VC xin "ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN" - 1973
1- http://youtu.be/sFdxhVxoEbw
2- Hanoi - CS BacViet tuyen bo dau hang 1973 (unknown)
Xuất bản 21 thg 12, 2015
Năm 1973 Cộng sản Bắc Việt tuyên bố đầu hàng nhưng Hoa Kỳ không chấp thuận
Tiết lộ Lịch sử The Viet Nam War Unknown Images (1973) The North Vietnamese Surrender.
Năm 1973: Cộng sản Bắc Việt tuyên bố đầu hàng nhưng Hoa Kỳ không chấp nhận. Sự thật này đã bị giới truyền thông trong và ngoài nước giấu nhẹm.
Những tài liệu bất ngờ cùng nhân chứng cao cấp của chính quyền Hoa Kỳ cho biết sau năm 1968, CSVN đã bị kiệt quệ nhân sự vì hầu hết các lực lượng chính qui chủ lực quân CSVN đã bị Mỹ và VNCH tiêu diệt. Vào năm 1972 máy bay B52 đã san bằng Bắc Việt đưa tới sự việc lãnh đạo đảng CSVN gửi điện thư Đầu Hàng Vô Điều Kiện tới phòng truyền tin Hoa Kỳ.
Bức điện thư đầu hàng của CSVN đã được phòng truyền tin gửi về NGŨ GIÁC ĐÀI, thay vì tuyên bố cho thế giới biết về sự việc CSVN đầu hàng. CIA đã đưa về nước 79 nhân viên phòng truyền tin Hoa Kỳ và thay đổi hoàn toàn nhân viên mới. Điện thư đầu hàng đã được ém lại.
Cái gọi là "Đại Thắng Mùa Xuân" mà Cộng sản luôn khoe khoang bấy lâu nay thực chất chỉ là một sự bố thí của Hoa Kỳ sau khi có được những thỏa thuận chính trị và kinh tế to lớn hơn với Trung Cộng.
Người phương Tây nhận xét về người Mỹ như sau: "Hoa Kỳ không có bạn hay thù. Họ chỉ có những mối quan hệ có lợi"
Điều này cho thấy từ năm 1972, Hoa Kỳ đã âm thầm xác nhận chuyện chấp nhận để quân đội Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam; (nếu Bắc Việt trao trả tù binh Mỹ và đợi sau khi quân đội Mỹ rút hết khỏi miền Nam). Đây là một sự sắp xếp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc nếu họ không nói thì khó có tài liệu chứng minh, tuy nhiên chúng ta có thể viết lại trang sử qua những nhân chứng sống.
Tiết lộ Lịch sử The Viet Nam War Unknown Images (1973) The North Vietnamese Surrender.
Năm 1973: Cộng sản Bắc Việt tuyên bố đầu hàng nhưng Hoa Kỳ không chấp nhận. Sự thật này đã bị giới truyền thông trong và ngoài nước giấu nhẹm.
Những tài liệu bất ngờ cùng nhân chứng cao cấp của chính quyền Hoa Kỳ cho biết sau năm 1968, CSVN đã bị kiệt quệ nhân sự vì hầu hết các lực lượng chính qui chủ lực quân CSVN đã bị Mỹ và VNCH tiêu diệt. Vào năm 1972 máy bay B52 đã san bằng Bắc Việt đưa tới sự việc lãnh đạo đảng CSVN gửi điện thư Đầu Hàng Vô Điều Kiện tới phòng truyền tin Hoa Kỳ.
Bức điện thư đầu hàng của CSVN đã được phòng truyền tin gửi về NGŨ GIÁC ĐÀI, thay vì tuyên bố cho thế giới biết về sự việc CSVN đầu hàng. CIA đã đưa về nước 79 nhân viên phòng truyền tin Hoa Kỳ và thay đổi hoàn toàn nhân viên mới. Điện thư đầu hàng đã được ém lại.
Cái gọi là "Đại Thắng Mùa Xuân" mà Cộng sản luôn khoe khoang bấy lâu nay thực chất chỉ là một sự bố thí của Hoa Kỳ sau khi có được những thỏa thuận chính trị và kinh tế to lớn hơn với Trung Cộng.
Người phương Tây nhận xét về người Mỹ như sau: "Hoa Kỳ không có bạn hay thù. Họ chỉ có những mối quan hệ có lợi"
Điều này cho thấy từ năm 1972, Hoa Kỳ đã âm thầm xác nhận chuyện chấp nhận để quân đội Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam; (nếu Bắc Việt trao trả tù binh Mỹ và đợi sau khi quân đội Mỹ rút hết khỏi miền Nam). Đây là một sự sắp xếp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc nếu họ không nói thì khó có tài liệu chứng minh, tuy nhiên chúng ta có thể viết lại trang sử qua những nhân chứng sống.
https://youtu.be/mH681nf7F74
VNCH 2010: VC đầu hàng 1973 CSVN Begged for UnConditional Surrender
Giới thiệu,
Đã tải lên vào 30-05-2010
--- CS Bac Viet du dinh dau hang vo dieu kien vao nam 1973
https://www.youtube.com/watch?v=2og5r...
--- The Truth about the Vietnam War - PragerUniversity
https://www.youtube.com/watch?v=7hqYG...
--- The Truth About the Vietnam War Told by the People 01
https://www.youtube.com/watch?v=eE0eT...
--- The Truth About the Vietnam War Told by the People 02
https://www.youtube.com/watch?v=KZFXm...
--- Ta Đánh Miền Nam là Đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc
https://www.youtube.com/watch?v=g4Zhy...
https://www.youtube.com/watch?v=2og5r...
--- The Truth about the Vietnam War - PragerUniversity
https://www.youtube.com/watch?v=7hqYG...
--- The Truth About the Vietnam War Told by the People 01
https://www.youtube.com/watch?v=eE0eT...
--- The Truth About the Vietnam War Told by the People 02
https://www.youtube.com/watch?v=KZFXm...
--- Ta Đánh Miền Nam là Đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc
https://www.youtube.com/watch?v=g4Zhy...
3 nhận xét của Mai nguyễn Huỳnh St.8872
* CỘNG SẢN BẮC VIỆT ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN.
Trong chiến dịch Operation Line Backer 1-2 của Hoa Kỳ dội bomb Bắc Việt, san bằng bình địa Hà Nội trong vòng 12 ngày đêm cuối xuân 1972, để buộc Lê Đức Thọ/ Hà Nội trở lại hội đàm Ba lê; ký bản HĐ Paris; đầu năm 27-1-1973. Để Mỹ giao Miền N
am VNCH cho Trung Cộng và tay sai Cộng Sản Bắc Việt.
Mặc dù Cộng Sản Hà Nội/ Bắc Việt xin đầu hàng vô điều kiện Hoa Kỳ, cuối đêm giao thừ- 31-12-1972, với viên đạn hỏa tiễn Sam, của Liên Xô, cuối cùng hết đạn bắn, vì bị hỏng hốc, không chịu bay lên bầu trời đón pháo đài bay B.52 của Mỹ.
Hoa Kỳ đánh Cộng Sản Nga Tàu mà không muốm thắng!?. Cho nên không chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của Cộng Sản Bắc Việt Nam, mà chỉ muốn làm giá cao mặt hàng " Miềm Nam VNCH" để trao đổi, hay bán đứng VNCH, để đổi lấy thị trường tiêu thụ hàng hóa đông dân- 1,3 tỷ dân TQ-
Mỹ không chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của Cộng Sản Bắc Việt là vì quyền lợi riêng tư nước Mỹ; không phải vì Tự Do- dân chủ cho Việt Nam, hay an ninh- hòa bình thế gới, do Hoa Kỳ có thiện chí Tự Do và chịu trách nhiệm hòa bình!!!
* QUÂN CSBV ĐẦU HÀNH VÔ ĐIỀU KIỆN- ĐỒNG MINH HOA KỲ & QL.VNCH- 1973
Ai thắng ai trong cuộc chiến tranh quốc cộng này!, giữa Việt gian Cộng Sản và chính nghĩa Quốc Gia VNCH. Thời gian 38 năm qua đã giải mả, phơi bày sự thật:quân Cộng Sản Bắc Việt- Hà Nội- đã đầu hàng vô điều kiện đồng minh Hoa Kỳ & QL.VNCH trong chiến địch Operation Linebacker I & II san bằng Hà nội của không lực B.52 Hoa Kỳ.Nhưng rất tiếc Hoa Kỳ tráo trở chiến thắng... trở thành cuộc phản bội đồng minh VNCH để đổi lấy thị trường kinh tế đông dân tiêu thụ của 1 tỷ 3 dân Trung Cộng, cho cuộc đánh đổi Tự Do Miền Nam VNCH. Để rồi Quân Cộng Sản Băc Việt xoay trở tình hình và thắng ngược lại Miền nam VNCH ngày 30-4- 1975 khi Mỹ thỏa hiệp sống chung hòa bình- chia đôi ảnh hưởng quyền lực tại Đông Nam Châu á/TBD...
* VC HÀ NỘI ĐẦU HÀNG NĂM 1973 LÀ VÔ ĐIỀU KIỆN VỚI VNCH!
VC Miền Bắc - Hà Nội- đầu hàng Không lực Hoa Kỳ trong chiến dịch Operation Line Backer- San bằng Hà Nội. Và Hoa Kỳ đã bỏ một bàn thắng trông thấy!?,. Điều đó là sự thật khi tôi là một chứng nhân lịch sử,. một sĩ quan hành quân trực chiến tại Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH. Liên lạc, phối hợp hàng ngang với cơ quan Tình Báo Trung ương Hoa Kỳ- DAO- tiếp nhận mật điện công hàm Hà Nội xin đầu hàng vô điều kiện Liên Quân Mỹ- Việt... là có thật, nhưng bị tình báo Trung ương Hoa Kỳ ém nhẹn chiến thắng Hà Nội của QL. VNCH, Và vì sợ mích lòng Trung Quốc, của Hoa Kỳ khó làm ăn.. với thị trường kinh tế Tung -Hoa.!?.
Hoa kỳ đánh giặc mà không cần thắng CSBV, chỉ muốn tạo điệu kiện mặt hàng Miền Nam có giá trị, để trao đổi thị trường đông dân Trung Quốc tiêu thụ hàng hóa, sản phẫm Hoa Kỳ, gấp vạn lần hơn là cố giữ Miền Nam VNCH, chỉ tổ tốn tiền viện trợ nuôi quân VNCH chỉ vì hai chữ Tự Do cho VN, làm mất quyền lợi kinh tế nước Mỹ, trước thị trường béo bở, đông dân Trung Cộng nghèo nàn, cần tiêu thụ hàng hóa Mỹ...
Chỉ vì sự lần lựa lơị ích riêng tư của Hoa Kỳ, mà VNCH không trọn quyền quyết định chiến tháng cho mình, và để cho CSHN trở tay xoay sở trên bàn Hiệp định Paris/73 chiến thắng về mình của Quân Cộng Sản Bắc Việt!??. Và đưa đến biến cố lịch sử 30-4-1975 là hiện tượng " Ngựa về ngược " trên trường đua chiến thắng Ql. VNCH bị đảo ngược vòng đua!???
Huỳnh Mai St.8872
Nguồn: http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/08/vc-xin-au-hang-vo-ieu-kien-nam-1973.html
VC Miền Bắc - Hà Nội- đầu hàng Không lực Hoa Kỳ trong chiến dịch Operation Line Backer- San bằng Hà Nội. Và Hoa Kỳ đã bỏ một bàn thắng trông thấy!?,. Điều đó là sự thật khi tôi là một chứng nhân lịch sử,. một sĩ quan hành quân trực chiến tại Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH. Liên lạc, phối hợp hàng ngang với cơ quan Tình Báo Trung ương Hoa Kỳ- DAO- tiếp nhận mật điện công hàm Hà Nội xin đầu hàng vô điều kiện Liên Quân Mỹ- Việt... là có thật, nhưng bị tình báo Trung ương Hoa Kỳ ém nhẹn chiến thắng Hà Nội của QL. VNCH, Và vì sợ mích lòng Trung Quốc, của Hoa Kỳ khó làm ăn.. với thị trường kinh tế Tung -Hoa.!?.
Hoa kỳ đánh giặc mà không cần thắng CSBV, chỉ muốn tạo điệu kiện mặt hàng Miền Nam có giá trị, để trao đổi thị trường đông dân Trung Quốc tiêu thụ hàng hóa, sản phẫm Hoa Kỳ, gấp vạn lần hơn là cố giữ Miền Nam VNCH, chỉ tổ tốn tiền viện trợ nuôi quân VNCH chỉ vì hai chữ Tự Do cho VN, làm mất quyền lợi kinh tế nước Mỹ, trước thị trường béo bở, đông dân Trung Cộng nghèo nàn, cần tiêu thụ hàng hóa Mỹ...
Chỉ vì sự lần lựa lơị ích riêng tư của Hoa Kỳ, mà VNCH không trọn quyền quyết định chiến tháng cho mình, và để cho CSHN trở tay xoay sở trên bàn Hiệp định Paris/73 chiến thắng về mình của Quân Cộng Sản Bắc Việt!??. Và đưa đến biến cố lịch sử 30-4-1975 là hiện tượng " Ngựa về ngược " trên trường đua chiến thắng Ql. VNCH bị đảo ngược vòng đua!???
Huỳnh Mai St.8872
Nguồn: http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/08/vc-xin-au-hang-vo-ieu-kien-nam-1973.html
Cộng Sản Hà Nội đầu hàng Mỹ 1973 FLV
https://youtu.be/6GsVd-VWlIk
VC Hà Nội đầu hàng năm 1973 là vô điều kiện với HOA KỲ & VNCH.!
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2013/10/vc-ha-noi-au-hang-nam-1973-la-vo-ieu.html
Kỷ niệm quốc hận 30-4-1975- " Ngày gẩy súng tan hàng "- Chiến sĩ QL.VNCH
https://youtu.be/fA4lAheatJw
VICTORY to DEFEAT -The Truth about the VnWar
Ngày cuối 30- 4-1975- " Giải phóng Siai2 Gòn "
Huỳnh Mai St.8872
Tổng hợp nguồn tin tức Việt Cộng đầu hàng năm 1973{ một chứng nhân Điện thư đầu hàng của CSHN,
tại cơ quan Tình Báo- DAO/Hoa Kỳ- Bộ TTM/QL.VNCH }
Được đăng bởi
Mai Nguyễn Huỳnh
vào lúc
04:29
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Twitter
Chia sẻ lên Facebook
“I also received some information recently in my tours and
lectures, and what have you. I did a TV show in Long Beach, California.
One of the gentlemen involved in the show was in the U.S. army at one
time. He told me that in the spring of 1973 we had bombed all the North
Vietnamese supply lines, we had mined their harbors, they were cut off;
and one of his associates was in the communication room in Saigon, and
this is, of course, a classified job. And when he was in this room he
received this message from the North Vietnamese, “We surrender unconditionally.” He
passed it on to his superiors; and all army personnel were immediately
ushered out and replaced by state department personnel. It’s shortly
thereafter that Kissinger met with the north Vietnamese officials in
Paris, France. Why do these things happen?”
“Decades back, in late 1972, South Vietnam and the United States
were winning the Vietnam War decisively by every conceivable measure.
That’s not just my view. That was the view of our enemy, the North
Vietnamese government officials. Victory was apparent when President
Nixon ordered the U.S. Air Force to bomb industrial and military targets
in Hanoi, North Viet Nam’s capital city, and in Haiphong, its major
port city, and we would stop the bombing if the North Vietnamese would
attend the Paris Peace Talks that they had left earlier. The North
Vietnamese did go back to the Paris Peace talks, and we did stop the
bombing as promised.
Những người sinh ra và lớn lên trong hệ thống tuyên truyền và giáo
dục nhồi sọ của cộng sản và ngay cả những người cộng sản được xem là “mở
mắt” như Bùi Tín, Phạm Chí Dũng, Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu
Hương, chẳng hạn, có lẽ không bao giờ chấp nhận sự thực đó, vì, đối với
những người nầy, làm thế chẳng khác nào chối bỏ “ảo ảnh đời mình,” chối
bỏ một huyền thoại giúp họ tiếp tục ngẩng mặt lên tiếng với đời. Những
đám người nầy có thể “trái dạ” với đảng cộng sản nhưng dứt khoát không
tự phản bội chính mình. Nếu không có huyền thoại đó thì cách nay bốn
mươi năm họ chỉ là nhưng kẻ mù quáng đi trong doàn quân ma được Mỹ, Tàu
và Do Thái tha chết và vớt xác lên từ địa ngục đồng thời trao cho chiếc
bánh vẻ “đại thắng mùa xuân” để sau đó đạo quân ma nầy tràn vào Miền Nam
cướp của giết người. Nếu không tin các ông các bà cứ hỏi Trần Đăng
Thanh, một đại tá VC thuộc Học Viện Quốc Phòng của chế độ Hà Nội thì
biết ngay. Cũng có thể các ông các bà đều biết sự thực nhưng không dám
công khai thú nhận; các ông các bà vờ mở mắt nhưng chỉ mở một mắt để
khỏi thẹn với lương tâm và tiếp tục đi trong mộng du. Ngày nay các ông
các bà được giải quyết sang Mỹ chẳng khác nào lá rơi về cội, gặp lại ân
nhân ngày trước, thế thôi. Một số người cộng sản vẫn thường bóng gió so
sánh cộng sản VN với giới lãnh đạo Tây Đức, Bỉ, với Bắc Quân Hoa Kỳ
trong cuộc Nội Chiến, thậm chí với cả chính quyền Hoa Kỳ trong Đệ Nhi
Thế Chiến đã thắng Nhật. Làm như thế là hiếp dâm lịch sử vì cố tình đặt
một thây ma được vớt lên từ địa ngục ngang hàng với những kẻ chiến thắng
đích thực, đặt đạo quân đồ tể ngang hàng với loài người có lương tri,
liêm sỉ, và trí tuệ, đặt một đám gia nô thái thú ngang hàng với những
con người thực sự làm chủ đời mình và giúp dân tộc làm chủ vận mệnh của
đất nước. Hãy nhìn kỹ những gì đám đồ tể đã làm trong suốt bốn mươi năm
qua trên đất nước Việt Nam để đặt tên đám thái thú thời đại nầy cho
đúng. .
Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975
by vivi099
CIA Giữ Bí Mật Bắc Việt Đầu Hàng Vô Điều Kiện năm 1973
CIA ém
nhẹm Bắc Việt tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” năm 1973 . Chiến dịch
Nixon cho ném bom 12 ngày đêm tại Bắc Việt năm 1972 . Được gọi là chiến
dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong Chiến tranh Việt Nam, từ 18 tháng 12
đến 30 tháng 12 năm 1972.
–
Ted Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và
Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ,
Bắc Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận
điện tín này, nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên chuyển tất cả
các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Do đó, “Việt Nam Cộng
Hòa” không hề kiểm chứng nguồn tin này.
– USA President Ronald Reagan (Tổng Thống Mỹ) :
Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau.
Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau.
Bức điện tín đầu hàng vô điều kiện của Bắc Việt
1. Vài nét về Ted Gunderson, chủ tài liệu liên quan đến bức điện tín
– Cựu Đặc vụ hành sự FBI và cựu Giám đốc FBI Los Angeles,
– Từng điều tra vụ Marilyn Monroe và John F. Kennedy,
– Từng phanh phui những tội các của FBI và những thế lực Do Thái đứng phía sau như Bilderberg và Illuminati,
– Từng bị tin tặc tấn công vào các máy tính cá nhân, từng bị sách nhiễu, đe dọa, bức hại và toan tính sát hại,
– Cuối cùng bị hạ độc bằng Arsenic và qua đời ngày July 31, 2011
– Từng điều tra vụ Marilyn Monroe và John F. Kennedy,
– Từng phanh phui những tội các của FBI và những thế lực Do Thái đứng phía sau như Bilderberg và Illuminati,
– Từng bị tin tặc tấn công vào các máy tính cá nhân, từng bị sách nhiễu, đe dọa, bức hại và toan tính sát hại,
– Cuối cùng bị hạ độc bằng Arsenic và qua đời ngày July 31, 2011
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh mà Đỉnh Sóng ghi ra từ YouTube liên quan cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế.
(Tôi cũng đã nhận được một số thông
tin gần đây trong những chuyến đi và thuyết trình, v.v.. của tôi. Tôi
đã thực hiện một chương trình truyền hình ở Long Beach, California. Một
trong những người liên quan trong chương tình có thời đã phục vụ trong
quân đội Hoa Kỳ. Ông ta nói với tôi rằng chúng ta đã dội bom tất cả
những đường tiếp tế của cộng sản Bắc Việt, chúng ta đã gài mìn những bến
cảng của họ, chúng đã bị cắt đứt; và một trong những cộng sự viên của
ông lúc bấy giờ đang làm việc tại trung tâm truyền tin ở Sài gòn, và
đương nhiên đó là một công tác tối mật. Khi đang ở trong phòng, ông ta
nhận được điện tín nầy của Bắc Việt, “Chúng tôi đầu hàng vô điều kiện.”
Ông ta chuyển điện tín đó lên cho thượng cấp; và tất cả nhân viên quân
sự lập tức bị thuyên chuyển hết và được thay thế bởi nhân viên của Bộ
Ngoại Giao. Chẳng bao lâu sau Kissinger đã họp với các viên chức Bắc
Việt ở Paris. Tại sao lại xảy ra những chuyện như thế?)
2. Sự thật về Chiến Tranh VN : Đánh nhưng không được thắng – Bruce Herschensohn, Prager University
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh do Đỉnh Sóng chép ra từ YouTube cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế:
On January the 23rd, 1973,
President Nixon gave a speech to the nation on primetime television
announcing that the Paris Peace Accords had been initialed by the United
States, South Vietnam, North Vietnam, the Viet Cong, and the Accords
would be signed on the 27th. What the United States and South Vietnam
received in those accords was victory. At the White House, it was called
“VV Day,” “Victory in Vietnam Day.” The U.S. backed up that victory
with a simple pledge within the Paris Peace Accords saying: should the
South require any military hardware to defend itself against any North
Vietnam aggression we would provide replacement aid to the South on a
piece-by-piece, one-to-one replacement, meaning a bullet for a bullet; a
helicopter for a helicopter, for all things lost – replacement. The
advance of communist tyranny had been halted by those accords.
Then it all came apart. And It
happened this way: In August of the following year, 1974, President
Nixon resigned his office as a result of what became known as
“Watergate.” Three months after his resignation came the November
congressional elections and within them the Democrats won a landslide
victory for the new Congress and many of the members used their new
majority to de-fund the military aid the U.S. had promised, piece for
piece, breaking the commitment that we made to the South Vietnamese in
Paris to provide whatever military hardware the South Vietnamese needed
in case of aggression from the North. Put simply and accurately, a
majority of Democrats of the 94th Congress did not keep the word of the
United States.
On April the 10th of 1975,
President Gerald Ford appealed directly to those members of the congress
in an evening Joint Session, televised to the nation. In that speech he
literally begged the Congress to keep the word of the United States.
But as President Ford delivered his speech, many of the members of the
Congress walked out of the chamber. Many of them had an investment in
America’s failure in Vietnam. They had participated in demonstrations
against the war for many years. They wouldn’t give the aid.
On April the 30th South Vietnam
surrendered and Re-education Camps were constructed, and the phenomenon
of the Boat People began. If the South Vietnamese had received the arms
that the United States promised them would the result have been
different? It already had been different. The North Vietnamese leaders
admitted that they were testing the new President, Gerald Ford, and they
took one village after another, then cities, then provinces and our
only response was to go back on our word. The U.S. did not re-supply the
South Vietnamese as we had promised. It was then that the North
Vietnamese knew they were on the road to South Vietnam’s capital city,
Saigon, that would soon be renamed Ho Chi Minh City.
Former Arkansas Senator William
Fulbright, who had been the Chairman of the Senate Foreign Relations
Committee made a public statement about the surrender of South Vietnam.
He said this, “I am no more distressed than I would be about Arkansas
losing a football game to Texas.” The U.S. knew that North Vietnam would
violate the accords and so we planned for it. What we did not know was
that our own Congress would violate the accords. And violate them, of
all things, on behalf of the North Vietnamese. That’s what happened.
I’m Bruce Herschensohn.”
Phần chuyển ngữ : Sự thật về Chiến Tranh VN
Nhìn lại những thập niên trước, vào
cuối năm 1972, Miền Nam VN và Hoa Kỳ rõ ràng đang thắng Chiến Tranh VN,
hiển nhiên là thế. Đó không chỉ là quan điểm của riêng tôi. Đó là quan
điểm của kẻ thù của chúng ta, những viên chức của chính phủ Bắc Việt.
Chiến thắng rõ ràng khi Tổng Thống Nixon ra lệnh cho không lực Hoa Kỳ
dội bom những mục tiêu kỹ nghệ và quân sự ở Hà Nội, thủ đô Bắc Việt và ở
Hải Phòng, hải cảng chính của họ, và chúng ta sẽ ngưng dội bom nếu Bắc
Việt tham dự Hội Đàm Paris mà họ đã rời trước đó. Bắc Việt không trở lại
bàn hội nghị, và chúng ta không ngưng dội bom như đã hứa.
Vào ngày 23 tháng Giêng năm 1973,
Tổng Thống Nixon đọc một bài diễn văn toàn quốc trên truyền hình vào giờ
cao điểm, cho biết Hội Đàm Paris đã được ký tắt bởi Hoa Kỳ, Nam VN, Bắc
Việt, Việt Cộng, và Hiệp Định sẽ được chính thức ký vào ngày 27. Những
gì mà Hoa Kỳ và Nam VN nhận được trong hiệp định đó là một thắng lợi.
Tại Tòa Bạch Ốc, người ta đã gọi đó là ngày “VV Day – Victory in Vietnam
Day.”
Hoa Kỳ đã hậu thuẫn chiến thắng đó
với một bảo đảm đơn giản bên trong Hiệp Định Paris, theo đó: nếu Miền
Nam yêu cầu chiến cụ để tự vệ chống lại bất kỳ cuộc xâm lăng nào của Bắc
Việt thì chúng tôi sẽ cung cấp viện trợ thay thế (replacement aid) cho
Miền Nam trên căn bản từng cái một và một đổi một (piece-by-piece,
one-to-one replacement), nghĩa là, một viên đạn đổi một viên đạn, một
trực thăng đổi một trực thăng, đối với tất cả những thứ bị mất. Bước
tiến của chế độ độc tài cộng sản đã bị chặn đứng bởi hiệp định đó.
Thế rồi tất cả đều tan vỡ. Và sự
thể như thế nầy: Vào tháng Tám của năm tiếp theo, 1974, Tổng Thống Nixon
từ chức do hậu quả của vụ Watergate. Ba tháng sau khi ông từ chức là
những cuộc bầu cử quốc hội tháng mười một và trong đó những thành viên
của Đảng Dân Chủ thắng lợi vẻ vang trong Quốc Hội mới và nhiều thành
viên đã lợi dụng đa số mới của họ để chấm dứt tài trợ cho chương trình
viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đã hứa, một đổi một, bội ước lời cam kết của
chúng ta đối với Miền Nam VN ở Paris là sẽ cung cấp bất kỳ chiến cụ nào
mà Miền nam cần trong trường hợp bị Bắc Việt xâm lăng. Nói một cách đơn
giản và chính xác, đa số những đảng viên Đảng Dân Chủ của Quốc Hội khóa
94 không giữ lời hứa của Hoa Kỳ.
Vào ngày 10 tháng Tư, 1975, Tổng
Thống Gerald Ford đã trực tiếp nói chuyện với những thành viên Quốc Hội
đó trong một buổi họp hỗn hợp buổi tối, được truyền hình trên toàn quốc.
Trong bài diễn văn đó, ông tha thiết kêu gọi Quốc Hội hãy giữ lời hứa
của Hoa Kỳ. Nhưng trong khi Tổng Thống Ford đọc diễn văn, nhiều thành
viên Quốc Hội bước ra khỏi phòng họp. Nhiều người trong số họ đã đầu tư
vào sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Họ đã tham gia các cuộc biểu tình
phản chiến trong nhiều năm. Họ sẽ không cho viện trợ. Vào ngày 30 tháng
Tư, Miền Nam đã đầu hàng và những trại cải tạo được dựng lên, và hiện
tượng người vượt biển bắt đầu. Nếu Miền Nam nhận được vũ khí mà Hoa Kỳ
đã hứa với họ thì kết quả đã khác đi? Sự khác biệt đó đã được chứng
minh. Giới lãnh đạo Bắc Việt đã thú nhận rằng lúc bấy giờ họ đang trắc
nghiệm Tổng Thống mới Gerald Ford, và họ đã chiếm từ làng nầy đến làng
khác, rồi đến những thành phố, tỉnh lỵ; và phản ứng duy nhất của chúng
ta là bội ước. Hoa Kỳ không tái viện trợ Miền Nam như chúng ta đã hứa.
Chính lúc đó Bắc Việt nhận thức được rằng họ đang trên đường tiến đến
Saigon, thủ đô của Miền Nam, sau đó được đổi tên thành TP Hồ Chí Minh.
Cựu TNS William Fulbright, nguyên
Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thương Viện, đã đưa ra một công bố chính thức
về sự đầu hàng của Miền Nam. Ông nói, “I am no more distressed than I
would be about Arkansas losing a football game to Texas.”
(Tôi không thấy đau khổ gì mấy, chẳng khác nào khi thấy Arkansas thua Texas một trận đá bóng.)
Hoa Kỳ biết rằng Bắc Việt sẽ vi
phạm hiệp định Paris và chúng ta đã chuẩn bị cho chuyện đó. Điều mà
chúng ta không biết là chính Quốc Hội của chúng ta sẽ vi phạm hiệp định
đó. Và vi phạm, về mọi mặt, thay cho Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra.
Tôi là Bruce Herschensohn.
** Sau khi Saigon thất thủ, hơn một
triệu người Miền nam bị đưa vào các trại cải tạo ở miền quê. 250 ngàn
người đã chết ở đó, do bị hành quyết không xét xử, tra tấn, bệnh tật, và
suy dinh dưỡng. Giữa năm 1975 và 1995, hai triệu người Việt đã trốn
chạy khỏi nước, vượt Biển Đông bằng những chiếc thuyền thiếu trang bị để
đi tìm tự do. Ước tính có khoảng 200 ngàn người vượt biển nầy đã chết –
do bị chết chìm và bị hải tặc giết. Ngày nay Việt Nam vẫn có một chính
phủ cộng sản, nhưng họ đã bỏ hết những lý thuyết kinh tế cộng sản, những
lý thuyết mà họ đã hy sinh bao nhiêu sinh mạng của đồng bào của họ để
theo đuổi.
3. Nhận định bên lề
Trong khi hơn 96% hệ thống truyền thông
nằm trong tay Tập đoàn Do Thái quốc tế và Mỹ Cộng thì công việc truy
tìm thông tin, tài liệu, nhận định, và phán xét trung thực về Chiến
Tranh VN chẳng khác nào mò kim đáy biển, vì hầu hết các hảng thông tấn,
các trang mạng, đài truyền thanh truyền hình, những tờ báo hàng đầu đều
nói một thứ tiếng của Do Thái được chuyển ngữ sang tiếng Anh, cùng phục
vụ một chủ nghĩa độc tài mềm, cùng bị kiểm soát bởi một chính sách ngân
hàng trị và Do Thái trị, cùng gián tiếp hay trực tiếp cỗ xúy một loại
trật tự được mệnh danh New World Order hayOne-government World –
thực chất là một loại thế giới đại đồng hoang tưởng do tập đoàn Do Thái
thống trị. Hiện cảnh đen tối của một chính quyền Mỹ thân cộng Do Thái
trị ngày nay là nhìn đâu cũng thấy Do Thái và sờ đâu cũng chạm phải bàn
tay lông lá của Do Thái từ CIA, FBI, truyền thông, Internet, đại học,
Hollywood đến hành pháp, tư pháp, lập pháp, v.v…; và đâu có Do Thái ở đó
có Mỹ Cộng. Những kẻ đi tìm sự thực như Ted Gunderson luôn bị chúng
khủng bố và truy sát bằng mọi cách; những kẻ khác thì co đầu rụt cổ vì
sợ bị ghép tội bài Do Thái, cùng lắm chỉ vòng vo đập quanh bụi rậm. Hậu
quả là Do Thái và Mỹ cộng xem phần còn lại của thế giới như một bầy trẻ
con, ngây thơ về chính trị và nhút nhát như bầy gấu trúc. Hầu hết các
bài viết, nhất là những bài của những tay viết blog cho VOA, BBC, RFA,
RFI, v.v…, đều viết theo đơn đặt hàng của Do Thái, Mỹ Cộng, và Việt
Cộng, dưới môt hình thức nào đó và theo một kênh tuyên vận nào đó. Chín
mươi phần trăm của những bài viết nầy là vỏ bọc đường nghe rất bùi tai
và nhìn rất mát mắt, nhưng chỉ để phục vụ 10 phần trăm còn lại dùng chứa
thuốc độc nhằm đánh bóng Mỹ Cộng hay Việt Cộng hay cả hai.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào toàn cục vấn đề
và căn cứ trên những tài liệu, dù là hiếm hoi, được chính phủ Hoa Kỳ
bạch hóa về những cuộc đi đêm mà Washington đã tiến hành với Bắc Kinh
nhằm bán đứng Miền Nam hay thậm chí cả Việt Nam cho Trung Quốc dưới sức
ép và đồng lõa của tập đoàn Do Thái và cộng sản quốc tế để đổi lấy quan
hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, về chủ trương đánh Cộng Sản nhưng không được thắng,
v.v… thì bức điện tín đầu hàng vô điều kiện nói trên không hẳn là bịa
đặt. Nhưng tại sao Bắc Việt đầu hàng mà Mỹ vẫn tiếp tục đánh? Theo thiển
ý của chúng tôi, đầu hàng với Mỹ không thành vấn đề; đầu hàng với Trung
Quốc mới là mục tiêu tối hậu của cả Mỹ lẫn Tàu. Ở điểm nầy, vì muốn có
được những quyền lợi với Trung Cộng, Mỹ ra sức phục vụ quyền lợi của Bắc
Kinh trước đã, nghĩa là giúp Bắc kinh thôn tính Việt Nam thông qua Đảng
Cộng Sản VN và trên xương máu dân tộc VN ở cả hai miền. Cũng ở điểm nầy
người ta mới thấy Chiến Tranh VN là cơ hội bằng vàng để đế quốc Tàu
tiếp tục giấc mộng thôn tính Việt Nam sau hơn ngàn năm không thực hiện
được. Cả Mỹ lẫn Tàu đã đạt được mục tiêu chung sau những cuộc không tập
B52 kéo dài; và sau đó, vì muốn bảo vệ đảng, Bắc Việt đã quỳ gối đầu
hàng Bắc Kinh và ký những mật ước nhượng đất nhượng biển và nhượng cả
chủ quyền cho Trung Cộng. Việc Mỹ làm ngơ cho Trung Cộng chiếm Quần Đảo
Hoàng Sa của Việt Nam có lẽ cũng nằm trong khuôn khổ những mật ước như
thế nhưng đã có trước khi chiến tranh chấm dứt. Như thế kẻ thắng chiến
tranh VN là Trung Cộng chứ không phải Bắc Việt; Bắc Việt chỉ là một thây
ma được Mỹ, Tàu, Do Thái vớt lên từ địa ngục để thi hành sứ mạng Thái
Thú cho Thiên Triều.
__________________*** ***_______________
Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975
để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước.
Đỗ Kim Thêm
06-05-2015
06-05-2015
Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là
ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam.
Chúng ta có các lý do chính đáng để không tham gia mừng lễ kỷ niệm
chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa
tưởng niệm, hoà giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.
Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.
Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.
Mọi vấn đề hiện nay của Việt Nam có
thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự
hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng
là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao
đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp
luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.
***
Ký ức thay ngụy sử?
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một
ngày quan trọng trong lịch sử của Việt Nam, vì là ngày kỷ niệm 40 năm
chiến tranh kết thúc. Hiện nay, các thế hệ tham chiến hầu như đã lần
lượt ra đi hay đang quên đi những hậu quả của chiến cuộc. Thời gian dài
này cũng đủ để làm một thế hệ hậu chiến trưởng thành mà không vướng bận
với ký ức thuộc về lịch sử.
Tuy thế, có một sự khác biệt giữa ký ức
và lịch sử. Ký ức là một điều kiện thiết yếu tự tại và có một giá trị
đặc biệt cho lịch sử. Ký ức riêng tư tạo nên bản sắc cá nhân và ký ức
tập thể tạo nên bản sắc xã hội. Cả hai đặc thù văn hoá này nếu kết hợp
nhau được sẽ làm thành một lịch sử chung cho dân tộc. Để phác thảo lịch
sử, sử gia cần có ký ức văn hoá, một sự thật của lịch sử và đây là một
trong những điều kiện khách quan làm khởi điểm cho chính sử.
Nhưng trong hiện tại vấn đề soi sáng lịch
sử ít được quan tâm, bởi vì chúng ta đang có những nhu cầu bức thiết,
đó là hiểm hoạ Bắc thuộc và bất lực của chính quyền trước những khát
vọng của toàn dân về toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng dân chủ, phát triển
kinh tế, nâng cao công bình và tôn trọng nhân quyền.
Nhìn lại sau 40 năm dài thì thực tế cho
thấy dù là ký ức của các chứng nhân lịch sử đang nhạt nhoà và bản sắc
của đất nước đang tàn phai, nhưng người Việt vẫn còn bị ám ảnh bởi những
chiến tuyến trong quá khứ, đề cao thành quả chiến thắng mãi làm cho
việc hoà giải giữa người Việt còn khó khăn và những giá trị phổ quát
trong xu thế thời đại như tự do, dân chủ, nhân quyền và trọng pháp lại
chưa áp dụng. Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia
sẻ một quá khứ chung của lịch sử cận đại.
Nếu chúng ta muốn xây dựng một chính sử
Việt Nam cho hôm nay và mai sau, thì giải ảo ngụy sử là một nhu cầu tất
yếu. Vậy vấn đề là liệu có nên khơi động lại ký ức cá nhân hay tập thể
hoàn toàn độc lập với mọi dị biệt và đối kháng với ngụy sử để làm cơ sở
được không?
Thế hệ tham chiến và quá khứ
Thế hệ tham chiến nghĩ gì về quá khứ và
để làm gì trong hiện tình? Chiến tranh Việt Nam nằm trong bối cảnh quốc
tế của Chiến tranh Lạnh và lại là một thí dụ điển hình trong khu vực về
Chiến tranh Ủy nhiệm. Không riêng Việt Nam mà hầu như nhiều quốc gia đều
hình thành bằng bạo lực. Trong cả một thời kỳ dài, tranh đấu bằng bạo
lực là một phương tiện hiển nhiên, nó tạo nên một loại văn hoá chung và
trở thành một sự thực khách quan của lịch sử. Chiến thắng ngày 30 tháng 4
năm 1975 là một bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước và là một sản
phẩm của lịch sử.
Công việc chọn lọc quá khứ để giải ảo
lịch sử cũng có nghĩa là làm sống lại quá khứ, một phần hay toàn bộ ký
ức của cá nhân hay tập thể. Phủ nhận hay quên đi quá khứ, cả hai nỗ lực
này là bất khả. Không ai muốn quên lãng quá khứ oai hùng, vì mục đích
kéo dài hạnh phúc đã hết là để làm quên đi thực tế bất hạnh. Quên lãng
quá khứ thương đau thì không thể dễ dàng vì là một ám ảnh còn vang động
trong hồn như một loại bịnh tâm thần kinh niên không trị được. Khép lại
quá khứ và cảm nhận nó trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai, cả
hai việc đòi hỏi chúng ta có một ý thức phản tỉnh mà không bị dồn ép cực
đoan bằng một ý thức hệ đã lỗi thời hay xí xoá dễ dãi bằng những thành
tựu kinh tế nay đang sa sút.
Để trả lời các vấn đề này, thế hệ tham
chiến lập luận là ký ức của các chứng nhân lịch sử sẽ mai một và ký ức
của tập thể chỉ có tính địa phương. Đoàn kết dân tộc là một vấn đề trọng
đại của lịch sử đất nước, chúng ta hãy để cho sử gia làm việc, vì họ có
khả năng gạn đục khơi trong các tồn đọng cuả quá khứ để trình bày khách
quan hơn và có tác động hữu hiệu hơn. Bất hạnh cho chúng ta là sử Việt
bị ngụy tạo quá nhiều, nên không thể lý giải và thuyết phục các sự thật
lịch sử cận đại.
Ngụy tạo chính sử
Có một sự khác biệt giữa quan điểm về
lịch sử của người phương Tây và Việt Nam. Khi người Mỹ nói đó là chuyện
lịch sử, mọi người cùng yên tâm nghĩ là toàn bộ vấn đề xảy ra được ghi
chép cẩn thận và nghiên cứu nghiêm túc (That is history; it is totally a record). Khi người Việt nói đó là chuyện lịch sử, chúng ta phải dè dặt hơn, vì đó là một biến cố quan trọng đã xảy ra (It is a most importat thing);
sự kiện còn ngờ vực, đúng sai hay hay dở còn cần xét lạ, vì tùy theo
thời điểm và quan điểm chính trị. Đây không phải là một khám phá mới lạ,
vì đã có vô số các bằng chứng về các sai lầm trong sử Việt, mà những ví
dụ chính cho thấy các tầm mức tác hại nghiêm trọng của vấn đề ngụy tạo.
Thứ nhất, theo sử thì Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) giải tán ngày 11 tháng 11 năm 1945, nhưng thực tế thì Đảng tiếp tục hoạt động trong bí mật, sau đó lại công khai cho đến ngày hôm nay. Không có sử gia nào bỏ công cải chính sự kiện này của ĐCSVN và Đảng Lao Động, dù là hình thức.
Thứ hai, vai trò của ĐCSVN trong việc giành độc lập. Thực ra, Việt Nam chưa độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn, vì Đảng
không cướp được chính quyền từ tay Nhật và Pháp, mà của chính phủ Trần
Trọng Kim vào ngày 19 tháng 8 năm 1945 và về sau gọi đó là Cách mạng
tháng Tám.
Việt Nam thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3 năm 1949
theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc biệt của Hiệp định là Việt Nam thống
nhất và độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm
1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam
Phần vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đã được thống nhất năm 1949
về ngoại giao và chính trị.
Không ai bỏ công phân biệt ý
nghĩa cao cả của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc do ngoại xâm
và phương cách bất chánh để cướp chính quyền trong nội chính. Xác minh thời điểm chính xác cho sự độc lập cũng bị quên lãng.
Thứ ba, cuộc đời của Hồ Chí Minh
là một chuyện dài không đoạn kết. Bao nhiêu sách vở khác nhau viết về
xuất xứ, hành tung, khả năng, quá trình hoạt động và tư cách đạo đức của
ông. Mỗi lúc lại có một khám phá mới làm cho sự thật về cuộc đời của
ông càng huyền bí hơn.
Nhu cầu tuyên truyền chính trị nhất thời
là lời giải thích quen thuộc. Các nhà nghiên cứu đã (phải) suy tôn ông
lên làm thần thánh, rồi một thời gian sau, vì lý do chính trị khác, lại
hạ bệ. Nhiều tác phẩm viết về ông, nhưng ông không có một chỗ đứng vững
chắc trong lịch sử. Vì ông là một nạn nhân của lịch sử quái ác nên các
vấn đề tiểu sử, công nghiệp, đời tư của ông còn cần phải tiếp tục soi
sáng.
Thứ tư, đấu tranh quân sự có
phải là một giải pháp tối ưu duy nhất hay kết hợp với các giải pháp nghị
trường và ngoại giao cũng là điều kiện khả thi?
Trước trào lưu đấu tranh giành độc lập
tại các nước Á Phi đang dâng cao nên Pháp đã ý thức vấn đề này. Từ năm
1947 Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa và tôn trọng
nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam bằng cách đăng ký Việt Nam là
một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp tại Liên Hiệp Quốc. Đó là
một thắng lợi ngoại giao và pháp lý mà Đảng Cộng Sản đã phủ nhận và về
sau giải thích là Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc
địa.
Do đó, khi nhân danh giành lại độc lập
dân tộc, họ chiến đấu vũ trang chống Pháp, nhưng bằng cách độc quyền yêu
nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. Trái lại, các nước châu Á khác đã
chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Cộng
sản Quốc tế, mà thành công của Ấn Độ (1947) là một thí dụ, dù bối cảnh
phức tạp hơn Việt Nam nhiều.
Thứ năm, ĐCSVN sử dụng chiêu bài
đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ như một chiến thuật để đạt mục tiêu
chiến lược là cướp chính quyền. Họ đã chống đối bất cứ giải pháp chính
trị và ngoại giao nào không cho họ độc quyền đấu tranh và lãnh đạo quốc
gia, mà Hiệp định Genève và Paris là hai cơ hội lịch sử.
Dù Hiệp định Genève chỉ là để định ranh
giới ngưng bắn và không áp đặt những giải pháp chính trị, nhưng thống
nhất Nam Bắc thuộc quyền dân tộc tự quyết, một cơ hội mới về tổng tuyển
cử mở ra và sẽ do hai miền ấn định. Lãnh đạo cả hai miền đã không đủ nỗ
lực để thực thi biện pháp tổng tuyển cử, một cơ hội không tốn xương máu.
Đó là một quan điểm sai lầm của cả hai và trở thành một bất hạnh cho
dân tộc hiếu hoà.
Hiệp định Paris là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị, nhưng là một cơ hội khác mở ra nếu các bên đồng ý “thực
hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và
thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào,
không bên nào thôn tính bên nào.” (Điều 15).
Phát động chiến dịch Hồ Chí Minh để thôn
tính miền Nam không phải là phương pháp hòa bình như đã ký kết. Vi phạm
Hiệp định Paris lại là một thành tích tự hào về sự phản bội của chính
mình và chấp nhận hy sinh xương máu của thế hệ thanh niên cuối cùng của
miền Bắc.
Thứ sáu, Đại
Thắng Mùa Xuân là đỉnh cao chói lọi trong trang sử đấu tranh của ĐCSVN,
nhưng Ted Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và
Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa
Kỳ, Bắc Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận
điện tín này nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên chuyển tất cả
các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Dĩ nhiên, Việt Nam không
hề kiểm chứng nguồn tin này.
Tóm lại, các vấn đề quan trọng trong
chính sử cận đại như ý nghiã đích thực của chiến tranh, kết hợp các
phương tiện khả thi để giải quyết xung đột, những hy sinh và thành tích
cần được giải ảo trong một phương cách mới hơn, khi mà có vô số các
nguồn tài liệu được liên tục giải mật. Quan trọng nhất là chúng ta phải
có can đảm nhìn vào sư thật của lịch sử trong một nhãn quan mới.
Cho dù ngày nay ngụy sử đã không thể phản
ảnh được toàn bộ quá khứ và chính sử cũng không hẳn là mất đi hết trong
những gì còn sót lại nơi lòng người, nhưng điều may mắn hơn cho chúng
ta là lịch sử vẫn còn được truyền tụng, mà ký ức cá nhân và tập thể cần
hồi tưởng là thí dụ điển hình.
Những người Việt đang ở vào lớp tuổi bốn
mươi hay trẻ hơn không có ký ức về chiến cuộc, vì họ chưa sinh ra. Dĩ
nhiên, họ có quyền đặt câu hỏi vì sao Việt Nam chưa thể canh tân đất
nước và hưởng độc lập dân tộc và họ phải gánh chịu một di sản tồi tệ như
ngày hôm nay. Khi ngụy sử không thuyết phục được họ, thì ký ức của các
bậc cha ông còn sống sót sẽ đóng vai trò gì?
Ký ức chiến cuộc nhạt nhoà
Tình yêu về dĩ vãng vốn bẩm sinh trong
tâm hồn người Việt; họ thích ôm ấp kỷ niệm trong mơ hồ và không muốn
dùng ngôn ngữ để diễn đạt những cảm xúc trân qúy. Ký ức là nhớ lại; một
người không có trí nhớ là một người không còn bản sắc riêng. Nhưng ngược
lại với ký ức là quên lãng; ai phải dồn ép quá khứ, thường là người
không bình thường và hoặc sẽ mang bịnh ức chế. Một người trưởng thành
không có ký ức sẽ mãi là một trẻ con.
Ký ức tập thể theo Maurice Halbwach
quan trọng hơn. Nó vượt qua khuôn khổ kinh nghiệm sống của một cá nhân,
hằn sâu, tiêm nhiễm vào một tầng lớp xã hội, một thế hệ trong một giai
đoạn của dân tộc và tạo thành bản sắc chung. Một dân tộc không có ký ức
lịch sử cũng là một dân tộc chưa trưởng thành.
Khi xưa, Tản Đà có than thở “Dân hai lăm triệu, ai người lớn?, Nước bốn nghìn măm vẫn trẻ con.” Lời thơ ai oán được truyền tụng như một lời cảnh tỉnh về tình trạng dân trí trong thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh, Trịnh Công Sơn cũng đã nhắc nhiều đến thân phận đất nước, nhưng thê thiết nhất là “Ôi, đất nước u mê ngàn năm“.
Điều ngạc nhiên là cả hai danh tài này sống trong hai thế hệ cách biệt
nhau, nhưng lại cùng một tâm trạng, dù không hề quan tâm đến chính sử và
ký ức.
Nhưng làm sống lại ký ức không dễ, vì có một cái gì đó thiếu bình thường mà có quá nhiều thí dụ làm cho chúng ta ngạc nhiên.
Thứ nhất, nhân ngày 30 tháng 4 mà nhân dân thủ đô Hà Nội kéo băng và biểu ngữ với nội dung “Hân Hoan Chào Mừng Ngày Giải Phóng Thủ Đô”. Vô ý hay là trớ trêu trong một ký ức nhạt nhoà? Không ai biết.
Thứ hai, ngược lại, nhân ngày này mà một số người Việt hải ngoại cũng có tổ chức“Ngày Diễn Hành Cho Tự Do”.
Vì là buổi diễn hành nên ít có thuyết trình về ý nghĩa trọng đại về một
ngày lịch sử của đất nước để người tham dự cảm thấy có trách nhiệm hơn
đối với những hậu quả của ngày này. Vì tự do hoài niệm mà đôi khi cũng
có nhiều nơi còn có kết hợp với lễ Lao Động với dạ tiệc và khiêu vũ thâu
đêm là chính. Đó là sáng kiến giải trí cuối tuần kéo dài trong hoàn
cảnh mới, nên không đem lại một âm vang tưởng niệm nào trong đau buồn,
nhớ những nguời nằm xuống và người trốn chạy.
Thứ ba là chuyện không có quyền
công khai tưởng niệm những người nằm xuống trong chiến tranh biên giới
Trung – Việt. Khơi động ký ức lại cần có ý kiến chỉ đạo? Hồi sinh ký ức
càng thêm chua chát khi lãnh đạo hân hoan đón tiếp lãnh đạo bạn để cùng “Thành Kính Tưởng Niệm Các Liệt sĩ Trung Quốc Hy Sinh Vì Chính Nghĩa”trong Tiết Thanh Minh, một việc làm đúng theo chính sách đề ra.
Còn nhớ về Ngày Hoàng Sa và Trường Sa lại
càng khó hơn, cụ thể nhất là vụ thảm sát Gạc Ma. Trước đây binh sĩ
không được phép chống trả với Trung Quốc nên đem lại một cái chết tập
thể; chính quyền luôn che dấu sự thật và nay lại không cho phép tưởng
niệm và ghi công và không nêu tên kẻ thù, đó là một hành vi xoá bỏ ký ức
có định hướng.
Những người chiến đấu còn sống không được
tri ân, đãi ngộ và chỉ còn âm thầm xót thương cho đời nhau. Họ cũng bất
hạnh giống như các cựu chiến binh Mỹ, làm điều vô ích cho kẻ vô ơn và
cuối cùng lại chứng kiến trớ trêu của lịch sử mà đó lại là định mệnh của
mình.
Thứ tư là chuyện những người di
tản buồn lại càng buồn hơn, khi phải nhớ tới những thuyền nhân qua cơn
phong ba bảo táp, chưa hưởng được tự do và cuối cùng phải yên nghỉ nơi
đảo vắng xứ người. Trùng tu mộ phần đã khó, sơn tặng cho họ một lá cờ
trên mộ phần và lập đài tưởng niệm trên các đảo cũng bị nhà nước CSVN
tìm cách áp lực ngoại giao nên không được phép. Thân nhân cũng đành khép
lại quá khứ theo chính sách.
Thứ năm là vấn đề gọi tên ký ức.
Thảm sát hay chiến thắng Mậu Thân? Định danh ký ức cũng cần thảo luận
như gọi tên cho cuộc chiến. “Chống Mỹ xâm lược“ mà hơn 5000 ngàn thường
dân Việt và vài ân nhân người Đức phải chết oan uổng, thì không thể nào
gọi là thắng lợi huy hoàng và có thể giải thích thuần lý.
Những hung thủ còn sống sót cũng không đủ can đảm đính chánh về cáo giác của các nhân chứng trong “Giải Khăn Sô Cho Huế“.
Dù tai họ còn nghe và mắt họ còn thấy phản ứng của nạn nhân khác còn
sống, nhưng khác với Hitler đã tự xử, hung thủ yên tâm hơn để nghiên cứu
về Huế học, mà họ quên đi đối tượng nghiên cứu khẩn thiết nhất của Huế
học là làm sáng tỏ việc tàn sát. Tên tuổi và hành vi của họ vẫn bị ràng
buộc với lương tâm và lịch sử.
Chúng ta là có vô số ký ức cá nhân có giá trị lịch sử: Giải
Khăn Sô Cho Huế, Muà Hè Đỏ Lửa, Dấu Binh Lửa, Đường Đi Không Đến, Xương
Trắng Trường Sơn, Thiên Đường Mù, Nổi Buồn Chiến Tranh và Đèn Cù là những thi dụ chính. Vì là tự truyện cá nhân nên có sự đãi lọc nhất định theo ý nghĩ cảm nhận và tùy theo cái gọi làlieux de mémoire của tác giả (các địa điểm liên hệ tới biến cố xãy ra để trở thành ký ức, một khái niệm của Pierre Nora).
Thực ra, nhân chứng lưu giữ ký ức, họ chỉ là một người sống trong những
biến cố kinh hoàng trong lịch sử, mà họ không hiểu tại sao, không lường
đoán được hậu quả và giải thích các tầm mức phức tạp của diễn biến.
Do đó, chúng ta cần có sử gia, vì ký ức
cần khách quan hoá theo phương pháp sử học, một tiến trình đến sau và có
chọn lọc. Sử gia đối thoại với nhân chứng, vì nhân chứng biết rõ hơn
các biến cố. Họ diễn dịch, sưu tầm và biên tập theo một hệ thống nhất
định thành một loại đề tài chung.
Dù ký ức về chiến cuộc nhạt nhoà, nhân
chứng lần lượt ra đi, quá ít sử gia chân chính, nhưng lịch sử không thể
nguy tạo ký ức. Chính ký ức làm nên lịch sử. Ký ức không phải là vấn đề
riêng của sử gia. Lịch sử không thuộc về sử gia, mà cho tất cả những
người có liên quan và có tinh thần trách nhiệm. Những người đứng ra tổ
chức các lễ tưởng niệm với các phương tiện truyền thông hiện đại cũng là
một thí dụ.
Các buổi lễ truy điệu, báo chí, sách vở
sẽ làm sống lại các ký ức tập thể. Những hình thức nghi lễ “hoành tráng“
của phe thắng cuộc không mang nhiều ý nghĩa đích thực để tìm ra bản
chất của tưởng niệm. Những đề tài thảo luận nghiêm chỉnh về ý nghĩa của
tưởng niệm là quan trọng hơn.
Nhờ thế, chúng ta viết lại lịch sử bằng
cách khám phá những sự dị biệt trong ký ức với tinh thần trách nhiệm. Ký
ức dị biệt của cá nhân là một phương tiện thông đạt dùng trong sinh
hoạt hằng ngày khi thảo luận về những biến cố lịch sử. Ngược lại, ký ức
tập thể là một sản phẩm xã hội, đẩy mạnh cho việc hình thành một bản sắc
văn hoá dân tộc. Nhưng biết tìm đâu bản sắc văn hoá truyền thống của
dân tộc Việt?
Bản sắc dân tộc tàn phai
Dù là gọi là đất nước hay dân tộc cũng
chỉ là một. Dân tộc là một ngôi nhà chung chứa đựng một linh hồn chung.
Hồn thiêng này có hai phần: phần một nằm trong quá khứ, là một di sản
thuộc toàn dân và ký ức lịch sử là một thành phần. Phần hai nằm trong
hiện tại. Đó là tinh thần đồng thuận, cùng ước mơ chung sống để phát
triển và lưu truyền giá trị của một di sản không thể phân chia. Khái
niệm dân tộc này của Ernest Renan không phải là chủ nghiã dân tộc đã bị lạm dụng quá nhiều trong quá khứ.
Bản sắc văn hóa dân tộc gồm các đặc tính
được duy trì trong quá trình của lịch sử và được kết tinh thành những
biểu tượng để phân biệt với các dân tộc khác. Nó tạo thành những chuẩn
mực giá trị cho xã hội và thể hiện tâm lý dân tộc mà các ký ức văn hoá
là thí dụ.
Ký ức văn hoá theo Jan Assman
gồm có việc sử dụng chính sử, tự truyện, hình ảnh và nghi lễ đặc biệt
cho một xã hội trong một thời kỳ; mọi sự vun bồi này sẽ tạo nên một hình
ảnh chung cho bản sắc dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có thể hiểu được giá
trị truyền thống.
Chúng ta có thói quen ca ngợi bản sắc dân
tộc và đơn giản hoá vấn đề, nhưng kỳ thực, bản sắc cá nhân phức tạp, vì
dựa vào hoàn cảnh và điều kiện xã hội địa phương, thuộc về một thế hệ
nhất định, một tôn giáo, một đoàn thể nghề nghiệp và trình độ giáo dục
nào đó. Bản sắc thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời qua những biến cố
của riêng mình.
Mô tả về bản sắc đất nước càng khó hơn vì
theo dòng lịch sử, có quá nhiều biến chuyển sẽ thay thế cho các ký ức
cũ phai mờ, tạo thành những bản sắc mới. Tùy theo thời điểm hay địa điểm
mà bản sắc đất nước có thể tiến hay thoái hoá. Các thay đổi về giá trị
qua từng thế hệ kết hợp nhau trong liên tục và tái tạo.
Trong một thời kỳ dài đấu tranh, Đảng đã bao nhiêu lần nói là “thống nhất đất nước ta sẽ xây dựng lại ngàn lần tươi đẹp hơn”. Nhưng chiến thắng năm 1975 cho phép Đảng có lý do tự phong một bản sắc mới là “trung tâm phẩm giá của loài người và lương tâm của thời đại”. Bản
sắc cường điệu này không thuộc truyền thống chân thành của dân tộc.
Đảng đã không thể trau dồi bản sắc, và chiến thắng không đem lại tự do
và cơm áo cho toàn thể dân chúng trong thời bình.
Dù thành tựu đổi mới kinh tế có đem lại
cho sung túc cho một thiểu số, nhưng Đảng không thể nâng cao bản sắc văn
hoá vì giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi, thờ ơ của dân chúng và
gương xấu của chính quyền là trở lực. Tìm lại bản sắc dân tộc đã đánh
mất là điều không thể thực hiện được trước mắt, vì thành tựu của các
biện pháp cải cách giáo dục và nâng cao đạo đức không thể là kết quả dễ
được tìm thấy trong một sớm một chiều.
Đã đến lúc đất nước cần có bản sắc mới
như là một vai trò kết nối, một khái niệm và một thành tố để xây dựng
lịch sử. Nhưng làm sao nối kết những ký ức văn hoá dị biệt trong bối
cảnh hiện nay. Thực ra, không ai có đủ viễn kiến để tiên đoán chuyện lý
thuyết.
Nhưng sử gia không còn đi tìm những giá
trị biểu tượng xa xưa, vì các biến động mới có những giá trị làm cho
lịch sử độc đáo hơn. Họ dùng ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm một phương
tiện nhằm tạo ra huyền thoại chính trị duy nhất cho khởi điểm mới về ký
ức lịch sử cận đại. Với 40 năm trôi qua, thời gian lắng đọng để họ cùng
tìm hiểu về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4. Do đó, giải ảo về nội dung ngày
này cần được đặt ra.
Phản tỉnh về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 là một ngày để
chúng ta nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và tìm hiểu những gì mà dân tộc
đã sống trong 40 năm qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ, với các sử
liệu mới, lý trí khách quan và tự do phê phán giúp cho chúng ta nhận ra
sự thật. Sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biểu tượng
khởi đầu cho một tiến trình tương phản phức tạp. Giá trị biểu tượng của
ngày này là một nghịch lý bi đát. Chiến tranh kết thúc giải phóng cho
tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhưng không phải chỉ là vinh quang
mà còn là tủi nhục; ngày miền Nam thoát khỏi chiến tranh cũng là ngày
mà miền Bắc hiểu rõ hơn thế nào là giải phóng và hy sinh cho chính
nghĩa. Cả nước vừa được giải phóng lại vừa bị hủy diệt trong một hoàn
cảnh mới, không phải chỉ là thiệt hại vật chất mà còn là tinh thần, một
vấn đề bản sắc.
Dĩ nhiên, chúng ta phải chấp nhận những
gì đã xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì không thể thay đổi được,
dù còn bị ảnh hưởng hậu quả cho đến hiện nay. Chúng ta không thể tách
rời ngày 30 tháng 4 năm 1975 với ngày 3 tháng 2 năm 1930, ngày thành lập
ĐCSVN, đó là một nguyên nhân khởi đầu mọi thay đổi trong các trang sử
Việt.
Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói
cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một
ngày toàn thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một
ngày đại bại của toàn dân tộc Việt. Vì sao?
Vì nhìn lại quá khứ của công cuộc tiến
nhanh tiến mạnh lên XHCN chúng ta chỉ thấy một bóng tối kinh hoàng. Đó
là các biện pháp truất hữu ruộng đất, ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại
bản, bài trừ văn hoá đồi trụy, thanh niên xung phong, kinh tế mới và
học tập cải tạo. Theo sau là thảm kịch thuyền nhân, chiến tranh Tây Nam
và phiá Bắc. Cuối cùng là kinh tế kiệt quệ để rồi ĐCSVN phải chịu có
biện pháp xé rào và đối mới để nuôi dưỡng chế độ.
Với một cơ hội mới và tiềm năng cao để
tái thiết hậu chiến và hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng đến năm
2015 mà Việt Nam còn tụt hậu thua Lào về canh tân công nghiệp, trình độ
phát triển dân chủ kém hơn Campuchia, cạnh tranh kinh tế suy yếu hơn Hàn
quốc, phát minh khoa học thua xa Thái Lan, năng lực lao động thấp nhất
trong khu vực, nhưng tình trạng vi phạm nhân quyền và bất công xã hội
lại là trầm trọng nhất.
Vì nhìn về tương lai chúng ta càng lo sợ
hơn vì không biết đất nước và con người sẽ đi về đâu. Chủ nghĩa tư bản
thân tộc tạo ra một xã hội thị trường hỗn loạn trong một nhà nước sơ
khai là nguyên nhân, mà tham nhũng lên ngôi thượng đỉnh, đạo đức suy sụp
tận đáy, giáo dục băng hoại và môi sinh cạn kiệt là hậu qủa. Trong khi
hiểm hoạ Bắc thuộc là hiện thực, thì bất ổn cá nhân, bất trắc kinh tế và
bất công xã hội vẫn còn kéo dài.
Tóm lại, chúng ta có các lý do chính đáng
để không hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp
đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hoà giải và tỉnh
thức trong ngày 30 tháng 4. Nhờ thế, chúng ta sẽ thấy có trách nhiệm hơn
đối với những hậu quả của ngày này trong tương lai.
Ngày tưởng niệm
Hồi tưởng thuộc về một phần trong đời
sống tâm linh của chúng ta. Ai đã sống trong ngày 30 tháng 4 với đầy đủ ý
thức và nhận xét, thì cũng tự hỏi là ngày này mình làm gì và ở đâu và
sự ràng buộc của mình trong biến cố này.
Ngày 30 tháng 4 là một ngày để chúng ta
tưởng niệm về tất cả những người quá cố của hai miền, những người đã tin
là mình chiến đấu cho chính nghĩa của đất nước. Chúng ta không thể quên
họ và cầu mong họ siêu thoát. Đau đớn nhất là các chiến sĩ giải phóng
quân; bây giờ họ không còn cơ hội để nhận ra rằng họ đã bị phản bội; tất
cả công lao của họ là vô ích và vô nghĩa; cái chết của họ chỉ là phục
vụ cho các mục tiêu cướp chính quyền của giới lãnh đạo vô nhân đạo.
Chúng ta sống trong gọng kềm của lịch sử
dân tộc và là nạn nhân phải hy sinh cho quyền lợi của giới lãnh đạo. Cả
một dân tộc không ai có tội cá nhân; không ai có tội với lịch sử. Có tội
ít hay nhiều chỉ có thể quy kết cho tập thể lãnh đạo, vì họ thiếu trí
tuệ và thiếu bản lãnh; họ chỉ phục vụ cho ngoại bang, chủ nghĩa phi dân
tộc và không tìm cách tiết kiệm máu xương.
Chúng ta cũng hoài niệm về những nổi đau
khổ của thân nhân còn sống; đặc biệt là nữ giới, đau khổ vì sự mất mát
về tất cả những gì không thể giữ được từ vật chất cho đến tinh thần. Đó
là đau khổ qua bị thương tổn và tật nguyền, đau khổ vì buộc phải chịu
mất tài sàn, mất người thân yêu, mất nhân phẩm, cảm xúc bị tổn thương,
cưỡng bức lao động, bất công nghiêm trọng và tra tấn dã man, đói khổ,
giam cầm và trốn chạy.
Ngày hoà giải
Ngày 30 tháng 4 là ngày mà chúng ta không
những tưởng niệm cho những người nằm xuống mà còn muốn hòa giải giữa
người Việt còn sống với nhau. Chúng ta tìm kiếm hòa giải, nhưng không
thể hòa giải với những người đã nằm xuống và những người không còn ký
ức. Số phận chung của dân tộc liên kết chúng ta với nhau thành một định
mệnh chung trong ước muốn chung sống trong hòa bình và thịnh vượng.
Trong đời sống hằng ngày, người Việt chỉ
muốn sống an vui trong hiện tại và không muốn nhớ những chuyện vô nhân
đạo trong quá khứ. Chúng ta chấp nhận và chịu đựng sự khắc nghiệt do số
phận an bài, đó là chuyện tinh thần được đặt ra bên cạnh các nhiệm vụ
khác.
Nhưng ngày 30 tháng 4 là một vết rạch hằn
sâu trong lịch sử cho toàn thể, nên có một nghịch lý xảy ra, người Việt
có tinh thần hồi tưởng và sẽ luôn hồi tưởng khi có cơ hội. Bốn mươi năm
sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Chúng ta
cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì chúng ta đã sống và nghĩ không cùng
trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó là một gánh nặng trong
lịch sử mà chúng ta vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.
Làm sao chúng ta có thể xoá bỏ vết hằn
khôn nguôi nếu không có hoà giải? Thực ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy
hoà giải không chỉ là tha thứ của nạn nhân về sai trái của thủ phạm, mà
còn là một đồng thuận giá trị về chính trị. Đầu hàng là một thay đổi
thái độ của phe thua cuộc trước phe thắng cuộc, một quyết định hợp lý
của lý trí của phe thua cuộc và cần được thể chế chính trị của phe thắng
cuộc bảo vệ. Vai trò luật pháp là điều kiện thể chế tiên quyết để bảo
vệ họ. Khuôn khổ cho hoà giải là bình đẳng trước pháp luật, thực thi dân
chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của phe thắng cuộc. Sự đồng tình
của cả hai phe sẽ đem lại ý nghiã chung sống. Đó là một khuôn khổ xây
dựng lại mối quan hệ và niềm tin cho xã hội và tạo lập một cộng đồng cho
tương lai.
Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, các
nước Nam Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El Salvador,
Guatemala và Rwanda đã tìm ra một căn bản đồng thuận cho tiến trình hoà
giải, mà đạo đức là mục tiêu và luật pháp là phương tiện. Vì say men
chiến thắng mà kinh nghiệm hoà giải chính trị hậu xung đột không là vấn
đề quan trọng để Việt Nam quan tâm học tập, cải tạo tập trung là trường
hợp minh chứng ngược lại.
Sau ngày Đổi Mới, Việt Nam khởi đầu tiến
trình hoà giải chính trị bằng Nghị Quyết để nhằm thu hút tài năng trí
tuệ và đóng góp tài chánh. Nghị Quyết không đề ra sư tương thuận của phe
thua cuộc; khuôn khổ pháp luật làm nền tảng và tinh thần đạo đức dân
tộc làm nội dung cho hoà giải cũng không có. Việt Nam chỉ đo thành tựu
Nghị Quyết bằng lượng kiều hối, du lịch và giao lưu văn nghệ trong
ngoài. Hoà giải loại này không đem lại một niềm tin chung hướng về tương
lai.
Trong nỗ lực hoà giải có một thử thách
chung cho hai phía. Sẵn lòng hòa giải phải phát sinh từ trong nội tâm và
do ngoại cảnh, không phải là vấn đề mà phe thắng cuộc đòi hỏi nơi phe
thua cuộc theo tinh thần Nghị Quyết, nhưng là tự nội tâm của mỗi phe đòi
hỏi nơi chính mình, đó là khởi điểm quan trọng nhất.
Cụ thể là liệu phe thắng cuộc có thể thực
sự tự đặt mình trong hoàn cảnh của phe thua cuộc đựợc không hay phe
thua cuộc có tin tưởng vào thành tâm hoà giải của phe thắng cuộc được
không? Liệu Nghị Quyết một chiều có phải là một cơ sở ràng buộc nhau
không? Cả hai phải nhận ra những gánh nặng của nhau, xem có chịu đựng
nhau không và có quên quá khứ được không?
Cả hai phe làm gì trong tiến trình này?
Chủ yếu là phe thắng cuộc cần có ý thức hơn để tìm lại nguyện vọng trung
thực của phe thua cuộc; thay vì diễn binh mừng chiến thắng chỉ khơi
động lại lòng thù nghịch, phe thắng cuộc nên can đảm hơn là đem tàu ngầm
hiện đại ra biển Đông để bày tỏ quyết tâm trước Trung Quốc, phô trương
này sẽ gây tác động hoà giải dân tộc cao hơn. Thay vì ngăn cản tưởng
niệm, nên thành tâm bày tỏ thương tiếc những người của hai phiá đã hy
sinh bằng cách xây một tượng đài chung, một hình thức tỉnh ngộ về sự lầm
lạc chung của cả dân tộc trong cả một giai đoạn lịch sử. Họ nên đãi ngộ
người đóng góp còn sống, một hình thức xoa dịu thương đau xã hội; nỗ
lực hoà giải với người đối kháng và trực tiếp đối thoại trong tinh thần
dân chủ là thực tế hơn, vì không phải ai có quan điểm đối lập chính trị
với chính quyền cũng đều là những phần tử suy thoái đạo đức và phản
động.
Phe thua cuộc cũng cần có nhận định
nghiêm chỉnh hơn về ý nghĩa cao cả của tha thứ. Tha thứ là tìm hiểu và
mến yêu người sai phạm. Hiểu nhau là vì đã tìm thấy lại nhau trong một
quá khứ chung lầm lạc. Yêu mến nhau là vì cùng có một số phận và ý chí
chung sống để xây dựng tương lai đất nước.Thực tế ngược lại. Một số
không nhỏ của phe thua cuộc tự nguyện tìm đến phe thắng cuộc vì những bả
lợi danh cuối đời, những lạc thú do những chênh lệch giá cả tại quê
nhà, ngay cả những hạnh phúc thoáng qua như tiếng còi hụ đưa đón. Đó là
một sự sĩ nhục mà một số trong phe thua cuộc tự tạo ra, vì trong khi cho
đến ngày hôm nay, vẫn còn có rất nhiều người khả kính, can trường và
liêm chính trong chiến bại.
Tương lai của hoà giải không ai biết
được, nhưng khởi động một trào lưu nhận thức mới về tinh thần hoả giải
là khẩn thiết, vì các thế hệ tham chiến sẽ lần lượt ra đi và các thế hệ
nối tiếp sẽ không đủ quan tâm để giải quyết.
Ngày tỉnh thức
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 bắt đầu một
chương mới trong lịch sử Việt Nam và một thế hệ mới đang trưởng thành.
Giới trẻ không có các ký ức dị biệt và không chịu trách nhiệm về những
gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng họ đang và sẽ có trách nhiệm đối với
những gì sẽ trở thành lịch sử. Họ sẽ đóng một vai trò chính về số phận
của con người, đất nước và dân tộc trong khoảng thời gian bốn mươi năm
tới. Nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại có ý nghĩa tỉnh thức vì ký ức cá
nhân kéo dài chỉ trong bốn mươi năm. Nếu ký ức phai nhạt thì những gì
quan trọng khác còn lại cũng không còn ý nghĩa. Thế hệ tham chiến cần
giúp cho giới trẻ hậu chiến tìm hiểu về sự thật của lịch sử, không thiên
vị theo ý thức hệ, trốn chạy trách nhiệm và nhân danh đạo đức. Đâu là
giá trị tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4?
Chúng ta cần can đảm để nói cho thế hệ hôm nay biết là hiện
tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có
quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính;
về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi
Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính;
nay lại hy vọng là Hoa Kỳ đoái thương dân Việt. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ sẽ
không có phép lạ nào để biến đổi nội tình Việt Nam hôm nay và sẽ không
là một lá chắn an toàn cho Việt Nam mai sau. Mỹ đủ thông minh để không
bao giờ chống Trung Quốc cho đến xương máu của người Mỹ cuối cùng thay
cho Việt Nam, như miền Bắc Việt Nam đã hãnh diện chống Mỹ thay cho Trung
Quốc trong quá khứ.
Do đó, giới trẻ nên tỉnh thức để tránh
lầm lạc của bậc cha ông. Đó là do khuấy động các ý thức hệ đối nghịch,
hận thù lầm lạc và gian dối lẫn nhau mà Việt Nam đã có chiến tranh. Do
bất tài, bất xứng và bội tình mà thế hệ cha ông đã không để lại được một
non sông gấm vóc cho con cháu thừa hưởng; “Gia tài của mẹ, mộtnuớc Việt buồn“, nếu nói theo nhạc của Trịnh Công Sơn.
Từ tỉnh thức này mà giới trẻ sẽ lưu
truyền các ký ức lịch sử và không để bị lôi cuốn vào những hận thù và
chống đối nhau, mà cố gắng liên tục học hỏi để tìm cách chung sống với
nhau trong tình hiếu hoà và nhất là sẽ có ý thức trách nhiệm nhiều hơn
cho tương lai đất nước.
Thế hệ hậu chiến và tương lai
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một
ngày khởi đầu cho thế hệ hậu chiến trưởng thành. Họ có trách nhiệm chính
trị cho đất nước trong thời kỳ mới. Nhưng họ phải nghĩ gì và làm gì để
canh tân đất nước và tìm lại độc lập cho dân tộc?
Nghĩ gì? Thách thức vô cùng to lớn khi
thế hệ hậu chiến cần có nhiều ý thức và kinh nghiệm hơn để đảm nhiệm
trọng trách này. Đó là vấn đề còn mở rộng để tranh luận, nhưng họ có bốn
khó khăn chính.
Một là, họ không kế thừa một
phương sách khả thi nào. Đảng đã không thể lý giải được cơ chế Kinh tế
Thị trường và Nhà nước Pháp quyền theo định hướng XHCH là gì. Đảng cũng
tự nhận là đã theo một đường lối không có cho đất nước. Vì nhận hư thành
thực cho nên Đảng cũng không thể hoàn thiện đường lối này cho đến cuối
thế kỷ XXI. Nhưng Đảng sẽ vượt qua các chống đối bằng cách dùng bạo lực
đàn áp để duy trì chế độ, một bất hạnh cho toàn dân.
Hai là, họ không thể phát huy
các kinh nghiệm cuả bậc cha ông. Các kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng Tám
và Đại Thắng Mùa Xuân không còn phù hợp với trào lưu đấu tranh bất bạo
động cho Việt Nam, mà đó là một giải pháp tương ứng khả thi. Thành quả
cuả Cách Mạng Đông Âu, Đông Đức, Miến Điện và Muà Xuân Á Rập là những
bài học mới thích hợp hơn, nhưng họ chưa thể huy động được dân chúng vì
thái độ vô cảm chính trị của đa số.
Ba là, họ không thể hy vọng là
được Đảng chuyển giao quyền lực cho dù họ có khả năng và tâm huyết, vì
thân tộc của lãnh đạo còn vây quanh. Trong một xã hội thị trường đang
thay đổi hỗn loạn, họ không thể tiên đoán được là đổi mới chính trị sẽ
hình thành như thế nào. Tất cả đều tuỳ thuộc vào một số quan niệm về
tương lai, những cách đánh giá khác nhau về ý nghĩa của xu hướng hiện
nay và về các chuẩn mực để giải quyết các khác biệt, thí dụ như vi phạm
nhân quyền và tự do báo chí.
Bốn là điều kiện ý thức
về truyền thống lịch sử và chuyển hoá chính trị. Từ thắng lợi của việc
cướp chính quyền mà Đảng tự hào về thành tích làm nên “Ý nghĩa Lịch sử”
cho dân tộc. Nhưng ý nghĩa lịch sử này không phải là những gì đã được
Đảng tuyên bố, mà giới trẻ cần khám phá lại. Nhu cầu giải ảo ngụy sử và
niềm tin về tương lai dân chủ cần đến các điều kiện trí thức. Đó là kiến
thức và ý thức về chính sử và dân chủ, để từ đó làm cơ sở cho tinh thần
xây dựng. Kiến thức là khởi điểm cho ý thức và có kiến thức thì mới có ý
thức để xây dựng một ý chí chung sống.
Tuy nhiên, thực tế bi quan hơn, vì sử học
và kinh tế chính trị học không còn thu hút giới trẻ, một môn mà người
học không muốn học và người dạy không muốn dạy. Sự tụt hậu là do một hệ
thống giáo dục gian dối và ngụy sử làm mất niềm tin về giá trị cuả toàn
xã hội qua nhiều thế hệ.
Ý thức về lịch sử và dân chủ do đào tạo
mà ra, có tính thuần lý vì do lý trí hướng dẫn và được đãi lọc qua thời
gian. Học chính sử giúp giới trẻ lý luận và phán đoán về sự thật của
lịch sử. Ý thức về lịch sử sẽ tạo nên một thái độ chung đối với lịch sử,
một khả năng để giải ảo, một loại trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và
có tình cảm dân tộc.
Do đó, hy vọng còn lại là giới trẻ sẽ
phát huy tinh thần tìm hiểu và mến yêu lịch sử và giá trị của dân chủ.
Sự thật lịch sử sẽ là bước khởi đầu và giới trẻ phải tìm kiếm sự thật
giữa dòng lịch sử. Giới trẻ có thể so sánh lịch sử tương lai như một
dòng sông, nhưng các dòng nước sẽ luôn biến đổi mà họ đang khởi đầu bơi
lội và cũng không biết đi về đâu, như một câu nói quen thuộc là “Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông“. Nhưng có ý thức lịch sử và dám dấn thân làm lại lịch sử cho dân tộc là một hy vọng khởi đầu.
Làm gì? Giới trẻ cần thảo luận để nhận ra
điều kiện đem lại hoà bình và thịnh vượng cho đất nước. Mọi vấn đề hiện
nay có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc
mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển
hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ,
nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và
pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.
Nhưng sự hợp tác về một chính sách ngoại giao Trung-Việt ổn định và
tương kính là khả thi, khi Việt Nam đủ khả năng chứng tỏ là một người
bạn đối tác đích thực bình đẳng và không phải chỉ bằng ngôn ngữ bóng bẩy
như hiện nay. Với nỗ lực của nhiều thế hệ, chúng ta hy vọng là Việt Nam
sẽ đạt được một phần nào những mục tiêu này.
Việt Nam sẽ đi về đâu? Không ai biết rõ, nhưng chắc một điều là đất nước dù năng động đến đâu đi nữa, thì Đảng cũng sẽ không còn phép lạ khi Đảng không tự chuyển hoá. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hoá hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.
Nguồn:https://vivi099.wordpress.com/2015/04/07/cia-giu-bi-mat-bac-viet-dau-hang-vo-dieu-kien-nam-1973/:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét