Huỳnh Mai St.8872- Bh. Dạ lệ Huỳnh
QUÊ HƯƠNG TÀN CHINH CHIẾN
Huỳnh Mai St.8872- Bh. Dạ lệ Huỳnh
Xin viết lại đây, cuộc đời của một cựu chiến binh còn sống và còn ‘ kẹt lại’ nơi này, một mãnh vỡ quê hương Miên Nam VN hoang tàn, đổ nát…sau ngày tàn chinh chiến. Tù binh cải tạo như chúng tôi, chỉ là… chứng nhân lịch sử “ Mất nước VN “ và là người ‘ chôn xác chết Tự Do “- Một khi, Hoa Kỳ phản bội và bức tử đồng minh VNCH, trên mặt trận lý tưởng tự do, an ninh, hòa bình thế giới…!!!
Thiên hồi ký được ghi lại những trang sử hào hùng, vinh quang cùng những nỗi nhọc nhằng hiểm nguy của người lính chiến QL.VNCH bảo vệ tổ quốc an dân trong chánh nghĩa Tự Do VN., khi người lính chiến còn ' xương máu ' và ' súng đạn ' trong tay.!.. Nhưng khi ' thất bại rồi!' tình người mau chống lãng quên. và bao nỗi ' nhục nhằng đè nặng lên đôi vai người chiến sĩ...Họ không chết nơi mặt trận chiến trường, mà chết vì " Phản bội trong lòng dân ".Chúng tôi rất nặng lòng với quê hương, tự do dân tộc, nhưng biết ngày nào : " Trăng trắng vỗ tay reo...!! " giải tỏa tất lòng với dân tộc- Có phải Tự Do VN! là cái giá máu xương của chiến sĩ QL.VNCH
P/s- là vì hồi ký, ghi lại những bút tích đã xảy ra trong quá khứ, nên thời gian tính bài viết không tuân lệnh thứ tự rõ ràng...Và cũng vì thời gian và không gian, chúng không bao giờ chia cắt và có tính "chung đồng "- Không biệt Quá khứ, hiện tai, lẫn tương lai, nên tính ' thời không ' của người lính trân QL.VNCH vẫn sống mã trong lòng Việt Nam
Tg: Huỳnh Mai St.8872
I- VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ BỨC TỬ
VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ BỨC TỬ - { LA MORT DU VIET NAM }Việt Nam Cộng Hoà Bị Bức Tử
Đại Tướng Vanuxem
Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa
Để kính dâng lên những vị anh hùng trẻ tuổi
người Việt Nam, người Mỹ và người Pháp,
những người đã anh dũng nằm xuống
trong một cuộc chiến cùng chung một mục đích thiêng liêng:
"TỰ DO CHO TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC "
Vanuxem
Xin đốt một nén tâm hương, kính cẩn cầu nguyện cho anh linh
Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa
đã hy sinh cho Tổ Quốc và cho Chánh Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc
Xin thành tâm kính cẩn cầu nguyện cho tất cả Anh Linh
Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa
đã anh dũng tuẩn tiết hay đã thảm thương chết tức tưởi trong ngục tù cộng sản,
hoặc trên đường đi tìm tự do từ sau ngày mất nước 30 tháng 4/1975
ĐƯỢC SỚM VỀ NƠI AN NGHỈ TRÊN CÕI THIÊN ĐÀNG, CỰC LẠC.
Dương Hiếu Nghĩa
THAY LỜI TỰA
Ngày quốc hận 30/4/1975 đã qua đi trên 20 năm rồi.
Trong khoảng thời gian 20 năm đó đã có rất nhiều người viết hay nói về những ngày cuối cùng của tháng tư đen lịch sử nầy, và gần đây nhất chúng ta thấy có ông Mac Namara cựu bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, với quyển hồi ký "Nhìn Lại Thảm Kịch và Những Bài Học Việt Nam" (In Retrospect, The Tragedy And Lessons Of Việt Nam). Ông cho tung ra quyển nầy vào đúng lúc cộng sản Việt Nam làm lễ lớn khắp nước ăn mừng 20 năm ngày mà họ cho là "Đại Thắng Mùa Xuân", mừng ngày chiến thắng "Mỹ-Ngụy"!
Hồi ký của ông đã để lộ hẳn cái hèn của một chánh khách Mỹ có tầm cỡ, vì ông không biết thẹn là đã có hành động phản bội với đồng minh, vừa bàn giao Việt Nam Cộng Hòa cho bọn cộng sản (nếu không muốn nói là bán đứng), vừa đổ hết trách nhiệm mất nước cho quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.
Ông đã khóc (nước mắt cá sấu!) khi bị phỏng vấn trên đài ABC, thật tội nghiệp ! có lẽ khóc vì quá mắc cở và vì có quá nhiều mặc cảm tội lỗi trong chiến lược "phải để cho ta bị chiến bại". Ông không hề khóc cho 58,000 quân nhân Mỹ các cấp dưới quyền ông đã phải bị hy sinh oan uổng cho cái "thuyết domino" mà đến giờ nầy ông mới cho là sai, làm tủi hổ vong linh những người đã bỏ mình cho chính nghĩa chống Cộng của Thế Giới Tự Do (trong thời kỳ còn chiến tranh lạnh) đồng thời làm nhục cả quân nhân các cấp thuộc đủ mọi quân binh chủng Hoa Kỳ đã từng tham gia anh dũng trong cuộc chiến ở Việt Nam.
Dĩ nhiên ông cũng không bao giờ nghĩ đến hay nhắc đến quân dân cán chính miền Nam Việt Nam mà hai đời Tổng Thống Hoa Kỳ vẫn gọi và xem họ là người đồng minh kiên cường trong nhiệm vụ chống Cộng, giữ vững tiền đồn chống cộng của Thế Giới Tự Do ở Đông Nam Châu Á.
Người ta còn thấy rõ cái tồi của ngài Mc Namara là ngài "phải khóc" để được Cộng Sản cấp chiếu khán cho ông qua Việt Nam vào tháng 9/95 nầy (cũng lại là quyền lợi trên hết!) chớ không phải khóc vì trách nhiệm lịch sử của một "kiến trúc sư" về chánh sách của Hoa Kỳ từ thập niên 60 để nướng sống trên 50 ngàn chiến binh Mỹ và trên 3 triệu quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa.
Thật đáng tội nghiệp cho một người khoác áo chánh khách Mỹ có tên tuổi như ông mà cho đến 20 năm sau cuộc chiến ông vẫn còn chưa hiểu tý gì về con người Cộng Sản, mãi đến 20 năm sau mới vừa "biết được ta mà chưa biết được người" nên thua nhục là quá đúng!!!
Bây giờ chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với anh chị em trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản của chúng ta một quyển sách nhỏ có tựa đề là "LA MORT DU VIệT NAM" . Lẽ ra chúng tôi phải dịch là "SỰ SỤP ĐỔ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA". (Hai chữ "Việt Nam" mà người Pháp thường dùng là để chỉ cho quốc gia VNCH, và "Bắc Việt" là danh từ họ thường gọi để chỉ cho VNDCCH), hoặc để tỏ lòng kính trọng tác giả chúng tôi phải dịch sát nghĩa là: "Cái chết của nước Việt Nam ", nhưng chúng tôi xin dịch là "Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử" để cho thêm rõ nghĩa sự kiện lịch sử ngày 30/4/1975.
Tác giả quyển sách bé nhỏ nầy là Đại Tướng Vanuxem, từng là sĩ quan cao cấp của quân đội Pháp tại chiến trường Bắc Việt cho đến 1954, sau đó thỉnh thoảng vẫn có sang thăm Việt Nam với tư cách một tướng Pháp, thượng khách của Việt Nam Cộng Hòa.
Ông là sĩ quan trừ bị trong quân đội Pháp. Lúc bị động viên ông là giáo sư, đã có bằng tiến sĩ Văn Chương (Docteur ès Lettres), bằng tiến sĩ Toán (Agrégé ès Math.) và bằng tiến sĩ Khoa Học (Agrégé ès Sciences). Ông được Tướng De Lattre de Tassigny gọi sang Việt Nam như một sĩ quan tùy viên với cấp bậc trung úy. Nhưng khi sang đến Việt Nam ông lại xin tình nguyện ra chỉ huy một đơn vị tác chiến để được ra mặt trận, và xin được phục vụ ở chiến trường Bắc Việt, lúc đó đang thật sôi động. Trong hai năm liền ông được thăng cấp 3 lần, toàn là tại mặt trận. Sau đó ông được gọi về chỉ huy Trường "đào tạo chỉ huy trưởng binh đoàn", với cấp bậc trung tá, rồi đại tá (lúc bấy giờ được gọi nôm na là "cours tactiques", tiền thân của trường Chỉ Huy và Tham Mưu của QLVNCH sau nầy). Hầu hết các tướng lãnh của VNCH chúng ta đều xuất thân từ trường nầy.
Ông là một sĩ quan rất bình dân, ăn mặc rất xuề xòa không giống như các sĩ quan Pháp khác, nhưng tất cả các sĩ quan khóa sinh đều rất mến phục ông sau vài ngày nhập trường vì tài giảng dạy của ông cũng như về đức tính của ông.
Sau đó Ông ra coi binh đoàn chiến thuật số 3, hoạt động ở Khu Nam, thuộc lực lượng bộ binh Bắc Việt (Groupement Tactique No 3/ Zone Sud/FTNV). Ông về nước năm 1954 với cấp bậc đại tá và thỉnh thoãng ông vẫn sang VN. Đầu năm 1975 ông có mặt thường trực tại VN và bị cộng sản trục xuất về Pháp khoản tháng 5/75.
Ông qua đời năm 1982, nhưng trước khi nhắm mắt ông vẫn còn nhớ đến VN, nên đã có trao lại cho trung tướng Trần văn Trung Chủ Tịch hội Cựu Chiến Sỉ tại Pháp, lá cờ Việt Nam Cộng Hòa, một kỹ vật rất quý mà ông đã được Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long trao tặng lúc Ông tháp tùng Tổng Thống Thiệu đáp trực thăng xuống An Lộc trong mùa hè đỏ lửa 1972.
Đặc biệt từ đầu năm l975 Ông Vanuxem đã thường xuyên có mặt tại Sài Gòn, nên ông đã phân tách rất chính xác về những sự kiện, những nguyên nhân và những hậu quả của sự việc "Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử", chẳng những đối với quốc gia Việt Nam mà còn đối với nước Pháp và cả Thế Giới nữa.
Những nhận xét rất tỷ mỉ và tế nhị, có lúc hơi tếu và lộ vẻ biếm nhẻ, của từng sự việc một mà ông đã đích thân mắt thấy tai nghe tại chỗ trong những ngày lịch sử nầy, khác hẳn những tiếng "khóc dở hơi" của "ngài" Mc Namara.
Văn ông chan chứa tình cảm rạt rào, khóc cho người lính chiến Việt Nam Cộng Hòa và xót thương cho số phận đau thương của người dân Miền Nam Việt Nam dưới ách thống trị và gông cùm của người Cộng Sản.
Chúng tôi cố gắng dịch sao cho được sát ý sát nghĩa chừng nào hay chừng nấy, miễn là không "phản ý hay phản nghĩa", vì tiếng Pháp là tiếng ngoại quốc mà trình độ học vấn của tác giả cao hơn bậc thầy của chúng tôi, trong lúc chúng tôi thì ngoại ngữ còn quá thấp, văn thì luộm thuộm, chỉ mong sao lột được hết những lời hay ý đẹp của tác giả, những lời tâm tình của một người không phải chiến hữu mà như một chiến hữu thân thương, một người không hẳn là một đồng minh mà như một đồng minh trung tín... Hơn thế nữa, về mặt chánh trị và quân sự, đại tướng là một nhân vật thuộc đẳng cấp quốc tế, những nhận xét của ông rất chính xác, có tầm mức chiến lược, đôi lúc ngoài tầm hiểu biết nông cạn của chúng tôi.
Do vậy, xin quý anh chị em độc giả niệm tình thông cảm cho những sơ sót của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng xin được đón nhận những sự góp ý, chỉ bảo và sửa chửa nếu có, để bản dịch được thêm phần đúng đắn và phong phú thêm.
Kính,
Dương Hiếu Nghĩa
Kính Tặng Nhạc Sĩ Lê Trọng Nguyễn
Người đã sưu tầm được quyển sách có giá trị lịch sử nầy và đã khuyến khích chúng tôi dịch ra trong mục đích vinh danh tinh thần và ý chí bất khuất của quân nhân các cấp trong QLVNCH trong nhiệm vụ chống cộng bảo vệ quê hương, bảo vệ chánh nghĩa quốc gia dân tộc......đồng thời cho người dân Việt Nam trong nước cũng như ở hải ngoại nầy, thuộc thế hệ hiện tại hay thế hệ trẻ mai sau thấy được bộ mặt thật của người cộng sản Việt Nam, thấy rõ bản chất tàn ác vô nhân đạo của họ khi họ xé bỏ hiệp định Paris 1973 ngang nhiên xua quân vào cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam năm 1975
Nguồn; http://batkhuat.net/tl-vnch-bibuctu.htm
Được đăng bởi Mai Huỳnh Mai St.8872 vào lúc 03:33
Xin xem thêm chi tiết nơi: Phụ lục 1- Quê Hương Tàn Chinh Chiến.
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/05/viet-nam-cong-hoa-bi-buc-tu-la-mort-du.html
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/06/viet-nam-cong-hoa-bi-buc-tu-la-mort-du.html
Cuộc Chiến Quốc-Cộng, Quan Trọng Ở Ý Thức Hệ
Nguyễn Lộc Yên
Tháng Sáu 13, 2015 nhóm Văn Tuyển 1 Bình luận
About these ads
(Viết cho ngày Quân Lực VNCH)
Học thuyết do Karl Marx (1818-1883) và Friedrich Engels (1820-1895) là 2 người Đức (German), được Vladimir Ilyich Lenin (1870-1924) và Josef Stalin (1927-1953) là 2 người Nga (Russia) phát triển và đưa đến đấu tranh giai cấp, được gọi là cuộc cách mạng của giai cấp vô sản, nhưng Marx và Lenin được nói đến nhiều hơn. Từ đấy, người ta gọi là Chủ nghĩa Marx-Lenin, được coi là ý thức hệ chính thức của Liên Xô vào giữa thập niên 1920. Chủ nghĩa Marx-Lenin tạo ra phong trào Cộng sản Quốc tế, gây ra các cuộc đấu tranh giai cấp để gầy dựng xã hội chủ nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa. Cộng sản chủ nghĩa đã ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam và 11 quốc gia có khuynh hướng cộng sản: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Như vậy, tổng số các nước chính thức là cộng sản và các nước có khuynh hướng cộng sản là 26 nước. Cộng sản muốn nhuộm đỏ cả thế giới nên những Quốc gia tự do trên thế giới đã chống lại, tạo thành hai thế lực Quốc-Cộng rõ rệt.
– Theo học thuyết của Marx thì Chủ nghĩa duy vật dựa trên lý thuyết duy vật biện chứng để giải thích về quá trình lịch sử phát triển xã hội loài người, đã dựa trên mô hình của các nước Âu châu mà sự phát triển của “lực lượng sản xuất” sẽ đưa đến sự biến đổi của “quan hệ sản xuất” qua các giai đoạn: Thời nguyên thủy (thời đồ đá), đến chiếm hữu nô lệ (bóc lột), đến phong kiến (chế độ tập quyền), đến tư bản (thụ hưởng thiếu công bình) và cuối cùng là cộng sản (bình đẳng và văn minh)?!. Lý thuyết của Marx là mọi người sẽ bình đẳng, không có hiện tượng “người bóc lột người” đưa đến “thế giới đại đồng” và đề xướng: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
– Học thuyết của Lenin cũng giống như Marx, các đảng cộng sản phải là đảng của giai cấp công nhân trên thế giới, đấu tranh theo sự nghiệp chung của vô sản trên toàn thế giới. Lenin đem áp dụng học thuyết của cộng sản vào đấu tranh, đề cao khẩu hiệu “Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng” trong Đệ nhất thế chiến, từ tư tưởng này giai cấp vô sản Nga đã nhân cơ hội hỗn loạn trong nước, tạo điều kiện để đưa đến “cách mạng vô sản thành công”. Học thuyết của Lenin còn xác định: “Miễn là có lợi cho sự nghiệp đấu tranh của giai cấp vô sản thì đều là chính nghĩa, có hại cho cuộc đấu tranh đó thì đều là phi nghĩa.”
– Học thuyết của Mao Trạch Đông có thể gọi là Maoism (chủ nghĩa Mao) có sự khác biệt với Marxism-Leninism đã coi “động lực chính của cách mạng là giai cấp công nhân” và coi nhẹ giai cấp nông dân, nông dân chỉ là thành phần hỗ trợ mà thôi. Ngược lại, Mao Trạch Đông xuất phát từ điều kiện nước nông nghiệp, giai cấp công nhân còn phôi thai, xã hội của nước Tàu lúc ấy mâu thuẫn nông dân và địa chủ là cốt lỗi, nên Maoism coi “lực lượng cách mạng chủ lực” là giai cấp nông dân và “Nông thôn là căn cứ địa của cách mạng”, vì vậy học thuyết chủ yếu của Mao là “Lấy nông thôn bao vây thành thị” và “Súng đẻ ra chính quyền”. Mao còn đưa ra lý luận về chiến tranh du kích và chiến tranh nhân dân, đã cổ động trong tác phẩm “Du kích chiến” của Mao mà ở đấy nghiên cứu kỹ càng về quân sự, chính trị, tâm lý và các phương thức xây dựng căn cứ địa, tiến hành chiến tranh nhân dân ở nông thôn. Maoism còn khác với Marxism-Leninism tiền bối là không đặt vấn đề giai cấp lên trên dân tộc, lại coi quyền lợi quốc gia là thiết yếu dù phải chiến tranh giành quyền lợi cho đất nước mình.
Chủ nghĩa cộng sản bao gồm các lý luận về luồng tư tưởng: Chính trị, kinh tế, xã hội. Cộng sản hy vọng xóa bỏ hình thái kinh tế, xã hội của “chủ nghĩa tư bản”, để xây dựng một xã hội không giai cấp không có quyền tư hữu. Chủ nghĩa cộng sản phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 19 và bắt đầu suy tàn trong thế kỷ 20. “Chủ nghĩa cộng sản là không tưởng” nên các nước Cộng sản Đông Âu đã sụp đổ năm 1989, Cộng sản Liên Xô đã tan rã năm 1991, quốc kỳ Liên Xô tại điện Kremlin phải hạ xuống để thay thế bằng quốc kỳ Nga và Nga tuyên bố thừa nhận nền độc lập của mười hai (12) nước Cộng hòa trong Liên bang Xô Viết. Đến nay còn tồn tại 5 nước cộng sản: Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Người viết xin nói qua về “Cuộc chiến ý thức hệ Quốc-Cộng trên thế giới” và “Cuộc chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam”.
I – Cuộc chiến ý thức hệ Quốc-Cộng trên thế giới:
Cuộc chiến Quốc-Cộng tại nước Tàu thời gian từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950. Cuộc chiến bắt đầu khi phái cánh hữu của Quốc dân đảng do Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch dẫn đầu đã thanh trừng những người cộng sản và cánh tả của Quốc dân đảng, Quốc dân đảng được phương Tây ủng hộ và Đảng Cộng sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo được Liên Xô chỉ đạo. Khi quân Nhật tiến chiếm lãnh thổ Mãn Châu làm thuộc địa, thì hai phía Quốc-Cộng tạm ngưng các cuộc tấn công quân sự lẫn nhau, để thành lập “Mặt trận thống nhất Trung quốc đệ nhị” tập trung vào việc chống kẻ thù chung là đế quốc Nhật. Năm 1937, Nhật cho máy bay ném bom các thành phố của nước Tàu, đồng thời tung các đạo quân tinh nhuệ đánh chiếm miền bắc và miền duyên hải nước Tàu. Thế mà, hai phe Quốc-Cộng chỉ liên minh trên danh nghĩa, nên cả Quốc dân đảng lẫn đảng Cộng sản đều tìm cách chiếm đóng những lãnh thổ không nằm trong tay quân đội Nhật. Sau đó, Quốc dân đảng lại giao tranh với quân Nhật khiến cho lực lượng của Quốc dân đảng phải chịu nhiều tổn thất. Vì vậy, khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt (1945) thì Đảng Cộng sản còn mạnh và chiếm ưu thế. Đến ngày 1-10-1949, tại Thiên An Môn, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước “Cộng hòa Nhân dân Trung quốc” trên Lục địa Tàu, theo chế độ Cộng sản như Liên Xô, còn phe Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo thì giữ Đài Loan.
Đến năm 1950, các lực lượng đồng minh do Mỹ lãnh đạo, với danh nghĩa Liên Hiệp Quốc. Tại chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Bắc Triều Tiên do Tổng Bí thư Kim Nhật Thành lãnh đạo với sự chỉ đạo của Liên Xô, đã tấn công Nam Triều Tiên. Chính phủ Nam Hàn do Tổng thống Lý Thừa Vãn thống lĩnh với sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc, đã đẩy lùi quân đội của Bắc Triều Tiên. Ngày 7-10-1950, quân Liên Hiệp Quốc vượt vĩ tuyến 38. Mao lo ngại chiến tranh có thể lan rộng đến Hoa Lục, nên một ngày sau đấy, Mao liền cho thành lập lực lượng Chí nguyện quân để giúp Bắc Triều Tiên, đối đầu trực diện với lực lượng Liên Hiệp Quốc. Sau 3 năm, chiến cuộc kết thúc khi hai miền đạt được một thỏa hiệp ngừng bắn vào ngày 27-7-1953.
II – Cuộc chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam:
Cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam đằng đẵng 20 năm (1954-1975) giữa miền Bắc Việt Nam được gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) theo chế độ Cộng sản. Miền Nam Việt Nam được gọi là Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) còn có thể gọi là chính thể Quốc gia. Cuộc chiến bằng vũ lực đã chấm dứt ngày 30-4-1975, nhưng chưa chấm dứt về “Cuộc chiến ý thức hệ Quốc-Cộng”. Cuộc chiến bằng vũ lực tại miền Nam Việt Nam đã gây ra cảnh huynh đệ tương tàn, cuộc tương tàn này có phải là nội chiến không? Cuộc tương tàn này có giống cuộc chiến tương tàn giữa hai miền Nam-Bắc Việt Nam thời Lê-Mạc phân tranh 47 năm (1545-1592) hay thời Trịnh-Nguyễn phân tranh 45 năm (1627-1672) không? Cuộc chiến này có giống cuộc nội chiến của Hoa Kỳ (1861-1865) xảy ra giữa các Tiểu bang (War Between the States) đã tương tàn, do Chính phủ Liên bang miền Bắc (Union: 25 tiểu bang) chiến đấu với Liên minh miền Nam (Confederate States of America) của Hoa Kỳ không? Xin thưa không, vì sao?: Vì cựu Tổng bí thư Lê Duẩn đã thành thật thú nhận: “Ta đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc”!
Ngày 8-3-2015, Đài RFA đã phổ biến: “Hồi Ức 30/4 của người Việt tại Đông Âu”, nói về nhà báo Bắc Việt Trần Quang Thành, người từng có mặt với Trần Văn Trà và Dương Văn Minh tại dinh Độc Lập ngày 1-5-1975. Sau này, Thành viết: “…Nhìn lại 40 năm cuộc chiến gọi là chống Mỹ cứu nước nhưng thực tế nó lại là một cuộc chiến về ý thức hệ của những người Cộng sản lừa dối nhân dân ta, thực tế nó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Những người chóp bu của Cộng sản đã lừa dối nhân dân Việt Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới. Họ kích động tinh thần dân tộc của người dân miền Bắc là: miền Bắc là tiền đồn phía Đông Nam Á của phe Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thực chất bây giờ chúng ta mới hiểu đây là một cuộc chiến của những người Cộng sản Việt Nam tay sai cho 2 nước Cộng sản là Nga sô và Trung Cộng để mà thực hiện ý thức hệ Cộng sản bành trướng trên toàn thế giới chứ không phải là một cuộc chiến tranh Vệ quốc như họ từng tuyên truyền là chống Mỹ xâm lược. Tôi thấy đó là một sự lừa dối và phản bội.”
Những nguyên nhân chính mà miền Nam Việt Nam bị thất bại vào năm 1975?!:
1 – Quân đội miền Nam Việt Nam thiếu quân dụng, đạn dược để chiến đấu, mời xem bài “Những sự thật về Chiến Tranh Việt Nam” của Giáo sư Robert F. Turner ở Đại Học Luật Khoa Virginia và Học Viện Hải Quân thuộc Trung tâm an ninh Luật Pháp Quốc Gia, ông đã thẳng thắn nói rằng: “Có một bài viết trong báo Foreign Affairs năm 2004, do Giáo sư John Lewis Gaddis là Khoa trưởng American Diplomatic Historians đã nhận định đúng đắn: Các sử gia hiện tại công nhận rằng miền Nam Việt Nam và đồng minh đã thắng cuộc chiến quân sự. Nhưng lại thua cuộc chiến tâm lý tại Mỹ. Tôi xin nhắc lại cho quý vị trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời Hà Nội vội vã trở lại đàm phán tại Paris. Và mọi chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định. Nhưng quốc hội với áp lực của Phong trào Hòa Bình đã thông qua dự luật vào năm 1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng thống sử dụng bất cứ đồng nào trong công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông Dương. Lúc ấy tôi làm việc tại Thượng nghị viện, nghị sĩ Ted Kennedy tuyên bố rằng Việt Nam không cần giúp đỡ, họ đã có lượng vũ khí trị giá vô số triệu đô la. Đó là sự thật, Việt Nam có phi cơ trực thăng, xe tăng Hoa Kỳ. Nhưng cái mà họ không biết là Việt Nam không có đạn, không có xăng, không có phụ tùng. Đống đồ đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe”.
2 – Trước năm 1975: Người miền Bắc lầm lẫn tin chủ nghĩa Cộng sản, người miền Nam thờ ơ với cuộc chiến. Điều này chính những người trí thức ở miền Bắc đã lầm lẫn và hối hận, như: Nhà báo Trần Quang Thành đã nêu ở trên.
Bùi Tín từng phục vụ trong đảng CSVN 44 năm, từng là Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân Dân Chủ Nhật. Năm 1990 Bùi Tín sang Pháp dự hội hàng năm của báo LHumanité, nhân đấy xin tỵ nạn tại Pháp. Ban đầu ông chỉ phê phán đường lối cai trị của ban lãnh đạo đảng CSVN, nhưng vẫn tin tưởng “Bác Hồ”, sau thời gian dài 25 năm sống ở Pháp, ở thế giới tự do có dịp tìm hiểu giữa Quốc-Cộng, trong bài viết bàn về hai chữ: “Giác ngộ (gửi các đảng viên CS, các đồng chí cũ)” do đài VOA phổ biến ngày 2-6-2015, ông đã giác ngộ và viết trung thực: “Ngay đối với thần tượng Hồ Chí Minh, tuy tôi biết rằng đây là bình phong cố thủ lợi hại của thế lực bảo thủ trong đảng CS do tệ sùng bái cá nhân ăn quá sâu trong quần chúng, tôi vẫn thấy cần và có thể thuyết phục ngày càng đông đảo bà con ta nhận ra sự thật. Sự thật là ông HCM không phải là thánh thần. Ông là con người với những tốt xấu, mạnh yếu, đúng sai của mình. Ông đã lầm lẫn khi chọn con đường CS, khi lao quá sâu rồi không dám quay lại nữa. Ông đã xa rời lập trường dân tộc, thực hiện lập trường giai cấp cực đoan, đặt ảo tưởng vào giai cấp vô sản quốc tế, và mù quáng đặt niềm tin ở 2 ông Anh lớn Stalin và Mao, 2 con Quỷ Đỏ mà ông cho là “không bao giờ có thể sai”.
– Phan Huy là Bộ đội cũng là Nhà thơ sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, sau ngày “giải phóng miền Nam” đã thổ lộ qua bài thơ “Lời Anh Bộ Đội Vào Nam”:
Năm ấy tôi mới vừa khôn lớn
Hai miền đã dứt cuộc tương tranh
Hiệp định Ba Lê cùng ký kết
Tôi mừng đất nước hết đao binh…
Nhưng rồi đảng bảo tôi cầm súng
Lên đường chiến đấu ở Miền Nam
Đảng nói nguỵ quyền đầy gian ác
Dân mình trong đó sống lầm than.
Khi chiếm được Sài Gòn thì Phan Huy ngỡ ngàng và hối hận:
Bây giờ nghĩ lại càng chua xót
Cuộc chiến sao mà quá dại điên!
Sao đem xương máu người dân Việt
Xây đắp ngôi cho đảng bạo quyền?
Sau 40 năm “giải phóng Sài Gòn” thì Phan Huy tuổi đã lớn kinh nghiệm thêm già dặn, ngẫm nghĩ chính xác hơn, lại thổ lộ tâm tình qua bài thơ “Ngày Quốc hận” có đoạn:
Bốn mươi năm sau “ngày thắng cuộc”
Vẹm Cộng hiện hình đảng cướp công khai
Đất nước bên lề nô vong Hán hoá
Dân tộc trầm luân dưới ách độc tài.
Tại miền Nam Việt Nam, người chiến sĩ VNCH đang can trường chống Cộng quân nơi chiến trường vì chính nghĩa, vì bảo vệ tự do cho Đồng bào; khi đấy có bao nhiêu phần trăm Đồng bào miền Nam hiểu sự chiến đấu của chiến sĩ VNCH là hoàn toàn chính nghĩa, và sự tiến chiếm miền Nam của CSVN là hành động phi nghĩa?!
Trong khi ấy, tại miền Nam Việt Nam lại có lắm kẻ “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”, như: Sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, năm 1958 Mẫm 15 tuổi, đang học lớp Đệ ngũ, trường Pétrus Ký, Mẫm được kết nạp vào tổ chức bí mật do Nguyễn Văn Chí có biệt danh là Sáu Chí. Mẫm từng được giao công tác rải truyền đơn chống chính phủ, đến năm 1960 được kết nạp vào “Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng Sài Gòn-Gia Định”?!.
Phi công Nguyễn Thành Trung (lúc đó là Trung úy Không quân VNCH) đã dùng máy bay phản lực F5-E ném bom Dinh Độc Lập vào lúc 8 giờ 30 phút sáng ngày 8-4-1975, tên thật của Trung là Đinh Khắc Chung, bí danh là Năm Chung, có anh cả là Đinh Khắc Cần, Cần đã tập kết ra Bắc rồi trở về Sài Gòn hoạt động?!.
Lê Hiếu Đằng từng là thành viên Ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn trước 1975, Đằng đã lén lút hoạt động cho cộng sản, sau năm 1975 Đằng được CSVN ban cho chức vị, chức sau cùng là “Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc” tại thành phố Sài Gòn, đến lúc nằm trên giường bệnh sắp lâm chung, Đằng mới tỉnh ngộ: “Quốc hội CSVN là bù nhìn”, Đằng viết: “Đó là một hiến pháp đi ngược lại lòng dân, không có dân chủ, nhất là trong vấn đề ruộng đất”. Ôi, dù tỉnh ngộ muộn màng cũng hơn không!
Còn nhiều người miền Nam đã tiếp tế lương thực, thuốc men cho VC đến sau năm 1975 mới sáng mắt sáng lòng thì hối hận muộn màng, nhưng khuôn khổ bài viết có hạn nên không thể kể hết!
III- Nước Việt Nam hiện nay:
Nhà cầm quyền CSVN cai trị đất nước bằng độc đảng, độc tài nhưng lại quỵ lụy Tàu cộng nên tương lai đất nước rất tối tăm! Vì vậy, có một số người Việt còn nặng tình quê hương đã đấu tranh quyết liệt, nhất là tuổi trẻ, như: Sinh viên Nguyễn Phương Uyên đã khẳng khái xác định tại Phiên tòa phúc thẩm ở Long An năm 2013, bằng câu nói lịch sử, “Tôi không cần giảm án. Tôi chỉ cần tòa xử đúng người đúng tội. Tôi cho rằng chống ĐCS không phải chống phá đất nước, dân tộc”.
Sinh viên Đinh Nguyên Kha đã dõng dạc trả lời tại phiên tòa tại Tòa án tỉnh Long An năm 2013: “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội”. Các Sinh viên thật là can trường không sợ quan tòa là “Người lên đồng nói những điều không do lý trí của họ, mà họ nói những điều do phù thủy điều khiển!”.
Chúng ta cũng không thể quên lòng can trường nhiệt huyết của: Nguyễn Hoàng Vi, Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vy, Nhạc sĩ Việt Khang, Nguyễn Đắc Kiên… Tuy nhiên, lòng sắt son đáng phục ấy chưa được đông đảo?! Dù vậy, người viết nghĩ rằng chiến thắng của CSVN ngày 30-4-1975 chỉ là chiến thắng bằng vũ lực, nhưng CSVN đã/đang thất bại về “Cuộc chiến ý thức hệ Quốc-Cộng” vì thắng hay bại trong cuộc chiến ý thức hệ không thể tính bằng chiếm thành, chiếm đất mà tính bằng ý thức chính nghĩa và lòng dân.
Nhớ đến câu nói của tướng Moshe Dayan (1915-1981), ông có biệt danh “Độc nhãn tướng quân”, vì mắt bên trái mang mảnh che màu đen, ông là nhà chính trị và là một danh tướng của nước Do Thái (Israel). Tướng Moshe Dayan sang thăm Việt Nam trước năm 1975, sau khi quan sát tình hình, đã nói rằng: “Muốn thắng cộng sản, phải để cho cộng sản thắng trước”. Nếu đúng như vậy, đất nước của chúng ta có hy vọng sáng sủa vậy.
Mong thay!
Ngày 12-6-2015
Nguyễn Lộc Yên
http://vietbao.com/p112a238893/cuoc-chien-quoc-cong-quan-trong-o-y-thuc-he
Nguồn: http://vuottuonglua.org/2015/06/cuoc-chien-quoc-cong-quan-trong-o-y-thuc-he/
Hãy Vinh Danh Người Lính Việt Nam Cộng Hoà
Nguyễn thị Thảo An
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình
thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo
vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế
độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây
dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế
độ xấu.
Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo
trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm
vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền
nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính
thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.
Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân
trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh
đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã
trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương.
Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng
in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và
chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho
quê hương.
Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng
súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ,
đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện
trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng
cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam .
Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người
lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi
từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm
có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá.
Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.
Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê
hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường
bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen.
Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm
chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay
ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống
thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.
Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy
nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau , Ia
Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay.
Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam
Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống
Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe
muỗi vo ve như sáo thổi.
Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã
ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở
Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay
ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho
tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm
poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền
nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho
thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn
của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa
quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no
ấm ở hậu phương.
Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở
thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng
Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu
phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp
loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính,
như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng
người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới
cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền
và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.
Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là
đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ
Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng
hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì
người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình
quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.
Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính
giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho
những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả
chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung
bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính
la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng
đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và
đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn
nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái
tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần
xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi.
Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái
hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những
người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.
Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với
đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha
nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ
vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược
xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi
tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người
âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống
giữ ngoài trận tuyến với đối phương.
Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở
một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một
chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt
ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc
nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.
Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai
nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó
là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm
chồng giấu giếm mảnh khăn sô.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn
gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người
lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi
và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.
Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị
ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác
anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an
thân.
Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối
giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích
của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho
địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền
sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.
Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù
nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn
báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định,
mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những
đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười
phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi
thở cuối cùng.
Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết
Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên,
thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải
Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như
tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.
Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để
ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và
cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai
hùng như người lính?
Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi
luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người
lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn
muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục
ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.
Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ
ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm
trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba
ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại
tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là
bất hạnh của riêng anh.
Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai
trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy
trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu
đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai
yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho
con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.
Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ
nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm
nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại
đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên
nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết
riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân
anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân
dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh
vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người
lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt
thoái.
Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng
gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt
mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn,
cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu
ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước
cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham
nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không?
Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ
của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để
an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa
một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?
Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần
cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc.
Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?
Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim
anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa
Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo
lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc?
Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối
cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương
tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh
công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và
người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết,
chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã
nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà
bình không thật đến ở Việt Nam.
Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề
biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con
giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi
xây dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng
Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng
đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai
hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.
Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì
người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những
sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch
sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi
Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển
Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết
bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái
tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá
tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm
ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn
những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng
ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do,
để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không
phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân
không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi
mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn
chẩy.
Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người
Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch
sử của dân tộc Việt Nam.
Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người
lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số
phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân
tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.
Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh
xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng
Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ
Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô
nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra
một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ
đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.
Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo,
và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không
có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực
anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem
thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn.
Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.
Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói
bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh
chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây
sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa
sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được
phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.
Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh
đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở
về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống
trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểmNghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)
Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi
anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương.
Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam,
tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước
thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không
cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên.
Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho
anh?
Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương
để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính,
mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu
sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng
đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ
tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán
thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố
Mỹ.
Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai
mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu
vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm
vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm
những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô
danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có
dịp vinh danh.
Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng
ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh
chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia
đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn
Hồng Thuỷ của Việt Nam.
Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương
người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có
phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót
lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người
lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm
thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy
hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào
cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức
tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có
ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong
những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội
lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người
Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.
Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về
trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã
xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.
Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong
thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính
? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở
một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có
thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà. Hãy giữ gìn và bảo vệ
tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những
truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.
Nguyễn thị Thảo An
Ngồn: http://batkhuat.net/bk-vinhdanh-nguoilinh-qlvnch.htm
SỰ THẬT VÌ SAO NGỤY VNCH LẠI BỊ THẤT BẠI
Xuất bản 1 thg 10, 2015
Kể
từ khi chế độ VNCH sụp đổ chúng ta thường nghe rất nhiều đến cụm từ
“VHCH bị bức tử” mà dân cờ vàng luôn than vãn . Bị bức tử có nghĩa là bị
buộc phải chết . Ai buộc? Họ không nói ra nhưng ai cũng có thể hiểu họ
ám chỉ Mỹ. Thế nhưng họ không bao giờ tỏ ra hận Mỹ và luôn trút sự hận
thù này cho CS.
Dân chống cộng cờ vàng nói như thế để chống chế và khỏa lấp rằng họ không hèn nhát, không phải họ không biết chiến đấu, không phải vì họ yếu kém phải bỏ chạy mà bị cưỡng bức phải thua, chứ họ vẫn anh hùng lắm. Mỹ đã “bức” họ phải “tử” chứ CS không thể làm họ tử được.
Võ Long Triều một bộ trưởng, một dân biểu trong chế độ VNCH, trong một bài viết đăng trên báo Người Việt mới đây lại không dùng từ này mà đặt câu hỏi “Ai bán VNCH cho cộng sản Hà Nội” rồi kết luận là bu Mỹ và Hà Nội đã thương lượng nhau để “bán” cái anh VNCH này. Võ Long Triều đặt câu hỏi như thế đã tự thú nhận VNCH là chỉ là một thứ đồ chơi hay chỉ là con cún của Mỹ cho nên bu muốn bán lúc nào thì bán muốn bán cho ai cũng được. Bị bán một cách tức tưởi.
Lúc thì Võ Long Triều nói Mỹ đi đêm với Tàu để dâng miền Nam VN:
“Được trả tự do năm 1988 tôi có dịp đọc hồi ký của Ngoại Trưởng Mỹ thời đó là ông Henry Kissinger mới biết rõ, chính ông ta dâng miền Nam Việt Nam cho Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai .”
Lúc thì nói Mỹ thương lượng với Hà Nội để bán đứng VNCH :
“Và sự kiện chứng minh rõ ràng nhứt, Kissinger và Tướng Haig tự ý thương lượng với Bắc Việt mà không hề hỏi ý kiến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong khi cả thế giới hiểu rằng sự đàm phán phải do hai bên Nam, Bắc Việt thương lượng điều kiện để tiến tới hòa bình. Hội đàm Paris chỉ là một màn kịch do Hoa Kỳ đạo diễn để trao Việt Nam Cộng Hòa vào tay cộng sản Hà Nội., “
Võ Long Triều , một bộ trưởng, một dân biểu cờ vàng còn nhận định và than thân trách phận thú nhận rằng Mỹ đã đem VNCH rao bán như bán mớ rau con cá thì các anh cờ vàng nghĩ sao? Một chế độ mà Mỹ muốn bán cho ai cũng được, muốn nó chết là nó phải chết không thể cưỡng lại thế mà cũng xưng danh là một “quốc gia” có chính nghĩa được sao? Hễ cứ ai nói rằng các anh là tay sai, là nô lệ thì các anh nhảy dựng lên mà phản bác. Các anh luôn tuyên truyền cho dân cái ảo tưởng các anh là đồng minh của Mỹ cho nó sang, đồng minh nào mà có quyền rao bán, bức tử các anh được như thế?
Báo chí và tâm lý chiến cờ vàng luôn nâng tầm quan trọng của VNCH lên hàng “đồng minh” của Mỹ và nổ rằng là VNCH là tiền đồn (của Mỹ) chống cộng số một ở Đông Nam Á cho nên Mỹ không thể xem nhẹ. Đồng minh của Mỹ nhưng chưa bao giờ tổng thống của VNCH được đón tiếp bằng nghi lễ xứng tầm đồng minh, chẳng bao giờ được phép bước chân vào nhà trắng .
VNCH đã chết rồi, dù có than thân trách phận rằng bị bức tử, bị bán, hay bị bỏ rơi thì cũng thế thôi. Nói một cách cụ thể và hình tượng thì VNCH chỉ là một thứ công cụ sử dụng cho lợi ích của Mỹ, không dùng được nữa thì vứt nó đi, sự thật đã quá rõ.
Cố thanh minh về việc phải cởi quần mà chạy nhằm giấu đi cái hèn cái nhục họ lại càng làm lòi cái bản chất nô lệ ra . Cái bản chất nô lệ đã được Nguyễn Văn Thiệu tổng thống VNCH thừa nhận công khai rằng Mỹ cho bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu.. Thế cho nên cái kết cục phải cởi quần chen nhau mà chạy chính là hệ quả của thân phận bầy tôi nô lệ.
Dân chống cộng cờ vàng nói như thế để chống chế và khỏa lấp rằng họ không hèn nhát, không phải họ không biết chiến đấu, không phải vì họ yếu kém phải bỏ chạy mà bị cưỡng bức phải thua, chứ họ vẫn anh hùng lắm. Mỹ đã “bức” họ phải “tử” chứ CS không thể làm họ tử được.
Võ Long Triều một bộ trưởng, một dân biểu trong chế độ VNCH, trong một bài viết đăng trên báo Người Việt mới đây lại không dùng từ này mà đặt câu hỏi “Ai bán VNCH cho cộng sản Hà Nội” rồi kết luận là bu Mỹ và Hà Nội đã thương lượng nhau để “bán” cái anh VNCH này. Võ Long Triều đặt câu hỏi như thế đã tự thú nhận VNCH là chỉ là một thứ đồ chơi hay chỉ là con cún của Mỹ cho nên bu muốn bán lúc nào thì bán muốn bán cho ai cũng được. Bị bán một cách tức tưởi.
Lúc thì Võ Long Triều nói Mỹ đi đêm với Tàu để dâng miền Nam VN:
“Được trả tự do năm 1988 tôi có dịp đọc hồi ký của Ngoại Trưởng Mỹ thời đó là ông Henry Kissinger mới biết rõ, chính ông ta dâng miền Nam Việt Nam cho Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai .”
Lúc thì nói Mỹ thương lượng với Hà Nội để bán đứng VNCH :
“Và sự kiện chứng minh rõ ràng nhứt, Kissinger và Tướng Haig tự ý thương lượng với Bắc Việt mà không hề hỏi ý kiến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong khi cả thế giới hiểu rằng sự đàm phán phải do hai bên Nam, Bắc Việt thương lượng điều kiện để tiến tới hòa bình. Hội đàm Paris chỉ là một màn kịch do Hoa Kỳ đạo diễn để trao Việt Nam Cộng Hòa vào tay cộng sản Hà Nội., “
Võ Long Triều , một bộ trưởng, một dân biểu cờ vàng còn nhận định và than thân trách phận thú nhận rằng Mỹ đã đem VNCH rao bán như bán mớ rau con cá thì các anh cờ vàng nghĩ sao? Một chế độ mà Mỹ muốn bán cho ai cũng được, muốn nó chết là nó phải chết không thể cưỡng lại thế mà cũng xưng danh là một “quốc gia” có chính nghĩa được sao? Hễ cứ ai nói rằng các anh là tay sai, là nô lệ thì các anh nhảy dựng lên mà phản bác. Các anh luôn tuyên truyền cho dân cái ảo tưởng các anh là đồng minh của Mỹ cho nó sang, đồng minh nào mà có quyền rao bán, bức tử các anh được như thế?
Báo chí và tâm lý chiến cờ vàng luôn nâng tầm quan trọng của VNCH lên hàng “đồng minh” của Mỹ và nổ rằng là VNCH là tiền đồn (của Mỹ) chống cộng số một ở Đông Nam Á cho nên Mỹ không thể xem nhẹ. Đồng minh của Mỹ nhưng chưa bao giờ tổng thống của VNCH được đón tiếp bằng nghi lễ xứng tầm đồng minh, chẳng bao giờ được phép bước chân vào nhà trắng .
VNCH đã chết rồi, dù có than thân trách phận rằng bị bức tử, bị bán, hay bị bỏ rơi thì cũng thế thôi. Nói một cách cụ thể và hình tượng thì VNCH chỉ là một thứ công cụ sử dụng cho lợi ích của Mỹ, không dùng được nữa thì vứt nó đi, sự thật đã quá rõ.
Cố thanh minh về việc phải cởi quần mà chạy nhằm giấu đi cái hèn cái nhục họ lại càng làm lòi cái bản chất nô lệ ra . Cái bản chất nô lệ đã được Nguyễn Văn Thiệu tổng thống VNCH thừa nhận công khai rằng Mỹ cho bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu.. Thế cho nên cái kết cục phải cởi quần chen nhau mà chạy chính là hệ quả của thân phận bầy tôi nô lệ.
Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!
Nguyễn Trọng Dân (Danlambao) - Cộng
Sản Hà Nội đang âm thầm mở cuộc triển lãm các loại vũ khí do Hoa Kỳ sản
xuất tại Hà Nội vào tháng Năm này như là một động thái mở cửa chào đón
chuyến đi sắp tới đây của Tổng Thống Obama vừa được loan báo vào ngày 22
cùng tháng. Cuộc triển lãm này cho thấy ý định bãi bỏ cấm vận vũ khí
của Hoa Kỳ đối với Cộng Sản Hà Nội ngày càng hiện rõ nhằm mở đường cho
hợp tác quân sự giữa hai nước thêm chặt chẽ và sâu rộng.
Tham gia cuộc triển lãm có hãng Boeing và Lockheed Martin, là hai hãng
hàng đầu của Hoa Kỳ sản xuất các loại vũ khí cần thiết cho Không quân,
nhất là các loại chiến đấu cơ tối tân hiện đại. Điều này cho thấy Hoa Kỳ
sẽ ra tay cố giúp Việt Nam hiện đại hóa khả năng không kích, vốn rất
cần cho sự phòng thủ và hải chiến.
Cuộc triển lãm này được bưng bít tối đa trên truyền thông "quốc doanh"
của Cộng đảng. Ngay cả phóng viên của hãng Reuter cũng không được vào
quan sát phỏng vấn và bộ Quốc Phòng của Cộng đảng giữ thái độ im lặng.
Tin tức của cuộc triển lãm được loan ra là do phát ngôn viên của hãng
Lockheed thừa nhận loan báo. Riêng phát ngôn viên của hãng Boeing thì
việc mua bán vũ khí của hãng cho Cộng đảng Hà Nội nếu có phải hoàn toàn
phụ thuộc vào sự cho phép của chính phủ Hoa Kỳ cũng như mức độ đồng ý
của bộ Quốc Phòng Mỹ.
Những lời tuyên bố của phát ngôn viên từ Boeing lẫn Lockheed cũng như sự
bưng bít thông tin của Hà Nội cho thấy cuộc triển lãm này thực chất là
sự chào hàng giới thiệu các loại vũ khí không kích hiện đại của chinh
phủ Hoa Kỳ để cho các viên chức Quốc Phòng của Cộng đảng Hà Nội suy tính
trước khi đi đến quyết định mua những loại vũ khí này. Việc chào hàng
vũ khí trước khi có quyết định bãi bỏ cấm vận vũ khí sát thương làm cho
vấn đề giữ kín thông tin càng thêm cần thiết.
Đối sách vừa thuyết phục, vừa o ép rất kiên nhẫn của Hoa Kỳ đối với Cộng
đảng Hà Nội đã bắt đầu có hiệu lực vì từ lâu, giới chóp bu của Cộng
đảng vẫn cố dựa vào Nga như là quốc gia chủ yếu cho nỗ lực hiện đại hóa
quốc phòng của mình.
Hà Nội đã tốn kém hơn cả chục tỷ Mỹ kim tiền thuế dân nghèo trong suốt
mười năm qua, mua không biết bao nhiêu vũ khí hạng nhì phế thải của Nga
để hy vọng Nga sẽ có lập trường thuận lợi cho Hà Nội trong lãnh vực đối
ngoại khi bàn thảo đến lãnh hải tại biển Đông giữa Việt Nam - Trung
Cộng. Thế nhưng Nga, tiền thì biết hốt bỏ vào túi nhưng lại không mở
miệng lấy một lời nói giúp Cộng đảng Hà Nội. Biết bao nhiêu lần dàn
khoan dầu HD 981 của Trung Cộng dí ra dí vào sát cạnh bờ biển Việt Nam,
người ta chỉ thấy có Ngoại Trưởng Hoa Kỳ lên tiếng làm áp lực buộc Trung
Cộng rút lui trong khi Nga thì im lặng như hến.
Đối sách dựa vào Nga sai lầm này của Cộng sản Hà Nội khiến nền quốc
phòng của Việt Nam bị tụt hậu nặng so các nước trong vùng, vốn tăng tốc
hiện đại hóa lực lượng Không - Hải của mình tối đa trước sự hiếu chiến
bành trướng của Trung Cộng. Ngày nay, Hà Nội phải nhục mặt đi xin xỏ
từng chiếc tàu tuần duyên cũ của Nhật hay của Mỹ để dùng lại thay vì cần
phải sớm có một hạm đội tuần duyên duyên hải hiện đại nhất nhì Đông Nam
Á từ lâu để cũng cố quốc phòng trên mặt biển.
Tất cả những vũ khí mà Cộng sản Hà Nội mua của Nga, Trung Cộng điều có
nhưng với số lượng nhiều hơn hẳn Việt Nam. Việt Nam có sáu tàu ngầm Kilo
hạng nhì mua từ Nga thì Trung Cộng có gần 12 chiếc như vậy là ít nhất
nhưng được tân trang hiện đại hơn. Còn về phần các chiến đấu cơ mua của
Nga như chiếc Sukhoi-27 chẳng hạn, Việt Nam có 12 chiếc thì Trung Cộng
có 59 chiếc tính vào năm 2013. Trong chiến tranh, nếu cả đôi bên điều sử
dụng cùng một loại vũ khí thì bên nào có số lượng nhiều hơn, bên đó
đương nhiên dành phần thắng. "Quantity is also a quality" là một sự thật
hiển nhiên của mọi cuộc chiến.
Cho nên nếu có được kỹ thuật không kích hiện đại bách chiến bách thắng
của Hoa Kỳ, ưu thế về số lượng của Trung Cộng đè nặng lên nền quốc phòng
Việt Nam bị giảm đi rõ rệt. Trong một trận Không hay Hải chiến, bên nào
có vũ khí với kỹ thuật cao hơn, bên đó dễ dàng chiếm ưu thế và dễ dành
phần thắng lợi nếu không phạm phải lỗi lầm chiến thuật. Trận không chiến
trên bầu trời Triều Tiên giữa Hoa Kỳ và Không quân Liên Xô-Trung Cộng
ủng hộ Cộng Sản Bắc Hàn vào năm 1950 hay cuộc không chiến trên bầu trời
Irag năm 1990 đã cho thấy các loại chiến đấu cơ của Nga không thể là đối
thủ của các chiến đấu cơ hiện đại của Hoa Kỳ.
Do đó, có được vũ khí không kích của Hoa Kỳ sẽ khiến Việt Nam có thế
mạnh hơn trong phòng thủ cũng như trong tấn công và có tiếng nói mạnh
hơn ở mọi cuộc hòa đàm để giải quyết căng thẳng tại biển Đông. Đó là
chưa kể hợp tác với Hoa Kỳ thì sẽ có sự hậu thuẫn về đối ngoại và quân
sự một cách rõ ràng từ Washington chứ không phải ăn rồi quẹt mỏ như Nga
mà Hà Nội đã phải tốn công phí sức chiều chuộng suốt bao năm qua một
cách vô ích.
Lịch sử của Việt Nam vẫn bị ám ảnh bởi bài học của triều đình nhà
Nguyễn. Về đối ngoại, nhà Nguyễn có một quân đội rất hùng mạnh trấn an
hai nước Lào - Miên khỏi bị Thái Lan xâm lược. Về đối nội, nhà Nguyễn
vẫn được lòng bởi hầu hết giới sĩ phu và người dân bởi có công khai phá
và làm phương Nam ngày một trù phú cũng như có chính sách thuế má nông
nghiệp khoan dung. Thế mà nhà Nguyễn, chỉ vì trình độ kỹ thuật quân sự
bị lạc hậu nên đành thúc thủ trước người Pháp để rồi lâm vào tình trạng
thuộc địa.
Tình trạng quân sự Việt Nam nay lại một lần nữa y chang tình trạng giống
triều đình nhà Nguyễn trước kia, kỹ thuật thì quá lạc hậu, không chế
nổi cây đinh thì làm sao có khả năng sản xuất vũ khí hiện đại.
Hơn thế nữa, khác với triều đình nhà Nguyễn, người dân trong nước chỉ
chực chờ có cơ hội thì ăn tươi nuốt sống hết bọn đảng viên Cộng đảng hà
bá bức hiếp họ bấy lâu nay. Cộng Sản Hà Nội nếu không chào đón và ráng
năn nỉ Hoa Kỳ giúp đỡ canh tân nền quốc phòng thì chắc chắn sẽ lãnh phải
hậu quả thảm khốc, bên ngoài thì bị Trung Cộng tìm đủ cách thôn tính bá
quyền, bên trong thì bị người dân chờ cơ hội vùng lên lật đổ.
Washington cũng nhanh chóng nhận ra được sự dốt nát yếu kém về chiến
lược quốc phòng Không-Hải của Hà Nội nên lần lượt mời các sĩ quan cao
cấp của Cộng đảng bay ra Hàng Không Mẫu Hạm thăm viếng học hỏi cũng như
cử cả tướng lãnh tuần duyên sang Việt Nam mở các lớp đào tạo ngắn hạn
cho giới sĩ quan của Cộng đảng.
Tin tức cho biết có bảy chiếc tàu tuần duyên cũ được Hoa Kỳ trao tặng
cho Việt Nam dùng lại trước tình huống căng thẳng trước mắt khi Trung
Cộng xâm nhập lãnh hải của Việt Nam ngày một nhiều như chổ không người.
Dù vậy, Việt Nam vẫn không có đủ tàu tuần duyên dàn trải gần 3600 cây số
bờ biển Quá bí lối đường cùng trước tình trạng bị Trung Cộng lấn hiếp
lãnh hải ngày một rõ, Cộng Sản Hà Nội hết cách phải đành mở miệng công
khai xin Nhật thêm tàu tuần duyên vào tuần trước.
Cuộc triển lãm vũ khí này cũng cho thấy Hà Nội đã hết đường lựa chọn
trước sự đe dọa ngày mỗi tăng từ Trung Cộng, một quốc gia mà Hà Nội vẫn
mong mỏi tìm thấy một "niềm tin chiến lược" để dựa dẫm vì cùng hệ thống
chính trị Cộng Sản độc tài tàn bạo đối với người dân.
Điều mà giới chuyên gia muốn nhấn mạnh đến là Hà Nội có thể sử dụng một
phần tiền thuê mướn cảng Cam Ranh từ Hoa Kỳ để làm kinh phí cho sự hiện
đại hóa quân đội từ kỹ thuật đến vũ khí thay vì phải bòn rút ngân khố eo
hẹp do bị nợ nần và bị đục khoét tham nhũng để mua vũ khí của Nga như
trước kia. Rõ ràng, cuộc triển lãm này mở màn cho những thương lượng
thuê mướn cảng Cam Ranh dễ dàng hơn.
Câu hỏi đặt ra là, nếu ngày nay, Cộng Sản Hà Nội nhận vũ khí của Mỹ, cho
phép Mỹ hiện diện quân sự trên lãnh thổ Việt Nam để trợ giúp và bảo vệ
Việt Nam thoát khỏi thảm họa thôn tính của Cộng Sản từ phương Bắc là
Trung Cộng thì năm xưa, Việt Nam Cộng Hòa cần Hoa Kỳ hiện diện để trợ
giúp quốc gia nhỏ bé nhưng kiên cường chống lại Cộng Sản này trước sự
xâm lấn cũng của Cộng Sản cũng từ phương Bắc (Cộng Sản Bắc Việt) thì có
gì là khác biệt?
Tại sao lại chụp mũ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nhỏ bé kiên cường chống Cộng Sản phương Bắc là tay sai của Mỹ?
Không phải Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết "Ta đánh Mỹ đây là đánh cho Liên Xô - Trung Quốc (tức Trung Cộng)” hay sao?
Ngày nay, cầu cạnh Hoa Kỳ giúp đỡ từ kinh tế đến quốc phòng tức là Cộng
Sản Hà Nội tự vạch mặt cho mọi thế hệ trước lẫn sau thấy rõ hình ảnh “đế
quốc” Mỹ ngày nào “xâm lược” Việt Nam chỉ là giả dối lừa bịp và xua gần
một triệu con em miền Bắc phải hy sinh "kháng chiến chống “đế quốc” Mỹ"
dùm cho "các nước anh em Cộng Sản", trong đó có Trung Cộng một cách quá
oan uổng tàn nhẫn!
Nếu thế thì ý nghĩa của chính nghĩa mà chính thể Việt Nam Cộng Hòa cưu
mang cho dân tộc từ những ngày đầu cho đến nay - đó là ráng duy trì Việt
Nam thành một quốc gia dân chủ phú cường không Cộng Sản lại quá đúng
trong lòng và trong suy nghĩ mỗi người dân!
Phải chăng sự hiện diện và giúp đỡ Việt Nam từ kinh tế đến quốc phòng
của Hoa Kỳ để chống họa xâm lăng của Trung Cộng sẽ khiến hình ảnh Việt
Nam Cộng Hòa hồi sinh trở lại?
Hồi sinh trong suy nghĩ của mỗi người dân với khát vọng Tư Do.
Hồi sinh trong sử sách đang kêu gào tôn trọng Sự Thật.
Hồi sinh ở trong hy vọng của bác nông dân có khát vọng bình dị "người cày có ruộng" sẽ thành Hiện Thực.
Quá khứ mấy mươi năm cho thấy Cộng sản chỉ đem đến thương đau, chết
chóc, ai oán cho người dân Việt Nam, tìm đủ cách để xâm lược và nô lệ
người dân Việt dưới mọi hình thức dối trá bịp bợm trong khi Việt Nam
Cộng Hòa thì đem đến an cư lạc nghiệp, giáo dục nhân tánh để dân tộc đùm
bọc thương yêu tôn trọng sự thật, không có cảnh người đấu tố người và
Việt Nam Cộng Hòa kêu gọi bảo vệ quyền tự do dân chủ và quyền tự quyết
của dân tộc đến hơi thở cuối cùng.
Nếu thật sự đúng là như vậy thì “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!” có gì là sai?
Bản tin tiếng Anh triển lãm Vũ khí tại Hà Nội:
Ngồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2016/05/viet-nam-cong-hoa-muon-nam.html#more
Người Mỹ gốc Việt và lễ Chiến sĩ Trận vong ở Hoa Kỳ
Hòa Ái, phóng viên RFA
2016-05-25
2016-05-25
Nhân ngày
lễ Chiến sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 21 tháng 5
năm 2016, Nhà Việt Nam-Vietnamese American Cultural Center tổ chức một
buổi họp mặt để tri ân các cựu quân nhân Hoa Kỳ cùng các cựu chiến binh
Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong chiến tranh Việt Nam (VN).
“Trong chiều hướng nhớ ơn những người lính Mỹ thì hôm nay chúng tôi làm một bữa tiệc nhỏ để tri ân những người lính Mỹ đã chết, những người lính Mỹ còn lại ngày hôm nay cũng như ngậm ngùi nhớ đến những đồng bào cùng quân nhân VNCH đã chết trong cuộc chiến thảm khốc, một cuộc chiến dùng rất nhiều súng đạn, một cuộc chiến mà người ta không biết đặt tên là gì, có người gọi là cuộc chiến ý thức hệ, có người gọi cuộc nội chiến... Dù tên là gì đi nữa thì theo tôi đó là cuộc chiến thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc mình.”
“Tôi rất vui khi gặp lại những người bạn VN trong quân ngũ và tôi luôn có mặt trong các sinh hoạt của cộng đồng cũng như luôn hỗ trợ họ trong khả năng của mình. Chúng tôi luôn cố gắng giúp đỡ các tổ chức của đồng VN trên khắp nước Mỹ trong việc thúc đẩy tiến trình tự do dân chủ hóa và nhân quyền ở VN. Quá trình tranh đấu này sẽ không chấm dứt cho đến khi những điều đó thành hiện thực ở VN. Đối với tôi, cuộc chiến này chưa hề dứt kể từ năm 1975.”
Trao đổi với Hòa Ái, Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh cho biết bà đến tham dự buổi họp mặt với tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Buồn vì ký ức về chiến tranh VN vẫn hiển hiện và mỗi khi có dịp đi ngang Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở Washington DC, bà cảm thấy xót xa vì người dân Mỹ chưa thực sự hiểu rõ về cuộc chiến tranh này cũng như chưa có đài tưởng niệm dành cho tử sĩ VNCH do Chính phủ Hoa Kỳ dựng lên ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Còn niềm vui đối với nữ Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh là được nghe những người lính Hoa Kỳ chia sẻ luôn cùng cộng đồng người Mỹ gốc Việt hỗ trợ cho hơn 90 triệu người Việt trong nước vẫn đang đấu tranh tìm kiếm tự do dân chủ.
Chúng tôi luôn cố gắng giúp đỡ các tổ chức của đồng VN trên khắp nước Mỹ trong việc thúc đẩy tiến trình tự do dân chủ hóa và nhân quyền ở VN.
- Tiến sĩ Grant McClure
“Trong chiều hướng nhớ ơn những người lính Mỹ thì hôm nay chúng tôi làm một bữa tiệc nhỏ để tri ân những người lính Mỹ đã chết, những người lính Mỹ còn lại ngày hôm nay cũng như ngậm ngùi nhớ đến những đồng bào cùng quân nhân VNCH đã chết trong cuộc chiến thảm khốc, một cuộc chiến dùng rất nhiều súng đạn, một cuộc chiến mà người ta không biết đặt tên là gì, có người gọi là cuộc chiến ý thức hệ, có người gọi cuộc nội chiến... Dù tên là gì đi nữa thì theo tôi đó là cuộc chiến thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc mình.”
“Tôi rất vui khi gặp lại những người bạn VN trong quân ngũ và tôi luôn có mặt trong các sinh hoạt của cộng đồng cũng như luôn hỗ trợ họ trong khả năng của mình. Chúng tôi luôn cố gắng giúp đỡ các tổ chức của đồng VN trên khắp nước Mỹ trong việc thúc đẩy tiến trình tự do dân chủ hóa và nhân quyền ở VN. Quá trình tranh đấu này sẽ không chấm dứt cho đến khi những điều đó thành hiện thực ở VN. Đối với tôi, cuộc chiến này chưa hề dứt kể từ năm 1975.”
Trao đổi với Hòa Ái, Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh cho biết bà đến tham dự buổi họp mặt với tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Buồn vì ký ức về chiến tranh VN vẫn hiển hiện và mỗi khi có dịp đi ngang Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở Washington DC, bà cảm thấy xót xa vì người dân Mỹ chưa thực sự hiểu rõ về cuộc chiến tranh này cũng như chưa có đài tưởng niệm dành cho tử sĩ VNCH do Chính phủ Hoa Kỳ dựng lên ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Còn niềm vui đối với nữ Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh là được nghe những người lính Hoa Kỳ chia sẻ luôn cùng cộng đồng người Mỹ gốc Việt hỗ trợ cho hơn 90 triệu người Việt trong nước vẫn đang đấu tranh tìm kiếm tự do dân chủ.
Chúng tôi luôn cố gắng giúp đỡ các tổ chức của đồng VN trên khắp nước Mỹ trong việc thúc đẩy tiến trình tự do dân chủ hóa và nhân quyền ở VN.
- Tiến sĩ Grant McClure
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vietnamese-community-w-memorial-day-ha-05242016081305.html/052416-ha.mp3
Nhân ngày lễ Chiến sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 21 tháng 5 năm 2016, Nhà Việt Nam-Vietnamese American Cultural Center tổ chức một buổi họp mặt để tri ân các cựu quân nhân Hoa Kỳ cùng các cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong chiến tranh Việt Nam (VN).
Chúng tôi làm một bữa tiệc nhỏ để tri ân những người lính Mỹ đã chết, những người lính Mỹ còn lại ngày hôm nay cũng như ngậm ngùi nhớ đến những đồng bào cùng quân nhân VNCH đã chết trong cuộc chiến thảm khốcCuộc chiến VN đã chấm dứt 41 năm nhưng dư âm của cuộc chiến này vẫn mãi đọng lại trong lòng của nhiều người Việt tại Hoa Kỳ. Đặc biệt, trong không khí ngày lễ Chiến sĩ Trận vong hàng năm, dân chúng Mỹ tưởng nhớ những người lính đã ngã xuống ở các chiến trường trên khắp thế giới vì lý tưởng tự do của người dân Hiệp chủng quốc, đây cũng là thời điểm nhắc nhở về 58 ngàn quân nhân Mỹ đã hy sinh ở chiến trường VN. Sau hơn 4 thập niên qua, Vietnamese American Cultural Center-Nhà Việt Nam lần đầu tiên tổ chức một buổi họp mặt các cựu quân nhân Mỹ và VNCH tại hội trường trong khuôn viên Đại học Nova, ở thành phố Annandale, tiểu bang Virginia. Đại diện của Nhà Việt Nam, nhà văn Lê Thị Nhị cho Đài ACTD biết ý nghĩa của buổi họp mặt này:
- Nhà văn Lê Thị Nhị
“Trong chiều hướng nhớ ơn những người lính Mỹ thì hôm nay chúng tôi làm một bữa tiệc nhỏ để tri ân những người lính Mỹ đã chết, những người lính Mỹ còn lại ngày hôm nay cũng như ngậm ngùi nhớ đến những đồng bào cùng quân nhân VNCH đã chết trong cuộc chiến thảm khốc, một cuộc chiến dùng rất nhiều súng đạn, một cuộc chiến mà người ta không biết đặt tên là gì, có người gọi là cuộc chiến ý thức hệ, có người gọi cuộc nội chiến... Dù tên là gì đi nữa thì theo tôi đó là cuộc chiến thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc mình.”
Buổi họp mặt hôm chiều Chủ Nhật, ngày 21/5/2016, Hòa Ái ghi nhận có sự hiện diện của các cựu quân nhân Hoa Kỳ cùng cựu chiến binh VNCH và nhiều người Mỹ gốc Việt đến tham dự. Lần lượt đại diện cho các thế hệ người Việt ở Mỹ bày tỏ lòng biết ơn đối với những người lính đã anh dũng chiến đấu cho người dân Việt. Họ ngậm ngùi tưởng niệm 58 ngàn binh sĩ Mỹ cùng khoảng 260 ngàn tử sĩ VNCH và hàng trăm ngàn đồng bào đã bỏ mình trong cuộc chiến VN. Những người Mỹ gốc Việt thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 chia sẻ không bao giờ quên sự hy sinh cao cả của những người lính Mỹ và những người lính thuộc quân lực VNCH và không ít người Mỹ gốc Việt thuộc các thế hệ tiếp nối đã chọn con đường binh nghiệp để tiếp tục dấn thân bảo vệ cho lý tưởng tự do mà thế hệ cha chú của họ hằng đeo đuổi như lời khẳng định của Trung tá Hải quân Thiệp Võ trong buổi họp mặt này.
Về phần cựu quân nhân Mỹ và cựu chiến binh VNCH, họ cùng ôn lại kỷ niệm thời thanh xuân ở chiến trường VN, dường như quá khứ vẫn đong đầy trong tâm thức của những người lính nay đã già. Mặc dù nhiều kỷ niệm buồn vui được hàn huyên tâm sự nhưng câu chuyện về đất nước VN hiện tại là chủ đề chính để họ thảo luận cùng nhau. Tham dự buổi họp mặt, Tiến sĩ Grant McClure, từng là cố vấn trong thời chiến tranh VN, nói với Đài RFA:
“Tôi rất vui khi gặp lại những người bạn VN trong quân ngũ và tôi luôn có mặt trong các sinh hoạt của cộng đồng cũng như luôn hỗ trợ họ trong khả năng của mình. Chúng tôi luôn cố gắng giúp đỡ các tổ chức của đồng VN trên khắp nước Mỹ trong việc thúc đẩy tiến trình tự do dân chủ hóa và nhân quyền ở VN. Quá trình tranh đấu này sẽ không chấm dứt cho đến khi những điều đó thành hiện thực ở VN. Đối với tôi, cuộc chiến này chưa hề dứt kể từ năm 1975.”
Cùng tham dự trong buổi họp mặt tri ân những người lính do Nhà Việt Nam tổ chức, Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh chia sẻ ký ức tuổi thơ trong những giờ phút cuối cùng ngày 30/4/75 rời quê hương VN, bà vẫn luôn nhớ về hình ảnh những người lính đã quên mình cố gắng bảo vệ sự an nguy cho người dân trong đó có bà. Và trong suốt 4 thập niên qua, Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh tin rằng chính bà cũng như cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ hấp thụ được lý tưởng tự do dân chủ công bằng của xã hội Mỹ và bà nhấn mạnh đó là trách nhiệm tiếp tục gìn giữ lý tưởng này đối với quốc gia đã mở rộng vòng tay đón nhận những người tị nạn như bà.
Trao đổi với Hòa Ái, Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh cho biết bà đến tham dự buổi họp mặt với tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Buồn vì ký ức về chiến tranh VN vẫn hiển hiện và mỗi khi có dịp đi ngang Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở Washington DC, bà cảm thấy xót xa vì người dân Mỹ chưa thực sự hiểu rõ về cuộc chiến tranh này cũng như chưa có đài tưởng niệm dành cho tử sĩ VNCH do Chính phủ Hoa Kỳ dựng lên ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Còn niềm vui đối với nữ Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh là được nghe những người lính Hoa Kỳ chia sẻ luôn cùng cộng đồng người Mỹ gốc Việt hỗ trợ cho hơn 90 triệu người Việt trong nước vẫn đang đấu tranh tìm kiếm tự do dân chủ.
Chúng tôi luôn cố gắng giúp đỡ các tổ chức của đồng VN trên khắp nước Mỹ trong việc thúc đẩy tiến trình tự do dân chủ hóa và nhân quyền ở VN.“Niềm vui hơn nữa là khi gặp những thế hệ sau của người Mỹ gốc Việt như anh Trung tá Hải quân lúc nãy thì mình nhìn thấy thế hệ tương lai VN, người trẻ VN ở Hoa Kỳ đang cố gắng tiếp bước cha anh để tiếp tục chiến đấu bảo vệ cho tự do và bình an của tất cả chúng ta ở quê hương mới này. Và lại liên tưởng đến những người trẻ người VN trong nước đang cố sức tranh đấu trong một hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt dưới sự đàn áp dã man của nhà cầm quyền để giành quyền sống, để đòi được những quyền căn bản nhất của con người là được tự do mưu tìm hạnh phúc của mình.”
- Tiến sĩ Grant McClure
Buổi họp mặt tri ân các cựu quân nhân Mỹ-Việt do Nhà Việt Nam tổ chức kết thúc trong tình thân ái của những người tham dự. Các cựu chiến binh và quan khách chia tay với ước nguyện cùng nhau hỗ trợ cho người Việt trong nước sớm được hưởng giá trị “tự do-dân chủ-nhân quyền” thật sự như mọi người đang thụ hưởng trên đất nước Hoa Kỳ.
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vietnamese-community-w-memorial-day-ha-05242016081305.html
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/05/nguoi-my-goc-viet-va-le-chien-si-tran.html |
Lần về quá khứ- NHỮNG TRẬN ĐÁNH VANG LỪNG CHIẾN SỬ
HÀNH QUÂN LAM SƠN 719- NAM HẠ LÀO.
Tác giả: Huỳnh Mai St.8872
Bh Dạ Lệ Huỳnh - July 15, 2012
Căn Cứ Hỏa lực 6- Đồng Minh Hoa Kỳ Phản Bội
Chúng ta là chiến sĩ QL.VNCH, đã "Gảy súng tan hàng...!??" với ngày biến cố lịch sử, 30-4-1975, là nổi đau đớn, uất hận tràn lòng.Chúng ta chiến bại là vì Mỹ phản bội đồng minh chiến sĩ VNCH. Và nỗi buồn nhục nhất:"Không chiến đấu cho quê hương chính mình!??"của chiến hữu đồng minh Hoa Kỳ rút quân tháo chạy khỏi Miền NamViệt NamVNCH, khi Mỹ hoàn tất thương lượng bán đứng Miền Nam VN cho Tầu Cộng/TQ.Chúng ta hãy xem lại những đoạn video-Youtuble, cuộc hành quân Lam Sơn 719, tại ngả 3 biên giới Nam Hạ Lào. Để thấy được sự trải lòng,vì dân, vì nước và sự
hy sinh dũng cảm của chiến sĩ VNCH.Và còn cuộc chiến đấu nào hơn thế nữa không, mới gọi là vô trách nhiệm!??, và bị Việt gian đâm sau lưng chiến sĩ!?? của bọn thời cơ "Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản!?"
(03/17/2012 11:39 AM) (Xem: 1823)
Cuộc Hành quân LAM SƠN 719 Thất bại nặng nề.
https://youtu.be/Xyun3b_fjr0?list=PLfw56uZ-u5Ouv8YdI8F5J-figJVXIqic_
quansuvietnam: Người Mỹ Phản Bội Hay Tội Đánh Mỹ (17/03)
quansuvietnam Người Mỹ Phản Bội Hay Tội Đánh Mỹ
Một thời chinh chiến
Tg Huỳnh Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
March 15, 2012
9:49 PM
Mỹ Cộng, Việt Cộng bắt tay Hai thằng Đối Tác Việt Nam ăn mày!
Chúng tôi, những chiến
sĩ QL.VNCH nơi địa đầu, hỏa tuyến -Tây Nguyên trung phần- ngà ba biên
giới Việt- Miên –Lào, trong trận địa chiến Lam Sơn 719 Nam Hạ Lào. Nơi
đây căn cứ Hỏa Lục 6 của Mỹ đã bàn giao“ Lầm lộn” cho quân cộng sản Bắc
Việt, để rút quân, trước khi Việt Nam hóa chiến tranh…Đã nhận rỏ hành
động phản bội của đồng minh Hoa Kỳ, bắt tay, và bật đèn xanh cho quân
Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập và tiến chiếm Miền nam VNCH tại ngả ba biên
giới, được sự bỏ ngỏ căn cứ hỏa lực số 6 Hoa Kỳ. Do Hà Nội áp lực “Việt
Nam hóa chiến tranh” trong bàn thảo HĐ Paris có Trung Cộng cố vấn Bắc
Việt-Hà Nội tham dự cùng phía Hoa Kỳ để quyết định con cờ Miền Nam VNCH
trong chiến tranh VN.
Để chiếm lại ngọn núi
máu Vinky, cao trên 1.886 m, thuộc Căn cứ 6 của Mỹ. Trung Đoàn
47/SĐ.22BB được lệnh chuyển quân rời bỏ vùng bình nguyên Tuy Hòa-Phú Yên
đầy sóng biển, lên vùng Tây Nguyên Pleiku-KomTum rừng núi chập chùng;
mây bay ngang đầu. Chuyển từ vùng Du Kích chiến sang vùng Trận Địa Chiến
với mệnh lệnh tiếp viện giải cứu Căn Cứ Hỏa Lực 6 tại Đắc-Tô tỉnh
Kom-Tum bị Cộng Quân chính qui Bắc Việt chiếm lấy khi Hoa Kỳ rút quân
theo kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh.
Ông Thần “Ben Hét”- Lạc Lối Tạo Anh Hùng
Xem thêm: Ông Thần " Ben Hét "
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/tiep-theoong-than-ben-het.html
Xem thêm:
NGƯỜI LÍNH GIÀ KHÔNG BAO GIỜ CHẾT
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/08/nguoi-linh-gia-khong-bao-gio-chet.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét