Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

Tiế[ theo... VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ BỨC TỬ ( LA MORT DU VIETNAM )


Ảnh hồ sơ-
Mai Nguyễn Huỳnh- công khai
Oct 10, 2015
 VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ BỨC TỬ ( LA MORT DU VIETNAM )

Chúng tôi, chiến sĩ QL.VNCH cùng đồng bào trong nước và Cộng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại . Hãy củng nhau ôn lại những giai đoạn thăng trầm lịch sử trong công cuộc chiền đấu bảo vệ Tự Do- Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam.
Chúng ta đã từng hãnh diện và vinh danh chiến sĩ QL.VNCH, ngày 19/6 hằng năm cho Danh dự- Tổ quốc- Trách nhiệm, đã được Tự Do Việt Nam trao phó. Và cũng phải chấp nhận thương đau, chiên bại của nước Việt Nam Công Hòa bị bức tử, bởi Hoa Kỳ phản bội đồng minh VNCH.
Đồng bào, dân Việt hãy cùng nhau chia sẻ nỗi đau dân tộc, khi các siêu cường đế quốc kinh tế bán đứng Mền Nam VNCH như những món hàng hóa trao tay nhau và có "khuyến Mãi " tặng quà Hoàng Sa & Trường Sa VN cho Trung Quốc, do Hoa Kỳ bán đứng Miền Nam của đồng minh VNCH. Xin mời quý vị chia sẻ:
VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ BỨC TỬ ( LA MORT DU VIETNAM )

http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/06/viet-nam-cong-hoa-bi-buc-tu-la-mort-du.html
Và sau cùng, đồng bào chiến bại Miền Nam, hãy chia sẻ nỗi ngậm ngùi thương tiếc cho vận nước chưa thông và còn nổi trôi cùng dân tộc, qua lời trần tình của Jean Marie MÉRILLON Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam
“ Ngày 29/4/1975, 8.00 giờ tối, sau khi nhận lãnh chức Tổng Thống do cụ Trần văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng tôi, bày tỏ sự hối tiếc đã không hợp tác được với chánh phủ Pháp. Cách duy nhất mà ông phải chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu sống được thủ đô Sài Gòn.
Tôi lạnh lùng trả lời một câu duy nhất:
- "Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam cần có một người lãnh đạo cương quyết, dám dấn thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng."
Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên lạc với ông ta nữa.
NGÀY 1 THÁNG 5
Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok , tôi nhìn xuống Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi thương tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới đất. Tôi như người bại trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người bại trận, một người bạn đã không chia xẻ
Việt Nam và tôi có rất nhiều kỷ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở nầy. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi xin lỗi người Việt Nam. Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vãn được nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm giao.
Năm 1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ chối với lý do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài Gòn đã mất, tôi trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được người ta lần thứ hai, làm sao lừa dối được người ta lần thứ ba? Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương..
Sau hết, chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa thua cộng sản . Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Mỗi năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi, chúng tôi cùng cầu nguyện cho người Việt Nam đạt được nền hòa bình theo sở nguyện của họ. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi dân tộc Việt Nam . “
Jean Marie MÉRILLON
Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam
Huỳnh Mai St.8872
Cựu Đại Úy Bộ Tổng Tham Mưu
Quân Lực VNCH- Sĩ quan tù binh cải tạo Miền Nam VN
Xem thêm
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/06/viet-nam-cong-hoa-bi-buc-tu-la-mort-du.html
                         

Việt Nam Cộng Hòa Bị Bức Tử Chương 1.

https://youtu.be/tnSAeX-e7Vg

Tổ Chức Bộ TTM QLVNCH






Tài Liêu Sưu Tầm trên NET


1, Bộ Tư lệnh hành quân :
Bộ Tư lệnh hành quân { BTLHQ } thành lập ngày 20/5/1961, là cơ quan chỉ huy chiến lược - chiến dịch cao nhất, dưới quyền BTTM quân lực VNCH
BTLHQ có trách nhiệm và quyền hạn :
- Chỉ huy các quân đoàn, các lực lượng trực thuộc và phối thuộc cho quân đoàn về mặt tác chiến.
- Soạn thảo kế hoạch tác chiến chiến lược theo lệnh của BTTM và kế hoạch sử dụng lực lượng.
- Điều hành các cuộc hành binh theo kế hoạch và chỉ huy lực lượng tổng trù bị nếu được BTTM giao quyền.
- Nghiên cứu và phát triển khả năng tác chiến của quân đội về mặt chiến thuật và kỹ thuật.
Tuy nhiên, do những thay đổi về cơ cấu tổ chức trong quân lực VNCH nên từ năm 1965, BTLHQ giải thể và thay vào đó là Trung tâm hành quân chiến thuật thuộc phòng 3, BTTM. Trưởng phòng 3 đồng thời là giám đốc trung tâm.


2, Phòng 1 { nhân sự } :
Phòng 1 có nhiệm vụ duy trì tổng quân số của quân đội và quân số của các đơn vị, quản trị nhân viên, phát huy và duy trì tinh thần quân sĩ, giám sát kỹ thuật, pháp luật và trật tự trong quân đội. Phòng 1 nhân sự gồm các khối :
- Khối quân số : có các Ban điều xung, kiểm dụng.
- Khối pháp chế : có các Ban tinh thần, pháp chế, huy chương.
- Khối tuyển mộ và nhập ngũ : có Ban kiểm kết và chưởng kế.
- Khối thiết kế : có các Ban chương trình và nghiên kế { ? }.
- Khối qui tắc nhân viên : có các Ban quy chế, dân chính và thủ tục quản trị.
Ngoài ra phòng 1 còn có đơn vị trực thuộc là Trung tâm tuyển mộ và nhập ngũ các quân khu.

3, Phòng Tổng quản trị :
Phòng tổng quản trị là nơi cung ứng quân số đầy đủ và kịp thời. Đồng thời phải thi hành các công tác tuyển mộ, quân dịch, động viên. Riêng cơ quan hành chính tổng quản trị là nơi phải làm các công việc như thống kê quân số, điều hành, kiểm toán, văn thư nội bộ, cung cấp các ấn phẩm, mẫu in, bảo vệ tài liệu mật, đào tạo nhân viên nghành quản trị, phụ trách quân bưu vụ.
4, Phòng 2 {tình báo } :
a, Nhiệm vụ :
Phòng 2 có nhiệm vụ theo dõi tình hình quân sự của đối phương trong nước và các quốc gia lân cận như Lào và Cam-pu-chia. Nhận định và ước tính khả năng quân sự của đối phương. Cung cấp và yểm trợ tin tức cho các đơn vị tác chiến. Phối hợp với tổng cục Quân huấn để tổ chức huấn luyện cán bộ quân báo. Phối hợp với phòng 1 trong kế hoạch bổ sung nhân viên quân báo các cấp.
b, Tổ chức biên chế :
Quân số của phòng 2 có khoảng 300 người { không kể quân số của hai đơn vị 101 và 306 là những đơn vị sưu tầm, yểm trợ chuyên môn cho phòng 2 }. Phòng 2 được tổ chức thành các khối :
- Khối quốc nội : quân số 100 người, chỉ huy trưởng là trung tá, có nhiệm vụ theo dõi tình hình trong nội địa miền Nam Việt Nam. Khối quốc nội bao gồm các ban : Ban quốc nội Vùng chiến thuật 1,2,3,4. Ban ước tính { báo cáo tháng, năm, thống kê thiệt hại của đối phương }. Ban nghiên cứu { về tổ chức các quân ,binh chủng đối phương ở VN }.
- Khối quốc ngoại : quân số 50 người, chỉ huy trưởng là trung tá, có nhiệm vụ theo dõi tình hình miền Bắc VN và sự viện trợ của các nước phe XHCN cho Bắc VN, tình hình quân sự, chính trị của Lào, Cam-pu-chia. Khối bao gồm các ban : 

Đông Nam Á { 13 người }, 
Bắc Việt { 15 người }, 
Ban nghiên cứu { 15 người } chuyên viết các bài diễn văn cao cấp, xã luận báo chí. 
Ban liên lạc ngoại quốc { 5 người } chuyên khai thác báo cáo của các tùy viên quân sự miền Nam VN ở nước ngoài gửi về { trừ Lào và Cam-pu-chia }.
- Khối sưu tập : quân số 70 người, chỉ huy trưởng là trung tá, có nhiệm vụ : theo dõi, kiểm sóat lưu trữ các nguồn tin do mật báo viên cung cấp, các bản cung tù binh, hồi chánh. Thiết lập các bản yêu cầu điều tra, hành lang, không ảnh, không thám, hệ thống kho tàng, rada, không quân, hệ thống ống dẫn dầu, máy bay của miền Bắc VN. 

Khối sưu tầm gồm các ban : 
Ban phối hợp sưu tầm { 15 người } làm các yêu cầu điều tra miền Băc, miền Nam và hành lang. 
Ban không thám ảnh { 20 người }. 
Ban liên lạc không thám { 18 người } làm yêu cầu và theo dõi không ảnh. 
Ban kiểm sóat nguồn tin {17 người } theo dõi và lưu trữ các nguồn tin khai thác tù hàng binh, hồi chánh, mật báo viên, thống kê các tù binh, hồi chánh.
- Khối kế, huấn, tổ : có nhiệm vụ theo dõi quân số, nhân viên quân báo các cấp và nắm bản đồ các loại, huấn luyện nhân viên quân báo.

c, Các đơn vị trực thuộc :
Để giúp cho phòng 2 về phương diện sưu tầm tin tức và chuyên môn, còn có 2 đơn vị trực thuộc : 101 và 306.
Đơn vị 101 : có quân số 700 người với 5 biệt đội sưu tập tại 4 quân khu và Biệt khu Thủ đô mang tên đoàn 65, 66, 67, 68 và 69.
Đơn vị 306 : có quân số là 300 người, được tổ chức sau 1965 khi Mỹ đưa quân vào VN. Lúc đầu đơn vị này có 5 trung tâm hỗn hợp :
- Trung tâm quân báo hỗn hợp : có nhiệm vụ cung cấp cho phòng 2 { BTTM Quân lực VNCH } và phòng 2 { Bộ tư lệnh MACV } những tin tức khai thác được liên quan đến lực lượng đối phương như không ảnh, tình hình cầu cống, đường xá, địa thế đường mòn HCM v.v...
- Trung tâm khai thác tài liệu hỗn hợp : có nhiệm vụ tập trung tất cả tài liệu do các quân khu, quân đoàn, sư đoàn, tiểu khu tịch thu được của đối phương trên các chiến trường, địa phương. Ngoài ra còn cả báo chí, sách, phim ảnh của miền Bắc để khai thác rồi báo cáo cho phòng 2 {BTTM } và phòng 2 { MACV } phổ biến cho các nơi có liên quan.
- Trung tâm khai thác quân dụng hỗn hợp : có nhiệm vụ khai thác các loại vũ khí, đạn dược, quân dụng tịch thu được. Nhân viên của trung tâm này phần lớn là chuyên viên các cục quân nhu, quân cụ, quân y, truyền tin biệt phái sang. Trung tâm này tổ chức thành các toán lưu động ở 4 quân khu. Sau khi khai thác xong sẽ biên soạn thành sách nhan đề : " Chiến cụ của Việt Cộng " để phổ biến rộng rãi cho các đơn vị quân Mỹ và VNCH. Riêng các loại vũ khí hiện đại như : hoả tiễn, tên lửa phòng không SAM 2, tên lửa chống tăng AT-3 do chuyên viên Mỹ khai thác { !? }.
- Trung tâm thẩm vấn hỗn hợp : có nhiệm vụ xét hỏi tù binh, hồi chánh quan trọng hoặc có sự hiểu biết nhiều, thông thường từ cấp đại đội trở lên, sau đó lập thành các bản cung. Khi tình hình chiến sự căng thẳng, trung tâm này thường tăng phái các nhân viên cho các quân khu, quân đoàn.
- Trung tâm quản trị quân báo : có nhiệm vụ theo dõi và quản trị số nhân viên quân báo từ cấp hạ sĩ quan trở xuống, quản trị các đội quân báo của quân đoàn, sư đoàn, các đơn vị quân báo biệt phái đi với Mỹ.
Sau khi Mỹ rút quân khỏi VN { 30/6/1973 }, đơn vị 306 chuyển các trung tâm hỗn hợp trên thành các khối.
d, Mức độ tin cậy từ các nguồn tin do phòng 2 { BTTM } sắp xếp :
- Ưu tiên 1 : tin của phòng 7 { trinh sát kỹ thuật }.
- Ưu tiên 2 : ảnh không thám.
- Ưu tiên 3 : tin của Nha Kỹ thuật { đơn vị chuyên tung gián điệp, biệt kich ra miền Bắc VN - đã được nói nhiều ở trên }.
- Ưu tiên 4 : Sở liên lạc theo dõi các mật khu ở miền Nam và đường mòn HCM.
- Ưu tiên 5 : cung tù binh, hồi chánh.
- Ưu tiên 6 : tài liệu thu được.
- Ưu tiên 7 : tin của các quân khu, quân đoàn.
- Ưu tiên 8 : mật báo viên của đơn vị 101 { tin ít người sử dụng }.

e, Các nguồn tin tình báo :
Các tin tức tình báo thường được lấy từ các nguồn :
- Ủy ban phối hợp tình báo quốc gia do tướng Đặng Văn Quang là phụ tá quân sự và an ninh Phu tổng thống phụ trách.
- Phủ đặc ủy tình báo.
- Phòng 2 { BTTM }.
- Phòng 7.
- Nha Kỹ thuật.
- Sở liên lạc.
- Bộ tư lệnh cảnh sát Quốc gia.
- Bộ chiêu hồi.







Bộ Tổng Tham mưu là cơ quan chỉ huy cao nhất của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Để thống nhất hệ thống chỉ huy các lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam, Bộ Tổng Tham mưu được chính thức thành lập vào ngày 1 tháng 5/1952 với vị Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên là Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh, Tham mưu trưởng là Trung tá Lê văn Tỵ. Trụ sở Bộ Tổng Tham mưu ban đầu đặt tại khu nhà số 606 Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. Tổng số nhân sự Bộ Tổng Tham mưu lúc bấy giờ gồm khoảng 150 người, gồm 21 sĩ quan và 15 hạ sĩ quan Pháp, còn lại là Việt Nam. Lúc mới thành lập, Bộ Tổng Tham mưu được tổ chức rất đơn giản, với các thành phần như sau:
- Tổng Tham mưu trưởng và Văn phòng TTMT
- Tham mưu trưởng Tham mưu Biệt bộ (nơi tập trung mọi tin tức để đệ trình Tổng thống)
- Ba Tham mưu phó: Tổ chức và Nhân viên, Hành quân và Huấn luyện, Tiếp vận
- Chỉ huy trưởng Viễn thông, ngang hàng Tham mưu phó
- Bốn Phòng Tham mưu chính: 1, 2, 3 và 4
- Nha An ninh Quân đội
- Ban Không quân
- Ban Hải quân
- Trung tâm Công văn và Công điện
- Bốn Nha: Nhân viên, Quân nhu, Quân cụ (trong đó có Sở Vật liệu Truyền tin) và Quân y
Tháng 7/1952, các quân khu được thành lập với các tư lệnh như sau: 
Đệ nhất Quân khu (Nam Việt) Đại tá Lê Văn Tỵ, 
Đệ nhị Quân khu (Trung Việt) Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ, 
Đệ tam Quân khu (Bắc Việt) Trung tá Nguyễn Văn Vận và Đệ tứ Quân khu (Cao nguyên Trung phần). 
Tháng 11/1954, Đại tá Lê Văn Tỵ thăng chức Thiếu tướng và ngày 1 tháng 12/1954, ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh. Tháng 10/1955, Thiếu tướng Lê Văn Tỵ được thăng Trung tướng, rồi Đại tướng tháng 12/1956, tiếp tục giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội VNCH đến sau cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11/1963. Trong thời gian này (1956), Bộ Tổng Tham mưu được di chuyển vào trại Trần Hưng Đạo (Camp Chanson), Phú Nhuận, nơi đặt Bộ Chỉ huy của Quân đội Pháp trước đây. Sau tháng 7/1965, chức vụ Tổng Tham mưu trưởng được kiêm nhiệm bởi Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Tổng trưởng Quốc phòng. Vào ngày 14 tháng 10/1965, sau khi Tướng Nguyễn Khánh bị gạt bỏ khỏi chính quyền, Trung tướng Cao Văn Viên được cử vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH. Năm 1967, khi Tướng Nguyễn Hữu Có bị bãi chức, Trung tướng Viên kiêm nhiệm chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng trong một thời gian ngắn. Cũng trong năm này, ông được thăng Đại tướng. Sau 1963, Bộ Tổng Tham mưu còn có Trung tâm Hành quân Bộ Tổng Tham mưu, để điều khiển và theo dõi mọi cuộc hành quân trên toàn quốc. Trung tâm Hành quân BTTM là một Bộ Tổng Tham mưu thu hẹp, có đủ các đại diện thẩm quyền từ các Phòng của Bộ Tổng Tham mưu, các Bộ Tư lệnh Không quân, Hải quân, các binh chủng yểm trợ hành quân và tiếp vận. Bộ Tổng Tham mưu có tới hai trung tâm truyền tin. Một trung tâm truyền tin Diện địa cố định gọi là Trung tâm Truyền tin Bộ Tổng Tham mưu, do Tiểu đoàn 650 thuộc Liên đoàn 65 Khai thác Truyền tin Diện địa quản trị, với những phương tiện viễn liên cố định. Ngoài ra, Trung tâm Hành quân BTTM còn có một Trung tâm Truyền tin Chiến thuật lưu động do Tiểu đoàn Truyền tin BTTM điều khiển và quản trị.  
Từ 1965 khi Quân đội VNCH được cải tổ lại, Bộ Tổng Tham mưu bao gồm 7 phòng/nha và một số các cơ quan trực thuộc như Hành quân, Nhân viên, Huấn luyện, Tổng Cục Tiếp vận, và Tổng Cục Chiến tranh Chính trị. Các phòng/nha và đơn vị thường được nhắc đến là Phòng Tổng Quản trị, Phòng Tài ngân, Nha Tổng Thanh tra Quân lực, Nha Kỹ thuật Chiến lược, Đại đội Tổng Hành dinh, Đại đội 1 Quân cảnh, Đại đội Công vụ… 
Theo tinh thần của sắc luật về vai trò của Bộ Tổng Tham mưu được Tổng thống Thiệu ban hành vào tháng 7/1970 thì Bộ Tổng Tham mưu được định nghĩa là một Ban Tham mưu Liên quân. 
Trên thực tế và bản chất, Bộ Tổng Tham mưu là một Bộ Tham mưu Lục quân với thẩm quyền trên hai quân chủng kia, chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng trưởng Quốc phòng về vấn đề huấn luyện, tổ chức và sử dụng quân đội trong đường hướng do Tổng thống định liệu. Khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, thì các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các Tư lệnh Quân đoàn cùng các Tư lệnh Quân binh chủng như Hải quân, Không quân v.v. được diễn ra trong Dinh Độc Lập thay vì ở Bộ Tổng Tham mưu như thường lệ. Những buổi họp này được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổng thống Thiệu với tư cách là Tổng Tư lệnh Tối cao QLVNCH. Từ đó, Tổng thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định và ra lệnh thẳng cho các nơi.  
Vào lúc 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4/1975, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn đã đến văn phòng Tổng Tham mưu trưởng như thường lệ để gặp Đại tướng Cao Văn Viên theo dõi tình hình quân sự. Trong cuộc gặp nói trên, Đại tướng Viên yêu cầu Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn cử người thay thế vì ông đã trình xin Tổng thống Trần Văn Hương cho được giải nhiệm. 
Sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút quân của QLVNCH khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không còn thiết tha với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH. Khi Tướng Viên trình xin Tổng thống Trần Văn Hương cho ông được giải nhiệm, Tổng thống Hương yêu cầu ông tiếp tục giữ chức vụ đến khi ông này trao quyền cho ông Dương Văn Minh.  
Chiều 28 tháng 4/1975, Đại tướng Cao Văn Viên ra đi cùng với Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 BTTM. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân QLVNCH, kiêm Tổng Cục trưởng TCTV bỏ đi trưa ngày 29 tháng 4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng rời nhiệm sở. Khoảng 11 giờ 45, trực thăng của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đáp xuống ngay sân cờ tòa nhà chính đón Trung tướng Ngô Quang Trưởng. Trước tình trạng này, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số (cựu) tướng lãnh như Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, cựu Trung tướng Nguyễn Hữu Có Phó Tổng Tham mưu trưởng, cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (Việt Cộng nằm vùng) làm Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng BTTM, cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Chuẩn tướng Lê Văn Thân, Tư lệnh phó Biệt khu Thủ đô, Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức giữ chức Tổng Cục trưởng TCTV.
● Trong quá trình hình thành, ngoài sự thay đổi về cơ cãu, Bộ Tổng Tham mưu cũng đã thay đổi danh xưng một vài lần. Tháng 4/1964, Trung tướng Nguyễn Khánh ký sắc lệnh đổi Bộ Tổng Tham mưu thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bao gồm Lục quân, Không quân, Hải quân và Địa phương quân-Nghĩa quân. Tổng Tư lệnh QLVNCH (tức Tổng Tham mưu trưởng) lúc bấy giờ là Trung tướng Trần Thiện Khiêm. Sau khi Tướng Khiêm đi làm Đại sứ, Tướng Khánh biến đổi Văn phòng Tổng Tư lệnh thành Nha Đổng lý Văn phòng Tổng Tư lệnh và bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Đổng lý Văn phòng (10/1964). Danh xưng Bộ Tổng Tư lệnh sau đó lại được đổi thành Bộ Tổng Tham mưu, khi Tướng Khánh bị gạt bỏ khỏi chính quyền (2/1965).

Đơn vị trực thuộc

DD 1 QC
NU QUAN NHAN
NKT
P1/BTTM
P2/BTTM
P3/BTTM
P4/BTTM
P5/BTTM
P6/BTTM
P7/BTTM
TCCTCT
TCQH
TCTV

No comments:


Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH: Những Ngày Cuối Cùng

bkd_1975
Quân đội VNCH anh hùng.

Trong tinh thần tưởng niệm “Ngày 30-4-1975”, VB trân trọng giới thiệu bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra trong những ngày cuối tháng 4/1975.
Bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo.

* Đại tướng Cao Văn Viên, những giờ cuối cùng tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH Theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong Việt Nam Nhân Chứng, trước lễ bàn giao chức vụ Tổng thống VNCH diễn ra vào buổi chiều 28/4/1975, thì vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn đã đến văn phòng Tổng tham mưu trưởng như thường lệ gặp Đại tướng Cao Văn Viên để theo dõi tình hình quân sự. (Theo tài liệu ghi trong Quân sử VNCH, vào năm 1955, ông Trần Văn Đôn là Thiếu tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu, ông Cao Văn Viên là Thiếu tá, giữ chức vụ Trưởng phòng 4 Bộ Tổng Tham mưu).
Trong cuộc gặp nói trên, Đại tướng Cao Văn Viên nhắc với Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn rằng Tổng thống Trần Văn Hương đã ký sắc lệnh cho ông nghỉ, do đó, ông yêu cầu cựu Trung tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc phòng, cử người thay thế. Ngay lúc đó, có điện thoại của ông Dương Văn Minh gọi cho Phó thủ tướng Trần Văn Đôn, dặn ông cố gắng giữ Đại tướng Viên ở lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng, đừng cho Đại tướng Viên đi.
Trước sự việc như thế, Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn không biết xử sự làm sao vì Tướng Viên đã được Tổng thống Trần Văn Hương cho nghỉ ( sắc lệnh này được Tổng thống Trần Văn Hương công bố vào chiều ngày 28/4/1975). Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn hỏi Đại tướng Cao Văn Viên:
-Nếu anh đi, thì theo anh ai sẽ thay thế được?
Đại tướng Cao Văn Viên không trả lời thẳng mà hỏi lại cựu Trung tướng Trần Văn Đôn:
-Anh sẽ làm gì ?
Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn trả lời:
-Tôi cũng chưa quyết định. Mấy ngày trước ông Minh và ông Mẫu muốn tôi tiếp tục giữ ghế Tổng trưởng Quốc phòng nhưng tôi chưa trả lời, nay ông Minh cho tôi biết Hà Nội không muốn có người nào trong nội các cũ ở lại trong nội các mới.”
Về lại văn phòng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn nhận được điện thoại của ông Dương Văn Minh hủy bỏ sắc lệnh mà Tổng thống Trần Văn Hương đã ký cho phép Đại tướng Cao Văn Viên nghỉ dài hạn không lương, nhưng sắc lệnh đó Tổng thống Trần Văn Hương đã ký trước khi bàn giao chức vụ Tổng thống.
* Chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH vào những ngày cuối tháng 4
Về chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không còn thiết tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, trong khi đó, tân Tổng Thống Trần Văn Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn, so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng mà Đại tướng Viên đã nắm giữ từ tháng 10/1965.
Thế nhưng, như đã trình bày ở phần trên, Đại tướng Cao Văn Viên đã trình xin Tổng Thống Trần Văn Hương cho ông được giải nhiệm. Tổng thống Trần Văn Hương không đồng ý và yêu cầu Đại tướng Viên tiếp tục giữ chức vụ. Chỉ đến khi Tổng Thống Trần Hương trao quyền cho ông Dương Văn Minh thì Đại tướng Cao Văn Viên mới nhận được quyết định giải nhiệm.
Kể lại chuyện này, Đại tướng Cao Văn Viên ghi trong hồi ký như sau: “Trước khi Tổng Thống Hương bước xuống, Tổng Thống đưa ra một sắc lệnh giải nhiệm tôi khỏi chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Đến khi tân Tổng Thống (cựu Đại tướng Dương Văn Minh) muốn chọn người thay thế tôi, tôi đề nghị Tướng Đồng Văn Khuyên, lúc ấy đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận”.
* Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, những giờ cuối cùng
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Cao Văn Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởngphòng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận rời Bộ Tổng Tham mưu từ trưa ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô vào cuối tháng 3/1975, cũng đã ra đi. ( Giữa năm 1968, Tướng Nguyễn Văn Minh đã giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô lần thứ 1; đến năm 1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 thay thế Trung tướng Đỗ Cao Trí tử nạn; từ tháng 11/1973 đến tháng 3/1975, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, Tổng thanh tra Quân đội).
Trước tình trạng nhiều vị tướng lãnh đã “từ nhiệm”, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Lâm Văn Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận. Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”.
Về tình hình chiến sự, từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân… đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi Bộ Tổng Tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút (theo ghi nhận của cựu đại tá Phạm Bá Hoa, nguyên Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp Vận, có mặt tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô sáng 30/4/1975 và nghe đài Sài Gòn vào giờ phút đó), Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu.
Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Nhảy Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh Bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời:
– “Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống”.
Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy:
– “Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?”
Thiếu tá Tài trình bày:
– “Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định.
Tướng Minh trả lời:
– “Các em chuẩn bị bàn giao đi!”,
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại:
– “Bàn giao là như thế nào thưa đại tướng, có phải là đầu hàng không?”
Tướng Minh đáp:
– “Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập”.
Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay:
– “Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống”.
Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp:
– “Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu.”
Tướng Minh trả lời:
– “Tùy các anh em”.
Theo lời Thiếu tài Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã gặp Trung tá Võ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài:
– Lúc đó, moa đứng cạnh Tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống.
Thiếu tá Tài giải thích:
– Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy quân đội.
VƯƠNG HỒNG ANH


Bộ TTM/QLVNCH cuối tháng 4/1975 / VNI FONT

VNI FONT


Trưa ngày 29/4/1975 tại bộ Tổng Tham Mưu
Sau khi Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền nguyên thủ quốc gia cho ông Dương Văn Minh vào chiều ngày 28/1975, tình hình chiến sự quanh vòng đai Thủ đô Sài Gòn vô cùng nguy kịch. Ðến trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩm quyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Ðại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng 3); Trung tướng Ðồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đã "chia tay" với các cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975.
Ðể có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức tổng tham mưu trưởng; cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, đã về hưu từ tháng 4/1974, làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô; Chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2, làm Tư lệnh phó phụ giúp tướng Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Ðịnh cư trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cục trưởng Tiếp vận.


Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm".

Về Không quân, đến chiều ngày 29/4/1975 chỉ còn Sư đoàn 4 Không quân tại căn cứ Trà Nóc, Cần Thơ là còn nguyên vẹn, một số phi cơ của các Sư đoàn 3 và Sư đoàn 5 Không quân đã bay về căn cứ Trà Nóc từ chiều ngày 29/4/1975. Vị tướng Không quân còn quân và phi cơ trong tay là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, Tư lệnh Sư đoàn 4 Không quân đồng thời là quyền Tư lệnh Không quân vào ngày cuối của cuộc chiến.

* Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn
Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay nhau làm khinh binh với những bài toán chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.
Tại phòng tuyến của Sư đoàn 5 Bộ binh, trung tâm Huấn luyện Sư đoàn chỉ thật sự chấm dứt hoạt động huấn luyện trên bãi tập vào ngày 28/4/1975 và được lệnh cấm trại 100% để lo phòng thủ. Khoảng 10 giờ đêm ngày 29/4/1975, Cộng quân di chuyển trên xa lộ Ðại Hàn (Sài Gòn-Bình Dương). Bộ binh đi hai hàng dọc, kẹp sát lề đường, xen kẻ ở giữa là chiến xa T 54. Các đơn vị Cộng quân ngang nhiên di chuyển về hướng Sài Gòn và không ngụy trang lá cây như những cuộc chuyển quân trước đó. Vừa đi ngang khu vực trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 5 Bộ binh, thì pháo đội súng cối 81 ly của trung tâm bắn ra để ngăn cản bước tiến quân của địch.

Ngay sau đó, chiến xa và bộ binh của Cộng quân đã dàn hàng ngang tiến thẳng về phía trung tâm, những súng phòng không trên pháo tháp của chiến xa Cộng quân thi nhau nhả đạn, nhưng chỉ một lát sau thì ngưng lại. Ðoàn quân của địch lại tiếp tục di chuyển về hướng Sài Gòn. Quân lính CS đi rất vội vã, hối hả. Ðó là dấu hiệu cho thấy Cộng quân tránh giao tranh dọc đường, bảo toàn lực lượng tối đa, tiến nhanh về Sài Gòn càng sớm càng tốt.

Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đã được điều động về quận lỵ Cần Ðước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Ðước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Ðường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975).

Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.

Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.
* Trận chiến quanh Bộ Tổng Tham Mưu và vòng đai Sài Gòn
Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.

Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân.
Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.

* Chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù và trận đánh cuối cùng
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng Tham Mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Nhảy Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống”. Vài giây sau, Thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: “Ðại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó ?” Thiếu tá Tài trình bày: "Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định.” Tướng Minh trả lời: “Các em chuẩn bị bàn giao đi!” Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: "Bàn giao là như thế nào thưa đại tướng, có phải là đầu hàng không ?" Tướng Minh đáp: "Ðúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Ðộc Lập." Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Ðộc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống.” Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng Tham mưu." Tướng Minh trả lời: "Tùy các anh em !"

Theo lời thiếu tài Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã găp trung tá Võ Ngọc Lan-liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài: "Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống." Thiếu tá Tài giải thích: "Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy quân đội.”

(Biên soạn dựa theo hồi ký của cựu đại tá Phạm Bá Hoa, nguyên tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp Vận, bài viết của cựu Thiếu tá Châu Văn Tài, một số bài viết phổ biến trong tạp chí KBC, và tài liệu riêng của Việt Báo).

1 comment:

Bàn cờ xóa sạch thay ván khác
Chốt thí bi bô chuyện chiến trường
Ai thắng?Ai thua?Trời mới biết
Nhà Nam gánh trọn cả đau thương
Nghiệm chứng tương tranh trên đất Việt
Ai bày?Cường quốc chứ ai xa
Hai phía cám ơn đầy" nhiệt liệt"
Người Cho bom đạn phá quê nhà....
Reply
Nguồn: http://thoichinhchien.blogspot.com/2009/02/boa-toang-tham-mou-qlvnch-cuoai-thaung.html

=====

dimanche 1 mars 2015


Những Ngày Cuối VNCH

Những Ngày Cuối VNCH 1
https://ongvove.files.wordpress.com/2010/04/baovethudo.jpgLời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “Ngày 30-4-1975″, nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo. Riêng trong bài về mặt trận Ban Mê Thuột, một số sự kiện được biên soạn dựa theo hồi ký của Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac, nhật ký hành quân của Thiếu tá Phạm Văn Huấn, Sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2. 


Tưởng Niệm 30 Tháng 4/1975: Mặt Trận Ban Mê Thuột Ngày 10-3-1975
Vương Hồng Anh
*Cao nguyên ngày N-1
Ngày N-1 của mặt trận Cao nguyên là ngày 9 tháng 3/1975, ngày Cộng quân gia tăng áp lực khi mở trận tấn công đánh chiếm quận lỵ Đức Lập(tỉnh Quảng Đức). Từ diễn biến này, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 &Quân khu 2, đã bay đến Ban Mê Thuột để thị sát tình hình và họp với Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh (lúcbấy giờ là Tư lệnh Mặt trận Nam Pleiku), các Tỉnh trưởng/Tiểu khutrưởng Darlac và Quảng Đức. Cuộc họp diễn ra tại Trung tâm Hành quân bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, kéo dài từ 12 giờ trưa đến 5giờ chiều.
Sau khi nghe Trung tâm Hành quân trình bày tình hình ở Đức Lập, Thiếu tướng Phú quay sang Đại tá Phạm Văn Nghìn, Tỉnhtrưởng/Tiểu khu trưởng Quảng Đức, cho những chỉ thị cần thiết, và ra lệnh cho vị tỉnh trưởng này bay về ngay tỉnh lỵ để đôn đốc chỉ huy các đơn vị chuẩn bị đối phó với tình hình mới. Thiếu tướng Phú nói với Tỉnh trưởng Quảng Đức rằngtrong trường hợp Quảng Đức bị tấn công, ngoài Liên đoàn 24 Biệt động quân đang tăng phái cho tỉnh này, ông sẽ tăng cường thêm quân để chận địch. Ông nhấn mạnh với Đại tá Nghìn: “Lệnh Tổng thống phải giữ Quảng Đức bằng mọi giá.”
Đại tá Nghìn vừa rời phòng họp, Thiếu tướng Phú ra lệnh cho Thiếu tá Nguyễn Văn Hóa, sĩ quan tùy viên , lo chuẩn bị bản đồ các mặt trận để ông họp tiếp tại văn phòng Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh với Chuẩn tướng Trường và Đại tá Vũ ThếQuang,Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, Đại tá Nguyễn TrọngLuật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac. Trong cuộc họp, Thiếu tướng Phú đã hỏi Chuẩn tướng Trường là nhận định thế nào về tin tức tình báo cho rằng sư đoàn F 10 CSBV đã về Quảng Đức, và trong trườnghợp như thế, có nên rút bớt lực lượng Sư đoàn 23 Bộ binh đang hành quân tại Pleiku về tăng cường cho mặt trận ở Quảng Đức và Ban Mê Thuột không? Chuẩn tướng Trường đã trình với Thiếu tướng Phú rằng có thể có một phần của 2 sư đoàn F-10 và sư đoàn 320CSBV đã về hoạt động tại hai tỉnh này, nhưng Tướng Trường không tin rằng toàn bộ sư đoàn F10 đã di chuyển về Quảng Đức. Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh nhận định rằng có khả năng là sư đoàn CSBV này sẽ để lại 1 hoặc 2 trung đoàn để phối hợp với sư đoàn 968 CSBV từ Lào xâm nhập qua để mở mặt trận tại Nam Pleiku.
Sau lời trình bày của Chuẩn tướng Trường, Đại tá Luật báo cho Thiếu tướng Phú biết là cách đây hai ngày trung đội Thám báo Tiểu khu Darlac đã phục kích bắt được 2 tù binh CSBV tại một ấp Thượng cách tỉnh lỵ 10 km, trong đó có 1 sĩ quan bị thương. Cả hai tù binh khai là thuộc bộ phần tiền thám của sư đoàn 320 CSBV. Viên sĩ quan tù binh CSBV tiết lộ là sư đoàn 320 CSBV được lệnh chuẩnbị tấn công Ban Mê Thuột. Theo đề nghị của Đại tá Luật, Thiếu tướng Phú đã cho gọi Trưởng phòng 2 Tiểu khu Darlac trình bày chi tiết về cung từ của hai tù binh.
Trước những báo cáo của Tiểu khu Dralac, sau một lúc suy nghĩ để lượng định tình hình, Thiếu tướng Phú ra lệnh cho Chuẩn tướng Trường bay về Pleiku trước để phối trí lực lượng tại đây, chuẩn bị lực lượng tiếp ứng cho Quảng Đức khi tỉnh này bị tấn công. Từ 4 giờ đến 5giờ chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú họp tiếp với Đại táQuang,được chỉ định làm Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột, và Đại tá Luật về kế hoạch bảo vệ tỉnh lỵ tỉnh Darlac. Trong giờ cuối cùnghọp với tướng Phú, Đại tá Vũ Thế Quang đã trình bày sự phối trílực lượng như sau:
-Phòng thủ phía Bắc: Trung tâm huấn luyện Sư đoàn 23 Bộ binh.
-Phòng thủ phía Đông: Bộ chỉ huy chi khu Ban Mê Thuột và đơn vịĐịa phương quân thống thuộc chi khu.
-Lực lượng phía Tây-khu vực trọng yếu và nguy hiểm nhất có hậu cứcủa tiểu đoàn của Thiết đoàn 3 Thiết kỵ và kho đạn Mai Hắc Đế.Ngoài ra, doanh trại các tiểu đoàn Pháo binh, Công binh, Truyền tin thống thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đóng gần thị xã đều tận dụngquân số tại hàng để tổ chức phòng ngự trong phạm vi trách nhiệm.Lực lượng trừ bị cho thị xã Ban Mê Thuột là lực lượng Trung đoàn53 Bộ binh (trung đoàn trừ, chỉ có 2 tiểu đoàn), án ngữ tại phitrường Phụng Dực. Riêng về trách nhiệm của Tiểu khu Darlac, Đại tá Nguyễn Trọng Luật đã cho điều động Tiểu đoàn 204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về thị xã. Việc di chuyển không phảidễ dàng vì phải trưng dụng tất cả các quân xa trong toàn thị xã Ban Mê Thuột mới đủ quân xa để vận chuyển cả một tiểu đoàn.
* 2 giờ sáng ngày 10/3/1975: Mặt trận Ban Mê Thuột bùng nổ
Đúng 2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba/1975, Cộng quân khai hỏa tấncông vào Ban Mê Thuột. Tiếng pháo kích rền vang trong thị xã này đến 4 giờ sáng. Sau đó, Cộng quân đã sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung tấn công chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở phía Tây. Đơn vị trú phòng đã chống trả mãnh liệt và bảo vệ được kho đạn. Về phíaBắc, Đài Truyền tin của Không quân cũng bị tấn công. Đến 7 giờsáng Cộng quân ngưng pháo kích vào thị xã nhưng đã điều động bộ binh và thiết giáp tiến vào thị xã và khai triển lực lượng xungquanh nhà thờ thị xã.
Để tiện phối hợp trong việc chỉ huy, Đại tá Nguyễn Trọng Luật đã xin Thiếu tướng Phạm Văn Phú cho ông được qua ở chung với Đại táVũ Thế Quang. Đề nghị của Đại tá Luật được tướng Phú chấp thuận.Sự lo ngại của Đại tá Quang và Đại tá Luật là chiến xa Cộng quân đã lọt vào thị xã. Từng là Tư lệnh 1 Lữ đoàn Kỵ binh, Đại tá Luật thấy rõ hỏa lực tấn công của địch một khi có thiết giáp tham chiến. Tuy nhiên cả Đại tá Quang và Đại tá Luật vẫn hy vọng ở sự yểm trợ của Không quân VNCH khi trên bầu trời Ban Mê Thuột đã xuất hiện những phi cơ L 19 và các phản lực cơ chiến đấu. Tinh thần của quân sĩ trú phòng lên cao. Các đoàn chiến xa của Cộngquân từ hướng bắc tiến về phía Nam đã bị các đơn vị Địa phương quân của Tiểu khu Darlac đánh chận lại.
Cộng quân thay đổi chiến thuật tấn công: Trưa ngày 10/3/1975, đối phương đã pháo kích dồn dập vào bộ chỉ huy tiểu khu và một số vị trí trọng yếu trong thị xã, trong đó có cả bản doanh bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Hệ thống truyền tin tại bộ chỉ huy Tiểu khu bị trúng đạn pháo, hư hại nặng. Trước tình hình đó, Thiếu tá Hy, trưởng phòng 3 Tiểu khu, xin Đại tá Luật cho di chuyển bộ tham mưu ra khỏi vị trí. 13 giờ 30, Thiếu tá Hy báo cáo Cộng quân tập trung pháo binh bắn vào doanh trại bộ chỉ huy, sau đó chiến xa và bộ binh Cộng quân tràn vào hệ thống phòng thủ. 2 giờ chiều cùng ngày, Cộng quân tràn ngập vào doanh trại này. Đại tá Nguyễn Trọng Luật liền khẩn báo cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Tướng Phú ra lệnh cho trực thăng vận Liên đoàn 21 Biệt động quân xuống Ban Mê Thuột để tái chiếm doanh trại bộ chỉ huy Tiểu khu. Đúng 17 giờ, đoàn trực thăng đã đến gần thị xã nhưng không đáp xuống được vì hỏa lực phòng không của Cộng quân.
Cuối cùng, vào lúc 18 giờ, Bộ Tư lịnh QĐ 2 quyết định thay đổi vị trí bãi đổ quân. Liên đoàn 21 BiệtĐộng Quân được thả xuống trong khu vực Bộ Chỉ huy Chi khi Buôn Hô rồi từ đó di chuyển bằng đường bộ tiến vào thị xã Ban Mê Thuột.
Về trận chiến quanh thị xã Ban Mê Thuột, sau những trận tấn công cường tập vào một số vị trí trong yếu quanh vòng đai Ban Mê Thuột trong sáng ngày 10/3/1975, CQ đã điều động một trung đoàn mở cuộc tấn công lần thứ 2 vào kho đạn Mai Hắc Đế,một căn cứ được xem là tiền đồn của thị xã Ban Mê Thuột, có 1 diện tích rất rộng với hệ thống tuần tiểu bên ngoài dài hơn 15 km. CQ đã chiếm trại, nhưng bị tổn thất nặng trước tinh thần chiến đấu quyết tử của lực lượng trú phòng. Sau đó CQ đã tung lực lượng chiếm các doanh trại gần đó như Tiểu đoàn 23 truyền tin, Trungtâm huấn luyện Địa phương quân, Đơn vị hành chánh tài chánh…
Tại phi trường Phụng Dực, ngay từ ngày 10/3/1975, CSBV đã điềuđộng 2 Trung đoàn thuộc sư đoàn 320 và 1 tiểu đoàn chiến xa tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của Trung đoàn 53 Bộ binh. Đây là trung đoàn tăng phái cho Quảng Đức vừa được điều động về BanMê Thuột, do phải bố trí một thành phần phòng thủ chận địch ở Thuận Mẫn (Đông Bắc Ban Mê Thuột), nên Trung đoàn chỉ còn lại 2 tiểu đoàn. Bị tổn thất nặng trong các trận kịch chiến với CQ tại Quảng Đức, nên tổng quân số của hai tiểu đoàn chỉ còn hơn 600 chiến binh. Rạng sáng ngày 11/3/1975, Cộng quân đã mở đầu đợt tấn công thứ hai vào phi trường Phụng Dực bằng những trận những đợt pháo kích dồn dập, sau đó, thiết giáp và bộ binh CQ ồ ạt xông lên. Lực lượng phòng ngự của Trungđoàn 53 Bộ binh đã bình tỉnh chống trả, chận đứng được các đợt xung phong của địch quân. Các khẩu độipháo binh 105 của lực lượng trú phòng đã bắn trực xạ vào các chiến xa T 54 của địch quân.
Theo báo cáo sơ khởi của các cánh quân bảo vệ Ban Mê Thuột thì tính đến 6 giờ chiều ngày 10/1975, CQ đã bị loại ra ngoài vòng chiến khoảng 300 cán binh CSBV, 12 chiến xa T-54 Cộng quân bị bắn cháy. (V)
14-3-1975: Tổng Thống Thiệu Quyết Định Bỏ Cao Nguyên
Vương Hồng Anh
*Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh triệt thoái lực lượng VNCH khỏi Cao nguyên
Sau cuộc họp với Hội đồng AnNinh Quốc gia tại Dinh Độc Lập ngày 13/3/1975 có sự tham dự củaTrung tướng Ngô Quang Trưởng-Tư lệnh Quân đoàn 1- để bàn về kếhoạch tái phối trí lực lượng trong tình hình mới, sáng ngày 14tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng TrầnThiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang,Phụ tá an ninh của Tổng thống đến Cam Ranh để họp với Thiếutướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2& Quân khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổnthống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú phảirút toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 tại hai tỉnh Pleiku và Kontumvề khu vực duyên hải miền Trung (Phú Yên và Khánh Hòa) để táiphối trí lực lượng phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.
Khi được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hỏi nên rút quân theo trụclộ nào, Tướng Phú đã trình bày với Tổng thống Thiệu rằng các quốclộ chính nối trong khu vực Cao nguyên đã bị Cộng quân cắt đứt,chỉ còn liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ raphía nam cách thị xã Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn về Tuy Hòa (tỉnh lỵ Phú Yên). Kế hoạchchọn liên tỉnh lộ 7B đã không được sự đồng ý của Đại tướng Viên vì ông cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đườngdài hơn 250 cây số mà không rõ tình hình an ninh là một việc “quásức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Tướng Viên cũng không tìm ra được một con đường nào khác nên kế hoạch của tướng Phú đã đượcchấp thuận.
* Một chi tiết đặc biệt về lệnh triệt thoái Cao nguyên: Chủ lưc quân rút, Địa phương quân ở lại…
Trên đường trở lại Pleiku, Tướng Phú đã tâm sự với thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí của tư lệnh Quân đoàn 2, là trong buổi họpông đã khẩn khoản xin Tổng thống Thiệu cho ông được tử thủ giữPleiku, nhưng đề nghị của ông đã không được chấp thuận. Một chitiết đặc biệt đã được Tướng Phú kể lại cho Thiếu tá Phạm Huấn vớinội dung như sau: Trong cuộc họp, Tổng thống Thiệu căn dặn tướngPhú rằng lệnh triệt thoái là tối mật, từ cấp tỉnh trưởng/tiểu khutrưởng trở xuống không được biết, có nghĩa là các lực lượng Địaphương quân vẫn ở lại chiến đấu, vẫn tiếp tục làm việc với tỉnhtrưởng, quận trưởng. Chỉ có toàn bộ chủ lực quân gồm Bộ binh,Pháo binh, Thiết giáp, Công binh, Không quân là phải triệt thoái.
Trước quyết định của Tổng thống Thiệu, Tướng Phú đã lo lắng vàhỏi lại: Thưa Tổng thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binhrút đi, làm sao Địa phương quân chống đỡ nỗi khi Cộng quân đánh?Hơn 100 ngàn dân hai tỉnh Pleiku, Kontum, và gia đình anh em binhsĩ? Tổng thống Thiệu trả lời: Thì cho thằng Cộng sản số dân dó.Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được những vùng dân cư đông đúc…mầu mỡ hơn là bị kẹt quá nhiều quâtrên vùng Cao nguyên! (Cuộc triệt thoái Cao nguyên, tác giả PhạmHuấn, xuất bản 1987, dòng thứ 1 đến dòng thứ 6, trang 86).
Về phần Đại tướng Cao Văn Viên, khi về đến Sài Gòn, ông đã chomời Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 bộ Tổng Tham Mưu(TTM) và báo cho vị trưởng phòng này về các chi tiết đã được bàntrong buổi họp tại Cam Ranh. Tham mưu trưởng Bộ TTM là trungtướng Đồng Văn Khuyên lúc ấy đang công tác ở ngoại quốc. Cuộchành quân cũng được giữ bí mật tối đa do chính Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho viên tư lệnh chiến trường nên Bộ TTM không đượcquyền ra lệnh làm gì hết, kể cả việc tái phối trí các đơn vịKhông quân và lực lượng tăng phái cho Quân đoàn 2 tại Pleku và Kontum.
Vào thời gian này, tại vùng Kontum và Pleiku chỉ còn 1 tiểu đoàncủa Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB, 5 Liên đoàn Biệt Động QuânQK 2, thiết đoàn 21 M 48, hai tiểu đoàn pháo binh 175 mm và cácđơn vị yểm trợ như Liên đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, Liên đoàn231 Yểm trợ Tiếp Vận, kho đạn của Không quân và Lục quân vớikhoảng 20 ngàn tấn đạn, kho tồn trữ nhiên liệu với trữ lượng dùngtrong 45 ngày và nhu yếu phẩm và thực phẩm đủ dùng trong haitháng. Nhiệm vụ của Tướng Phú là làm sao đưa hết được các đơn vịvà tiếp phẩm này về Nha Trang và để từ đó mở cuộc phản công táichiếm lại Ban Mê Thuột.
* Cuộc họp của Thiếu tướng Phú về kế hoạch rút quân:
Theo lời ban tham mưu của Tướng Phú kể lại, vào lúc 5 giờ 10chiều ngày 14 tháng 3/1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại chiếc bunker của ông, vớithành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hànhquân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân,Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 1(gồm 5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 & Quân khu 2. Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,tướng Phú đã thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng choDại tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình bày tóm tắt nội dungcuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và tânChuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.
Kế hoạch cuộc chuyển quân được phổ biến vắn tắt: Tướng Phú và Bộ tư lệnh nhẹ sẽ đi Nha Trang trước bằng trực thăng. Chuẩn tướngTất chỉ huy toàn bộ các đơn vị tham gia cuộc triệt thoái từKontum và Pleiku về Tuy Hòa theo tỉnh lộ 7 B. Đại tá Lê Khắc Lýđược giao trách nhiệm điều động bộ tham mưu quân đoàn và các đơnvị yểm trợ. Toàn bộ cuộc hành quân đặt dưới sự giám sát của chuẩn tướng Trần Văn Cẩm.
Theo kế hoạch do Tướng Phú đề ra, Liên đoàn 20 Công binh chiến đấu sẽ cho một đơn vị đi đầu để làm thành phần tiên phong cónhiệm vụ sửa chữa cầu cống, đường sá khi cần thiết. Các đơn vị thiết giáp được giao nhiệm vụ yểm trợ đoàn xe vận tải. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân trong khu vực đoàn quân đi qua chịu trách nhiệm an ninh trục lộ. Đi cuối cùng là hai Liên đoàn Biệtđộng quân và 1 đơn vị thiết giáp. Các đơn vị cuối cùng này sẽ rờiPleiku vào ngày 19/3/1975.
Do cuộc chuyển quân rầm rộ với nhiều đơn vị và hàng trăm xe vậntải cùng nhiều quân cụ nặng nên thời gian chuẩn bị phải mất hết 4ngày liên tiếp, bắt đầu từ ngày 16 tháng 3/1975.
Sau khi họp với các đơn vị trưởng, sáng ngày 15 tháng 3, Thiếutướng Phú cùng với một số sĩ quan được chọn lựa trong ban thanmưu bay về Nha Trang để tái tổ chức lại bộ tư lệnh Quân đoàn ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Cẩm và vài sĩ quan thân cận bayđi Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân di chuyển từ Pleiku về. Cũngtrong ngày này, đã có một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo cáctoán nhỏ. Như đã trình bày ở trên, từ khi có cuộc tái phối tríđược nêu ra trong cuộc họp cho đến khi bắt đầu thực hiện, tất cảđều tiến hành một cách bí mật, không một lời nào được tiết lộ, kểcả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.
Tỉnh trưởng Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, còntỉnh trưởng Kontum thì đến phút chót mới biết được và ông đã tháptùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường thì bị CQ bắn chết.
Ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xã Pleiku như đã trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến thì tin này được dân chúng biết. Vậy là mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ gì có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguy hiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu…
Ngày 16-3-1975: Quân Đoàn 2 Triệt Thoái Khỏi Cao Nguyên
Vương Hồng Anh
* Ngày 16/3/1975: Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã cho lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku và Kontum của Cao nguyên Trung phần.
Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2, được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các đơn vị triệt thoái.
(Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3, Thiếu tướng Phú cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan thân cận bay đi Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân triệt thoái từ Pleiku và Kontum về) .
Theo lịch trình triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh,Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểmtrợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi thị xãPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.
Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh, Pháo binh còn lại cùng Quân y với trên 250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do Thiết giáp tháp tùng bảo vệ. Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị Quân cảnh, một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng khoảng 200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ. Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm có Biệt động quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng.
Theo lộ trình, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về phía Nam củaQuốc lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7 cách thị xãPleiku khoảng 33 km đường chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B vềhướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy Hòa.
* Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và cuộc rút quân của Quân đoàn 2.
Trong phần trình bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB đã lược trình về quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh này.
Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rõ tình hình an ninh lộ trình là “quá sức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không tìm ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đã được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.
Nhận định về địa hình liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùngđược, đoạn còn lại không biết tình hình giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc quasông Ba về phía nam Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thểsửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì nhữngvào năm trước 1973, lực lượng Đại Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc.
Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ trình rút quân, thì Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú trình bày rằng yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế.
Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng Phú.
Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng “đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết tình hình an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ hay không là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉ huy sáng suốt thì lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó”.
Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đã nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là “những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy”.
Về tình hình Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972.
Theo lời Đại tướng Viên thì vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm gì.Khi cuộc họp chấm dứt, thì Tướng Phú xin riêng với Tổng thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Kể lại sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau: “Tôi không quen thân với Đại tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng làm tư lệnh chiến trường thì không có bằng chứng nào chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói có lý nên không đồng ý việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ý thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất.

NGÀY19-3-1975: TT Thiệu Họp Bàn Kế Hoạch Giữ Đà Nẵng
Vương Hồng Anh
* Cuộc họp mật ngày 19 tháng 3/1975 bàn về số phận 5 tỉnh miền Trung thuộc Quân khu 1.
Sau 2 cuộc họp mật của Hội đồng An ninh Quốc gia tại Dinh Độc Lập vào các ngày 11 và 13 tháng 3/1975, vào ngày 19 tháng 3/1975, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu lại mở cuộc họp đặc biệt để duyệt xét tình hình Quân khu 1. Cuộc họp bắt đầu 11 giờ, ngoài các nhân vật đã tham dự hai cuộc họp trước (Tổng thống Thiệu, Thủ tướng Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang), còn có Phó Tổng thống Trần Văn Hương tham dự. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1, cũng được gọi về Sài Gòn để dự cuộc họp này.
Theo lệnh của Tổng thống được chuyển đến Tư lệnh Quân đoàn 1 trước đó, Tướng Trưởng trình bày về kế hoạch rút quân của Quân khu 1 tập trung về Đà Nẵng để bảo vệ thành phố trọng yếu này. Theo ghi nhận của Tướng Viên, kế hoạch của Tướng Trưởng rất chu đáo và được tiến hành theo hai phương cách: phương cách thứ nhất sử dụng Quốc lộ 1. Theo đó thì có lực lượng VNCH từ Huế và từ Chu Lai cùng một lúc rút về Đà Nẵng. Phương cách thứ hai: nếu địch cắt Quốc lộ 1 thì sẽ rút quân về tập trung tại ba nơi khác nhau: Huế, Đà Nẵng, Chu Lai. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là nơi tập trung tạm thời để sau đó các đơn vị được hải vận về Đà Nẵng, kết thúc cuộc bố trí giữ Đà Nẵng. Như vậy, Đà Nẵng sẽ trở thành ốc đảo trong lòng địch để cố thủ bằng 4 sư đoàn (Sư đoàn 1, 2, 3 Bộ binh, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến) và 4 liên đoàn Biệt động quân.
Sáu giờ chiều ngày 19 tháng Ba, Trung tướng Trưởng trở lại Đà Nẵng. Khi phi cơ ông vừa hạ cánh, thì ông nhận được báo cáo khẩn cấp của Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, gọi từ bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 ở Huế vào. Tướng Thi báo rằng đại bác 130 ly của địch đang nã vào bản doanh của ông và CQ đang tung đợt tấn công quy mô lớn bằng xe tăng để tìm cách vượt qua vòng đai phòng thủ của lực lượng VNCH tại sông Thạch Hãn.
* Đại tướng Cao Văn Viên phân tích các quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về vận mệnh VNCH
Trước khi đưa ra những quyết định trong cuộc họp ngày 19 tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã 2 lần họp mật với Hội đồng An ninh Quốc gia để duyệt xét về tình hình tại Cao nguyên và miền Trung. Sau đây là những ghi nhận và phân tích của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH về những cuộc họp này.
Theo lời của Đại tướng Viên, một ngày sau khi Cộng quân tổng tấn công vào Ban Mê Thuột, sáng ngày 11 tháng Ba, 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mời Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Phụ tá An ninh của Tổng thống, đến dinh Độc Lập để ăn sáng và họp. Sau khi ăn và uống cà phê xong, các nhân viên phục dịch đi hết, Tổng thống đã lấy ra một tấm bản đồ có tỷ lệ nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa và bắt đầu nói đến tình hình quân sự ở mỗi nơi. Sau đó, Tổng thống nói thật rằng “tính ra thực lực của chúng ta thì không thể nào giữ hết nổi lãnh thổ như ý chúng ta được. Vì vậy chúng ta cần phối trí lực lượng lại để phòng thủ những nơi nào đông dân cư mà thôi và tăng cường bảo vệ những nơi nào hiểm yếu.”
Nhắc lại quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại tướng Viên đã ghi lại trong hồi ký như sau: “Kết luận này làm chúng tôi ngạc nhiên vì nói như vậy tức là ông đã cân nhắc rất kỹ lưỡng. Dường như ông chưa muốn công bố quyết định này nên tỏ ý rằng chỉ cho ba chúng tôi tham dự bữa ăn sáng này biết trước. Tổng thống Thiệu đã vạch ra một bản đồ ghi những vị trí quan trọng. Đa số các vị trí này đều nằm quanh Quân khu 3 và 4 cùng với hải phận của hai quân khu này. Chỉ một vài nơi quan trọng mà hiện lúc ấy đang bị Cộng sản chiếm và như vậy Quân đội VNCH phải ra sức tái chiếm lấy bằng mọi giá. Sau cùng, lãnh thổ mà Quân đội VNCH sẽ giữ gồm những nơi vựa lúa, đồn điền cao su, khu kỹ nghệ, v.v. Chính phủ cần giữ những nơi trù phú và đông dân đó. Thêm nữa, ngoài thềm lục địa vừa mới khám phá có dầu, và chính phủ xem đó là những vùng yết hầu bất khả xâm phạm, nơi cần giữ vững nhất là Sài Gòn, các tỉnh phụ cận và vùng châu thổ sông Cửu Long.”
Tổng thống Thiệu đã nói nhiều về kế hoạch tái phối trí vùng địa lý chánh trị, nhưng khi đề cập đến Quân khu 1 và Quân khu 2 thì Tổng thống không còn vẻ khẳng khái. Còn Cao nguyên Trung phần thì Tổng thống vừa nói, vừa dùng tay chỉ vào khu vực Ban Mê Thuột, quan niệm rằng đó là nơi quan trọng hơn Pleiku và Kontum gộp lại vì vị trí kinh tế và dân số. Những tỉnh dọc duyên hải Quân khu 2 cũng quan trọng không kém vì các tỉnh này có thềm lục địa nhiều tiềm năng khai thác. Còn đối với Quân khu 1 thì ông chủ trương giữ vững những gì giữ được. Tại đây, Tổng thống phác họa một kế hoạch nhiều giai đoạn đánh dấu bằng đường ranh cắt bỏ dần để rút xuống phía Nam. Tổng thống nói: “Nếu chúng ta đủ sức, thì sẽ giữ đến Huế hay Đà Nẵng. Nếu không thì rút về và giữ từ Chu Lai hoặc từ Tuy Hòa trở vào.” Tổng thống nhấn mệnh: “Làm như vậy chúng ta mới tái phối trí được khả năng mình, giữ vững được các yếu điểm của lãnh thổ một cách hữu hiệu và mới có cơ may phát triển đất nước giàu mạnh được.” Cứ như vậy, Tổng thống Thiệu nói hết ý định của mình, và cũng kể như quyết định quan trọng. Thế nhưng dụng ý của toàn bộ kế hoạch thì chưa rõ, nhưng chắc chắn sẽ tạo ra nhiều vấn đề, nhất là về phương diện quân sự.
Với tư cách một Tổng Tham mưu trưởng, Đại tướng Viên cảm thấy có bổn phận phải lên tiếng. Sau đây là ý kiến của Đại tướng Viên: “Tôi (Đại tướng Viên) nói rằng khi tái phối trí thì quả thật có hiệu quả phòng thủ tuy hệ quả của nó không thể tránh khỏi, và tôi cũng đã từng nghĩ đến tình trạng này từ lâu. Tuy nhiên tôi chưa nói ra vì chưa phải lúc. Trước hết, tái phối trí là trái với chủ trương duy trì chính sách Quốc gia, và thứ hai tôi đưa ra đề nghị đó thì có thể bị nghĩ là có óc chủ bại. Duy có điều tôi nhấn mệnh đến một sự tái phối trí lúc này đã quá trễ và không chắc thành công được. Ngoài ra tôi không cho rằng quyết định này của Tổng thống sẽ loại trừ được bất cứ chỉ trích không có lợi nào. Dù sao, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, Tổng thống có toàn quyền và trách nhiệm để đưa ra mọi quyết định ứng phó với cuộc chiến. Chắc ông đã nắm vững những gì ông đang làm chứ.”
Nhận xét về quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại tướng Viên phân tích: “Cho dù quyết định này có đi sai chính sách Quốc gia hiện hành đến cách mấy, bản thân quyết định đó vẫn hợp lý mà một nhà lãnh đạo có thể làm được. Đã hai năm kể từ ngày Hiệp định Ba Lê được ký kết, tình hình cứ suy sụp đến mức báo động. Chỉ có thể phê bình Tổng thống là ở điểm tại sao ông đợi lâu đến như vậy mới đưa ra quyết định. Trong cuộc họp, ông không hề giải thích hay có hướng dẫn nào về những bước cần thiết khi ông quyết định như vậy. Dường như quyết định do thực tế bên ngoài đưa tới.”
Cũng theo lời Đại tướng Viên, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, ngày 13 tháng 3/1975, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã chủ tọa một cuộc họp tại Dinh Độc Lập để duyệt xét kế hoạch tái phối trí lực lượng tại Quân khu 1. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1 & Quân khu 1, được gọi về Sài Gòn để tham dự cuộc họp này.Trong buổi họp, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phân tích tình hình chung của đất nước, nêu ra những khó khăn mà chính phủ đang gặp phải khi thiếu nguồn quân viện. Tổng thống không hy vọng Không quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp trong trường hợp Việt Nam Cộng Hòa bị tổng tấn công. Tổng thống nhấn mệnh rằng trước tình hình như vậy thì chỉ còn một cách duy nhất là thay đổi chiến lược để giữ vững những nơi hiểm yếu có nhiều tài nguyên quốc gia. Tại Quân khu 1, khu vực trù phú cần phải giữ là Đà Nẵng. Chi tiết mà Đại tướng Viên nêu ra khác với lời kể của Trung tướng Trưởng với báo chí (sau 1975) như sau: trong cuộc họp ngày 13/3/1975, Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng rút toàn bộ Quân đoàn 1 khỏi Quân khu 1 và rút về Phú Yên, VNCH thu gọn từ Phú Yên đến Hà Tiên.
Đại tướng Viên cho biết: sau khi nhận chỉ thị của Tổng thống,Trung tướng Trưởng trở về Đà Nẵng ngay trong ngày. Suốt trong 6 ngày tiếp theo, dù tình hình Quân khu 1 trở nên rất đáng ngại, thế nhưng Trung tướng Trưởng vẫn muốn giữ Huế và một số vị trí trọng yếu tại Quân khu 1. Sau khi suy nghĩ và phân tích tình hình, Tướng Trưởng đã gọi điện thoại theo đường dây đặc biệt trình bày ý kiến với Đại tướngViên nhờ xin với Tổng thống cho ông được tận dụng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Cuối cùng Tổng Thống chấp thuận. Được sự đồng ý của Tổng thống, Trung tướng Trưởng bay ra Huế họp với Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn, về kế hoạch phòng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh phải giữ Huế thật vững. Thế nhưng chiều hôm đó, khi trở lại Đà Nẵng, Tướng Trưởng nhận được mật lệnh do Đại tướng Viên ký thừa lệnh Tổng thống là phải bỏ Huế.
NGÀY 23-3-1975: Quốc Lộ 1 Đoạn Huế-Đà Nẵng Bị Cắt Đứt
Vương Hồng Anh

* Cộng quân cắt đứt Quốc lộ 1, đoạn đường từ Huế đi Đà Nẵng.

Ngày 23 tháng 3/1975, tình hình tại chiến trường Thừa Thiên trở nên nghiêm trọng sau những trận tấn công của Cộng quân trong 2 ngày 21 và 22 trên Quốc lộ 1, đoạn đường Huế-Đà Nẵng đi ngang địa phận Quận Phú Lộc, quận ở cực Nam Thừa Thiên, gồm những xã có địahình dọc theo Quốc lộ 1. Kịch chiến đã diễn ra giữa Cộng quân và Trung đoàn 1/Sư đoàn 1 Bộ binh được tăng cường Liên đoàn 15 Biệt động quân. Khi trận chiến vừa xảy ra, lực lượng Bộ binh và Biệt động quân nỗ lực giải tỏa áp lực của địch quân. Với sự yểm trợ tối đa của Pháo binh và Không quân VNCH, các đơn vị Cộng quân bị đẩy lùi ra khỏi một số vị trí trong một thời gian ngắn, sau đó Cộng quân lại tăng cường lực lượng và tổ chức các đợt tấn công cường tập vào vị trí của Trung đoàn 1 Bộ binh và Liên đoàn 15 Biệt động quân.. Đến 2 giờ chiều, Liên đoàn 15 Biệt động quân và Trung đoàn 1 Bộ binh đã phải rút lui để bảo toàn lực lượng.
Ngày 23 tháng 3/1975, Sư đoàn 1 Bộ binh điều động lực lượng phản công nhưng Cộng quân đã lập các chốt chận tại Đá Bạc, và bám giữ các vị trí trọng yếu trên Quốc lộ 1, để cắt đứt trục lộ vận chuyển của các đơn vị VNCH từ Huế vào Đà Nẵng.
Cũng trong ngày 23 tháng 3/1975, CQ đã pháo kích vào một số vị trí trong thành phố Huế và vòng đai phụ cận. Các đợt pháo kích tiếp diễn suốt ngày nhưng không có hiệu quả, các quả pháo không rơi trúng vào các vị trí quân sự. Tuy nhiên, tinh thần dân chúng càng hốt hoảng hơn và thành phố Huế bắt đầu hỗn loạn.
* Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng duyệt xét tình hình Huế
Trong ngày 23/3/1975, theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, trước tình hình chiến sự diễn biến bất ngờ, và Quốc lộ 1 không thể khai thông được, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 cho lệnh rút lực lượng VNCH tại chiến trường Thừa Thiên về lập phòng tuyến tạm thời tại Huế. Cũng trong ngày này, tàu Hải quân được tăng cường để đón dân tị nạn cùng thân nhân gia đình binh sĩ vào Đà Nẵng.
Chiều 23 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quânđoàn 1, gọi Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, vào Đà Nẳng để duyệt xét lại tình hình phòng thủ Huế. Tướng Điềm đã báo cho Trung tướng Trưởng biết là Sư đoàn 1 Bộ binh đang đối đầu với 3 sư đoàn chủ lực và 1 sư đoàn pháo của Cộng quân.
*Từ phòng tuyến Thạch Hãn đến phòng tuyến Huế.
Như đã trình bày, suốt đêm 19 và rạng sáng ngày 20 tháng 3/1975, tất cả lực lượng phòng thủ dọc theo bờ nam sông Thạch Hãn (tỉnh Quảng Trị) kể cả Liên đoàn Địa phương quân, 1 tiểu đoàn Biệt độn quân và vài chi đoàn Thiết giáp đã rút về phòng ngự phía Nam sông Mỹ Chánh. Về phòng tuyến Thạch Hãn, trong hơn hai năm, kể từ khi có Hiệp định ngưng bắn Paris ký ngày 27/1/1973, sông Thạch Hãn được xem như là “ranh giới” của lực lượng quân sự hai bên. Tại đây, có trạm hoạt động của Ủy hội Quốc tế và là nơi được chọn để trao đổi tù binh.
Trước khi Cộng quân tấn công phòng tuyến Thạch Hãn, vào 6 giờ chiều ngày 19/3/1975, Trung tướng Trưởng từ Sài Gòn trở lại Đà Nẵng sau cuộc họp tại Dinh Độc Lập. Khi phi cơ chở ông vừa hạ cánh, thì ông nhận được báo cáo khẩn cấp của Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, gọi từ Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 ở Huế vào. Trung tướng Thi báo rằng đại bác 130 ly của địch đang pháo kích vào bản doanh của ông và CQ đang tung đợt tấn công quy mô lớn bằng xe tăng để tìm cách vượt qua vòng đai phòng thủ của lực lượng VNCH tại sông Thạch Hãn. Nhận được khẩn báo của Trung tướng Thi, Trung tướng Trưởng liền báo cáo cho Đại tướng Viên và yêu cầu cho Quân đoàn 1 được giữ lại Lữ đoàn 1 Dù, đang có mặt tại Đà Nẵng chuẩn bị về Sài Gòn. Đại tướng Viên báo lại cho Tổng thống Thiệu. Là Tổng tư lệnh tối cao của Quân lực VNCH, Tổng thống Thiệu chấp thuận yêu cầu này với điều kiện: Lữ đoàn Dù được ở lại nhưng Quân đoàn 1 không được sử dụng để tung vào chiến trận. Theo phân tích của Đại tướng Viên, thì khi quyết định cho Lữ đoàn 1 Nhảy Dù ở lại Đà Nẵng, Tổng thống Thiệu muốn tạo niềm tin cho dân chúng và giữ vững tinh thần chiến đấu của các đơn vị khác.(Trong phiên họp tại Dinh Độc Lập vào ngày 13/3/1975, Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Trung tướng Trưởng phải bỏ Huế. Trước đó vào ngày 12/3/1975, theo kế hoạch mới của Trung tướng Trưởng, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đang hoạt động tại phía Đông Quảng Trị sẽ thay Sư đoànNhảy Dù làm lực lượng phản ứng cấp thời tại Vùng 1. Liên đoàn 14 Biệt động quân được điều động ra Quảng Trị chuẩn bị thay dần Thủy quân Lục chiến).
Sáng ngày 20 tháng 3/1975, Trung tướng Trưởng bay ra Bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến cách Mỹ Chánh, thị trấn ở phía Nam tỉnh Quảng Trị, khoảng 8 km. Tại đây Trung tướng Trưởng đã gặp các chỉ huy của các đơn vị trong khu vực, cùng họ duyệt lại tình hình và bàn kế hoạch phòng thủ Hue, theo quân lệnh mới nhất của Tổng thống Thiệu là phải phòng thủ Huế với bất cứ giá nào, khác với chỉ thị trước đó một ngày là phải bỏ Huế.
Trước ngày 21//3/1975, tình hình tại khu vực phía Nam sông Mỹ Chánh và khu vực phụ cận Huế chưa đến nổi quá xấu. Các đơn vị chủ lực quân và diện địa vẫn còn nguyên vẹn, kỷ luật nghiêm minh và tinh thần chiến đấu cao. Việc mất Quảng Trị tuy có ảnh hưởng phần nào nhưng không làm cho tinh thần quân sĩ nao núng. Dù sao thì dân chúng đã bỏ đi trước đó do đó không gây trở ngại cho các đơn vị khi giao tranh với Cộng quân. Hơn nữa với 1 Lữ đoàn Thủy quân lục ứng chiến tại phía Nam sông Mỹ Chánh và 2 Lữ đoàn Thủy quân lục chiến đang là lực lượng tổng trừ bị tại Đà Nẵng thì Quân khu 1 vẫn có các lực lượng nòng cốt để tăng viện khi chiến trường sôi động. Sau buổi họp, các cấp chỉ huy đều bày tỏ sự quyết tâm giữ vững Huế.
Trên đường trở về Đà Nẵng, Tướng Trưởng đã ghé vào bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn 1 tại Mang Cá, Huế. Sau đó, ông cùng Tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, đi một vòng thanh tra các hệ thống phòng thủ trong thành phố Huế. Tinh thần tướng Trưởng lúc đó rất phấn chấn vì sự bố phòng bảo vệ Huế rất vững vàng. Đến 1 giờ 30 trưa, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn và được đài Huế tiếp vận. Ông hứa với dân chúng, đặc biệt với dân chúng trong thành phố Huế, rằng quân đội VNCH sẽ bảo vệ Huế bằng mọi giá. Sự việc Tổng thống Thiệu lên tiếng trên đài phát thanh là điều mà theo Tướng Trưởng nghĩ, tuy muộn màng, nhưng cũng rất cần thiết.
Đặt chân xuống Đà Nẵng vào chiều tối, Trung tướng Ngô Quang Trưởng nhận được một công điện ghi “Mật”. Đây là lệnh của Tổng thống VNCH do Bộ Tổng Tham Mưu chuyển đến. Theo phân tích của Đại tướng Cao Văn Viên, thì ngược với những gì đã tuyên bố trên Đài phát thanh, nay Tổng thống cho vị Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 được “tự do hành động”. Vì không thể nào phòng thủ nổi ba căn cứ Huế, Đà Nẵng, Chu Lai cùng một lúc, nên Tổng thống khuyên Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 tuỳ nghi ứng phó và làm sao chỉ giữ một mình Đà Nẵng mà thôi.
NGÀY 25-3-1975: Lực Lượng Quân Khu 1 Rút Khỏi Huế
Vương Hồng Anh
* Diễn tiến về kế hoạch rút quân khỏi Huế ngày 25 tháng 3/1975.
Theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, vào ngày 25 tháng 3/1975, tất cả các lực lượng của Quân đoàn 1/Quân khu 1 đều tập trung tại ba địa điểm: Đà Nẵng (gồm cả Hội An), phiá Bắc thành phố Huế và phiá Nam Chu Lai. Nhận định về cuộc rút quân của Quân đoàn 1/Quân khu 1, Đại tướng Viên ghi nhận rằng “hành trình cuộc rút về ba địa điểm này vô cùng gian khổ và đắt giá. Phần lớn binh sĩ đều rã rời. Đã bao lâu nay, họ chiến đấu hết trận này đến trận khác, hết năm này đến năm khác, nhưng chưa bao giờ họ cảm thấy nản lòng bằng giờ phút ấy. Hy vọng có bàn tay nào đó giúp đỡ để họ đánh chiếm lại những vùng đất bị lọt vào tay địch, để đủ sức đương cự với kẻ thù nay đã tan biến như chuyện đời xưa.”
Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, trong giờ phút nản lòng đó, thì một bức điện khác cũng của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu gửi đi cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 , trong đó, Tổng thống chỉ thị lực lượng tại 3 nơi tập trung này phải rút về Đà Nẵng để tổ chức phòng thủ bảo vệ thành phố trọng yếu này. Nhận được chỉ thị của Tổng thống, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 ra lệnh cho Sư đoàn 1 Bộ binh và các đơn vị khác tại Huế phải rút về Đà Nẵng. Cùng lúc, Trung tướng Trưởng cho Sư đoàn 22 Bộ binh cùng với lực lượng Tiểu khu Quảng Ngãi, rút về đảo Ré, nằm ngoài khơi cách Chu Lai chừng 20 dặm.
Tại Huế, các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh phòng ngự ở phía Bắc và khu vực cận sơn ở phía Đông thành phố Huế đã được lệnh rời bỏ phòng tuyến và chuyển quân về gần Huế để cùng với Bộ Tư lệnh và các đơn vị yểm trợ rút quânkhỏi chiến trường Trị Thiên. Trong khi đó, các tiểu đoàn Bộ binhvà Biệt động quân đang án ngữ phòng tuyến dọc trên Quốc lộ 1 được lệnh di chuyển về bờ biển và tập trung tại các điểm hẹn để tàu Hải quân vào đón.
Theo kế hoạch tổng quát, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 doTrung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này. Về phương tiện vận chuyển, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải do Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm tư lệnh có nhiệm vụ cung cấp tối đa tàu để chở tất cả các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân và lực lượng quân sự của hai tiểu khuThừa Thiên và Quảng Trị vào Đà Nẵng. Bộ chỉ huy Quân vận Quân khu1 sẽ sử dụng LCU để đưa các đơn vị từ bờ ra tàu, Công binh sẽ lập những cầu phao tại các cửa sông để đoàn quân đi qua.
* Những biến cố xảy ra trong hành trình rút quân.
Theo ghi nhận của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục chiến, do lệnh rút quân quá nhanh, các đơn vị không có thời gian chuẩnbị nên kế hoạch rút quân đã không thể thực hiện đúng theo thờibiểu. Cũng theo lời Thiếu tướng Lân, khi Trung tướng Trưởng quyết định cho rút quân khỏi Thừa Thiên và thành phố Huế thì Thủy quân Lục chiến có Lữ đoàn 369 đang hoạt động tại chiến trường này. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 đóng tại căn cứ Tân Mỹ ở cửa Thuận An, 2 tiểu đoàn đang phòng thủ tại phòng tuyến An Lỗ, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 17 km, tiểu đoàn thứ ba đang phòng thủ ở phía Bắc quận Hương Điền và ở phía Nam của sông Mỹ Chánh.
Trước tình hình đó, nhiều đơn vị đã tự tìm ra cách rút quân bằng phương tiện tự túc. Một đơn vị Thủy quân Lục chiến rút theo Quốc lộ 1 để vượt qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng đã bị Cộng quân phục kích chận đánh và bị tổn thất nặng. Một số đại đội Thủy quân Lục chiến và bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 do Đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng chỉ huy, từ Thuận An đi bộ dọc theo bờ biển để về hướng Đà Nẵng.Trên đường đi, đoàn quân đã được LCU và tàu Hải quân vào đón.Trong khi đang đứng trên bờ để điều động quân sĩ lội ra tàu ơ ûngoài biển, Đại tá Lương đã bị thương ở chân.
Một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến và một số đơn vị Bộ binh cũng rút theo đường biển nhưng khi đến phá Tam Giang ở cửa Tư Hiền thì gặp phải con sông chắn ngang quá rộng, trong khi phía bên kiasông đã bị Cộng quân chiếm giữ. Một số chiến binh quyết vượt qua sông nhưng đã bị tử thương do đạn Cộng quân bắn sang. Theo ước tính của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến, thì chỉ có một số nhỏ chiến binh Thủy Quân vào đến Đà Nẵng, số đông còn lại bị tử thương vì trúng đạn pháo kích hoặc bị kẹt lại ở Huế. Những người bị kẹt lại đã lập thành từng phân đội quyết tử với Cộng quân cho đến khi hết đạn.
Về cuộc chuyển quân bằng hải vận, Đại tướng Cao Văn Viên cho biết: trong ngày rút quân, biển động mạnh nên tàu Hãi quân đến trễ. Cầu phao tại cửa sông cũng chưa hoàn tất kịp để sử dụng. Đến trưa thì thủy triều lên cao, không làm sao qua được. Cũng vào thời gian đó, Cộng quân biết có cuộc chuyển quân nên bắt đầu tập trung hỏa lực pháo binh bắn dồn dập vào các vị trí ẩn quân tại cửa Tư Hiền cùng tại nhiều điểm hẹn để tàu đến đón. Bộ Tư lệnh Tiền phươngQuân đoàn 1 từ Mang Cá chuyển về đặt tại căn cứ Tân Mỹ cũng bị pháo kích nặng. Nhận định tổng quát về cuộc rút quân khỏi Huế, Đại tướng Cao Văn Viên ghi nhận rằng trong cuộc hành trình triệt thoái này, thì “kỷ luật không còn duy trì nổi. Do đó, chỉ có 1/3 số quân nhân về đến Đà Nẵng được. Nhưng khi về đến Đà Nẵng, thì họ tự động bỏ hàng ngũ đi tìm gia đình và thân nhân. Chỉ còn Thủy quân Lục chiến là giữ được trọn vẹn tình hình.”
Về đoàn quân của Sư đoàn 1 bộ binh, các tiểu đoàn của các Trung đoàn1,3, 51 và 54 Bộ binh và các đơn vị thống thuộc như Thiết giáp, Pháobinh, cũng lâm vào tình cảnh như Lữ đoàn 369 TQLC. Một số được tàu Hải quân chở, một số khác mở đường máu ven theo quốc lộ 1 và hoặc ven theo biển phần lớn đã hy sinh ngay trên đường rút quân
* Sư đoàn 1 Bộ Binh vĩnh biệt chiến trường Quảng Trị-Thưà Thiên.
Trở lại với tình hình Sư đoàn 1 Bộ binh, một trung tá trưởng phòng của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh (không muốn nêu tên) đã kể lại diễn tiến những giờ phút cuối tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh ở trong căn cứ Giạ Lê. Vị trung tá này nói ông không thể nào quên được buổi họp cuối cùng để nghe Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, phổ biến lệnh rút quân. Từ vị tư lệnh phó, tham mưu trưởng cho các sĩ quan trưởng phòng, trưởng ban tham mưu như chết lặng khi nghe Thiếu tướng Điềm nói: Sư đoàn 1 Bộ binh có lệnh phải rút khỏi Huế. Và chỉ gần một giờ sau, cảnh tượng đó cũng đã diễn ra tại các bộ chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, Thiếtđoàn Kỵ binh và các tiểu đoàn yểm trợ.
Là một đại đơn vị đầu lòng của Quân lực VNCH, thành lập ngày 1 tháng 1/1955 trên sự qui hợp 3 Liên đoàn chiến thuật lưu động, Sư đoàn 1 Bộ Binh với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn 1 Dã chiến rồi đổithành Sư đoàn 1 Bộ binh từ 1959, trong hơn 20 năm từ ngày thành lập cho đến ngày được lệnh rút quân khỏi chiến trường Trị Thiên,Sư đoàn 1 Bộ binh là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân thuộc Sư đoàn được mang giây biểu chương Bảo Quốc Huân Chương màu tam hợp. Suốt 20 năm trấn giữ tuyến đầu của Việt Nam Cộng Hòa, Sư đoàn 1 Bộ Binh là hình ảnh của sự bảo bọc, gìn giữ Huế trong suốt những năm dài lửa đạn.
NGÀY 26-3-1975: Mỹ Cử Đặc Sứ Đến SG Quan Sát Tình Hình
Vương Hồng Anh
*Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân, Đặc sứ của Chính phủ Mỹ, đến Sài Gòn họp bàn tình hình chiến sự
Ngày 26 tháng 3/1975, sau khi lực lượng VNCH triệt thoái khỏi Kontum, Pleiku, Phú Bổn (Quân khu 2), các sư đoàn chủ lực của CSBV gây áp lực nặng quanh vòng đai Đà Nẵng, các quận phía Tây tỉnh Quảng Nam, và các tỉnh duyên hải của Quân khu 2 (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa). Cũng trong ngày này, chính phủ Hoa Kỳ đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).
Trước khi Đại tướng Weyand đến Việt Nam, vào cuối tháng 2/1975, ông Eric Von Marbod, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, đã đến Việt Nam. Lúc đó, CSBV chưa khởi động cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột. Trong thời gian viếng thăm VN, ông Marbod đã gặp và trao đổi ý kiến với Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, về tình hình chiến sự. Trong cuộc tiếp xúc với vị Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Đại tướng Cao Văn Viên đã yêu cầu Bộ Quốc phòng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không quân Việt Nam có thể sử dụng được. Đó là loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn bãi đáp trong các khu vực rừng già. Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Đại tướng Weyand.
* Các cuộc tiếp xúc giữa Đại tướng Weyand và Đại tướng Viên.
Trong thời gian Đại tướng Weyand thăm Việt Nam, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH đã không có buổi thuyết trình chính thức nào dành cho Đaị tướng Weyand, nhưng giữa Đại tướng Weyand và Đại tướng Viên đã có những cuộc tiếp xúc bàn luận về tình hình và trao đổi ý kiến về tình hình chiến cuộc. Trong các lần tiếp xúc, Đại tướng Cao Văn Viên đã cho Đại tướng Weyand biết những khó khăn mà Quân lực VNCH đang gặp phải và chỉ yêu cầu một điều duy nhất: Xin Không quân Hoa Kỳ sử dụng B-52 để đánh vào những nơi tập trung quân và các căn cứ lộ thiên mà Cộng quân vừa thiết lập. Tướng Viên nói rằng nếu có được B-52 thì sự tự tin và tinh thần chiến đấu của quân sĩ sẽ được phục hồi nhanh chóng.
Trước yêu cầu của Đaị tướng Cao Văn Viên, tướng Weyand giải thích cho vị Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH biết là “bất cứ hình thức can thiệp mới nào của Mỹ tại Việt Mam cũng đều phải được sự chấp thuận của Quốc hội Hoa Kỳ”, do đó yêu cầu của Đại tướng Cao Văn Viên rất ít hy vọng được chấp thuận.
* Cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Weyand
Phái đoàn của Đại tướng Weyand sau đó cùng với Đại sứ Hoa Kỳ đến thăm chính thức Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập. Trong khi trao đổi ý kiến với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, phái đoàn Hoa Kỳ đưa ra các điểm chính sau đây:
-Chính phủ VNCH nên giải thích cho dân chúng biết tình hình để người dân không còn lo sợ bởi những tin đồn thất thiệt do địch cố tình tung ra. Các nhà lãnh đạo VNCH nên xuất hiện nhiều hơn trên truyền hình cho dân chúng biết mặt.
-Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH cần được trao thêm nhiều quyền hạn hơn trước.
-Quân lực VNCH nên tìm một chiến thắng, dù thật nhỏ, để tạo điều kiện cho Chính phủ Hoa Kỳ xin Quốc hội duyệt thêm 300 triệu đô quân viện bổ sung. Theo nhận xét của Đại tướng Weyand, Sư đoàn 5 CSBV tại vùng Mũi Két là một mục tiêu tốt để Quân lực VNCH tạo một chiến thắng “thật ngoạn mục”.
-Vấn đề di tản dân tị nạn nên được giải quyết sớm. Nhất là phải chú tâm đến các thân nhân gia đình binh sĩ. Thành phần này cần sớm được đưa ra khỏi vùng nào có nguy cơ sẽ xảy ra chiến trận.
Tất cả những vấn đề liên quan chính phủ và dân chúng đều được thảo luận giữa Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn Hoa Kỳ. Theo lời kể của Đaị tướng Cao Văn Viên, vấn đề cho Bộ Tổng tham mưu có thêm quyền hạn không được bàn đến nữa vì đây là một vấn đề rất tế nhị và chỉ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mới làm được điều đó nếu ông muốn.
Về đề nghị Quân lực VNCH phải tạo một chiến thắng, Đại tướng Cao Văn Viên hoàn toàn đồng ý nhưng ông nhận định rằng muốn làm cũng không làm được vì Bộ Tổng Tham mưu không còn lực lượng nào trong tay để tiêu diệt sư đoàn 5 CSBV, trong tình hình này, phải chờ một cơ hội thuận tiện mới có thể làm được.
Trong cuộc họp, Đaị tướng Cao Văn Viên nhắc lại yêu cầu của ông là xin Không quân Hoa Kỳ sử dụng B-52 oanh tạc các nơi địch tập trung quân. Theo Đại tướng Viên, chỉ bằng cách đó mới có hiệu quả, mới làm cho tinh thần quân dân Việt Nam lên cao được. Tướng Viên cũng đã trình bày cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn Hoa Kỳ những nỗ lực của bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH trong hoàn cảnh không được sự yểm trợ hỏa lực của B-52. Suốt trong vài tháng cuối của cuộc chiến, Bộ Tổng Tham mưu QL.VNCH đã chỉ thị cho Không quân dùng phi cơ C-130 vận tải để thi hành nhiệm vụ yểm trợ chiến thuật, tăng cường hỏa lực.
Khi được sử dụng để thi hành nhiệm vụ chiến thuật, mỗi C-130 mang theo tám bánh thùng dùng đựng JP-4 chứa đầy dầu phế thải. Phi cơ bay trên độ cao từ 15 đến 20 ngàn feet. Mỗi lần phi cơ bay qua và bom nổ, binh sĩ dưới đất lấy làm vui mừng. Được hướng dẫn bằng vô tuyến từ dưới đất nên rất chính xác, mỗi đợt thả chỉ cách nhau 150 đến 450 mét.
Mỗi C-130 có thể chở đến 8 bành bom loại thùng GP 81-82 (tương đương với 250-500 cân anh) hay ba bành loại GP-117 (tương đương với 750 cân Anh. Binh sĩ đặt tên cho các phi vụ này là “tiểu B-52″ hay B-52 Việt Nam. Lần đầu tiên khi loại bom này được thả tại Tây Ninh, dân chúng tưởng đó là B-52 của Mỹ thả. Vậy là tin đồn Không quân Mỹ can thiệp yểm trợ Quân lực VNCH đã được loan đi thật nhanh.
Về việc di tản thân nhân gia đình binh sĩ rời những nơi có chiến trận, Đại tướng Viên cho rằng việc làm này thường có tác dụng ngược. Tướng Viên nêu ra nhận xét: nếu không có thân nhân tại đó, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sẽ giảm sút. Vị Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH nhắc đến một số kinh nghiệm trong quá khứ, nhất là kinh nghiệm của trận Mậu Thân 1968 và tại các tiền đồn xa xôi, vợ con binh sĩ là những người giúp tải đạn, tải thương và thậm chí sử dụng cả đại liên rất hữu hiệu.
Những đề nghị của Đại tướng Viên được phái đoàn Hoa Kỳ ghi nhận, và khi Đại tướng Weyand rời Việt Nam thì Cộng quân đang bao vây phòng tuyến Phan Rang và tấn công vào mặt trận Long Khánh. Trong tình hình chiến sự sôi động, nhiều giới chức của VNCH hy vọng ở sự can thiệp của Không quân Hoa Kỳ để chận đứng cuộc tấn công lớn của Cộng quân, dù biết rằng đó là một hy vọng vô cùng mong manh.
Xem tiếp : Phần 2
Phần 3 

https://ongvove.wordpress.com/2010/04/29/nh%E1%BB%AFng-ngay-cu%E1%BB%91i-vnch-1/

Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=149125

Hiệp định Paris 1973 và biến cố 30/4/1975 PDF Print E-mail
Tác Giả: Lê Quế Lâm   
Thứ Hai, 02 Tháng 5 Năm 2011 04:39
   Chiến tranh VN đã được giải quyết bằng một hiệp định hòa bình sau gần 5 năm thảo luận cam go giữa Hoa Kỳ và ba bên VN.
Hiệp định đáp ứng trọn vẹn nguyện ước của toàn dân: đất nước hòa bình độc lập, thống nhất, dân chủ và tự do. Nhân dân VN thực hiện việc hòa hợp và hoà giải dân tộc để hoàn thành những mục tiêu trên với sự đóng góp của HK giúp VN hàn gắn vết thương chiến tranh. Việt Nam không còn là địa bàn xung đột giữa các cường quốc, sẽ mang lại hòa bình, ổn định và phồn vinh cho các nước ở Đông Nam Á. Các cường lực cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn của đất nước VN. HĐ Paris 1973 đã được một hội nghị quốc tế bao gồm đầy đủ các thành viên thường trực Hội đồng Bảo An, ký bản Định ước ngày 28/2/1973 trước sự chứng kiến của ông TTK/LHQ Kurt Vanheim, trịnh trọng ghi nhận và “tuyên bố tán thành và ủng hộ hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
    Nhưng cuối cùng, chiến tranh lại kết thúc đau thương vào ngày 30/4/1975. Trong 36 năm qua, đồng bào chịu biết bao thảm nạn. Ngày nay nhiều phần đất, biển, hải đảo của tiền nhân để lại đã rơi vào tay Trung Quốc, nhân dân vẫn chưa được hưởng những quyền dân chủ tự do căn bản như đồng loại trên thế giới. Tại sao có nghịch lý đó, nhân mùa Quốc hận 30/4 năm nay, anh Chủ nhiệm Báo Việt Luận đặt ra câu hỏi: Cho đến ngày nay một số lớn người Việt vẫn cho rằng Hiệp định Paris 1973 là bản
văn bức tử VNCH. Thật sự có đúng như thế không?
   Với tư cách một quân nhân QLVNCH được phân công làm công tác khai thác tài liệu để nghiên cứu cuộc chiến VN. Cố nhiên là tài liệu chính thức được ghi vào chính sử của các chính phủ liên hệ. Tôi xin trình bày sơ lược cuộc chiến VN , dẫn đến HĐ Paris 1973 và biến cố 30/4/1975.
   Trong hậu bán thế kỷ vừa qua, có hai trận chiến đẩm máu xảy ra tại Triều Tiên (Hàn Quốc) và Việt Nam. Sau Thế chiến II, Hoa Kỳ và Liên Xô đã thỏa thuận chia hai ảnh hưởng ở Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 38 làm phân ranh. Đầu tháng 10/1949, Mao Trạch Đông chiến thắng ở Hoa Lục, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Để bành trướng ảnh hưởng, ngày 25/6/1950 Mao ủng hộ lãnh tụ Bắc Triều Tiên là Kim Nhật Thành xua quân vượt vĩ tuyến 38 để thôn tính Nam Triều Tiên. TT Hoa Kỳ Harry Truman chỉ thị Bộ Ngoại giao khẩn cấp đưa vấn đề Bắc Hàn (Bắc TT) xâm lăng ra Hội đồng Bảo An LHQ. Hội đồng Bảo An thông qua nghị quyết kêu gọi các quốc gia hội viên LHQ đến cứu nguy Nam Hàn (Nam TT). Ngày 30/6/1950, hưởng ứng lời kêu gọi của LHQ, bốn Sư đoàn HK thuộc Quân đoàn 8 trú đóng ở Nhật Bản do Đại tướng MacArthur chỉ huy đã mở đầu cầu ở Pusan đổ bộ vào Nam Hàn để giúp Chính phủ Lý Thừa Vãn chống xâm lăng. Tiếp theo HK là Lữ đoàn 27 bộ binh Hoàng gia Anh cùng 14 nước hội viên LHQ.
    Quân LHQ đẩy lùi quân xâm lược về bắc vĩ tuyến 38, trong khi đó Đại hội đồng LHQ thông qua nghị quyết trù liệu kế hoạch thống nhất Triều Tiên trong độc lập dân chủ, nhưng bất thành. MacArthur hạ lịnh vượt vĩ tuyến 38 để chấm dứt cuộc chiến, bị Chí nguyện quân TC can thiệp, đẩy lùi quân LHQ về vĩ tuyến 38. Đến đầu năm 1951, Hán Thành -thủ đô Nam Hàn lọt vào tay Cộng quân. Ủy ban hưu chiến LHQ đề nghị kế hoạch hòa bình 5 điểm cho vùng Viễn Đông, nhưng bị TC bác bỏ. HK đưa ra dự thảo nghị quyết lên án TC là thủ phạm xâm lăng Nam Hàn. Nghị quyết được Đại hội đồng LHQ thông qua và yêu cầu các nước thành viên phong tỏa cấm vận TC. Giữa tháng 5/1951 quân LHQ tái chiếm Hán Thành, tướng MacArthur đề nghị một cuộc đàm phán tại mặt trận để chấm dứt cuộc đổ máu, nhưng bị Bắc Kinh khước từ. Tướng MacArthur đề nghị TT Truman trừng phạt kẻ gây chiến bằng cách dùng bom nguyên tử chiến thuật tiêu diệt tiềm lực chiến tranh của TC ở Mãn Châu, tạo cơ hội giúp quân Tưởng Giới Thạch đổ bộ tái chiếm lục địa. Theo MacArthur “đây là cơ hội vô cùng thuận lợi cho Thế giới tự do để trừ mối hoàng họa cho toàn thể nhân loại”.
    Quan điểm thuần túy quân sự của MacArthur trái ngược với chính sách của chính phủ HK ở Viễn Đông. HK chỉ muốn tái lập nguyên trạng những gì đã được quốc tế thỏa thuận hồi năm 1945. Sự can thiệp của họ chỉ nhằm ngăn chận không cho chủ nghĩa CS bành trướng thêm nữa. HK không muốn mở rộng chiến tranh với TC. Và cũng không muốn vi phạm vùng ảnh hưởng của LX vì Stalin đã đứng ngoài cuộc xung đột, không bỏ phiếu ở HĐBA. Nhằm chận đứng hành động liều lĩnh của MarArthur vuợt vĩ tuyến 38 phản công Cộng quân một lần nữa, TT Truman cách chức tướng MarArthur. Ngày 27/7/1953 Hiệp định chấm dứt chiến sự được ký tại Bàn Môn Điếm và Triều Tiên tiếp tục bị chia cắt tại VT 38 đã được đồng minh quyết định hồi năm 1945. Tự nhận trọng trách lãnh đạo Thế giới Tự do, HK sẳn sàng hy sinh “xương máu và sức lực vì những nguyên tắc đã sản sinh ra quốc gia của họ: dân chủ và tự do”. HK duy trì tinh đồng minh với LX, đã hợp tác với họ chống Phát xít trong Thế chiến II. HK cũng không muốn khiêu chiến với Trung Cộng một nước đông dân nhất thế giới.
   Tại VN, cuộc chiến Quốc Cộng lần 1 (1946-1954) được giải quyết tại Hội nghị Genève 1954: VN tạm thời bị chia đôi ở vĩ tuyến 17. Một cuộc tổng tuyển cử dự trù diễn ra vào năm 1956 để thống nhất VN “với những điều kiện cần thiết bảo đảm cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý muốn của mình”…Nhưng vì các biến động trong nước (cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu ở miền Bắc và việc ổn định tình hình miền Nam của thủ tướng Ngô Đình Diệm) cùng thái độ hòa hoãn của các cường quốc, nên từ tháng 4/1956 hai đồng chủ tịch hội nghị Genève 1954 là Liên Xô và Anh Quốc đều nhận định: “cuộc tổng tuyển cử thực sự không quan trọng bằng việc duy trì hòa bình”.
  Trong tình thế đó, giới lãnh đạo CS miền Bắc liền phát động cuộc chiến giải phóng miền Nam. Đại hội III của CSVN đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam để thống nhất nước nhà. Hai nhiệm vụ trên theo Hànội là “để thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa thế giới” (1). Để thực hiện chủ trương này Bắc Việt thành lập MTGPMN. Mặt trận đưa ra chương trình hành động 10 điểm mà nội dung chính là đánh đổ chánh quyền NĐD mà họ gọi là “chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ”.

   Biện pháp ngăn chận xâm lược và tái lập hòa bình ở VN, theo quan điểm của chính quyền Kennedy là biện pháp đã được áp dụng ở Triều Tiên”, nghĩa là quân đội HK phải trực tiếp can thiệp. Nhưng HK không thể đưa quân vào miền Nam VN theo kiểu Triều Tiên vì CSBV chưa công khai xâm lược, họ chỉ lén lút xâm nhập người và vũ khí vào MN, vả lại TT Diệm cũng không muốn đất nước ông trở thành sân khấu trình diễn sức mạnh của HK.
   Từ đầu năm 1964, TT Johnson nhờ Blair Seaborn -đại sứ Gia nã Đại trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến Đông Dương chuyển đến TT Phạm Văn Đồng nhiều thông điệp kêu gọi Hànội đình chỉ cuộc chiến ở MNVN. Johnson xác nhận HK không có ý định lật đổ chánh quyền miền Bắc, không muốn duy trì các căn cứ quân sự tại miền Nam VN. HK chỉ yêu cầu BV giữ đúng những cam kết mà họ đã ký với Pháp năm 1954 ở Genève và thỏa ước 1962 về Lào: không đưa quân ra khỏi lãnh thổ miền Bắc và đình chỉ gởi chiến cụ vào miền Nam. HK hứa sẽ rút quân, đặt quan hệ ngoại giao và viện trợ giúp chính phủ Hànội phát triển kinh tế, đồng thời HK sẽ thuyết phục chính phủ Sàigòn đàm phán trao đổi thương mại với miền Bắc…(2) Để trả lời, Hànội đưa ra những đòi hỏi của họ là: HK phải rút toàn bộ lực lượng ra khỏi MN, một chế độ trung lập sẽ được thiết lập tại đây như cương lĩnh của MTGPMN và Mặt trận này sẽ đóng vai trò lãnh đạo trong việc quyết định tương lai MNVN.
   Sáng sớm mùng 7/2/1965, Cộng quân mở cuộc pháo kích dữ dội vào căn cứ trực thăng và trại Cố vấn Mỹ gần phi trường Pleiku làm 8 binh sĩ chết và 108 bị thương. Lúc bấy giờ TT Liên Xô Kosygin viếng thăm Hànội, còn McGeorge Bundy -Cố vấn An ninh Quốc gia của TT Johnson đang có mặt tại Sàigòn. Bundy yêu cầu Johnson có những biện pháp trả đũa tức khắc, ông coi đây là lý do để mở đầu chiến dịch dội bom Bắc Việt. Johnson ra lịnh mở các trận oanh kích vào các trại huấn luyện Cộng quân ở Đồng Hới và Vĩnh Linh. Ba ngày sau, đặc công đặt chất nổ phá hoại cư xá Mỹ ở Qui nhơn làm 23 binh sĩ tử thương, các cuộc không tập Miền Bắc lại tái diễn.
  Ngày 27/2/1965, Bộ Ngoại giao HK công bố Bạch thư tố cáo chính quyền cộng sản ở MB đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược MN. BV đã vi phạm thỏa hiệp Genève 1954 và 1962 mà họ đã ký kết. Nó còn phá vỡ hòa bình ở ĐNA và đe dọa nặng nề nền tự do và an ninh của MNVN. Nhân dân MNVN quyết tâm chống lại sự de dọa này và do yêu cầu của họ, HK sẽ đứng bên cạnh nhân dân MN trong cuộc chiến đấu bảo vệ sự sống còn của họ. HK khẳng định là Mỹ không mưu tìm lãnh thổ, thiết lập căn cứ quân sự hoặc giành địa vị ưu thế ở VN…Nhưng HK chấp nhận đương đầu với mọi hình thức xâm lược. Một khi hòa bình đã được tái lập, HK cam kết sẽ giảm ngay mọi sự can thiệp quân sự ở MNVN…Nhưng HK không bỏ rơi bạn bè trong cuộc chiến đấu bảo vệ tự do. (3)
  Ngày 7/4/1965, đúng một tháng sau khi HK đưa hai tiểu đoàn TQLC đổ bộ lên Đà Nẳng, TT Johnson tuyên bố tại Đại học Johns Hopkins: HK sẳn sàng thương lượng không điều kiện với các phe liên hệ dựa trên những hiệp ước cũ hoặc bổ túc bằng những hiệp ước mới. Mục tiêu của HK là nền độc lập của MNVN được bảo đảm để họ có thể quyết định mối liên hệ riêng của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Hôm sau, Hà Nội trả lời bằng “đề nghị 4 điểm”: -Yêu cầu Mỹ rút quân khỏi MNVN, -Đình chỉ chiến tranh với MB, -Công việc MN do nhân dân MNVN giải quyết theo cương lĩnh của MTGPMN (điểm 3), Việc thống nhất VN sẽ do nhân dân hai miền tự quyết định không có sự can thiệp từ bên ngoài. Ông PVĐ còn khẳng định: “Mọi giải pháp trái với lập trường trên đây đều không thích hợp. Giải pháp muốn dùng LHQ để can thiệp vào tình hình VN cũng đều không thích hợp (4)
  HK chấp nhận điểm ba điểm, chỉ còn điểm 3 nói về “công việc MN do nhân dân giải quyết” phải được thảo luận thêm tại bàn đàm phán giữa những thành phần chính trị ở đây, chớ MN không phải chỉ có một lực lượng duy nhất là MTGPMN…Nhưng Hà Nội bác bỏ, từ đó HK dùng hai gọng kèm, dội bom miền Bắc và tăng quân vào miền Nam để áp lực Bắc Việt ngồi vào bàn hội nghị. Cuối cùng, TT Johnson đã đưa BV đến bàn đàm phán Paris từ 13/5/1968. Để giúp ứng cử viên dân chủ là Phó TT Humphrey đắc cử, kế hoạch hòa bình ở VN phải được tiến hành trước ngày bầu cử 5/11/1968, vì thế ngày 31/10 TT Johnson tuyên bố “HK bắt đầu bước vào giai đoạn đàm phán thực sự”. Ông ra lệnh ngưng hoàn toàn việc ném bom MB và mở rộng cuộc thảo luận ở Paris, bao gồm đại diện chính phủ VNCH và đại diện MTGP, tuy nhiên sự tham dự của MTGP không có nghĩa là HK đã công nhận họ. Ngày hôm sau TT Thiệu tuyên bố sẽ không gởi phái đoàn sang Paris tham dự đàm phán. Đại sứ VNCH tại HK ông Bùi Diễm nhận xét: “Đây là là lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến, chính phủ của hai đồng minh đã công khai tuyên bố rằng họ không cùng quan điểm”.
  Kết quả cuộc bầu cử, Nixon thắng với số phiếu trội hơn Humphrey chưa tới 1%. Ngay sau khi có kết quả bầu cử, Thượng nghị sĩ Everett Dirken bất thần ghé tòa Đại sứ, gặp ông Diễm nói rằng: Tôi đến đây nhân danh cả hai vị tổng thống Johnson và Nixon, với lời nhắn tin: VN phải gởi ngay phái đoàn đến Paris trước khi việc đó trở nên quá trể. Vài phút sau, bình luận gia nổi tiếng của HK là Joseph Alsop gọi điện nói với ông Diễm: “Ông bạn ơi, tổng thống của ông bạn đang chơi một trò nguy hiểm. Tôi mới gặp Ông già hôm qua. Ông già đang điên cuồng vì giận”. Ông già đó là TT Johnson (5)
   Qua tình tiết trên cho thấy từ khởi đầu đàm phán chấm dứt chiến tranh đã có sự bất đồng lớn giữa lãnh đạo HK và VNCH. Không phải chỉ bất đồng mà còn là “ân oán giang hồ” trong giới chính trị chóp bu. Đảng Dân chủ lên án ông Thiệu đã phá hoại kế hoạch hòa bình của TT Johnson nên Humphrey thất cử. Từ đó họ chờ ngày phục hận.
   Sau ba năm ‘vừa đánh vừ đàm” từ 1969 đến 1972, TT Nixon quyết định kết thúc cuộc chiến trước khi ông mãn nhiệm kỳ vào ngày 19/Giêng 1973. Lợi dụng cuộc tấn công mùa Hè năm 1972, (BV đã vi phạm lời cam kết không tấn công ở MN, HK sẽ ngưng hoàn toàn việc dội bom MB) Nixon ra lịnh tái oanh tạc BV để áp lực Hà Nội đàm phán nghiêm chỉnh để kết thúc chiến tranh. Đồng thời Nixon đến Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để yêu cầu hai nước đàn anh CS thuyết phục Hà Nội. Cuối cùng HĐ Paris 1973 ra đời, không làm phương hại uy tín của LX và TC, trái lại còn mở ra giai đoạn hòa hoãn hợp tác giữa ba cường Mỹ Nga Tàu. Đối với nhân dân VN, cuộc chiến được kết thúc không có kẻ thắng người bại. Công việc nội bộ của MN sẽ do nhân dân MN tự quyết định không có sự can thiệp bên ngoài. MTGPMN và VNCH sẽ thành lập Hội đồng Quốc Gia Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc (HĐHGDT) để tổ chức cuộc tổng tuyên cử, để nhân dân MN quyết định thể chế tương lai MN.
   Về phần VNCH, như TT Nixon đã hứa, khi HĐ hòa bình ra đời, cơ cấu chính quyền từ trung ương đến địa phương vẫn còn nguyên vẹn. Tối cao Pháp viện, Giám sát viện, lưỡng viện Quốc hội vẫn đang hoạt động. QLVNCH và Lực lượng Cảnh sát Quốc gia vẫn còn đầy đủ trên 1 triệu người…Nhưng tại sao MN lại lọt vào tay CS? Có phải chính quyền Mỹ đã phủi tay bỏ rơi VNCH sau khi ký HĐ Paris 1973 hay không? TT Nixon có bàn bạc, thảo luận gì với TT Thiệu qua gần 30 lá thư gởi cho Thiệu?
   Ngày 17/12/1972, trước khi ra lệnh cho B52 oanh tạc Hà Nội, Hải Phòng để áp lực ông Lê Đức Thọ trở lại Paris để kết thúc chiến tranh, TT Nixon gởi cho TT Thiệu lá thư nói rõ: “Đã đến lúc chúng ta phải biểu dương một mặt trận đoàn kết trong lúc thương lượng với kẻ địch và Ngài phải quyết định ngay bây giờ là có còn muốn tiếp tục liên minh với chúng tôi nữa hay không, hay Ngài muốn tôi đi tìm một sự thỏa hiệp riêng rẽ với kẻ địch để chỉ phục vụ quyền lợi cho Hoa Kỳ mà thôi”. (6)
  Ngày 26/12/1972, 110 pháo đài bay B52 mở cuộc tấn công dữ dội nhất nhắm vào các mục tiêu quân sự ở Hà Nội và Hải Phòng. Ngay chiều hôm đó, BV đồng ý gặp lại phái đoàn HK vào ngày 8/1/1973 tại Paris. Ba ngày trước khi cuộc đàm phán Mỹ/BV tái tục, ngày 5/1/1973 TT Nixon lại gởi thư nhắc nhở TT Thiệu: “Hậu quả trầm trọng nhất sẽ xảy ra nếu như Chính phủ Ngài tự ý bác bỏ hiệp định và tách rời khỏi HK. Sự khước từ tiếp tay với chúng tôi của Ngài sẽ là một sự chuốc lấy thảm họa, nó sẽ phá hủy tất cả những gì mà chúng ta đã cùng nhau tranh đấu để đạt được trong mười năm qua. Vào lúc chúng tôi bước vào tuần thảo luận mới này, tôi hi vọng rằng hai quốc gia chúng ta sẽ biểu dương một mặt trận đoàn kết. Tôi nhắc lại những gì tôi thường viết cho Ngài: bảo đảm tốt nhất cho sự tồn tại của Miền Nam VN là sự đoàn kết của hai quốc gia chúng ta, sự đoàn kết sẽ bị nguy hại trầm trọng nếu Ngài cứ nhất định đi theo con đường hiện nay của Ngài…” (7)
   Theo điều 12 của HĐ Paris 1973, nhân dân MNVN được quyền quyết định tương lai chính trị của MN thông qua một cuộc tổng tuyển cử tự do và dân chủ có quốc tế giám sát. Hội đồng Quốc gia Hòa hợp và Hòa giải Dân tộc (HĐHGDT) -gồm ba thành phần VNCH, MTGPMN và Lực lượng Thứ ba- là cơ quan sẽ đứng ra tổ chức cuộc tổng tuyển cử. Do đó từ ngày 19/3/1973, hai phái đoàn VNCH và Cộng Hòa MNVN đã gặp nhay tại Paris để bàn vấn đề này. Chính phủ VNCH vẫn khăng khăng đòi Bắc Việt phải rút hết quân về Bắc và nhất định không liên hiệp với Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa MNVN. TT Thiệu chấp nhận cho MTGPMN tham gia vào đời sống chính trị bằng cách tổ chức cuộc tổng tuyển cử để người dân MN bầu tổng thống và HĐHGDT. Tổng thống và HĐHGDT sẽ quyết định thể chế mới cho MNVN. Chính phủ CMLT bác bỏ đề nghị đó, họ không chịu thảo luận những vấn đề nào không được ghi trong bản văn ký kết. Họ đề nghị hai bên chọn người tham gia HĐHGDT chớ không bầu. Sau đó HDHGDT đứng ra tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến và Quốc hội này sẽ soạn thảo Hiến pháp cho MNVN. (8) Đề nghị của MTGP bị VNCH bác bỏ. Thấy tình thế bế tắc, Nixon mời TT Thiệu sang HK hội đàm với ông ở San Clemente. Nixon cam kết sẽ viện trợ đầy đủ cho VNCH với điều kiện VNCH phải cùng Mỹ nghiêm chỉnh thi hành HĐ Paris 1973. Nếu BV vi phạm, HK có lý do để tái can thiệp...Nhưng Thiệu vẫn kiên trì với lập trường “bốn không”, tiếp tục chiến đấu chớ không hòa giải.
  Từ 21/5/1973, Kissinger và Lê Đức Thọ trở lại Paris để thảo thuận và ra một tuyên cáo chung xác định hai bên quyết tâm thi hành nghiêm HĐ Paris. Trong thời gian này, Nixon đã gởi gần chục lá thư thuyết phục Thiệu: “Như Ngài rõ, tôi đã công khai tuyên bố nhất quyết thi hành bản hiệp định Paris với tất cả uy tín và thiện chí của Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ sẽ không ai hiểu nổi vấn đề này nếu bây giờ sự thương thuyết bị thất bại vì những trở ngại ta có thể tránh được. Tôi xin lập lại rằng ước vọng duy nhất của chúng tôi là muốn thấy bản Hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh và thắt chặt tình liên đới với VNCH. Tôi không tin rằng Ngài muốn tôi phải ra trước dân chúng Hoa Kỳ dể giải thích sự bế tắc của cuộc thương thuyết hiện nay ở Paris. Điều này chắc chắn sẽ đưa tới sự cắt đứt ngân khoản cho Lào và Căm Bốt và cuối cùng là Miền Nam VN. Khi ở San Clemente, tôi đã nói rõ với Ngài về việc xin Quốc hội HK viện trợ đầy đủ khó khăn như thế nào. Tuy nhiên tôi cũng đã trình bày với Ngài rằng chúng tôi sẽ dồn mọi nổ lực không những xin đầy đủ viện trợ cho những nhu cầu hiện tại của VNCH, mà còn yểm trợ cho những kế hoạch kinh tế dài hạn Ngài vừa công bố! Nổ lực này đang tiến hành tốt đẹp và được đặt vào hàng ưu tiên đầu. Nhưng tôi thẳng thắn khuyến cáo Ngài rằng chỉ một mối bất đồng nhỏ nhoi của chúng ta trong tình thế này cũng đủ làm tiêu tan nổ lực trên. Tôi tin chắc rằng Ngài sẽ cân nhắc kỹ lưỡng điều trên khi đọc lá thư này” (9)
  Dù cố thuyết phục song Thiệu vẫn không nhượng bộ. Ngày 13/6/1973, Nixon gởi lá thư cuối cùng cho Thiệu với lời lẽ đắng cay: “Lá thư của Ngài đề ngày 12/6 là một đòn giáng mạnh vào tình bằng hữu, sự tương kính và quyền lợi chung của chúng ta. Căn cứ vào những hy sinh và rủi ro của HK phải gánh chịu vì Ngài, tôi không thể ngờ Ngài có thể trả lời một cách tiêu cực như vậy. Tôi chẳng cầu dấu diếm sự căng thẳng trong mối bang giao giữa chúng ta vì Ngài đã phủ nhận những cam kết của tôi trong việc ký kết bản tuyên cáo này. Nếu Ngài lựa chọn đường lối tiêu cực này thì chính Ngài đã vạch ra chính sách tương lai của HK đối với Việt Nam. Tôi sẽ bắt buộc phải chiều ý Quốc hội và công luận HK, chỉ yểm trợ vừa đủ những nhu cầu có tính cách nhân đạo cho nhân dân miền Nam và bỏ qua những quyết định và nhiệm vụ khó khăn để viện trợ kinh tế và quân sự cho VNCH như ta đã thảo luận ở San Clemente. Chẳng cần phải nói dài dòng, nổ lực của chúng tôi trên toàn cỏi Đông Dương sẽ chấm dứt. Tôi coi sự lựa chọn của Ngài như chống đối sự phán đoán và cam kết của chính bản thân tôi. Đây không còn là vấn đề của người đi thương thuyết hay của luật sư và chuyên viên. Đây là vấn đề giữa tôi và Ngài. Sự lựa chọn là do Ngài”. (10)
  Kế hoạch hoà bình của Nixon nay cũng thất bại như kế hoạch hoà bình của Johnson, vì thiếu sự hợp tác của lãnh đạo VNCH. Lúc bấy giờ Đảng Dân chủ ở Mỹ đang nắm quyền chủ động ở cả hai viện Quốc hội nên tìm cách trả mối hận tháng 11/1968. Quốc hội Mỹ bắt đầu cắt bớt viện trợ cho VNCH vì lẽ VN đã có Hiệp định hòa bình. Ngày 15/11/1973 Hạ Viện Mỹ ấn định mức viện trợ quân sự tối đa cho VNCH là 1126 triệu đôla so với 2270 triệu của tài khoá trước. Nhưng khi chung quyết chỉ còn 900 triệu, đồng thời tước bớt quyền hạn của TT Nixon nhằm trói tay không cho ông can thiệp vào VN nữa.
  Bước sang 1974, chính quyền Nixon vẫn còn cố gắng giải quyết vấn đề VN bằng con đường hòa bình. Ngày 10/2/1974 Kissinger lại sang Paris gặp Lê Đức Thọ. Trong cuộc mật đàm lần này có sự hiện diện của Martin -Đại sứ Mỹ ở Saigòn, Kissinger yêu cầu Hà Nội hợp tác với Mỹ để thúc đẩy hai bên MN ngồi lại với nhau. Ông đề nghị bước đầu Việt Cộng hãy ngưng bắn ở vùng 3 và 4. VNCH sẽ công nhận ranh giới VC kiểm soát ở vùng 1 v à 2. Sau đó HK sẽ áp lực chính quyền Sàigòn thành lập Hội đồng Quốc gia Hòa giải dân tộc. Trở lại Sàigòn, đại sứ Martin thúc hối TT Thiệu thành lập HĐHGDT và thừa nhận việc phân chia lãnh thổ mà Kissinger đề nghị với Lê Đức Thọ. Ngoài ra được sự đồng ý của Tòa Bạch Ốc, Martin nhờ Đại sứ Ba Lan trong Uỷ ban Kiểm soát và Giám sát ngưng bắn chuyển đến Hà Nội một điệp văn, kêu gọi giới lãnh đạo BV hưởng ứng đề nghị của Kissinger để chấm dứt cuộc chiến tại MNVN. (11) Martin cũng gởi điện về Hoa Thịnh Đốn trình bày nhucầu và sự hợp lý của việc cắt đất nhường cho Việt Cộng khi tiền viện trợ đã bị cắt. (12)
   Trong khi đó TT Thiệu đi ngược lại đường lối chiến lược của HK khi họ quyết định chấm dứt đấu tranh quân sự để người Quốc gia đấu tranh chính trị với người Cộng sản. Ông chủ trương tiếp tục chiến đấu, tu chính Hiến pháp để tiếp tục làm tổng thống nhiệm kỳ 3. Nếu được HK tiếp tục viện trợ, có thể sau nhiệm kỳ thứ ba, ông sẽ tu chính hiến pháp để làm tổng thống trọn đời như tù trưởng các bộ tộc ở Phi Châu, để lãnh đạo cuộc chiến chống Cộng vì Hà Nội quyết tâm trường kỳ kháng chiến.
  Thượng Nghị Sĩ Kennedy, người lãnh đạo phong trào cắt viện trợ cho VN quan niệm: “Nếu không đặt trọng tâm vào việc thi hành những mục tiêu chính trị của thỏa ước ngưng chiến (thành lập Hội đồng Hòa giải Hòa hợp Dân tộc và tổ chức tổng tuyển cử dưới sự giám sát của quốc tế) thì mục đích của những món tiền chi tiêu khổng lồ ở VN không phải là để cứu nạn nhân chiến tranh hay kiến thiết xứ sở mà chỉ để cho chính phủ Thiệu kéo dài chiến tranh” (13).
  Sau khi chỗ dựa của Thiệu là TT Nixon từ chức (10/8/1974) nhiều người đã thấy rõ “còn Thiệu sẽ mất nước”. Tại Quốc hội Mỹ, các nghĩ sĩ kêu gọi VNCH phải thích nghi với Việt Cộng, Adlai Stevenson còn nói rõ hơn là “Thiệu phải từ chức và sau đó nếu Bắc Việt gây hấn thì HK sẽ can thiệp” (14)
  Vì sự sống còn của MNVN, Phong trào chống tham nhũng do Linh mục Trần Hữu Thanh chủ xướng được phát động rầm rộ từ tháng 9/1974 vận động trưng cầu dân ý bất tín nhiệm Thiệu. Song song với phong trào chống tham nhũng là việc thành lập “Lực lượng hòa giải dân tộc” do Giáo sư Vũ Văn Mẫu cầm đầu. Bản Cáo trạng số 1 của Phong trào chống tham nhũng viết rằng “Chiến tranh hiện nay đang tiếp tục giết hại quân dân ta la tại lòng tham của ông Nguyễn Văn Thiệu đã coi ngôi vị tổng thống của ông nặng hơn vận mạng dân tộc. Đây là thứ tham nhũng tệ hại hơn hết vì là tham nhũng trên sự sống còn của dân tộc hay nói đúng hơn là sự phản bội dân tộc”. (15)
 Đầu tháng 2/1975 các đảng phái, tôn giáo còn thành lập “Trận tuyến nhân dân cách mạng tranh thủ hòa bình” bao gồm nhiều nhân vật tên tuổi của Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo…Mặt trận lên tiếng yêu cầu TT Thiệu và các phe phái liên hệ chấm dứt chiến tranh, giải quyết bằng con đường hòa bình. Thượng tọa Thích Tâm Châu thuộc khối Việt Nam Quốc Tự từ trước đến nay vẫn ủng hộ chính phủ, nay cũng lên tiếng yêu cầu TT Thiêu hãy vì quyền lợi quốc gia mà từ chức. Đó cũng là yêu cầu của Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình. Thượng Nghị viện từ trước đến nay vẫn ủng hộ Thiệu cũng biểu quyết một quyết nghị lên án TT Thiệu lạm quyền, bất công, tham nhũng. Thượng viện yêu cầu TT Thiệu từ chức và Thiệu phải chịu trách nhiệm về sự thất bại khi ông chỉ nghĩ đến những biệ pháp quân sự để giải quyết nột cuộc chiến tranh nặng về chính trị.
   Lợi dụng tình hình bất ổn ở Sàigòn, Cộng quân đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long (6/1/1975) để đo lường phản ứng của HK. TT Ford vẫn không có phản ứng nào, B52 vẫn không cất cánh để trả đũa như sự e ngại của Hà Nội. Đến cuối tháng Hai/1975, một phái đoàn lưỡng viện Quốc hội HK được gởi sang Miền Nam VN để duyệt xét lời yêu cầu của TT Ford xin quân viện bổ túc cho VNCH. Sau khi thăm các tỉnh, phái đoàn về Sàigòn họp với TT Thiệu để kiểm điểm tình hình. Các dân biểu, nghị sĩ gay gắt hỏi Thiệu “Ông muốn quân viện và kinh viện mãi sao, chừng bao lâu nữa?”. (16) Bộ Chính trị Đảng CSVN tin rằng Quốc hội HK thực sự bỏ rơi VNCH nên quyết định mở cuộc tổng tấn công mùa Xuân 1975. Chỉ hơn một tuần sau khi phái đoàn Quốc hội Mỹ về nước, vào lúc 2 giờ sáng ngày 10/3/1975 Cộng quân tấn công Ban Mê Thuộc. Theo ý đồ của Bộ Chính trị, từ Ban Mê Thuộc, Cộng quân sẽ tiến thẳng xuống vùng duyên hải Phú Yên, chia hai Miền Nam,giành nửa lãnh thổ phía Bắc.
  Để chống lại âm mưu của CS, ngày 14/3/1975 Thiệu bay ra Cam Ranh họp với tướng Phạm Văn Phú Tư lịnh Vùng II Chiến thuật. Tại dây với sự hiện diện của ba cộng sự viên thân cận là các tướng Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên và Đặng Văn Quang, TT Thiệu quyết định bỏ ngỏ cả vùng Cao nguyên. Ông cho rằng QLVNCH không còn đủ khả năng bảo vệ toàn thể lãnh thổ, phải rút bỏ những vùng kém trù phú, gom lực lượng về cố thủ vùng duyên hải đồng bằng. Trước đó trong buổi họp ở Dinh Độc Lập, Thiệu giải thích việc tái phối trí lực lượng với chiến thuật mới mà ông gọi là “đầu bé đít to”. Ông cho rằng thà mất rừng núi về tay CS còn hơn là phải sống liên hiệp với chúng”. Theo Thiệu, đây là kế hoạch hết sức bí mật, không nên để cho người Mỹ biết”. Nhưng hai năm trước đây, tôi biết thêm một sự thật từ một nhân chứng mới: cựu phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, nguyên Tư lịnh Vùng I Duyên hải. Trong quyển “Can trường trong chiến bại – Hành trình của một thủy thủ”, tác giả tức Đề đốc Thoại cho biết tướng Trưởng đã tiết lộ cho ông biết: “Ngày 13/3/1975 tại Dinh Độc lập, TT Thiệu nhận định không còn cách nào với ngân khoản viện trợ của HK bị cắt giảm, chánh phủ có thể giữ được sự toàn vẹn của lãnh thổ miền Nam. TT Thiệu lấy viết vạch một đường từ Ban Mê Thuộc xuống Tuy Hòa và nói đó là ranh giới của miền Nam. TT Thiệu còn căn dặn tướng Trưởng phải giữ kín không tiết lộ cho các tư lịnh sư đoàn, các tỉnh trưởng cũng như hải quân và không quân biết việc bỏ miền Trung”.
   Như mọi người đều biết, việc rút bỏ Vùng 1 và 2 từ giữa tháng Ba đã đưa đến biến cố 30/4/1975. Trong quyển “Tâm tư Tổng thống Thiệu” xuất bản nhân mùa Quốc hận 30/4 năm ngoái, Tiến sĩ Nguyện Tiến Hưng, có Chương 2 Ai Cố vấn Tổng thống Thiệu rút quân?. Tác giả liệt kê 4 người:
- Tướng Đồng Văn Khuyên, TMT Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục trưởng Tổng Cục Tiếp Vận QLVNCH đã đệ trình TT Thiệu ý kiến phải thu hẹp lãnh thổ VNCH thế nào cho tương xứng với sự cắt giảm viện trợ.
- Tướng John Murray, tùy viên Quân lực HK ở VN. Ông nói “Ta có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy”. Ông đề nghị mức các tuyến phòng thủ tưởng đương với mức quân viện. Chẳng hạn 900 triệu phòng tuyến phòng thủ ngang tỉnh Tuy Hòa. 750 triệu phòng tuyến kéo dài từ Tây Ninh đến Nha Trang. Nếu 600 triệu chỉ đủ bảo vệ phần đất từ Bến Lức/Long An xuống miền Tây. Xin nhắc lại trong quyển Hồ sơ Mật Dinh Độc Lập viết chung với ký giả J. L. Schecter xuất bản năm 1987, T/s Hưng cho biết “Trong buổi họp cuối cùng với các tướng lãnh VNCH trước khi mãn nhiệm kỳ về nước (8/1974), Murray đã khuyên họ nên thu gọn tuyến phòng thủ lại, tập trung quân số và đạn được để bảo vệ những vùng đông dân dọc bờ biển” (Tr. 405). Từ lời khuyên này, mới có tờ trình nêu trên của Tr/tướng Đồng Văn Khuyên. Cả hai đề nghị trên được đưa ra từ giữa năm 1974, tiếp theo cuộc họp giữa Kissinger với Lê Đức Thọ, như tôi đã đề cập ở phần trên, chớ không phải hồi đấu năm 1975 lúc đó đã muộn rồi.
- Đại sứ Martin: đã thuyết phục ông Thiệu chấp nhận một việc chia đất trên thực tế. (Như đã tình bày ở phần trên hồi đầu năm 1974)
- Chuẩn tướng Ted Serong với “Một Kế hoạch Mổ xẻ” (A Surgery Plan) đã được trình bày với TT Trần Thiện Khiêm và ông Ngô Khắc Tỉnh (cậu TT Thiệu) hồi đầu tháng Giêng 1975. Theo đó, tướng Serong đã cố vấn ông TTK “Phải bỏ Quân đoàn I và phải ngay từ bây giờ”. VNCH phải thực hiện kế hoạch này nội trong hai tuần. Theo hồi ký Serong “Vào ngày 14 tháng 2 năm 1975, thì ông Thiệu chỉ còn một ngày trước hạn chót mà tôi đã đưa ra, đó là giữa tháng 2”. Đến đầu tháng Ba 1975, ông Ngô Khắc Tỉnh đến thăm Serong với tư cách là người trung gian của TT Thiệu để hỏi ý kiến. Serong trả lời: “Xin ông nói với tổng thống là cuộc chiến đã kết thúc rồi. Nó đã kết thúc từ ba tuần nay” (Tel him the war is over. It has been over for three weeks).
   T/s Nguyễn Tiến Hưng viết quyển “Tâm Tư Tổng thống Thiệu” để biện minh cho TT Thiệu, đổ trách nhiệm cho người cộng sự của mình là Đồng Văn Khuyên, đổ tránh nhiệm cho Đại sứ Martin và hai cố vấn Mỹ Úc là John Murray và Ted Serong. Nhưng vô tình lại vạch thêm một sai lầm tai hại của TT Thiệu. Ted Serong đã bảo “phải rút trước ngày 15/2/1975. Đến đầu tháng Ba 1975 cuộc chiến đã kết thúc rồi”, ông lại ra lịnh rút để gây biết bao tang thương cho đồng bào và chiến sĩ trong một tháng rưởi cuối cùng của cuộc chiến. T/s Hưng viết “Về việc TT Thiệu ra lệnh rút quân, Serong bình luận: “Chẳng có kế hoạch. Chẳng chuẩn bị. Chẳng có gì cả. Chỉ bỏ tầu” (No plans. No preparations. Nothing. Just abandon ship) Theo tôi, ông Hưng lại bênh vực TT Thiệu, đổ tội cho hai tướng Phạm Văn Phú và Ngô Quang Trưởng rút lui mà không chuẩn bị và có kế hoạch gì cả, chỉ bỏ chạy mà thôi.
     Việc rút bỏ Vùng I và II là nổ lực cuối cùng của HK giúp VNCH được đề ra từ đầu năm 1974. Nhưng ông Thiệu cứ chần chờ, mãi đến khi Bộ Chính trị CSVN mở cuộc tấn công Ban Mê Thuộc với kỳ vọng sẽ giành được thắng lợi vào cuối năm 1976 khi có cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ. Đây là cơ hội để TT Thiệu thực hiện các đề nghị kể trên c ủa HK để phá vỡ mộng thôn tình MN bằng bạo lực quân sự của Hà Nội vào cuối năm 1976. Ông yêu cầu TT Ford công khai thông báo thẳng cho LX, TC và Hà Nội: Vì hòa bình VNCH sẳn sàng rút khỏi phân nữa lãnh thổ phía Bắc giao cho MTGPMN quản lý, để hai bên Miền Nam có thế lực ngang nhau hầu thi hành HĐ Paris 1973. Yêu cầu Hà Nội án binh bất động để QLVNCH rút quân. Bằng hành động này, sẽ giúp MTGPMN thấy rằng họ được giành được một nửa lãnh thổ MN, không phải do công lao của Miền Bắc. Họ sẽ ra sức tranh thủ nhân dân ở đây, củng cố phần đất này để nói chuyên với VNCH ở phía Nam về việc thành lập HĐHGDT, tổ chức tổng tuyển cử dân chủ tự do. Sau 1973, mối quan tâm của MTGPMN không phải là VNCH mà là BV. Họ rất lo ngại hành động cứng rắn của TT Thiệu sẽ tạo cơ hội cho BV thôn tính MN. Lúc đó cả VNCH và MTGPMN đều là kẻ bại trận, là kẻ phản bội nhân dân MN.
    Sự thất bại của MN năm 1975 sẽ được lịch sử soi sáng. Lỗi lầm trước mắt là do TT Thiệu. Chính ông đã thừa nhận “Tôi có trách nhiệm, nhưng không có lỗi”. T/s Hưng đã viết ba cuốn sách để bào chữa là TT không có lỗi. Tất cả đều do người Mỹ tạo ra và cuối cùng ông Dương Văn Minh đã đầu hàng CS. Câu nói của TT Thiệu chỉ có thể nói với người Mỹ chớ không phải nói với nhân dân MN đã bầu ông làm tổng thống.
   Trong sách Tâm Tư TT Thiệu, tác giả ghi nguyên văn cuộc phỏng vấn ngày 1/12/1979 của tạp chí Der Spiegel với TT Thiệu. Cuối cùng nhà báo hỏi: “Có khi nào ông nghĩ là nên cám ơn cho những việc ngưòi Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Kissinger than phiền trong cuốn sách của ông ta: ‘Cảm ơn cho những việc nhận được không phải là một đức tính của người Việt Nam”. Ông Thiệu không trả lời thẳng, nói vòng vo lãng sang vấn đề khác, khiến người hỏi phải nhấn mạnh: “Cá nhân ông, ông không cảm thấy chút gì là phải biết ơn? Ông Thiệu trả lời: “Thành thật mà nói, nếu chính phủ Mỹ đã không phản bội chúng tôi, hay đâm sau lưng chúng tôi, dân tộc VN sẽ biết ơn mãi mãi”(Tr.438).  Rồi đây, lịch sử ngày càng sáng tỏ, “ai phản bội? Ai đâm sau lưng?” Nhưng câu trả lời của TT Thiệu có thể làm cho nhiều đồng bào chúng ta hỗ thẹn. Theo ông, ông chỉ khẳng định Mỹ phản bội ông, đâm sau lưng ông, nên ông không mang ơn Mỹ và không có lỗi gì với dân tộc VN. Như vậy, người ta có thể nghĩ ông ta chỉ là tên lính đánh thuê. Có trách nhiệm của một tên lính đáng thuê và không có lỗi gì cả khi người ta không cần tên lính đánh thuê nữa. Đó là tâm tư của TT Thiệu đối với Đồng minh.
   TT Thiệu còn trả lời một cuộc phỏng vấn nữa với nhà báo Dunlop của báo Now ở Luân Đôn năm 1979 đã gây xôn xao dư luận lúc bấy giờ. (Tr. 9-11) Ông nói “Now I have nothing left to do with them” mà báo chí Việt ngữ dịch ra là “Bây giờ tôi chẳng còn mắc mớ gì đối với họ nữa”. Theo nhận xét của T/s Hưng thì có lẽ ông Thiệu muốn nói “Nay tôi chẳng còn quyền hành hay phương tiện để làm được gì đối với đồng bào tôi”, nhưng ông đã lẫn lộn giữa chữ for và with. Đáng lẽ phải nói là “Now I have nothing left to do for them”. Đó là tâm tư của vị lãnh đạo tối cao VNCH đối với đồng bào, họ mạo hiểm trốn chạy CS, ly hương để tìm tự do sau 1975. Qua sự việc trên còn cho thấy ông Hưng luôn bào chữa ông Thiệu. Trái lại ông Thiệu với bản chất hay đổ tội cho người khác nên ông viết thư nhờ ông Hưng đính chính dùm. Còn ông đã gởi một thơ “chưởi thẳng Michael Dunlop, tên này đã gặp tôi và tường thuật lại sai biệt cho báo Now! Đây là một ác ý rõ ràng của nó. Không biết do ai xúi dục mà thấy trùng hợp với vụ Kissinger ra sách…”. Lại nghi ngờ Kissinger!
  Chuyện thứ ba T/s Hưng nói về Tâm tư TT Thiệu. qua lời kể của ông Thiệu: “Nhiều lần hành khách trên tàu điện, xe buýt có nhận ra ông nhưng họ cứ ‘phớt tỉnh’. Trừ trường họp trong một quán ăn nọ, có người tới tận bàn để chào: Hello, how are you? Are you President Thieu? Ông trả lời: “No, I am his brother” (Không phải tôi là em ông ta”. (Tr.30). Tâm tư trên của ông Thiệu khiến người đọc có sự suy nghĩ: người dân Anh biết ông là cựu tổng thống VNCH, nhưng họ “phớt tỉnh” có phải họ đã coi thường ông, thấy việc ông làm trước 1975 và tư cách của ông sau 1975 qua cuộc phỏng vấn của báo Now và Der Spiegel? Vì thế chính ông Thiệu cũng không dám nhận mình là TT Thiệu! Vậy xin đừng nhắc đến ông nữa.
Muốn phục quốc, phải dũng cảm. Biết nhục là đã gần với đức Dũng rồi. Tại sao cứ chối và bênh vực mãi như là con nít. Nguời đọc không phải là con nít. TS Hưng phải xuất bản ba quyển sách để biện minh. Cả ba cuốn sách đều gây tai hại cho đất nước, làm xấu hỗ dân tộc. Nên nhớ câu nói của người xưa “Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán quốc.”
Lê Quế Lâm
Chú thích:
   1. Học Viện Quan hệ Quốc tế, Thắng lợi có tinh thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1985, Tr. 88.
   2. Lyndon Johnson, The Vantage Point, Perspectives of the Presidency, Redwood Press Ltd, London, P. 67.
   3. Henry Steele Commager, Documents of American History, Vol II: Since 1898, Prentice Hall, Inc, New Jersey, 1973, P.698.
   4. Phạm Văn Đồng, Thắng lợi vĩ đại, Tương lai huy hoàng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, Tr. 170/72.
   5. Bùi Diẫm, Gọng kèm lịch sử, Chương 28: Vụ Anna Chennault.
   6. Nguyễn Tiếng Hưng & J.L. Schecter, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, C & K Promtions, Inc, Los Angeles, Tr. 245.
   7. Như trên, Tr. 250-251.
   8. Nguyễn Khắc Ngữ, Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, Nhóm nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xuất bản, Gia nã Đại, 1979, Tr. 155.
   9. Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, Tr. 327.
  10. Như trên, Tr. 341-342.
  11. Nguyễn Khắc Ngữ, Sđd, Tr. 161/162.
  12. Snep W. Frank, Decent Interval, Random House, NY, 1977, P.109.
  13. Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, Tr. 389.
  14. Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, Tr. 410.
  15. Đỗ Mậu, Việt Nam Quê Hương Tôi Máu Lửa, Nxb Quê hương, HK, 1987, Tr. 1257.
  16. Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, Tr. 431.

Nguồn: http://saigonecho.info/main/tintuc/binhluan/26043-hip-nh-paris-1973-va-bin-c-3041975.html

Xem tiếp:

TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ-DO ĐÁNH MẤT!!! 

 http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/tiep-theo-tim-lai-gia-tri-tu-do-anh-mat.html


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét