Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

Tiếp theo...Núi Thị, căn cứ của TĐ2/43 với tòa lâu đài cỗ


     Núi Thị, căn cứ của TĐ2/43 với tòa lâu đài cỗ
Núi Thị, căn cứ của TĐ2/43 với tòa lâu đài cỗ
Khu vực Núi Thị, nơi trấn giữ của Tiểu đoàn 2/43, là vị trí quan trọng trong trận chiến Xuân Lộc. Nếu là một cấp chỉ huy giỏi, có học trường lớp đàng hoàng, Tướng Trà và Tướng Cầm phải ưu tiên tiêu diệt vị trí này. Núi Thị không cao lắm, diện tích lối ½ cây số vuông, nằm cách xa thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây. Tại đỉnh cao nhất, một cây thị lớn còn sót lại, nay trở thành cây cổ thụ có thân cây lớn hơn hai vòng tay ôm, nên ngọn núi được người dân địa phương gọi là Núi Thị. Về phương diện chiến thuật, cao điểm Núi Thị có thể khống chế Xuân Lộc về hướng Đông, và Dầu Giây về hướng Tây. Trước khi trở thành điểm cao quân sự, Núi Thị là sở hữu của viên chủ đồn điền cao su người Pháp. Núi có hình thế yên ngựa. Một tòa lâu đài cỗ, với những bức tường dày bằng bê tông cốt sắt, sừng sững chiếm hết đỉnh cao của ngọn núi. Không khí trong các phòng ốc mát lạnh như khí hậu ở Đàlạt, hàn thử biểu thường chỉ trên dưới 22 độ C. Được biết hàng năm Bộ Quốc Phòng VNCH phải trả tiền trưng dụng tòa lâu đài đó với số tiền 3 triệu đồng. Từ lâu, Núi thị là Hậu cứ của Tiểu đoàn 2/43, từng bị VC đánh đặc công một lần, khi đơn vị này đang hành quân vượt biên sang Kampuchia năm 1970. Trong những ngày chuẩn bị trận chiến, Tướng Đảo cho thiết lập tại đây một Trung tâm Hành quân dự phòng cho Sư đoàn với đầy đủ thiết bị, có đài siêu tầng số. Hệ thống truyền tin tại Núi Thị hoạt động rất tốt. Suốt trong 12 ngày đêm của trận chiến, truyền tin tại Núi Thị không hề bị gián đoạn. Hai pháo đội 105ly, một pháo đội 155ly được kéo lên đây để có thể bắn yểm trợ cho Xuân Lộc và Dầu Giây. Trung đội pháo 105ly diện địa vốn được bố trí tại đây, được kéo trả về cho Tiểu khu Long Khánh. Những người lính Tiểu đoàn 2/43 rất sung sướng khi được chỉ định trấn giữ đất nhà. Nhưng việc bảo vệ điểm cao chiến thuật, và giữ gìn an ninh cho giàn pháo hùng hậu của Sư đoàn không phải là dễ. Tuyến phòng thủ của đơn vị phải mở rộng, phải có những toán tiền đồn, phục kích từ xa, hầu ngăn chận không cho cộng quân mon men đến gần dùng đạn bắn thẳng hay súng cối, bắn vào uy hiếp các pháo thủ. Trung đội Biệt kích Tiểu đoàn (BK/TĐ), một tổ chức ngoài bảng cấp số, được thành lập từ khi Tướng Đảo về giữ chức Tư lệnh, với quân số đầy đủ trên 42 chiến sĩ, đặt dưới quyền chỉ huy của một Thiếu úy tốt nghiệp Võ bị Đàlạt, phụ tá là một Trung sĩ Nhất từng phục vụ trong Binh chủng Lực lượng Đặc biệt, nằm tiền đồn xa, hoạt động rất hữu hiệu. Các chiến binh của Trung đội này đều được gửi đi học các khóa Viễn Thám và Rừng Núi Sình Lầy tại Trung tâm Huấn luyện BĐQ/Dục Mỹ. Họ là những chiến binh đa năng đa dụng, rất dũng cảm. Họ từng nhảy vào Tánh Linh cắm cờ và rút lui an toàn, khi quận này bị quân CSBV đánh chiếm hồi mùa Thu năm 1974. Trước khi trận chiến mở màn, các toán trinh sát và cấp chỉ huy của Sư đoàn 341/CSBV tìm cách mon men đến gần Núi Thị điều nghiên, đã bị các toán phục kích và tiền đồn của TĐ2/43 tiêu diệt. Đêm 8.4.75, tại sườn đông Núi Ma, cách căn cứ hoả lực Núi Thị lối 2 cây số về hướng Tây-Bắc, một toán trinh sát địch trên 10 tên, gồm có tên tiền sát viên pháo và các tên chỉ huy cao cấp lọt vào tuyến phục kích của Trung đội BK/TĐ. Chúng đã bị diệt gọn do các trái mìn clamore được kích nổ kịp thời, và những tràng tiểu liên M.16 bắn chính xác. Từ đó, các toán trinh sát của địch không còn dám mạo hiểm đến gần. Suốt trong trận chiến, căn cứ hỏa lực Núi Thị không hề bị đạn bắn thẳng hay súng sối địch quấy phá. Mặc dù Tiểu đoàn Đặc công thường xuyên bám sát.
Sáng sớm ngày 9 tháng Tư, sau trận mưa pháo kéo dài lối một tiếng đồng hồ, Sư 341 tung Trung đoàn 270 có đơn vị đặc công dẫn đường, mở cuộc tấn công biển người, quyết san bằng căn cứ hỏa lực Núi Thị.
Dưới cặp mắt của một nhà quân sự, hai việc cần phải ưu tiên làm truớc nhất để đánh chiếm Xuân Lộc là:
  • Thứ nhất, phải triệt hạ Núi Thị, vì đó là một cao điểm quân sự quan trọng, có thể khống chế Xuân Lộc và ngã ba Dầu Giây.
  • Thứ hai, tiêu diệt Chiến đoàn 52 ở ngã ba Dầu Giây, vì từ đây, quân bạn có thể tiếp cứu Xuân Lộc, cũng là vị trí nối liền Biên Hòa và Xuân Lộc.
Tướng Trà đã thấy được điểm này, nên ngay sau khi từ sào huyệt Lộc Ninh xuống đến chỉ huy sở Quân đoàn 4 của Cầm đóng trên bờ sông La Ngà, sau khi nghe báo cáo tình hình thực tế, Trà đã đồng ý với ý kiến của Hoàng Cầm là phải “Tiêu diệt Trung đoàn 52 ngụy ở ngả ba Dầu Giây và Núi Thị. Sau đó đánh chiếm Xuân Lộc…”
Thật ra Cầm chậm hiểu, hay nói một cách khác là Cầm đã không tiên liệu được hoạt động hữu hiệu của căn cứ hỏa lực Núi Thị. Với suy nghĩ đơn giản, nếu không chiếm đuợc Núi Thị, thì chỉ cần khống chế bằng các loại pháo là được. Nhưng Cầm đã lầm. Các pháo thủ Sư đoàn 18 tại Núi Thị đã “đội pháo” giặc để bắn yểm trợ đơn vị bạn khi cần thiết. Quân đoàn 4 đã không chỉ thị rõ ràng và quyết liệt cho Đại tá Trần Văn Trấn, Chỉ huy Sư 341 phải ưu tiên triệt hạ Núi Thị, trước khi tiến đánh khu vực cổng số 1 của thị xã. Với trình độ chỉ huy tác chiến kém cỏi của Trấn, sau khi tung Trung đoàn 270 tiến đánh Núi Thị thất bại, đã cho lệnh rút ra, để tăng cường cho mũi tấn công của Trung đoàn 266 đang bị cầm chân ở làng Thương Phế Binh và đầu thị xã. Trấn đã không có “tư duy” của một nhà chỉ huy quân sự cấp Sư đoàn.
 Mũi tiến công của Trung đoàn 270 đã bị chận đứng ngay tại tuyến phòng ngự bên ngoài. Bộ đội CSBV từ ấp Suối Tre, từ hướng giữa đèo Mẹ Bồng Con và Núi Ma, với chiến thuật biển người cố hữu, sau khi dứt loạt đạn pháo cuối cùng, và khi nhìn thấy hai trái hỏa châu lóe sáng trên bầu trời, như dấu hiệu tấn công, đã ồ ạt vượt qua sân bay đồn điền cao su, vượt qua đường QL1, tiến vào phòng tuyến Đại đội 1 của Trung úy Chánh  và Đại đội 2 của Trung úy Mười. Đám bộ đội vượt qua khu đất trống trải là miếng mồi ngon cho những trái mìn claymore được kích nổ kịp thời, những tràng đạn tiểu liên M.16, đại liên M.60 nổ dòn, những trái lựu đạn M-26 được ném ra, đã đốn ngã tất cả bọn chúng. Một số nát thây khi lọt vào bãi mìn. Lớp trước ngã, lớp sau tiến lên, chúng như những con thiêu thân lao vào ánh đèn, với những tiếng la xung phong đặc sệt giọng Nghệ – Tỉnh rất man rợ. Dù liều chết, dù quyết tâm, chúng đành phải “sinh Bắc-tử Nam”, vẫn không chọc thủng được phòng tuyến quân bạn. Xác địch nằm la liệt trước phòng tuyến. Trời sáng dần. Chúng cố gắng mang theo đồng đội bị thương vong, nhưng vất lại vũ khí, lủi sâu vào ấp Suối Tre và Núi Ma.
Tấn công Núi Thị thất bại, tên Thủ trưởng được lệnh cho rút bớt 1 Tiểu đoàn, di chuyển về thị xã, hợp lực cùng Trung đoàn 266, tấn công  cạnh sườn Tiểu đoàn 1/48 và Chi đoàn 3/5 Thiết kỵ đang phản công chiếm lại làng TPB và Cua Heo.
Khi màn đêm xuống, toàn bộ Trung đoàn 270 được lệnh bỏ mục tiêu Núi Thị, chi viện Trung đoàn 266 đang bị cầm chân ở thị xã, chỉ để lại Tiểu đoàn đặc công. Tấn công bằng quân bộ chiến thất bại, chúng chuyển qua tấn công bằng pháo. Những trận mưa pháo tàn bạo, có tính cách hủy diệt, liên tục trút lên Núi Thị. Nhưng những pháo thủ vẫn can trường “đội pháo” bắn yểm trợ quân bạn. Dù sao, những trận mưa pháo của giặc cũng gây tổn thất đáng kể cho Tiểu đoàn. Một Đại úy Đại đội trưởng, một Thiếu úy Đại đội phó, một Sĩ quan Tham mưu và nhiều binh sĩ bị thương vong. Trực thăng tản thương phải liều lĩnh đáp xuống trong lưới đạn phòng không dày đặc, để kịp đưa các chiến sĩ bị thương nặng về Long Bình cứu chữa. Những chiến binh bị thương nhẹ vẫn ở lại tiếp tục chiến đấu. Những ai chẳng may qua đời, đơn vị đành phải an táng tại chỗ. “Vùi nông một nấm”, và sau ngày 21.4.75, đành phải “mặc tình cỏ hoang”.
Tiểu đoàn được tăng phái một Toán Kỹ thuật thuộc Biệt đội Kỹ thuật của Đại úy Phát, Phòng 7/BTTM. Trưởng toán là một Trung sĩ trẻ, anh Út, hiện định cư ở San Diego,  California, rất thành công. Út thông minh và nhanh nhẹn. Nhờ giải mã mau lẹ các cuộc điện đàm của địch, đơn vị đã giảm thiểu được tối đa sự tổn thất. Rất nhiều lần, Út báo cho TĐT những đợt tấn công pháo của Bắc quân. Có lúc lệnh cho quân sĩ xuống hầm, chờ mãi một hai phút sau đạn pháo địch mới đến. Toán Kỹ thuật cũng đưa cho xem những bản mật điện trao đổi giữa cấp chỉ huy của  quân CSBV có nội dung rất bi đát, nhưng cũng khá là khôi hài. Có một bản văn do một Thủ trưởng D, tức TĐT, gửi cho Thủ trưởng E, tức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 266 với nội dung:
“Báo cáo đồng chí Thủ trưởng, đơn vị chỉ còn 25 chiến sĩ, lương thực hết, đạn dược hết, nước uống không có, xin được rút ra”.
Bản văn trả lời của tên Thủ trưởng:
“Phải bám sát trận địa, sẽ có quân chi viện. Các đồng chí phải khắc phục!”
Đại loại nội dung các bản văn đều gần giống nhau. Cấp dưới thì tuyệt vọng, tinh thần xuống thấp. Cấp trên thì cứ hứa hẹn suôn, và giải quyết vấn đề là hai chữ “Khắc phục”, như một liều thuốc tiên!
Các Toán Kỹ Thuật là những quân nhân làm việc âm thầm trong một căn phòng nhỏ, với nhiều máy móc truyền tin. Họ là những chiến sĩ vô danh, nhưng đã gián tiếp góp công lớn trong chiến thắng Xuân Lộc. Khi bắt được những bức điện mật của quân CSBV, họ giải mã mau lẹ, và gửi ngay về Sư đoàn. Tại đây, Trung tá Thịnh, Trưởng Phòng 2/SĐ và bộ tham mưu của ông phân tích, đánh giá, phân loại, rồi trình lên tướng Tư lệnh. Nhờ những tin tức tương đối chính xác đó, đối chiếu với nhiều nguồn tin khác, Tướng Tư lệnh cho bắn pháo và xin đánh bom. Mỗi ngày Sư đoàn 3/KQ đã cung cấp đến 50 phi xuất, với những loại bom 250, 500, và 750 cân Anh đánh lên đầu giặc. Pháo binh Sư đoàn thì rất dồi dào trong những ngày đầu của trận chiến. Đây cũng là điểm son của ông Tư lệnh. Như ta đã biết, đạn dược và quân dụng của QLVNCH bị giới hạn bởi điều khoản “một đổi một” của Hiệp định Paris, nên ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, Tướng Đảo đã chỉ thị các đơn vị trưởng báo cáo con số tiêu thụ đạn dược gấp hai hay ba lần con số thực. Số sai biệt đó, các đơn vị chôn dấu để qua mắt Phái đoàn Thanh tra của BTTM/QLVNCH. Chính nhờ số đạn dự trử được chôn dấu đó, được các chiến binh Sư đoàn 18BB đem ra xử dụng tối đa trong những ngày đầu của trận chiến, đã ngăn chận được những đợt tấn công biển người của quân giặc.
Suốt 12 ngày đêm của trận chiến Xuân Lộc, căn cứ Núi Thị vẫn đứng vững. Trung đoàn 270 thuộc Sư 341/CSBV do tên Đại tá Trần Văn Trấn chỉ huy, phối hợp cùng 1 Tiểu đoàn Đặc công, đã hai lần mở cuộc tấn công qui mô, nhưng đều thảm bại. Bộ đội địch đã không thể nào vượt qua khỏi tuyến chiến đấu ngoài cùng của đơn vị phòng thủ. Vô số bọn cán binh CSBV bị thương vong, vẫn không chọc thủng được phòng tuyến. Tên Sư trưởng Trấn đành phải bỏ cuộc, lệnh cho đơn vị này nằm tại chỗ bao vây, và đơn vị đặc công tìm cách đột nhập quấy phá. Mười hai khâu pháo tại căn cứ là miếng mồi ngon cho những tên “sinh Bắc tử Nam” này. Nhưng dù có liều lĩnh, dù “cố đấm ăn xôi”, trước sau đều thất bại. Trong số xác cộng quân để lại tại trận địa, ta phát hiện một tên cấp Thiếu úy, chức vụ C trưởng (đại đội trưởng). Thế nhưng CSBV vẫn lếu láo. Và Tướng Trà trong quyển “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, trang 262, đã viết: “Đêm 13 rạng ngày 14.4, theo quyết tâm mới của quân đoàn 4, sư đoàn 6 đã tiêu diệt gọn một tiểu đàn của trung đoàn 52 thuộc sư đoàn 18 và mộ chi đoàn thiết giáp, giải phóng ngã ba Dầu Giây. Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”
c/- Góc chiến trường hướng Tây:
  • Sư đoàn 6/CSBV:
    • Trung đoàn 812 làm lực lượng trừ bị. Trung đoàn này thuộc Quân khu 6, còn có tên là Sư đoàn Sông Mao. Trong những ngày cuối tháng 3, tham gia chiến dịch đánh chiếm Võ Đắc và Võ Su của quận Hoài đức. Sau đó tiến về hướng Bắc, đánh chiếm Di Linh của tỉnh Lâm Đồng.
    • Trung đoàn 274 tiến chiếm Đèo Mẹ Bồng Con, cách Núi Thị lối 3 cây số về hướng Tây. Đơn vị này đã tổ chức hệ thống kiềng chốt khá kiên cố để có thể ngăn chận quân bạn cứu viện từ Dầu giây, từ Xuân Lộc hay ngược lại. Một con suối nhỏ chảy qua Đèo, nối liền Núi Ma đến cánh rừng phía Nam, đi ngang qua đồn điền cao su de Suzannah. Đó là con đường tiến sát rất an toàn, có rừng cây che mắt phi cơ quan sát. Một bộ phận tiến chiếm ấp Trần Hưng Đạo (chỉ có 1 Trung đội NQ giữ an ninh).
    • Trung đoàn 33 tiến chiếm ấp Phan Bội Châu (cách ngã ba Dầu Giây hơn 1 cây số về hướng Nam), và đánh xã Hưng Lộc – Hưng Nghĩa. Tại đây, lực lượng trú phòng chỉ là NQ và Nhân Dân Tự Vệ. Nhưng các chiến sĩ áo đen đã chống trả quyết liệt. Họ đã giữ được Hưng Nghĩa, nhưng Hưng Lộc lọt vào tay giặc. Ngã ba Dầu Giây được Tiểu đoàn 1/52 của Thiếu tá Cam Phú trấn giữ, và chỉ mất vào tay giặc buổi tối ngày 13.4.75. Trung đoàn 33 còn có tên Trung đoàn Quyết Thắng Long Khánh. Đơn vị này dù mang danh là Quyết Thắng, nhưng đã hơn ba lần đại bại trước Tiểu đoàn 2/43 (Trận đánh Cẩm Mỹ, trận đánh tại ngã ba Dầu Giây ngày đình chiến tháng 1.73, và trận Võ Đắc – Võ Su tháng 12 năm 1974). Tên Thủ trưởng Trung đoàn 33 đã chỉ thị cho bộ đội của hắn tránh đụng độ TĐ2/43. Khi tao ngộ chiến, phải tìm cách chém vè, nếu không muốn bị tiêu diệt (Theo cung từ tên tù binh Trung đội trưởng thuộc Trung đoàn 33 bị bắt tại trận đánh ở ngã ba Dầu Giây, và một mảnh giấy viết vội để lại trên một đống vũ khí tại Võ Đắc ghi: “chúng tôi thua phen này, hẹn gặp lại”).
Tình thế đã bất lợi về phía quân CSBV. Trần Văn Trà thú nhận trong tập hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm”: “… vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căn thẳng. Địch phản kích điên cuồng tuy chúng bị thiệt hại nặng. Máy bay địch đánh phá ác liệt, có tính chất hủy diệt các mục tiêu chúng đã mất (sai, chỉ mất khu bến xe và khu chợ trong buổi sáng đầu tiên, nhưng chỉ tái chiếm bằng bộ binh, không hề đánh bom, vì nằm bên trong thị xã). Quân đoàn đã kêu thiếu đạn các loại nhất là sư đoàn 1 (tức 341) và sư đoàn 6. sư đoàn 7 thì thiếu quân số…Rồi báo báo cáo từng vị trí ta chiếm được phải bỏ lần lượt. Có vị trí thay đổi chủ vài lần (khu bến xe và khu chợ). Số thương vong của sư đoàn 1 cao hơn các đơn vị khác vì kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều ở chiến trường ác liệt. Tình hình rất gay go.”
Lịch sử cái gọi là “Quân đội Nhân dân” viết: “Trong 3 ngày đầu tiên (9,10,11/4/75) Sư đoàn 7 thiệt hại 300 chiến sĩ, và Sư đoàn 341 tổn thất 1,200, hầu hết pháo 85ly và 57ly bị tiêu hủy”.
Lê Đức Thọ: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”.
Ngày 11.4, sau 3 ngày tấn công vào Xuân Lộc thất bại, tên “Thái Thượng Hoàng” không ngai Lê Đức Thọ cùng  Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) và Trần Văn Trà họp khẩn cấp để tìm “phương án” mới.
Sau cuộc họp của các tên đầu sỏ, Trần Văn Trà được phái đến mặt trận Xuân Lộc tìm hiểu cụ thể để có thể đề ra “phương án” mới thực tế hơn, thích hợp hơn với tình hình đang biến chuyển mau lẹ, nếu cần, Trà sẽ trực tiếp nắm quyền chỉ huy mặt trận Xuân Lộc.
Chiều ngày 11 tháng Tư, Trà lên đường đến thẳng chỉ huy sở của Quân đoàn 4 đóng trên bờ sông La Ngà. Trà vượt sông Đồng Nai bằng phà tại bến Tà Lài, ra gặp QL.20 ở Phương Lâm. Sau khi quan sát thế trận tại chỗ, theo dõi hoạt động không quân và pháo binh của ta, được báo cáo kỹ tình hình diễn biến trận đánh, tình hình quân ta và thực lực của chúng, Trà quyết định chọn một giải pháp mới.
Quân đoàn 4 được tăng cường thêm Trung đoàn 95B vừa từ ngoài Trung vào. Đó là một trong những đơn vị thiện chiến nhất của quân CSBV. Đơn vị này đã tham gia chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột, rồi được tăng cường cho Sư đoàn 320 ngăn chận đoàn quân di tản của Quân đoàn II từ Cao Nguyên, trên con đường 7B. Các đơn vị của Cầm gấp rút được bổ sung quân số và đạn dược, chúng lại được tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng, một số pháo tầm xa và cao xạ phòng không.
Trận chiến đã bước sang ngày thứ ba, bộ đội của Cầm vẫn dậm chân tại chỗ. Sau khi quan sát tình hình thực tế, nhất là khi thấy Xuân Lộc được quân Dù tăng viện, Trần Văn Trà quyết định triễn khai kế hoạch mới. Với kế hoạch này, giặc không đánh trực diện, mà tìm cách đánh vào những vị trí ngoại vi của Xuân Lộc:
1/- Ngã ba Dầu Giây: Tuyến phòng thủ chỉ là CĐ52 (-) của Đại tá Ngô Kỳ Dũng (TĐ2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út đã được lệnh xuất phái cho Xuân Lộc từ chiều ngày 11.4). Tuyến bố phòng chưa được vững chắc vì mới di chuyển về đây chiều ngày 8.4 thì rạng sáng ngày 9.4 trận chiến đã mở màn. Quân số không nhiều.
2/- Núi Thị: Tuyến phòng thủ chỉ có một Tiểu đoàn. Dù hệ thống bố phòng vững chắc, nhưng nếu lực lượng tấn công là cấp Trung đoàn, được tăng cường thêm đơn vị đặc công, lấy nhiều đánh ít, thì lực lượng trú phòng khó chống đở. Nếu là mộ cấp chỉ huy quân sự giỏi, Tướng Trà và Tướng Cầm phải bằng mọi cách triệt hạ Núi Thị trước khi tiến đánh Xuân Lộc. Hay là cùng tiến đánh, nhưng mục tiêu Núi Thị phải ưu tiên hàng đầu. Trà và Cầm đã bỏ lỡ cơ hội “ngàn vàng”.
Lúc này lực lượng trấn thủ Xuân Lộc đã có thêm TĐ2/48 của Thiếu tá Đổ Duy Luật đang bảo vệ thị xã Hàm Tân (Bình Tuy) được trực thăng vận về; TĐ2/52 của Đại úy Huỳnh Văn Út đang trấn đóng vùng ngã ba Dầu Giây được lệnh tăng cường Xuân Lộc. Như vậy đến cuối ngày 11.4.75, lực lượng trú phòng tại Xuân Lộc đã có 2 Trung đoàn Bộ binh, 1 Tiểu đoàn BĐQ, 1 Thiết đoàn (-), và ĐĐ18TS.
Tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân “Giải Phóng” và Tướng Hoàng Cầm, TL/QĐ4 đều nhận định không thể tiếp tục đánh Xuân Lộc. Vì đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ, càng đánh càng thua. Trà chỉ thị Hoàng Cầm:
  • Xử dụng 1 Sư đoàn tiêu diệt CĐ 52 ở Dầu Giây và TĐ 2/43 ở Núi Thị.
Lực lượng mạnh của QĐ4 (Sư 7) kèm chặt Xuân Lộc.
1
Ngày 12 tháng Tư, Quân đoàn III xử dụng một trong hai lực lượng trừ bị cuối cùng (lực lượng kia là Lữ đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi), là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, cho trực thăng vận vào Xuân Lộc. Đơn vị này vừa từ ngoài Trung vào, chưa kịp nghỉ ngơi, nhưng với quyết tâm “Nhảy Dù! Cố gắng!”, những thiên thần mũ đỏ gồm các Tiểu đoàn 1, 8, 9, ĐĐ1/TS, ĐĐ3/CB, ĐĐ1/QYDù và TĐ3/PBDù, đã làm cho Sư 7 của Lê Nam Phong thất điên bát đảo!
Khi Lữ đoàn 1 Dù vào, Chiến đoàn 48 bàn giao trách nhiệm, di chuyển về bố trí dọc theo LTL.2 từ ngã ba Tân Phong (Chi khu Xuân Lộc), phía Nam thị xã, đến căn cứ Long Giao (Hậu cứ Trung đoàn 48); trở thành lực lượng trừ bị cho Sư đoàn.
Theo Hồi ký Chiến trường của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ đoàn trưởng LĐ1Dù, vừa nhảy vào trận địa, các đơn vị Dù liền mở cuộc hành quân phản công địch. TĐ9Dù tiến quân về hướng Đông, tìm cách bắt tay với lực lượng Nghĩa Quân tại hai ấp Bảo Định và Bảo Bình. Mặc dù là lực lượng bán quân sự với quân số rất khiêm nhường, nhưng các chiến sĩ Nghĩa Quân đã chiến đấu kiên cường, giữ được xã ấp cho đến khi quân Dù đến. Nhưng một tin xấu đã đến với quân Dù, do không liên lạc được với nhau, những trái đạn súng cối từ trong ấp bắn ra đã gây thương tích trầm trọng cho vị TĐT, Trung tá Nho và hai binh sĩ. Sau khi bắt tay được với lực lượng trú phòng, TĐ9 và TĐ1 hoán đổi nhiệm vụ.
TĐ8Dù tiến quân tảo thanh hướng Bắc QL.1, đã chạm súng mạnh với TĐ1/141/CSBV, hạ sát nhiều quân giặc. Với lối đánh thần tốc và táo bạo của các thiên thần mũ đỏ, vòng vây quân CSBV bị tan rã dần.
Tại trận chiến Xuân Lộc, Biệt Đội Kỹ Thuật thuộc Phòng 7/BTTM, với những chuyên viên giải mã giỏi, đã góp công lớn tạo nên chiến thắng mà bớt đổ máu. BĐKT bắt được những mật điện của chúng với nội dung hoàn toàn tuyệt vọng:
“Tình hình thật khẩn trương. Đồng chí N. (TĐT/TĐ1) và nhiều đồng chí khác hy sinh, phải chôn tại chỗ. Chúng tôi đang tìm đường rút, nhưng bị quân Dù ngụy bao vây mọi hướng.”
      Nhưng sau 35 năm trận chiến, Lê Nam Phong đã là Trung tướng, được đề bạt chỉ huy Quân đoàn 1, trong một bài phỏng vấn, đã nói khoác: “Bộ đội chúng tôi ngừng tấn công thị xã, chuyển ra tấn công trên QL.1 để bao vây Xuân Lộc, chỉ để lại một đơn vị nhỏ bám sát trận địa. Nhưng địch lầm tưởng chúng đã đẩy chúng tôi ra…” Thật ra chúng không bị đẩy ra, mà bị bao vây chia cắt, bị tấn công tiêu diệt, không rút ra được. “Đơn vị nhỏ” mà Tướng Lê Nam Phong nói là Sư đoàn 7 do hắn chỉ huy!
Một bức điện mật khác:
“Lương thực hết. Hơn 100 chiến sĩ hy sinh, phải vùi họ ngay tại chỗ. Nhiều đồng chí bị thương. Chúng tôi không thể mang theo số vũ khí và máy truyền tin. Xin đồng chí Thủ trưởng cho chỉ thị…”
Mật điện trả lời của tên Thủ trưởng:
“Nếu không mang theo được thì hãy chôn và đánh dấu…Tôi muốn nhắc nhở các đồng chí…hãy nhớ đến chiến thắng Điện Biên Phủ và Tàu Ô. Đêm nay tôi sẽ cho Đại đội Trinh sát vào mang các đồng chí ra”.
Nhờ BĐKT giải mã kịp thời, quân bạn biết được ý định của quân CSBV, cho dàn trận phục kích. Đêm đó, khi đơn vị trinh sát địch xuất hiện, chúng đã lọt vào bẫy sập của TĐ1Dù, tất cả bị diệt gọn.
Một vài bức điện mật khác của quân CSBV:
“Hiện tại chúng tôi chỉ còn 39 chiến sĩ, nhưng đã có gần 200 đồng chí bị thương. Việc di chuyển rất khó khăn. Chúng tôi không thể bắt tay được với đơn vị trinh sát”.
“Đêm nay TĐ2 sẽ chi viện các đồng chí. Các đồng chí phải giữ vững tinh thần.”
TĐ1Dù lại áp dụng chiến thuật cũ, nhưng lần này, TĐ3/PBDù đã góp công lớn. Những loạt đạn với đầu nổ cao, đầu chạm nổ, đã tiêu diệt hoàn toàn những tên sống sót của đơn vị thuộc Trung đoàn 141, Sư đoàn 7/CSBV.
Chính nhờ hoạt động hữu hiệu của Toán BĐKT, quân bạn đã có hành động đúng lúc, đúng chỗ. Do đó sự thiệt hại của quân CSBV là không tránh khỏi.
Nhưng tên cựu Sư trưởng Sư 7 Lê Nam Phong đã nói dốc không biết ngượng miệng: “…Đối diện với hiểm nguy bị tiêu diệt, Tướng Đảo phải bỏ Xuân Lộc và đã chuồn đi trong đêm mưa. Ngày 21 tháng Tư, 1975, sau 13 ngày chiến đấu ác liệt, thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh long Khánh hoàn toàn được giải phóng.
Tiêu diệt cánh cửa thép Xuân Lộc, Quân đoàn 4 đã mở con đường cho đại quân của ta tiến về Sàigòn, với tinh thần ‘một ngày bằng 20 năm’…”
Nếu không được lệnh bỏ ngõ Xuân Lộc, vẫn giữ trận địa, cứ để cho QĐ2 và các đơn vị QK5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh từ hướng QL.15 đánh lên, QĐ3 từ hướng QL.20 đánh xuống, ta xử dụng bom BLU-82 hay CBU-55 đánh hủy diệt các mũi tiến công của chúng, rồi lực lượng ta từ Xuân Lộc đánh tập hậu, thì liệu quân CSBV có vượt qua được sông Đồng Nai để tiến về Sàigòn ngày 30.4.75 (?), hay đã bị tan tác.
Qua các bức điện mật, và những cuộc điện đàm được giải mã, ta thấy rõ TĐ1 Trung đoàn 141 thuộc Sư đoàn của hắn đã bị quân Dù xóa sổ, các đơn vị khác cũng kiệt quệ, có tiểu đoàn chỉ còn 39 tên. Nhưng cái bệnh ba hoa khoác loác, làm láo báo cáo hay của con người cộng sản thì đã thành cố tật, không thể sửa chữa được. Cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã để lại một câu nói để đời:
“Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm”.
Từ chủ động tấn công, chọn thời gian, chọn địa điểm, bây giờ quân xâm lăng CSBV đã rơi vào thế bị động. Chúng chỉ lo co cụm và chống đở, hoặc tìm cách “chém vè” để sống sót. Các đơn vị tham chiến của Hoàng Cầm hầu như hoàn toàn tan rã và mất tinh thần. Cái hào quang Điện Biên Phủ năm nào, khi Cầm là Trung đoàn trưởng cùng bộ đội Việt Minh cắm lá cờ chiến thắng lên nóc hầm của Tướng bại trận de Castries, đã tiêu tan. Bây giờ Cầm chỉ là tên bại Tướng! Tên Hoàng Nghĩa Khánh, Tham mưu trưởng Quân đoàn làm một bản phân tích tình hình, rồi đề nghị:
“Bỏ Long Khánh, đi vòng diệt Trảng Bom rồi đánh Biên Hòa”. Hoàng Cầm thì đề nghị: “…diệt Trung đoàn 52 ở ngã ba Dầu Giây và Tiểu đoàn 2/43 ở Núi Thị, rồi đánh chiếm Xuân Lộc.”
Sau khi tổng hợp các ý kiến, Trà kết luận:
“Xuân Lộc là điểm then chốt quan trọng, nên địch cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế. Ta không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi…Địch từ Túc Trưng đến ngã ba Dầu Giây không mạnh. Ta phải tận dụng lợi thế này của đường 20 và sơ hở này của địch …”
Căn cứ vào những phân tích ấy, Trà quyết định:
  • Xử dụng 1 sư đoàn tiêu diệt Trung đoàn 52 ở Dầu Giây và Tiểu đoàn 2/43 ở Núi Thị. Chận và diệt quân tiếp viện từ Trảng Bom ra.
  • Lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc.
Chính Trà quyết định lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc, thế mà Tướng Lê Nam Phong nói: “chỉ để lại một đơn vị nhỏ…”. Thật là láo khoét. Lịch sử được viết lại theo quan điểm của kẻ thắng. Mặc dù Sư 7 của Lê Nam Phong, Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm bị đại bại, nhưng đứng trong phe chiến thắng, nên chúng tha hồ “vẽ rắn thêm chân”. Bảo Ninh, một tên văn nô Hànội, cũng với giọng điệu Lê Nam Phong, viết trong quyển “Nổi Buồn Chiến Tranh”, rằng “…Hồi bọn tớ tràn qua Xuân Lộc đuổi đánh bọn lính sư đoàn 18, ở những rãnh xích đầy những thịt với tóc. Giòi lúc nhúc. Thối khẳn. Xe chạy tới đâu ruồi bâu tới đấy…” Thật là dị hợm! Nói không biệt ngượng miệng. Nhưng thật đáng tiếc, sách của hắn đã được Hànội cho dịch ra rất nhiều thứ tiếng để tuyên truyền, và lừa bịp những ai cả tin. Người đọc mấy ai biết được sự thật. Trong suốt 12 ngày đêm chiến trận, không một chiếc xe tăng nào của Bắc quân vào được bên trong thị xã. Chỉ có vài chiếc chạy về hướng sân bay thì bị các chiến sĩ Mũ Nâu săn lùng và bắn hạ. Còn lại phần lớn bị thiêu hủy từ ngoài vòng rào kẽm gai. Một số mon men đến gần thì bị trúng mìn, bị M.72 hay súng nòng dài của chiến xa Thiết đoàn 5 Kỵ binh bắn hạ.
Quân CSBV đã thay đổi kế hoạch trước khi quân Dù đến. Thi hành chỉ thị của Trần Văn Trà,  Sư đoàn 341 được lệnh của Hoàng Cầm rút ra, lùi về phía sau để tránh bị tiêu diệt. Ngay trong đêm, Trung đoàn 266 đã hoàn tất việc rút quân, Trung đoàn 270 được lệnh trở lại Núi Thị, tăng cường Tiểu đoàn Đặc công, tiếp tục  mở những cuộc tấn công vào căn cứ hỏa lực đơn độc này. Sư đoàn 6 vẫn ở nguyên vị trí, phối hợp cùng Trung đoàn 95B, một đơn vị thiện chiến của CSBV, từ Cao Nguyên vừa được Tướng Văn Tiến Dũng điều động xuống tăng cường Quân đoàn 4.  Giặc đang triễn khai kế hoạch mới. Theo kế hoạch này, Sư đoàn 7 phải chận đứng các cuộc tiến công của quân Dù. Nhưng “lực bất tòng tâm”. Mặc dù cố gắng, mặc dù hạ quyết tâm, Sư 7 cũng đã bị đánh tan tác, bị đại bại. Tội nghiệp cho Lê Nam Phong phải chịu đựng những quả đấm mạnh của các Thiên thần Mũ đỏ.
Trong lúc đó lực lượng Quân đoàn 2 của Thiếu tướng Nguyễn Hữu An và Sư đoàn 3 của Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lãnh, từ ngoài Trung đang tiến vào theo đường duyên hải. Chúng được vận chuyển bằng xe molotova, chạy phon phon trên đường QL.1. Giặc đã xuất hiện ở Rừng Lá. Rừng lá chỉ cách Xuân Lộc hơn 1 giờ xe hơi!
Ngày 13 tháng Tư, Trung đoàn 95B đã vào vùng. Ngoài ra Quân đoàn 4 cũng được tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng, một số pháo và cao xạ, đồng thời gấp rút bổ sung quân số và đạn dược.
V- MẶT TRẬN PHÍA TÂY: NGÃ BA DẦU GIÂY       
1/- PHÒNG TUYẾN CHIẾN ĐOÀN 52:
Chiến đoàn 52 do Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, từ Kiệm Tân, di chuyển về lập tuyến phòng ngự tại khu vực ngã ba Dầu Giây từ tối ngày 8.4.1975.
Tiểu đoàn 3/52 do Thiếu tá Phan Tấn Mỹ chỉ huy, cho Đại đội 1/3 của Trung úy Nguyễn Thanh Trường trấn giữ đồi Móng Ngựa. Tiểu đoàn 1/52 do Thiếu tá Cam Phú bố trí quân khu vực ngã ba Dầu Giây. Tiểu đoàn 2/52 do Đại úy Huỳnh Văn Út chỉ huy, phòng thủ chung với CĐ, gần ấp Nguyễn Thái Học (Đêm 11.4, đơn vị này được lệnh tăng cường cho Mặt trận Xuân Lộc).
Khi tấn công Xuân Lộc, quân CSBV chỉ bị bắn pháo và quấy rối tuyến phòng ngự  của CĐ52. Sau khi thất bại tại Xuân Lộc, quân CSBV thay đổi kế hoạch. Tuyến phòng ngự CĐ52 là ưu tiên 1 phải tiêu diệt, sau đó là căn cứ hỏa lực Núi Thị. Là những cứ điểm hỗ trợ bên ngoài của Xuân Lộc. Kế hoạch mới này được chính Trần Văn Trà mang tay xuống từ sào huyệt Lộc Ninh. Theo dự tính của các tên đầu sỏ Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, và Phạm Hùng, Tướng Trần Văn Trà phải nhanh chóng đến BTL/QĐ4 của Tướng Hoàng Cầm tìm hiểu thực tế chiến trường. Nếu cần sẽ thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp  chỉ huy QĐ4. Do đó tình báo của phe ta đã nhầm lẫn khi cho rằng Hoàng Cầm bị Trần Văn Trà thay thế.
Trưa ngày 13 tháng Tư, Sư đoàn 6 mở cuộc tấn công Tiểu đoàn 1/52 của Thiếu tá Cam Phú. Thiếu úy Phạm Văn Trung (hiện định cư tại Cali.), Trung đội trưởng thuộc ĐĐ2/1 cho biết: “Trước khi tấn công, quân CSBV bắt loa kêu gọi đầu hàng. Chúng nói cho 15 phút suy nghĩ. Sau đó thì bắt đầu bắn pháo. Những loạt đạn đại pháo, súng cối đủ loại rót vào các vị trí đóng quân của đơn vị. Sau đợt “tiền pháo” là “hậu xung”. Giặc mở những đợt tấn công biển người, hết đợt này đến đợt khác. Lớp trước bị đốn ngả, lớp sau tiến lên. Hình như chúng bị say thuốc súng, hay đã được cho uống thuốc kích thích? Quân số Tiểu đoàn 1/52 bị hao hụt nhiều mà chưa kịp bổ sung. Đại đội 2/1 chỉ còn 50 tay súng! Một Chi đội M-113 đến tiếp ứng, nhưng bị bắn cháy 1 chiếc. Dù đã chống trả quyết liệt, nhưng bọn chúng quá đông, kiểu “lấy thịt đè người”, cuối cùng đơn vị bị tràn ngập. Số sống sót phải rút về BCH/CĐ tại ấp Nguyễn Thái Học”.
Tiêu diệt xong TĐ1/52, Trà cho lệnh Cầm điều quân đánh Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế tại Núi Thị. Vị trí bố phòng của TĐ1/52 và TĐ2/43 đều nằm ngoài tuyến bố phòng của Xuân Lộc. “Hồ hỡi” vì diệt được TĐ1/52, Cầm liền cho mở lại cuộc tấn công qui mô vào Núi Thị. Nhưng tuyến bố phòng của TĐ2/43 đã được các chiến binh can trường trấn giữ. Vả lại Núi Thị là hậu cứ của Tiểu đoàn, đã được bố phòng cẩn mật, rất vững chắc. Ngoài 600 tay súng dũng cảm, căn cứ còn có 12 khẩu đại pháo loại 105ly và 155ly, có thể hạ thấp nòng trực xạ vào đội hình tấn công của giặc với những trái đạn chống biển người. Quân xâm lăng CSBV đánh Núi Thị là đã đụng vào bức tường thép. “Bức Tường Thép” đúng nghĩa! Thật là dại dột khi không biết lượng sức. Suy nghĩ của Trung tướng Trần Văn Trà và Thiếu tướng Hoàng Cầm quá nông cạn, quá kém cỏi. Tư tưởng khinh địch lại về trong những bộ óc thiếu trình độ học vấn. Trần Văn Trà chỉ học xong 3 năm tại Trường Bá Công tức Trường Kỹ nghệ Thực hành Huế (trình độ cấp 2), còn Hoàng Cầm thì chỉ biết đọc và biết viết nhờ được theo học các lớp bình dân học vụ (chưa qua cấp 1) sau khi đã tham gia bộ đội Việt Minh. Khả năng phán đoán của hai tên tướng này lại quá kém, đã “Không biết mình, không biết người” như binh thư Tôn Tử viết. Bộ đội của Cầm bị thất bại là lẽ đương nhiên. Câu câm ngôn của CS là “Cứu cánh biện minh phương tiện”. Tên tướng bậc đàn anh là Võ Nguyên Giáp đã nướng hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn bộ đội để cố đạt cho được một chiến thắng. Bây giờ Cầm cũng thế. Nhưng hắn đã không làm được.
Lại một lần nữa, Trung đoàn 270 thuộc Sư đoàn 341/CSBV chuốc lấy thảm bại.   Trung đoàn 270 bỏ lại nhiều xác chết, phải rút ra. Tiểu đoàn đặc công vẫn bám sát, tiếp tục quấy phá. Nhưng các toán đặc công xâm nhập đều bị tiêu diệt ngay tại tuyến bố phòng ngoài cùng. Trong số đó có tên Thiếu úy cấp C trưởng, tức Đại đội trưởng. Tên này bị hạ sát ngay khi mới mon men đến vị trí cấp Trung đội, ĐĐ1/2 của Trung úy Chánh. Hai lần mở cuộc tấn công qui mô Núi Thị, hai lần đều thảm bại.  Nhưng thật là trơ trẽn khi Trà viết:
“Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”
“Núi Thị” mà Thượng tướng Trần Văn Trà viết trong Hồi ký KẾT THÚC CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM, chắc chắn không phải là Núi Thị do TĐ2/43 trấn giữ trong trận chiến Xuân Lộc. Núi Thị đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng trong tâm trí kém cỏi của Trà. Cũng như tên Sư trưởng Sư 341 Trần Văn Trấn tuyên bố đã đánh sập cây antenna 292 tại Núi Thị trong loạt đạn pháo đầu tiên, cũng chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng. Thật ra nếu pháo có đánh sập cây antenna thì chỉ là chuyện nhỏ, nó không gây ảnh hưởng gì đến hệ thống truyền tin của TĐ2/43, có thể sẽ bị gián đoạn trong chốc lác. Thế mà Trần Văn Trấn đã coi đó là một kỳ công! “Một điều bất tín, vạn sự bất tin”. Hồi ký của Trần Văn Trà, của Văn Tiến Dũng đều chứa đựng những điều dối trá và khoác lác. Thế mà cũng có lắm kẻ tin! Đúng là những kẻ khờ!
Ngày 15 tháng Tư, Chiến đoàn 52 bị địch đánh từ hai phía: Phía Nam, từ ngã ba Dầu Giây (vị trí này chúng chiếm được đêm 13 tháng Tư) do Sư đoàn 6 án ngữ. Đơn vị này còn có nhiệm vụ bám sát, cầm chân Trung đoàn 8 của Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng, thuộc Sư đoàn 5BB tại Hưng Nghĩa. Nhiệm vụ thứ hai là bố trí quân chận đánh Lữ đoàn 3 Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi sẽ ra cứu viện từ Biên Hòa. Nhiệm vụ thứ ba là chận đánh quân cứu viện từ Xuân Lộc. Trung đoàn 274 đã thiết lập một hệ thống kiềng chốt rất kiên cố tại đèo Mẹ Bồng Con. Trung đoàn 812 thì đang bố trí quân tại những khu rừng cao su của đồn điền Suzannah. Lực lượng án ngữ phía Nam tại ngã ba như cái đe, để phía Bắc, Trung đoàn 95B như cái búa, với sự trợ lực của các đơn vị thuộc Sư đoàn 341 vừa được lệnh rút ra khỏi Xuân Lộc, như Tướng Lê Nam Phong viết:
“Bộ đội chúng tôi ngừng tấn công vào các mục tiêu trong thành phố, và chuyển ra tấn công trên QL.1 để cô lập Xuân Lộc”.
Trung úy Nguyễn Thanh Trường (hiện định cư tại Miami, Florida), một Đại đội trưởng xuất sắc của TĐ3/52, từng lập được nhiều chiến công tại mặt trận An Điền – Rạch Bắp tháng 6 năm 1974, đã cho người viết biết như Thiếu tá Phan Tấn Mỹ (Ý Yên) viết trong bài Trận Đánh Đồi Móng Ngựa: “Hồi nửa đêm 11 tháng Tư, tổ phục kích mìn của Trường tại phía đông bắc Đồi Móng Ngựa hạ sát 17 giặc, trong đó có 4 cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn Trung cộng rất tinh xảo, 4 bản đồ nổi pictomaps, và đặc biệt một công vụ lệnh ghi: “Đoàn nghiên cứu quân sự đặc biệt 301 – Nay đề cử 4 đồng chí (lâu ngày quên tên) lên đường nghiên cứu thực địa chiến trường Thủ Biên Xuân Lộc. Ngày lên đường: 2 tháng Tư 1975 – Ngày chấm dứt nhiệm vụ: 30.4.75”
Khi mặt trận ngã ba Dầu Giây bùng nổ, Chiến đoàn 52 bị tấn công, Tướng Toàn, TL/QĐIII cho lệnh Lữ đoàn 3 xung kích của Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom (Biên Hòa) mở cuộc hành quân tiếp cứu.
Lực lượng của Tướng Khôi rất mạnh. Lữ đoàn 3 Xung kích có trên 200 chiến xa M-41, M-48 và thiết quân vận M-113, được thành lập thành 3 Chiến đoàn 315, 318 và 322. Mỗi Chiến đoàn đều có 1 Tiểu đoàn BĐQ tùng thiết. Nhưng lực lượng chận viện của quân CSBV lại hùng hậu hơn. Ngay từ những ngày đầu của trận chiến Xuân Lộc, Sư đoàn 6/CSBV đã thiết lập một hệ thống kiềng chốt rất kiêng cố từ xã Hưng Lộc đến đèo Mẹ Bồng Con. Quân của Tướng Khôi vừa đi vừa đánh, nên nhịp độ tiến quân quá chậm. Trên đường từ Trảng Bom ra Bàu Cá, từ Bàu Cá đến Hưng Nghĩa, quân của Tướng Khôi  đã gặp các cụm kiềng chốt của Sư đoàn 6 ngăn chận. Với 2 Chiến đoàn 315 và 322, quân của Tướng Khôi tiến theo trục lộ QL.1. Mặc dù cố gắng diệt chốt nhanh, tiến lẹ, để có thể bắt tay Chiến đoàn 52 đang bị vây khốn tại ấp Nguyễn Thái Học, nhưng kết quả không như ý muốn. Theo J. Veith, tác giả của “Fighting Is An Art”, Chi đoàn 1/15 của Đại úy Bảng có Tiểu đoàn 64/BĐQ tùng thiết, đã thành công khi chiếm ngọn đồi 122, một cao điểm ở hướng Bắc Hưng Lộc. Nhưng địch nhanh chóng tổ chức phản công. Lực lượng của Tướng Khôi đã không vượt qua khỏi ngọn đồi này. J. Veith viết lại theo lời tường thuật của Đại úy Bảng: “Quân địch đông như kiến, chúng mở những đợt tấn công biển người từ ba hướng…Trong tình trạng tuyệt vọng, tôi yêu cầu Chiến đoàn bắn pháo và không yểm. Thật không may mắn, chúng tôi chỉ nhận được vài trực thăng võ trang đến bắn yểm trợ…Bắc quân tiếp tục tấn công, mỗi lúc càng thêm ác liệt. Tôi nghĩ rằng VC sẽ tràn ngập ngọn đồi hay bao vây chia cắt…Thình lình, VC rút lui, trận đánh tàn lụi. Chúng tôi tổn thất 20, BĐQ lối 40. Xác địch nằm la liệt…” (có thể thời điểm đó là lúc CĐ52 đã bị quân giặc tràn ngập).
Không có quân cứu viện, địch mỗi lúc điều thêm quân vào trận, áp lực đè nặng.
“Về chiều, pháo giặc càng gia tăng nóng nảy dữ dằn hơn. Căn hầm Đại tá Dũng bị sập. Hai chiếc xe tăng M-41 bốc khói ngùn ngụt ở cuối sân. Ông Dũng thoát khỏi hầm an toàn, lem luốc, chạy sang BCH/TĐ3/52 đặt gần thung lũng. Cây anten dựng lên, lại bị đánh gãy nằm gục bên sân. Bên kia sân, Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước toàn thân đen đúa tiếp tục điều khiển tác xạ…” (Thiếu tá Phan Tấn Mỹ: Trận Đánh Đồi Móng Ngựa)
Xe pháo ngổn ngang, khói đen bốc lên ngùn ngụt, phòng tuyến vỡ. Địch đã xông vào bên trong. Tiếng la xung phong của địch, giọng nói đặc sệt bắc kỳ nghe rõ mồn một qua ống liên hợp máy PRC-25, xen lẫn tiếng cầu cứu của Trung tá Chiến đoàn phó Đổ Văn Tân.
Tại đồi Móng Ngựa, cao điểm trông xuống QL.20, do Đại đội 1/3 của Trung úy Nguyễn Thanh Trường trấn giữ. Từ lúc 5 giờ sáng, Cộng quân bắt đầu bắn pháo. Sơn pháo địch từ Núi Ma, từ các cánh rừng bao quanh liên tiếp nã vào ngọn đồi. Sau đó là những đợt xung phong biển người. Trận đánh để làm chủ ngọn đồi đã xảy ra vô cùng ác liệt. Quân bạn cố giữ, quân địch cố chiếm. Ta bắt được một số tù binh. Chúng thuộc Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 95B vừa từ Cao Nguyên xuống. Đến 8 giờ 30, Đại đội 4/3 của Thiếu úy Mai Mạnh Liêu được lệnh tăng viện. Hai Đại đội 1 của Trường và 4 của Liêu được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đại úy TĐP Hà Văn Cho.
Cùng chung số phận với BCH/CĐ, đồi Móng Ngựa đã đón nhận hàng ngàn trái đạn pháo của giặc. Đến 2 giờ chiều, Tiểu đoàn 2/95B/CSBV bắt đầu xua quân tràn lên đồi. Pháo địch pháo ta, bộ đội giặc và lính của ta giao tranh đẩm máu để giành nhau từng tấc đất. Cứ sau những đợt pháo cường tập, bộ đội CSBV dàn hàng ngang tiến lên. Lớp trước ngã, lớp sau đạp xác đồng đội tiến lên. Trận tử chiến tiếp diễn ác liệt. Quân giặc như những con thiêu thân cứ lao vào ánh đèn, chết vô số. Xác địch chồng chất, cây rừng gãy đổ. Màu xanh của cây cỏ biến thành màu đỏ của máu, máu đỏ của những thân xác “Sinh Bắc Tử Nam”. Ngọn đồi xanh ngát với những vòng cao độ tạo thành thế hình móng ngựa, chỉ trong thời gian ngắn, đã biến thành bình địa. Đạn pháo ta và địch đã làm thay đổi các vòng cao độ của ngọn đồi! Thiếu úy Mai Mạnh Liêu, ĐĐT/ĐĐ4 báo cáo:
“…Không còn cái gì tồn tại chung quanh chúng tôi hết. Xác địch nằm ngỗn ngang trên mặt đồi, cây cối chung quanh hoàn toàn bị tiêu rụi thành bình địa. Thân cây và xác chết chồng chất lên nhau hàng đống, từng này chồng lên từng kia…”.
Nhìn xuống QL.20, thấy quân CSBV di chuyển trên lộ chật đường, đông như kiến, giống như đoàn người đi trẩy hội. Chúng thuộc đơn vị nào? Phải chăng như Trần Văn Trà viết:  “Quân đoàn 1 xuất phát từ sông Hồng, Quân đoàn 3 thì có sư đoàn từ Tây Nguyên lại có sư đoàn từ ven biển quật lên theo đường 11 đi Đà Lạt rồi theo đường 20 vào”. Liêu xin bắn pháo. Pháo từ Chiến đoàn, pháo từ Núi Thị tới tấp rót xuống. Chúng dạt ra hai bên đường. Lúc ngưng pháo, chúng lại tiếp tục di chuyển. Giòng người cứ trôi  như giòng thác lũ. Một toán chỉ huy địch chạy vào một căn nhà ngói đầu ấp, căn nhà bị đánh sập, và không thấy chúng xuất hiện trở lại. Bọn chúng đã bị pháo ta tiêu diệt.
Trước khi trời tối, đồi Móng Ngựa bị giặc tràn ngập. Ngọn đồi bị chiếm vì quân ta hết đạn. Cây súng trở thành cây gậy. Bắn hết đạn, giặc tràn lên, quân ta đành phải rút chạy!
Tình hình trở nên nguy kịch. Đồi Móng Ngựa đã lọt vào tay giặc. Từ những cánh rừng cao su chung quanh, quân CSBV xổng lưng tiến vào vị trí quân bạn đã tan nát vì những trận mưa pháo tàn bạo. Giặc đã tràn vào phòng tuyến. Tiếng nói của Đại tá Dũng và Trung tá Đổ Văn Tân im bặt. Những ai còn sống sót phải rút chạy về Biên Hòa. Tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu Giây hoàn toàn tan rã.
Quân CSBV đã mở được con đường xâm nhập vào Sàigòn không cần phải đi qua Xuân Lộc.
Khi hoạch định kế hoạch đánh chiếm Xuân Lộc, bọn đầu sỏ CS nghĩ rằng sẽ nuốt chửng Xuân Lộc, cũng dễ dang như lấy đồ trong túi. Với tính chủ quan được tích lũy từ trận đánh Phước Long, trận Ban Mê Thuột, trận đường 7B, chiếm Huế, chiếm Đànẵng, các tỉnh Miền Trung và Cao Nguyên, Tướng Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà đã suy nghĩ quá đơn giản. Chúng không hề dự trù những tình huống khó khăn sẽ gặp và sẽ đối phó ra sao. Mặc dù chúng đã cho lệnh Đoàn 75, tức Bộ Tư lệnh pháo binh của Miền bố trí trận địa pháo tầm xa 130ly tại Hiếu Liêm (ngã ba sông Bé và sông Đồng Nai) để khống chế sân bay Biên Hòa và chi viện cho Quân đoàn 4.
Pháo của giặc tuy có gây trở ngại cho hoạt động của ta. Nhưng các phi tuần chiến đấu F-5E, A-37,…vẫn xuất kích yểm trợ đắc lực cho quân bạn tại Xuân Lộc. Các chuyến bay trực thăng tải thương và tiếp tế đạn dược cho mặt trận vẫn vào ra Xuân Lộc đều đặn. Sau ngày 12.4, người dân Xuân Lộc đã sinh hoạt trở lại. Đó là sinh hoạt của người dân trong thời chiến, dưới đạn pháo của giặc.
Khi Xuân Lộc bị tấn công, hai Pháp kiều là chủ đồn điền S.I.P.H và Túc Trưng bị quân CSBV bắt trong đêm, vì lầm tưởng họ là cố vấn Mỹ. Được thả ra, hai Pháp kiều đến Núi Thị trình diện TĐT/TĐ2/43. Họ là những người rất am tường địa thế. Các đồn điền cao su bao quanh Xuân Lộc, hầu hết thuộc tài sản của họ. Họ đã chỉ trên bản đồ những vị trí tập trung quân CSBV, những kho hậu cần, những con đường vận chuyển tiếp liệu. Một trong hai Pháp kiều là cựu Trung úy Dù, từng tham dự trận Điện Biên Phủ, người kia có vợ là người Việt, có đứa con trai riêng của người vợ đang phục vụ trong lực lượng NQ/LK. Những tin tức thuộc loại A1 này đã được gửi ngay về Phòng 2/SĐ. Phối hợp và kiểm chứng cùng các tin tức khác, Tướng Đảo cho đánh bom chính xác vào các mục tiêu, làm tiêu hao đáng kể sinh lực của quân xâm lăng CSBV. Do TĐT/TĐ2/43 có những tin tức thuộc loại A1, Tướng Đảo cho biết ông có những phi vụ đánh bom đặc biệt gọi là “Commando Vault”, xử dụng loại máy bay C-130, chở nhiều bom. Một thứ “tiểu B-52”.
“Vào những tháng cuối cuộc chiến, BTTM xử dụng phi cơ vận tải C-130A vào các cuộc dội bom chiến thuật. C-130 có thể chứa được 8 kiện hàng, mỗi kiện chứa 4 thùng dầu phế thải. C-130 thả từ cao độ 15 đến 20 ngàn bộ (5-7 cây số). Chu vi sát hại có đường kính từ 150-450 mét.
C-130 có thể chở 32 trái bom loại 250-500 cân. Đây là những ‘mini-B-52’ hay ‘B-52 VN’. Phi vụ đầu tiên thả xuống chiến khu C ở Tây Ninh. Lời đồn không quân Hoa Kỳ trở lại loan truyền nhanh chóng” (Đại tướng Cao Văn Viên – Những Ngày Cuối Của VNCH).
Trước khi xin đánh 2 trái BLU-82, Tướng Đảo gọi TĐT/TĐ2/43: “Tôi có cái này hay lắm, nếu có tin tức chính xác, Bảo Định gửi liền cho tôi”.
Trận chiến 12 ngày đêm tại Xuân Lộc đã gây thiệt hại đáng kể cho quân CSBV với hơn 6 ngàn tên chết tại trận. Đó là những thân xác ‘Sinh Bắc Tử Nam” bị phơi thây trong những vòng rào kẽm gai bao quanh thị xã, trong những khu tử giác, trong những vũng sình lầy, hay những thân xác đếm được trong các cuộc phục kích. Lực lượng xe tăng quân CSBV tham chiến tại trận Xuân Lộc không biết được con số chính xác là bao nhiêu (những ngày đầu là 1 Trung đoàn, sau đó được tăng cường thêm 1 Đại đội xe tăng nữa). Số xe tăng của giặc bị tiêu hủy đếm được là 37 chiếc. Sự thiệt hại đó của quân CSBV là do các chiến binh tại phòng tuyến Xuân Lộc bắn hạ bằng vũ khí cá nhân, vũ khí cộng đồng và pháo hay bom. Số lượng cộng quân bị sát hại tại các chỉ huy sở, tại các vị trí hậu cần, những tuyến đường chuyển quân và tiếp liệu, cũng như sự thiệt hại do hai trái bom BLU-82 là không kiểm chứng được. Nhưng qua sự kiểm chứng gián tiếp là các báo cáo của các tên thủ trưởng tham chiến, nhận định tình hình chiến sự của Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Hoàng Cầm, cũng như lời thú nhận của tên Lê Đức Thọ, ta có thể khẳng định con số thiệt hại của cộng quân là gấp bội lần so với con số được đếm được. Tại mặt trận Trảng Bom vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, khi cộng quân tràn ngập tuyến bố phòng của TĐ1/43, một số chạy thoát được, nhưng có một số bị bắt sống, khi được dẫn đến trình diện tên Thủ trưởng E, tức Trung đoàn trưởng, hắn nói:
“May mà các anh gặp đơn vị tôi, nếu gặp đơn vị kia (ý hắn muốn đề cập đến các đơn vị thuộc Sư đoàn 341 bị thiệt hại nặng tại góc mặt trận Tây – Bắc thị xã, tại Núi Thị, và nhất là bị hai trái bom BLU-82) thì bị bắn ngay tại chỗ.”
2/- HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI ĐỘI TRINH SÁT 43
Vào những ngày cuối, Đại úy Nguyễn Văn Tỷ bàn giao chức vụ Đại đội trưởng, ĐĐTS43 cho Trung úy Dương Trọng Khoát. Khoát xuất thân từ khóa 25/VBQGĐL, đang là ĐĐT/ĐĐ1 của Tiểu đoàn 2/43.
Sau khi Quận Định Quán thất thủ vào sánh sớm ngày 19.4.75, Tiểu đoàn 2/43 được lệnh lui về hậu cứ Núi Thị, Trung đoàn 43 cũng lui về phòng thủ thị xã Xuân Lộc, giao lại vùng trách nhiệm cho Chiến đoàn 52 của Đại tá Ngô Kỳ Dũng. Đại đội Trinh sát 43 của Trung úy Khoát vẫn tiếp tục hoạt động khu vực Núi Ma. Núi Ma là ngọn núi cao nhất vùng. Hướng Tây trông xuống Quốc lộ 20 (đường đi Đà Lạt), hướng Nam trông xuống Quốc lộ 1.
Khi Chiến đoàn 52 tan hàng tại Ngã ba Dầu Giây chiều ngày 15.4, giao lộ QL20 và QL1 bị bỏ ngỏ. Nhưng một phần sườn phía Tây của Núi Ma vẫn còn sự hiện diện của quân bạn (ĐĐTS43), và một phần sườn đồi phía Đông Nam, trông xuống Núi Thị (căn cứ của TĐ2/3 và một TĐ Pháo hổn hợp của SĐ18BB) thì do Trung đội Biệt kích của Tiểu đoàn 2/43 chiếm cứ. Ngay trong đêm mở đầu trận chiến Xuân Lộc, đơn vị này đã tiêu diệt gọn một toán trinh sát và điều khiển pháo của cộng quân, khiến địch đã mất đi “một con mắt” ở hướng này. Chính nhờ hoạt động hữu hiệu của hai đơn vị này mà cộng quân không thể len lỏi đến gần đặt pháo để quấy phá Núi Thị. Trong những ngày của trận chiến, Núi Thị chỉ bị pháo từ xa, đó là các hỏa tiển 120, cối 130, hay sơn pháo 75ly.
  1. NỖI KINH HOÀNG CỦA CÁN BINH CSBV
1/. BOM BLU-82 (thường gọi CBU-55)
1
         Dư luận quần chúng, và ngay cả Hà Nội, hai trái bom thả xuống Mặt trận Xuân Lộc là bom CBU-55. Hà Nội và cả Bắc Kinh đều la làng rằng Mỹ – Ngụy đã xử dụng bom “Tiểu nguyên tử”, có tầm sát thương lớn.   Theo “Tuyến Thép Xuân Lộc” của Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB, được Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng P3/BTTM/QLVNCH xác nhận, đó là loại BLU-82 (Daisy Cutter). Khi Tư lệnh đại đơn vị ngoài mặt trận đề nghị, P3 trình Đại tướng TTM. Nếu Mục tiêu được chấp thuận, chính Trưởng P3 đích thân trao cho TL/KQ biết để thi hành. Bom được chuyên viên Quân cụ và Không quân đưa lên phi cơ, loại C-130. Bom để trên một dàn gỗ (palette), có đeo dù. Phi công phụ trách thả bom, phải là phi công giỏi bay đêm. Tư lệnh Quân đoàn phải chịu trách nhiệm trực tiếp đến sự an nguy của quân bạn.
Chiều ngày 15.4, khi Chiến đoàn 52 bị tràn ngập, Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc đề nghị lên Quân đoàn, Quân đoàn đề nghị về BTTM cho sử dụng loại bom có sức công phá mạnh để tiêu diệt quân xâm lăng CSBV.
 Hai trái bom được xử dụng tại Mặt trận Xuân Lộc tháng Tư năm 1975 là bom BLU-82. BLU-82 là chữ viết tắt của Bomb Live Unit – 82. Bom nổ ở độ cao, tạo ra một đám mây có đường kính lối 100 mét, dày hơn 2 mét. Gặp lửa, đám mây tỏa ra một nhiệt lượng cao, tạo ra áp lực 1.000 pounds/square inch, đổ ập xuống mục tiêu. Bom sẽ đốt hết dưỡng khí trong một khu vực rộng 2 mẫu Anh, và mọi sinh vật trong khu vực sẽ chết trong tình trạng tự nhiên. Bom nặng 15.000 pounds, chứa gas hổn hợp Propane và TNT. Tùy theo tính chất của mục tiêu, bom có loại văng miểng, có loại gây hơi ép.
Tại Xuân Lộc ngày nay, có một cây cầu nhỏ bắc qua một khe suối, có thể là suối Đá Bàn, được người dân địa phương gọi là “Cầu 6 ngàn”. Phải chăng đó là địa điểm Chỉ huy sở Sư đoàn 341/CSBV bị 2 trái BLU-82 đánh. “Sáu ngàn” là con số quân xâm lăng CSBV đền tội vào lúc 1 giờ sáng ngày 16.4.75. Có người thắc mắc về con số “6 ngàn”. Chỉ huy sở của một sư đoàn sao lại có nhiều bộ đội như vậy? Có thể đó là địa điểm “tập kết” của Quân đoàn 3 từ Cao Nguyên xuống. Theo Trần Văn Trà, có đơn vị vào tới thì đạn dược chưa tới, xe tăng hết xăng dầu, đạn pháo chỉ còn 1, 2 viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.
 Ngày 12.4.1975, khi quân Dù được trực thăng vận đổ xuống tăng viện cho Xuân Lộc, cũng là lúc Tướng Trần Văn Trà đến Chỉ huy sở của QĐ4. Trà đã trao cho Hoàng Cầm kế hoạch tác chiến mới theo đó, Sư đoàn 341 rút ra, bổ sung quân số, vũ khí và đạn dược, sẵn sàng yểm trợ Trung đoàn 95B từ Cao Nguyên xuống và Sư đoàn 6 đang bố trí quân tại vùng ngã ba Dầu Giây diệt tuyến bố phòng của CĐ52.
Nhà cầm quyền Hànội tuyên truyền rằng 2 trái bom đã giết chết 200 người dân xã Xuân Vinh. Nhưng vào thời điểm này xã Xuân Vinh chưa có. Xã được thành lập sau ngày 30.4.75, bao gồm các ấp Bình Lộc, Bảo Vinh A và B. Lúc đó vùng rừng núi này là khu vực trú quân của Sư 341/CSBV, không hề có bóng dáng của thường dân. Nếu có “thường dân”, chỉ là bọn Du kích địa phương.
Sau khi hai trái bom BLU-82 được thả xuống vị trí tập trung quân CSBV và Chỉ huy sở Sư đoàn 341, quan thầy Trung cộng phản đối ầm ĩ (Frank Snepp – Decent Interval), Hànội cũng la làng phản đối trong 2 ngày liền. Chúng cho rằng B-52 của Hoa Kỳ đã trở lại. Nhưng thực tế quá phũ phàng, “Hoa Thịnh Đốn vẫn tiếp tục nhắm mắt làm ngơ…”(Điện tín của Thiếu tướng Homer Smith, the U.S. defense attaché in Saigon gửi Tướng George Brown, the chairman of the Joint Chiefs of Staff in Washington: ‘But Washington continued to turn a blind eye…’ ).
Nếu bom không gây thiệt hại lớn thì đối phương đã không cần phải la làng lớn giọng như vậy. Ta còn 5 trái trong kho đạn, nhưng không có ngòi nổ! Nếu Hoa Kỳ thỏa mãn đủ số bom do BTTM/QLVNCH yêu cầu và cung cấp đủ ngòi nổ, liệu giặc có còn đủ quân để tiến về Sàigòn? Hànội có 21 sư đoàn, nhưng đã tung 16 sư đoàn bao vây Sàigòn với 5 hướng. Chỉ cần đánh mỗi hướng 4 trái là đủ để tiêu diệt hết sinh lực của giặc. Và chắc chắn chúng ta đã không có ngày 30 tháng Tư đen!
Hai trái bom đã gây thiệt hại nặng cho quân CSBV, nhưng sự thiệt hại của chúng là không kiểm chứng được. Vì thời gian là những ngày tàn của cuộc chiến. Nhưng sự thiệt hại đó, ít nhất là 75% tại chỉ huy sở của Quân đoàn 4. Cùng với sự thiệt hại sau 12 ngày ác chiến, Quân đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm coi như gần sạch túi! Tin tức từ nguồn tin do hai Pháp kiều cung cấp cho biết, trong nhiều ngày, họ đã chứng kiến những chiếc xe bò vận chuyển suốt ngày để chở xác chết và thương binh bộ đội CSBV. Mỗi chiếc chất đầy tử thi hoặc thương binh, cùng những vũ khí gãy nát, ngổn ngang đầy xe, trông như đống củi.
Lịch sử Bộ đội Quân Y/CSBV viết: “Trong tác chiến tại Xuân Lộc, Long Khánh và xung quanh, Quân đoàn 4 đã có 1,888 thương vong.” Đó là con số bộ đội bị thương vong được các đồng chí của chúng mang về trạm xá. Còn con số rơi rớt dọc đường, mắt kẹt trong các hàng rào kẽm gai, hay bị bom pháo làm nát thây thì Bộ đội Quân Y không biết được.
2/. THẨM QUYỀN CHO LỆNH ĐÁNH BOM BLU-82
Về việc ai cho lệnh thả hai trái bom BLU-82, cho đến nay vẫn còn mơ hồ. Ông Nguyễn Cao Kỳ trong quyển “Buddha’s Child” viết:
“The most powerful weapon in our arsenal was an American-made cluster bomb…One aircraft with a few cluster bombs could kill everything within a square kilometer.
Because it was so powerful, however, Thieu feared that someone might drop one on his palace; permission to use a cluster bomb required his personal order. One day Operations called to say that an enemy division had encircled one of our bases. Our people asked for air support…so I asked the air force commander. He said that he had no authority to authorize their use. I asked the chief of the joint general staff; his answer was the same. I called several generals, and each said they had no authority. I knew that if I were to ask Thieu, he would have to consider his answer for a while, so I called the primer minister, Tran Thien Khiem.
“It’s up to you,” he replied after I had explained the situation. “Tell them that I’m okay with it.”
I called the chief of operations back and said, “Okey, use it.” He accepted my authority, and the resulting air strike was the last time we inflicted major casualties on the enemy.”  
Tướng Nguyễn Cao Kỳ lúc này chỉ là Tướng “không quân” đúng nghĩa. Không chức, không quyền, không trách nhiệm, ông không thể ra lệnh ai, và không có ai dám thi hành lệnh của ông (nếu không muốn ra Toà án Quân sự). Tướng Kỳ là một người ăn nói “ba hoa thiên địa”, ai cũng biết. Ông cũng hay nói phét. Nội cái tựa đề quyển sách “Buddha’s Child”, ông còn chua thêm câu: “My Fight To Save Vietnam” thì thật là quá đáng.
Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 Xung kích cũng cho rằng chính ông đã cho lệnh đánh hai trái bom đó:
“Lực lượng địch và Lực lượng Xung kích QĐIII giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngả ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU-55 của Không quân Biên Hòa để chận đứng địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18BB của Đại tá Dũng khỏi bị tiêu diệt”. (Chuẩn tướng Trần Quang Khôi – Chiến Đấu Đến Cùng).
Tuyến phòng thủ CĐ52/SĐ18BB của Đại tá Ngô Kỳ Dũng bị quân CSBV tràn ngập lúc chiều tối ngày 15.4. Tàn quân phải bỏ vị trí về Long Bình. Tuyến phòng ngự CĐ52 đã vỡ 7 tiếng đồng hồ trước khi 2 trái bom BLU-82 được xử dụng. Nếu Tướng Khôi có thẩm quyền cho lệnh đánh hai trái bom đó (giả dụ thôi), thì đánh để tiêu diệt địch chứ không phải “để chận đứng địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18BB của Đại tá Dũng khỏi bị tiêu diệt”. Vì CĐ52 đã bị tiêu diệt rồi! Cần phải sửa lại câu văn cho chính xác. Người viết (nằm tại cao điểm Núi Thị) đã có dịp làm trung gian cho hai Tướng Khôi và Đảo nói chuyện khi Chiến đoàn 52 bị cộng quân tấn công. Qua cuộc điền đàm của hai vị Tướng, tôi không thấy có một hành động tích cực nào của Tướng Khôi để cho lực lượng của ông giải cứu Chiến đoàn 52 của Đại tá Dũng đang cơn hấp hối. Theo Trung úy Nguyễn Thanh Trường (hiện định cư tại Miami, Florida) và Thiếu úy Mai Mạnh Liêu (hiện định cư tại Rosemead, California) thuộc TĐ3/52, là những người sống sót rút chạy sau cùng cho biết, trên đường từ ngã ba Dầu Giây đến Bàu Cá, họ chỉ gặp vài chiếc xe M.48 và một toán BĐQ nằm bố trí tại vùng vườn cam gần Sở Chăn nuôi.
Hai trái bom BLU-82 được thả xuống Chỉ huy sở và Hậu cần của Sư đoàn 341 vào lúc 1 giờ sáng ngày 16.4.75. Theo Đại tướng Cao Văn Viên, TTMT/Bộ TTM/QLVNCH, chính BTTM và BTL/KQ quyết định cho đánh 2 trái bom đó. Và chỉ có 2 trái mà thôi, vì người bạn đồng minh Mỹ chỉ cung cấp 2 ngòi nổ! Tướng Viên cho biết, cuối tháng 2/1975, BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp những trái bom chiến lược không quân có thể xử dụng được. Hoa Kỳ gửi 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện. Giữa tháng 4, ba trái được chở đến, cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn. Nhưng người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái máy bay thả bom thì không đến. Trong tình trạng khẩn trương của chiến trường, BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom.
“Đêm 15.4.75, sau khi Cộng quân tràn ngập vùng ngã ba Dầu Giây, Tướng Toàn, Tư lệnh QĐIII, đã quyết định đề nghị BTTM cho xử dụng hai quả bom ‘Daisy Cutter’…Kết quả hai trái bom ‘Daisy Cutter’ đã loại khỏi vòng chiến khoảng 2 Sư đoàn Cộng quân (hơn 10 ngàn quân)”. (Những Sự Thật Chiến tranh Việt Nam 1954-1975).
“Vào 1 giờ sáng phi cơ thả trái ‘Daisy Cutter’ đầu tiên cách Xuân Lộc 6 cây số về hướng tây bắc. Thành phố Xuân Lộc bị rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động-bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy”.
“Gần những ngày tàn của cuộc chiến, cộng sản tụ quân, và thiết lập các căn cứ hậu cần ngụy trang rất sơ sài, dễ quan sát từ trên không. Đây là những mục tiêu tốt cho vũ khí chiến lược, có sức tàn phá mạnh…BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom. Chiếc C-130 và quả bom ‘Daisy Cutter’ cất cánh vào lúc nửa đêm…” (Đại tướng Cao Văn Viên – Những Ngày Cuối Của VNCH).
Theo Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTTM/QLVNCH, đó là loại bom BLU-82 (Daisy Cutter), chứ không phải CBU-55:
“Tôi xin xác nhận với anh, đó là loại BLU-82 (Daisy Cutter) chứ không phải CBU-55. Tụi tôi chuẩn bị các mục tiêu theo đề nghị của các Tư lệnh đại đơn vị ngoài mặt trận…trình Đại tướng xin chấp thuận. Mục tiêu được Đại tướng chấp thuận rồi, tôi trao cho Không quân. Chỉ có Tư lệnh Không quân biết và thi hành; mọi mục tiêu đều là ‘Tối mật’ hết.” (Đại tá Hứa Yến Lến – Tuyến Thép Xuân Lộc)
Mục tiêu đánh bom là phía Nam Kiệm Tân, gần đường QL.20. Trong buổi phát thanh ngày 21 tháng Tư, đài Hànội cũng xác nhận vùng bị đánh bom là ở giữa Biên Hòa và Xuân Lộc.
VII- LUI BINH
“Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi”.
(Nửa Hồn Xuân Lộc – Nguyễn Phúc Sông Hương, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng TĐ3/48)
1/- NGUYÊN NHÂN:
Mặt trận phía Tây thất bại, nhưng quân ta đang thắng lớn tại Xuân Lộc. Dù sao sức người có hạn. Quân ta ngày càng mòn mỏi, đạn dược cạn dần. Trong lúc đó Hànội đã tung vào Nam tất cả những gì chúng có. Cái gọi là “Quân đội Nhân dân Việt Nam” được thành hình từ 1 Trung đội Tuyên truyền Giải phóng quân, đến nay đã lên đến 21 Sư đoàn. Khi phát động chiến dịch tổng tấn công VNCH từ đầu tháng 1 năm 1975, Hànội chỉ để lại 1 Sư đoàn giữ nhà, còn lại đưa vào Nam tất cả. Vùng biên giới Việt – Trung thì có các Sư đoàn Trung cộng trấn giữ. Theo các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê Bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, viết trong quyển “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975”, Tướng CSBV Văn Tiến Dũng được 5 Tướng cố vấn Nga Xô bày mưu tính kế (theo tin tức tình báo của Tướng Pháp Vanuxem). Ngày trước đánh Điện Biên Phủ, Tướng Võ Nguyên Giáp cũng được các cố vấn Tàu phù Trần Canh, Lã Quí Ba,…chỉ dạy cách đánh.
Quân đoàn 2 và một số đơn vị thuộc Quân khu 5 do Lê Trọng Tấn thống lĩnh đã vào đến Rừng Lá.
Quân đoàn 1 xuất phát từ bờ Sông Hồng cũng đã vào đến.
Quân đoàn 3 từ Đàlạt theo đường QL.20 đang trên đường xuống.
Xuân Lộc giờ đây đã trở thành ốc đảo giữa biển giặc mênh mông.
Bên ngoài phòng tuyến Xuân Lộc, Tiểu đoàn 2/43 đã lấy lại kiểm soát đến xã An Lộc, đèo Mẹ Bồng Con, đến chân Núi Ma, sân bay An Lộc và Bệnh viện đồn điền cao su S.I.P.H. (máy bay của đồn điền đã đáp xuống an toàn mang lương phát cho công nhân). Đơn vị cũng hoạt động đến ấp Núi Đỏ, và xã Tân Lập. Giao thông liên lạc đã tái lập từ Núi Thị đến thị xã, nhưng chỉ đi băng qua rừng cao su, không ra ngõ Cua Heo để tránh bị bắn sẻ.
Hướng Đông – Bắc, quân ta hoạt động xa ngoài vòng đai thị xã, kiểm soát đến ấp Bảo Vinh A và B.
Hướng Đông – Nam, Trung đoàn 141 của Sư đoàn 7/CSBV đang bị quân Dù bao vây chia cắt. Tiểu đoàn 1, 2 và Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 141 hầu như bị xoá sổ. Quân Dù kiểm soát đến ấp Bảo Định và Bảo Bình.
Hướng Nam, Chiến đoàn 48 hoạt động đến căn cứ Long Giao.
Nhưng Xuân Lộc giờ đây đã mất hết vai trò chủ yếu. Xuân Lộc không còn là nút chận quân xâm lăng CSBV, vì đối phương đã tránh Xuân Lộc, đang điều quân đi vòng. Chúng chỉ để lại Sư đoàn 7 của Lê Nam Phong đánh cầm chân Sư đoàn 18BB của Tướng Lê Minh Đảo và Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh. Trong lúc đó địch đang tập trung quân quanh Sàigòn, chuẩn bị tiến công từ 5 hướng.  Biên Hòa cách Sàigòn 30 cây số, có một phi trường quân sự quan trọng, cần bảo vệ. BTL/QĐIII quyết định Sư đoàn 18BB và Lực lượng tham chiến tại Xuân Lộc phải triệt thoái.
2/- DIỄN TIẾN:
Ngày 20 tháng Tư năm 1975, lúc 9 giờ sáng, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn III Nguyễn Văn Toàn, có Đại tá Hoàng Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/BTL/QĐIII tháp tùng vào Xuân Lộc. Tại đây ông cho lệnh Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh mặt trận, rút toàn bộ lực lượng tham chiến ra khỏi Xuân Lộc trong nội ngày hôm đó. Lệnh vừa ban ra buổi sáng, vào lúc quá trưa, các đơn vị đã nhận được Lệnh Hành Quân khá chi tiết. Nhờ vậy các cánh quân lui binh nhịp nhàng, trong im lặng, theo thế chân vẹt, nên quân CSBV đã không phát hiện kịp thời. Một đại đơn vị với hơn 5.000 quân, rầm rầm rộ rộ di chuyển mà địch vẫn không hề biết ý định của ta. Chúng nghĩ rằng đó chỉ là việc thay quân bình thường.
Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 2/43 đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Trong lúc đại đơn vị di chuyển, hai đơn vị này vẫn tiếp tục chiến đấu, vẫn mở những cuộc tấn công địch. Khi hai đơn vị đoạn hậu này di chuyển thì áp dụng chiến thuật đánh trì hoãn chiến. Bộ đội của Hoàng Cầm dù đang bám sát quân ta, đã hoàn toàn không hề hay biết gì về cuộc hành quân lui binh của đối phương. Đến lúc phát hiện được thì đoàn quân đã về đến Xà Bang, tiền quân đã đến Bình Giả!
Sau khi chiếc trực thăng của Tướng Toàn vừa cất cánh rời Xuân Lộc, với khả năng nhạy bén, Tướng Đảo đã có ngay một kế hoạch Hành quân Lui binh trong đầu. Thông thường phải triệu tập các đơn vị trưởng, tổ chức ngay cuộc họp khẩn cấp tại BTL/SĐ18BB. Nhưng trong tình thế hiện tại, dù không còn khả năng tấn công, địch đã gia tăng cường độ pháo. Những trận mưa pháo của quân CSBV rót xuống Xuân Lộc, theo vài ký giả phương Tây, còn ác liệt và có tính cách hủy diệt hơn hồi trận Điện Biên Phủ! Vả lại các đơn vị trưởng đang mặt đối mặt với quân thù, không tiện rời bỏ vị trí. Ông Tướng đã gặp riêng Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ để truyền đạt lệnh. Phát thảo Kế hoạch Điều quân Lui binh của ông được Phòng 3/SĐ soạn thảo chi tiết. Để đạt được yếu tố “Bí Mật”, Lệnh Hành Quân phải chuyển tay đến các đơn vị trưởng. Lệnh phải được thi hành ngay, các đơn vị phải “Nhanh Chóng” chuẩn bị. Có gì không rõ, phải trực tiếp hỏi Tư lệnh, nếu không thì cứ thế mà thi hành.
Lộ trình cuộc triệt thoái là LTL.2 nối liền Xuân Lộc của Long Khánh đi Bà Rịa của Phước Tuy. Ông cho lệnh Phi hành đoàn chiếc trực thăng chỉ huy (C&C) bay quan sát lộ trình.
Đoàn quân sẽ di chuyển khi màn đêm buông xuống. Xưa nay hành quân hay đánh đêm là sở trường của địch. Thông thường quân ta chỉ tiến ngày ban ngày, ban đêm thì co cụm và phòng thủ. Tướng Đảo ấn định giờ xuất phát lúc 7 giờ tối là một “Bất Ngờ” đối với địch.
Khi các đơn vị trưởng nhận được Lệnh Hành Quân, lệnh chi tiết hơn đã được soạn thảo chuyển xuống cho các đơn vị cấp thấp thi hành. Tiểu đoàn 2/43 trấn giữa cao điểm Núi Thị, vị trí xa nhất trong tuyến phòng thủ Xuân Lộc đã được chính tay Đại úy Nguyễn Văn Khiêm, Ban 3/CĐ43, vượt rừng cao su, trao tay vào lúc quá trưa. Riêng ĐĐ43TS của Trung úy Dương Trọng Khoát đang hoạt động khu vực Núi Ma, chỉ biết lệnh khi quá nửa đêm.
Kế hoạch điều quân cuộc Lui binh như sau:
  1. CĐ 48 do Trung tá Trần Minh Công, Trung đoàn trưởng 48 chỉ huy, mở đường.
  2. BTM/HQ/SĐ18BB, Thiết đoàn 5 Kỵ binh, các Tiểu đoàn Pháo binh, Công Binh, Tiểu đoàn 18 Tiếp vận, 2 khẩu đại bác tự hành 175ly, và các đơn vị kỷ thuật, lập thành đoàn cơ giới do Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ chỉ huy.
  3. BCH/TKLK và các đơn vị trực thuộc do Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng chỉ huy.
  4. CĐ 43 gồm các đơn vị cơ hữu và Tiểu đoàn 82/BĐQ, do Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng 43 chỉ huy.
  5. LĐ1ND và TĐ2/43 do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐ1ND chỉ huy, đi đoạn hậu. Kể từ 7 giờ tối 20.4.75, TĐ2/43 vào hệ thống truyền tin của LĐ1ND, đặt dưới quyền chỉ huy của LĐT/LĐ1ND. Đến 12 giờ đêm, TĐ2/43 trở lại hệ thống truyền tin và chỉ huy trực tiếp của Sư đoàn, di chuyển đến ngã ba Tân Phong gặp LD1ND, sẽ xuất phát trước.
  6. Chuẩn tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo sẽ di chuyển bộ cùng cánh quân của CĐ43, do TĐ82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long bảo vệ.
  7. Chiếc trực thăng chỉ huy của Tư lệnh (C&C) sẽ do Đại tá Ngô Kỳ Dũng bay bao vùng.
  8. Đội hình hành quân theo thế chân vẹt, hầu bảo đảm an toàn cho các cánh quân khi di chuyển.
Hành quân lui binh là loại hành quân khó khăn , nhất là khi phải tiến hành dưới áp lực và hỏa lực của địch. QLVNCH đã hơn một lần thảm bại cay đắng trong cuộc triệt thoái hay di tản chiến thuật hồi trung tuần tháng 3 năm 1975 từ Cao Nguyên về Duyên Hải miền Trung. Thiệt hại của đoàn quân triệt thoái ít nhất là 75% khả năng tác chiến. Tại Quân đoàn I, cuộc triệt thoái chiến thuật cũng thất bại.
Cuộc Hành quân Lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng Tư năm 1975 đã thành công tốt đẹp. Toàn bộ Sư đoàn, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ và Lữ đoàn 1 Dù đã di chuyển về đến Bình Giã – Bà Rịa thuộc tỉnh Phước Tuy an toàn. Nhưng LĐ1/Dù do vừa di chuyển, vừa phải chiến đấu để bảo vệ đồng bào các ấp Bảo Định và Bảo Bình đi theo, nên chịu một số thiệt hại. Tiểu đoàn 2/43 với nhiệm vụ đánh trì hoãn chiến, đánh nghi binh, phải rút ra sau cùng, do đó bị thiệt hại nặng nhất, lối 50%. Nhưng nhìn chung, cuộc Hành quân Lui binh của các lực lượng tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc là một thắng lợi to lớn.
Mặc dù ở trong thế mặt đối mặt, quân của hai bên có thể nói chuyện với nhau được, thế mà khi quân ta rút ra, bắt đầu di chuyển từ lúc 7 giờ tối, mãi đến gần 3 giờ sáng, Tướng Cầm mới hay biết để tổ chức đơn vị truy kích.
TĐ9Dù cùng Trung đội PB/Dù rời Long Giao lúc 4 giờ 30 sáng. TĐ2/43 rời căn cứ Núi Thị lúc 5 giờ sáng.
Đường LTL.2 nối liền Xuân Lộc của Long Khánh và Bà Rịa của Phước Tuy, dài trên 40 cây số. Con đường này do quân đội đồng minh sửa chữa và mở rộng. Khi quân đội đồng minh rút, con đường bị bỏ hoang phế.
Tướng Đảo đã có một quyết định khá táo bạo khi chọn con đường này làm lộ trình triệt thoái. Quyết định táo bạo đó của ông là yếu tố bất ngờ đối với cộng quân.
Tướng Trà viết Hồi ký, đã tiên đoán quân ta sẽ rút khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa: “Hai là rút chạy khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa…Vì vậy ta không được để lơi lỏng đối với lực lượng địch ở Xuân Lộc mà phải kèm kỹ…” Tiên đoán của Trà được viết trong hồi ký, chứ không phải được phán đoán hay suy nghĩ trước khi lực lượng tham chiến Xuân Lộc rút đi! Thực tế như Hoàng Cầm thú nhận trong quyển Lịch sử Quân đội Nhân dân: “Chúng tôi đã không phát hiện kịp thời cuộc di chuyển quân của Sư đoàn 18 để tổ chức lực lượng truy kích và ngăn chặn”. Hai Tướng CS viết hồi ký đã đưa ra những địều mâu thuẫn. Nếu Trà đã “tiên đoán”, sao không ra lệnh cho Cầm bố trí một lực lượng mạnh trước để có thể phát hiện kịp thời mà chận đánh.
Dù đạt được yếu tố bất ngờ của cuộc Hành quân Lui binh, nhưng đã có những cuộc chạm súng lẻ tẻ. Từ sau Hiệp định ngừng bắn Paris, VC thường xuyên phục kích đắp mô trên con đường này. Đó cũng là hành lang giao liên giữa các mật khu VC trong vùng. Đây cũng là địa bàn hoạt động của Trung đoàn 33/Quyết Thắng Long Khánh. Những cuộc chạm súng tuy không lớn, nhưng cũng làm cho quân bạn chịu một số tổn thất: Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng bị bắt. Trung tá Tham Mưu trưởng Lê Quang Định bị tử thương. Quân Dù cũng chịu một số thiệt hại. Trên con đường LTL.2, quân Dù là đơn vị di chuyển sau cùng. Khi quân Dù đã đi qua, Tướng Hoàng Cầm phát hiện, đã tổ chức lực lượng truy kích và ngăn chận. Từ đó, con đường hoàn toàn bị đóng.
Theo Thiếu úy Tài, hiện định cư tại Tiểu bang Massachussetts, sĩ quan Tiền sát Đại đội Trinh sát 43 của Trung úy Dương Trọng Khoát cho biết, đơn vị này vẫn chiến đấu quyết liệt với quân CSBV cho đến 11 giờ đêm. Buổi chiều, Đại úy Quyền, Pháo đội trưởng PĐ/B của TĐ181/PB/SĐ gọi Thíếu úy Tài, yêu cầu chấm mục tiêu những nơi tập trung quân của CSBV để bắn pháo. Tài lấy làm lạ sao hôm nay căn cứ Pháo tại Núi Thị chơi sang! Tài đâu biết rằng Pháo đội của Đại úy Quyền cần bắn cho hết đạn để di chuyển nhẹ nhàng!
Khi màn đêm buông xuống, như thường lệ, quân CSBV lại mở nhiều đợt tấn công biển người vào vị trí của Đại đội 43/TS. Trận chiến thật ác liệt, có lúc phải đánh cận chiến. Nhưng những người lính Trinh sát vẫn giữ vững vị trí. Hai khẩu pháo còn lại tại Núi Thị bắn ào ạt, như trút cơn giận dữ lên đầu giặc. Pháo của địch cũng dội lên đầu quân bạn không ngớt. Thiếu úy Tài vẫn bình tĩnh điều chỉnh pháo. Những loạt đạn bắn gần, đã phá tan đội hình tấn công của địch. Vài trái đạn nổ ngay trên tuyến phòng thủ, Khoát bị thương, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu.
Lối 11 giờ đêm, Khoát liên lạc được với Bảo Định (TĐT/TĐ2/43), yêu cầu được dẫn quân qua Núi Thị. Nhưng Bảo Định nói hãy dẫn quân ra ngã ba Tân Phong, gặp TĐ2/43 ở đó rồi cùng rút. Đơn vị của Khoát không thể đến được điểm hẹn. Quân CSBV bố trí cùng khắp trong các cánh rừng cao su, trong các khu rừng chồi. Có những đơn vị cộng quân đi lạc do những tên chỉ huy kém cỏi, không xác định được điểm đứng. Đó là trường hợp của Tiểu đoàn 8 thuộc Sư đoàn 341, nên được giao nhiệm vụ chốt chặn, nhằm không cho các đơn vị QLVNCH tiếp viện hay rút lui. Có thể đơn vị cộng quân này chốt chặn TĐ2/43 tại phòng tuyến Núi Thị, vì chúng đang bố trí quân khu vực xã An Lộc và Tân Lập, cách Núi Thị vài cây số về hướng Tây. Trên đường hành quân ra ngã ba Tân Phong, ĐĐ43TS chạm súng đơn vị địch thuộc Trung đoàn 274 đang kiềng chốt tại khu vực đèo Mẹ Bồng Con. Khoát phải cho đơn vị đổi hướng về hướng Tây. Sau nhiều ngày luồn lách, hành quân xuyên qua các căn cứ địa của VC, vừa đi vừa đánh, quân số bị hao hụt nhiều. Buổi trưa ngày thứ năm của cuộc vượt thoát, Khoát thấy một chiếc trực thăng đang nhởn nhơ trong bầu trời cao. Đơn vị dùng kính “mắt thần” của Viễn thám chiếu lên phi cơ. Một lúc sau trực thăng quay lại, liều lĩnh đáp xuống trong lưới đạn giặc, trên một khoảng trống nhỏ, cố bốc đi những quân nhân sống sót. Nhưng không bốc hết được, phải để lại một số. Trực thăng quá tải, cố ngóc lên, cố ngóc lên cao, nhưng chỉ có thể rà rà trên ngọn cây, lướt về hướng QL.1. Trực thăng thả quân xuống một căn cứ pháo, rồi vội vã quay lại bốc nốt những người lính còn sót. Chiếc trực thăng cứu nạn đó là của Đại tá Lưu Yểm, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Biên Hòa, đang bay quan sát: “Qua nghi là mấy em lắm mà…”,  giọng nói thân tình “huynh đệ chi binh”. “mấy hôm nay nghe bên Sư đoàn đang bay tìm số quân nhân thất lạc trong rừng. Yên chí đi, Qua không bỏ mấy em đâu…”
Khi đi qua thị xã, TĐ2/43 di chuyển bên ngoài, cách xa vài trăm mét. Cộng quân lố nhố trong thành phố, xe molotova chạy qua lại, dù trời đã sáng, xe vẫn còn mở đèn pha, thị xã sáng rực! Nhưng hầu như việc ai nấy làm. Cộng quân vào thành phố thì lo hôi của. Đoàn quân triệt thoái thì lo di chuyển theo lộ trình ấn định.
Buổi sáng thật yên ả. Không có tiếng “đại bác vọng về”, không có tiếng máy bay gầm rú. Trời cao và xanh trong.
Từ 7 giờ tối, khi đại quân bắt đầu di chuyển, 2 khẩu pháo được lệnh tác xạ liên tục. Tác xạ quấy rối, tác xạ nghi binh, cũng là tác xạ cho hết đạn. Trường hợp này cũng giống như Trương Phi trong Tam Quốc Chí, cùng 20 người ngựa, tại cầu Trường Bảng, đã mưu trí dùng những nhánh cây cột vào đuôi ngựa cho chạy lui, chạy tới trên đường, làm cho đất bụi bay mù trời, hầu đánh lừa quân Tào Tháo. Nhờ hành động mưu trí này của Trương Phi, đại quân của Lưu Bị đã rút lui an toàn. Sau khi hai khẩu pháo bị phá hủy, vùng trời Xuân Lộc hoàn toàn im vắng. Lúc đó là 5 giờ sáng ngày 21 tháng Tư năm 1975.
1
Lối 7 giờ sáng, trong cái im vắng của bầu trời Xuân Lộc, chiếc C&C của Tư lệnh xuất hiện, bay từ hướng Bình Giả lên. Khi bay ngang đầu, Đại tá Ngô Kỳ Dũng, CĐT/CĐ52 đang ngồi trên đó, không phải Tướng Đảo, chuyển lệnh của Tướng Đảo cho TĐT/TĐ2/43: “Hủy bỏ lộ trình cũ, di chuyển về hướng Tây. Điểm tập trung tại Long Thành trên QL.15”. TĐ2/43 phải tìm “Sinh lộ trong Tử địa”. Khi chiếc C&C bay đi, bầu trời trống không. Không một chiếc máy bay nào vào vùng. Pháo binh cũng im bặt. Thật khác hẳn không khí rộn ràng trong suốt 12 ngày đêm vừa qua. Lúc đó máy bay đủ loại vần vũ trên bầu trời. Lưới đạn đan nhau. Khói súng mịt mờ. Đạn pháo ầm ầm, pháo địch pháo ta. Giờ này thì tất cả đều lặng yên. Một thứ lặng yên ma quái, rất kinh người!
Đang im lặng di chuyển trong khu rừng cao su phía Tây căn cứ Long Giao, đơn vị tiền quân chạm địch. Một cuộc chạm súng ngắn ngủi. Những người lính TĐ2/43 tràn lên như thác lũ, đã đè bẹp một ổ kháng cự của giặc cở 1 Trung đội. Chúng không phản ứng kịp, đã bị tiêu diệt gọn. Tiểu đoàn trưởng định cho đơn vị nghỉ ngơi một lúc. Nhưng từ hướng Đông, một đoàn xe molotova trên 10 chiếc, chở đầy bộ đội CSBV đang theo các con đường lô cao su tiến vào. Đơn vị nhanh chóng đổi hướng về hướng Bắc. Nhưng lại chạm địch. Trong hoàn cảnh không có máy bay và pháo binh yểm trợ, đại đơn vị thì đang trên đường di chuyển, đánh nhau với địch lúc này là bất lợi. Nếu quân sĩ bị thương vong thì lại càng phiền toái hơn. TĐT quyết định đoạn chiến. Lại chuyển hướng di chuyển về hướng Tây. Đơn vị đi xuyên qua những căn cứ địa VC, tiêu diệt gọn những tên cán binh “giữ nhà”, nếu gặp giặc đông thì tránh. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào!” Trước khi trời tối, Tiểu đoàn đi đến một khu rừng rậm. Đơn vị chia làm hai cánh, một do TĐT chỉ huy, và một do Đại úy Tiểu đoàn phó Nguyễn Tấn Chi chỉ huy. Vì hoàn cảnh đơn vị di chuyển lẽ loi không có phi pháo yểm trợ, trong khu rừng đầy căn cứ địa của đối phương, hiện do Sư đoàn 341 chiếm cứ, nên TĐT cho lệnh đơn vị phải tránh chạm súng, để tránh thương vong. Nếu bất đắc dĩ phải nổ súng, phải đoạn chiến ngay, phải tìm cách phân tán mỏng, phải di chuyển nhanh ra điểm tập trung tại Long Thành, trên QL.15.
Cánh quân do TĐT chỉ huy chạm súng liên miên. Cuối cùng chỉ còn 27 người sát cánh cùng TĐT. Toán quân vượt thoát ngày nghỉ đêm đi, giữ im lặng vô tuyến. Máy truyền tin mang theo nghe Sư đoàn và Trung đoàn gọi, nhưng không thể trả lời, vì sợ đối phương định vị, tìm đến tiêu diệt. Từ sáng sớm đến chiều tối, Sư đoàn và Trung đoàn thay nhau dùng trực thăng hay L.19 bay đi tìm. Mãi đến 5 ngày sau, khi đã thoát ra ngoài vòng vây, toán quân vuợt thoát 28 người được trực thăng đến bốc. Vài ngày sau, những người lính thất lạc cũng tìm được cách ra đến Long Thành để được xe GMC đón về Long Bình. Trước ngày tan hàng, đơn vị lại tụ họp còn khoảng 50% quân số.
Chỉ có 3 chiếc trực thăng đến bốc 28 quân nhân thất lạc trong khu rừng trong cuộc Hành quân Lui binh của Sư đoàn 18BB, nhưng tin tức loan truyền sai lạc, và đã được phóng đại rất xa sự thật.
Tướng Lê Minh Đảo di chuyển bộ cùng với CĐ43 của Đại tá Hiếu, có TĐ82/BĐQ của Thiếu tá Vương Mộng Long bảo vệ gần:
“Đoàn quân vẫn tiếp tục đi. Tư lệnh vẫn vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa…
“Đại tá Hiếu thì cứ luôn luôn bận tâm đứa con đi đoạn hậu, TĐ2/43, đơn vị này bắt đầu rời Núi Thị…”
“Khi đến ngả ba Xà Bang, Tướng Tư lệnh đã mệt lắm rồi, “Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút được không?”
“Cố lên đi Thiếu tướng! Tôi vừa nói vừa kéo tay Tư lệnh tiến lên.”
(Tháng Tư Lại Về – Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long)
Nhưng kẻ địch, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh B2, rất sung sướng khi trích dẫn những lời viết dối trá của Frank Snepp trong quyển “Decent Interval” để biện hộ cho thất bại của mình với ảo tưởng thắng trận: “…Rạng ngày 21, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính phủ tại Xuân Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của sư đoàn 18 quân đội Việt nam cộng hòa với viên tư lệnh, tướng Đảo, được kéo chạy khỏi thành phố đổ nát bằng máy bay lên thẳng”. Đoạn văn này được Luật sư Hoàng Cơ Thụy trích, viết trong quyển “Việt Sử Khảo Luận” của ông ấy, rồi lại được Luật sư Nguyễn Văn Chức trích lại, viết trong một loạt bài công kích Tướng Đảo trên tờ Văn Nghệ Tiền Phong, với văn phong và ngôn ngữ của Miền Nam: “Trực thăng đã đến bốc cái tiểu đoàn chót của 4 tiểu đoàn sống sót của sư đoàn 18, kể luôn tướng Lê Minh Đảo. Có 600 trăm người dưới quyền Đại tá Lê Xuân Hiếu tình nguyện ở lại sau cùng để che chở cho cuộc triệt thoái. Trong vài giờ, họ bị tràn ngập bởi 40 ngàn quân Bắc Việt đã được bố trí để trực tiếp đánh họ”. Tại sao Frank Snepp viết như vậy? Là một phân tích gia C.I.A (CIA Analyst), cũng là một nhà báo ngồi tại Sàigòn, chỉ cách Xuân Lộc 70 cây số, Snepp phải biết rõ là không phải như vậy. Nhưng anh ta vẫn viết như vậy. Rồi bản tin của anh ta đã bay cùng khắp thế giới. Snepp cố tình đánh lừa dư luận. Có phải Frank Snepp mang mặc cảm tội lỗi của một người bạn đồng minh bất tín. Với tin tức do Quân đoàn 4 cung cấp hàng ngày, Trần Văn Trà cũng phải biết sự thật không phải như vậy, nhưng hắn vẫn viết như vậy. Hắn đã rất sung sướng khi vớ được bản tin bôi bác này của Frank Snepp. Hay Trà cũng mang mặc cảm nô lệ như Luật sư Chức, chỉ thiếu lời bàn Mao Tôn Cương như ông Luật sư:“Đây là do Mỹ nói nhé!”
Lúc đến Bình Giã, Đại tá Hiếu, báo cho Tướng Đảo biết quân Dù đang chạm súng mạnh với cộng quân tại biên giới hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy, TĐ2/43 thì vừa xuống núi, đang di chuyển ngang qua thị xã để đến điểm hẹn tại ngã ba Tân Phong. Tướng Đảo liền cho lệnh Đại tá Dũng đang bay trên chiếc C&C bao vùng, hướng về Xuân Lộc, chuyển lệnh cho TĐT/TĐ2/43 phải lập tức hủy bỏ lộ trình cũ, đưa đơn vị băng rừng ra hướng Long Thành trên QL.15.
Mặc dù Lui binh là một cuộc hành quân khó khăn nhất trong chiến tranh, cuộc Hành quân Lui binh của Sư đoàn 18 đã thành công. Các đơn vị đều rút ra an toàn, chỉ bị những thiệt hại nhỏ. Đó là cái giá phải trả khi đơn vị đang ở thế mặt đối mặt với quân địch. Riêng TĐ2/43, đơn vị đánh nghi binh, phải rút ra sau cùng là bị thiệt hại nặng. Nhưng sự thiệt hại của TĐ2/43 được đổi lại cho đại quân được an toàn trên đường triệt thoái thì cũng xứng đáng.
Sự thành công tốt đẹp của cuộc hành quân lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện không phải do may mắn. Cũng không phải do đối phương đã kiệt quệ. Chính Trần Văn Trà đã chỉ thị cho Hoàng Cầm sử dụng lực lượng mạnh của Quân đoàn 4 kèm chặt Xuân Lộc.  Sự thành công là nhờ vào kế hoạch được soạn thảo chu đáo, thi hành nhanh chóng, đạt được yếu tố bí mật và bất ngờ:
  1. Tướng Đảo đã chọn hai đơn vị thiện chiến chịu trách nhiệm đi đoạn hậu. LĐ1Dù đánh trì hoãn chiến, và TĐ2/43 đánh nghi binh. Hai đơn vị này gồm các binh sĩ giỏi chiến đấu, có nhiều kinh nghiệm chiến trường và rất dũng cảm.
Trong đêm lui binh, vào những giờ đầu của cuộc hành qưân, LĐ1Dù vẫn hoạt động bình thường. Điều khó khăn là làm sao rút ra mà đối phương không biết. Và quân Dù đã làm được. Quân Dù đã giữ được an toàn cạnh sườn trái này của cuộc di tản.
TĐ2/43 trấn giữ Núi Thị, vị trí xa nhất về hướng Tây – Bắc của chiến tuyến. Nếu quân CSBV ở hướng Bắc thị xã có hay biết và tổ chức bộ đội truy kích, chúng phải tiêu diệt Tiểu đoàn 2/43 trước, rồi mới có thể tổ chức đội hình tấn công cạnh sườn phải của đoàn quân triệt thoái.
Khi đại đơn vị bắt đầu di chuyển, TĐ2/43 vẫn hoạt động bình thường. Các toán tiền đồn và phục kích vẫn đi đến những vị trí ấn định. Trung đội BK/TĐ hoạt động sườn phía Đông của Núi Ma, cách BCH/TĐ lối 2 cây số về hướng Bắc vẫn bám trụ. Chính vì vậy mà lúc 3 giờ sáng, khi có lệnh di chuyển, Trung đội này phải mất gần 2 tiếng đồng hồ mới về tới với Tiểu đoàn. Những người lính Biệt kích Tiểu đoàn phải di chuyển thế nào để đối phương không phát hiện. Hai khẩu pháo 105ly còn lại vẫn tác xạ quấy rối đều đặn. Lối 11 giờ đêm, tên Thủ trưởng, tên Chính trị viên, cũng có thể là một tên cán bộ cao cấp đặc trách về binh vận, vào tần số Tiểu đoàn, gặp TĐT để tuyên truyền. Có thể hắn là người có trình độ, hay chỉ là cái máy, giống như con vẹt, tuôn ra những điều đã được viết sẵn. Hai bên đấu lý, trao đổi qua lại mãi đến gần 2 giờ sáng. Chính những hoạt động này của TĐ2/43, đã đánh lừa được cánh quân này của CSBV. Chúng chỉ phát hiện được sau 7 giờ sáng, khi TĐ đã rời xa căn cứ Núi Thị, đang di chuyển gần ấp Núi Đỏ, sát thị xã.
  1. Kế hoạch hành quân được Phòng 3/SĐ soạn thảo tỉ mỉ. Các cánh quân rút lui theo đội hình thế chân vẹt, do đó luôn luôn có quân sẵn sàng chiến đấu, và hỏa lực sẵn sàng yểm trợ cho quân bạn. Trên không thì có trực thăng bao vùng.
“Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi đến Long Giao…Lệnh cho tôi phải ở lại Long Giao và sẵn sàng tác xạ để yểm trợ cho LĐ1Dù đang ở lại…Chúng tôi đã liên lạc được với LĐ1Dù và bắn yểm trợ cho họ…trước khi chúng tôi được lệnh tiếp tục di chuyển…đơn vị Dù thay thế chúng tôi sẽ đến ngay sau khi chúng tôi đi khỏi nơi này…”(Đại úy Nguyễn Hữu Nhân, PĐT/PĐA/TĐ181PBSĐ – Những Giờ Phút Sau Cùng ở Xuân Lộc).
Pháo đội Dù chỉ xếp càng pháo khi người lính cuối cùng của LĐ đến Long Giao.
  1. Tinh thần quân sĩ rất vững vàng, đang lên cao do những thắng lợi suốt trong 12 ngày đêm của trận chiến. Điều quan trọng là cuộc triệt thoái chỉ thi hành theo lệnh, không phải do chiến bại để phải tháo chạy.
Trong những ngày chuẩn bị trận chiến, các đơn vị thường xuyên có những sinh hoạt chính huấn, huấn luyện cách xử dụng súng chống chiến xa, và đặc biệt, Tướng Tư lệnh đến nói chuyện với đơn vị nhiều lần để động viên tinh thần quân sĩ. Thật là không mấy dễ khi cả Vùng 1 và Vùng 2 đều đã lọt vào tay giặc, tuyến phòng ngự mạnh ở Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy cũng thất thủ, dân tỵ nạn từ ngoài Trung chạy vào, hết đợt này đến đợt khác, chính quyền Long Khánh phải lập trại tỵ nạn gần ngã ba Tân Phong. Lẫn lộn trong đoàn người tỵ nạn, có một số quân nhân bỏ ngũ, sự việc này dễ ảnh hưởng xấu đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ, thế mà tinh thần các chiến binh Sư đoàn 18BB vẫn không lung lay.
  • Trước khi trận đánh khai diễn, Tiểu đoàn 18 Quân Y, Bệnh xá Sư đoàn, thân nhân, và gia đình binh sĩ được di chuyển về hậu cứ Sư đoàn ở Long Bình.
Sự thất bại của Quân đoàn II trong cuộc hành quân triệt thoái trên đường 7B là vì lẫn lộn trong đoàn quân, có nhiều đàn bà, trẻ em thuộc gia đình binh sĩ, và nhiều thường dân đi theo (có đến 400 ngàn dân vùng Cao Nguyên chạy lánh nạn cộng sản–theo Nguyễn Đức Phương/CTVNTT), nên đã làm vướng bận các đơn vị quân đội. Các đơn vị khó xoay xở lúc chiến đấu.
Rút kinh nghiệm từ sự thất bại trên đường triệt thoái ở Vùng 2 và Vùng 1, Tướng Đảo đã cho TĐ18QY, Bệnh xá Sư đoàn, thân nhân và gia đình binh sĩ di chuyển về hậu cứ Long Bình từ trước khi xảy ra trận chiến. Tuy nhiên khó khăn cũng phát sinh khi Quân Dù bị vướng bận dân chúng hai ấp Bảo Định và Bảo Bình lánh nạn Cộng sản, gồng gánh đi theo. Quân Dù vừa đánh giặc, vừa phải bảo vệ dân, nên đã chịu một số thiệt hại.
  • Nhưng yếu tố quan trọng hơn hết là do vị chủ soái, Tướng Lê Minh Đảo cùng chịu gian nguy với quân sĩ. Ông không xử dụng trực thăng C&C để chỉ huy từ trên cao, mà di chuyển bộ cùng quân sĩ.
Trong cuộc Hành quân Lui binh từ Xuân Lộc đi Bà Rịa, và cuộc Lui binh lần thứ hai từ Long Bình về Thủ Đức, Tướng Đảo và Bộ Tham mưu đã di chuyển bộ cùng đoàn quân. Việc vị chủ soái dấn thân cùng chịu gian nguy như quân sĩ dưới quyền là một trong những yếu tố thắng lợi.
3/- HẬU QUẢ:
Theo tâm lý thông thường của người chiến binh, đang đánh nhau, ở trong thế mặt đối mặt mà rút lui không đánh nữa, là đã thất bại. Cuộc hành quân Lui binh dù tốt đẹp, đã gây ảnh hưởng tâm lý không tốt đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ.
Quân và dân VNCH cứ lui, lui dần từ Quảng Trị, qua Duyên hải Miền Trung, đến Hàm Tân. Rồi Xuân Lộc cũng bỏ. Người dân Biên Hòa cũng đang tìm cách lánh nạn Cộng sản về Sàigòn. Cảnh tượng như đàn cá đang bị lùa vào rọ. Sàigòn thất thủ chỉ là vấn đề thời gian.
VIII- NHẬN XÉT        
1/- LINH HỒN TRẬN CHIẾN XUÂN LỘC
Có người nói, “mạnh quân, mạnh chi tướng”. Đúng. Chiến thắng Xuân Lộc là chiến thắng của tất cả người dân Xuân Lộc, tất cả những chiến binh tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc. Chính vì thế mà trước khi Sàigòn thất thủ, Bộ TTM/QLVNCH đã ban hành Sư Vụ Văn Thư về việc vinh thăng một cấp cho tất cả những người lính tham dự trận chiến Xuân Lộc. Riêng Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Xuân Lộc đã được Tổng thống Trần Văn Hương vinh thăng cấp Thiếu tướng ngày 25.4.1975.
Trong những loạt đạn pháo đầu tiên của giặc bắn vào Xuân Lộc khi mở cuộc tấn công vào lúc sáng sớm ngày 9.4.1975, vài trái đạn xuyên qua mái nhà, rớt trúng ngay phòng ngủ của Tướng Đảo. Nếu Tướng Đảo bị tử vong ngay lúc đó thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Một lần khác, ngay sau khi phái đoàn báo chí Tây phương rời Xuân Lộc, pháo binh cộng quân đánh hơi, đã trút trận mưa pháo tàn bạo vào nơi Tướng Đảo vừa tiếp phái đoàn. Ông bị một mảnh đạn pháo ghim vào cánh tay. Nếu mảnh đạn trúng ngay chỗ hiểm, ông phải tản thương, thì trận chiến có diễn tiến thuận lợi như đã xảy ra?
Không ai có thể phủ nhận Tướng Đảo là linh hồn của Trận chiến Xuân Lộc. Chính quyền Hànội đã nhốt ông 17 năm trong các trại giam từ Nam ra Bắc. Bởi vì ông là “Đạo diễn” của Chiến thắng Xuân Lộc. Hay nói một cách khác, ông là “Người Hùng Xuân Lộc”, cũng như Tướng Lê Văn Hưng là “Người Hùng An Lộc”. Nhưng ông không muốn gọi là người hùng. Ông nói: “Xin đừng gọi tôi là người hùng. Những người lính của tôi hy sinht tại Xuân Lộc và hàng trăm trận chiến trước đó mới thật sự là những Anh Hùng.”
Nói như George Jay Veith, một sử gia người Mỹ, “Không cần gọi Lê Minh Đảo là người hùng. Những sự thật tự nó đã nói lên điều đó”- There is no need to call Le Minh Dao a hero. Some truths are self-evident. (Fighting Is An Art). 
2/- PHÁO BINH CSBV:
Người mù đi đường cần có cây gậy chỉ đường. Bắn pháo cần có Sĩ quan Tiền sát để chỉ điểm và điều chỉnh đạn sao cho trúng mục tiêu, không rơi vãi ra ngoài vừa tốn đạn vừa gây thiệt hại hoa màu và nhà cửa của dân chúng. Sĩ quan QLVNCH dù không thuộc Binh chủng Pháo binh, đều được huấn luyện về cách gọi pháo và điều chỉnh pháo. Nếu không có các toán tiến sát viên đi theo, người sĩ quan QLVNCH cũng biết cách gọi pháo và điều chỉnh pháo. Mỗi Tiểu đoàn Bộ binh chỉ được cung cấp 1 Toán Tiền sát Pháo. Do đó các Sĩ quan cấp Trung đội hay Đại đội đều phải biết cách điều chỉnh pháo. Một phóng viên Tây phương khi đến thăm mặt trận Xuân Lộc ngày 13.4 đã không ngớt ca ngợi trình độ tác chiến tuyệt vời của Sĩ quan QLVNCH, nhất là cách gọi phi pháo yểm trợ. Quân CSBV thì không được như thế. Trình độ tác chiến thấp kém, vì chủ trương “hồng hơn chuyên”. Ngay cả tên Tư lệnh Quân đoàn là Thiếu tướng Hoàng Cầm cũng chỉ mới biết đọc và biết viết! Trong những ngày vây hãm Sàigòn, pháo giặc bắn bừa bãi vào khu dân cư, trường học, bệnh viện, và phố xá. Trại David trong phi trường Tân Sơn Nhất, nơi cư ngụ của Phái đoàn CS, cũng bị “ăn” pháo của chúng, đã gây thiệt mạng cho 1 đại úy, 1 thượng sĩ, và 5, 6 “đồng chí” khác trong đó có 1 trung tá!
Sư đoàn 341/CSBV của Đại tá Trấn Văn Trấn khi được lệnh đánh Xuân Lộc đã  gửi 2 toán tiền sát pháo tiếp cận mục tiêu cho hai mũi tấn công chính của hắn. Một cho hướng tấn công của Trung đoàn 270 vào căn cứ hỏa lực Núi Thị, và một cho hướng tấn công của Trung đoàn 266 vào thị xã Xuân Lộc. Mặc dù pháo binh đồi dào, nhưng hiệu quả kém, vì “tai mắt” của chúng đã bị tiêu diệt ngay từ khi trận chiến mới bắt đầu hoặc chưa bắt đầu.
Toán tiền sát pháo cho hướng tấn công vào Núi Thị đã bị Trung đội BK/TĐ2/43 tiêu diệt gọn tại Núi Ma (một cao điểm đối diện với Núi Thị) ngay trước giờ trận đánh mở màn. Do đó pháo địch đã không gây ảnh hưởng gì đến giàn pháo hùng hậu của quân bạn tại đây. Chỉ có vài loạt đạn pháo bắn vu vơ rơi vào BCH/TĐ, hai pháo đội đặt ở thế đất thấp bên dưới, và một pháo đội đặt ở chân núi. Hầu hết pháo giặc bắn qua đầu, rơi vào rừng cao su, và tuyến phòng thủ của Đại đội 3/2. Cũng chính vì vậy mà đơn vị này bị thiệt hại do pháo giặc nhiều nhất, đã gây tử thương cho 1 Đại úy ĐĐT, 1 Thiếu úy ĐĐP, và nhiều binh sĩ.
Toán tiền sát pháo cho hướng tấn công vào thị xã, đã xâm nhập vào được bên trong, đặt tại một căn gác nhà dân, cách Tư dinh Tướng Tư lệnh lối 500 mét. Những loạt đạn pháo đầu tiên được toán tiền sát này điểu chỉnh trúng ngay ngôi nhà đặt làm BTL/TP và TTHQ/SĐ. Nhưng toán Viễn thám Đại đội 18 Trinh sát của Đại úy Phạm Hữu Đa phát hiện được. Những người lính dũng cảm của Đa liền bò đến gần, chỉ hai trái M.72, đã tiêu diệt gọn toán tiền sát giặc, đếm được 10 tên. Từ đó, pháo giặc không rơi vào vào Dinh Tư lệnh nữa, mà rơi bừa bãi vào khu nhà dân, khu trường học, khu bến xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc.
3/- QUỐC LỘ 1 CÓ THỂ ĐƯỢC KHAI THÔNG:
Quân đoàn 4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ có 1 Trung đoàn xe tăng, gồm các loại PT-76 (tương đương với M.113) và T.54 (tương đương với M.41). Trong ngày đầu của trận chiến, Trung đoàn xe tăng này tăng cường cho mũi tấn công Sư đoàn 7 ở hướng Đông thị xã Xuân Lộc. Sau ba ngày giao tranh, một số lớn xe đã bị tiêu hủy.
Lữ đoàn 3 Xung Kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi rất mạnh. LĐ có khoảng 250 xe gồm M.113, M.41 và M.48 (quân CSBV chưa có loại xe tương đương).
Ngày 9 tháng Tư, khi quân CSBV tấn công Xuân Lộc, TĐ1/52 và CĐ52 vẫn giữ vững ngã ba Dầu Giây. Tiểu đoàn 2/43 vẫn kiểm soát một khu vực rộng lớn từ xã An Lộc (gần đèo Mẹ Bồng Con), sân bay đồn điền cao su, đến cánh rừng cao su chạy sát vòng đai phía Tây – Bắc thị xã.
Quân CSBV chỉ có 1 Tiểu đoàn của Trung đoàn 33/Sư 6 tiến đánh Hưng Lộc và Hưng Nghĩa. Lực lượng NQ và Nhân dân Tự vệ ở đây đã chống trả quyết liệt. Sau đó giặc chỉ chiếm được xã Hưng Lộc. Một Tiểu đoàn khác tiến đánh ấp Phan Bội Châu. Trung đoàn 274 tiến đánh một phần ấp Trần Hưng Đạo (chỉ có 1 Trung đội NQ bảo vệ), và Đèo Mẹ Bồng Con. Địa thế ở đây rất thuận lợi cho giặc tổ chức hệ thống kiềng chốt. Một con suối chảy qua, nối liền Núi Ma ở phía Bắc QL.1 và cánh rừng cao su đồn điền de Suzannah ở phía Nam.
Nhưng lực lượng mạnh của LĐ3XK (có 3 Tiểu đoàn BĐQ tùng thiết) của Tướng Khôi và Trung đoàn 8/Sư đoàn 5BB của Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng, thiết nghĩ việc khai thông QL.1 là khả thi. Nhưng BTL/QĐIII đã không có một kế hoạch nào để giải tỏa. Và LĐ3XK của Tướng Khôi chỉ bố trí quân từ Trảng Bom ra đến Bầu cá.
4/- NGÃ BA DẦU GIÂY GIỮ ĐƯỢC, CĐ52 KHÔNG TAN, NẾU:
Khi CĐ52 của Đại tá Dũng bị quân CSBV tấn công ngày 15.4, LĐ3XK của Tướng Khôi được lệnh cứu viện. Tướng Khôi và Tướng Đảo nói chuyện với nhau phải qua trung gian của TĐT/TĐ2/43 ở tại điểm cao Núi Thị. Qua cuộc điện đàm của hai vị Tướng, TĐT/TĐ2/43 không thấy một tia hy vọng nào cho cuộc cứu viện. Quân của Tướng Khôi đã bị Trung đoàn 33/Sư 6/CSBV chận lại tại phía Bắc Hưng Nghĩa, cho đến khi CĐ52 tan hàng!
Nếu LĐ3XK quyết tâm cứu viện, quân bạn có thể chiếm lại ngã ba Dầu Giây và cứu được CĐ52. Chiếm lại ngã ba Dầu Giây, lập tuyến phòng ngự mạnh tại đây thì đã ngăn chận được quân CSBV tiến xuống từ Cao Nguyên theo QL.20.
5/- NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA QUÂN CSBV:
Bọn đầu sỏ của giặc mang tính chủ quan. Chúng “cứ nghĩ là sau một trận pháo kích kinh hoàng (mà kinh hoàng thật!), nghe tiếng xích xe tăng là tàn quân địch phải tháo chạy, nhưng không ngờ địch không chạy mà tử thủ, thành ra tấn công 2, 3 đợt không thành mà lại thiệt hại lớn.” Điều này cũng dễ hiểu vì chúng dễ dàng tiến công qua Vùng 1 và Vùng 2. Quân giặc đã đi qua những tỉnh thành đã bỏ ngõ, không tốn một viên đạn! Vì không có lực lượng chống trả, hay không được lệnh chống trả, mà chỉ triệt thoái lui binh. Tại Nhatrang tỉnh Khánh Hòa, quân ta đã rút đi trước khi giặc đến. Thành phố vô chính phủ hỗn loạn, thân hào nhân sĩ phải thành lập phái đoàn đi ra tận đèo Rù Rì mời giặc vào tiếp quản!  Chính vì vậy mà Văn Tiến Dũng đã ba hoa: “Cán bộ tham mưu không vẽ kịp bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội” (lời nói khoác lác của Văn Tiến Dũng khi bộ đội của hắn chưa vào đến Xuân Lộc). Nhưng có lẽ Tướng Võ Nguyên Giáp và BTTL của ông tại Hànội có cái nhìn hiểu biết hơn, đã điện vào yêu cầu dừng lại, chờ lực lượng bổ sung vào, nhưng không kịp. Sự nôn nóng của đám Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng và Trần Văn Trà muốn lập công sớm đã dẫn đến tổn thất nặng nề. Không chiếm được Xuân Lộc, chúng phải thay đổi kế hoạch tấn công Sàigòn như dự định.
Vì mang tính chủ quan, CSBV đã thất bại nặng nề khi đụng phải TUYẾN THÉP XUÂN LỘC (Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB, QLVNCH), hay CÁNH CỬA THÉP (cách gọi của Tướng Lê Nam Phong, cựu Sư trưởng Sư 7/QĐ4/CSBV) : “Chỉ trong 3 ngày đầu chiến đấu đã có 1.500 cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 341 và Sư đoàn 7 thuộc Quân đoàn 4 bị thương vong. Ngoài ra còn 3 xe tăng bị bắn cháy, 3 xe bị bắn hỏng. Nghiêm trọng hơn là toàn bộ pháo 85 và 57ly đều hỏng”. (Thư viện Đồng Nai, VN).
6/- QUÂN CSBV ĐÔNG NHƯNG KHÔNG MẠNH:
Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ huy dù đông, vũ khí hiện đại, đạn dược dồi dào, nhưng không mạnh. Hai Sư đoàn tấn công trực diện vào Sư đoàn 18BB (-), chỉ có Sư đoàn 7 là được, còn Sư đoàn 341 thì quá tệ. Đơn vị này mặc dù được trang bị vũ khí hiện đại, nhưng kinh nghiệm chiến đấu không có. Đa số bộ đội đều ở độ tuổi vị thành niên, vừa mới bị bắt vào lính với cái tên gọi đẹp đẻ là “Trúng tuyển Nghĩa vụ Quân sự”, nên đã dễ dàng đại bại trước những chiến binh dũng cảm và giàu kinh nghiện chiến trường của Sư đoàn 18BB.
Quân CSBV thường áp dụng chiến thuật BIỂN NGƯỜI, một chiến thuật mà quan thầy Trung cộng vĩ đại của chúng đã áp dụng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Tại trận đánh mở đầu Định Quán hồi tháng 3.1975, TĐ2 Trung đoàn 141/CSBV do chính tên Trung đoàn phó Bé Ích Quan trực tiếp chỉ huy, đã “nướng” hết đơn vị này khi hắn liên tục tổ chức những đợt tấn công biển người vào vị trí của TĐ2/43, SĐ18BB, bị những trái đạn chống biển người đốn ngả.
Do đó ta không phải sợ thế giặc đông. Nếu ta quyết chiến, có đầy đủ vũ khí đạn dược, nhất định ta sẽ thắng chúng.
7/- TRÌNH ĐỘ TÁC CHIẾN CÁC CẤP CHỈ HUY CSBV:
Các cấp chỉ huy quân CSBV có trình độ tác chiến dưới mức trung bình, nếu không muốn nói là quá tệ. Chúng chỉ biết “Trung với Đảng, hiếu với Dân”, học thuộc như con vẹt, nhưng không hiểu gì. Về tác chiến, trình độ của chúng thật thấp kém. Cấp chỉ huy từ cấp Đại đội trưởng trở lên, có thể chưa học hay học rồi mà không kịp tiêu hóa, đã không biết cách phối hợp “Nhị thức Bộ binh – Thiết giáp”, theo cách gọi của chúng là “Hợp đồng Binh chủng”. Chính vì thiếu phối hợp, quân CSBV không tận dụng được ưu điểm của thiết giáp. Điển hình tại mặt trận An Lộc hồi mùa hè đỏ lửa 1972 và tại Xuân Lộc tháng Tư năm 1975. Xe tăng CS tấn công khơi khơi, lẻ loi, không biết phối hợp cùng bộ binh để có sự yểm trợ hỗ tương, nên đã là những miếng mồi ngon cho đối phương.
Các mũi tiến công của Quân đoàn 4/CSBV hoàn toàn bị bẻ gãy. Chúng không chiếm được phần đất nào của thị xã Xuân Lộc. Các cấp chỉ huy của quân CSBV chỉ biết làm theo lệnh một cách mù quáng. Khi gặp tình huống khó khăn, đám cán bộ chỉ huy này không biết xoay xở, hay nói theo ngôn ngữ quân sự là “trường hợp xử trí”. Bọn chúng đã hoàn toàn lúng túng cho đến khi bị tiêu diệt.
Ngày đầu tiên của trận chiến, chỉ có vài đơn vị nhỏ bộ đội thuộc Trung đoàn 266/Sư 341 xâm nhập vào khu chợ Xuân Lộc và bến xe Long Khánh. Nhưng chúng chỉ cố thủ được một thời gian ngắn, sau đó bị Tiểu đoàn 1/43 phối hợp cùng lực lượng ĐPQ/LK đánh bật ra ngoài. Một số đi lạc vào khu phố và trường học thì bị Đại đội 18 Trinh sát của Đại úy Phạm Hữu Đa tiêu diệt hoặc bắt sống. Mũi tiến công Trung đoàn 209/Sư 7 từ hướng Nam thị xã, quặt lên sân bay, thì bị các chiến sĩ mũ nâu chận lại, đánh cho tan tành. Nhiều xe tăng giặc bị bắn cháy. Tại Núi Thị, Trung đoàn 270/Sư 341 đã không mò đến được chân núi. Chúng bị chận lại từ tuyến phòng thủ ngoài cùng. Bị đạn pháo bắn cho tan nát, sau đó phải rút lui. Tên thủ trưởng đơn vị này đã không biết cách điều động quân, không biết cách đánh, nên đã chuốc lấy thảm bại.
Núi Thị là một cao điểm quan trọng. Đáng lý Hoàng Cầm phải ưu tiên tiêu diệt căn cứ hỏa lực này trước khi dốc toàn lực đánh Xuân Lộc. Nhưng cả Hoàng Cầm và tên Sư trưởng Sư 341 Trần Văn Trấn ngu ngốc khi thấy Trung đoàn 270 bị thiệt hại không đánh được Núi Thị, đã cho lệnh rút ra tăng cường cho cánh quân 266 đánh vào thị xã. Chúng đã bỏ mất một cơ hội tốt.
Tướng Hoàng Cầm từng là cán bộ cấp Trung đoàn, tham dự trận đánh Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, nhưng Hoàng Cầm đã không rút tỉa được kinh nghiệm gì ngoài chiến thuật “tiền pháo hậu xung” và tấn công “biển người”. Nếu không có các Tướng Tàu cộng làm cố vấn, thực tế là cầm quân chỉ huy, Tướng Giáp đã bỏ cuộc sau khi nướng hết 23 ngàn quân trên tổng số 33 ngàn quân. Nhưng Tướng Tàu Vi Quốc Thanh quyết định đánh tiếp với 25 ngàn quân khác, và cuối cùng đã chiến thắng Pháp.
8/. TÙ BINH CSBV ĐƯỢC QUÂN TA ĐỐI XỬ NHÂN ĐẠO:          
Vào khoảng 50 tù binh CSBV bị bắt tại mặt trận Xuân Lộc. Phần lớn đám tù binh thuộc Sư đoàn 341, ở độ tuổi 16 hay 17. Bọn chúng là đám dân quê của các tỉnh Thanh – Nghệ – Tĩnh bị cưỡng bách đi bộ đội với một cái tên hoa mỹ: “Trúng tuyển nghĩa vụ quân sự!”. Đám lính mới này chưa được huấn luyện thì đã theo đoàn quân vào Nam. Trình độ tác chiến rất kém, nếu không muốn nói chúng chỉ là đoàn quân ô hợp. Tên Sư trưởng, Đại tá Trần Văn Trấn cũng không khá hơn. Hắn là tù binh được ngụy trang kỹ, khai chỉ là một y tá, được trao trả ngay trong đợt đầu tiên năm 1973. Sư đoàn tồi tệ của hắn bị thiệt hại nhiều nhất, lại lãnh thêm 2 trái bom BLU-82.
1
VNCH luôn luôn tôn trọng Quy ước Genève về Tù binh. Mỗi quân nhân QLVNCH đều được học tập về cách đối xử nhân đạo với tù binh, theo đúng những điều khoản ghi trong Quy ước. Năm 1957, nhà cầm quyền CSBV đã ký vào Quy ước Genève về Tù binh. Ký thì ký, nhưng chúng không bao giờ tôn trọng những gì chúng ký kết. Bọn họ chỉ là thổ phỉ, đã đối xử rất tàn bạo và dã man mỗi lần quân nhân ta sa cơ thất thế bị lọt vào tay chúng. Chúng bỏ đói, bắt lao động khổ sai, hành hạ đủ điều, khiến nhiều người đã bỏ mình trong các trại lao tù cộng sản.
Ngoài Quy ước Genève, điều 5 trong Sáu Điều Tâm Niệm của Người Lính VNCH ghi:
“Tôi luôn đối xử tử tế với tù hàng binh địch (VC), không ngược đãi đánh đập họ, không đụng đến của riêng họ, để thêm bạn bớt thù”.
Những tù binh CSBV bị bắt tại mặt trận Xuân Lộc, trước khi được chuyển về Biên Hòa, đã được Sư đoàn nuôi ăn chu đáo. Tướng Lê Minh Đảo đã chỉ thị Sĩ quan Tiếp liệu xuất kho khẩu phần lương khô của đơn vị để nuôi ăn tù binh. Những tù binh bị thương nặng, không tự tay dùng cơm, thì được binh sĩ ta chăm sóc như một “vú em!”
9/. LỮ ĐOÀN 1 DÙ TĂNG VIỆN CHO XUÂN LỘC LÀ ĐỂ PHẢN CÔNG ĐỊCH:
Quân đoàn 4/CSBV của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã tung 2 Sư đoàn 6 và 341 tấn công thị xã Xuân Lộc chỉ có 1 Sư đoàn 18BB (-), nhưng sau 3 ngày giao chiến, quân của Cầm vẫn bị cầm chân bên ngoài thị xã, không chiếm được một tấc đất nào, còn bị thiệt hại nặng. Các chiến binh SĐ18BB, TĐ82BĐQ, ĐPQ và NQ/LK đã chiến đấu rất anh dũng, luôn luôn giữ vững tay súng.
Chiến binh XL giữ vững tay súng
Chiến binh XL giữ vững tay súng
“Lúc địch quân bắn 3.000 quả đạn đại bác vào Xuân Lộc thì Tướng Đảo không có mặt tại đó. Nhưng ông đã nhanh chóng đến nơi lúc binh sĩ của ông đang giao tranh tại đường phố để kiểm soát thị xã. Hỏa lực của hai bên đều rất dữ dội…Trận đánh kéo dài từ ngày này qua ngày nọ và cứ thế…Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận quyết liệt…CS tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. SĐ18BB vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10.4.75, Cộng quân đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy lui. Ngày 12.4.75, quân CSBV vẫn không tiến thêm được chút nào. Hai Trung đoàn của Quân đội Nam Việt Nam (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48) không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công giữ dội hơn. Thêm 3.000 quả đạn đại bác nữa rót vào Xuân Lộc xé nát mọi vật. SĐ18BB vẫn đứng vững…”
(A. Dawson, Trưởng phòng Thông tin của UPI tại Sàigòn)
        Ngày 12 tháng Tư, Xuân Lộc được tăng viện. LĐ1 Dù gồm các Tiểu đoàn 1, 8, 9, TĐ3PBDù, ĐĐ1TSDù, ĐĐ3CB, ĐĐ1QYDù được trực thăng vận vào mặt trận, đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng TL/SĐ18BB. Ngay khi vừa đặt chân xuống Xuân Lộc, quân Dù đã mở ngay cuộc hành quân thế công diệt địch.
        Hoạt động của quân Dù tại Xuân Lộc hoàn toàn trong thế công. Quân Dù nhảy vào Xuân Lộc không phải để cứu Sư đoàn 18BB khỏi bị tiêu diệt. Vì khi quân Dù chưa đến, Xuân Lộc vẫn đứng vững. Không những thế, đã chận đứng tất cả các mũi tiến công, và đánh bại quân xâm lăng CSBV. Trong ba ngày đầu: 9, 10, và 11, Sư 7 của Lê Nam Phong bị hạ sát 300 tên; Sư 341 của Trần Văn Trấn bị 1200 tên; 9 xe tăng bị bắn cháy, toàn bộ pháo 85 ly và 57 ly bị tiêu hủy. Khi quân Dù nhảy vào, lực lượng CSBV từ thế công đã phải chuyển qua thế thủ. Đơn vị này suýt bắt sống toàn bộ 1 Tiểu đoàn của Trung đoàn 141. Sau những trận phản công quyết liệt, các Tiểu đoàn 1, 2 và Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 141 đã bị quân Dù xóa sổ.
10/- LỪA DỐI:
            Khi nghe tin “Sài Gòn được giải phóng”, người dân Miền Bắc và người dân Hà Nội đã bật khóc như những đứa trẻ, vì nghĩ rằng sẽ không còn chiến tranh, nghĩa là sẽ không còn chết chóc, không còn ly biệt, và những hệ lụy khổ đau nó mang lại. Từ nay sẽ không phải “hạt gạo cắn làm tư” (cho miền Bắc, cho miền Nam, cho Campuchia, và cho Lào). Con, em, chồng, cha của họ sẽ không phải “sinh Bắc tử Nam”. Nhưng họ không bao giờ biết rằng cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn diễn ra trong hơn 20 năm qua là do những nhà lãnh đạo hiếu chiến phát động, với mưu đồ nhuộm đỏ nốt Miền Nam theo lệnh của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản của ông ta tự nguyện làm tên lính xung kích cho Nga, cho Tàu. Tên Tổng Bí thư Cộng đảng Lê Duẫn từng huỵch toẹt tuyên bố: “Ta đánh đây là cho Liên Xô, cho Trung Quốc!” Nhưng họ Hồ và đảng cộng sản của ông ta đã dối trá khi tuyên truyền rằng đồng bào Miền Nam bị “Mỹ – Ngụy” kềm kẹp, do bất mãn, đã nổi dậy. Già Hồ nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Từ đó, Miền Bắc có nghĩa vụ phải giải phóng Miền Nam. Những lời nói dối trá đó cứ lặp đi lặp lại, kiểu như câu chuyện “Tăng Sâm giết người”, đã động viên được lòng yêu nước của toàn dân và toàn quân để tiến hành một cuộc chiến tranh vô nghĩa.
      Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu từng nói:
     “Đừng nghe những gì Cộng sản nói,
       Hãy nhìn những gì Cộng sản làm”.
      Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsyn nói:
“ Khi thấy thằng CS nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo. Nếu ta không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại những lời nó đã nói láo với người khác.”
       Từ sau năm 1945, trong dân gian vẫn truyền tụng câu: “Nói dối như VẸM”. Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối. Gian dối để sống còn. Ở mức độ cao, nói dối cấp nhà nước thì càng tệ hại hơn.
       Trận chiến cuối cùng Xuân Lộc, Quân đoàn 4/CSBV dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã thảm bại nặng nề. Nhưng nhà cầm quyền CSBV vẫn tuyên truyền rằng chúng chiến thắng. Lịch sử được viết lại. Chúng tha hồ vẽ rắn thêm chân. Những tên nhà văn vô liêm sĩ, điển hình là Bảo Ninh, chỉ tưởng tượng mà viết lếu láo. Đúng là bọn văn nô. Chúng chỉ dám “viết theo lề phải”, kiểu “Con ngựa già của Chúa Trịnh” của nhà văn Phùng Cung trong Nhân Văn Giai Phẩm.
       Tại Xuân Lộc tháng Tư năm 1975, QLVNCH đã thắng lớn quân CSBV, đã hạ sát tại trận 6.000 bộ đội “cụ Hồ”, bắt sống 50 tên “Sinh Bắc Tử Nam”, bắn cháy 37 xe tăng do Nga Sô chế tạo, tịch thu và phá hủy nhiều vũ khí đạn dược. Thất bại của quân CSBV là hiển nhiên. Nhưng các tên chỉ huy giặc tại mặt trận này vẫn được thăng cấp, tiến chức. Việc làm này của CSBV là để đánh lừa dư luận quốc tế và quốc nội. Nói dối riết trở thành thói quen. Chúng đã có ảo tưởng là thắng trận.
       Một người dân Xuân Lộc sinh ra sau ngày 30.4.1975, lớn lên dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đi học Tiểu học, Trung học tại Xuân Lộc, và Đại học tại Sàigòn. Hiện giờ là Giám đốc một Công ty lớn ở Việt Nam, có dịp đi ra ngoại quốc, có dịp tiếp xúc với người Việt tỵ nạn, cho người viết biết:
  • Trong một bài đọc thêm của cuốn “Lịch sử lớp 10” (bây giờ là lớp 12), do nhà xuất bản Giải Phóng, xuất bản năm 1975, tác giả bài viết nêu đích danh tên người chỉ huy Núi Thị là một kẻ chống phá “Cách Mạng” điên cuồng, có nhiều nợ máu với nhân dân, ngoan cố không chịu đầu hàng. (Có thể tác giả bài viết là tên cán binh vào tầng số Tiểu đoàn tuyên truyền kêu gọi TĐ2/43 đầu hàng đêm 20.4 rạng ngày 21.4 tại Núi Thị).
  • Một cuốn phim tài liệu (CS gọi là tư liệu) của Xưởng Phim Giải Phóng chiếu cảnh bộ đội Đặc công cùng đơn vị thuộc Sư đoàn 341 tấn công Núi Thị, đã hạ sát hàng trăm tên “ngụy”, bắt sống nhiều binh lính và sĩ quan, trong đó có tên chỉ huy, phá hủy nhiều khẩu pháo 105ly, 155ly và nhiều đạn dược. Cảnh trong phim diễn tả phù hợp với lời viết dối trá của Thượng tướng Trần Văn Trà trong cuốn Hồi ký ‘Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm’:
                “Tiếp theo hôm sau đã chiếm Núi Thị…”
        Sự thật khi Toán Đặc công hướng dẫn đơn vị thuộc Sư đoàn 341 tấn công Núi Thị lần thứ hai, sau khi TĐ1/52 bị thất thủ ở ngã ba Dầu Giây, tên ĐĐT mang quân hàm Thiếu úy, và nhiều bộ đội đặc công bị hạ sát khi mới mon men đến gần vị trí của ĐĐ1/2 tại tuyến phòng thủ dưới chân núi. Trung đoàn 270 mở nhiều đợt tấn công biển người, nhưng vẫn không chọc thủng được tuyến phòng thủ, đành phải rút lui khi trời sáng.
  • Hàng năm Chính quyền CSVN vẫn làm lễ Chiến thắng Xuân Lộc (nếu bọn cầm quyền CSVN còn chút lương tâm, nên đổi lại là Lễ Tưởng niệm Chiến bại). Báo chí viết lếu láo đã đành, vì mục đích tuyên truyền, viết theo lề phải! Nhưng chúng còn viết sử láo khoét đầu độc thế hệ trẻ. “Người dân Xuân Lộc” kể chuyện đã phải học bài sử láo khoét do chúng dựng chuyện. Đó là bài Lịch sử Địa phương dạy ở các trường tại Xuân Lộc:
“Chiến dịch Long Khánh mở màn lúc 5 giờ sáng ngày 6-4-1975 (sai: 5 giờ 40 ngày 9.4.1975). Sau loạt đạn pháo của ta bắn vào nội ô Thị xã, Chi khu Tân Phong, khống chế pháo địch tại Núi Thị (sai: Pháo Núi Thị vẫn hoạt động bình thường), đến đúng 10 giờ 30 phút cùng ngày, các đồng chí…thuộc mũi Xung kích sư đoàn 341 do đồng chí Đại tá Trần Văn Trấn chỉ huy đã cắm cờ trên Toà hành chánh, trung tâm đầu não tỉnh Long Khánh (sai: chúng chỉ cắm cờ tư dinh Tỉnh trưởng do vài Nghĩa Quân canh gác)…
       Sau khi Tòa hành chánh bị thất thủ lúc 11 giờ ngày 9-1-1975 (sai: giả dụ có thất thủ thì phải là ngày 9.4.1975), Bộ chỉ huy Sư đoàn 18 do tên Chuẩn tướng Lê Minh Đảo chỉ huy không chờ lệnh cấp trên bỏ chạy ra Chi khu Tân Phong….(không phải bỏ chạy mà di chuyển đến một vị trí dự phòng khác. Khi chuẩn bị chiến trường Xuân Lộc, Tướng Đảo đã cho Công binh Sư đoàn thiết lập Trung tâm Hành quân Sư đoàn tại nhiều địa điểm. Trong đó có một tại Núi Thị, và một tại Tân Phong).
  • Kết quả ta thu được trong chiến dịch:
  • Diệt được 2056 tên địch (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48 cộng lại lối 3.000, vậy là chúng đã loại được 2 trung đoàn!).
  • Bắt sống 2783 tên (trong đó có tên Đại tá Phúc, Tỉnh trưởng Long Khánh) (sai: chỉ có Đại tá Phúc và vài cận vệ bị bắt trên đường lui binh).
  • Tiêu diệt gọn 6 Tiểu đoàn (nếu vậy thì 6 Tiểu đoàn của Trung đoàn 43 và 48 đều bị tiêu diệt).
  • Thu 48 xe vận tải các loại; 1499 súng các loại trong đó có 10 khẩu pháo 105ly, 4 khẩu 155ly và 1000 viên đạn pháo (sai: chỉ có 2 khẩu pháo 105ly tại Núi Thị do chính TĐT/TĐ2/43 ra lệnh phá hủy trước khi lui binh).
  • Phá hủy 16 xe GMC, 42 xe tăng thiết giáp, 3 máy bay và nhiều đạn dược (trừ 1 Chi đoàn M.113 của Đại úy Vũ Đình Lưu + 1 Chi đội chiến xa M.41 bị thiệt hại nặng nhưng chưa phải là “cháy túi”. Nếu 42 xe bị phá hủy thì Thiết đoàn 5(-) của Trung tá Trần Văn Nô đã sạch túi! Tại mặt trận Xuân Lộc không có máy bay nào bị thiệt hại.)
IX- DƯ LUẬN VỀ TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG XUÂN LỘC
            Chiến trận Xuân Lộc bùng nổ với tương quan lực lượng của hai bên khá chênh lệch. Ban đầu quân bạn chỉ có 2 Trung đoàn là 43 và 48. Nhưng Tiểu đoàn 2/43 thì trấn giữ cao điểm Núi Thị, cách xa thị xã hơn 3 cây số về hướng Tây, nằm ngoài tuyến phòng thủ của thị xã. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 48 đang tăng phái cho Tiểu Khu Bình Tuy của Đại tá Trần Bá Thành để bảo vệ tỉnh lỵ Hàm Tân. Đơn vị này chỉ được kéo trở về khi chiến cuộc đã bước sang ngày thứ hai. Như vậy bên trong vòng đai phòng thủ của thị xã chỉ có 2 Trung đoàn (-), Tiểu đoàn 82/BĐQ (đơn vị này chỉ còn lối 200 tay súng, sau cuộc triệt thoái từ Cao Nguyên Trung phần, và chỉ mới đến Xuân Lộc buổi chiều ngày hôm trước), Thiết đoàn 5/KB (- CĐ2/5/TK của Đại úy Vũ Đình Lưu đang hoạt động cùng Trung đoàn 52 trên tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu Giây). Quân CSBV tấn công vào thị xã gồm toàn bộ Sư 7 của Tướng Lê Nam Phong, và Trung đoàn 266, qua ngày thứ hai, thêm Trung đoàn 270 (hai đơn vị này đều thuộc Sư 341 do tên Trần Văn Trấn chỉ huy, cấp bậc Đại tá). Các đơn vị bộ chiến này được tăng cường Tiểu đoàn xe tăng với các loại xe T-54 và PT-76 do Liên Xô chế tạo. Theo tác giả Phạm Kim Vinh “Cái Chết Của Nam Việt Nam”, một quan sát viên Tây phương theo dõi cuộc chiến đấu của sư đoàn 18 so sánh rằng: “trận đánh này giống như một cuộc chạy đua 30 cây số, trong đó, một người chỉ có một mình phải chạy hết quãng đường, trong khi người kia được tới bốn người thay nhau tiếp sức”. Với tỉ số chênh lệch như vậy, nhưng quân trú phòng đã đánh bật tất cả các mũi tiến công của cộng quân, giữ vững phòng tuyến. Mãi cho đến buổi trưa ngày 12.4, Quân đoàn mới cho trực thăng vận Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh vào tăng viện. Chiến thắng thần kỳ của Sư đoàn 18BB đã làm cho kẻ thù phải khiếp sợ, đồng minh phải nể phục.
1/-  ĐỊCH
Tại Lộc Ninh, một quận lỵ nhỏ của tỉnh Bình Long, lọt vào tay quân CSBV hồi Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, nằm sát biên giới Việt – Miên. Lộc Ninh được xem như là “Thủ đô” của VC, sau khi Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của VC, đã “hồ hởi’ tếu khi tuyên bố trong vòng mười ngày  nữa, An Lộc sẽ là “Thủ đô của Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”, nhưng không thực hiện được. Lộc Ninh trở thành sào huyệt của bọn thảo khấu kể từ đó.
Sau khi mở cuộc tấn công Xuân Lộc với những thuận lợi ban đầu nhờ yếu tố bất ngờ, quân số và vũ khí dồi dào, vượt hẳn quân trú phòng, đã đạt được vài thắng lợi nhỏ, nhưng kể từ chiều ngày 10 trở đi, tình hìnhh trở nên căn thẳng. Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm kêu thiếu đạn, thiếu quân số. Vài vị trí chiếm được lần lượt bị phản công chiếm lại. Có vị trí thay đổi chủ vài lần: Đó khu vực bến xe Long Khánh và chợ Xuân Lộc. Đó là chiến trận giữa hai Trung đoàn thuộc Sư 341 và Tiểu đoàn 1/43 của Đại úy Đổ Trung Chu, Tiểu đoàn 1/48 của Thiếu tá Trần Cẩm Tường, và Chi đoàn 3/5 của Đại úy Lê Sơn.
Tại sào huyệt Lộc Ninh, bọn đầu lĩnh CSBV với các tên đầu sỏ gồm có Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ chính trị Cộng đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đảng, một thứ Thái Thượng Hoàng của Triều đình Đỏ Bắc Việt; Phạm Hùng, Chính ủy; Văn Tiến Dũng, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng cái gọi là “Quân đội Nhân dân VN’, Tổng chỉ huy quân xâm lược, rất lo lắng khi thấy quân CSBV bị chựng lại, hoặc bị đẩy lui. Trận đánh quá ác liệt, các đơn vị bị thương vong nặng. Báo cáo từ mặt trận cho biết vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căng thẳng (lúc này Xuân Lộc chỉ được phòng thủ do 2 Trung đoàn (-): TĐ2/48 đang tăng phái cho Tiểu khu Bình Tuy chưa kịp kéo về. CĐ52 cũng chưa xuất phái TĐ2/52 cho Xuân Lộc. Quân Dù thì mãi đến ngày 12 tháng Tư mới nhảy vào mặt trận). Mới đánh nhau chưa được 2 ngày, sao đã kêu thiếu đạn. Tại sao các Sư 6, 7, 341 kêu thiếu quân số? Tình hình rất gay go.
Lê Đức Thọ: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”.
Văn Tiến Dũng: “Kế hoạch tấn công Xuân Lộc chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch…Trận chiến ác liệt và đẩm máu từ những ngày đầu tiên. Các sư 6, 7, 341 của ta phải tiến công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của Trung đoàn 43 địch quân. Các đơn vị pháo của ta đã xử dụng nhiều hơn cơ số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị hạ…” (Đại Thắng Mùa Xuân).
Trần Văn Trà: “…vào cuối ngày 10 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng. Địch phản công điên cuồng…(Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm)
Hoàng Cầm ân hận vì cả Sư đoàn 341 gần như bị xóa sổ vì bom BLU-82, trách Bộ Tư lệnh Miền B-2 quá hối hả ra lệnh tấn công Xuân Lộc, trong lúc hắn xin chờ, nhưng Hànội bảo phải đánh ngay: “Trận đánh muộn kéo theo những khuyết điểm không đáng có. Việc chuẩn bị trận đánh quá gấp, xác định hướng chủ yếu từ đông –bắc đánh vào là không chính xác. Đúng đây là phía sau căn cứ sư đoàn 18, nhưng lại là khu vực phòng thủ rắn của địch, địa hình không thuận lợi, ta phải từ dưới cánh đồng thấp, ngược sườn đồi đánh lên, phải mở tám, chín hàng rào kẽm gai, vượt qua hệ thống đường ủi và các vị trị phòng thủ vòng ngoài mới có thể tiến vào trung tâm, tiến công chiến đoàn 52 và trung đoàn 5 thiết giáp phòng giữ. Khi phát hiện phía tây-nam, qua cổng chính tiến vào căn cứ địch có nhiều sơ hở, nhưng không còn lực lượng đảm nhiệm, vì Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ ở hướng chủ yếu, không thật sung sức lắm…Khi phát hiện hướng chủ yếu gặp khó khăn, địch tăng cường lực lượng phản kích quyết liệt đẩy ta ra khỏi thị xã, thế trận căng thẳng giằng co, lại không kịp thời chuyển hướng, thay đổi cách đánh. Việc phối hợp các hướng tiến công không thật thích hợp và ăn khớp…” (Hoàng Cầm, TL/QĐ4 – Chặng Đường Mười Nghìn Ngày).
Đại tướng Phạm Văn Trà, Bộ trưởng Quốc Phòng, trong một lần tại cuộc Hội thảo “Đại Thắng Mùa Xuân 1975”: ‘Chiến dịch Miền Đông là tiền đề của chiến dịch Hồ Chí Minh, và trong chiến dịch này, quân ta bị tổn thất, thương vong khá lớn”. Ít khi bọn CS thú nhận họ thất bại. Nhưng ở đây, với tư cách là Bộ trưởng Quốc phòng của chế độ, tại cuộc Hội thảo, hắn đã thú nhận, như vậy sự tổn thất không phải là nhỏ. Phạm Văn Trà nói tiếp: “Không nói đến chiến dịch miền Đông, sẽ không thấy hết cái giá phải trả cho ngày chiến thắng 30/4/1975 lớn đến thế nào. Hơn 4.000 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh để chọc thủng phòng tuyến Xuân Lộc…”
Các đài phát thanh và truyền hình Cộng sản Việt Nam, cứ sắp đến ngày 30 tháng Tư là ra rả suốt ngày nói về “Đại Thắng Mùa Xuân”, nhưng những năm gần đây, bất đắc dĩ thú nhận rằng chúng đã bị thiệt hại nặng khi tiến qua Xuân Lộc. Lời thú nhận muộn màng của CSBV đã xác nhận chiến thắng Xuân Lộc tháng Tư năm 1975 của QLVNCH.
       Ngay những người lương thiện, có mấy ai tự thú nhận một điều mình không muốn nói, huống hồ là cộng sản. Vì cộng sản là dối trá, là phường nói láo. Nói láo đã trở thành cố tật, là chính sách của cộng sản. Nhưng trận chiến Xuân Lộc, trận chiến cuối cùng có tính cách qui mô giữa quân và dân Xuân Lộc với bộ đội CSBV, đã nghiên hẳn về phía QLVNCH. Sự thiệt hại của quân xâm lăng CSBV là rất to lớn, chúng không thể che dấu được, đành miễn cưỡng phải nói ra. Nhưng chỉ nói ra một phần sự thật trong chiều hướng “cứu cánh biện minh phương tiện”.
       Thật ra phòng tuyến Xuân Lộc không hề bị chọc thủng, và con số cán binh bị giết không phải là 4 ngàn, mà là 6 ngàn, 8 ngàn, hay nhiều hơn thế nữa. Đúng ra hắn nên nói: “Hơn 4.000 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh để tiến chiếm một thị trấn đã bỏ ngỏ”. Suốt 12 ngày đêm của trận chiến, quân CSBV chỉ mon men bên ngoài vòng đai của thị xã, chỉ có vài toán đặc công xâm nhập được bên trong, nhưng đã nhanh chóng bị đẩy lui hoặc bị tiêu diệt. Con số 4.000 do Trà đưa ra là con số chính thức được CSBV công bố. Con số thực chắc chắn là cao hơn nhiều. Vậy 6 ngàn, 10 ngàn hay nhiều hơn thế nữa cũng là điều khả tín. Không chọc thủng được phòng tuyến Xuân Lộc để đi qua, quân CSBV phải đi vòng, hầu có thể cùng với 4 cánh quân kia tiến công Sài Gòn đúng ngày hẹn. Quân CSBV không chọc thủng được phòng tuyến Xuân Lộc vì đã đụng phải “Tuyến Thép Xuân Lộc” do những chiến binh dũng cảm của Sư đoàn 18BB, Lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/Biệt Động Quân “sát”, Lữ đoàn 1 Dù với mỹ danh “Thiên Thần Mũ Đỏ” thiện chiến chống trả.           
       Trần Đức Thạch, Phân đội trưởng Trinh sát Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266/Sư 341 tường thuật: “Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi đầu hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15 (M.16). sau đó họ ôm nhau tự sát bằng một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người…Hình ảnh bi hùng ấy đã gây ấn tượng mạnh cho tôi….Vị tướng nào có những người lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã thể hiện khí phách của người trai nơi chiến trận.”  (Hồi ký ‘Hố Chôn Người Ám Ảnh’)
       Trong những ngày cuối của cuộc chiến tranh Quốc – Cộng, các chiến binh Sư đoàn 18 BB đã chứng tỏ là những người lính dũng cảm của một Quân lực Anh hùng. Họ đang chiến đấu trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, nhưng tình thần vẫn vững vàng, không hề bị giao động bởi thời cuộc. Vùng 1 và Vùng 2 Chiến thuật đã mất trắng vào tay bọn xâm lăng CSBV, người dân lánh cư tỵ nạn từ miền Trung chạy vào tràn ngập Xuân Lộc, nhưng các chiến binh Sư đoàn 18BB vẫn kiên trì giữ vững phòng tuyến. Bởi vì họ tin tưởng vào đơn vị, vào cấp chỉ huy của họ. Tất cả đều một lòng sát cánh bên nhau, không ai vì tình riêng rời bỏ đơn vị trong giờ phút nghiêm trọng. Và nhất là họ hoàn toàn đặt niềm tin vào vào tài điều binh khiển tướng của vị Tư lệnh, người nhạc trưởng tài ba của một dàn nhạc nổi tiếng vừa vượt trội trong những năm gần đây!
2/-  BẠN
       Đại tướng Cao Văn Viên, TTMT/BTTM/QLVNCH: “Cuộc tấn công vào Xuân Lộc của Quân đoàn 4/CSBV là một sự thất bại lớn nhất – và duy nhất – trong chiến dịch tấn công miền Nam vào những ngày cuối của cuộc chiến.”
       Thiếu tướng Lê Minh Đảo, TL/SĐ18BB kiêm TL/Mặt trận Xuân Lộc: “Chiến thắng Xuân Lộc chứng tỏ cho thế giới thấy rằng QLVNCH không phải là không chịu đánh, mà rất chịu đánh…Họ đã chứng tỏ hùng hồn cho thế giới thấy là họ đã đánh một trận ‘tuyệt vời’ như thế nào tại Xuân Lộc”.
       Cựu Đại sứ Bùi Diễm: “…Tại Xuân Lộc, chu vi phòng thủ xa Sàigòn, SĐ18BB của Miền Nam VN đã đẩy lui tất cả các cuộc tấn công của địch quân…”
       Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết trong “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu”, Đại sứ Martin tâm sự; “Quân đội VNCH đã chiến đấu hết sức dũng cảm ở Xuân Lộc…”
       VIETNAM, A Complete Photographic History viết: “The first North Vietnamese attack came on 9 April, and 5,000 men of ARVN 18th Division held their ground, repulsing 40,000 of Dung’s troops. They were led by a one-star general, Le Minh Dao, ‘a rarity who had worked his way from lieutenant by ability, not politics’.”
       Tướng Homer Smith, Tùy viên Quốc phòng Hoa kỳ tại Sàigòn, gửi công điện báo cáo lên Tướng George S. Brown, Tham mưu trưởng Liên quân: “Chúng ta có một chiến thắng thành hình. Tại mặt trận Long Khánh, quân đội VNCH đã chứng tỏ rõ ràng sự cương quyết, ý chí và lòng can đảm để chiến đấu mặc dù cán cân lực lượng đã thiên hẳn về phía địch…”
       Đại tá LeGro viết cho Quân sử Hoa Kỳ: “Thông điệp rõ ràng là những binh sĩ Việt Nam tại Long Khánh đã chiến đấu tới chết cho xứ sở của họ. Đây là một sự nối kết cố gắng giữa Bộ binh và Không quân giúp cho Sư đoàn 18, Lữ đoàn Dù, và Biệt Động Quân để cố thủ”.
       Trưởng phòng thông tin của UPI tại Saigon, A. Dawson viết: “Lúc địch quân bắn 3,000 quả đạn đại bác vào Xuân Lộc thì Tướng Đảo không có mặt tại đó. Nhưng ông đã nhanh chóng đến nơi lúc binh sĩ của ông đang giao tranh tại đường phố để kiểm soát thị xã. Hỏa lực của hai bên đều rất dữ dội…Trận đánh kéo dài từ ngày này qua ngày nọ và cứ thế…Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận quyết liệt mà ít người dám nghĩ rằng họ có thể làm được. CSBV tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. Sư đoàn 18BB vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10.4.75, Cộng quân lại đánh vào thị xã, và lại bị đẩy lui. Ngày 12.4.75 (Ngày này Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đĩnh bắt đầu được trực thăng vận vào Xuân Lộc), quân CSBV vẫn không tiến chiếm được chút nào. Hai Trung đoàn của Quân đội Nam Việt Nam (Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48) không những đã giữ vững được vị trí mà còn phả công dữ dội hơn. Thêm 3,000 quả đạn đại bác nữa rót vào Xuân Lộc, xé nát mọi vật. Sư đoàn 18BB vẫn đứng vững. Tướng Đảo ở lại bên cạnh các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến đấu.”
       Ký giả úc, D. Warner viết: “Với 3 Sư đoàn 6, 7, 341, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc một cách dễ dàng, nhưng ông đã lầm. Sư đoàn 18BB chưa bao giờ được xem là một sư đoàn thiện chiến của Miền Nam VN, trái lại có lần sư đoàn nấy còn được xem là một sư đoàn tệ nhất. Thế mà trong những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, Sư đoàn này đã chiến đấu một cách dũng cảm; không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày. Tuy nhiên không chỉ có SĐ18BB đã chiến đấu anh dũng đến giờ phút cuối cùng, mà còn nhiều đơn vị khác của QLVNCH…”
      Ký giả người Pháp, Pierre Darcourt viết: “Cộng quân có một đơn vị phòng không hùng mạnh trên xe kéo; các phi công Nam Việt Nam phải đối diện với nguy hiểm khi yểm trợ cho quân bạn dưới đất. tại Xuân Lộc quân bạn dưới đất đã sáp chiến với địch.  PB/CSBV đã tác xạ hơn 6,000 trái đạn đại bác liên tiếp trong hai ngày vào các vị trí của SĐ18BB; liên lạc với BCH của Tướng Đảo lúc đầu bị gián đoạn rồi sau đó được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ dũng mãnh và nhất định không lui mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên đầu họ”.
       Sử gia người Mỹ, George J. Veith viết: “Yet, despite the public image of corruption and incompetence, the ARVN, as shown in the battle for Xuan Loc, was not an army of bumblers and cowards as it is so often portrayed….There is no need to call Le Minh Dao a hero. Some truths are self-evident.”
       Tướng Phillip B. Davidson của Quân lực Hoa Kỳ đã có nhận xét chính xác về Trận chiến Xuân Lộc, về QLVNCH, và Người Chỉ huy Mặt trận đó: “The battle for Xuan Loc produced one of the epic battles of any of the Indochina wars, certainly the most heroic stand in Indochina War III…In this final epic stand ARVN demonstrated for the last time that, when properly led, it had the ‘right stuff.’”
X- TỪ ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐẾN XUÂN LỘC
1/. ĐIỆN BIÊN PHỦ
       Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tại lòng chảo Điện Biên Phủ, Quân đội Liên Hiệp Pháp với 16,200 quân do Tướng Christian de Castries chỉ huy, đã thảm bại trước 65 ngàn bộ đội Việt Minh do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy, sau 55 ngày đêm chiến đấu cam go. Tỉ lệ là 1/4.
       Thật sự Võ Nguyên Giáp không phải là người chỉ huy trận chiến thắng này. Sau khi “nướng” hết 23 ngàn bộ đội trên tổng số 33 ngàn, Giáp bắt đầu nãn chí, và chỉ muốn ngưng không tiếp tục tấn công nữa. Nhưng Vi Quốc Thanh, một trong các cố vấn Tàu cộng (các tên kia là Trần Canh, Lã Quý Ba) quyết định đánh tiếp với 25 ngàn quân, và cuối cùng đã thắng Pháp.
       Tổn thất của Quân đội Liên Hiệp Pháp là 2,293 tử thuơng, 1,729 mất tích, 6,650 bị thương, và 11,721 bị bắt làm tù binh. Trong lúc đó, bộ đội Việt Minh có 8 ngàn tử thương, 792 mất tích và 15 ngàn bị thương.
      Sự thất thủ của ĐBP đưa đến việc chấm dứt cuộc chiến tranh Việt – Pháp kéo dài 9 năm. Đất nước Việt Nam sau hơn 300 năm phân tranh giữa hai giòng họ Trịnh – Nguyễn, lấy sông Gianh làm giới tuyến, được thống nhất từ năm 1802 khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng Đế, lại bị chia đôi một lần nữa kể từ đây. Giòng sông Bến Hải là nổi đau của người dân hai miền. Từ Bắc vĩ tuyến 17 trở lên là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, sau này là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Từ Nam vĩ tuyến 17 trở xuống là Quốc Gia Việt Nam, sau này là Việt Nam Cộng Hòa. Khi lực lượng Liên Hiệp Pháp rút hết về bên này vĩ tuyến 17, Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo, đã giành được độc lập thực sự từ tay người Pháp, và thể chế cộng hòa ra đời, với tên nước là Việt Nam Cộng hòa. Như vậy trên thực tế, đã hình thành hai nước riêng biệt. Việt Nam Cộng hòa được hơn 50 quốc gia trên thế giới thừa nhận. Trong lúc đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Miền Bắc cũng được 13 nước trong khối cộng sản ủng hộ. Mỗi nước theo một thể chế chính trị riêng biệt. Miền Bắc chịu sự chi phối của Cộng sản Đệ tam Quốc tế, hoàn toàn lệ thuộc Liên Xô và Trung Cộng. Miền Nam đứng trong chiến tuyến Thế giới Tự do, đứng đầu là Hoa kỳ. Hơn 1 triệu đồng bào Miền Bắc không thích chế độ cộng sản đã di cư vào Nam tìm Tự Do. ĐBP là trận chiến cuối cùng, đã chấm dứt sự can thiệp của nước Pháp vào đất nước Việt Nam, kéo dài gần 100 năm (1858-1954). Nếu nhà cầm quyền Miền Bắc là những con người yêu nước, lo cho dân giàu nước mạnh như những người lãnh đạo Miền Nam, rồi tiến hành thống nhất trong hòa bình, như Tây Đức và Đông Đức tiến hành sau này, thì đã không có cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, đã tiêu hao hằng triệu sinh linh của cả hai miền Nam và Bắc một cách vô nghĩa.
2/- XUÂN LỘC
       Ngày 21 tháng 4 năm 1975, tại Xuân Lộc, một thị trấn nhỏ với khoảng 30 ngàn dân, cách Thủ đô Sàigòn hơn 60 cây số, sau 12 ngày đêm giao tranh ác liệt, trận chiến đã kết thúc. Đó là cuộc đối đầu qui mô, và là trận chiến cuối cùng của QLVNCH chống lại quân xâm lăng CSBV. Tỉ lệ quân tham chiến của hai bên là 1 (QLVNCH) và 5 (Quân CSBV). Với tỉ lệ 1/5, quân trú phòng tại trận chiến Xuân Lộc ít hơn quân trú phòng của Pháp tại ĐBP. Nhưng QLVNCH đã thắng quân CSBV, và đã thắng lớn. Trận chiến bi hùng kết thúc với hơn 6 ngàn bộ đội CSBV bị giết, 37 xe tăng T-54 và PT-76 bị tiêu hủy, nhiều tù binh bị bắt sống. Trong lúc đó sự thiệt hại của quân trú phòng, gồm Sư đoàn 18BB, Lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Dù, Sư đoàn 3KQ/Biên Hòa không yểm chiến thuật, được ghi nhận là 30%. Không có con số chính xác, vì chỉ 9 ngày sau, SĐ18BB không còn, QLVNCH không còn, Chính phủ VNCH do Tổng thống 48 giờ Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng trước quân xâm lăng CSBV.
       Quân đoàn 4/CSBV do Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ huy, gồm các sư đoàn 6, 7, và 341, về sau được tăng cường thêm Trung đoàn 95B, Sư đoàn 325, nhưng đã thảm bại trước quân của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo (được Tổng thống Trần Văn Hương thăng cấp Thiếu tướng ngày 25/4/75). Tướng Đảo và quân sĩ của ông đã đại thắng tại mặt trận Xuân Lộc. Nhưng con én không làm nên mùa Xuân. Cuối cùng phải chịu thua trong cái thua chung của cả nước. Những người lính Sư đoàn 18BB không có cơ hội di tản, vì họ đã chiến đấu đến giờ thứ 25. Hầu hết phải phải chịu cảnh tù đày, chịu sự trả thù của phe thắng trận, bị đày đến các vùng đất cằn cỗi, đất cày lên sỏi đá, được gọi là “Kinh Tế Mới”. Vị chủ soái của họ, Thiếu tướng Lê Minh Đảo là 1 trong 4 vị tướng QLVNCH được thả cuối cùng, sau 17 năm bị đọa đày trong các trại lao tù Cộng sản.
       Trong 50 ngày đêm mở cuộc tổng tấn công VNCH, quân CSBV xâm lăng đã tiến quân như thế chẻ tre tại Vùng 1 và Vùng 2 chiến thuật. Văn Tiến Dũng, tên Đại tướng CS chỉ huy đoàn quân xâm lược, viết trong Hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” của hắn, đã khoác lác: “Cán bộ tham mưu đã không vẽ kịp bản đồ cho bước tiến quân của bộ đội”.
      Hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng nhằm mục đích hạ Tướng Giáp đang bị thất sủng, và tự đề cao, đánh bóng tên tuổi mình. Trường Chinh đã phê bình như sau: “Cuốn sách có khá nhiều điều viết không trung thực”.
       Khi bộ đội của hắn tiến đến Xuân Lộc, ngưỡng cửa phía Đông của Thủ đô Sàigòn, đã đụng phải bức tường thép “Tuyến Thép Xuân Lộc” (theo cách gọi của Đại tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB). “Cánh Cửa Thép” theo cách gọi của Lê Nam Phong, cựu Sư trưởng Sư 7. Cũng đúng thôi. Khi không còn tuyến thép, khi cánh cửa thép mở, Sàigòn mất, VNCH mất. Tướng Weyand đã nhận định rất đúng: “Xuân Lộc phải giữ, mất Xuân Lộc là mất Sàigòn”.
       Mất Xuân Lộc, Sàigòn bị uy hiếp.
Trận chiến qui mô, cuộc đối đầu cuối cùng giữa quân xâm lăng CSBV và QLVNCH đã gây tổn thất năng nề cho 4 sư đoàn thuộc Quân đoàn 4/CSBV do Tướng Hoàng Cầm chỉ huy. Sư đoàn 18BB, ĐPQ & NQ Long Khánh, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Nhảy dù, Sư đoàn 3 Không quân, đã trở thành những đơn vị của QLVNCH cuối cùng và duy nhất có ý chí quyết chiến quyết thắng.
       Chỉ vài ngày sau khi quân CSBV mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18BB kiêm Tư lệnh mặt trận Xuân Lộc, tuyên bố với phái đoàn báo chí phương Tây đến thăm chiến trường:
“Tôi sẽ giữ vững Long Khánh. Tôi không cần biết phía bên kia sẽ đưa đến bao nhiêu Sư đoàn để đánh chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ tiêu diệt họ”.
       Đây không phải là lời nói suông hay khoác lác. Lời tuyên bố của ông Tướng có cơ sở. Ông đã nhìn thấy tinh thần chiến đấu cao độ của quân sĩ dưới quyền. Họ là những chiến binh can trường, giàu kinh nghiệm. Trong những giờ phút đầu tiên của trận chiến, dù quân CSBV đạt được yếu tố bất ngờ, nhưng quân của chúng đã không chiếm được phần đất nào của thị xã. Phòng tuyến đã được giữ vững. Bây giờ ông lại được tăng cường thêm LĐ1Dù, là đơn vị ưu tú của QLVNCH. Cùng với sức mạnh tiềm tàng của lực lượng cơ hữu, nay được thêm sức là LĐ1Dù nhảy vào mặt trận ngày 12/4, Tướng Lê Minh Đảo đã có niềm tin vững chắc. QLVNCH tại Xuân Lộc đã làm đúng những gì Tướng Đảo nói.
       Xuân Lộc đã làm chậm bước tiến quân của bộ đội CSBV, đã làm thay đổi kế hoạch tấn công Sàigòn của chúng. Theo Thiếu tá Phan Tấn Mỹ, Tiểu đoàn trưởng TĐ3/52: Hồi nửa đêm 11 tháng Tư, tổ phục kích mìn của Trường tại phía Đông Bắc đồi Móng Ngựa hạ 17 giặc, trong đó có 4 cán bộ cao cấp, thu 4 địa bàn Trung cộng rất tinh xảo, 4 bản đồ nổi pictomaps, và đặc biệt một công vụ lệnh ghi: “Đoàn nghiên cứu quân sự đặc biệt 301- Nay đề cử bốn đồng chí (lâu ngày quên tên) lên đường nghiên cứu thực địa chiến trường Thủ Biên Xuân Lộc. Ngày lên đường: 2 tháng Tư 1975 – Ngày chấm dứt niệm vụ: 30.4.1975”.
       Ngày 7 tháng Tư, tại sào huyệt Lộc Ninh, một cuộc họp quan trong được tổ chức, có Lê Đức Thọ, Đại diện của Bộ Chính Trị Cộng Đảng Bắc Việt, tham dự với các tên  đầu não trong BTL/Tiền Phương, Trung Ương Cục Miền Nam, Quân Ủy và Bộ Tư lệnh B2. Bọn chúng duyệt xét tình hình và quyết định lần chót kế hoạch tấn công Sàigòn. Trước hết phải tấn công các vị trí chiến lược trên QL.4 và QL.1, bằng cách đánh chia cắt, bao vây và cô lập địch. Nếu tình hình thuận lợi và quân địch bắt đầu tan rã; nếu lực lượng ta thành công trong việc cắt đứt QL.4 và tiêu diệt được Sư đoàn 18, ta sẽ tấn công Sàigòn ngay.
        Nhưng bọn này đã nằm mơ giữa ban ngày!
        Hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” Trần Văn Trà viết: “Tại Sở chỉ huy của Miền, chúng tôi theo dõi từng diễn biến của trận đánh…Nhưng vào cuối ngày 10 trở đi tình hình trở nên căn thẳng…Rồi báo cáo từng vị trí ta chiếm được phải bỏ lần lượt. số thương vong của sư đoàn 1 (tức 341) cao…Tình hình rất gay go. Các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ rất lo lắng…Tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng an hem nghiên cứu cách đánh…”
       Chiều ngày 11.4, Trà lên đường. Sau khi nghe báo cáo, quan sát thực địa trên một số huớng, kiểm điểm thực lực của chúng, và thấy rõ tình hình của quân trú phòng, ngày 13.4 chúng quyết tâm thay đổi kế hoạch, hầu có thể tiến đánh Sài Gòn đúng kỳ hạn!
      Tại QL.4, chúng điều động Sư đoàn 5/CSBV đang hoạt động vùng biên giới Việt – Miên, băng đồng vượt sông xuống đánh quận Thủ Thừa và thị xã Long An, nhưng chúng đã gặp Lực lượng ĐPQ, Sư đoàn 7 và 22/QLVNCH đánh cho tan tành.
      Tại QL.1, chúng đưa cả Quân đoàn 4 của Thiếu tướng Hoàng Cầm đánh Xuân Lộc, chúng đã gặp phải Sư đoàn 18/QLVNCH đánh cho không còn manh giáp. Sự thảm bại của chúng tại Xuân Lộc đã làm đảo lộn kế hoạch tấn công Sàigòn.
      Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết trong ‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu’: “Trong một mật điện gửi về Toà Bạch Ốc ngày 16 tháng 4, Đại sứ Martin viết là tình báo Hoa Kỳ cho biết: sẽ có tổng tấn công vào ngày 18 hay 19 tháng 4. Nhưng ông cũng cho rằng không nên lo ngại vì trận Xuân Lộc và Long An đã làm thay đổi kế hoạch này rồi.”
       Sau khi Tổng thống 48 giờ không do dân bầu Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân CSBV, tổng số tổn thất tính từ ngày 1.11.1955 đến ngày 15.5.1975 của Miền Nam ước tính là 2,594,000 sinh mạng. QLVNCH thiệt hại khoảng 250,000 chết, lối 1,170,000 bị thương. Hoa Kỳ là 58,292. Đại Hàn là 4,900. Úc Đại Lợi là 520. Tân Tây Lan là 37.  Con số bị thương cao hơn nhiều. Thông thường cứ 1 chết, có 5 bị thương.
       Ngày 30.4.1975, trận chiến bằng vũ khí giữa Miền Nam Tự do và Miền Bắc Độc tài Cộng sản chấm dứt, nhưng liền sau đó, một cuộc chiến khác đang hình thành. Đó là cuộc chiến giữa Tự do Dân chủ và Độc tài Đảng trị, giữa Hạnh phúc Ấm no và Nghèo đói Lạc hậu, giữa Luân lý và Ngụy biện,…Vì thế dù đất nước đã hết chiến tranh, nhưng hàng triệu người đã bỏ nước ra đi. Nói như Quái kiệt Trần Văn Trạch: “Nếu cột đèn biết đi, thì cũng đã bỏ nước ra đi  vượt biên tìm Tự do!”
       Vượt biên tìm Tự Do, tìm cách chối bỏ chế độ CS cũng là cách chiến đấu chống CS. Cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến ngày chế độ CSVN bị tiêu diệt.
XI- SỰ TRẢ THÙ MAN RỢ
       Bộ đội của cái gọi là “Quân Đội Nhân Dân” phải học thuộc nằm lòng câu: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân…”. “Trung với Đảng” thì đúng. Chúng chỉ chiến đấu cho Đảng Cộng sản và Bác Hồ của chúng. Nhưng “hiếu với dân” thì không. Chính bọn chúng thú nhận “Quân đội và Lực lượng Công an là công cụ bạo lực của chế độ”. Cho nên nói “hiếu với dân” chỉ là một cách nói. Chúng thẳng tay đàn áp người dân vô tội.  Nhất là khi dân đó là người dân Miền Nam, mà chúng coi là “ngụy dân”, cũng là kẻ thù của CSBV.
       Sự thảm bại của quân CSBV tại Xuân Lộc là quá lớn, lớn đến nổi chúng không thể dấu diếm được. Các tên chỉ huy trận đánh Xuân Lộc từ Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng đến Trần Văn Trà và Hoàng Cầm đều phải thú nhận. Mặc dầu ở trong phe thắng cuộc chiến, chúng có thể xóa bỏ những dấu vết bất lợi. Nhưng các tên chỉ huy cấp thấp như Tướng Lê Nam Phong, Sư trưởng Sư 7 vẫn khoác lác:
“Bộ đội của ta ngưng tấn công vào thị xã, chuyển ra tấn công trên QL.1 để cô lập Xuân Lộc, chỉ để lại một đơn vị nhỏ bám sát địch. Nhưng quân địch lầm tưởng rằng chúng đã đẩy lùi bộ đội của ta!”
       Thua trận, quân CSBV đã trút nỗi hận thù lên đầu người dân lành vô tội. Hành động  man rợ và tàn bạo này do một đơn vị bộ đội cấp D tức Tiểu đoàn! Do Sư đoàn này bị thiệt hại quá nặng khi tiến công vào thị xã, và nhất là Chỉ huy sở của chúng bị hủy diệt do hai trái BLU-82 vào lúc quá nửa đêm ngày 16.4.75. Đó là Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341 thuộc Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm. Sau đây là lời tự thú của Trần Đức Thạch, Cựu phân đội trưởng trinh sát Tiểu đoàn 8, qua bài viết ‘Hố Chôn Người Ám Ảnh’:
“…Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập…Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa…Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri…
  • Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây!…
  • Địch đâu mà các ông bắn giữ thế?…
  • Anh ơi! đây là lệnh…
  • Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!
… Tôi quay lại phía hàng trăm người bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu đau đớn…Một chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau
…Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm trộn máu…”
       Vụ thảm sát Tân Lập ngày 21 tháng Tư năm 1975 còn dã man tàn ác hơn vụ thảm sát Mỹ Lai ngày 16 tháng 3 năm 1968.
       Do những hoạt động quấy phá của Tiểu đoàn 48 Việt Cộng lối 250 tên. Ngày 25.2.1968, Đại đội C của Đại úy Ernest L. Medina vướng phải mìn làm cho 6 chết và 12 bị thương. Ngày 14.3, đơn vị lại chịu nhiều tổn thất khác. Ngày hôm sau, Trung tá Frank A. Baker, Tiểu đoàn trưởng TĐ1/20 của Sư đoàn Amerial 23 Bộ binh, chỉ thị Đại úy Medina mở cuộc hành quân diệt địch. Khi tiến quân vào ấp Mỹ Lai-4, Trung úy Calley đã cho lệnh bắn giết bừa bãi một cách dã man. Con số nạn nhân lên đến 175 dân làng.
       Tại Mỹ Lai, vụ thảm sát xảy ra là do một quân nhân ngoại quốc, một người lính viễn chinh tàn sát người dân của một đất nước xa lạ. Trái lại tại Tân Lập, vụ thảm sát xảy ra là do một cấp chỉ huy người Việt, của cái gọi là “Quân đội Nhân dân”, ra lệnh tàn sát người dân cùng chủng tộc với mình, là đồng bào của mình, để trả thù cho đơn vị của hắn bị thiệt hại nặng. Con số nạn nhân được ghi nhận ít nhất là 183 đến 300. Ngày hôm nay, vẫn còn một mồ chôn tập thể tại Tân Lập, mặc dù Cộng sản đã tìm cách xóa bỏ dấu vết.
       Vụ thảm sát Tân Lập lại còn thua xa vụ thảm sát tại Huế hồi tết Mậu Thân. Sau 25 ngày chiếm đóng, quân CSBV do những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân chỉ điểm, đã hạ sát hơn 6 ngàn người dân Huế vô tội.
XII- SÀIGÒN THẤT THỦ
1/- NGÀY NHỤC NHÃ
        Ngày 8.4.1949, Hiệp ước Élysée công nhận Chính phủ Quốc gia Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp, một niềm mơ ước mà Hồ Chí Minh đã không đạt được, khi ông ta và phái đoàn Việt Minh qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau năm 1946, xin xỏ Pháp.
        Ngày 13.4.1949, Nghị định Quốc phòng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam ban hành nghị định thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam, với tên gọi “Vệ binh Quốc gia”. Ngày 11.5.1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố chính thức thành lập Vệ binh Quốc Gia Việt Nam, với quân số 60,000 người, bao gồm các lực lượng địa phương: Bảo chính đoàn Bắc Việt (1948), Việt binh đoàn Trung Việt (1947), và Vệ binh Nam Việt (1946).
        Năm 1955 khi Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống, tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa, Quân đội Quốc gia Việt Nam được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau cuộc đảo chính năm 1963, Quân đội Việt Nam Cộng hòa (Republic Of Vietnam Military Forces – RVNMF) lại chính thức mang tên mới là Quân lực Việt nam Cộng hòa (có tên gọi bằng Anh ngữ là “Republic Of Vietnam Armed Forces – RVNAF”.
        QLVNCH thời kỳ phôi thai, chỉ có 60,000 người. Từ một quân đội phụ lực cho Quân đội Liên Hiệp Pháp trong cùng chiến tuyến chống cộng sản, đã trở thành lực lượng chính chống cộng sản, với quân số có lúc lên đến hơn một triệu tay súng phục vụ dưới cờ, được xếp lớn mạnh vào hàng thứ Tư trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Cộng. Quân lực đó có những cấp chỉ huy tài ba, được liệt vào hàng danh tướng của thế giới, đó là các Tướng Đổ Cao Trí, Ngô Quang Trưởng. Tướng Trí với Quân đoàn III của ông, năm 1970, 1971, suýt đã tiêu diệt toàn bộ quân CSBV trên chiến trường Kampuchia, đã đuổi Trung ương cục Cộng đảng Miền Nam đến tận Kratié. Nhưng ông đã bị tai nạn máy bay trực thăng khi trên đường bay đi thị sát mặt trận. CSBV đã gặp một dịp may hiếm có. Tướng Ngô Quang Trưởng thì được Tướng Mỹ H. Norman Schwarzkopf, cựu tư lệnh Vùng Vịnh trong chiến dịch “Bão Sa Mạc”, xem là bậc thầy.
         QLVNCH từ dân mà ra, chiến đấu cho dân, và bảo vệ dân. Với châm ngôn: “Tổ quốc – Danh dự – Trách nhiệm”, người lính QLVNCH sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân trong tình thần Trách nhiệm cao độ. Trong hơn 20 năm ròng rã chiến đấu bảo vệ quê hương, họ đã chiến đấu anh dũng, quyết chiến quyết thắng, trước một kẻ thù hung bạo. Họ đã tạo nên những chiến tích lẫy lừng, khiến kẻ thù khiếp sợ,  đồng minh nễ phục, và đồng bào tin yêu. Họ đã đánh thắng trên khắp các mặt trận: Trị – Thiên quật khởi, Kontum kiêu hùng, Bình Long Anh dũng. Nhưng cuối cùng đành phải buông súng tan hàng. Chính Kissinger, vị Ngoại trưởng Mỹ vô lương tâm đã đi đêm với cộng sản, bây giờ phải thú nhận: “Sự thảm bại của Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH”.
      Chúng ta không thua trận, nhưng chúng ta đã thua cuộc chiến, do những người điều khiển cuộc chiến kém khả năng, và do sự phản bội của đồng minh.
       “Người lính (QLVNCH) không chết mà chỉ mờ dần”, như hình ảnh người lính trong điệp khúc của một ballad nổi tiếng, được Tướng MacArthur nhắc đến trong bài diễn văn từ giả binh nghiệp, đọc trước lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày 19.4.1951: “Old Soldiers Never Die; They Just Fade Away”.
       Người xưa có nói: “Không lấy thành bại để luận anh hùng”. QLVNCH đã phải buông súng và tan hàng ngày 30.4.1975, nhưng đó là một quân lực anh hùng. Chính kẻ thắng trong cuộc chiến năm 1975 là hèn nhác, đã “cúp đuôi” trước kẻ thù phưng Bắc.
      QLVNCH thắng trận Xuân Lộc, nhưng VNCH thua cuộc chiến. Dư luận quần chúng cho rằng nếu có thêm vài Xuân Lộc nữa, hoặc nếu có đủ số ngòi nổ cho 27 trái bom BLU-82 mà Bộ TTM/QLVNCH đã có trong kho, đem ném lên đầu 5 cánh quân CSBV tiến vào Sài Gòn, thì sẽ không có ngày 30.4.75.
1
       Ngày 30 tháng Tư năm 1975, chiếc xe tăng T-54 do Nga Xô chế tạo, tiến vào, đã húc đổ cánh cửa chính của Dinh Độc Lập. Thật ra theo lệnh của Dương Văn Minh, cánh cửa đã được mở sẵn để chờ “người anh em phía bên kia” đến bàn giao. Nhưng khi chiếc T-54 đến cổng, xe ngừng lại, vài tên bộ đội nhảy xuống, khép vội hai cánh cửa đã mở sẵn. Tên phóng viên bộ đội mang máy chụp hình chuẩn bị. Và tình cờ có vài phóng viên ngoại quốc có mặt. Chiếc xe T-54 rồ máy, húc mạnh vào cánh cửa. Các phóng viên vội bấm máy. Những tấm hình chụp cảnh chiếc xe tăng quân CSBV húc cánh cửa Dinh Độc Lập đã trở thành những tấm hình lịch sử! Lúc đó là 11 giờ 10 phút sáng. Thật ra đây chỉ là một vở kịch được dàn dựng để ghi hình.
“Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc tăng đầu tiên loại T-54…xuất hiện từ đầu kia đại lộ Thống Nhất, phía Thảo cầm viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ cùng một số dân biểu nghị sĩ, ra đứng tại tiền đình của Dinh Độc Lập để chuẩn bị cuộc đón tiếp…
1
      Sau này các tài liệu viết rằng chiếc tăng đi đầu đã ủi sập cửa sắt ở cánh cổng còn đóng của Dinh Độc Lập. Vậy là lính gác ở dinh không chấp hành lệnh chăng? Vì tôi nhớ rất rõ ông Minh đã ra lệnh cho lính gác ở dinh mở sẵn cổng chính trước rồi.”
(Hồi ký Lý Quý Chung, Tổng trưởng Bộ Thông Tin)
2/- BẦY QUẠ ĐEN RỈA XÁC CHẾT
Quân đoàn 4/CSBV tiến vào Sàigòn từ hướng Đông, được phân công cắm cờ Dinh Độc Lập, nhưng thực tế, Quân đoàn 2 đã vào cắm cờ trước.
“Tôi ở bộ phận đi đầu nên đã vào Dinh Độc Lập, lúc đó DVM nói rằng chúng tôi đã sẵn sàng để bàn giao chính quyền. Nhưng tôi và anh Bùi Tín (Báo QĐND) nói ngay: Chính quyền của ông còn gì nữa mà bàn giao, phải đầu hàng. DVM chấp nhận”.
(Phạm Xuân Thệ thuật lại năm 2005)
Lúc 11 giờ 30 phút sáng ngày 30.4.1975, lá cờ giặc nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng của cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” do tên bộ đội CSBV kéo lên trên sân thượng.
“Một người bộ đội…nói với Tổng thống Minh: ‘Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ…’ Ông Minh quay sang tôi đang đứng bên cạnh: ‘Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng’”. (Hồi ký Lý Quý Chung)
Theo Trần Văn Trà, tổ Đặc công do tên Phạm Duy Đô chỉ huy (thuộc Trung đoàn 116 Đặc công), theo chiếc tăng T-54 để chỉ đường. Khi xe vào sân, chúng liền nhảy xuống tiến vào phòng họp bên cánh phải của Dinh, nơi toàn bộ Nội Các của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu ngồi quanh chiếc bàn bầu dục. Tên Đô chỉa súng AK hô:
“Các ông đã bị bao vây. Ai có súng bỏ xuống. Đầu hàng.”
Tổng thống Dương Văn Minh ngồi ở đầu bàn phía trong, vội đứng dậy, nói:
“Chúng tôi chờ các ông đến để bàn giao”
Tên Tùng, Chính ủy ra lệnh:
“Các ông không còn gì để mà bàn giao. Chỉ có đầu hàng vô điều kiện. Mời các ông ra tuyên bố ở Đài Phát Thanh: ‘Xin đầu hàng vô điều kiện’”.
Theo Hồi ức của Thượng tướng Nguyễn Hữu An, lúc đó là Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 2: “Cùng lúc đó Đại đội trưởng Bùi Quang Thận cán bộ xe 843 cùng Tiểu đội phó Trần Đức Tình trèo lên tòa nhà lớn treo lá cờ mặt trận giải phóng. Lá cờ sao vàng nửa đỏ nửa xanh tung bay trên nóc dinh độc lập lúc 11 giờ 30 phút…
Tôi…cùng với anh Công Trạng lên trên gác. Một cán bộ bảo vệ dẫn chúng tôi tới nơi tập trung nội các ngụy…không thấy Dương Văn Minh, tôi hỏi anh cán bộ bảo vệ, anh cho biết: Phạm Xuân Thệ…và Bùi Văn Tùng…đã dẫn Minh đến đài phát thanh…Công Trạng sợ sổng mất Dương Văn Minh, anh nổi nóng hỏi: ‘Ai giao cho các cậu làm việc đó?’”                                                                    
Nhưng theo Búi Tín: “Tối mịt tướng An tư lệnh quân đoàn mới vào…Tướng đầu tiên vào là tướng Nam Long, phái viên của Bộ Tổng tham mưu đến lúc chừng 4 giờ chiều…” (Bùi Tín trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 29.4.2005)
       Bùi Tín được hai Trung tá Hân và Tùng hai lần nói ông ra nhận sự đầu hàng, vì ông mang hàm Đại tá, thuộc hàng cán bộ cao cấp có mặt tại Dinh lúc đó. Tổng thống Dương Văn Minh đứng chấp tay phía trước, và tiến lên một bước, bên cạnh là Phó TT Nguyễn Văn Huyền, nói:
“Chúng tôi đợi quý ông từ sáng, đặng chuyển giao chính quyền”.
Bùi Tín cướp lời:
“Các ông còn gì nữa mà bàn giao. Người ta không thể chuyển cái gì không có trong tay”.
       Thật ra Bùi Tín đã nói sai. Chính quyền VNCH lúc đó còn có cả vùng đồng bằng sông Cữu Long trù phú, với vựa lúa nuôi sống người dân cả nước. Quân đoàn IV Quân khu 4 dưới quyền Tư lệnh của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, một danh tướng của QLVNCH vẫn còn nguyên vẹn. Các Sư đoàn 7, 9, 21, các Tiểu đoàn BĐQ, Lực lượng ĐPQ và NQ Vùng 4, Sư đoàn 4 Không quân và Quân chủng Hải quân vẫn chưa sức mẻ.
       Sau khi có lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, vì tuân lệnh, những người lính Quân đoàn IV Quân khu 4 phải buông súng. Nhưng một số đơn vị vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến ngày 2 tháng 5 thì tự động tan hàng do bị xao động bởi lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh.
       Nếu Trung tướng Vĩnh Lộc, vị Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM/QLVNCH cuối cùng, làm tròn trách nhiệm được giao phó, không “lủi trốn như chuột giống như Tổng Thống Thiệu” như Nhật lệnh ông ban cho quân sĩ ngay sau khi nhận lãnh trách nhiệm, không tìm cách bỏ nhiệm sở để tìm tàu di tản vào lúc 6 giờ sáng ngày 30.4, mà lo kế hoạch đưa Chính phủ về Miền Tây, với Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, cùng lo giữ nước và cứu nước.
       Nếu cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (tên tướng bị VC móc nối) không được Dương Văn Minh gọi trở lại quân ngũ, cho làm Phụ tá TTMT, để rồi lợi dụng lúc “boss” của mình rời bỏ nhiệm sở, nhân danh TTMT, đã ban lệnh cho quân đội với hậu ý “rước giặc vào nhà”.
       Nếu Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn IV Nguyễn Khoa Nam bất tuân lệnh của Dương Văn Minh, vẫn tiếp tục chiến đấu, thì chuyện gì sẽ xảy ra?
       Ngay trong giờ phút nghiêm trọng đó, Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo tìm cách gặp riêng Bùi Tín, mật báo việc anh ta giữ lại 16 tấn vàng, không để cho ông Thiệu mang đi. Nhưng CSVN tuyên truyền rằng: “Thiệu bỏ chạy, mang theo 16 tấn vàng”. Do tuyên truyền đầu độc của CSVN, người Việt Quốc gia vẫn có lắm kẻ tin. Hai ngày sau, chuyến máy bay IL. 18 từ Hànội vào nhận. Bộ chính trị Cộng đảng gồm 13 tên, đứng đầu là Lê Duẩn đã chia chát nhau 16 tấn vàng này! Hay là 16 tấn vàng này chúng đã đem trả nợ Tàu cộng.
       Tâm tư người dân Sàigòn tháng Tư năm 1975 cũng giống như tâm tư người dân Hànội tháng 7 năm 1954. Ai ai cũng hoang mang, sợ hãi, sống trong phập phồng lo âu. Rồi những ngày sau đó, cảnh đấu tố đã nhanh chóng được du nhập vào từ Miền Bắc. Vợ chồng tố cáo nhau. Con cái tố cáo cha mẹ, học trò tố thầy giáo. Tình nhân loại, nghĩa đồng bào không còn tồn tại trong chế độ Cộng sản. Cuộc sống không có tương lai. Tương lai thật mịt mờ. Nhà nhà phá bỏ bàn thờ, thay vào đó là bức hình tên đại gian đại ác Hồ Chí Minh. Lá cờ của Mặt trận côn đồ phá hoại Miền Nam, nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng được treo cùng khắp. Nhưng không lâu sau đó, đã bị thay thế bằng lá cờ máu. Sàigòn thất thủ, khắp nơi  tràn ngập cờ máu:
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà,
chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ”.
(Trần Dần – Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm)
            “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam” và “Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” đã không kèn không trống tự giải thể. Trong buổi lễ long trọng tổ chức tại Sài Gòn để mừng ngày “Giải phóng”, Trương Như Tảng, Bộ trưởng Tư Pháp, khi thấy các đoàn quân diễn binh chỉ toàn là bộ đội Bắc Việt, đã hỏi Văn Tiến Dũng ngồi kế bên: “Thế các sư đoàn quân giải phóng đâu cả?” Dũng chỉ mĩm cười mà không trả lời.
3/- HẬU QUẢ CỦA SỰ PHẢN BỘI
       Hoa Kỳ tham chiến để giúp người dân Miền Nam tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CSBV. Sau khi bật đèn xanh cho nhóm tướng tá bất mãn (Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Đổ Mậu), nhóm tướng tá tham vọng (Tôn Thất Đính), và nhóm tướng tá cơ hội (Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ) làm cuộc chính biến, lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người chủ trương không chấp nhận quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến (vì như thế sẽ làm mất chính nghĩa của cuộc chiến tự vệ của Quân và Dân VNCH), người Mỹ đã nhảy vào Việt Nam (1965) giành lấy quyền chủ động điều khiển cuộc chiến, với hy vọng sẽ đập tan VC trong vài năm. Nhưng cuộc chiến cứ kéo dài. Ta không thể dùng cái búa tạ để đập con ruồi. Thế rồi người Mỹ mệt mỏi, và tìm cách rút ra trong danh dự. Khi người Mỹ hiện diện ở Việt Nam với hơn nửa triệu quân, được trang bị vũ khí hiện đại với quân viện trên dưới 2 tỷ dollars mỗi năm, đã không đập tan được bọn dép râu nón cối khôn ngoan luồn lách. Thời gian dài ra, người Mỹ càng mệt mỏi. Cuối cùng người Mỹ đành phản bội người đồng minh thân tín, đã bỏ cuộc, tìm cách rút ra trong danh dự, không những thế, còn cắt mọi viện trợ cần thiết, khi quân CSBV ồ ạt tấn công VNCH đầu năm 1975, Tổng Thống Thiệu xin viện trợ khẩn cấp 300 triệu dollars, Quốc hội Mỹ cũng không thuận, đã đưa đến sự sụp đổ của VNCH ngày 30.4.1975. Thống tướng Westmoreland, một thời là Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam đã chính thức nói lên lời xin lỗi:
 “Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với QLVNCH. Thay mặt cho Quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân lục Miền Nam Việt Nam, vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn” (On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys).
       Sau nhiều năm im lặng, cuối cùng Kissinger, tên Ngoại trưởng Hoa Kỳ bất lương đã bán đứng người bạn đồng minh của mình là VNCH cho Tàu cộng và CSBV, đã phải thú nhận: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH”.
Nhà văn Dương Thu Hương, từng là một “chiến sĩ gái” vượt Trường Sơn trong đoàn quân xâm lăng Miền Nam, buổi trưa ngày 30.4 tại bùng binh chợ Bến Thành, ngồi bệt bên vệ đường, đã khóc khi nhìn thấy cảnh phồn vinh của Miền Nam, khác với những gì mà y thị đã bị lừa dối rằng Miền Nam bị Mỹ Ngụy kềm kẹp, đồng bào ruột thịt bị thiếu ăn, thiếu mặc, cần phải được giải phóng. Ý thức được hành động sai lầm của mình, và thế hệ thanh niên Miền Bắc bị “Bác và Đảng” lừa dối trong bao nhiêu năm, ngưới “chiến sĩ gái trong đoàn quân giải phóng” đã thốt lên: “Nền văn minh đã thua chế độ man rợ”.
       Ý đồ xâm lăng của CSBV đã bắt đầu tiến hành từ Tháng 5 năm 1959, khi Cộng đảng BV cho Tướng Trần Độ thành lập đoàn công tác, là Đoàn 559 (5 là tháng 5 và 59 là năm 1959). Đoàn công tác của Trần Độ rời Hànội từ tháng 5, men theo con đường mòn Trường sơn đã có sẵn từ thời kháng chiến chống Pháp. Đoàn khảo sát địa thế,  mở rộng con đường mòn, đặt tên Hồ Chí Minh, để đưa người và vận chuyển chiến cụ vào Nam (cùng với chiến cụ được chúng cất dấu trước khi tập kết ra Bắc tháng 7 năm 1954) chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Ngay sau khi vừa ký Hiệp định Đình chiến Genève, chúng đã có kế hoạch thôn tính Miền Nam. Tháng 12 năm 1960, Cộng đảng BV cho dựng lên một công cụ xâm lăng tại Miền Nam là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam VN”, để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng dựng lên nhân vật Nguyễn Hữu Thọ, một Luật sư, một trí thức Miền Nam, nhưng rất ngu muội! hay thông minh nhưng có nhiều tham vọng! Rất nhiều người không hiểu rõ căn nguyên của cuộc chiến. Thậm chí một nhà sư được sự ưu đãi của Chính phủ VNCH, Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, thường gọi là Thiền sư Nhất Hạnh, trong một Hội nghị Quốc tế tại Tokyo năm 1960, khi được hỏi làm sao để chấm dứt chiến tranh Việt Nam, để có hòa bình, nhà sư đã trả lời rằng muốn có hòa bình ở VN, quân đội VNCH phải giải giới, chính phủ VNCH phải giải thể! Nhà sư này đã không phân biệt được đâu là nguyên nhân của cuộc chiến. Có thể do đầu óc ngu muội về chính trị, hay do đầu óc của nhà sư lệch về phía tả. Người dân Hoa Kỳ thì bị các vị dân cử của họ trong Quốc Hội phản bội. Chính thành phần đa số của Quốc hội đã phản bội một Quốc gia đồng minh nhỏ bé là VNCH, đã phản bội sự hy sinh cao cả của gần 60 ngàn quân nhân Quân lực Hoa Kỳ để bảo vệ lý tưởng Tự Do – Dân Chủ của người dân Miền Nam Việt Nam. Con người dù có trình độ dân trí cao, sống trong chế độ Tự do – Dân chủ như Hoa Kỳ, cũng dễ trở thành “bầy cừu của Panurge”, khi bị khích động bởi giới truyền thông vô lương tâm đầu độc dư luận, và bọn phản chiến hèn nhác như John Kerry khuấy động. Phong trào đòi Hòa bình của “bầy cừu Panurge” đã áp lực Quốc hội Hoa Kỳ biểu quyết đạo luật cấm Tổng Thống chi tiền viện trợ Quân sự cho Chính phủ VNCH. Trong lúc đó cả khối CS Đệ tam Quốc tế, đứng đầu là Liên bang Xô viết và Trung cộng đã dồn tất cả mọi nổ lực giúp CSBV trong âm mưu thôn tính Miền Nam Việt Nam. Với lời lẽ dối trá, sau khi vừa chiếm được Miền Nam VN, Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Cộng đảng VN tuyên bố: “Chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học”. Nhưng thực tế, CSVN đã biến nhà trường thành nhà tù! Chúng lùa hàng trăm ngàn Quân – Dân – Cán – Chính VNCH vào các Nhà tù với những từ ngữ mị dân là “Tập trung Học tập Cải tạo”. Cộng đảng VN đã cai trị người dân bằng bạo lực và khủng bố. Sự sợ hãi tràn lan. Người dân trở nên dối trá, không còn ai tin ai, kể cả vợ với chồng, con cái với cha mẹ, thầy giáo với học trò.
       Hậu quả của sự phản bội là người dân Miền Nam đã sống những ngày nhục nhã nhất sau khi Sàigòn thất thủ. Người dân Miền Nam muốn sống một cuộc sống xứng đáng là cuộc sống của một con người thì phải bỏ nước ra đi, phải vượt biên, vượt biển. Theo Giáo sư R. J. Rummel, đã có 400 ngàn người chết ngoài biển hay trong rừng sâu núi thẳm trên đường tìm Tự do. Giáo sư Lewis Sorley thì cho rằng có chừng 250 ngàn quân nhân và viên chức VNCH đã chết trong các “Trại Cải tạo”, khoảng 1 triệu rưởi người dân Miền Nam bị đầy đi các vùng “Kinh Tế Mới”, và đã có lối 48 ngàn đã chết tại nơi rừng thiêng nước độc. (Theo tài liệu thuyết trình của Robert F. Turner tại cuộc Hội Luận Kỷ niệm 35 năm Lưu vong tại Westminster, Cali. ngày 28.4.2010).
XIII- KẾT
            Ngày 11 tháng Ba năm 1945,  Quân phiệt Nhật đảo chính thực dân Pháp, lợi dụng tình thế,  Hoàng đế Bảo Đại cho thành lập Chính phủ Đế quốc Việt Nam ngày 17 tháng Tư năm 1945, mời Học giả Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Hoàng đế Bảo Đại ban chiếu chỉ, tuyên bố Việt Nam Độc lập:
            “Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, Chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: kể từ hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một quốc gia độc lập.”
            Tiếc rằng Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại 126 ngày. Chính phủ không có quân đội, lại thiếu hậu thuẫn của quần chúng, nên đã bị lực lượng Việt Minh cướp một cách dễ dàng. Sau khi cướp được chính quyền, để rảnh tay thanh toán các đảng phái quốc gia, Hồ Chí Minh ký Hiệp định Sơ bộ với thực dân Pháp ngày 6 March 1946 (về sau người dân nói lái lại thành “Mác-xít”. Hiệp định cho phép 15,000 lính Pháp trở lại Miền Bắc. Hiệp định tạo cơ hội tốt, thuận lợi, và danh chính ngôn thuận cho quân Pháp trở lại Đông Dương, và tiếp tục đặt nền đô hộ trên đất nước Việt Nam lần nữa. Đây là hành động “Cõng rắn cắn gà nhà; rước voi dày mã tổ”. Máu xương người dân Việt lại đổ ra để giành độc lập, mà trước đó một năm, Hoàng đế Bảo Đại đã giành lại được mà không tốn một giọt máu!
            Sau năm 1954, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng không tốn một giọt máu nào, đã giành được độc lập hoàn toàn từ tay nguời Pháp, do Hồ Chí Minh long trọng rước vào qua Hiệp định “Xít Mác”. Tên Tướng Pháp cùng ký vào Hiệp định, biết rằng người dân Việt đã chán ngấy thực dân Pháp, nhưng buộc Hồ Chí Minh phải tổ chức đón tiếp long trọng. HCM và lũ Việt Minh phao tin rằng ngày 19.5 là ngày sinh của “Chủ tịch HCM”, và yêu cầu nhân dân kết hoa treo đèn ăn mừng. Hôm đó là ngày quân Pháp đổ bộ Hải Phòng và tiến lên Hà Nội!
             “Con én không làm nên mùa Xuân”
Trận Điện Biên Phủ năm 1954, lực lượng Liên Hiệp Pháp đã thua trận chiến khi đối đầu với lực lượng Việt Minh, có quân Tàu cộng, và cố vấn Tàu cộng, là các Tướng Lã Quí Ba, Trần Canh, giúp sức. Pháp thua trận chiến ĐBP, thua luôn cả cuộc chiến chống cộng sản. Cuối cùng phải xuống tàu về nước, chấm dứt sự hiện diện của thực dân Pháp gần 100 năm, kể từ khi Leheur de Ville-sur-Arc đem chiến thuyền Catinat vào cửa Đà Nẵng tháng 8 năm 1956, bắn phá các đồn lũy của quân triều đình ta. Thua trận chiến ĐBP, Pháp phải ký Hiệp định Đình chiến Genève, buộc phải lui quân về phía Nam vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải). Nhưng rồi cũng bị buộc phải trở về cố quôc, vì người Quốc gia Miền Nam không chấp nhận thực dân Pháp (1954). Hiệp định Genève 1954 chia đôi lãnh thổ: Miền Bắc đặt dưới ách bạo tàn của chế độ cộng sản, do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động của Y (thực chất là đảng Cộng sản trá hình, tay sai của Đệ tam Quốc tế Cộng sản) cai trị. Bọn Hồ Chí Minh và đám thuộc hạ nguyện làm tên lính xung kích của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, chỉ lo mưu toan thôn tính Miền Nam. Miền Nam theo chế độ Cộng hòa, do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ lo an sinh xã hội, thăng tiến cần lao, mưu cầu hạnh phúc ấm no cho toàn dân, hầu đưa đất nước sánh vai ngang hàng với các nước tiên tiến trên thế giới. Sau ĐBP năm 1954, Quốc gia Việt Nam bị qua phân lãnh thổ.
Trận Xuân Lộc năm 1975, Lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đánh bại quân Cộng sản Bắc Việt. Nhưng “con én không làm nên mùa Xuân”. Xuân Lộc đã không cứu vãn được VNCH đang yếu thế. Sau Xuân Lộc, Sàigòn mất tên, VNCH không còn tìm thấy trên bản đồ thế giới. Hằng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm Tự Do. Lối một triệu Quân Cán Chính VNCH bị tập trung vào các trại tù cải tạo (thực chất là các trại tù khổ sai). Và một con số không nhỏ người dân Miền Nam bị lùa đi “Vùng Kinh Tế Mới”. Hàng trăm ngàn người bị chết trong rừng sâu, vùi thây dưới lòng biển cả, trên đường vượt biên vượt biển. Và một con số không nhỏ các cựu Quân Cán Chính bị hành hạ đến chết tức tưởi trong các trại tù khổ sai. Một mùa Đông lạnh giá bao phủ khắp trời Nam. Đã ba mươi lăm năm qua, mùa Xuân vẫn chưa trở lại./.
1
Michigan, Mùa Bảo Tuyết 2010
Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/43, SĐ18BB

 Nguồn: https://vantuyen.net/2015/11/07/nguyen-huu-che-tran-chien-cuoi-cung/



Xin xem tiếp...

V- SÀI GÒN THẤT THỦ- NHƯNG KHÔNG ĐẦU HÀNG


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét