18, ở những rãnh xích đầy những thịt với tóc. Giòi
lúc nhúc. Thối khẳn. Xe chạy tới đâu ruồi bâu tới đấy…” Thật là dị
hợm! Nói không biệt ngượng miệng. Nhưng thật đáng tiếc, sách của hắn đã
được Hànội cho dịch ra rất nhiều thứ tiếng để tuyên truyền, và lừa bịp
những ai cả tin. Người đọc mấy ai biết được sự thật. Trong suốt 12 ngày
đêm chiến trận, không một chiếc xe tăng nào của Bắc quân vào được bên
trong thị xã. Chỉ có vài chiếc chạy về hướng sân bay thì bị các chiến sĩ
Mũ Nâu săn lùng và bắn hạ. Còn lại phần lớn bị thiêu hủy từ ngoài vòng
rào kẽm gai. Một số mon men đến gần thì bị trúng mìn, bị M.72 hay súng
nòng dài của chiến xa Thiết đoàn 5 Kỵ binh bắn hạ.
Quân CSBV đã thay đổi kế hoạch trước khi
quân Dù đến. Thi hành chỉ thị của Trần Văn Trà, Sư đoàn 341 được lệnh
của Hoàng Cầm rút ra, lùi về phía sau để tránh bị tiêu diệt. Ngay trong
đêm, Trung đoàn 266 đã hoàn tất việc rút quân, Trung đoàn 270 được lệnh
trở lại Núi Thị, tăng cường Tiểu đoàn Đặc công, tiếp tục mở những cuộc
tấn công vào căn cứ hỏa lực đơn độc này. Sư đoàn 6 vẫn ở nguyên vị trí,
phối hợp cùng Trung đoàn 95B, một đơn vị thiện chiến của CSBV, từ Cao
Nguyên vừa được Tướng Văn Tiến Dũng điều động xuống tăng cường Quân đoàn
4. Giặc đang triễn khai kế hoạch mới. Theo kế hoạch này, Sư đoàn 7
phải chận đứng các cuộc tiến công của quân Dù. Nhưng “lực bất tòng tâm”.
Mặc dù cố gắng, mặc dù hạ quyết tâm, Sư 7 cũng đã bị đánh tan tác, bị
đại bại. Tội nghiệp cho Lê Nam Phong phải chịu đựng những quả đấm mạnh
của các Thiên thần Mũ đỏ.
Trong lúc đó lực lượng Quân đoàn 2 của
Thiếu tướng Nguyễn Hữu An và Sư đoàn 3 của Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn
thống lãnh, từ ngoài Trung đang tiến vào theo đường duyên hải. Chúng
được vận chuyển bằng xe molotova, chạy phon phon trên đường QL.1. Giặc
đã xuất hiện ở Rừng Lá. Rừng lá chỉ cách Xuân Lộc hơn 1 giờ xe hơi!
Ngày 13 tháng Tư, Trung đoàn 95B đã vào
vùng. Ngoài ra Quân đoàn 4 cũng được tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng,
một số pháo và cao xạ, đồng thời gấp rút bổ sung quân số và đạn dược.
V- MẶT TRẬN PHÍA TÂY: NGÃ BA DẦU GIÂY
1/- PHÒNG TUYẾN CHIẾN ĐOÀN 52:
Chiến đoàn 52 do Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ
huy, từ Kiệm Tân, di chuyển về lập tuyến phòng ngự tại khu vực ngã ba
Dầu Giây từ tối ngày 8.4.1975.
Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu tá Phan Tấn Mỹ
chỉ huy, cho Đại đội 1/3 của Trung úy Nguyễn Thanh Trường trấn giữ đồi
Móng Ngựa. Tiểu đoàn 1/52 do Thiếu tá Cam Phú bố trí quân khu vực ngã ba
Dầu Giây. Tiểu đoàn 2/52 do Đại úy Huỳnh Văn Út chỉ huy, phòng thủ
chung với CĐ, gần ấp Nguyễn Thái Học (Đêm 11.4, đơn vị này được lệnh
tăng cường cho Mặt trận Xuân Lộc).
Khi tấn công Xuân Lộc, quân CSBV chỉ bị
bắn pháo và quấy rối tuyến phòng ngự của CĐ52. Sau khi thất bại tại
Xuân Lộc, quân CSBV thay đổi kế hoạch. Tuyến phòng ngự CĐ52 là ưu tiên 1
phải tiêu diệt, sau đó là căn cứ hỏa lực Núi Thị. Là những cứ điểm hỗ
trợ bên ngoài của Xuân Lộc. Kế hoạch mới này được chính Trần Văn Trà
mang tay xuống từ sào huyệt Lộc Ninh. Theo dự tính của các tên đầu sỏ Lê
Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, và Phạm Hùng, Tướng Trần Văn Trà phải nhanh
chóng đến BTL/QĐ4 của Tướng Hoàng Cầm tìm hiểu thực tế chiến trường. Nếu
cần sẽ thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp chỉ huy QĐ4. Do đó tình báo của
phe ta đã nhầm lẫn khi cho rằng Hoàng Cầm bị Trần Văn Trà thay thế.
Trưa ngày 13 tháng Tư, Sư đoàn 6 mở
cuộc tấn công Tiểu đoàn 1/52 của Thiếu tá Cam Phú. Thiếu úy Phạm Văn
Trung (hiện định cư tại Cali.), Trung đội trưởng thuộc ĐĐ2/1 cho biết:
“Trước khi tấn công, quân CSBV bắt loa kêu gọi đầu hàng. Chúng nói cho
15 phút suy nghĩ. Sau đó thì bắt đầu bắn pháo. Những loạt đạn đại pháo,
súng cối đủ loại rót vào các vị trí đóng quân của đơn vị. Sau đợt “tiền
pháo” là “hậu xung”. Giặc mở những đợt tấn công biển người, hết đợt này
đến đợt khác. Lớp trước bị đốn ngả, lớp sau tiến lên. Hình như chúng bị
say thuốc súng, hay đã được cho uống thuốc kích thích? Quân số Tiểu đoàn
1/52 bị hao hụt nhiều mà chưa kịp bổ sung. Đại đội 2/1 chỉ còn 50 tay
súng! Một Chi đội M-113 đến tiếp ứng, nhưng bị bắn cháy 1 chiếc. Dù đã
chống trả quyết liệt, nhưng bọn chúng quá đông, kiểu “lấy thịt đè
người”, cuối cùng đơn vị bị tràn ngập. Số sống sót phải rút về BCH/CĐ
tại ấp Nguyễn Thái Học”.
Tiêu diệt xong TĐ1/52, Trà cho lệnh Cầm
điều quân đánh Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế tại Núi Thị.
Vị trí bố phòng của TĐ1/52 và TĐ2/43 đều nằm ngoài tuyến bố phòng của
Xuân Lộc. “Hồ hỡi” vì diệt được TĐ1/52, Cầm liền cho mở lại cuộc tấn
công qui mô vào Núi Thị. Nhưng tuyến bố phòng của TĐ2/43 đã được các
chiến binh can trường trấn giữ. Vả lại Núi Thị là hậu cứ của Tiểu đoàn,
đã được bố phòng cẩn mật, rất vững chắc. Ngoài 600 tay súng dũng cảm,
căn cứ còn có 12 khẩu đại pháo loại 105ly và 155ly, có thể hạ thấp nòng
trực xạ vào đội hình tấn công của giặc với những trái đạn chống biển
người. Quân xâm lăng CSBV đánh Núi Thị là đã đụng vào bức tường thép.
“Bức Tường Thép” đúng nghĩa! Thật là dại dột khi không biết lượng sức.
Suy nghĩ của Trung tướng Trần Văn Trà và Thiếu tướng Hoàng Cầm quá nông
cạn, quá kém cỏi. Tư tưởng khinh địch lại về trong những bộ óc thiếu
trình độ học vấn. Trần Văn Trà chỉ học xong 3 năm tại Trường Bá Công tức
Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế (trình độ cấp 2), còn Hoàng Cầm thì chỉ
biết đọc và biết viết nhờ được theo học các lớp bình dân học vụ (chưa
qua cấp 1) sau khi đã tham gia bộ đội Việt Minh. Khả năng phán đoán của
hai tên tướng này lại quá kém, đã “Không biết mình, không biết người”
như binh thư Tôn Tử viết. Bộ đội của Cầm bị thất bại là lẽ đương nhiên.
Câu câm ngôn của CS là “Cứu cánh biện minh phương tiện”. Tên tướng bậc
đàn anh là Võ Nguyên Giáp đã nướng hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn bộ đội
để cố đạt cho được một chiến thắng. Bây giờ Cầm cũng thế. Nhưng hắn đã
không làm được.
Lại một lần nữa, Trung đoàn 270 thuộc Sư
đoàn 341/CSBV chuốc lấy thảm bại. Trung đoàn 270 bỏ lại nhiều xác
chết, phải rút ra. Tiểu đoàn đặc công vẫn bám sát, tiếp tục quấy phá.
Nhưng các toán đặc công xâm nhập đều bị tiêu diệt ngay tại tuyến bố
phòng ngoài cùng. Trong số đó có tên Thiếu úy cấp C trưởng, tức Đại đội
trưởng. Tên này bị hạ sát ngay khi mới mon men đến vị trí cấp Trung đội,
ĐĐ1/2 của Trung úy Chánh. Hai lần mở cuộc tấn công qui mô Núi Thị, hai
lần đều thảm bại. Nhưng thật là trơ trẽn khi Trà viết:
“Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”
“Núi Thị” mà Thượng tướng Trần Văn Trà
viết trong Hồi ký KẾT THÚC CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM, chắc chắn không phải
là Núi Thị do TĐ2/43 trấn giữ trong trận chiến Xuân Lộc. Núi Thị đó chỉ
là sản phẩm tưởng tượng trong tâm trí kém cỏi của Trà. Cũng như tên Sư
trưởng Sư 341 Trần Văn Trấn tuyên bố đã đánh sập cây antenna 292 tại Núi
Thị trong loạt đạn pháo đầu tiên, cũng chỉ là sản phẩm của sự tưởng
tượng. Thật ra nếu pháo có đánh sập cây antenna thì chỉ là chuyện nhỏ,
nó không gây ảnh hưởng gì đến hệ thống truyền tin của TĐ2/43, có thể sẽ
bị gián đoạn trong chốc lác. Thế mà Trần Văn Trấn đã coi đó là một kỳ
công! “Một điều bất tín, vạn sự bất tin”. Hồi ký của Trần Văn Trà, của
Văn Tiến Dũng đều chứa đựng những điều dối trá và khoác lác. Thế mà cũng
có lắm kẻ tin! Đúng là những kẻ khờ!
Ngày 15 tháng Tư, Chiến đoàn 52 bị địch
đánh từ hai phía: Phía Nam, từ ngã ba Dầu Giây (vị trí này chúng chiếm
được đêm 13 tháng Tư) do Sư đoàn 6 án ngữ. Đơn vị này còn có nhiệm vụ
bám sát, cầm chân Trung đoàn 8 của Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng, thuộc
Sư đoàn 5BB tại Hưng Nghĩa. Nhiệm vụ thứ hai là bố trí quân chận đánh Lữ
đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi sẽ ra cứu viện từ Biên
Hòa. Nhiệm vụ thứ ba là chận đánh quân cứu viện từ Xuân Lộc. Trung đoàn
274 đã thiết lập một hệ thống kiềng chốt rất kiên cố tại đèo Mẹ Bồng
Con. Trung đoàn 812 thì đang bố trí quân tại những khu rừng cao su của
đồn điền Suzannah. Lực lượng án ngữ phía Nam tại ngã ba như cái đe, để
phía Bắc, Trung đoàn 95B như cái búa, với sự trợ lực của các đơn vị
thuộc Sư đoàn 341 vừa được lệnh rút ra khỏi Xuân Lộc, như Tướng Lê Nam
Phong viết:
“Bộ đội chúng tôi ngừng tấn công vào các mục tiêu trong thành phố, và chuyển ra tấn công trên QL.1 để cô lập Xuân Lộc”.
Trung úy Nguyễn Thanh Trường (hiện định
cư tại Miami, Florida), một Đại đội trưởng xuất sắc của TĐ3/52, từng lập
được nhiều chiến công tại mặt trận An Điền – Rạch Bắp tháng 6 năm 1974,
đã cho người viết biết như Thiếu tá Phan Tấn Mỹ (Ý Yên) viết trong bài
Trận Đánh Đồi Móng Ngựa: “Hồi nửa đêm 11 tháng Tư, tổ phục kích mìn
của Trường tại phía đông bắc Đồi Móng Ngựa hạ sát 17 giặc, trong đó có 4
cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn Trung cộng rất tinh xảo, 4 bản đồ nổi
pictomaps, và đặc biệt một công vụ lệnh ghi: “Đoàn nghiên cứu quân sự
đặc biệt 301 – Nay đề cử 4 đồng chí (lâu ngày quên tên) lên đường nghiên
cứu thực địa chiến trường Thủ Biên Xuân Lộc. Ngày lên đường: 2 tháng Tư
1975 – Ngày chấm dứt nhiệm vụ: 30.4.75”
Khi mặt trận ngã ba Dầu Giây bùng nổ,
Chiến đoàn 52 bị tấn công, Tướng Toàn, TL/QĐIII cho lệnh Lữ đoàn 3 xung
kích của Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom (Biên Hòa) mở cuộc hành quân
tiếp cứu.
Lực lượng của Tướng Khôi rất mạnh. Lữ
đoàn 3 Xung kích có trên 200 chiến xa M-41, M-48 và thiết quân vận
M-113, được thành lập thành 3 Chiến đoàn 315, 318 và 322. Mỗi Chiến đoàn
đều có 1 Tiểu đoàn BĐQ tùng thiết. Nhưng lực lượng chận viện của quân
CSBV lại hùng hậu hơn. Ngay từ những ngày đầu của trận chiến Xuân Lộc,
Sư đoàn 6/CSBV đã thiết lập một hệ thống kiềng chốt rất kiêng cố từ xã
Hưng Lộc đến đèo Mẹ Bồng Con. Quân của Tướng Khôi vừa đi vừa đánh, nên
nhịp độ tiến quân quá chậm. Trên đường từ Trảng Bom ra Bàu Cá, từ Bàu Cá
đến Hưng Nghĩa, quân của Tướng Khôi đã gặp các cụm kiềng chốt của Sư
đoàn 6 ngăn chận. Với 2 Chiến đoàn 315 và 322, quân của Tướng Khôi tiến
theo trục lộ QL.1. Mặc dù cố gắng diệt chốt nhanh, tiến lẹ, để có thể
bắt tay Chiến đoàn 52 đang bị vây khốn tại ấp Nguyễn Thái Học, nhưng kết
quả không như ý muốn. Theo J. Veith, tác giả của “Fighting Is An Art”,
Chi đoàn 1/15 của Đại úy Bảng có Tiểu đoàn 64/BĐQ tùng thiết, đã thành
công khi chiếm ngọn đồi 122, một cao điểm ở hướng Bắc Hưng Lộc. Nhưng
địch nhanh chóng tổ chức phản công. Lực lượng của Tướng Khôi đã không
vượt qua khỏi ngọn đồi này. J. Veith viết lại theo lời tường thuật của
Đại úy Bảng: “Quân địch đông như kiến, chúng mở những đợt tấn công
biển người từ ba hướng…Trong tình trạng tuyệt vọng, tôi yêu cầu Chiến
đoàn bắn pháo và không yểm. Thật không may mắn, chúng tôi chỉ nhận được
vài trực thăng võ trang đến bắn yểm trợ…Bắc quân tiếp tục tấn công, mỗi
lúc càng thêm ác liệt. Tôi nghĩ rằng VC sẽ tràn ngập ngọn đồi hay bao
vây chia cắt…Thình lình, VC rút lui, trận đánh tàn lụi. Chúng tôi tổn
thất 20, BĐQ lối 40. Xác địch nằm la liệt…” (có thể thời điểm đó là lúc CĐ52 đã bị quân giặc tràn ngập).
Không có quân cứu viện, địch mỗi lúc điều thêm quân vào trận, áp lực đè nặng.
“Về chiều, pháo giặc càng gia tăng
nóng nảy dữ dằn hơn. Căn hầm Đại tá Dũng bị sập. Hai chiếc xe tăng M-41
bốc khói ngùn ngụt ở cuối sân. Ông Dũng thoát khỏi hầm an toàn, lem
luốc, chạy sang BCH/TĐ3/52 đặt gần thung lũng. Cây anten dựng lên, lại
bị đánh gãy nằm gục bên sân. Bên kia sân, Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước
toàn thân đen đúa tiếp tục điều khiển tác xạ…” (Thiếu tá Phan Tấn Mỹ:
Trận Đánh Đồi Móng Ngựa)
Xe pháo ngổn ngang, khói đen bốc lên ngùn
ngụt, phòng tuyến vỡ. Địch đã xông vào bên trong. Tiếng la xung phong
của địch, giọng nói đặc sệt bắc kỳ nghe rõ mồn một qua ống liên hợp máy
PRC-25, xen lẫn tiếng cầu cứu của Trung tá Chiến đoàn phó Đổ Văn Tân.
Tại đồi Móng Ngựa, cao điểm trông xuống
QL.20, do Đại đội 1/3 của Trung úy Nguyễn Thanh Trường trấn giữ. Từ lúc 5
giờ sáng, Cộng quân bắt đầu bắn pháo. Sơn pháo địch từ Núi Ma, từ các
cánh rừng bao quanh liên tiếp nã vào ngọn đồi. Sau đó là những đợt xung
phong biển người. Trận đánh để làm chủ ngọn đồi đã xảy ra vô cùng ác
liệt. Quân bạn cố giữ, quân địch cố chiếm. Ta bắt được một số tù binh.
Chúng thuộc Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 95B vừa từ Cao Nguyên
xuống. Đến 8 giờ 30, Đại đội 4/3 của Thiếu úy Mai Mạnh Liêu được lệnh
tăng viện. Hai Đại đội 1 của Trường và 4 của Liêu được đặt dưới quyền
chỉ huy trực tiếp của Đại úy TĐP Hà Văn Cho.
Cùng chung số phận với BCH/CĐ, đồi Móng
Ngựa đã đón nhận hàng ngàn trái đạn pháo của giặc. Đến 2 giờ chiều, Tiểu
đoàn 2/95B/CSBV bắt đầu xua quân tràn lên đồi. Pháo địch pháo ta, bộ
đội giặc và lính của ta giao tranh đẩm máu để giành nhau từng tấc đất.
Cứ sau những đợt pháo cường tập, bộ đội CSBV dàn hàng ngang tiến lên.
Lớp trước ngã, lớp sau đạp xác đồng đội tiến lên. Trận tử chiến tiếp
diễn ác liệt. Quân giặc như những con thiêu thân cứ lao vào ánh đèn,
chết vô số. Xác địch chồng chất, cây rừng gãy đổ. Màu xanh của cây cỏ
biến thành màu đỏ của máu, máu đỏ của những thân xác “Sinh Bắc Tử Nam”.
Ngọn đồi xanh ngát với những vòng cao độ tạo thành thế hình móng ngựa,
chỉ trong thời gian ngắn, đã biến thành bình địa. Đạn pháo ta và địch đã
làm thay đổi các vòng cao độ của ngọn đồi! Thiếu úy Mai Mạnh Liêu,
ĐĐT/ĐĐ4 báo cáo:
“…Không còn cái gì tồn tại chung
quanh chúng tôi hết. Xác địch nằm ngỗn ngang trên mặt đồi, cây cối chung
quanh hoàn toàn bị tiêu rụi thành bình địa. Thân cây và xác chết chồng
chất lên nhau hàng đống, từng này chồng lên từng kia…”.
Nhìn xuống QL.20, thấy quân CSBV di
chuyển trên lộ chật đường, đông như kiến, giống như đoàn người đi trẩy
hội. Chúng thuộc đơn vị nào? Phải chăng như Trần Văn Trà viết: “Quân
đoàn 1 xuất phát từ sông Hồng, Quân đoàn 3 thì có sư đoàn từ Tây Nguyên
lại có sư đoàn từ ven biển quật lên theo đường 11 đi Đà Lạt rồi theo
đường 20 vào”. Liêu xin bắn pháo. Pháo từ Chiến đoàn, pháo từ Núi
Thị tới tấp rót xuống. Chúng dạt ra hai bên đường. Lúc ngưng pháo, chúng
lại tiếp tục di chuyển. Giòng người cứ trôi như giòng thác lũ. Một
toán chỉ huy địch chạy vào một căn nhà ngói đầu ấp, căn nhà bị đánh sập,
và không thấy chúng xuất hiện trở lại. Bọn chúng đã bị pháo ta tiêu
diệt.
Trước khi trời tối, đồi Móng Ngựa bị giặc
tràn ngập. Ngọn đồi bị chiếm vì quân ta hết đạn. Cây súng trở thành cây
gậy. Bắn hết đạn, giặc tràn lên, quân ta đành phải rút chạy!
Tình hình trở nên nguy kịch. Đồi Móng
Ngựa đã lọt vào tay giặc. Từ những cánh rừng cao su chung quanh, quân
CSBV xổng lưng tiến vào vị trí quân bạn đã tan nát vì những trận mưa
pháo tàn bạo. Giặc đã tràn vào phòng tuyến. Tiếng nói của Đại tá Dũng và
Trung tá Đổ Văn Tân im bặt. Những ai còn sống sót phải rút chạy về Biên
Hòa. Tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu Giây hoàn toàn tan rã.
Quân CSBV đã mở được con đường xâm nhập vào Sàigòn không cần phải đi qua Xuân Lộc.
Khi hoạch định kế hoạch đánh chiếm Xuân
Lộc, bọn đầu sỏ CS nghĩ rằng sẽ nuốt chửng Xuân Lộc, cũng dễ dang như
lấy đồ trong túi. Với tính chủ quan được tích lũy từ trận đánh Phước
Long, trận Ban Mê Thuột, trận đường 7B, chiếm Huế, chiếm Đànẵng, các
tỉnh Miền Trung và Cao Nguyên, Tướng Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà đã
suy nghĩ quá đơn giản. Chúng không hề dự trù những tình huống khó khăn
sẽ gặp và sẽ đối phó ra sao. Mặc dù chúng đã cho lệnh Đoàn 75, tức Bộ Tư
lệnh pháo binh của Miền bố trí trận địa pháo tầm xa 130ly tại Hiếu Liêm
(ngã ba sông Bé và sông Đồng Nai) để khống chế sân bay Biên Hòa và chi
viện cho Quân đoàn 4.
Pháo của giặc tuy có gây trở ngại cho
hoạt động của ta. Nhưng các phi tuần chiến đấu F-5E, A-37,…vẫn xuất kích
yểm trợ đắc lực cho quân bạn tại Xuân Lộc. Các chuyến bay trực thăng
tải thương và tiếp tế đạn dược cho mặt trận vẫn vào ra Xuân Lộc đều đặn.
Sau ngày 12.4, người dân Xuân Lộc đã sinh hoạt trở lại. Đó là sinh hoạt
của người dân trong thời chiến, dưới đạn pháo của giặc.
Khi Xuân Lộc bị tấn công, hai Pháp kiều
là chủ đồn điền S.I.P.H và Túc Trưng bị quân CSBV bắt trong đêm, vì lầm
tưởng họ là cố vấn Mỹ. Được thả ra, hai Pháp kiều đến Núi Thị trình diện
TĐT/TĐ2/43. Họ là những người rất am tường địa thế. Các đồn điền cao su
bao quanh Xuân Lộc, hầu hết thuộc tài sản của họ. Họ đã chỉ trên bản đồ
những vị trí tập trung quân CSBV, những kho hậu cần, những con đường
vận chuyển tiếp liệu. Một trong hai Pháp kiều là cựu Trung úy Dù, từng
tham dự trận Điện Biên Phủ, người kia có vợ là người Việt, có đứa con
trai riêng của người vợ đang phục vụ trong lực lượng NQ/LK. Những tin
tức thuộc loại A1 này đã được gửi ngay về Phòng 2/SĐ. Phối hợp và kiểm
chứng cùng các tin tức khác, Tướng Đảo cho đánh bom chính xác vào các
mục tiêu, làm tiêu hao đáng kể sinh lực của quân xâm lăng CSBV. Do
TĐT/TĐ2/43 có những tin tức thuộc loại A1, Tướng Đảo cho biết ông có
những phi vụ đánh bom đặc biệt gọi là “Commando Vault”, xử dụng loại máy
bay C-130, chở nhiều bom. Một thứ “tiểu B-52”.
“Vào những tháng cuối cuộc chiến,
BTTM xử dụng phi cơ vận tải C-130A vào các cuộc dội bom chiến thuật.
C-130 có thể chứa được 8 kiện hàng, mỗi kiện chứa 4 thùng dầu phế thải.
C-130 thả từ cao độ 15 đến 20 ngàn bộ (5-7 cây số). Chu vi sát hại có
đường kính từ 150-450 mét.
C-130 có thể chở 32 trái bom loại
250-500 cân. Đây là những ‘mini-B-52’ hay ‘B-52 VN’. Phi vụ đầu tiên thả
xuống chiến khu C ở Tây Ninh. Lời đồn không quân Hoa Kỳ trở lại loan
truyền nhanh chóng” (Đại tướng Cao Văn Viên – Những Ngày Cuối Của VNCH).
Trước khi xin đánh 2 trái BLU-82, Tướng
Đảo gọi TĐT/TĐ2/43: “Tôi có cái này hay lắm, nếu có tin tức chính xác,
Bảo Định gửi liền cho tôi”.
Trận chiến 12 ngày đêm tại Xuân Lộc đã
gây thiệt hại đáng kể cho quân CSBV với hơn 6 ngàn tên chết tại trận. Đó
là những thân xác ‘Sinh Bắc Tử Nam” bị phơi thây trong những vòng rào
kẽm gai bao quanh thị xã, trong những khu tử giác, trong những vũng sình
lầy, hay những thân xác đếm được trong các cuộc phục kích. Lực lượng xe
tăng quân CSBV tham chiến tại trận Xuân Lộc không biết được con số
chính xác là bao nhiêu (những ngày đầu là 1 Trung đoàn, sau đó được tăng
cường thêm 1 Đại đội xe tăng nữa). Số xe tăng của giặc bị tiêu hủy đếm
được là 37 chiếc. Sự thiệt hại đó của quân CSBV là do các chiến binh tại
phòng tuyến Xuân Lộc bắn hạ bằng vũ khí cá nhân, vũ khí cộng đồng và
pháo hay bom. Số lượng cộng quân bị sát hại tại các chỉ huy sở, tại các
vị trí hậu cần, những tuyến đường chuyển quân và tiếp liệu, cũng như sự
thiệt hại do hai trái bom BLU-82 là không kiểm chứng được. Nhưng qua sự
kiểm chứng gián tiếp là các báo cáo của các tên thủ trưởng tham chiến,
nhận định tình hình chiến sự của Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Hoàng Cầm,
cũng như lời thú nhận của tên Lê Đức Thọ, ta có thể khẳng định con số
thiệt hại của cộng quân là gấp bội lần so với con số được đếm được. Tại
mặt trận Trảng Bom vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, khi cộng quân tràn
ngập tuyến bố phòng của TĐ1/43, một số chạy thoát được, nhưng có một số
bị bắt sống, khi được dẫn đến trình diện tên Thủ trưởng E, tức Trung
đoàn trưởng, hắn nói:
“May mà các anh gặp đơn vị tôi, nếu
gặp đơn vị kia (ý hắn muốn đề cập đến các đơn vị thuộc Sư đoàn 341 bị
thiệt hại nặng tại góc mặt trận Tây – Bắc thị xã, tại Núi Thị, và nhất
là bị hai trái bom BLU-82) thì bị bắn ngay tại chỗ.”
2/- HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI ĐỘI TRINH SÁT 43
Vào những ngày cuối, Đại úy Nguyễn Văn Tỷ
bàn giao chức vụ Đại đội trưởng, ĐĐTS43 cho Trung úy Dương Trọng Khoát.
Khoát xuất thân từ khóa 25/VBQGĐL, đang là ĐĐT/ĐĐ1 của Tiểu đoàn 2/43.
Sau khi Quận Định Quán thất thủ vào sánh
sớm ngày 19.4.75, Tiểu đoàn 2/43 được lệnh lui về hậu cứ Núi Thị, Trung
đoàn 43 cũng lui về phòng thủ thị xã Xuân Lộc, giao lại vùng trách nhiệm
cho Chiến đoàn 52 của Đại tá Ngô Kỳ Dũng. Đại đội Trinh sát 43 của
Trung úy Khoát vẫn tiếp tục hoạt động khu vực Núi Ma. Núi Ma là ngọn núi
cao nhất vùng. Hướng Tây trông xuống Quốc lộ 20 (đường đi Đà Lạt),
hướng Nam trông xuống Quốc lộ 1.
Khi Chiến đoàn 52 tan hàng tại Ngã ba Dầu
Giây chiều ngày 15.4, giao lộ QL20 và QL1 bị bỏ ngỏ. Nhưng một phần
sườn phía Tây của Núi Ma vẫn còn sự hiện diện của quân bạn (ĐĐTS43), và
một phần sườn đồi phía Đông Nam, trông xuống Núi Thị (căn cứ của TĐ2/3
và một TĐ Pháo hổn hợp của SĐ18BB) thì do Trung đội Biệt kích của Tiểu
đoàn 2/43 chiếm cứ. Ngay trong đêm mở đầu trận chiến Xuân Lộc, đơn vị
này đã tiêu diệt gọn một toán trinh sát và điều khiển pháo của cộng
quân, khiến địch đã mất đi “một con mắt” ở hướng này. Chính nhờ hoạt
động hữu hiệu của hai đơn vị này mà cộng quân không thể len lỏi đến gần
đặt pháo để quấy phá Núi Thị. Trong những ngày của trận chiến, Núi Thị
chỉ bị pháo từ xa, đó là các hỏa tiển 120, cối 130, hay sơn pháo 75ly.
- NỖI KINH HOÀNG CỦA CÁN BINH CSBV
1/. BOM BLU-82 (thường gọi CBU-55)
Dư luận quần chúng, và ngay cả
Hà Nội, hai trái bom thả xuống Mặt trận Xuân Lộc là bom CBU-55. Hà Nội
và cả Bắc Kinh đều la làng rằng Mỹ – Ngụy đã xử dụng bom “Tiểu nguyên
tử”, có tầm sát thương lớn. Theo “Tuyến Thép Xuân Lộc” của Đại tá Hứa
Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB, được Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng
P3/BTTM/QLVNCH xác nhận, đó là loại BLU-82 (Daisy Cutter). Khi Tư lệnh
đại đơn vị ngoài mặt trận đề nghị, P3 trình Đại tướng TTM. Nếu Mục tiêu
được chấp thuận, chính Trưởng P3 đích thân trao cho TL/KQ biết để thi
hành. Bom được chuyên viên Quân cụ và Không quân đưa lên phi cơ, loại
C-130. Bom để trên một dàn gỗ (palette), có đeo dù. Phi công phụ trách
thả bom, phải là phi công giỏi bay đêm. Tư lệnh Quân đoàn phải chịu
trách nhiệm trực tiếp đến sự an nguy của quân bạn.
Chiều ngày 15.4, khi Chiến đoàn 52 bị
tràn ngập, Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc đề nghị lên Quân
đoàn, Quân đoàn đề nghị về BTTM cho sử dụng loại bom có sức công phá
mạnh để tiêu diệt quân xâm lăng CSBV.
Hai trái bom được xử dụng tại Mặt trận
Xuân Lộc tháng Tư năm 1975 là bom BLU-82. BLU-82 là chữ viết tắt của
Bomb Live Unit – 82. Bom nổ ở độ cao, tạo ra một đám mây có đường kính
lối 100 mét, dày hơn 2 mét. Gặp lửa, đám mây tỏa ra một nhiệt lượng cao,
tạo ra áp lực 1.000 pounds/square inch, đổ ập xuống mục tiêu. Bom sẽ
đốt hết dưỡng khí trong một khu vực rộng 2 mẫu Anh, và mọi sinh vật
trong khu vực sẽ chết trong tình trạng tự nhiên. Bom nặng 15.000 pounds,
chứa gas hổn hợp Propane và TNT. Tùy theo tính chất của mục tiêu, bom
có loại văng miểng, có loại gây hơi ép.
Tại Xuân Lộc ngày nay, có một cây cầu nhỏ bắc qua một khe suối, có thể là suối Đá Bàn, được người dân địa phương gọi là “Cầu 6 ngàn”.
Phải chăng đó là địa điểm Chỉ huy sở Sư đoàn 341/CSBV bị 2 trái BLU-82
đánh. “Sáu ngàn” là con số quân xâm lăng CSBV đền tội vào lúc 1 giờ sáng
ngày 16.4.75. Có người thắc mắc về con số “6 ngàn”. Chỉ huy sở của một
sư đoàn sao lại có nhiều bộ đội như vậy? Có thể đó là địa điểm “tập kết”
của Quân đoàn 3 từ Cao Nguyên xuống. Theo Trần Văn Trà, có đơn vị vào
tới thì đạn dược chưa tới, xe tăng hết xăng dầu, đạn pháo chỉ còn 1, 2
viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.
Ngày 12.4.1975, khi quân Dù được trực
thăng vận đổ xuống tăng viện cho Xuân Lộc, cũng là lúc Tướng Trần Văn
Trà đến Chỉ huy sở của QĐ4. Trà đã trao cho Hoàng Cầm kế hoạch tác chiến
mới theo đó, Sư đoàn 341 rút ra, bổ sung quân số, vũ khí và đạn dược,
sẵn sàng yểm trợ Trung đoàn 95B từ Cao Nguyên xuống và Sư đoàn 6 đang bố
trí quân tại vùng ngã ba Dầu Giây diệt tuyến bố phòng của CĐ52.
Nhà cầm quyền Hànội tuyên truyền rằng 2
trái bom đã giết chết 200 người dân xã Xuân Vinh. Nhưng vào thời điểm
này xã Xuân Vinh chưa có. Xã được thành lập sau ngày 30.4.75, bao gồm
các ấp Bình Lộc, Bảo Vinh A và B. Lúc đó vùng rừng núi này là khu vực
trú quân của Sư 341/CSBV, không hề có bóng dáng của thường dân. Nếu có
“thường dân”, chỉ là bọn Du kích địa phương.
Sau khi hai trái bom BLU-82 được thả
xuống vị trí tập trung quân CSBV và Chỉ huy sở Sư đoàn 341, quan thầy
Trung cộng phản đối ầm ĩ (Frank Snepp – Decent Interval), Hànội cũng la
làng phản đối trong 2 ngày liền. Chúng cho rằng B-52 của Hoa Kỳ đã trở
lại. Nhưng thực tế quá phũ phàng, “Hoa Thịnh Đốn vẫn tiếp tục nhắm mắt làm ngơ…”(Điện
tín của Thiếu tướng Homer Smith, the U.S. defense attaché in Saigon gửi
Tướng George Brown, the chairman of the Joint Chiefs of Staff in
Washington: ‘But Washington continued to turn a blind eye…’ ).
Nếu bom không gây thiệt hại lớn thì đối
phương đã không cần phải la làng lớn giọng như vậy. Ta còn 5 trái trong
kho đạn, nhưng không có ngòi nổ! Nếu Hoa Kỳ thỏa mãn đủ số bom do
BTTM/QLVNCH yêu cầu và cung cấp đủ ngòi nổ, liệu giặc có còn đủ quân để
tiến về Sàigòn? Hànội có 21 sư đoàn, nhưng đã tung 16 sư đoàn bao vây
Sàigòn với 5 hướng. Chỉ cần đánh mỗi hướng 4 trái là đủ để tiêu diệt hết
sinh lực của giặc. Và chắc chắn chúng ta đã không có ngày 30 tháng Tư
đen!
Hai trái bom đã gây thiệt hại nặng cho
quân CSBV, nhưng sự thiệt hại của chúng là không kiểm chứng được. Vì
thời gian là những ngày tàn của cuộc chiến. Nhưng sự thiệt hại đó, ít
nhất là 75% tại chỉ huy sở của Quân đoàn 4. Cùng với sự thiệt hại sau 12
ngày ác chiến, Quân đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm coi như gần sạch túi!
Tin tức từ nguồn tin do hai Pháp kiều cung cấp cho biết, trong nhiều
ngày, họ đã chứng kiến những chiếc xe bò vận chuyển suốt ngày để chở xác
chết và thương binh bộ đội CSBV. Mỗi chiếc chất đầy tử thi hoặc thương
binh, cùng những vũ khí gãy nát, ngổn ngang đầy xe, trông như đống củi.
Lịch sử Bộ đội Quân Y/CSBV viết: “Trong tác chiến tại Xuân Lộc, Long Khánh và xung quanh, Quân đoàn 4 đã có 1,888 thương vong.”
Đó là con số bộ đội bị thương vong được các đồng chí của chúng mang về
trạm xá. Còn con số rơi rớt dọc đường, mắt kẹt trong các hàng rào kẽm
gai, hay bị bom pháo làm nát thây thì Bộ đội Quân Y không biết được.
2/. THẨM QUYỀN CHO LỆNH ĐÁNH BOM BLU-82
Về việc ai cho lệnh thả hai trái bom BLU-82, cho đến nay vẫn còn mơ hồ. Ông Nguyễn Cao Kỳ trong quyển “Buddha’s Child” viết:
“The most powerful weapon in our
arsenal was an American-made cluster bomb…One aircraft with a few
cluster bombs could kill everything within a square kilometer.
Because it was so powerful, however,
Thieu feared that someone might drop one on his palace; permission to
use a cluster bomb required his personal order. One day Operations
called to say that an enemy division had encircled one of our bases. Our
people asked for air support…so I asked the air force commander. He
said that he had no authority to authorize their use. I asked the chief
of the joint general staff; his answer was the same. I called several
generals, and each said they had no authority. I knew that if I were to
ask Thieu, he would have to consider his answer for a while, so I called
the primer minister, Tran Thien Khiem.
“It’s up to you,” he replied after I had explained the situation. “Tell them that I’m okay with it.”
I called the chief of operations back
and said, “Okey, use it.” He accepted my authority, and the resulting
air strike was the last time we inflicted major casualties on the
enemy.”
Tướng Nguyễn Cao Kỳ lúc này chỉ là Tướng
“không quân” đúng nghĩa. Không chức, không quyền, không trách nhiệm, ông
không thể ra lệnh ai, và không có ai dám thi hành lệnh của ông (nếu
không muốn ra Toà án Quân sự). Tướng Kỳ là một người ăn nói “ba hoa
thiên địa”, ai cũng biết. Ông cũng hay nói phét. Nội cái tựa đề quyển
sách “Buddha’s Child”, ông còn chua thêm câu: “My Fight To Save Vietnam”
thì thật là quá đáng.
Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 Xung kích cũng cho rằng chính ông đã cho lệnh đánh hai trái bom đó:
“Lực lượng địch và Lực lượng Xung
kích QĐIII giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngả ba Dầu Giây. Tôi buộc
phải sử dụng hai quả bom CBU-55 của Không quân Biên Hòa để chận đứng
địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18BB của Đại tá Dũng khỏi bị tiêu
diệt”. (Chuẩn tướng Trần Quang Khôi – Chiến Đấu Đến Cùng).
Tuyến phòng thủ CĐ52/SĐ18BB của Đại tá
Ngô Kỳ Dũng bị quân CSBV tràn ngập lúc chiều tối ngày 15.4. Tàn quân
phải bỏ vị trí về Long Bình. Tuyến phòng ngự CĐ52 đã vỡ 7 tiếng đồng hồ
trước khi 2 trái bom BLU-82 được xử dụng. Nếu Tướng Khôi có thẩm quyền
cho lệnh đánh hai trái bom đó (giả dụ thôi), thì đánh để tiêu diệt địch
chứ không phải “để chận đứng địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18BB của
Đại tá Dũng khỏi bị tiêu diệt”. Vì CĐ52 đã bị tiêu diệt rồi! Cần phải
sửa lại câu văn cho chính xác. Người viết (nằm tại cao điểm Núi Thị) đã
có dịp làm trung gian cho hai Tướng Khôi và Đảo nói chuyện khi Chiến
đoàn 52 bị cộng quân tấn công. Qua cuộc điền đàm của hai vị Tướng, tôi
không thấy có một hành động tích cực nào của Tướng Khôi để cho lực lượng
của ông giải cứu Chiến đoàn 52 của Đại tá Dũng đang cơn hấp hối. Theo
Trung úy Nguyễn Thanh Trường (hiện định cư tại Miami, Florida) và Thiếu
úy Mai Mạnh Liêu (hiện định cư tại Rosemead, California) thuộc TĐ3/52,
là những người sống sót rút chạy sau cùng cho biết, trên đường từ ngã ba
Dầu Giây đến Bàu Cá, họ chỉ gặp vài chiếc xe M.48 và một toán BĐQ nằm
bố trí tại vùng vườn cam gần Sở Chăn nuôi.
Hai trái bom BLU-82 được thả xuống Chỉ
huy sở và Hậu cần của Sư đoàn 341 vào lúc 1 giờ sáng ngày 16.4.75. Theo
Đại tướng Cao Văn Viên, TTMT/Bộ TTM/QLVNCH, chính BTTM và BTL/KQ quyết
định cho đánh 2 trái bom đó. Và chỉ có 2 trái mà thôi, vì người bạn đồng
minh Mỹ chỉ cung cấp 2 ngòi nổ! Tướng Viên cho biết, cuối tháng 2/1975,
BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp những trái bom chiến lược không quân có thể xử
dụng được. Hoa Kỳ gửi 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện. Giữa tháng
4, ba trái được chở đến, cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên
Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn. Nhưng người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm
lái máy bay thả bom thì không đến. Trong tình trạng khẩn trương của
chiến trường, BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh
nghiệm cho nhiệm vụ thả bom.
“Đêm 15.4.75, sau khi Cộng quân tràn
ngập vùng ngã ba Dầu Giây, Tướng Toàn, Tư lệnh QĐIII, đã quyết định đề
nghị BTTM cho xử dụng hai quả bom ‘Daisy Cutter’…Kết quả hai trái bom
‘Daisy Cutter’ đã loại khỏi vòng chiến khoảng 2 Sư đoàn Cộng quân (hơn
10 ngàn quân)”. (Những Sự Thật Chiến tranh Việt Nam 1954-1975).
“Vào 1 giờ sáng phi cơ thả trái
‘Daisy Cutter’ đầu tiên cách Xuân Lộc 6 cây số về hướng tây bắc. Thành
phố Xuân Lộc bị rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và
truyền tin của địch ngưng hoạt động-bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu
hủy”.
“Gần những ngày tàn của cuộc chiến,
cộng sản tụ quân, và thiết lập các căn cứ hậu cần ngụy trang rất sơ sài,
dễ quan sát từ trên không. Đây là những mục tiêu tốt cho vũ khí chiến
lược, có sức tàn phá mạnh…BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi
công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom. Chiếc C-130 và quả bom ‘Daisy
Cutter’ cất cánh vào lúc nửa đêm…” (Đại tướng Cao Văn Viên – Những Ngày
Cuối Của VNCH).
Theo Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTTM/QLVNCH, đó là loại bom BLU-82 (Daisy Cutter), chứ không phải CBU-55:
“Tôi xin xác nhận với anh, đó là loại
BLU-82 (Daisy Cutter) chứ không phải CBU-55. Tụi tôi chuẩn bị các mục
tiêu theo đề nghị của các Tư lệnh đại đơn vị ngoài mặt trận…trình Đại
tướng xin chấp thuận. Mục tiêu được Đại tướng chấp thuận rồi, tôi trao
cho Không quân. Chỉ có Tư lệnh Không quân biết và thi hành; mọi mục tiêu
đều là ‘Tối mật’ hết.” (Đại tá Hứa Yến Lến – Tuyến Thép Xuân Lộc)
Mục tiêu đánh bom là phía Nam Kiệm Tân,
gần đường QL.20. Trong buổi phát thanh ngày 21 tháng Tư, đài Hànội cũng
xác nhận vùng bị đánh bom là ở giữa Biên Hòa và Xuân Lộc.
VII- LUI BINH
“Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi”.
(Nửa Hồn Xuân Lộc – Nguyễn Phúc Sông Hương, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng TĐ3/48)
1/- NGUYÊN NHÂN:
Mặt trận phía Tây thất bại, nhưng quân ta
đang thắng lớn tại Xuân Lộc. Dù sao sức người có hạn. Quân ta ngày càng
mòn mỏi, đạn dược cạn dần. Trong lúc đó Hànội đã tung vào Nam tất cả
những gì chúng có. Cái gọi là “Quân đội Nhân dân Việt Nam” được thành
hình từ 1 Trung đội Tuyên truyền Giải phóng quân, đến nay đã lên đến 21
Sư đoàn. Khi phát động chiến dịch tổng tấn công VNCH từ đầu tháng 1 năm
1975, Hànội chỉ để lại 1 Sư đoàn giữ nhà, còn lại đưa vào Nam tất cả.
Vùng biên giới Việt – Trung thì có các Sư đoàn Trung cộng trấn giữ. Theo
các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê Bá Khiếu, và Tiến sĩ
Nguyễn Văn, viết trong quyển “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam
1954-1975”, Tướng CSBV Văn Tiến Dũng được 5 Tướng cố vấn Nga Xô bày mưu
tính kế (theo tin tức tình báo của Tướng Pháp Vanuxem). Ngày trước đánh
Điện Biên Phủ, Tướng Võ Nguyên Giáp cũng được các cố vấn Tàu phù Trần
Canh, Lã Quí Ba,…chỉ dạy cách đánh.
Quân đoàn 2 và một số đơn vị thuộc Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh đã vào đến Rừng Lá.
Quân đoàn 1 xuất phát từ bờ Sông Hồng cũng đã vào đến.
Quân đoàn 3 từ Đàlạt theo đường QL.20 đang trên đường xuống.
Xuân Lộc giờ đây đã trở thành ốc đảo giữa biển giặc mênh mông.
Bên ngoài phòng tuyến Xuân Lộc, Tiểu đoàn
2/43 đã lấy lại kiểm soát đến xã An Lộc, đèo Mẹ Bồng Con, đến chân Núi
Ma, sân bay An Lộc và Bệnh viện đồn điền cao su S.I.P.H. (máy bay của
đồn điền đã đáp xuống an toàn mang lương phát cho công nhân). Đơn vị
cũng hoạt động đến ấp Núi Đỏ, và xã Tân Lập. Giao thông liên lạc đã tái
lập từ Núi Thị đến thị xã, nhưng chỉ đi băng qua rừng cao su, không ra
ngõ Cua Heo để tránh bị bắn sẻ.
Hướng Đông – Bắc, quân ta hoạt động xa ngoài vòng đai thị xã, kiểm soát đến ấp Bảo Vinh A và B.
Hướng Đông – Nam, Trung đoàn 141 của Sư
đoàn 7/CSBV đang bị quân Dù bao vây chia cắt. Tiểu đoàn 1, 2 và Đại đội
Trinh sát của Trung đoàn 141 hầu như bị xoá sổ. Quân Dù kiểm soát đến ấp
Bảo Định và Bảo Bình.
Hướng Nam, Chiến đoàn 48 hoạt động đến căn cứ Long Giao.
Nhưng Xuân Lộc giờ đây đã mất hết vai trò
chủ yếu. Xuân Lộc không còn là nút chận quân xâm lăng CSBV, vì đối
phương đã tránh Xuân Lộc, đang điều quân đi vòng. Chúng chỉ để lại Sư
đoàn 7 của Lê Nam Phong đánh cầm chân Sư đoàn 18BB của Tướng Lê Minh Đảo
và Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh. Trong lúc đó địch đang
tập trung quân quanh Sàigòn, chuẩn bị tiến công từ 5 hướng. Biên Hòa
cách Sàigòn 30 cây số, có một phi trường quân sự quan trọng, cần bảo vệ.
BTL/QĐIII quyết định Sư đoàn 18BB và Lực lượng tham chiến tại Xuân Lộc
phải triệt thoái.
2/- DIỄN TIẾN:
Ngày 20 tháng Tư năm 1975, lúc 9 giờ
sáng, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn III Nguyễn Văn Toàn, có Đại tá Hoàng
Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTL/QĐIII tháp tùng vào Xuân Lộc. Tại đây ông
cho lệnh Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh mặt trận, rút toàn bộ lực lượng tham
chiến ra khỏi Xuân Lộc trong nội ngày hôm đó. Lệnh vừa ban ra buổi
sáng, vào lúc quá trưa, các đơn vị đã nhận được Lệnh Hành Quân khá chi
tiết. Nhờ vậy các cánh quân lui binh nhịp nhàng, trong im lặng, theo thế
chân vẹt, nên quân CSBV đã không phát hiện kịp thời. Một đại đơn vị với
hơn 5.000 quân, rầm rầm rộ rộ di chuyển mà địch vẫn không hề biết ý
định của ta. Chúng nghĩ rằng đó chỉ là việc thay quân bình thường.
Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 2/43 đã hoàn
thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Trong lúc đại đơn vị di chuyển, hai
đơn vị này vẫn tiếp tục chiến đấu, vẫn mở những cuộc tấn công địch. Khi
hai đơn vị đoạn hậu này di chuyển thì áp dụng chiến thuật đánh trì hoãn
chiến. Bộ đội của Hoàng Cầm dù đang bám sát quân ta, đã hoàn toàn không
hề hay biết gì về cuộc hành quân lui binh của đối phương. Đến lúc phát
hiện được thì đoàn quân đã về đến Xà Bang, tiền quân đã đến Bình Giả!
Sau khi chiếc trực thăng của Tướng Toàn
vừa cất cánh rời Xuân Lộc, với khả năng nhạy bén, Tướng Đảo đã có ngay
một kế hoạch Hành quân Lui binh trong đầu. Thông thường phải triệu tập
các đơn vị trưởng, tổ chức ngay cuộc họp khẩn cấp tại BTL/SĐ18BB. Nhưng
trong tình thế hiện tại, dù không còn khả năng tấn công, địch đã gia
tăng cường độ pháo. Những trận mưa pháo của quân CSBV rót xuống Xuân
Lộc, theo vài ký giả phương Tây, còn ác liệt và có tính cách hủy diệt
hơn hồi trận Điện Biên Phủ! Vả lại các đơn vị trưởng đang mặt đối mặt
với quân thù, không tiện rời bỏ vị trí. Ông Tướng đã gặp riêng Đại tá
Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ để truyền đạt lệnh. Phát thảo Kế hoạch Điều quân
Lui binh của ông được Phòng 3/SĐ soạn thảo chi tiết. Để đạt được yếu tố “Bí Mật”, Lệnh Hành Quân phải chuyển tay đến các đơn vị trưởng. Lệnh phải được thi hành ngay, các đơn vị phải “Nhanh Chóng” chuẩn bị. Có gì không rõ, phải trực tiếp hỏi Tư lệnh, nếu không thì cứ thế mà thi hành.
Lộ trình cuộc triệt thoái là LTL.2 nối
liền Xuân Lộc của Long Khánh đi Bà Rịa của Phước Tuy. Ông cho lệnh Phi
hành đoàn chiếc trực thăng chỉ huy (C&C) bay quan sát lộ trình.
Đoàn quân sẽ di chuyển khi màn đêm buông
xuống. Xưa nay hành quân hay đánh đêm là sở trường của địch. Thông
thường quân ta chỉ tiến ngày ban ngày, ban đêm thì co cụm và phòng thủ.
Tướng Đảo ấn định giờ xuất phát lúc 7 giờ tối là một “Bất Ngờ” đối với địch.
Khi các đơn vị trưởng nhận được Lệnh Hành
Quân, lệnh chi tiết hơn đã được soạn thảo chuyển xuống cho các đơn vị
cấp thấp thi hành. Tiểu đoàn 2/43 trấn giữa cao điểm Núi Thị, vị trí xa
nhất trong tuyến phòng thủ Xuân Lộc đã được chính tay Đại úy Nguyễn Văn
Khiêm, Ban 3/CĐ43, vượt rừng cao su, trao tay vào lúc quá trưa. Riêng
ĐĐ43TS của Trung úy Dương Trọng Khoát đang hoạt động khu vực Núi Ma, chỉ
biết lệnh khi quá nửa đêm.
Kế hoạch điều quân cuộc Lui binh như sau:
- CĐ 48 do Trung tá Trần Minh Công, Trung đoàn trưởng 48 chỉ huy, mở đường.
- BTM/HQ/SĐ18BB, Thiết đoàn 5 Kỵ binh, các Tiểu đoàn Pháo binh, Công Binh, Tiểu đoàn 18 Tiếp vận, 2 khẩu đại bác tự hành 175ly, và các đơn vị kỷ thuật, lập thành đoàn cơ giới do Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ chỉ huy.
- BCH/TKLK và các đơn vị trực thuộc do Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng chỉ huy.
- CĐ 43 gồm các đơn vị cơ hữu và Tiểu đoàn 82/BĐQ, do Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng 43 chỉ huy.
- LĐ1ND và TĐ2/43 do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐ1ND chỉ huy, đi đoạn hậu. Kể từ 7 giờ tối 20.4.75, TĐ2/43 vào hệ thống truyền tin của LĐ1ND, đặt dưới quyền chỉ huy của LĐT/LĐ1ND. Đến 12 giờ đêm, TĐ2/43 trở lại hệ thống truyền tin và chỉ huy trực tiếp của Sư đoàn, di chuyển đến ngã ba Tân Phong gặp LD1ND, sẽ xuất phát trước.
- Chuẩn tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo sẽ di chuyển bộ cùng cánh quân của CĐ43, do TĐ82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long bảo vệ.
- Chiếc trực thăng chỉ huy của Tư lệnh (C&C) sẽ do Đại tá Ngô Kỳ Dũng bay bao vùng.
- Đội hình hành quân theo thế chân vẹt, hầu bảo đảm an toàn cho các cánh quân khi di chuyển.
Hành quân lui binh là loại hành quân khó
khăn , nhất là khi phải tiến hành dưới áp lực và hỏa lực của địch.
QLVNCH đã hơn một lần thảm bại cay đắng trong cuộc triệt thoái hay di
tản chiến thuật hồi trung tuần tháng 3 năm 1975 từ Cao Nguyên về Duyên
Hải miền Trung. Thiệt hại của đoàn quân triệt thoái ít nhất là 75% khả
năng tác chiến. Tại Quân đoàn I, cuộc triệt thoái chiến thuật cũng thất
bại.
Cuộc Hành quân Lui binh do Sư đoàn 18BB
thực hiện trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng Tư năm 1975 đã thành công tốt
đẹp. Toàn bộ Sư đoàn, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ
và Lữ đoàn 1 Dù đã di chuyển về đến Bình Giã – Bà Rịa thuộc tỉnh Phước
Tuy an toàn. Nhưng LĐ1/Dù do vừa di chuyển, vừa phải chiến đấu để bảo vệ
đồng bào các ấp Bảo Định và Bảo Bình đi theo, nên chịu một số thiệt
hại. Tiểu đoàn 2/43 với nhiệm vụ đánh trì hoãn chiến, đánh nghi binh,
phải rút ra sau cùng, do đó bị thiệt hại nặng nhất, lối 50%. Nhưng nhìn
chung, cuộc Hành quân Lui binh của các lực lượng tham chiến tại mặt trận
Xuân Lộc là một thắng lợi to lớn.
Mặc dù ở trong thế mặt đối mặt, quân của
hai bên có thể nói chuyện với nhau được, thế mà khi quân ta rút ra, bắt
đầu di chuyển từ lúc 7 giờ tối, mãi đến gần 3 giờ sáng, Tướng Cầm mới
hay biết để tổ chức đơn vị truy kích.
TĐ9Dù cùng Trung đội PB/Dù rời Long Giao lúc 4 giờ 30 sáng. TĐ2/43 rời căn cứ Núi Thị lúc 5 giờ sáng.
Đường LTL.2 nối liền Xuân Lộc của Long
Khánh và Bà Rịa của Phước Tuy, dài trên 40 cây số. Con đường này do quân
đội đồng minh sửa chữa và mở rộng. Khi quân đội đồng minh rút, con
đường bị bỏ hoang phế.
Tướng Đảo đã có một quyết định khá táo
bạo khi chọn con đường này làm lộ trình triệt thoái. Quyết định táo bạo
đó của ông là yếu tố bất ngờ đối với cộng quân.
Tướng Trà viết Hồi ký, đã tiên đoán quân ta sẽ rút khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa: “Hai là rút chạy khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa…Vì vậy ta không được để lơi lỏng đối với lực lượng địch ở Xuân Lộc mà phải kèm kỹ…”
Tiên đoán của Trà được viết trong hồi ký, chứ không phải được phán đoán
hay suy nghĩ trước khi lực lượng tham chiến Xuân Lộc rút đi! Thực tế
như Hoàng Cầm thú nhận trong quyển Lịch sử Quân đội Nhân dân: “Chúng tôi đã không phát hiện kịp thời cuộc di chuyển quân của Sư đoàn 18 để tổ chức lực lượng truy kích và ngăn chặn”.
Hai Tướng CS viết hồi ký đã đưa ra những địều mâu thuẫn. Nếu Trà đã
“tiên đoán”, sao không ra lệnh cho Cầm bố trí một lực lượng mạnh trước
để có thể phát hiện kịp thời mà chận đánh.
Dù đạt được yếu tố bất ngờ của cuộc Hành
quân Lui binh, nhưng đã có những cuộc chạm súng lẻ tẻ. Từ sau Hiệp định
ngừng bắn Paris, VC thường xuyên phục kích đắp mô trên con đường này. Đó
cũng là hành lang giao liên giữa các mật khu VC trong vùng. Đây cũng là
địa bàn hoạt động của Trung đoàn 33/Quyết Thắng Long Khánh. Những cuộc
chạm súng tuy không lớn, nhưng cũng làm cho quân bạn chịu một số tổn
thất: Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng bị bắt. Trung tá Tham Mưu trưởng
Lê Quang Định bị tử thương. Quân Dù cũng chịu một số thiệt hại. Trên
con đường LTL.2, quân Dù là đơn vị di chuyển sau cùng. Khi quân Dù đã đi
qua, Tướng Hoàng Cầm phát hiện, đã tổ chức lực lượng truy kích và ngăn
chận. Từ đó, con đường hoàn toàn bị đóng.
Theo Thiếu úy Tài, hiện định cư tại Tiểu
bang Massachussetts, sĩ quan Tiền sát Đại đội Trinh sát 43 của Trung úy
Dương Trọng Khoát cho biết, đơn vị này vẫn chiến đấu quyết liệt với quân
CSBV cho đến 11 giờ đêm. Buổi chiều, Đại úy Quyền, Pháo đội trưởng PĐ/B
của TĐ181/PB/SĐ gọi Thíếu úy Tài, yêu cầu chấm mục tiêu những nơi tập
trung quân của CSBV để bắn pháo. Tài lấy làm lạ sao hôm nay căn cứ Pháo
tại Núi Thị chơi sang! Tài đâu biết rằng Pháo đội của Đại úy Quyền cần
bắn cho hết đạn để di chuyển nhẹ nhàng!
Khi màn đêm buông xuống, như thường lệ,
quân CSBV lại mở nhiều đợt tấn công biển người vào vị trí của Đại đội
43/TS. Trận chiến thật ác liệt, có lúc phải đánh cận chiến. Nhưng những
người lính Trinh sát vẫn giữ vững vị trí. Hai khẩu pháo còn lại tại Núi
Thị bắn ào ạt, như trút cơn giận dữ lên đầu giặc. Pháo của địch cũng dội
lên đầu quân bạn không ngớt. Thiếu úy Tài vẫn bình tĩnh điều chỉnh
pháo. Những loạt đạn bắn gần, đã phá tan đội hình tấn công của địch. Vài
trái đạn nổ ngay trên tuyến phòng thủ, Khoát bị thương, nhưng vẫn tiếp
tục chiến đấu.
Lối 11 giờ đêm, Khoát liên lạc được với
Bảo Định (TĐT/TĐ2/43), yêu cầu được dẫn quân qua Núi Thị. Nhưng Bảo Định
nói hãy dẫn quân ra ngã ba Tân Phong, gặp TĐ2/43 ở đó rồi cùng rút. Đơn
vị của Khoát không thể đến được điểm hẹn. Quân CSBV bố trí cùng khắp
trong các cánh rừng cao su, trong các khu rừng chồi. Có những đơn vị
cộng quân đi lạc do những tên chỉ huy kém cỏi, không xác định được điểm
đứng. Đó là trường hợp của Tiểu đoàn 8 thuộc Sư đoàn 341, nên được giao
nhiệm vụ chốt chặn, nhằm không cho các đơn vị QLVNCH tiếp viện hay rút
lui. Có thể đơn vị cộng quân này chốt chặn TĐ2/43 tại phòng tuyến Núi
Thị, vì chúng đang bố trí quân khu vực xã An Lộc và Tân Lập, cách Núi
Thị vài cây số về hướng Tây. Trên đường hành quân ra ngã ba Tân Phong,
ĐĐ43TS chạm súng đơn vị địch thuộc Trung đoàn 274 đang kiềng chốt tại
khu vực đèo Mẹ Bồng Con. Khoát phải cho đơn vị đổi hướng về hướng Tây.
Sau nhiều ngày luồn lách, hành quân xuyên qua các căn cứ địa của VC, vừa
đi vừa đánh, quân số bị hao hụt nhiều. Buổi trưa ngày thứ năm của cuộc
vượt thoát, Khoát thấy một chiếc trực thăng đang nhởn nhơ trong bầu trời
cao. Đơn vị dùng kính “mắt thần” của Viễn thám chiếu lên phi cơ. Một
lúc sau trực thăng quay lại, liều lĩnh đáp xuống trong lưới đạn giặc,
trên một khoảng trống nhỏ, cố bốc đi những quân nhân sống sót. Nhưng
không bốc hết được, phải để lại một số. Trực thăng quá tải, cố ngóc lên,
cố ngóc lên cao, nhưng chỉ có thể rà rà trên ngọn cây, lướt về hướng
QL.1. Trực thăng thả quân xuống một căn cứ pháo, rồi vội vã quay lại bốc
nốt những người lính còn sót. Chiếc trực thăng cứu nạn đó là của Đại tá
Lưu Yểm, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Biên Hòa, đang bay quan sát: “Qua nghi là mấy em lắm mà…”, giọng nói thân tình “huynh đệ chi binh”. “mấy hôm nay nghe bên Sư đoàn đang bay tìm số quân nhân thất lạc trong rừng. Yên chí đi, Qua không bỏ mấy em đâu…”
Khi đi qua thị xã, TĐ2/43 di chuyển bên
ngoài, cách xa vài trăm mét. Cộng quân lố nhố trong thành phố, xe
molotova chạy qua lại, dù trời đã sáng, xe vẫn còn mở đèn pha, thị xã
sáng rực! Nhưng hầu như việc ai nấy làm. Cộng quân vào thành phố thì lo
hôi của. Đoàn quân triệt thoái thì lo di chuyển theo lộ trình ấn định.
Buổi sáng thật yên ả. Không có tiếng “đại bác vọng về”, không có tiếng máy bay gầm rú. Trời cao và xanh trong.
Từ 7 giờ tối, khi đại quân bắt đầu di
chuyển, 2 khẩu pháo được lệnh tác xạ liên tục. Tác xạ quấy rối, tác xạ
nghi binh, cũng là tác xạ cho hết đạn. Trường hợp này cũng giống như
Trương Phi trong Tam Quốc Chí, cùng 20 người ngựa, tại cầu Trường Bảng,
đã mưu trí dùng những nhánh cây cột vào đuôi ngựa cho chạy lui, chạy tới
trên đường, làm cho đất bụi bay mù trời, hầu đánh lừa quân Tào Tháo.
Nhờ hành động mưu trí này của Trương Phi, đại quân của Lưu Bị đã rút lui
an toàn. Sau khi hai khẩu pháo bị phá hủy, vùng trời Xuân Lộc hoàn toàn
im vắng. Lúc đó là 5 giờ sáng ngày 21 tháng Tư năm 1975.
Lối 7 giờ sáng, trong cái im vắng của bầu
trời Xuân Lộc, chiếc C&C của Tư lệnh xuất hiện, bay từ hướng Bình
Giả lên. Khi bay ngang đầu, Đại tá Ngô Kỳ Dũng, CĐT/CĐ52 đang ngồi trên
đó, không phải Tướng Đảo, chuyển lệnh của Tướng Đảo cho TĐT/TĐ2/43: “Hủy bỏ lộ trình cũ, di chuyển về hướng Tây. Điểm tập trung tại Long Thành trên QL.15”.
TĐ2/43 phải tìm “Sinh lộ trong Tử địa”. Khi chiếc C&C bay đi, bầu
trời trống không. Không một chiếc máy bay nào vào vùng. Pháo binh cũng
im bặt. Thật khác hẳn không khí rộn ràng trong suốt 12 ngày đêm vừa qua.
Lúc đó máy bay đủ loại vần vũ trên bầu trời. Lưới đạn đan nhau. Khói
súng mịt mờ. Đạn pháo ầm ầm, pháo địch pháo ta. Giờ này thì tất cả đều
lặng yên. Một thứ lặng yên ma quái, rất kinh người!
Đang im lặng di chuyển trong khu rừng cao
su phía Tây căn cứ Long Giao, đơn vị tiền quân chạm địch. Một cuộc chạm
súng ngắn ngủi. Những người lính TĐ2/43 tràn lên như thác lũ, đã đè bẹp
một ổ kháng cự của giặc cở 1 Trung đội. Chúng không phản ứng kịp, đã bị
tiêu diệt gọn. Tiểu đoàn trưởng định cho đơn vị nghỉ ngơi một lúc.
Nhưng từ hướng Đông, một đoàn xe molotova trên 10 chiếc, chở đầy bộ đội
CSBV đang theo các con đường lô cao su tiến vào. Đơn vị nhanh chóng đổi
hướng về hướng Bắc. Nhưng lại chạm địch. Trong hoàn cảnh không có máy
bay và pháo binh yểm trợ, đại đơn vị thì đang trên đường di chuyển, đánh
nhau với địch lúc này là bất lợi. Nếu quân sĩ bị thương vong thì lại
càng phiền toái hơn. TĐT quyết định đoạn chiến. Lại chuyển hướng di
chuyển về hướng Tây. Đơn vị đi xuyên qua những căn cứ địa VC, tiêu diệt
gọn những tên cán binh “giữ nhà”, nếu gặp giặc đông thì tránh. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào!”
Trước khi trời tối, Tiểu đoàn đi đến một khu rừng rậm. Đơn vị chia làm
hai cánh, một do TĐT chỉ huy, và một do Đại úy Tiểu đoàn phó Nguyễn Tấn
Chi chỉ huy. Vì hoàn cảnh đơn vị di chuyển lẽ loi không có phi pháo yểm
trợ, trong khu rừng đầy căn cứ địa của đối phương, hiện do Sư đoàn 341
chiếm cứ, nên TĐT cho lệnh đơn vị phải tránh chạm súng, để tránh thương
vong. Nếu bất đắc dĩ phải nổ súng, phải đoạn chiến ngay, phải tìm cách
phân tán mỏng, phải di chuyển nhanh ra điểm tập trung tại Long Thành,
trên QL.15.
Cánh quân do TĐT chỉ huy chạm súng liên
miên. Cuối cùng chỉ còn 27 người sát cánh cùng TĐT. Toán quân vượt thoát
ngày nghỉ đêm đi, giữ im lặng vô tuyến. Máy truyền tin mang theo nghe
Sư đoàn và Trung đoàn gọi, nhưng không thể trả lời, vì sợ đối phương
định vị, tìm đến tiêu diệt. Từ sáng sớm đến chiều tối, Sư đoàn và Trung
đoàn thay nhau dùng trực thăng hay L.19 bay đi tìm. Mãi đến 5 ngày sau,
khi đã thoát ra ngoài vòng vây, toán quân vuợt thoát 28 người được trực
thăng đến bốc. Vài ngày sau, những người lính thất lạc cũng tìm được
cách ra đến Long Thành để được xe GMC đón về Long Bình. Trước ngày tan
hàng, đơn vị lại tụ họp còn khoảng 50% quân số.
Chỉ có 3 chiếc trực thăng đến bốc 28 quân
nhân thất lạc trong khu rừng trong cuộc Hành quân Lui binh của Sư đoàn
18BB, nhưng tin tức loan truyền sai lạc, và đã được phóng đại rất xa sự
thật.
Tướng Lê Minh Đảo di chuyển bộ cùng với CĐ43 của Đại tá Hiếu, có TĐ82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long bảo vệ gần:
“Đoàn quân vẫn tiếp tục đi. Tư lệnh vẫn vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa…
“Đại tá Hiếu thì cứ luôn luôn bận tâm đứa con đi đoạn hậu, TĐ2/43, đơn vị này bắt đầu rời Núi Thị…”
“Khi đến ngả ba Xà Bang, Tướng Tư lệnh đã mệt lắm rồi, “Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút được không?”
“Cố lên đi Thiếu tướng! Tôi vừa nói vừa kéo tay Tư lệnh tiến lên.”
(Tháng Tư Lại Về – Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long)
Nhưng kẻ địch, Thượng tướng Trần Văn Trà,
Tư lệnh B2, rất sung sướng khi trích dẫn những lời viết dối trá của
Frank Snepp trong quyển “Decent Interval” để biện hộ cho thất bại của
mình với ảo tưởng thắng trận: “…Rạng ngày 21, các tuyến phòng thủ
cuối cùng của chính phủ tại Xuân Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót
của sư đoàn 18 quân đội Việt nam cộng hòa với viên tư lệnh, tướng Đảo,
được kéo chạy khỏi thành phố đổ nát bằng máy bay lên thẳng”. Đoạn
văn này được Luật sư Hoàng Cơ Thụy trích, viết trong quyển “Việt Sử Khảo
Luận” của ông ấy, rồi lại được Luật sư Nguyễn Văn Chức trích lại, viết
trong một loạt bài công kích Tướng Đảo trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong, với
văn phong và ngôn ngữ của Miền Nam: “Trực thăng đã đến bốc cái tiểu
đoàn chót của 4 tiểu đoàn sống sót của sư đoàn 18, kể luôn tướng Lê Minh
Đảo. Có 600 trăm người dưới quyền Đại tá Lê Xuân Hiếu tình nguyện ở lại
sau cùng để che chở cho cuộc triệt thoái. Trong vài giờ, họ bị tràn
ngập bởi 40 ngàn quân Bắc Việt đã được bố trí để trực tiếp đánh họ”. Tại
sao Frank Snepp viết như vậy? Là một phân tích gia C.I.A (CIA Analyst),
cũng là một nhà báo ngồi tại Sàigòn, chỉ cách Xuân Lộc 70 cây số, Snepp
phải biết rõ là không phải như vậy. Nhưng anh ta vẫn viết như vậy. Rồi
bản tin của anh ta đã bay cùng khắp thế giới. Snepp cố tình đánh lừa dư
luận. Có phải Frank Snepp mang mặc cảm tội lỗi của một người bạn đồng
minh bất tín. Với tin tức do Quân đoàn 4 cung cấp hàng ngày, Trần Văn
Trà cũng phải biết sự thật không phải như vậy, nhưng hắn vẫn viết như
vậy. Hắn đã rất sung sướng khi vớ được bản tin bôi bác này của Frank
Snepp. Hay Trà cũng mang mặc cảm nô lệ như Luật sư Chức, chỉ thiếu lời
bàn Mao Tôn Cương như ông Luật sư:“Đây là do Mỹ nói nhé!”
Lúc đến Bình Giã, Đại tá Hiếu, báo cho
Tướng Đảo biết quân Dù đang chạm súng mạnh với cộng quân tại biên giới
hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy, TĐ2/43 thì vừa xuống núi, đang di
chuyển ngang qua thị xã để đến điểm hẹn tại ngã ba Tân Phong. Tướng Đảo
liền cho lệnh Đại tá Dũng đang bay trên chiếc C&C bao vùng, hướng về
Xuân Lộc, chuyển lệnh cho TĐT/TĐ2/43 phải lập tức hủy bỏ lộ trình cũ,
đưa đơn vị băng rừng ra hướng Long Thành trên QL.15.
Mặc dù Lui binh là một cuộc hành quân khó
khăn nhất trong chiến tranh, cuộc Hành quân Lui binh của Sư đoàn 18 đã
thành công. Các đơn vị đều rút ra an toàn, chỉ bị những thiệt hại nhỏ.
Đó là cái giá phải trả khi đơn vị đang ở thế mặt đối mặt với quân địch.
Riêng TĐ2/43, đơn vị đánh nghi binh, phải rút ra sau cùng là bị thiệt
hại nặng. Nhưng sự thiệt hại của TĐ2/43 được đổi lại cho đại quân được
an toàn trên đường triệt thoái thì cũng xứng đáng.
Sự thành công tốt đẹp của cuộc hành quân
lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện không phải do may mắn. Cũng không
phải do đối phương đã kiệt quệ. Chính Trần Văn Trà đã chỉ thị cho Hoàng
Cầm sử dụng lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc. Sự thành
công là nhờ vào kế hoạch được soạn thảo chu đáo, thi hành nhanh chóng,
đạt được yếu tố bí mật và bất ngờ:
- Tướng Đảo đã chọn hai đơn vị thiện chiến chịu trách nhiệm đi đoạn hậu. LĐ1Dù đánh trì hoãn chiến, và TĐ2/43 đánh nghi binh. Hai đơn vị này gồm các binh sĩ giỏi chiến đấu, có nhiều kinh nghiệm chiến trường và rất dũng cảm.
Trong đêm lui binh, vào những giờ đầu của
cuộc hành qưân, LĐ1Dù vẫn hoạt động bình thường. Điều khó khăn là làm
sao rút ra mà đối phương không biết. Và quân Dù đã làm được. Quân Dù đã
giữ được an toàn cạnh sườn trái này của cuộc di tản.
TĐ2/43 trấn giữ Núi Thị, vị trí xa nhất
về hướng Tây – Bắc của chiến tuyến. Nếu quân CSBV ở hướng Bắc thị xã có
hay biết và tổ chức bộ đội truy kích, chúng phải tiêu diệt Tiểu đoàn
2/43 trước, rồi mới có thể tổ chức đội hình tấn công cạnh sườn phải của
đoàn quân triệt thoái.
Khi đại đơn vị bắt đầu di chuyển, TĐ2/43
vẫn hoạt động bình thường. Các toán tiền đồn và phục kích vẫn đi đến
những vị trí ấn định. Trung đội BK/TĐ hoạt động sườn phía Đông của Núi
Ma, cách BCH/TĐ lối 2 cây số về hướng Bắc vẫn bám trụ. Chính vì vậy mà
lúc 3 giờ sáng, khi có lệnh di chuyển, Trung đội này phải mất gần 2
tiếng đồng hồ mới về tới với Tiểu đoàn. Những người lính Biệt kích Tiểu
đoàn phải di chuyển thế nào để đối phương không phát hiện. Hai khẩu pháo
105ly còn lại vẫn tác xạ quấy rối đều đặn. Lối 11 giờ đêm, tên Thủ
trưởng, tên Chính trị viên, cũng có thể là một tên cán bộ cao cấp đặc
trách về binh vận, vào tần số Tiểu đoàn, gặp TĐT để tuyên truyền. Có thể
hắn là người có trình độ, hay chỉ là cái máy, giống như con vẹt, tuôn
ra những điều đã được viết sẵn. Hai bên đấu lý, trao đổi qua lại mãi đến
gần 2 giờ sáng. Chính những hoạt động này của TĐ2/43, đã đánh lừa được
cánh quân này của CSBV. Chúng chỉ phát hiện được sau 7 giờ sáng, khi TĐ
đã rời xa căn cứ Núi Thị, đang di chuyển gần ấp Núi Đỏ, sát thị xã.
- Kế hoạch hành quân được Phòng 3/SĐ soạn thảo tỉ mỉ. Các cánh quân rút lui theo đội hình thế chân vẹt, do đó luôn luôn có quân sẵn sàng chiến đấu, và hỏa lực sẵn sàng yểm trợ cho quân bạn. Trên không thì có trực thăng bao vùng.
“Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi đến Long
Giao…Lệnh cho tôi phải ở lại Long Giao và sẵn sàng tác xạ để yểm trợ
cho LĐ1Dù đang ở lại…Chúng tôi đã liên lạc được với LĐ1Dù và bắn yểm trợ
cho họ…trước khi chúng tôi được lệnh tiếp tục di chuyển…đơn vị Dù thay
thế chúng tôi sẽ đến ngay sau khi chúng tôi đi khỏi nơi này…”(Đại úy
Nguyễn Hữu Nhân, PĐT/PĐA/TĐ181PBSĐ – Những Giờ Phút Sau Cùng ở Xuân
Lộc).
Pháo đội Dù chỉ xếp càng pháo khi người lính cuối cùng của LĐ đến Long Giao.
- Tinh thần quân sĩ rất vững vàng, đang lên cao do những thắng lợi suốt trong 12 ngày đêm của trận chiến. Điều quan trọng là cuộc triệt thoái chỉ thi hành theo lệnh, không phải do chiến bại để phải tháo chạy.
Trong những ngày chuẩn bị trận chiến, các
đơn vị thường xuyên có những sinh hoạt chính huấn, huấn luyện cách xử
dụng súng chống chiến xa, và đặc biệt, Tướng Tư lệnh đến nói chuyện với
đơn vị nhiều lần để động viên tinh thần quân sĩ. Thật là không mấy dễ
khi cả Vùng 1 và Vùng 2 đều đã lọt vào tay giặc, tuyến phòng ngự mạnh ở
Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy cũng thất thủ, dân tỵ
nạn từ ngoài Trung chạy vào, hết đợt này đến đợt khác, chính quyền Long
Khánh phải lập trại tỵ nạn gần ngã ba Tân Phong. Lẫn lộn trong đoàn
người tỵ nạn, có một số quân nhân bỏ ngũ, sự việc này dễ ảnh hưởng xấu
đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ, thế mà tinh thần các chiến binh Sư
đoàn 18BB vẫn không lung lay.
- Trước khi trận đánh khai diễn, Tiểu đoàn 18 Quân Y, Bệnh xá Sư đoàn, thân nhân, và gia đình binh sĩ được di chuyển về hậu cứ Sư đoàn ở Long Bình.
Sự thất bại của Quân đoàn II trong cuộc
hành quân triệt thoái trên đường 7B là vì lẫn lộn trong đoàn quân, có
nhiều đàn bà, trẻ em thuộc gia đình binh sĩ, và nhiều thường dân đi theo
(có đến 400 ngàn dân vùng Cao Nguyên chạy lánh nạn cộng sản–theo Nguyễn
Đức Phương/CTVNTT), nên đã làm vướng bận các đơn vị quân đội. Các đơn
vị khó xoay xở lúc chiến đấu.
Rút kinh nghiệm từ sự thất bại trên đường
triệt thoái ở Vùng 2 và Vùng 1, Tướng Đảo đã cho TĐ18QY, Bệnh xá Sư
đoàn, thân nhân và gia đình binh sĩ di chuyển về hậu cứ Long Bình từ
trước khi xảy ra trận chiến. Tuy nhiên khó khăn cũng phát sinh khi Quân
Dù bị vướng bận dân chúng hai ấp Bảo Định và Bảo Bình lánh nạn Cộng sản,
gồng gánh đi theo. Quân Dù vừa đánh giặc, vừa phải bảo vệ dân, nên đã
chịu một số thiệt hại.
- Nhưng yếu tố quan trọng hơn hết là do vị chủ soái, Tướng Lê Minh Đảo cùng chịu gian nguy với quân sĩ. Ông không xử dụng trực thăng C&C để chỉ huy từ trên cao, mà di chuyển bộ cùng quân sĩ.
Trong cuộc Hành quân Lui binh từ Xuân Lộc
đi Bà Rịa, và cuộc Lui binh lần thứ hai từ Long Bình về Thủ Đức, Tướng
Đảo và Bộ Tham mưu đã di chuyển bộ cùng đoàn quân. Việc vị chủ soái dấn
thân cùng chịu gian nguy như quân sĩ dưới quyền là một trong những yếu
tố thắng lợi.
3/- HẬU QUẢ:
Theo tâm lý thông thường của người chiến
binh, đang đánh nhau, ở trong thế mặt đối mặt mà rút lui không đánh nữa,
là đã thất bại. Cuộc hành quân Lui binh dù tốt đẹp, đã gây ảnh hưởng
tâm lý không tốt đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ.
Quân và dân VNCH cứ lui, lui dần từ Quảng
Trị, qua Duyên hải Miền Trung, đến Hàm Tân. Rồi Xuân Lộc cũng bỏ. Người
dân Biên Hòa cũng đang tìm cách lánh nạn Cộng sản về Sàigòn. Cảnh tượng
như đàn cá đang bị lùa vào rọ. Sàigòn thất thủ chỉ là vấn đề thời gian.
VIII- NHẬN XÉT
1/- LINH HỒN TRẬN CHIẾN XUÂN LỘC
Có người nói, “mạnh quân, mạnh chi
tướng”. Đúng. Chiến thắng Xuân Lộc là chiến thắng của tất cả người dân
Xuân Lộc, tất cả những chiến binh tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc.
Chính vì thế mà trước khi Sàigòn thất thủ, Bộ TTM/QLVNCH đã ban hành Sư
Vụ Văn Thư về việc vinh thăng một cấp cho tất cả những người lính tham
dự trận chiến Xuân Lộc. Riêng Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn
18BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc đã được Tổng thống Trần Văn Hương
vinh thăng cấp Thiếu tướng ngày 25.4.1975.
Trong những loạt đạn pháo đầu tiên của
giặc bắn vào Xuân Lộc khi mở cuộc tấn công vào lúc sáng sớm ngày
9.4.1975, vài trái đạn xuyên qua mái nhà, rớt trúng ngay phòng ngủ của
Tướng Đảo. Nếu Tướng Đảo bị tử vong ngay lúc đó thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Một lần khác, ngay sau khi phái đoàn báo
chí Tây phương rời Xuân Lộc, pháo binh cộng quân đánh hơi, đã trút trận
mưa pháo tàn bạo vào nơi Tướng Đảo vừa tiếp phái đoàn. Ông bị một mảnh
đạn pháo ghim vào cánh tay. Nếu mảnh đạn trúng ngay chỗ hiểm, ông phải
tản thương, thì trận chiến có diễn tiến thuận lợi như đã xảy ra?
Không ai có thể phủ nhận Tướng Đảo là
linh hồn của Trận chiến Xuân Lộc. Chính quyền Hànội đã nhốt ông 17 năm
trong các trại giam từ Nam ra Bắc. Bởi vì ông là “Đạo diễn” của Chiến
thắng Xuân Lộc. Hay nói một cách khác, ông là “Người Hùng Xuân Lộc”,
cũng như Tướng Lê Văn Hưng là “Người Hùng An Lộc”. Nhưng ông không muốn
gọi là người hùng. Ông nói: “Xin đừng gọi tôi là người hùng. Những
người lính của tôi hy sinht tại Xuân Lộc và hàng trăm trận chiến trước
đó mới thật sự là những Anh Hùng.”
Nói như George Jay Veith, một sử gia
người Mỹ, “Không cần gọi Lê Minh Đảo là người hùng. Những sự thật tự nó
đã nói lên điều đó”- There is no need to call Le Minh Dao a hero. Some
truths are self-evident. (Fighting Is An Art).
2/- PHÁO BINH CSBV:
Người mù đi đường cần có cây gậy chỉ
đường. Bắn pháo cần có Sĩ quan Tiền sát để chỉ điểm và điều chỉnh đạn
sao cho trúng mục tiêu, không rơi vãi ra ngoài vừa tốn đạn vừa gây thiệt
hại hoa màu và nhà cửa của dân chúng. Sĩ quan QLVNCH dù không thuộc
Binh chủng Pháo binh, đều được huấn luyện về cách gọi pháo và điều chỉnh
pháo. Nếu không có các toán tiến sát viên đi theo, người sĩ quan QLVNCH
cũng biết cách gọi pháo và điều chỉnh pháo. Mỗi Tiểu đoàn Bộ binh chỉ
được cung cấp 1 Toán Tiền sát Pháo. Do đó các Sĩ quan cấp Trung đội hay
Đại đội đều phải biết cách điều chỉnh pháo. Một phóng viên Tây phương
khi đến thăm mặt trận Xuân Lộc ngày 13.4 đã không ngớt ca ngợi trình độ
tác chiến tuyệt vời của Sĩ quan QLVNCH, nhất là cách gọi phi pháo yểm
trợ. Quân CSBV thì không được như thế. Trình độ tác chiến thấp kém, vì
chủ trương “hồng hơn chuyên”. Ngay cả tên Tư lệnh Quân đoàn là Thiếu
tướng Hoàng Cầm cũng chỉ mới biết đọc và biết viết! Trong những ngày vây
hãm Sàigòn, pháo giặc bắn bừa bãi vào khu dân cư, trường học, bệnh
viện, và phố xá. Trại David trong phi trường Tân Sơn Nhất, nơi cư ngụ
của Phái đoàn CS, cũng bị “ăn” pháo của chúng, đã gây thiệt mạng cho 1
đại úy, 1 thượng sĩ, và 5, 6 “đồng chí” khác trong đó có 1 trung tá!
Sư đoàn 341/CSBV của Đại tá Trấn Văn Trấn
khi được lệnh đánh Xuân Lộc đã gửi 2 toán tiền sát pháo tiếp cận mục
tiêu cho hai mũi tấn công chính của hắn. Một cho hướng tấn công của
Trung đoàn 270 vào căn cứ hỏa lực Núi Thị, và một cho hướng tấn công của
Trung đoàn 266 vào thị xã Xuân Lộc. Mặc dù pháo binh đồi dào, nhưng
hiệu quả kém, vì “tai mắt” của chúng đã bị tiêu diệt ngay từ khi trận
chiến mới bắt đầu hoặc chưa bắt đầu.
Toán tiền sát pháo cho hướng tấn công vào
Núi Thị đã bị Trung đội BK/TĐ2/43 tiêu diệt gọn tại Núi Ma (một cao
điểm đối diện với Núi Thị) ngay trước giờ trận đánh mở màn. Do đó pháo
địch đã không gây ảnh hưởng gì đến giàn pháo hùng hậu của quân bạn tại
đây. Chỉ có vài loạt đạn pháo bắn vu vơ rơi vào BCH/TĐ, hai pháo đội đặt
ở thế đất thấp bên dưới, và một pháo đội đặt ở chân núi. Hầu hết pháo
giặc bắn qua đầu, rơi vào rừng cao su, và tuyến phòng thủ của Đại đội
3/2. Cũng chính vì vậy mà đơn vị này bị thiệt hại do pháo giặc nhiều
nhất, đã gây tử thương cho 1 Đại úy ĐĐT, 1 Thiếu úy ĐĐP, và nhiều binh
sĩ.
Toán tiền sát pháo cho hướng tấn công vào
thị xã, đã xâm nhập vào được bên trong, đặt tại một căn gác nhà dân,
cách Tư dinh Tướng Tư lệnh lối 500 mét. Những loạt đạn pháo đầu tiên
được toán tiền sát này điểu chỉnh trúng ngay ngôi nhà đặt làm BTL/TP và
TTHQ/SĐ. Nhưng toán Viễn thám Đại đội 18 Trinh sát của Đại úy Phạm Hữu
Đa phát hiện được. Những người lính dũng cảm của Đa liền bò đến gần, chỉ
hai trái M.72, đã tiêu diệt gọn toán tiền sát giặc, đếm được 10 tên. Từ
đó, pháo giặc không rơi vào vào Dinh Tư lệnh nữa, mà rơi bừa bãi vào
khu nhà dân, khu trường học, khu bến xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc.
3/- QUỐC LỘ 1 CÓ THỂ ĐƯỢC KHAI THÔNG:
Quân đoàn 4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng
Cầm chỉ có 1 Trung đoàn xe tăng, gồm các loại PT-76 (tương đương với
M.113) và T.54 (tương đương với M.41). Trong ngày đầu của trận chiến,
Trung đoàn xe tăng này tăng cường cho mũi tấn công Sư đoàn 7 ở hướng
Đông thị xã Xuân Lộc. Sau ba ngày giao tranh, một số lớn xe đã bị tiêu
hủy.
Lữ đoàn 3 Xung Kích của Chuẩn tướng Trần
Quang Khôi rất mạnh. LĐ có khoảng 250 xe gồm M.113, M.41 và M.48 (quân
CSBV chưa có loại xe tương đương).
Ngày 9 tháng Tư, khi quân CSBV tấn công
Xuân Lộc, TĐ1/52 và CĐ52 vẫn giữ vững ngã ba Dầu Giây. Tiểu đoàn 2/43
vẫn kiểm soát một khu vực rộng lớn từ xã An Lộc (gần đèo Mẹ Bồng Con),
sân bay đồn điền cao su, đến cánh rừng cao su chạy sát vòng đai phía Tây
– Bắc thị xã.
Quân CSBV chỉ có 1 Tiểu đoàn của Trung
đoàn 33/Sư 6 tiến đánh Hưng Lộc và Hưng Nghĩa. Lực lượng NQ và Nhân dân
Tự vệ ở đây đã chống trả quyết liệt. Sau đó giặc chỉ chiếm được xã Hưng
Lộc. Một Tiểu đoàn khác tiến đánh ấp Phan Bội Châu. Trung đoàn 274 tiến
đánh một phần ấp Trần Hưng Đạo (chỉ có 1 Trung đội NQ bảo vệ), và Đèo Mẹ
Bồng Con. Địa thế ở đây rất thuận lợi cho giặc tổ chức hệ thống kiềng
chốt. Một con suối chảy qua, nối liền Núi Ma ở phía Bắc QL.1 và cánh
rừng cao su đồn điền de Suzannah ở phía Nam.
Nhưng lực lượng mạnh của LĐ3XK (có 3 Tiểu
đoàn BĐQ tùng thiết) của Tướng Khôi và Trung đoàn 8/Sư đoàn 5BB của
Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng, thiết nghĩ việc khai thông QL.1 là khả
thi. Nhưng BTL/QĐIII đã không có một kế hoạch nào để giải tỏa. Và LĐ3XK
của Tướng Khôi chỉ bố trí quân từ Trảng Bom ra đến Bầu cá.
4/- NGÃ BA DẦU GIÂY GIỮ ĐƯỢC, CĐ52 KHÔNG TAN, NẾU:
Khi CĐ52 của Đại tá Dũng bị quân CSBV tấn
công ngày 15.4, LĐ3XK của Tướng Khôi được lệnh cứu viện. Tướng Khôi và
Tướng Đảo nói chuyện với nhau phải qua trung gian của TĐT/TĐ2/43 ở tại
điểm cao Núi Thị. Qua cuộc điện đàm của hai vị Tướng, TĐT/TĐ2/43 không
thấy một tia hy vọng nào cho cuộc cứu viện. Quân của Tướng Khôi đã bị
Trung đoàn 33/Sư 6/CSBV chận lại tại phía Bắc Hưng Nghĩa, cho đến khi
CĐ52 tan hàng!
Nếu LĐ3XK quyết tâm cứu viện, quân bạn có
thể chiếm lại ngã ba Dầu Giây và cứu được CĐ52. Chiếm lại ngã ba Dầu
Giây, lập tuyến phòng ngự mạnh tại đây thì đã ngăn chận được quân CSBV
tiến xuống từ Cao Nguyên theo QL.20.
5/- NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA QUÂN CSBV:
Bọn đầu sỏ của giặc mang tính chủ quan.
Chúng “cứ nghĩ là sau một trận pháo kích kinh hoàng (mà kinh hoàng
thật!), nghe tiếng xích xe tăng là tàn quân địch phải tháo chạy, nhưng
không ngờ địch không chạy mà tử thủ, thành ra tấn công 2, 3 đợt không
thành mà lại thiệt hại lớn.” Điều này cũng dễ hiểu vì chúng dễ dàng tiến
công qua Vùng 1 và Vùng 2. Quân giặc đã đi qua những tỉnh thành đã bỏ
ngõ, không tốn một viên đạn! Vì không có lực lượng chống trả, hay không
được lệnh chống trả, mà chỉ triệt thoái lui binh. Tại Nhatrang tỉnh
Khánh Hòa, quân ta đã rút đi trước khi giặc đến. Thành phố vô chính phủ
hỗn loạn, thân hào nhân sĩ phải thành lập phái đoàn đi ra tận đèo Rù Rì
mời giặc vào tiếp quản! Chính vì vậy mà Văn Tiến Dũng đã ba hoa: “Cán
bộ tham mưu không vẽ kịp bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội” (lời nói
khoác lác của Văn Tiến Dũng khi bộ đội của hắn chưa vào đến Xuân Lộc).
Nhưng có lẽ Tướng Võ Nguyên Giáp và BTTL của ông tại Hànội có cái nhìn
hiểu biết hơn, đã điện vào yêu cầu dừng lại, chờ lực lượng bổ sung vào,
nhưng không kịp. Sự nôn nóng của đám Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Phạm
Hùng và Trần Văn Trà muốn lập công sớm đã dẫn đến tổn thất nặng nề.
Không chiếm được Xuân Lộc, chúng phải thay đổi kế hoạch tấn công Sàigòn
như dự định.
Vì mang tính chủ quan, CSBV đã thất bại
nặng nề khi đụng phải TUYẾN THÉP XUÂN LỘC (Đại tá Hứa Yến Lến,
TMT/HQ/SĐ18BB, QLVNCH), hay CÁNH CỬA THÉP (cách gọi của Tướng Lê Nam
Phong, cựu Sư trưởng Sư 7/QĐ4/CSBV) : “Chỉ trong 3 ngày đầu chiến
đấu đã có 1.500 cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 341 và Sư đoàn 7 thuộc Quân
đoàn 4 bị thương vong. Ngoài ra còn 3 xe tăng bị bắn cháy, 3 xe bị bắn
hỏng. Nghiêm trọng hơn là toàn bộ pháo 85 và 57ly đều hỏng”. (Thư viện Đồng Nai, VN).
6/- QUÂN CSBV ĐÔNG NHƯNG KHÔNG MẠNH:
Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng Hoàng Cầm
chỉ huy dù đông, vũ khí hiện đại, đạn dược dồi dào, nhưng không mạnh.
Hai Sư đoàn tấn công trực diện vào Sư đoàn 18BB (-), chỉ có Sư đoàn 7 là
được, còn Sư đoàn 341 thì quá tệ. Đơn vị này mặc dù được trang bị vũ
khí hiện đại, nhưng kinh nghiệm chiến đấu không có. Đa số bộ đội đều ở
độ tuổi vị thành niên, vừa mới bị bắt vào lính với cái tên gọi đẹp đẻ là
“Trúng tuyển Nghĩa vụ Quân sự”, nên đã dễ dàng đại bại trước những
chiến binh dũng cảm và giàu kinh nghiện chiến trường của Sư đoàn 18BB.
Quân CSBV thường áp dụng chiến thuật BIỂN
NGƯỜI, một chiến thuật mà quan thầy Trung cộng vĩ đại của chúng đã áp
dụng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Tại trận đánh mở đầu Định Quán
hồi tháng 3.1975, TĐ2 Trung đoàn 141/CSBV do chính tên Trung đoàn phó Bé
Ích Quan trực tiếp chỉ huy, đã “nướng” hết đơn vị này khi hắn liên tục
tổ chức những đợt tấn công biển người vào vị trí của TĐ2/43, SĐ18BB, bị
những trái đạn chống biển người đốn ngả.
Do đó ta không phải sợ thế giặc đông. Nếu ta quyết chiến, có đầy đủ vũ khí đạn dược, nhất định ta sẽ thắng chúng.
7/- TRÌNH ĐỘ TÁC CHIẾN CÁC CẤP CHỈ HUY CSBV:
Các cấp chỉ huy quân CSBV có trình độ tác
chiến dưới mức trung bình, nếu không muốn nói là quá tệ. Chúng chỉ biết
“Trung với Đảng, hiếu với Dân”, học thuộc như con vẹt, nhưng không hiểu
gì. Về tác chiến, trình độ của chúng thật thấp kém. Cấp chỉ huy từ cấp
Đại đội trưởng trở lên, có thể chưa học hay học rồi mà không kịp tiêu
hóa, đã không biết cách phối hợp “Nhị thức Bộ binh – Thiết giáp”, theo
cách gọi của chúng là “Hợp đồng Binh chủng”. Chính vì thiếu phối hợp,
quân CSBV không tận dụng được ưu điểm của thiết giáp. Điển hình tại mặt
trận An Lộc hồi mùa hè đỏ lửa 1972 và tại Xuân Lộc tháng Tư năm 1975. Xe
tăng CS tấn công khơi khơi, lẻ loi, không biết phối hợp cùng bộ binh để
có sự yểm trợ hỗ tương, nên đã là những miếng mồi ngon cho đối phương.
Các mũi tiến công của Quân đoàn 4/CSBV
hoàn toàn bị bẻ gãy. Chúng không chiếm được phần đất nào của thị xã Xuân
Lộc. Các cấp chỉ huy của quân CSBV chỉ biết làm theo lệnh một cách mù
quáng. Khi gặp tình huống khó khăn, đám cán bộ chỉ huy này không biết
xoay xở, hay nói theo ngôn ngữ quân sự là “trường hợp xử trí”. Bọn chúng
đã hoàn toàn lúng túng cho đến khi bị tiêu diệt.
Ngày đầu tiên của trận chiến, chỉ có vài
đơn vị nhỏ bộ đội thuộc Trung đoàn 266/Sư 341 xâm nhập vào khu chợ Xuân
Lộc và bến xe Long Khánh. Nhưng chúng chỉ cố thủ được một thời gian
ngắn, sau đó bị Tiểu đoàn 1/43 phối hợp cùng lực lượng ĐPQ/LK đánh bật
ra ngoài. Một số đi lạc vào khu phố và trường học thì bị Đại đội 18
Trinh sát của Đại úy Phạm Hữu Đa tiêu diệt hoặc bắt sống. Mũi tiến công
Trung đoàn 209/Sư 7 từ hướng Nam thị xã, quặt lên sân bay, thì bị các
chiến sĩ mũ nâu chận lại, đánh cho tan tành. Nhiều xe tăng giặc bị bắn
cháy. Tại Núi Thị, Trung đoàn 270/Sư 341 đã không mò đến được chân núi.
Chúng bị chận lại từ tuyến phòng thủ ngoài cùng. Bị đạn pháo bắn cho tan
nát, sau đó phải rút lui. Tên thủ trưởng đơn vị này đã không biết cách
điều động quân, không biết cách đánh, nên đã chuốc lấy thảm bại.
Núi Thị là một cao điểm quan trọng. Đáng
lý Hoàng Cầm phải ưu tiên tiêu diệt căn cứ hỏa lực này trước khi dốc
toàn lực đánh Xuân Lộc. Nhưng cả Hoàng Cầm và tên Sư trưởng Sư 341 Trần
Văn Trấn ngu ngốc khi thấy Trung đoàn 270 bị thiệt hại không đánh được
Núi Thị, đã cho lệnh rút ra tăng cường cho cánh quân 266 đánh vào thị
xã. Chúng đã bỏ mất một cơ hội tốt.
Tướng Hoàng Cầm từng là cán bộ cấp Trung
đoàn, tham dự trận đánh Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, nhưng Hoàng Cầm
đã không rút tỉa được kinh nghiệm gì ngoài chiến thuật “tiền pháo hậu
xung” và tấn công “biển người”. Nếu không có các Tướng Tàu cộng làm cố
vấn, thực tế là cầm quân chỉ huy, Tướng Giáp đã bỏ cuộc sau khi nướng
hết 23 ngàn quân trên tổng số 33 ngàn quân. Nhưng Tướng Tàu Vi Quốc
Thanh quyết định đánh tiếp với 25 ngàn quân khác, và cuối cùng đã chiến
thắng Pháp.
8/. TÙ BINH CSBV ĐƯỢC QUÂN TA ĐỐI XỬ NHÂN ĐẠO:
Vào khoảng 50 tù binh CSBV bị bắt tại mặt
trận Xuân Lộc. Phần lớn đám tù binh thuộc Sư đoàn 341, ở độ tuổi 16 hay
17. Bọn chúng là đám dân quê của các tỉnh Thanh – Nghệ – Tĩnh bị cưỡng
bách đi bộ đội với một cái tên hoa mỹ: “Trúng tuyển nghĩa vụ quân sự!”.
Đám lính mới này chưa được huấn luyện thì đã theo đoàn quân vào Nam.
Trình độ tác chiến rất kém, nếu không muốn nói chúng chỉ là đoàn quân ô
hợp. Tên Sư trưởng, Đại tá Trần Văn Trấn cũng không khá hơn. Hắn là tù
binh được ngụy trang kỹ, khai chỉ là một y tá, được trao trả ngay trong
đợt đầu tiên năm 1973. Sư đoàn tồi tệ của hắn bị thiệt hại nhiều nhất,
lại lãnh thêm 2 trái bom BLU-82.
VNCH luôn luôn tôn trọng Quy ước Genève
về Tù binh. Mỗi quân nhân QLVNCH đều được học tập về cách đối xử nhân
đạo với tù binh, theo đúng những điều khoản ghi trong Quy ước. Năm 1957,
nhà cầm quyền CSBV đã ký vào Quy ước Genève về Tù binh. Ký thì ký,
nhưng chúng không bao giờ tôn trọng những gì chúng ký kết. Bọn họ chỉ là
thổ phỉ, đã đối xử rất tàn bạo và dã man mỗi lần quân nhân ta sa cơ
thất thế bị lọt vào tay chúng. Chúng bỏ đói, bắt lao động khổ sai, hành
hạ đủ điều, khiến nhiều người đã bỏ mình trong các trại lao tù cộng sản.
Ngoài Quy ước Genève, điều 5 trong Sáu Điều Tâm Niệm của Người Lính VNCH ghi:
“Tôi luôn đối xử tử tế với tù
hàng binh địch (VC), không ngược đãi đánh đập họ, không đụng đến của
riêng họ, để thêm bạn bớt thù”.
Những tù binh CSBV bị bắt tại mặt trận
Xuân Lộc, trước khi được chuyển về Biên Hòa, đã được Sư đoàn nuôi ăn chu
đáo. Tướng Lê Minh Đảo đã chỉ thị Sĩ quan Tiếp liệu xuất kho khẩu phần
lương khô của đơn vị để nuôi ăn tù binh. Những tù binh bị thương nặng,
không tự tay dùng cơm, thì được binh sĩ ta chăm sóc như một “vú em!”
9/. LỮ ĐOÀN 1 DÙ TĂNG VIỆN CHO XUÂN LỘC LÀ ĐỂ PHẢN CÔNG ĐỊCH:
Quân đoàn 4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng
Cầm đã tung 2 Sư đoàn 6 và 341 tấn công thị xã Xuân Lộc chỉ có 1 Sư đoàn
18BB (-), nhưng sau 3 ngày giao chiến, quân của Cầm vẫn bị cầm chân bên
ngoài thị xã, không chiếm được một tấc đất nào, còn bị thiệt hại nặng.
Các chiến binh SĐ18BB, TĐ82BĐQ, ĐPQ và NQ/LK đã chiến đấu rất anh dũng,
luôn luôn giữ vững tay súng.
“Lúc địch quân bắn 3.000 quả đạn đại
bác vào Xuân Lộc thì Tướng Đảo không có mặt tại đó. Nhưng ông đã nhanh
chóng đến nơi lúc binh sĩ của ông đang giao tranh tại đường phố để kiểm
soát thị xã. Hỏa lực của hai bên đều rất dữ dội…Trận đánh kéo dài từ
ngày này qua ngày nọ và cứ thế…Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một
trận quyết liệt…CS tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. SĐ18BB vẫn tiếp
tục chống cự. Ngày 10.4.75, Cộng quân đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy
lui. Ngày 12.4.75, quân CSBV vẫn không tiến thêm được chút nào. Hai
Trung đoàn của Quân đội Nam Việt Nam (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48)
không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công giữ dội hơn. Thêm
3.000 quả đạn đại bác nữa rót vào Xuân Lộc xé nát mọi vật. SĐ18BB vẫn
đứng vững…”
(A. Dawson, Trưởng phòng Thông tin của UPI tại Sàigòn)
Ngày 12 tháng Tư, Xuân Lộc được
tăng viện. LĐ1 Dù gồm các Tiểu đoàn 1, 8, 9, TĐ3PBDù, ĐĐ1TSDù, ĐĐ3CB,
ĐĐ1QYDù được trực thăng vận vào mặt trận, đặt dưới quyền chỉ huy của
Tướng TL/SĐ18BB. Ngay khi vừa đặt chân xuống Xuân Lộc, quân Dù đã mở
ngay cuộc hành quân thế công diệt địch.
Hoạt động của quân Dù tại Xuân
Lộc hoàn toàn trong thế công. Quân Dù nhảy vào Xuân Lộc không phải để
cứu Sư đoàn 18BB khỏi bị tiêu diệt. Vì khi quân Dù chưa đến, Xuân Lộc
vẫn đứng vững. Không những thế, đã chận đứng tất cả các mũi tiến công,
và đánh bại quân xâm lăng CSBV. Trong ba ngày đầu: 9, 10, và 11, Sư 7
của Lê Nam Phong bị hạ sát 300 tên; Sư 341 của Trần Văn Trấn bị 1200
tên; 9 xe tăng bị bắn cháy, toàn bộ pháo 85 ly và 57 ly bị tiêu hủy. Khi
quân Dù nhảy vào, lực lượng CSBV từ thế công đã phải chuyển qua thế
thủ. Đơn vị này suýt bắt sống toàn bộ 1 Tiểu đoàn của Trung đoàn 141.
Sau những trận phản công quyết liệt, các Tiểu đoàn 1, 2 và Đại đội Trinh
sát của Trung đoàn 141 đã bị quân Dù xóa sổ.
10/- LỪA DỐI:
Khi nghe tin “Sài Gòn được giải phóng”,
người dân Miền Bắc và người dân Hà Nội đã bật khóc như những đứa trẻ,
vì nghĩ rằng sẽ không còn chiến tranh, nghĩa là sẽ không còn chết chóc,
không còn ly biệt, và những hệ lụy khổ đau nó mang lại. Từ nay sẽ không
phải “hạt gạo cắn làm tư” (cho miền Bắc, cho miền Nam, cho
Campuchia, và cho Lào). Con, em, chồng, cha của họ sẽ không phải “sinh
Bắc tử Nam”. Nhưng họ không bao giờ biết rằng cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn diễn ra trong hơn 20 năm qua là do những nhà lãnh đạo hiếu
chiến phát động, với mưu đồ nhuộm đỏ nốt Miền Nam theo lệnh của Đệ Tam
Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản của ông ta tự nguyện
làm tên lính xung kích cho Nga, cho Tàu. Tên Tổng Bí thư Cộng đảng Lê
Duẫn từng huỵch toẹt tuyên bố: “Ta đánh đây là cho Liên Xô, cho Trung Quốc!”
Nhưng họ Hồ và đảng cộng sản của ông ta đã dối trá khi tuyên truyền
rằng đồng bào Miền Nam bị “Mỹ – Ngụy” kềm kẹp, do bất mãn, đã nổi dậy.
Già Hồ nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Từ đó, Miền Bắc có nghĩa vụ phải giải phóng Miền Nam. Những lời nói dối
trá đó cứ lặp đi lặp lại, kiểu như câu chuyện “Tăng Sâm giết người”, đã
động viên được lòng yêu nước của toàn dân và toàn quân để tiến hành một
cuộc chiến tranh vô nghĩa.
Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu từng nói:
“Đừng nghe những gì Cộng sản nói,
Hãy nhìn những gì Cộng sản làm”.
Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsyn nói:
“ Khi thấy thằng CS nói láo, ta phải
đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải
đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo. Nếu ta không can đảm bỏ
đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại những lời nó đã nói láo
với người khác.”
Từ sau năm 1945, trong dân gian vẫn truyền tụng câu: “Nói dối như VẸM”. Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối. Gian dối để sống còn. Ở mức độ cao, nói dối cấp nhà nước thì càng tệ hại hơn.
Trận chiến cuối cùng Xuân Lộc,
Quân đoàn 4/CSBV dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã thảm
bại nặng nề. Nhưng nhà cầm quyền CSBV vẫn tuyên truyền rằng chúng chiến
thắng. Lịch sử được viết lại. Chúng tha hồ vẽ rắn thêm chân. Những tên
nhà văn vô liêm sĩ, điển hình là Bảo Ninh, chỉ tưởng tượng mà viết lếu
láo. Đúng là bọn văn nô. Chúng chỉ dám “viết theo lề phải”, kiểu “Con
ngựa già của Chúa Trịnh” của nhà văn Phùng Cung trong Nhân Văn Giai
Phẩm.
Tại Xuân Lộc tháng Tư năm 1975,
QLVNCH đã thắng lớn quân CSBV, đã hạ sát tại trận 6.000 bộ đội “cụ Hồ”,
bắt sống 50 tên “Sinh Bắc Tử Nam”, bắn cháy 37 xe tăng do Nga Sô chế
tạo, tịch thu và phá hủy nhiều vũ khí đạn dược. Thất bại của quân CSBV
là hiển nhiên. Nhưng các tên chỉ huy giặc tại mặt trận này vẫn được
thăng cấp, tiến chức. Việc làm này của CSBV là để đánh lừa dư luận quốc
tế và quốc nội. Nói dối riết trở thành thói quen. Chúng đã có ảo tưởng
là thắng trận.
Một người dân Xuân Lộc sinh ra sau
ngày 30.4.1975, lớn lên dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đi học Tiểu học,
Trung học tại Xuân Lộc, và Đại học tại Sàigòn. Hiện giờ là Giám đốc một
Công ty lớn ở Việt Nam, có dịp đi ra ngoại quốc, có dịp tiếp xúc với
người Việt tỵ nạn, cho người viết biết:
- Trong một bài đọc thêm của cuốn “Lịch sử lớp 10” (bây giờ là lớp 12), do nhà xuất bản Giải Phóng, xuất bản năm 1975, tác giả bài viết nêu đích danh tên người chỉ huy Núi Thị là một kẻ chống phá “Cách Mạng” điên cuồng, có nhiều nợ máu với nhân dân, ngoan cố không chịu đầu hàng. (Có thể tác giả bài viết là tên cán binh vào tầng số Tiểu đoàn tuyên truyền kêu gọi TĐ2/43 đầu hàng đêm 20.4 rạng ngày 21.4 tại Núi Thị).
- Một cuốn phim tài liệu (CS gọi là tư liệu) của Xưởng Phim Giải Phóng chiếu cảnh bộ đội Đặc công cùng đơn vị thuộc Sư đoàn 341 tấn công Núi Thị, đã hạ sát hàng trăm tên “ngụy”, bắt sống nhiều binh lính và sĩ quan, trong đó có tên chỉ huy, phá hủy nhiều khẩu pháo 105ly, 155ly và nhiều đạn dược. Cảnh trong phim diễn tả phù hợp với lời viết dối trá của Thượng tướng Trần Văn Trà trong cuốn Hồi ký ‘Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm’:
“Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”
Sự thật khi Toán Đặc công hướng
dẫn đơn vị thuộc Sư đoàn 341 tấn công Núi Thị lần thứ hai, sau khi
TĐ1/52 bị thất thủ ở ngã ba Dầu Giây, tên ĐĐT mang quân hàm Thiếu úy, và
nhiều bộ đội đặc công bị hạ sát khi mới mon men đến gần vị trí của
ĐĐ1/2 tại tuyến phòng thủ dưới chân núi. Trung đoàn 270 mở nhiều đợt tấn
công biển người, nhưng vẫn không chọc thủng được tuyến phòng thủ, đành
phải rút lui khi trời sáng.
- Hàng năm Chính quyền CSVN vẫn làm lễ Chiến thắng Xuân Lộc (nếu bọn cầm quyền CSVN còn chút lương tâm, nên đổi lại là Lễ Tưởng niệm Chiến bại). Báo chí viết lếu láo đã đành, vì mục đích tuyên truyền, viết theo lề phải! Nhưng chúng còn viết sử láo khoét đầu độc thế hệ trẻ. “Người dân Xuân Lộc” kể chuyện đã phải học bài sử láo khoét do chúng dựng chuyện. Đó là bài Lịch sử Địa phương dạy ở các trường tại Xuân Lộc:
“Chiến dịch Long Khánh mở màn lúc 5
giờ sáng ngày 6-4-1975 (sai: 5 giờ 40 ngày 9.4.1975). Sau loạt đạn pháo
của ta bắn vào nội ô Thị xã, Chi khu Tân Phong, khống chế pháo địch tại
Núi Thị (sai: Pháo Núi Thị vẫn hoạt động bình thường), đến đúng 10 giờ
30 phút cùng ngày, các đồng chí…thuộc mũi Xung kích sư đoàn 341 do đồng
chí Đại tá Trần Văn Trấn chỉ huy đã cắm cờ trên Toà hành chánh, trung
tâm đầu não tỉnh Long Khánh (sai: chúng chỉ cắm cờ tư dinh Tỉnh trưởng
do vài Nghĩa Quân canh gác)…
Sau khi Tòa hành chánh bị thất thủ
lúc 11 giờ ngày 9-1-1975 (sai: giả dụ có thất thủ thì phải là ngày
9.4.1975), Bộ chỉ huy Sư đoàn 18 do tên Chuẩn tướng Lê Minh Đảo chỉ huy
không chờ lệnh cấp trên bỏ chạy ra Chi khu Tân Phong….(không phải bỏ
chạy mà di chuyển đến một vị trí dự phòng khác. Khi chuẩn bị chiến
trường Xuân Lộc, Tướng Đảo đã cho Công binh Sư đoàn thiết lập Trung tâm
Hành quân Sư đoàn tại nhiều địa điểm. Trong đó có một tại Núi Thị, và
một tại Tân Phong).
- Kết quả ta thu được trong chiến dịch:
- Diệt được 2056 tên địch (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48 cộng lại lối 3.000, vậy là chúng đã loại được 2 trung đoàn!).
- Bắt sống 2783 tên (trong đó có tên Đại tá Phúc, Tỉnh trưởng Long Khánh) (sai: chỉ có Đại tá Phúc và vài cận vệ bị bắt trên đường lui binh).
- Tiêu diệt gọn 6 Tiểu đoàn (nếu vậy thì 6 Tiểu đoàn của Trung đoàn 43 và 48 đều bị tiêu diệt).
- Thu 48 xe vận tải các loại; 1499 súng các loại trong đó có 10 khẩu pháo 105ly, 4 khẩu 155ly và 1000 viên đạn pháo (sai: chỉ có 2 khẩu pháo 105ly tại Núi Thị do chính TĐT/TĐ2/43 ra lệnh phá hủy trước khi lui binh).
- Phá hủy 16 xe GMC, 42 xe tăng thiết giáp, 3 máy bay và nhiều đạn dược (trừ 1 Chi đoàn M.113 của Đại úy Vũ Đình Lưu + 1 Chi đội chiến xa M.41 bị thiệt hại nặng nhưng chưa phải là “cháy túi”. Nếu 42 xe bị phá hủy thì Thiết đoàn 5(-) của Trung tá Trần Văn Nô đã sạch túi! Tại mặt trận Xuân Lộc không có máy bay nào bị thiệt hại.)
IX- DƯ LUẬN VỀ TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG XUÂN LỘC
Chiến trận Xuân Lộc bùng nổ
với tương quan lực lượng của hai bên khá chênh lệch. Ban đầu quân bạn
chỉ có 2 Trung đoàn là 43 và 48. Nhưng Tiểu đoàn 2/43 thì trấn giữ cao
điểm Núi Thị, cách xa thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây, nằm ngoài tuyến
phòng thủ của thị xã. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 48 đang tăng phái cho
Tiểu Khu Bình Tuy của Đại tá Trần Bá Thành để bảo vệ tỉnh lỵ Hàm Tân.
Đơn vị này chỉ được kéo trở về khi chiến cuộc đã bước sang ngày thứ hai.
Như vậy bên trong vòng đai phòng thủ của thị xã chỉ có 2 Trung đoàn
(-), Tiểu đoàn 82/BĐQ (đơn vị này chỉ còn lối 200 tay súng, sau cuộc
triệt thoái từ Cao Nguyên Trung phần, và chỉ mới đến Xuân Lộc buổi chiều
ngày hôm trước), Thiết đoàn 5/KB (- CĐ2/5/TK của Đại úy Vũ Đình Lưu
đang hoạt động cùng Trung đoàn 52 trên tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu
Giây). Quân CSBV tấn công vào thị xã gồm toàn bộ Sư 7 của Tướng Lê Nam
Phong, và Trung đoàn 266, qua ngày thứ hai, thêm Trung đoàn 270 (hai đơn
vị này đều thuộc Sư 341 do tên Trần Văn Trấn chỉ huy, cấp bậc Đại tá).
Các đơn vị bộ chiến này được tăng cường Tiểu đoàn xe tăng với các loại
xe T-54 và PT-76 do Liên Xô chế tạo. Theo tác giả Phạm Kim Vinh “Cái
Chết Của Nam Việt Nam”, một quan sát viên Tây phương theo dõi cuộc chiến
đấu của sư đoàn 18 so sánh rằng: “trận đánh này giống như một cuộc
chạy đua 30 cây số, trong đó, một người chỉ có một mình phải chạy hết
quãng đường, trong khi người kia được tới bốn người thay nhau tiếp sức”.
Với tỉ số chênh lệch như vậy, nhưng quân trú phòng đã đánh bật tất cả
các mũi tiến công của cộng quân, giữ vững phòng tuyến. Mãi cho đến buổi
trưa ngày 12.4, Quân đoàn mới cho trực thăng vận Lữ đoàn 1 Dù của Trung
tá Nguyễn Văn Đỉnh vào tăng viện. Chiến thắng thần kỳ của Sư đoàn 18BB
đã làm cho kẻ thù phải khiếp sợ, đồng minh phải nể phục.
1/- ĐỊCH
Tại Lộc Ninh, một quận lỵ nhỏ của tỉnh
Bình Long, lọt vào tay quân CSBV hồi Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, nằm sát
biên giới Việt – Miên. Lộc Ninh được xem như là “Thủ đô” của VC, sau khi
Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của VC, đã “hồ hởi’ tếu khi tuyên
bố trong vòng mười ngày nữa, An Lộc sẽ là “Thủ đô của Chính phủ Lâm
thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”, nhưng không thực hiện được. Lộc Ninh
trở thành sào huyệt của bọn thảo khấu kể từ đó.
Sau khi mở cuộc tấn công Xuân Lộc với
những thuận lợi ban đầu nhờ yếu tố bất ngờ, quân số và vũ khí dồi dào,
vượt hẳn quân trú phòng, đã đạt được vài thắng lợi nhỏ, nhưng kể từ
chiều ngày 10 trở đi, tình hìnhh trở nên căn thẳng. Quân đoàn 4 của
Hoàng Cầm kêu thiếu đạn, thiếu quân số. Vài vị trí chiếm được lần lượt
bị phản công chiếm lại. Có vị trí thay đổi chủ vài lần: Đó khu vực bến
xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc. Đó là chiến trận giữa hai Trung đoàn
thuộc Sư 341 và Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Đổ Trung Chu, Tiểu đoàn 1/48
của Thiếu tá Trần Cẩm Tường, và Chi đoàn 3/5 của Đại úy Lê Sơn.
Tại sào huyệt Lộc Ninh, bọn đầu lĩnh CSBV
với các tên đầu sỏ gồm có Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ chính trị Cộng đảng,
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đảng, một thứ Thái Thượng Hoàng của Triều
đình Đỏ Bắc Việt; Phạm Hùng, Chính ủy; Văn Tiến Dũng, Đại tướng Tổng
Tham mưu trưởng cái gọi là “Quân đội Nhân dân VN’, Tổng chỉ huy quân xâm
lược, rất lo lắng khi thấy quân CSBV bị chựng lại, hoặc bị đẩy lui.
Trận đánh quá ác liệt, các đơn vị bị thương vong nặng. Báo cáo từ mặt
trận cho biết vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căng thẳng (lúc
này Xuân Lộc chỉ được phòng thủ do 2 Trung đoàn (-): TĐ2/48 đang tăng
phái cho Tiểu khu Bình Tuy chưa kịp kéo về. CĐ52 cũng chưa xuất phái
TĐ2/52 cho Xuân Lộc. Quân Dù thì mãi đến ngày 12 tháng Tư mới nhảy vào
mặt trận). Mới đánh nhau chưa được 2 ngày, sao đã kêu thiếu đạn. Tại sao
các Sư 6, 7, 341 kêu thiếu quân số? Tình hình rất gay go.
Lê Đức Thọ: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”.
Văn Tiến Dũng: “Kế hoạch tấn công
Xuân Lộc chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa
đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch…Trận chiến ác liệt và đẩm máu từ những ngày đầu tiên. Các
sư 6, 7, 341 của ta phải tiến công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp
phải sức kháng cự mãnh liệt của Trung đoàn 43 địch quân. Các đơn vị pháo
của ta đã xử dụng nhiều hơn cơ số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị hạ…” (Đại Thắng Mùa Xuân).
Trần Văn Trà: “…vào cuối ngày 10 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng. Địch phản công điên cuồng…” (Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm)
Hoàng Cầm ân hận vì cả Sư đoàn 341 gần
như bị xóa sổ vì bom BLU-82, trách Bộ Tư lệnh Miền B-2 quá hối hả ra
lệnh tấn công Xuân Lộc, trong lúc hắn xin chờ, nhưng Hànội bảo phải đánh
ngay: “Trận đánh muộn kéo theo những khuyết điểm không đáng có.
Việc chuẩn bị trận đánh quá gấp, xác định hướng chủ yếu từ đông –bắc
đánh vào là không chính xác. Đúng đây là phía sau căn cứ sư đoàn 18,
nhưng lại là khu vực phòng thủ rắn của địch, địa hình không thuận lợi,
ta phải từ dưới cánh đồng thấp, ngược sườn đồi đánh lên, phải mở tám,
chín hàng rào kẽm gai, vượt qua hệ thống đường ủi và các vị trị phòng
thủ vòng ngoài mới có thể tiến vào trung tâm, tiến công chiến đoàn 52 và
trung đoàn 5 thiết giáp phòng giữ. Khi phát hiện phía tây-nam, qua cổng
chính tiến vào căn cứ địch có nhiều sơ hở, nhưng không còn lực lượng
đảm nhiệm, vì Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ ở hướng chủ yếu, không thật sung
sức lắm…Khi phát hiện hướng chủ yếu gặp khó khăn, địch tăng cường lực
lượng phản kích quyết liệt đẩy ta ra khỏi thị xã, thế
trận căng thẳng giằng co, lại không kịp thời chuyển hướng, thay đổi cách
đánh. Việc phối hợp các hướng tiến công không thật thích hợp và ăn
khớp…” (Hoàng Cầm, TL/QĐ4 – Chặng Đường Mười Nghìn Ngày).
Đại tướng Phạm Văn Trà, Bộ trưởng Quốc
Phòng, trong một lần tại cuộc Hội thảo “Đại Thắng Mùa Xuân 1975”: ‘Chiến
dịch Miền Đông là tiền đề của chiến dịch Hồ Chí Minh, và trong chiến
dịch này, quân ta bị tổn thất, thương vong khá lớn”. Ít
khi bọn CS thú nhận họ thất bại. Nhưng ở đây, với tư cách là Bộ trưởng
Quốc phòng của chế độ, tại cuộc Hội thảo, hắn đã thú nhận, như vậy sự
tổn thất không phải là nhỏ. Phạm Văn Trà nói tiếp: “Không nói đến chiến
dịch miền Đông, sẽ không thấy hết cái giá phải trả cho ngày chiến thắng
30/4/1975 lớn đến thế nào. Hơn 4.000 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh để chọc thủng phòng tuyến Xuân Lộc…”
Các đài phát thanh và truyền hình Cộng
sản Việt Nam, cứ sắp đến ngày 30 tháng Tư là ra rả suốt ngày nói về “Đại
Thắng Mùa Xuân”, nhưng những năm gần đây, bất đắc dĩ thú nhận rằng
chúng đã bị thiệt hại nặng khi tiến qua Xuân Lộc. Lời thú nhận muộn màng
của CSBV đã xác nhận chiến thắng Xuân Lộc tháng Tư năm 1975 của QLVNCH.
Ngay những người lương thiện, có
mấy ai tự thú nhận một điều mình không muốn nói, huống hồ là cộng sản.
Vì cộng sản là dối trá, là phường nói láo. Nói láo đã trở thành cố tật,
là chính sách của cộng sản. Nhưng trận chiến Xuân Lộc, trận chiến cuối
cùng có tính cách qui mô giữa quân và dân Xuân Lộc với bộ đội CSBV, đã
nghiên hẳn về phía QLVNCH. Sự thiệt hại của quân xâm lăng CSBV là rất to
lớn, chúng không thể che dấu được, đành miễn cưỡng phải nói ra. Nhưng
chỉ nói ra một phần sự thật trong chiều hướng “cứu cánh biện minh phương tiện”.
Thật ra phòng tuyến Xuân Lộc không
hề bị chọc thủng, và con số cán binh bị giết không phải là 4 ngàn, mà
là 6 ngàn, 8 ngàn, hay nhiều hơn thế nữa. Đúng ra hắn nên nói: “Hơn 4.000 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh để tiến chiếm một thị trấn đã bỏ ngỏ”.
Suốt 12 ngày đêm của trận chiến, quân CSBV chỉ mon men bên ngoài vòng
đai của thị xã, chỉ có vài toán đặc công xâm nhập được bên trong, nhưng
đã nhanh chóng bị đẩy lui hoặc bị tiêu diệt. Con số 4.000 do Trà đưa ra
là con số chính thức được CSBV công bố. Con số thực chắc chắn là cao hơn
nhiều. Vậy 6 ngàn, 10 ngàn hay nhiều hơn thế nữa cũng là điều khả tín.
Không chọc thủng được phòng tuyến Xuân Lộc để đi qua, quân CSBV phải đi
vòng, hầu có thể cùng với 4 cánh quân kia tiến công Sài Gòn đúng ngày
hẹn. Quân CSBV không chọc thủng được phòng tuyến Xuân Lộc vì đã đụng
phải “Tuyến Thép Xuân Lộc” do những chiến binh dũng cảm
của Sư đoàn 18BB, Lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/Biệt
Động Quân “sát”, Lữ đoàn 1 Dù với mỹ danh “Thiên Thần Mũ Đỏ” thiện chiến
chống trả.
Trần Đức Thạch, Phân đội trưởng Trinh sát Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266/Sư 341 tường thuật:
“Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi đầu
hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15 (M.16). sau đó họ ôm nhau
tự sát bằng một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người…Hình ảnh bi hùng ấy
đã gây ấn tượng mạnh cho tôi….Vị tướng nào có những người lính như thế,
dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã thể hiện khí phách của
người trai nơi chiến trận.” (Hồi ký ‘Hố Chôn Người Ám Ảnh’)
Trong những ngày cuối của cuộc
chiến tranh Quốc – Cộng, các chiến binh Sư đoàn 18 BB đã chứng tỏ là
những người lính dũng cảm của một Quân lực Anh hùng. Họ đang chiến đấu
trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, nhưng tình thần vẫn vững vàng, không hề
bị giao động bởi thời cuộc. Vùng 1 và Vùng 2 Chiến thuật đã mất trắng
vào tay bọn xâm lăng CSBV, người dân lánh cư tỵ nạn từ miền Trung chạy
vào tràn ngập Xuân Lộc, nhưng các chiến binh Sư đoàn 18BB vẫn kiên trì
giữ vững phòng tuyến. Bởi vì họ tin tưởng vào đơn vị, vào cấp chỉ huy
của họ. Tất cả đều một lòng sát cánh bên nhau, không ai vì tình riêng
rời bỏ đơn vị trong giờ phút nghiêm trọng. Và nhất là họ hoàn toàn đặt
niềm tin vào vào tài điều binh khiển tướng của vị Tư lệnh, người nhạc
trưởng tài ba của một dàn nhạc nổi tiếng vừa vượt trội trong những năm
gần đây!
2/- BẠN
Đại tướng Cao Văn Viên, TTMT/BTTM/QLVNCH:
“Cuộc tấn công vào Xuân Lộc của Quân đoàn 4/CSBV là một sự thất bại lớn
nhất – và duy nhất – trong chiến dịch tấn công miền Nam vào những ngày
cuối của cuộc chiến.”
Thiếu tướng Lê Minh Đảo, TL/SĐ18BB kiêm TL/Mặt trận Xuân Lộc:
“Chiến thắng Xuân Lộc chứng tỏ cho thế giới thấy rằng QLVNCH không phải
là không chịu đánh, mà rất chịu đánh…Họ đã chứng tỏ hùng hồn cho thế
giới thấy là họ đã đánh một trận ‘tuyệt vời’ như thế nào tại Xuân Lộc”.
Cựu Đại sứ Bùi Diễm: “…Tại Xuân Lộc, chu vi phòng thủ xa Sàigòn, SĐ18BB của Miền Nam VN đã đẩy lui tất cả các cuộc tấn công của địch quân…”
Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết trong “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu”, Đại sứ Martin tâm sự; “Quân đội VNCH đã chiến đấu hết sức dũng cảm ở Xuân Lộc…”
VIETNAM, A Complete Photographic History viết: “The first North Vietnamese attack came on 9 April, and 5,000 men of ARVN 18th
Division held their ground, repulsing 40,000 of Dung’s troops. They
were led by a one-star general, Le Minh Dao, ‘a rarity who had worked
his way from lieutenant by ability, not politics’.”
Tướng Homer Smith, Tùy viên Quốc
phòng Hoa kỳ tại Sàigòn, gửi công điện báo cáo lên Tướng George S.
Brown, Tham mưu trưởng Liên quân: “Chúng ta có một chiến thắng thành
hình. Tại mặt trận Long Khánh, quân đội VNCH đã chứng tỏ rõ ràng sự
cương quyết, ý chí và lòng can đảm để chiến đấu mặc dù cán cân lực lượng
đã thiên hẳn về phía địch…”
Đại tá LeGro viết cho Quân sử Hoa Kỳ:
“Thông điệp rõ ràng là những binh sĩ Việt Nam tại Long Khánh đã chiến
đấu tới chết cho xứ sở của họ. Đây là một sự nối kết cố gắng giữa Bộ
binh và Không quân giúp cho Sư đoàn 18, Lữ đoàn Dù, và Biệt Động Quân để
cố thủ”.
Trưởng phòng thông tin của UPI tại Saigon, A. Dawson viết:
“Lúc địch quân bắn 3,000 quả đạn đại bác vào Xuân Lộc thì Tướng Đảo
không có mặt tại đó. Nhưng ông đã nhanh chóng đến nơi lúc binh sĩ của
ông đang giao tranh tại đường phố để kiểm soát thị xã. Hỏa lực của hai
bên đều rất dữ dội…Trận đánh kéo dài từ ngày này qua ngày nọ và cứ
thế…Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận quyết liệt mà ít người
dám nghĩ rằng họ có thể làm được. CSBV tung vào Xuân Lộc một sư đoàn
nữa. Sư đoàn 18BB vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10.4.75, Cộng quân lại
đánh vào thị xã, và lại bị đẩy lui. Ngày 12.4.75 (Ngày này Lữ đoàn 1
Nhảy Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đĩnh bắt đầu được trực thăng vận vào
Xuân Lộc), quân CSBV vẫn không tiến chiếm được chút nào. Hai Trung đoàn
của Quân đội Nam Việt Nam (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48) không những
đã giữ vững được vị trí mà còn phả công dữ dội hơn. Thêm 3,000 quả đạn
đại bác nữa rót vào Xuân Lộc, xé nát mọi vật. Sư đoàn 18BB vẫn đứng
vững. Tướng Đảo ở lại bên cạnh các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến
đấu.”
Ký giả úc, D. Warner viết:
“Với 3 Sư đoàn 6, 7, 341, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc
một cách dễ dàng, nhưng ông đã lầm. Sư đoàn 18BB chưa bao giờ được xem
là một sư đoàn thiện chiến của Miền Nam VN, trái lại có lần sư đoàn nấy
còn được xem là một sư đoàn tệ nhất. Thế mà trong những ngày cuối cùng
của chiến tranh Việt Nam, Sư đoàn này đã chiến đấu một cách dũng cảm;
không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày.
Tuy nhiên không chỉ có SĐ18BB đã chiến đấu anh dũng đến giờ phút cuối
cùng, mà còn nhiều đơn vị khác của QLVNCH…”
Ký giả người Pháp, Pierre Darcourt viết:
“Cộng quân có một đơn vị phòng không hùng mạnh trên xe kéo; các phi
công Nam Việt Nam phải đối diện với nguy hiểm khi yểm trợ cho quân bạn
dưới đất. tại Xuân Lộc quân bạn dưới đất đã sáp chiến với địch. PB/CSBV
đã tác xạ hơn 6,000 trái đạn đại bác liên tiếp trong hai ngày vào các
vị trí của SĐ18BB; liên lạc với BCH của Tướng Đảo lúc đầu bị gián đoạn
rồi sau đó được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ
dũng mãnh và nhất định không lui mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên
đầu họ”.
Sử gia người Mỹ, George J. Veith viết:
“Yet, despite the public image of corruption and incompetence, the
ARVN, as shown in the battle for Xuan Loc, was not an army of bumblers
and cowards as it is so often portrayed….There is no need to call Le
Minh Dao a hero. Some truths are self-evident.”
Tướng Phillip B. Davidson của Quân
lực Hoa Kỳ đã có nhận xét chính xác về Trận chiến Xuân Lộc, về QLVNCH,
và Người Chỉ huy Mặt trận đó: “The battle for Xuan Loc produced one of the epic battles of any of the Indochina wars, certainly the most heroic stand in Indochina War III…In this final epic stand ARVN demonstrated for the last time that, when properly led, it had the ‘right stuff.’”
X- TỪ ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐẾN XUÂN LỘC
1/. ĐIỆN BIÊN PHỦ
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tại lòng
chảo Điện Biên Phủ, Quân đội Liên Hiệp Pháp với 16,200 quân do Tướng
Christian de Castries chỉ huy, đã thảm bại trước 65 ngàn bộ đội Việt
Minh do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy, sau 55 ngày đêm chiến đấu cam
go. Tỉ lệ là 1/4.
Thật sự Võ Nguyên Giáp không phải
là người chỉ huy trận chiến thắng này. Sau khi “nướng” hết 23 ngàn bộ
đội trên tổng số 33 ngàn, Giáp bắt đầu nãn chí, và chỉ muốn ngưng không
tiếp tục tấn công nữa. Nhưng Vi Quốc Thanh, một trong các cố vấn Tàu
cộng (các tên kia là Trần Canh, Lã Quý Ba) quyết định đánh tiếp với 25
ngàn quân, và cuối cùng đã thắng Pháp.
Tổn thất của Quân đội Liên Hiệp
Pháp là 2,293 tử thuơng, 1,729 mất tích, 6,650 bị thương, và 11,721 bị
bắt làm tù binh. Trong lúc đó, bộ đội Việt Minh có 8 ngàn tử thương, 792
mất tích và 15 ngàn bị thương.
Sự thất thủ của ĐBP đưa đến việc
chấm dứt cuộc chiến tranh Việt – Pháp kéo dài 9 năm. Đất nước Việt Nam
sau hơn 300 năm phân tranh giữa hai giòng họ Trịnh – Nguyễn, lấy sông
Gianh làm giới tuyến, được thống nhất từ năm 1802 khi vua Gia Long lên
ngôi Hoàng Đế, lại bị chia đôi một lần nữa kể từ đây. Giòng sông Bến Hải
là nổi đau của người dân hai miền. Từ Bắc vĩ tuyến 17 trở lên là nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, sau này là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Từ Nam vĩ tuyến 17 trở xuống là Quốc Gia Việt Nam, sau này là Việt
Nam Cộng Hòa. Khi lực lượng Liên Hiệp Pháp rút hết về bên này vĩ tuyến
17, Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo, đã
giành được độc lập thực sự từ tay người Pháp, và thể chế cộng hòa ra
đời, với tên nước là Việt Nam Cộng hòa. Như vậy trên thực tế, đã hình
thành hai nước riêng biệt. Việt Nam Cộng hòa được hơn 50 quốc gia trên
thế giới thừa nhận. Trong lúc đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Miền Bắc
cũng được 13 nước trong khối cộng sản ủng hộ. Mỗi nước theo một thể chế
chính trị riêng biệt. Miền Bắc chịu sự chi phối của Cộng sản Đệ tam Quốc
tế, hoàn toàn lệ thuộc Liên Xô và Trung Cộng. Miền Nam đứng trong chiến
tuyến Thế giới Tự do, đứng đầu là Hoa kỳ. Hơn 1 triệu đồng bào Miền Bắc
không thích chế độ cộng sản đã di cư vào Nam tìm Tự Do. ĐBP là trận
chiến cuối cùng, đã chấm dứt sự can thiệp của nước Pháp vào đất nước
Việt Nam, kéo dài gần 100 năm (1858-1954). Nếu nhà cầm quyền Miền Bắc là
những con người yêu nước, lo cho dân giàu nước mạnh như những người
lãnh đạo Miền Nam, rồi tiến hành thống nhất trong hòa bình, như Tây Đức
và Đông Đức tiến hành sau này, thì đã không có cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn, đã tiêu hao hằng triệu sinh linh của cả hai miền Nam và Bắc
một cách vô nghĩa.
2/- XUÂN LỘC
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, tại Xuân
Lộc, một thị trấn nhỏ với khoảng 30 ngàn dân, cách Thủ đô Sàigòn hơn 60
cây số, sau 12 ngày đêm giao tranh ác liệt, trận chiến đã kết thúc. Đó
là cuộc đối đầu qui mô, và là trận chiến cuối cùng của QLVNCH chống lại
quân xâm lăng CSBV. Tỉ lệ quân tham chiến của hai bên là 1 (QLVNCH) và 5
(Quân CSBV). Với tỉ lệ 1/5, quân trú phòng tại trận chiến Xuân Lộc ít
hơn quân trú phòng của Pháp tại ĐBP. Nhưng QLVNCH đã thắng quân CSBV, và
đã thắng lớn. Trận chiến bi hùng kết thúc với hơn 6 ngàn bộ đội CSBV bị
giết, 37 xe tăng T-54 và PT-76 bị tiêu hủy, nhiều tù binh bị bắt sống.
Trong lúc đó sự thiệt hại của quân trú phòng, gồm Sư đoàn 18BB, Lực
lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Dù, Sư đoàn
3KQ/Biên Hòa không yểm chiến thuật, được ghi nhận là 30%. Không có con
số chính xác, vì chỉ 9 ngày sau, SĐ18BB không còn, QLVNCH không còn,
Chính phủ VNCH do Tổng thống 48 giờ Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng
trước quân xâm lăng CSBV.
Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng
Hoàng Cầm chỉ huy, gồm các sư đoàn 6, 7, và 341, về sau được tăng cường
thêm Trung đoàn 95B, Sư đoàn 325, nhưng đã thảm bại trước quân của Chuẩn
tướng Lê Minh Đảo (được Tổng thống Trần Văn Hương thăng cấp Thiếu tướng
ngày 25/4/75). Tướng Đảo và quân sĩ của ông đã đại thắng tại mặt trận
Xuân Lộc. Nhưng con én không làm nên mùa Xuân. Cuối cùng phải chịu thua
trong cái thua chung của cả nước. Những người lính Sư đoàn 18BB không có
cơ hội di tản, vì họ đã chiến đấu đến giờ thứ 25. Hầu hết phải phải
chịu cảnh tù đày, chịu sự trả thù của phe thắng trận, bị đày đến các
vùng đất cằn cỗi, đất cày lên sỏi đá, được gọi là “Kinh Tế Mới”. Vị chủ
soái của họ, Thiếu tướng Lê Minh Đảo là 1 trong 4 vị tướng QLVNCH được
thả cuối cùng, sau 17 năm bị đọa đày trong các trại lao tù Cộng sản.
Trong 50 ngày đêm mở cuộc tổng tấn
công VNCH, quân CSBV xâm lăng đã tiến quân như thế chẻ tre tại Vùng 1
và Vùng 2 chiến thuật. Văn Tiến Dũng, tên Đại tướng CS chỉ huy đoàn quân
xâm lược, viết trong Hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” của hắn, đã khoác lác:
“Cán bộ tham mưu đã không vẽ kịp bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội”.
Hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn
Tiến Dũng nhằm mục đích hạ Tướng Giáp đang bị thất sủng, và tự đề cao,
đánh bóng tên tuổi mình. Trường Chinh đã phê bình như sau: “Cuốn sách có khá nhiều điều viết không trung thực”.
Khi bộ đội của hắn tiến đến Xuân
Lộc, ngưỡng cửa phía Đông của Thủ đô Sàigòn, đã đụng phải bức tường thép
“Tuyến Thép Xuân Lộc” (theo cách gọi của Đại tá Hứa Yến Lến,
TMT/HQ/SĐ18BB). “Cánh Cửa Thép” theo cách gọi của Lê Nam Phong, cựu Sư
trưởng Sư 7. Cũng đúng thôi. Khi không còn tuyến thép, khi cánh cửa thép
mở, Sàigòn mất, VNCH mất. Tướng Weyand đã nhận định rất đúng: “Xuân Lộc phải giữ, mất Xuân Lộc là mất Sàigòn”.
Mất Xuân Lộc, Sàigòn bị uy hiếp.
Trận chiến qui mô, cuộc đối đầu cuối cùng
giữa quân xâm lăng CSBV và QLVNCH đã gây tổn thất năng nề cho 4 sư đoàn
thuộc Quân đoàn 4/CSBV do Tướng Hoàng Cầm chỉ huy. Sư đoàn 18BB, ĐPQ
& NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Nhảy dù, Sư đoàn 3
Không quân, đã trở thành những đơn vị của QLVNCH cuối cùng và duy nhất
có ý chí quyết chiến quyết thắng.
Chỉ vài ngày sau khi quân CSBV mở
cuộc tấn công vào Xuân Lộc, Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18BB kiêm
Tư lệnh mặt trận Xuân Lộc, tuyên bố với phái đoàn báo chí phương Tây
đến thăm chiến trường:
“Tôi sẽ giữ vững Long Khánh. Tôi
không cần biết phía bên kia sẽ đưa đến bao nhiêu Sư đoàn để đánh chúng
tôi, rồi chúng tôi sẽ tiêu diệt họ”.
Đây không phải là lời nói suông
hay khoác lác. Lời tuyên bố của ông Tướng có cơ sở. Ông đã nhìn thấy
tinh thần chiến đấu cao độ của quân sĩ dưới quyền. Họ là những chiến
binh can trường, giàu kinh nghiệm. Trong những giờ phút đầu tiên của
trận chiến, dù quân CSBV đạt được yếu tố bất ngờ, nhưng quân của chúng
đã không chiếm được phần đất nào của thị xã. Phòng tuyến đã được giữ
vững. Bây giờ ông lại được tăng cường thêm LĐ1Dù, là đơn vị ưu tú của
QLVNCH. Cùng với sức mạnh tiềm tàng của lực lượng cơ hữu, nay được thêm
sức là LĐ1Dù nhảy vào mặt trận ngày 12/4, Tướng Lê Minh Đảo đã có niềm
tin vững chắc. QLVNCH tại Xuân Lộc đã làm đúng những gì Tướng Đảo nói.
Xuân Lộc đã làm chậm bước tiến
quân của bộ đội CSBV, đã làm thay đổi kế hoạch tấn công Sàigòn của
chúng. Theo Thiếu tá Phan Tấn Mỹ, Tiểu đoàn trưởng TĐ3/52: Hồi nửa đêm
11 tháng Tư, tổ phục kích mìn của Trường tại phía Đông Bắc đồi Móng Ngựa
hạ 17 giặc, trong đó có 4 cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn Trung cộng rất
tinh xảo, 4 bản đồ nổi pictomaps, và đặc biệt một công vụ lệnh ghi: “Đoàn
nghiên cứu quân sự đặc biệt 301- Nay đề cử bốn đồng chí (lâu ngày quên
tên) lên đường nghiên cứu thực địa chiến trường Thủ Biên Xuân Lộc. Ngày
lên đường: 2 tháng Tư 1975 – Ngày chấm dứt niệm vụ: 30.4.1975”.
Ngày 7 tháng Tư, tại sào huyệt Lộc
Ninh, một cuộc họp quan trong được tổ chức, có Lê Đức Thọ, Đại diện của
Bộ Chính Trị Cộng Đảng Bắc Việt, tham dự với các tên đầu não trong
BTL/Tiền Phương, Trung Ương Cục Miền Nam, Quân Ủy và Bộ Tư lệnh B2. Bọn
chúng duyệt xét tình hình và quyết định lần chót kế hoạch tấn công
Sàigòn. Trước hết phải tấn công các vị trí chiến lược trên QL.4 và QL.1,
bằng cách đánh chia cắt, bao vây và cô lập địch. Nếu tình hình thuận
lợi và quân địch bắt đầu tan rã; nếu lực lượng ta thành công trong việc
cắt đứt QL.4 và tiêu diệt được Sư đoàn 18, ta sẽ tấn công Sàigòn ngay.
Nhưng bọn này đã nằm mơ giữa ban ngày!
Hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” Trần Văn Trà viết: “Tại
Sở chỉ huy của Miền, chúng tôi theo dõi từng diễn biến của trận
đánh…Nhưng vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căn thẳng…Rồi báo
cáo từng vị trí ta chiếm được phải bỏ lần lượt. số thương vong của sư
đoàn 1 (tức 341) cao…Tình hình rất gay go. Các đồng chí Phạm
Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ rất lo lắng…Tôi đề nghị cho tôi
đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng an hem nghiên cứu
cách đánh…”
Chiều ngày 11.4, Trà lên đường.
Sau khi nghe báo cáo, quan sát thực địa trên một số huớng, kiểm điểm
thực lực của chúng, và thấy rõ tình hình của quân trú phòng, ngày 13.4
chúng quyết tâm thay đổi kế hoạch, hầu có thể tiến đánh Sài Gòn đúng kỳ
hạn!
Tại QL.4, chúng điều động Sư đoàn
5/CSBV đang hoạt động vùng biên giới Việt – Miên, băng đồng vượt sông
xuống đánh quận Thủ Thừa và thị xã Long An, nhưng chúng đã gặp Lực lượng
ĐPQ, Sư đoàn 7 và 22/QLVNCH đánh cho tan tành.
Tại QL.1, chúng đưa cả Quân đoàn 4
của Thiếu tướng Hoàng Cầm đánh Xuân Lộc, chúng đã gặp phải Sư đoàn
18/QLVNCH đánh cho không còn manh giáp. Sự thảm bại của chúng tại Xuân
Lộc đã làm đảo lộn kế hoạch tấn công Sàigòn.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết trong ‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu’:
“Trong một mật điện gửi về Toà Bạch Ốc ngày 16 tháng 4, Đại sứ Martin
viết là tình báo Hoa Kỳ cho biết: sẽ có tổng tấn công vào ngày 18 hay 19
tháng 4. Nhưng ông cũng cho rằng không nên lo ngại vì trận Xuân Lộc và Long An đã làm thay đổi kế hoạch này rồi.”
Sau khi Tổng thống 48 giờ không do
dân bầu Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân CSBV, tổng số tổn thất
tính từ ngày 1.11.1955 đến ngày 15.5.1975 của Miền Nam ước tính là
2,594,000 sinh mạng. QLVNCH thiệt hại khoảng 250,000 chết, lối 1,170,000
bị thương. Hoa Kỳ là 58,292. Đại Hàn là 4,900. Úc Đại Lợi là 520. Tân
Tây Lan là 37. Con số bị thương cao hơn nhiều. Thông thường cứ 1 chết,
có 5 bị thương.
Ngày 30.4.1975, trận chiến bằng vũ
khí giữa Miền Nam Tự do và Miền Bắc Độc tài Cộng sản chấm dứt, nhưng
liền sau đó, một cuộc chiến khác đang hình thành. Đó là cuộc chiến giữa
Tự do Dân chủ và Độc tài Đảng trị, giữa Hạnh phúc Ấm no và Nghèo đói Lạc
hậu, giữa Luân lý và Ngụy biện,…Vì thế dù đất nước đã hết chiến tranh,
nhưng hàng triệu người đã bỏ nước ra đi. Nói như Quái kiệt Trần Văn
Trạch: “Nếu cột đèn biết đi, thì cũng đã bỏ nước ra đi vượt biên tìm Tự do!”
Vượt biên tìm Tự Do, tìm cách chối
bỏ chế độ CS cũng là cách chiến đấu chống CS. Cuộc chiến vẫn tiếp tục
cho đến ngày chế độ CSVN bị tiêu diệt.
XI- SỰ TRẢ THÙ MAN RỢ
Bộ đội của cái gọi là “Quân Đội
Nhân Dân” phải học thuộc nằm lòng câu: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu
với Dân…”. “Trung với Đảng” thì đúng. Chúng chỉ chiến đấu cho Đảng Cộng
sản và Bác Hồ của chúng. Nhưng “hiếu với dân” thì không. Chính bọn
chúng thú nhận “Quân đội và Lực lượng Công an là công cụ bạo lực của chế
độ”. Cho nên nói “hiếu với dân” chỉ là một cách nói. Chúng thẳng tay
đàn áp người dân vô tội. Nhất là khi dân đó là người dân Miền Nam, mà
chúng coi là “ngụy dân”, cũng là kẻ thù của CSBV.
Sự thảm bại của quân CSBV tại Xuân
Lộc là quá lớn, lớn đến nổi chúng không thể dấu diếm được. Các tên chỉ
huy trận đánh Xuân Lộc từ Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng đến Trần Văn Trà và
Hoàng Cầm đều phải thú nhận. Mặc dầu ở trong phe thắng cuộc chiến, chúng
có thể xóa bỏ những dấu vết bất lợi. Nhưng các tên chỉ huy cấp thấp như
Tướng Lê Nam Phong, Sư trưởng Sư 7 vẫn khoác lác:
“Bộ đội của ta ngưng tấn công vào thị
xã, chuyển ra tấn công trên QL.1 để cô lập Xuân Lộc, chỉ để lại một đơn
vị nhỏ bám sát địch. Nhưng quân địch lầm tưởng rằng chúng đã đẩy lùi bộ
đội của ta!”
Thua trận, quân CSBV đã trút nỗi
hận thù lên đầu người dân lành vô tội. Hành động man rợ và tàn bạo này
do một đơn vị bộ đội cấp D tức Tiểu đoàn! Do Sư đoàn này bị thiệt hại
quá nặng khi tiến công vào thị xã, và nhất là Chỉ huy sở của chúng bị
hủy diệt do hai trái BLU-82 vào lúc quá nửa đêm ngày 16.4.75. Đó là Tiểu
đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341 thuộc Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm.
Sau đây là lời tự thú của Trần Đức Thạch, Cựu phân đội trưởng trinh sát
Tiểu đoàn 8, qua bài viết ‘Hố Chôn Người Ám Ảnh’:
“…Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt
rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập…Đạn súng đại liên của
các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa…Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu
chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả
rạ. máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri…
- Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây!…
- Địch đâu mà các ông bắn giữ thế?…
- Anh ơi! đây là lệnh…
- Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!
… Tôi quay lại phía hàng trăm người
bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy
thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu đau đớn…Một
chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào
nhau
…Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia
đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đã thả vào mâm một quả
lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm trộn máu…”
Vụ thảm sát Tân Lập ngày 21 tháng Tư năm 1975 còn dã man tàn ác hơn vụ thảm sát Mỹ Lai ngày 16 tháng 3 năm 1968.
Do những hoạt động quấy phá của
Tiểu đoàn 48 Việt Cộng lối 250 tên. Ngày 25.2.1968, Đại đội C của Đại úy
Ernest L. Medina vướng phải mìn làm cho 6 chết và 12 bị thương. Ngày
14.3, đơn vị lại chịu nhiều tổn thất khác. Ngày hôm sau, Trung tá Frank
A. Baker, Tiểu đoàn trưởng TĐ1/20 của Sư đoàn Amerial 23 Bộ binh, chỉ
thị Đại úy Medina mở cuộc hành quân diệt địch. Khi tiến quân vào ấp Mỹ
Lai-4, Trung úy Calley đã cho lệnh bắn giết bừa bãi một cách dã man. Con
số nạn nhân lên đến 175 dân làng.
Tại Mỹ Lai, vụ thảm sát xảy ra là
do một quân nhân ngoại quốc, một người lính viễn chinh tàn sát người dân
của một đất nước xa lạ. Trái lại tại Tân Lập, vụ thảm sát xảy ra là do
một cấp chỉ huy người Việt, của cái gọi là “Quân đội Nhân dân”, ra lệnh
tàn sát người dân cùng chủng tộc với mình, là đồng bào của mình, để trả
thù cho đơn vị của hắn bị thiệt hại nặng. Con số nạn nhân được ghi nhận
ít nhất là 183 đến 300. Ngày hôm nay, vẫn còn một mồ chôn tập thể tại
Tân Lập, mặc dù Cộng sản đã tìm cách xóa bỏ dấu vết.
Vụ thảm sát Tân Lập lại còn thua
xa vụ thảm sát tại Huế hồi tết Mậu Thân. Sau 25 ngày chiếm đóng, quân
CSBV do những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc
Xuân chỉ điểm, đã hạ sát hơn 6 ngàn người dân Huế vô tội.
XII- SÀIGÒN THẤT THỦ
1/- NGÀY NHỤC NHÃ
Ngày 8.4.1949, Hiệp ước Élysée
công nhận Chính phủ Quốc gia Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp, một niềm
mơ ước mà Hồ Chí Minh đã không đạt được, khi ông ta và phái đoàn Việt
Minh qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau năm 1946, xin xỏ Pháp.
Ngày 13.4.1949, Nghị định Quốc
phòng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam ban hành nghị định thành lập Quân
đội Quốc gia Việt Nam, với tên gọi “Vệ binh Quốc gia”. Ngày 11.5.1950,
Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố chính thức thành lập Vệ binh Quốc Gia
Việt Nam, với quân số 60,000 người, bao gồm các lực lượng địa phương:
Bảo chính đoàn Bắc Việt (1948), Việt binh đoàn Trung Việt (1947), và Vệ
binh Nam Việt (1946).
Năm 1955 khi Quốc trưởng Bảo Đại
bị truất phế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống, tuyên bố
thành lập Việt Nam Cộng hòa, Quân đội Quốc gia Việt Nam được cải danh
thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau cuộc đảo chính năm 1963, Quân đội
Việt Nam Cộng hòa (Republic Of Vietnam Military Forces – RVNMF) lại
chính thức mang tên mới là Quân lực Việt nam Cộng hòa (có tên gọi bằng
Anh ngữ là “Republic Of Vietnam Armed Forces – RVNAF”.
QLVNCH thời kỳ phôi thai, chỉ có
60,000 người. Từ một quân đội phụ lực cho Quân đội Liên Hiệp Pháp trong
cùng chiến tuyến chống cộng sản, đã trở thành lực lượng chính chống cộng
sản, với quân số có lúc lên đến hơn một triệu tay súng phục vụ dưới cờ,
được xếp lớn mạnh vào hàng thứ Tư trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ, Liên
Xô và Trung Cộng. Quân lực đó có những cấp chỉ huy tài ba, được liệt vào
hàng danh tướng của thế giới, đó là các Tướng Đổ Cao Trí, Ngô Quang
Trưởng. Tướng Trí với Quân đoàn III của ông, năm 1970, 1971, suýt đã
tiêu diệt toàn bộ quân CSBV trên chiến trường Kampuchia, đã đuổi Trung
ương cục Cộng đảng Miền Nam đến tận Kratié. Nhưng ông đã bị tai nạn máy
bay trực thăng khi trên đường bay đi thị sát mặt trận. CSBV đã gặp một
dịp may hiếm có. Tướng Ngô Quang Trưởng thì được Tướng Mỹ H. Norman
Schwarzkopf, cựu tư lệnh Vùng Vịnh trong chiến dịch “Bão Sa Mạc”, xem là
bậc thầy.
QLVNCH từ dân mà ra, chiến đấu
cho dân, và bảo vệ dân. Với châm ngôn: “Tổ quốc – Danh dự – Trách
nhiệm”, người lính QLVNCH sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân
dân trong tình thần Trách nhiệm cao độ. Trong hơn 20 năm ròng rã chiến
đấu bảo vệ quê hương, họ đã chiến đấu anh dũng, quyết chiến quyết thắng,
trước một kẻ thù hung bạo. Họ đã tạo nên những chiến tích lẫy lừng,
khiến kẻ thù khiếp sợ, đồng minh nễ phục, và đồng bào tin yêu. Họ đã
đánh thắng trên khắp các mặt trận: Trị – Thiên quật khởi, Kontum kiêu
hùng, Bình Long Anh dũng. Nhưng cuối cùng đành phải buông súng tan hàng.
Chính Kissinger, vị Ngoại trưởng Mỹ vô lương tâm đã đi đêm với cộng
sản, bây giờ phải thú nhận: “Sự thảm bại của Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH”.
Chúng ta không thua trận, nhưng
chúng ta đã thua cuộc chiến, do những người điều khiển cuộc chiến kém
khả năng, và do sự phản bội của đồng minh.
“Người lính (QLVNCH) không chết mà chỉ mờ dần”,
như hình ảnh người lính trong điệp khúc của một ballad nổi tiếng, được
Tướng MacArthur nhắc đến trong bài diễn văn từ giả binh nghiệp, đọc
trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày 19.4.1951: “Old Soldiers Never Die; They Just Fade Away”.
Người xưa có nói: “Không lấy thành
bại để luận anh hùng”. QLVNCH đã phải buông súng và tan hàng ngày
30.4.1975, nhưng đó là một quân lực anh hùng. Chính kẻ thắng trong cuộc
chiến năm 1975 là hèn nhác, đã “cúp đuôi” trước kẻ thù phưng Bắc.
QLVNCH thắng trận Xuân Lộc, nhưng
VNCH thua cuộc chiến. Dư luận quần chúng cho rằng nếu có thêm vài Xuân
Lộc nữa, hoặc nếu có đủ số ngòi nổ cho 27 trái bom BLU-82 mà Bộ
TTM/QLVNCH đã có trong kho, đem ném lên đầu 5 cánh quân CSBV tiến vào
Sài Gòn, thì sẽ không có ngày 30.4.75.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975, chiếc
xe tăng T-54 do Nga Xô chế tạo, tiến vào, đã húc đổ cánh cửa chính của
Dinh Độc Lập. Thật ra theo lệnh của Dương Văn Minh, cánh cửa đã được mở
sẵn để chờ “người anh em phía bên kia” đến bàn giao. Nhưng khi
chiếc T-54 đến cổng, xe ngừng lại, vài tên bộ đội nhảy xuống, khép vội
hai cánh cửa đã mở sẵn. Tên phóng viên bộ đội mang máy chụp hình chuẩn
bị. Và tình cờ có vài phóng viên ngoại quốc có mặt. Chiếc xe T-54 rồ
máy, húc mạnh vào cánh cửa. Các phóng viên vội bấm máy. Những tấm hình
chụp cảnh chiếc xe tăng quân CSBV húc cánh cửa Dinh Độc Lập đã trở thành
những tấm hình lịch sử! Lúc đó là 11 giờ 10 phút sáng. Thật ra đây chỉ
là một vở kịch được dàn dựng để ghi hình.
“Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc tăng
đầu tiên loại T-54…xuất hiện từ đầu kia đại lộ Thống Nhất, phía Thảo cầm
viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ cùng một số dân biểu
nghị sĩ, ra đứng tại tiền đình của Dinh Độc Lập để chuẩn bị cuộc đón
tiếp…
Sau này các tài liệu viết rằng
chiếc tăng đi đầu đã ủi sập cửa sắt ở cánh cổng còn đóng của Dinh Độc
Lập. Vậy là lính gác ở dinh không chấp hành lệnh chăng? Vì tôi nhớ rất
rõ ông Minh đã ra lệnh cho lính gác ở dinh mở sẵn cổng chính trước rồi.”
(Hồi ký Lý Quý Chung, Tổng trưởng Bộ Thông Tin)
2/- BẦY QUẠ ĐEN RỈA XÁC CHẾT
Quân đoàn 4/CSBV tiến vào Sàigòn từ hướng
Đông, được phân công cắm cờ Dinh Độc Lập, nhưng thực tế, Quân đoàn 2 đã
vào cắm cờ trước.
“Tôi ở bộ phận đi đầu nên đã vào Dinh
Độc Lập, lúc đó DVM nói rằng chúng tôi đã sẵn sàng để bàn giao chính
quyền. Nhưng tôi và anh Bùi Tín (Báo QĐND) nói ngay: Chính quyền của ông
còn gì nữa mà bàn giao, phải đầu hàng. DVM chấp nhận”.
(Phạm Xuân Thệ thuật lại năm 2005)
Lúc 11 giờ 30 phút sáng ngày 30.4.1975,
lá cờ giặc nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng của cái gọi là “Chính Phủ
Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” do tên bộ đội CSBV kéo lên trên sân
thượng.
“Một người bộ đội…nói với Tổng thống
Minh: ‘Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ…’ Ông Minh quay sang tôi
đang đứng bên cạnh: ‘Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân
thượng’”. (Hồi ký Lý Quý Chung)
Theo Trần Văn Trà, tổ Đặc công do tên
Phạm Duy Đô chỉ huy (thuộc Trung đoàn 116 Đặc công), theo chiếc tăng
T-54 để chỉ đường. Khi xe vào sân, chúng liền nhảy xuống tiến vào phòng
họp bên cánh phải của Dinh, nơi toàn bộ Nội Các của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu
ngồi quanh chiếc bàn bầu dục. Tên Đô chỉa súng AK hô:
“Các ông đã bị bao vây. Ai có súng bỏ xuống. Đầu hàng.”
Tổng thống Dương Văn Minh ngồi ở đầu bàn phía trong, vội đứng dậy, nói:
“Chúng tôi chờ các ông đến để bàn giao”
Tên Tùng, Chính ủy ra lệnh:
“Các ông không còn gì để mà bàn giao.
Chỉ có đầu hàng vô điều kiện. Mời các ông ra tuyên bố ở Đài Phát Thanh:
‘Xin đầu hàng vô điều kiện’”.
Theo Hồi ức của Thượng tướng Nguyễn
Hữu An, lúc đó là Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 2: “Cùng lúc đó Đại đội
trưởng Bùi Quang Thận cán bộ xe 843 cùng Tiểu đội phó Trần Đức Tình trèo
lên tòa nhà lớn treo lá cờ mặt trận giải phóng. Lá cờ sao vàng nửa đỏ
nửa xanh tung bay trên nóc dinh độc lập lúc 11 giờ 30 phút…
Tôi…cùng với anh Công Trạng lên trên
gác. Một cán bộ bảo vệ dẫn chúng tôi tới nơi tập trung nội các
ngụy…không thấy Dương Văn Minh, tôi hỏi anh cán bộ bảo vệ, anh cho biết:
Phạm Xuân Thệ…và Bùi Văn Tùng…đã dẫn Minh đến đài phát thanh…Công Trạng
sợ sổng mất Dương Văn Minh, anh nổi nóng hỏi: ‘Ai giao cho các cậu làm
việc
đó?’”
Nhưng theo Búi Tín: “Tối mịt tướng An
tư lệnh quân đoàn mới vào…Tướng đầu tiên vào là tướng Nam Long, phái
viên của Bộ Tổng tham mưu đến lúc chừng 4 giờ chiều…” (Bùi Tín trả lời
phỏng vấn đài BBC ngày 29.4.2005)
Bùi Tín được hai Trung tá Hân và
Tùng hai lần nói ông ra nhận sự đầu hàng, vì ông mang hàm Đại tá, thuộc
hàng cán bộ cao cấp có mặt tại Dinh lúc đó. Tổng thống Dương Văn Minh
đứng chấp tay phía trước, và tiến lên một bước, bên cạnh là Phó TT
Nguyễn Văn Huyền, nói:
“Chúng tôi đợi quý ông từ sáng, đặng chuyển giao chính quyền”.
Bùi Tín cướp lời:
“Các ông còn gì nữa mà bàn giao. Người ta không thể chuyển cái gì không có trong tay”.
Thật ra Bùi Tín đã nói sai. Chính
quyền VNCH lúc đó còn có cả vùng đồng bằng sông Cữu Long trù phú, với
vựa lúa nuôi sống người dân cả nước. Quân đoàn IV Quân khu 4 dưới quyền
Tư lệnh của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, một danh tướng của QLVNCH vẫn
còn nguyên vẹn. Các Sư đoàn 7, 9, 21, các Tiểu đoàn BĐQ, Lực lượng ĐPQ
và NQ Vùng 4, Sư đoàn 4 Không quân và Quân chủng Hải quân vẫn chưa sức
mẻ.
Sau khi có lệnh đầu hàng của Dương
Văn Minh, vì tuân lệnh, những người lính Quân đoàn IV Quân khu 4 phải
buông súng. Nhưng một số đơn vị vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến ngày 2
tháng 5 thì tự động tan hàng do bị xao động bởi lệnh đầu hàng của Dương
Văn Minh.
Nếu Trung tướng Vĩnh Lộc, vị Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM/QLVNCH cuối cùng, làm tròn trách nhiệm được giao phó, không “lủi trốn như chuột giống như Tổng Thống Thiệu”
như Nhật lệnh ông ban cho quân sĩ ngay sau khi nhận lãnh trách nhiệm,
không tìm cách bỏ nhiệm sở để tìm tàu di tản vào lúc 6 giờ sáng ngày
30.4, mà lo kế hoạch đưa Chính phủ về Miền Tây, với Thiếu tướng Nguyễn
Khoa Nam, cùng lo giữ nước và cứu nước.
Nếu cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh (tên tướng bị VC móc nối) không được Dương Văn Minh gọi trở lại
quân ngũ, cho làm Phụ tá TTMT, để rồi lợi dụng lúc “boss” của mình rời
bỏ nhiệm sở, nhân danh TTMT, đã ban lệnh cho quân đội với hậu ý “rước
giặc vào nhà”.
Nếu Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn
IV Nguyễn Khoa Nam bất tuân lệnh của Dương Văn Minh, vẫn tiếp tục chiến
đấu, thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Ngay trong giờ phút nghiêm trọng
đó, Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo tìm cách gặp riêng Bùi Tín, mật báo
việc anh ta giữ lại 16 tấn vàng, không để cho ông Thiệu mang đi. Nhưng
CSVN tuyên truyền rằng: “Thiệu bỏ chạy, mang theo 16 tấn vàng”.
Do tuyên truyền đầu độc của CSVN, người Việt Quốc gia vẫn có lắm kẻ
tin. Hai ngày sau, chuyến máy bay IL. 18 từ Hànội vào nhận. Bộ chính trị
Cộng đảng gồm 13 tên, đứng đầu là Lê Duẩn đã chia chát nhau 16 tấn vàng
này! Hay là 16 tấn vàng này chúng đã đem trả nợ Tàu cộng.
Tâm tư người dân Sàigòn tháng Tư
năm 1975 cũng giống như tâm tư người dân Hànội tháng 7 năm 1954. Ai ai
cũng hoang mang, sợ hãi, sống trong phập phồng lo âu. Rồi những ngày sau
đó, cảnh đấu tố đã nhanh chóng được du nhập vào từ Miền Bắc. Vợ chồng
tố cáo nhau. Con cái tố cáo cha mẹ, học trò tố thầy giáo. Tình nhân
loại, nghĩa đồng bào không còn tồn tại trong chế độ Cộng sản. Cuộc sống
không có tương lai. Tương lai thật mịt mờ. Nhà nhà phá bỏ bàn thờ, thay
vào đó là bức hình tên đại gian đại ác Hồ Chí Minh. Lá cờ của Mặt trận
côn đồ phá hoại Miền Nam, nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng được treo
cùng khắp. Nhưng không lâu sau đó, đã bị thay thế bằng lá cờ máu. Sàigòn
thất thủ, khắp nơi tràn ngập cờ máu:
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà,
chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ”.
(Trần Dần – Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm)
“Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam Việt Nam” và “Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” đã
không kèn không trống tự giải thể. Trong buổi lễ long trọng tổ chức tại
Sài Gòn để mừng ngày “Giải phóng”, Trương Như Tảng, Bộ trưởng Tư Pháp,
khi thấy các đoàn quân diễn binh chỉ toàn là bộ đội Bắc Việt, đã hỏi Văn
Tiến Dũng ngồi kế bên: “Thế các sư đoàn quân giải phóng đâu cả?” Dũng chỉ mĩm cười mà không trả lời.
3/- HẬU QUẢ CỦA SỰ PHẢN BỘI
Hoa Kỳ tham chiến để giúp người
dân Miền Nam tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CSBV. Sau khi bật đèn
xanh cho nhóm tướng tá bất mãn (Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Đổ Mậu),
nhóm tướng tá tham vọng (Tôn Thất Đính), và nhóm tướng tá cơ hội (Nguyễn
Khánh, Nguyễn Cao Kỳ) làm cuộc chính biến, lật đổ Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, người chủ trương không chấp nhận quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham
chiến (vì như thế sẽ làm mất chính nghĩa của cuộc chiến tự vệ của Quân
và Dân VNCH), người Mỹ đã nhảy vào Việt Nam (1965) giành lấy quyền chủ
động điều khiển cuộc chiến, với hy vọng sẽ đập tan VC trong vài năm.
Nhưng cuộc chiến cứ kéo dài. Ta không thể dùng cái búa tạ để đập con
ruồi. Thế rồi người Mỹ mệt mỏi, và tìm cách rút ra trong danh dự. Khi
người Mỹ hiện diện ở Việt Nam với hơn nửa triệu quân, được trang bị vũ
khí hiện đại với quân viện trên dưới 2 tỷ dollars mỗi năm, đã không đập
tan được bọn dép râu nón cối khôn ngoan luồn lách. Thời gian dài ra,
người Mỹ càng mệt mỏi. Cuối cùng người Mỹ đành phản bội người đồng minh
thân tín, đã bỏ cuộc, tìm cách rút ra trong danh dự, không những thế,
còn cắt mọi viện trợ cần thiết, khi quân CSBV ồ ạt tấn công VNCH đầu năm
1975, Tổng Thống Thiệu xin viện trợ khẩn cấp 300 triệu dollars, Quốc
hội Mỹ cũng không thuận, đã đưa đến sự sụp đổ của VNCH ngày 30.4.1975.
Thống tướng Westmoreland, một thời là Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam
đã chính thức nói lên lời xin lỗi:
“Chúng ta không thua tại Việt Nam,
nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với QLVNCH. Thay mặt
cho Quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân lục Miền
Nam Việt Nam, vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn” (On behalf of the United
States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the
South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys).
Sau nhiều năm im lặng, cuối cùng
Kissinger, tên Ngoại trưởng Hoa Kỳ bất lương đã bán đứng người bạn đồng
minh của mình là VNCH cho Tàu cộng và CSBV, đã phải thú nhận: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH”.
Nhà văn Dương Thu Hương, từng là một
“chiến sĩ gái” vượt Trường Sơn trong đoàn quân xâm lăng Miền Nam, buổi
trưa ngày 30.4 tại bùng binh chợ Bến Thành, ngồi bệt bên vệ đường, đã
khóc khi nhìn thấy cảnh phồn vinh của Miền Nam, khác với những gì mà y
thị đã bị lừa dối rằng Miền Nam bị Mỹ Ngụy kềm kẹp, đồng bào ruột thịt
bị thiếu ăn, thiếu mặc, cần phải được giải phóng. Ý thức được hành động
sai lầm của mình, và thế hệ thanh niên Miền Bắc bị “Bác và Đảng” lừa dối
trong bao nhiêu năm, ngưới “chiến sĩ gái trong đoàn quân giải phóng” đã
thốt lên: “Nền văn minh đã thua chế độ man rợ”.
Ý đồ xâm lăng của CSBV đã bắt đầu
tiến hành từ Tháng 5 năm 1959, khi Cộng đảng BV cho Tướng Trần Độ thành
lập đoàn công tác, là Đoàn 559 (5 là tháng 5 và 59 là năm 1959). Đoàn
công tác của Trần Độ rời Hànội từ tháng 5, men theo con đường mòn Trường
sơn đã có sẵn từ thời kháng chiến chống Pháp. Đoàn khảo sát địa thế,
mở rộng con đường mòn, đặt tên Hồ Chí Minh, để đưa người và vận chuyển
chiến cụ vào Nam (cùng với chiến cụ được chúng cất dấu trước khi tập kết
ra Bắc tháng 7 năm 1954) chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Ngay sau khi
vừa ký Hiệp định Đình chiến Genève, chúng đã có kế hoạch thôn tính Miền
Nam. Tháng 12 năm 1960, Cộng đảng BV cho dựng lên một công cụ xâm lăng
tại Miền Nam là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam VN”, để tiến hành
cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng dựng lên nhân vật Nguyễn Hữu Thọ, một
Luật sư, một trí thức Miền Nam, nhưng rất ngu muội! hay thông minh nhưng
có nhiều tham vọng! Rất nhiều người không hiểu rõ căn nguyên của cuộc
chiến. Thậm chí một nhà sư được sự ưu đãi của Chính phủ VNCH, Thượng tọa
Thích Nhất Hạnh, thường gọi là Thiền sư Nhất Hạnh, trong một Hội nghị
Quốc tế tại Tokyo năm 1960, khi được hỏi làm sao để chấm dứt chiến tranh
Việt Nam, để có hòa bình, nhà sư đã trả lời rằng muốn có hòa bình ở VN,
quân đội VNCH phải giải giới, chính phủ VNCH phải giải thể! Nhà sư này
đã không phân biệt được đâu là nguyên nhân của cuộc chiến. Có thể do đầu
óc ngu muội về chính trị, hay do đầu óc của nhà sư lệch về phía tả.
Người dân Hoa Kỳ thì bị các vị dân cử của họ trong Quốc Hội phản bội.
Chính thành phần đa số của Quốc hội đã phản bội một Quốc gia đồng minh
nhỏ bé là VNCH, đã phản bội sự hy sinh cao cả của gần 60 ngàn quân nhân
Quân lực Hoa Kỳ để bảo vệ lý tưởng Tự Do – Dân Chủ của người dân Miền
Nam Việt Nam. Con người dù có trình độ dân trí cao, sống trong chế độ Tự
do – Dân chủ như Hoa Kỳ, cũng dễ trở thành “bầy cừu của Panurge”, khi
bị khích động bởi giới truyền thông vô lương tâm đầu độc dư luận, và bọn
phản chiến hèn nhác như John Kerry khuấy động. Phong trào đòi Hòa bình
của “bầy cừu Panurge” đã áp lực Quốc hội Hoa Kỳ biểu quyết đạo luật cấm
Tổng Thống chi tiền viện trợ Quân sự cho Chính phủ VNCH. Trong lúc đó cả
khối CS Đệ tam Quốc tế, đứng đầu là Liên bang Xô viết và Trung cộng đã
dồn tất cả mọi nổ lực giúp CSBV trong âm mưu thôn tính Miền Nam Việt
Nam. Với lời lẽ dối trá, sau khi vừa chiếm được Miền Nam VN, Lê Duẩn, Bí
thư Thứ nhất Cộng đảng VN tuyên bố: “Chúng ta sẽ biến nhà tù thành
trường học”. Nhưng thực tế, CSVN đã biến nhà trường thành nhà tù! Chúng
lùa hàng trăm ngàn Quân – Dân – Cán – Chính VNCH vào các Nhà tù với
những từ ngữ mị dân là “Tập trung Học tập Cải tạo”. Cộng đảng VN đã cai
trị người dân bằng bạo lực và khủng bố. Sự sợ hãi tràn lan. Người dân
trở nên dối trá, không còn ai tin ai, kể cả vợ với chồng, con cái với
cha mẹ, thầy giáo với học trò.
Hậu quả của sự phản bội là người
dân Miền Nam đã sống những ngày nhục nhã nhất sau khi Sàigòn thất thủ.
Người dân Miền Nam muốn sống một cuộc sống xứng đáng là cuộc sống của
một con người thì phải bỏ nước ra đi, phải vượt biên, vượt biển. Theo
Giáo sư R. J. Rummel, đã có 400 ngàn người chết ngoài biển hay trong
rừng sâu núi thẳm trên đường tìm Tự do. Giáo sư Lewis Sorley thì cho
rằng có chừng 250 ngàn quân nhân và viên chức VNCH đã chết trong các
“Trại Cải tạo”, khoảng 1 triệu rưởi người dân Miền Nam bị đầy đi các
vùng “Kinh Tế Mới”, và đã có lối 48 ngàn đã chết tại nơi rừng thiêng
nước độc. (Theo tài liệu thuyết trình của Robert F. Turner tại cuộc Hội
Luận Kỷ niệm 35 năm Lưu vong tại Westminster, Cali. ngày 28.4.2010).
XIII- KẾT
Ngày 11 tháng Ba năm 1945,
Quân phiệt Nhật đảo chính thực dân Pháp, lợi dụng tình thế, Hoàng đế
Bảo Đại cho thành lập Chính phủ Đế quốc Việt Nam ngày 17 tháng Tư năm
1945, mời Học giả Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Hoàng đế Bảo Đại ban
chiếu chỉ, tuyên bố Việt Nam Độc lập:
“Theo tình hình thế giới
nói chung và hiện tình Á Châu, Chính phủ Việt Nam long trọng công bố
rằng: kể từ hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và
vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một quốc gia độc
lập.”
Tiếc rằng Chính phủ Trần
Trọng Kim chỉ tồn tại 126 ngày. Chính phủ không có quân đội, lại thiếu
hậu thuẫn của quần chúng, nên đã bị lực lượng Việt Minh cướp một cách dễ
dàng. Sau khi cướp được chính quyền, để rảnh tay thanh toán các đảng
phái quốc gia, Hồ Chí Minh ký Hiệp định Sơ bộ với thực dân Pháp ngày 6
March 1946 (về sau người dân nói lái lại thành “Mác-xít”. Hiệp định cho
phép 15,000 lính Pháp trở lại Miền Bắc. Hiệp định tạo cơ hội tốt, thuận
lợi, và danh chính ngôn thuận cho quân Pháp trở lại Đông Dương, và tiếp
tục đặt nền đô hộ trên đất nước Việt Nam lần nữa. Đây là hành động “Cõng rắn cắn gà nhà; rước voi dày mã tổ”.
Máu xương người dân Việt lại đổ ra để giành độc lập, mà trước đó một
năm, Hoàng đế Bảo Đại đã giành lại được mà không tốn một giọt máu!
Sau năm 1954, Tổng Thống Ngô
Đình Diệm cũng không tốn một giọt máu nào, đã giành được độc lập hoàn
toàn từ tay nguời Pháp, do Hồ Chí Minh long trọng rước vào qua Hiệp định
“Xít Mác”. Tên Tướng Pháp cùng ký vào Hiệp định, biết rằng người dân
Việt đã chán ngấy thực dân Pháp, nhưng buộc Hồ Chí Minh phải tổ chức đón
tiếp long trọng. HCM và lũ Việt Minh phao tin rằng ngày 19.5 là ngày
sinh của “Chủ tịch HCM”, và yêu cầu nhân dân kết hoa treo đèn ăn mừng.
Hôm đó là ngày quân Pháp đổ bộ Hải Phòng và tiến lên Hà Nội!
“Con én không làm nên mùa Xuân”
Trận Điện Biên Phủ năm 1954, lực lượng
Liên Hiệp Pháp đã thua trận chiến khi đối đầu với lực lượng Việt Minh,
có quân Tàu cộng, và cố vấn Tàu cộng, là các Tướng Lã Quí Ba, Trần Canh,
giúp sức. Pháp thua trận chiến ĐBP, thua luôn cả cuộc chiến chống cộng
sản. Cuối cùng phải xuống tàu về nước, chấm dứt sự hiện diện của thực
dân Pháp gần 100 năm, kể từ khi Leheur de Ville-sur-Arc đem chiến thuyền
Catinat vào cửa Đà Nẵng tháng 8 năm 1956, bắn phá các đồn lũy của quân
triều đình ta. Thua trận chiến ĐBP, Pháp phải ký Hiệp định Đình chiến
Genève, buộc phải lui quân về phía Nam vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải). Nhưng
rồi cũng bị buộc phải trở về cố quôc, vì người Quốc gia Miền Nam không
chấp nhận thực dân Pháp (1954). Hiệp định Genève 1954 chia đôi lãnh thổ:
Miền Bắc đặt dưới ách bạo tàn của chế độ cộng sản, do Hồ Chí Minh và
đảng Lao Động của Y (thực chất là đảng Cộng sản trá hình, tay sai của Đệ
tam Quốc tế Cộng sản) cai trị. Bọn Hồ Chí Minh và đám thuộc hạ nguyện
làm tên lính xung kích của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, chỉ lo mưu toan thôn
tính Miền Nam. Miền Nam theo chế độ Cộng hòa, do Tổng Thống Ngô Đình
Diệm lãnh đạo. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
chỉ lo an sinh xã hội, thăng tiến cần lao, mưu cầu hạnh phúc ấm no cho
toàn dân, hầu đưa đất nước sánh vai ngang hàng với các nước tiên tiến
trên thế giới. Sau ĐBP năm 1954, Quốc gia Việt Nam bị qua phân lãnh thổ.
Trận Xuân Lộc năm 1975, Lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đánh bại quân Cộng sản Bắc Việt. Nhưng “con én không làm nên mùa Xuân”.
Xuân Lộc đã không cứu vãn được VNCH đang yếu thế. Sau Xuân Lộc, Sàigòn
mất tên, VNCH không còn tìm thấy trên bản đồ thế giới. Hằng triệu người
phải bỏ nước ra đi tìm Tự Do. Lối một triệu Quân Cán Chính VNCH bị tập
trung vào các trại tù cải tạo (thực chất là các trại tù khổ sai). Và một
con số không nhỏ người dân Miền Nam bị lùa đi “Vùng Kinh Tế Mới”. Hàng
trăm ngàn người bị chết trong rừng sâu, vùi thây dưới lòng biển cả, trên
đường vượt biên vượt biển. Và một con số không nhỏ các cựu Quân Cán
Chính bị hành hạ đến chết tức tưởi trong các trại tù khổ sai. Một mùa
Đông lạnh giá bao phủ khắp trời Nam. Đã ba mươi lăm năm qua, mùa Xuân
vẫn chưa trở lại./.
Michigan, Mùa Bảo Tuyết 2010
Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/43, SĐ18BB
Nguồn: https://vantuyen.net/2015/11/07/nguyen-huu-che-tran-chien-cuoi-cung/
Xin xem tiếp...
V- SÀI GÒN THẤT THỦ- NHƯNG KHÔNG ĐẦU HÀNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét