ĐÊM SAIGON NGỌC NGÀ DĨ VÃNG
Một thời để nhớ
Hồi
xửa hồi xưa… có một Sàigòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà
phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. .Tiếng Tây gọi
cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi
là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi
sao thì gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị
thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba
ngày không nhắm mắt. . .
.TRỞ VỀ THẬP KỶ 50 : CÀ PHÊ VỚI
Năm một ngàn chín trăm… hồi đó người Sàigòn chưa ai biết kinh doanh với
nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh… có khói này là do
các xếnh xáng A Hoành. A Coón. chú Xường, chú Cảo… chủ các tiệm hủ tíu,
bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng
có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng
giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.
Hồi
đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu ? Các chú Xường, chú Cảo, A
Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phểu
được may cặp với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi
vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc vợt cà phê nầy hơi
giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ
cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê này sau đó được nhúng vào siêu nước đang
sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi… kho” độ năm
mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cái “quy trình”
pha chế thủ công đầy phong cách Tàu này mà dân ghiền cà phê còn gọi nó
là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm
bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc. Có mấy khu vực có những con
đường qui tụ rất nhiều tiệm cà phê hủ tíu. Ở Chợ Cũ có đường MacMahon
(đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều
tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuổi cũng đáng nể
bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày. Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Điện
Biên Phủ và Lê Hồng Phong bây giờ) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ
4giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm..
Còn
nếu ai đi lạc vào khu Chợ lớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn
có thể ngồi nhăm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dò-chả-quải đến tận
sáng hôm sau. .
Trang trí chung của các tiệm cà phê hủ tíu tàu
Sách
phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư đường
vì dễ bị nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía. A Hoành. A Koón…. thì
đều chọn các nơi này làm chỗ kinh doanh. Tuy Sàigòn, Chợ lớn, Gia Định.
Phú Nhuận, Đa Kao hàng trăm tiệm cà phê hủ tíu Tàu nhưng nhìn chung
chúng đều có một “mô-típ – made in China” khá giống nhau tức là quán nào
ở phía trước cửa cũng có một xe nấu hủ tíu được làm bằng gỗ thiết kế
một cách cầu kỳ. Phần trên của xe được trang trí bằng những tấm kính
tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Triệu Tử Long, Trương
Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt. Bên trong quán hoặc xếp bàn
tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay phổ ky
vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải đặt trên
bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà !”
Uống cà phê phải biết cách
Như đã nói ớ trên, hồi đó không có cà phê ta mà chỉ có cà phê Tàu. Vì
thế uống cà phê Tàu phải có một phong cách riêng. Cà phê được mang ra
dân “sành điệu”, hồi đó ngồi chân dưới chân trên, sau khi khuấy nhẹ cho
tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái đĩa đặt phía dưới. Chưa uống vội,
khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài hơi để chờ cà phê nguội. Ông Sáu
“trường đua” nay đã 80 kể rằng hồi ông còn là một chú nhóc nài ngựa ở
trường đua Phú Thọ ông cũng uống cà phê theo phong cách này, tức uống
bằng đĩa chớ không uống bằng ly. Bàn tay phải nhón lấy cái đĩa đưa lên
miệng và húp sì sụp: “Uống vậy mới khoái, mới đúng kiểu của dân từng
trải “, ông Sáu “trường đua” nói với vẻ tự hào. Ông còn kể cho tôi nghe
chuyện ông từng ăn mảnh ở mấy tiệm hủ tíu bánh bao hồi năm sáu chục năm
về trước với giọng khoái trá : “Hồi đó tao làm nài ngựa. Hôm nào ngựa
thắng độ thì nài được chủ ngựa thưởng cho bộn tiền. Hôm nào ngựa thua
thì coi như đói. Không sao, 73 gần trường đua có một tiệm hủ tíu cà phê.
Vào búng tay chóc chóc gọi cà phê. Cứ cho mấy thằng phổ-ky mang bánh
bao xíu mại ra bày trên bàn. Đợi đến khi nó mang cà phê ra rồi bỏ chạy
sang bàn khác thì nhanh tay gở miếng giấy phía dưới cái bánh bao ra và
khoắng ngay cái nhân phía trong tọng vào miệng rồi đậy bánh lại như cũ.
Thế là chỉ tốn ly cà phê vài xu mà đã có cái nhân bánh bao to đùng ngon
lành trong bụng rồi”. Theo ông Sáu “trường đua” thì các chủ tiệm cà phê
hủ tíu hồi đó rất chìu khách. Sì sụp húp cà phê bằng đĩa xong muốn ngồi
bao lâu cứ ngồi, hết trà con hô lên “xà lẵm” là có người mang ra bình
trà mới, uống chừng nào chán thì đi. Khi được hỏi tại sao dân “sành điệu
lại không uống bằng ly mà đi húp cà phê bằng đĩa, ông Sáu “trường đua”
lắc đầu nói không biết chỉ biết dân “sành điệư” chơi vậy mình cũng bắt
chước chơi vậy thôi vậy mới là. . . sành điệu !
CÀ PHÊ PHIN
Dòng cà phê… với cà phê kho lững lờ trôi như thế hằng thế kỷ của thiên
kỷ trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà uống cà phê đổ ra đĩa rồi sì
sụp húp thì được xem như đó là phong cách của dân chơi sành điệu.
Một
người tên ông Chín “cù lủ” một tay bạc bịp nay đã hoàn lương cho rằng
dân cờ bạc, dân giang hồ hồi đó chẳng đời nào bưng ly mà uống như ngày
nay. Kẻ ngồi nghiêm túc, nâng ly lên uống như uống rượu bị các đàn anh
“húp” đĩa xem khinh bằng nửa con mắt, coi như hạng… “bột” lục hục thường
tình không đáng kết giao. Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê trên đĩa
mới … “sang” cũng đến lúc phải lụi tàn, vì bị chê là kiểu uống bẩn, uống
thô vụng khi trào lưu cái phin “filtre” bắt đầu xuất hiện và đã làm
biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu. Vào thập niên 60 Nhà
hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực) mở cú đột phá ngoạn
mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ sĩ trẻ
chiều chiều ra đó bàn chuyện.văn chương và. . . rửa con mắt. Hồi đó cà phê Kim Sơn
chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học sinh. Mặc dù
chủ quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa nhưng đã tiếp thu phong cách cà
phê hè phố của dân Paris (Pháp). Theo lý thuyết, những giờ uống cà phê
là những giờ thư giản hoàn toàn vừa nhăm nhi từng ngụm nhỏ cà phê đặc
sánh vừa ngắm quang cảnh sôi động đông vui của đường phố. Thuở ấy con
đường Lê Lợi vẫn còn những hàng me. Vào những ngày me thay lá, dưới ánh
nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi tản mạn như hoa “com-phét-ti”
lấp lánh làm cho đường phố trở nên… “mộng mị” và thơ… Kim Sơn biết tận
dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, tầm nhìn rộng bao quát để khai
thác dịch vụ cà phê hè phố. Cái phin đã trở nên quen thuộc, cao cấp hơn
cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất “phản cảm” xưa.
Thời
điểm này những nhà văn, nhà báo. các nhà doanh nghiệp tên tuổi cũng có
những quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ. Những La Pagode, Brodard, Givral, Continental là nơi gặp gỡ giao lưu cửa giới thượng lưu Sàigòn.
CÀ PHÊ TÂY
Cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt ghê gỗ mà ngồi trên những
salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con đường Catinat (nay là Đồng
khởi) con đường đẹp
và sang nhất của Sàigòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng
Continental cùng mở một không gian cà phê sang trọng ,đúng phong cách
“Phăng-se”. Đối diện Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với
những món bánh ngọt tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung
cửa kính nhìn ra Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời khoáng
đãng. Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi
tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ. Còn một quán cà phê với
một phong cách phương Tây như bàn ghế trang trí nội thất sang trọng
cũng nằm trên con đường này là quán cà phê Brodard. Với một phong cách
cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng thật
nhạt để khách có thế thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện hương
thơm. Có thể nói từ giai đoạn này người Việt Nam ở Sàigòn “thức tĩnh”
trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ bê và đã để cho các
chú Hoành, chú Koón, chú Xường… tự do khai thác. Khi qua tay người Việt
quán cà phê không còn luộm thuộm những cái “đuôi” mì, hủ tíu, hoành
thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao ... nữa mà nó thuần túy chi có cà phê
nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao
nhã hơn, thu hút hơn…
CAFÉTÉRIA CA NHẠC
Để gần gũi hơn, thu hút khách hơn và cũng mang tính giải trí hơn, một
số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca nhạc theo dạng Cafétéria.
Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode, Brodard, Givral,
Continental… nơi đây không phải chỗ để trầm tư, bàn luận chuyện đời mà
hoàn toàn là chỗ vui chơi giải trí. Trên đường Bùi Viện đầu những năm 60
mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh Vũ.
Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban
nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tiếng tăm được mời đến trình diễn
như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái… Lúc đó phòng trà Anh
Vũ là điểm hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như những văn nghệ sĩ
sinh sống tại đây. Con đường chật hẹp Bùi Viện bỗng đêm đêm sáng lên rực
rỡ ánh đèn Anh Vũ, người xe tấp nập đông vui. Một Cafétéria khác theo
cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường
Cao Thắng) với tên Phòng trà Đức Quỳnh.
Ca
sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria này.
Đức Quỳnh với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương Dung
đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa
giải trí một cách tao nhã. Rồi tiếp theo là Cafétéria Jo Marcel, trên
đường Hai Bà Trưng, Đêm Màu Hồng
trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) thi nhau mọc lên đầy “Nền văn
hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được
thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng trình bày. Một
Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm
trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây
khách thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài hát “Ánh đèn màu”. Cũng như ca sĩ Cao Thái nổi tiếng với bài “Mexico” ,
ca sĩ Ánh Tuyết mỗi lần trình diễn “Ánh đèn màu” là bà hát với những
dòng nước mắt. Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người nghệ sĩ là
ca hát để người mua vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ sĩ lại
một mình giữa cô đơn…
Có
lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng của bà nên bà rất
ít khi chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có người yêu
cầu, trừ những người thân quen bắt buộc phải đáp ứng còn thì Ánh Tuyết
xin lỗi từ chối khéo.
LẠI QUAY VỀ CÀ PHÊ VỚ ĐÔNG VUI
Những quán cốc che tạm tấm bạt bên lề đường với những chiếc ghế gỗ lùn
làm chỗ tụ họp của các thanh niên vui đón những ngày hạnh phúc mới. Vòng
quanh Hồ con Rùa, xuống đến Phạm Ngọc Thạch, quẹo qua Nguyễn Đình Chiểu
có hàng mấy chục “túp lều” cà phê như thế mọc lên san sát bên nhau. Chỉ
có ai ở tuổi thanh niên vào thời điểm lịch sử có một không hai đó mới
thấy được cái thú ngồi quán cà phê bụi lụp xụp mà hầu như đường nào cũng
có. Có người còn có thuốc Ruby, Con Mèo để phì phà bên ly cà phê
vớ nhưng để phiêu bồng hơn một số lớn thanh niên chơi… “bốc – lăn – se”
tức thuốc vấn. Anh nào cũng thu sẵn một bọc trong túi xách để sẵn sàng
bày ra cho bạn bè tha hồ vừa bốc vừa lăn vừa se vừa liếm vừa dán rồi phì
phèo nhả khói. Cà phê quán cóc
(nhảy nay chỗ nay mai chỗ khác như cóc nhảy ấy mà) thời ấy được coi như
thời huy hoàng lãng mạn nhất của nền… văn hóa ẩm thực cà phê cóc Sàigòn.
Ban
ngày đã rộn ràng như thế đến đêm bên những ngọn đèn dầu lù mù loanh
quanh những con đường trong thành phố cũng có những quán cóc để dân mê
cà phê, mê hòa bình được tận hưởng những giờ phút, sảng khoái, thanh
bình, yên ả nhất của đời mình.
SÀIGÒN DĨ VÃNG VÀ SÀIGÒN BOLSA
Sàigòn một thuở là Hòn ngọc Viễn Đông, một Paris lấp lánh khắp cõi Châu
Á, tới hôm nay, lại mang một cái tên khác lạ, chẳng đẹp đẽ chi, nếu
không muốn nói là vô nghĩa. Bởi thế nên người ta vẫn gọi tên cũ chính
danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi vẫn mang tên là Sàigòn. Sàigòn của
muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang sống ở thành phố đó hay lưu
lạc khắp năm châu thế giới.. Người Sàigòn không nhất thiết phải sinh ra
tại đó, có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững.
Một người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân Sàigòn, dù chỉ
ở đây một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở
Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi, và mang Sàigòn ở trong tim, như một
phần của thân xác, linh hồn mình. Chỉ như vậy thôi, người ta có thể
ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là dân Sài gòn. Tóm
lại, Sàigòn là của tất cả mọi người suốt giải giang sơn, từ Bắc qua
Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền mẫu, giang vòng tay ôm thương yêu
quảng đại tới con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và ngay
cả người ngoại quốc nữa. Một người Pháp sinh ra ở Paris, bỗng dưng một
hôm tuyên bố, từ nay tôi không còn là một Parisien, cư dân ở Paris nữa.
Tôi là người Sàigòn và sẽ ở lại đây cho tới cuối đời. Thế là dân Sàigòn
bèn gọi chàng Tây là anh Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người Sàigòn
là như vậy đó, thiệt là cởi mở và phóng khoáng.
Một nhạc sỹ sáng tác nhạc gửi : “Sàigòn ơi ! Ta hứa rằng ta sẽ trở về”
. Rồi chàng cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách. Nhưng chàng
khám phá ra mình thực sự mất Sàigòn trong thực tại. Thế nên, nếu có sự
trở lại, thì chỉ còn một hành hương về Sàigòn trong quá khứ với ngọc ngà
dĩ vãng..
Hãy
cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù khơi. Sàigòn của những thập
niên 1950 từ hơn nửa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp đêm, sòng bài Đại
Thế Giới, Chợ Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ loại sòng bài và
cách chơi khác nhau, lại có chỗ giải trí như xe nhỏ chạy bằng điện húc
nhau đùa rỡn, hiện nay Las Vegas vẫn còn trò chơi này. Khu văn nghệ khác
như phòng trà vũ trường. Con đường Trần Hưng Đạo Galliéni, Đồng Khánh
chạy dài từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun vút dẫn khách tới sòng bài, lưu
thông hàng ngàn chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn pha sáng chói, chẳng
khác gì đại lộ Champs Elyseé tại Paris. Đường Richaud Phan Đình Phùng
quả thật văn nghệ với quán cà phê Gió Nam
nỗi tiếng vì cô hàng café tuyệt sắc giai nhân. Nàng có nước da trắng
xanh liêu trai với mái tóc thề ngây thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi vào
truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm, tranh đua nàng, từ trí
thức đến du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Đình Phùng với quán phở Con Gà sống
thiến cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh tài sắc. Yến Vỹ cùng chị,
cả hai để mái tóc bồng rối như minh tinh Brigitte Bardot. Bao thực
khách đến chẳng phải phở ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát hay.
Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở giai nhân cũng khiến một chàng Cử
Văn Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si. Phan Đình Phùng còn thêm
café quán Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những giai nhân lai Pháp, càng làm thêm Sàigòn có một chút Paris.
Sàigòn by night đã
là những phòng trà ca nhạc và vũ trường khiến màn đêm Thành Đô trở nên
lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ đêm huyền thoại. Nổi bật nhất từ
cuối thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ. Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau này. Thanh Thúy
ở tuổi mượt mà thanh xuân đôi tám đã hát từ Anh Vũ, làm mê say bao tao
nhân mặc khách. Người ta mê Thanh Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên
giọng ca trầm buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông
rơi, sau đó gây chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi dậy thì, có lúc nàng
lại vưốt cây micro nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì sốt nóng
lạnh. Ban CBC thuở Anh Vũ đã là ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới, với tuổi khoảng sáu, bảy mà thôi. Thảm kịch cũng xảy ra cho phòng trà Kim Điệp
Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết. vì dám cặp kè với người đẹp
Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng sát phu qua hai đời
chồng bị tử nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim Điệp sau vụ ấu đả vì
ghen tuông. bị đóng cửa để trở thành Nhà sách. Quán café trà thất đẹp
nhất Sàigòn phải kể là Quán Gió,
sau thành “Hầm Gió”, thiết trí sâu dưới đất, như một hầm rượu bên Âu
châu. Người đẹp ngồi cash, bên một thùng rượu làm thành cái bàn khá
ngoạn mục. Ca sỹ Thanh Lan thường có buổi trình diễn tại đây .
Chính những phòng trà đêm Sàigòn đã đưa nhạc phản chiến của Trịnh Công
Sơn lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc phản chiến cấm hát ở Đài phát thanh
nhưng tại phòng trà thì vẫn được trình diễn tự do. Vũ trường, phòng trà
Sàigòn còn ghi lại một thiên tình sử đẫm lệ, khi nữ ca sỹ Diệu Anh kiều
diễm hát hay, đã tự tử vì… bị một nam ca sỹ bỏ rơi. Chàng trai bạc tình
sau đó vì buồn và hối hận đã bỏ hát vài năm. Đêm Sàigòn trà thất vũ
trường còn ghi đậm cây si thường xuyên Mai Thảo và Hồng Dương, để viết thêm những tình sử lâm ly với hai nữ danh ca khác. Đêm Sàigòn bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và Khánh Ly, những tiếng hát vàng ròng cả nghĩa trắng lẫn nghĩa đen, vì lương tháng hai nữ danh ca này lên tới một triệu.
Trong khi đó, lương một Đốc sự, Phó Quận trưởng tới năm 1975 chỉ có 33 ngàn đồng một tháng. Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng
ngay tại bến Bạch Đằng. Thuở đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta
thích đi Mỹ Phụng vì ban đêm có gió sông Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ Thanh.
Nàng chuyên hát những tinh khúc ướt át, trong điệu slow tắt đèn, mờ ảo
như “Dang dở ” “Nỗi Lòng”. Tiếng hát mê đắm Lệ Thanh đã thu hồn một Bác
Sỹ trở thành phu quân của nàng. Đêm Sàigòn ngọc ngà dĩ vãng khiến người
ta khó quên được vì những dạ vũ Bal Famille có khi kéo dài từ đêm suốt
sáng. Ai có ngờ cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú, sau này lại
trở thành ca sỹ Khánh Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh danh là
Phú chuột, trắng trẻo, mũm mĩm xinh như thỏ con, thường nhảy cùng Mai
với đám bạn trai. Mai nhảy có khi bỏ cả giày cao gót giữa đêm vui đã gần
rạng sáng. Thuở ấy, người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi tài nhảy của
Tony Khánh, thường nhảy cặp với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân
ra sàn nhảy, mọi người đều ngừng khiêu vũ để thưởng thức tài nghệ bậc sư
biểu diễn. Sau đó là pháo tay nổ ròn như ngày Tết. Hòn ngọc Viễn Đông
Sàigòn từ thập niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn đổi tên và Sàigòn
ngọc nát châu chìm. Những cột đèn tuy không biết đi, nhưng đã chắp cánh
bay xa, thành bao nhiêu Little Sàigòn rải rác khắp hải ngoại.
Và
dân Sàigòn năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai nhân
ca sỹ lừng danh, nay đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi hạc.
Thế nhưng trái tim chằng bao giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh Tâm
Tuyền ta gọi tên ta, Sàigòn cho đỡ nhớ. Hỡi những Đêm Mầu Hồng, Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự Do…
Những đêm vui thắp sáng kỷ niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để
làm thành một Thủ Đô Sàigòn bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn
trong lời nhạc của Ngô Thụy Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới
Paris, Vienne, cũng chẳng thể tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua
dĩ vãng cũng như Sàigòn mai sau, khi hết Cộng sản. Bây giờ tuy chưa có
Sàigòn mai sau, nhưng ta tạm có Little Sài gon Bolsa tại Nam Cali, Thủ
đô tỵ nạn của người Việt hải ngoại – chỉ tại Little Sàigòn mới giống
Sàigòn năm xưa được. Sàigòn Bolsa mùa xuân pháo nổ tưng bừng qua phố
phường Westminster, Bolsa, Brookhurst, Euclid… trong khi ấy nay Sàigòn ở
Việt Nam làm sao có pháo ?
Thế
nên người có tiền ở Sàigòn bây giờ, Tết đến lại thích đi du lịch sang
Mỹ để đón xuân thực sự như Sàigòn thuở xưa, và tìm lại Sàigòn đích thực.
Sàigòn đã ra đi và Sàigòn tung cánh chim viễn xứ, quy tụ quây quần tại
Mỹ, Canada, Úc, Pháp. Đức v v . Ba triệu người Việt lưu vong là ba triệu
trái tim nồng nàn vẫn yêu thương Việt Nam và thắp sáng mãi Sàigòn Hòn
Ngọc Viễn Đông nay thắp sáng ở xứ người. Sàigòn đã ra đi và tương lai sẽ
có lúc, Sàigòn trở lại, như một Châu Về Hiệp phố. Sàigòn khi ấy sẽ rực
sáng tin yêu của Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường.
Tâm Triều
Nguồn: http://anloc471.com/XemChoBiet/DemSaiGonnamXua.htm
Đọc thêm:
SÀI GÒN ME THAY LÁ...! http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/sai-gon-me-thay-la.html
Xem thêm:
THIẾU ĐÓI KHẮP NƠI
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/thieu-oi-khap-noi.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét