Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

Xin xem tiếp ... vI- TÙ BINH CẢI TẠO- NGỤC TÙ CỘNG SẢN

Xin xem tiếp ...

vI- TÙ BINH CẢI TẠO- NGỤC TÙ CỘNG SẢN



NHỮNG ANH HÙNG BỊ LÃNG QUÊN

Phạm anh Dũng        

30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một thảm cảnh của dân tộc Việt Nam, ngày mà cán binh cộng sản xâm chiếm nước Việt Nam Cộng Hoà thân yêu của chúng ta. Chúng đã áp đặt lên dân tộc Việt một thể chế ngoại lai, man di mọi rợ : vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc.

Sở dĩ CS xâm lăng VNCH một cách mau chóng là nhờ :

-    Sự hỗ trợ tối đa của các quan thầy Nga Tầu và chư hầu, trên mọi phương diện : súng đạn, cố vấn, ngoại giao, tình báo, truyền thông, nhân lực, tiền bạc, v.v.

-    Hoa Kỳ đã quyết định hy sinh tính mạng của hàng chục triệu dân Việt Nam trong chiến lược toàn cầu hoá của họ. Do đó đã áp dụng chính sách không viện trợ đạn dược, không cho quân đội Hoa Kỳ tham chiến từ những năm 1970, mà chỉ đóng vai trò cố vấn, nguỵ tạo tình báo sai lạc v.v. để quân lực VNCH không còn điều kiện  chiến đấu.

-    Một trong các nhân vật còn mang nặng ảnh hưởng thời Pháp thuộc đã được chức tổng thống vào những ngày giờ chót, nhưng vì những lý do khó hiểu nên đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, dâng đất nước VNCH cho cộng sản. Cũng chính vì lời tuyên bố này khiến quân lực VNCH bị bó tay, và giờ đây hậu quả là người Việt tại hải ngoại đã mất đi tính cách pháp lý trong công cuộc đấu tranh chính trị quốc tế. Có người cho rằng nhờ lệnh buông súng đầu hàng của nhân vật này mà tránh được cuộc tắm máu. Nhưng cho dù quân dân miền Nam lúc bấy giờ đã tôn trọng kỷ luật ngưng chiến, mà sau đó vẫn bị cộng sản tàn sát. Biết bao Quân Cán Chính VNCH đã bỏ thây trong các trại Tập Trung Cải Tạo, các vùng Kinh Tế Mới, cũng như hàng trăm ngàn dân Việt Nam vô tội, vẫn phải chạy trốn nạn cộng sản và đã bỏ thây dưới lòng biển Đông. Vậy cái lệnh đầu hàng đó, có thật sự tránh được cuộc trả thù đẫm máu và nước mắt của quân dân miền Nam hay không ?

Nấm mồ vĩ đại của người dân vô tội Việt Nam tại lòng biển Đông, cho đến nay, không ai biết được con số chính xác những nạn nhân của cộng sản. Ông Vaudour Faguet, một ký giả Pháp đã phải thốt lên :

Thế kỷ hai mươi đã từng phát hiện nhiều hình thức tàn sát đàn áp tập thể. Có thể chúng ta đang ở bước đầu của một chu kỳ tội ác lâu dài và tính cách tàn sát được xem như « riêng rẽ » vì nó khác hẳn với tất cả những thảm họa đã xãy ra. Những hồ sơ khủng khiếp trước đây trở thành cũ rích. Sự điên loạn chém giết của thời đại chúng ta vừa phát minh một kỹ thuật giết người mới mà những thủ đoạn chính trị gian hùng không có giới hạn.  Đây là một sự tàn sát không bằng cớ. Đây là một cuộc diệt chủng không đổ máu và cũng không có hành hạ thể xác vì :

1. Ghe thuyền chìm đắm không nhân chứng, không phóng sự, không có gì chính xác :
2. Vùng tàn sát không để lại bằng chứng « khảo cổ » : không lò thiêu, không kẻm gai, không nhà tù, không nghĩa địa, không tháp canh…. Không có gì cả.
3. Không có và cũng không bao giờ có « kế tóan » số người chết.  Địa điểm vượt biên bị dấu kín. Bao nhiêu ghe tàu chìm đắm, không ai biết. Các thủ phạm đã tính toán kỹ lưỡng : không hồ sơ sổ sách, không trước tịch, không số quân, không bằng cớ pháp lý…. Buộc tội tố cáo họ chỉ là điều tưởng tượng.
4. Đó là một cuộc tàn sát dứt điểm không phim ảnh, không tường thuật, không chuyện kể.

Tội ác của cộng sản, thật không một bút nào, không một hình ảnh nào có thể kể xiết được. Khi thế giới đưa ra bản thống kê, chứng minh các quan thầy của bọn họ đã tàn sát hơn 100 triêu sinh linh ; con số gần 10 triệu người chết dưới tay cộng sản Việt Nam, đối với họ thì có là bao !!! (Ngày 2-2-1950, Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée ; chiếu theo công pháp quốc tế, Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Đảng CS đã phủ nhận nền độc lập này, vì Hiệp Định Elysée không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và họ đã tiếp tục dùng bạo lực gây chiến tranh, với sự yểm trợ của Quốc Tế CS, để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm 1954, và cướp chính quyền tại Miền Nam năm 1975) .

Đất nước lâm nguy, thất phu hữu trách. Sau tháng tư đen năm 1975, các Quân Cán Chính VNCH đã bị hành hạ tra tấn, và bị tàn sát trong các trại tù trá hình mang mỹ danh « cải tạo ». Nhiều anh hùng Việt Nam (dân và quân) đã gia nhập các tổ chức đấu tranh vũ trang : Mặt Trận Dân Tộc Phục Quốc, Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết, Mặt trận Liên Tôn, Liên Bang Đông Dương, Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc, Dân Quân Phục Quốc, Đảng Rồng Đen, Thanh Long v.v. để trực diện đấu tranh chống cộng sản. Những tổ chức này vì thiếu những điều kiện tối thiểu như : vũ trang, tiền bạc, hậu cần, tổ chức v.v. nên đã bị việt cộng truy kích và tàn sát. Những người còn sống sót nếu không bị xử bắn thì cũng bị hành hạ một cách tàn nhẫn trong các nhà tù của cộng sản. Những anh hùng này đã hy sinh trong bóng tối, trong bức màn sắt dầy đặc của cộng sản.

Tháng 3 năm 1993, ý thức được tình trạng càng ngày càng đen tối của dân tộc dưới sự đô hộ của cộng sản. Một số anh em chúng tôi đã quyết định về nước đấu tranh trực diện với CS bằng võ khí Nhân Quyền. Nhưng việc không thành, chúng tôi bị cộng quân bắt giữ. Tôi bị tuyên án 20 năm tù với tội danh : « âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân », sau đó bị đưa đến trại kỷ luật của miền nam A20, có tên là thung lũng tử thần, gần Tuy Hoà. Nơi đây, chúng tôi đã rất xúc động gặp được các chiến sĩ  không tên đó. Có những anh đã bị tù từ năm 1975, vẫn hiên ngang tiếp tục tranh đấu ngay trong lòng địch : làm thơ, viết những tài liệu chống chính sách và tư tưởng cộng sản, họ bị chồng án. Có những anh bị tra tấn đánh đập trở thành mất trí điên khùng, nhưng vẫn phải ở tù. Có những anh bị tàn tật vĩnh viễn vì công an CS cắt đứt gân chân trong khi tra tấn, lấy cung v..v.. Các anh đa số là  « mồ côi », vì không còn gia đình tiếp tế cơm gạo, phải sống theo tiêu chuẩn của trại tù là mỗi ngày hai chén cơm với nước muối. Các anh phải hái những lá cây hoặc hoa để ăn cho bớt sót ruột và không bị bệnh thủng. Những ai đã từng sống trong nhà tù cộng sản như chúng tôi, mới biết được sự tàn ác tận cùng của con người ; báo chí tây phương luôn nhấn mạnh về cái ác của Đức Quốc Xã, khi tàn sát dân Ba Lan, Do Thái, trong các lò thiêu. Nhưng thà chết ngay không còn biết đến sự đau đớn khổ nhục có lẽ tốt hơn, vì trước sau gì cũng phải chết. Còn cộng sản, họ không muốn giết ngay, họ chiêm ngưỡng và kéo dài sự sống của con người trong đau khổ. Họ liên tục tra tấn con người dựa trên lo âu, sợ sệt, cô đơn, đói khát, điên loạn… Nhưng dù trong hoàn cảnh đói khổ cùng cực của điạ ngục trần gian, các anh vẫn chịu đựng, không một lời than, không một giọt nước mắt. Trước mặt kẻ thù, các anh vẫn ngửng đầu hiên ngang, không khép nép, không sợ sệt.

Ngày 28 tháng 10 năm 1994, phái đoàn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đến quan sát nhà tù A20, Bộ Nội Vụ CS đã ra chỉ thị cho trại, đưa các tù chính trị đi dấu trong rừng, cho tù hình sự giả tù chính trị để gặp phái đoàn. Khi biết được sự kiện này, toàn thể tù nhân chính trị rất bất mãn và quyết định không đi lao động. Cuộc nổi dậy và tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ tư thì bộ nội vụ cho công an đến đàn áp. Rất nhiều anh đã bị nhốt, bị đánh đập và bị kiên giam, cùm xiềng cả tay lẫn chân. Một tuần sau,  bộ nội vụ giải chúng tôi ra trại Đầm Đùn, còn gọi là trai Lý Bá Sơ hay trại giam số 5, cách Thanh Hoá khoảng 30 cây số. Đây là trại kỷ luật của miền Bắc, rất nổi tiếng với bài thơ « ông lái đò » vì ai đã tới đây chỉ có chết, chứ không có cơ hội trở về !!! Khoảng ba tháng sau, các tù nhân chính trị khác từ trại A20, cũng được chuyển đến trại này.

Nhờ sự can thiệp của gia đình, các bạn Pháp, Cộng Đồng người Việt hải ngoại và chính quyền Pháp. Trung tuần tháng Ba năm 1998, bộ nội vụ CS chuyển tôi đến trại giam Nam Hà, gần xã « Ba Sao » quận Phủ Lý, thuộc Hà Nam Ninh cách Hà Nội khoảng 50 cây số. Tôi bị biệt giam và cách ly ở đây trong thời gian trên 6 tháng. Ngày 1 tháng 9 năm 1998, tôi được trả tự do, cùng  với thầy Tuệ Sĩ và cha Hiếu (dòng Đồng Công). Chính quyền Pháp đến đón tôi tại trại giam Nam Hà và đưa ngay ra phi trường Nội Bài để về Pháp. Ông cố vấn số một của Đại Sứ Pháp, cho tôi biết là cùng ngày có 7 người mang quốc tịch Trung Hoa và Úc (án hình sự : gián điệp và buôn lậu) cũng được thả, và chính phủ của họ phải chi cho nhà  cầm quyền XHCNVN 250.000 Mỹ kim cho mỗi người. Tôi có hỏi về trường hợp của tôi, thì ông ta chỉ cười và không trả lời. Chuyện này đối với tôi, không lấy gì làm ngạc nhiên ; vì trong suốt thời gian bị tù đầy, hàng năm các trại « cải tạo » tổ chức giảm án trong dịp 02/09, với tiêu chuẩn là gia đình của họ phải đút lót tiền bạc cho các quan của « Toà Án Nhân Dân » và các ông « giám thị trại giam ». Tôi mường tượng đến cảnh bọn cướp bắt cóc con tin để đòi tiền chuộc !!!

Về đến Paris, tôi đã liên tục xin gặp các giới chức Pháp, cũng như các tổ chức nhân đạo : Amnesty International, Human Right Watch, v.v. để trình bầy hoàn cảnh của các anh còn bị giam cùm trong các nhà tù cộng sản, sống trong những điều kiện thiếu dinh dưỡng, bệnh tật, không có thuốc men … Tôi xin họ can thiệp để cộng sản thả các anh ra. Nhưng câu trả lời của họ làm tôi bàng hoàng và xửng sốt : «  chúng tôi sẽ không can thiệp và yểm trợ cho các tù nhân chính trị khi đã đấu tranh bằng vũ trang, chúng tôi chỉ can thiệp cho các tù nhân lương tâm hoặc các nhân vật tiêu biểu đấu tranh cho Nhân Quyền ». Nhưng phũ phàng thay, họ lại can thiệp cho các thành phần phản tỉnh, đã từng là những đảng viên cộng sản, bàn tay họ đã đẫm máu của nhân dân Việt ; họ là những tên sát nhân (gián tiếp hoặc trực tiếp), là tội đồ của dân tộc. Sở dĩ sự kiện này xẩy ra là do một số hội đoàn, tổ chức chính trị của người Việt hải ngoại, vì lý do thủ đoạn chính trị, thổi phồng lên, nên bọn này được thế giới biết tới, yểm trợ, can thiệp và coi những tên sát nhân này như những người hùng của thời cuộc !!! Ghê tởm thay.

Những người tù chính trị không phải là bồi bút, nên không viết ra được những dòng chữ mỹ miều ru ngủ đồng bào, và các anh không biết lường gạt nói dối, không biết lẻo mép để viết lên những cái không bao giờ có. Vì vậy ngoài đời, không ai biết đến các anh. Không ai lo cho tình trạng sức khoẻ của các anh, ngày càng suy nhược và cực kỳ nguy hiểm.

Đến ngày Quốc Hận, 30 năm qua rồi, quê hương vẫn còn chịu bao cảnh đau buồn ! Lòng tôi thấy xốn xang ! Biết bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, chia sẻ cùng các anh trong trại Tập Trung Cải tạo, từ từ hiện ra trong ký ức. Giờ đây, tôi đã được đoàn tụ cùng gia đình. Còn các anh, số phận vẫn trớ trêu, vẫn chịu bao cay đắng ngọt bùi, chỉ vì đã mang nợ với núi sông. Có ai biết đến sự hy sinh của các anh đâu ? Có ai biết đến những nỗi đau và sự mất mát của các anh đâu ? Các anh mới chính là những anh hùng không tên tuổi, và các anh cũng là những anh hùng bị lãng quên. Các anh đích thực là những sĩ phu của Việt Nam, là các con yêu của Tổ Quốc.

Sau ngày Quốc Hận 1975, các anh đã quyết không vượt biên đi tìm Tự Do nơi xứ người. Từ giã gia đình, theo tiếng gọi của non sông, cầm súng đuổi giặc cộng sản, thề hy sinh xương máu cho tổ quốc. Các anh đã nằm xuống ; hay còn sống nhưng không bằng một con thú, trong các nhà tù cộng sản ; hoặc đã mãn án trở về quê, không có tiền bạc, không còn gia đình, không có quyền đi làm việc và bị theo dõi ngày đêm bởi bọn chó săn cộng sản.

Dù trong bất cứ trường hợp nào, cuộc sống của các anh đã quá nhiều đau thương. Các anh đang nghĩ gì, các anh đang mơ những gì ? Nhưng tôi biết chắc một điều, vì tôi đã được vinh dự sống chung với các anh trong khoảng thời gian gần 6 năm trong nhà tù cộng sản. Các anh không bao giờ màng đến danh lợi, bạc tiền. Các anh chỉ mong có một ngày, dân tộc Việt nhìn thấy ánh sáng của Tự Do, có cơm ăn áo mặc, không còn là nô lệ của bè lũ cộng sản nữa.

Paris, một ngày thật buồn
Phạm Anh Dũng
Cựu tù nhân chính trị CS (Từ 05/03/93  tới  01/09/98)



DANH SÁCH CÁC TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ CÒN BỊ GIAM GIỮ TẠI TRẠI NAM HÀ

Danh sách được thực hiện ngày 28 tháng 4 năm 2005.

Những tù nhân chính trị này đã bị cộng sản cô lập, đối xử tàn nhẫn và bị các tổ chức Nhân Quyền thế giới và cộng đồng người Việt đấu tranh hải ngoại không đoái hoài tới.
                                  
      

Tên Tuổi 
Án phạt 
Bị tù từ năm 
Thành phần xã hội

Bùi Thúc Nhu 57
Chung thân
1985
Việt Nam Quốc Dân Đảng 
2 Đào Bá Kế 
52
Chung thân
1990 Việt kiều tỵ nạn Thái Lan
3
Đinh Van Be 45
20 năm 1987
Nông dân
4 Đoàn Van Nay
57 Chung thân 
1986 Cư sĩ Cao-Đài 
5  
Lê Quy Hoa
  48 
 20 năm 1982 
Võ sư 
6
LêThien Quang
57
12 năm 
1993 Cựu sĩ quan QL/VNCH
7
Lê Van Hieu
64
20 năm 1985 Tu Sĩ Công Giáo
8
Lê Van Son
74 Chung thân 
1985 Cư Sĩ Hòa-Hảo
9
Nguyễn Van Huy 41 

1990 Việt kiều tỵ nạn Thái Lan
10 Nguyễn Van Ki 41

1990
Việt kiều tỵ nạn Thái Lan
11 Phan Van Ban 67
Chung thân 2 lần bị tù CS 
1975 –1983  và 1985
Cựu sĩ quan QL/VNCH
12 Phan Van My
41

1990
Việt kiều tỵ nạn Thái Lan
13
SUNAYMAL 47
20 năm
1982
Nông dân  
14
Tai Sanh 42 

1990
Việt kiều tỵ nạn Thái Lan
15
Trần Van Luong 65 Chung thân
1985 
Dân Biểu VNCH
16 Trần Van Nhi 67
Chung thân
1980 
Cư Sĩ Phật Giáo
17 Trần Van Suong  65
Chung thân 2 lần bị tù CS
1975–1982 và  1985 
Cựu sĩ quan QL/VNCH,
Việt kiều tỵ nạn Thái Lan
18 Vũ Dinh Thuy 57 Chung thân 2 lần bị tù CS 
1975 –1978 và 1979 
Cựu sĩ quan QL/VNCH,
   
Nguồn:http://www.tinparis.net/quochan/qh_phamanhdung.html


http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/06/nhung-anh-hung-bi-lang-quen.html


Giả từ vũ khí- Huỳnh Mai St.8872
Untilited 0.005 - TỰ DO & HÒA BÌNH VN. Tự do-Hòa Bình là mục tiêu cao cả, là bản vị tâm hôn yêu nước của Người Việt Quốc Gia Việt Nam, trong tinh thần  TRÁCH NHIỆM-DANH DỰ CỦA TỔ QUỐC trao cho chiến sĩ QL.VNCH. Ngày 18 tháng 10, 2014.
" MAI ĐÂY HÒA BÌNH " Là niềm mơ ước... khát khao dân tộc của toàn dân, toàn quân cán chinh VNCH, nói riêng. Và chung cho cả nước VN, một khi tàn rồi chinh chiến, cho cuộc: GIÃ TỪ VŨ KHÍ, qua tiếng ca Trường Vũ còn âm vang nuối tiếc thương đau, khi Tự Do & Hòa Bình chưa trọn vẹn...Chiến tranh đã đi qua, nhưng thương đau dân tộc vẫn còn ở lại...!!!

https://youtu.be/SwCQ9PoxDg4





Lịch Sử Quân Sử Việt Nam
Tác phẩm Đạn nổ trong tù Cải Tạo Long Khánh!!! nói lên cuộc chiến đấu âm thầm, uy dũng của những người tù chính trị cộng sản Việt Nam, những cựu sĩ quan các cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nơi trại tù Long Khánh. Một thời được gọi với danh xưng "cải tạo".
Cuộc chiến đấu âm thầm, uy dũng này đã làm sáng thêm trang sử vàng son cận đại của dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu đến quý độc giả trong và ngoài nước "Tập hồi ký Đạn nổ trong tù Cải tạo Long Khánh" của tác giả Dạ Lệ Huỳnh.
Ban biên tập Lịch Sử Quân Sử Việt Nam (http://quansuvn.info).
Tập hồi ký,
Đạn nổ trong tù Cải Tạo Long Khánh!!!
{RIVER BRIDGE KWAII OF SOUTH VIETNAM}
lịch sử việt nam

 
Dạ Lệ Huỳnh
Cựu Đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Đơn vị sau cùng: Bộ Tổng Tham Mưu/QL.VNCH/TCQH
2 năm rưỡi tù Cộng sản.
Lời nói chân thật muộn màng,
Một lần nữa tháng Tư Đen đã 36 lần trở lại trên mãnh đất tang thương mất mát Miền Nam /VNCH sau ngày 30-4-1975. Tôi bồi hồi xúc động và đem tâm tư lòng mình ra giải bày những nỗi uất lòng vả làm”Biến Động” trong nhà tủ Cộng Sản tại trại tù cải tạo Long Khánh của các Sĩ Quan Cải Tạo Miền Nam/VNCH. Đó là sự kiện” Nổ Kho Đạn Trại Tù Long Khánh”…
Nay cũng đủ thời gian 36 năm giải mã độ mật quân sự VNCH và bộ Quốc Phòng của Hoa Kỳ nên tôi phải giải mật nó ra để lấy lại danh dự khí tiết và lòng tự hào kiêu hảnh của một chiến sĩ Tự-Do của QL/VNCH không đầu hàng Cộng Sản. Thể hiện tinh thần bất khuất của Quân Dân Miền Nam cho lý tưởng Tự-Do người Việt Quốc Gia. Dù muộn hơn không!? Và không còn cách nào lựa chọn phải nói cho ra sự việc cái thực này dù phải chấp nhận hiễm nguy hậu quả!? nếu không nói ra, chắc có lẽ tôi không bao giờ có cơ hội để nói nữa! Vì sức yếu tuổi già hay bị trả thù chế độ mà tôi vẫn còn tạm dung và sống nhờ chính trên cái đất nước mất Tự-Do của chính mình. Đây là sự thật cho những ai còn thiết tha với tiền đồ Tổ Quốc Tự-Do Việt Nam!
“Thôi vĩnh biệt Sài gòn trong thương nhớ,
Bến sông Sàigon lặng lẽ bóng trăng soi,
Chợ Saigon không buôn son bán phấn,
Bo Bo khoai sắn…điểm tô Sai gòn,
Nữa đêm tỉnh giấc hồn đi cải tạo…!
Sau lưng hiu hắc đỏ màu thương đau…!”

 
Nổ kho Đạn Long Khánh,
Sáng sớm trời còn mờ sương trong rừng lá thấp vùng Long Khánh. Chung quanh là rừng cao su ngút ngàn bao phủ, lọt thỏm một trại tù cải tạo bên cạnh một dòng suối nước chảy quanh năm mang tên địa phương là suối “ Rép”. Nơi đây là căn cứ quân sự của Sư Đoàn 18/BB có cả khu gia binh rộng lớn cho vợ con lính ăn ở và sinh hoạt, nay đã điêu tàn, hoang phế vì chiến sự rút quân. Và nó trở thành trại Tập Trung Cải Tạo Sĩ Quan /VNCH. Cho đó là “Ngụy Quân- Ngụy Quyền”cần phải cải tạo kẻ thù “Tay sai  dế quốc Mỹ".
Chúng tôi bị tập trung tại trại Long Khánh nầy, sau khi chuyển tù từ Trảng Lớn Tây Ninh về suốt cả đêm không biết đươc mình về đâu trong cái số phận tù binh nghiệt ngã này. Nó không tuân theo một công ước quốc tế LHQ giám sát Đình Chiến nào được Cộng Sản BắcViệt tôn trọng. Họ hành xử tù đày theo luật rừng xanh cộng Sản quốc tế không cho Cao Ủy LHQ giám sát vào kiểm soát đình chiến. Cũng vì CS/Miền Bắc vi phạm trắng trợn Hiệp Định paris/73,ngày 30-4-1975. Vì thế họ đối xử rất tàn bạo với Quân Dân, Cán Chính Miền Nam một cách thô bạo và tàn bạo hơn cả đoàn quân viễn chinh phát xít Nhật hay thời Pháp Đô hộ kông bằng!?
Nơi đây không cơm ăn, không áo mặc sinh mạng con người rẻ hơn xúc vật, chịu nhiều nỗi nhục nhả cực hình trả thú hiện kiếp của thú rừng xanh Việt Cộng. Họ muốn tiêu diệt tập thể QL/VNCH trong các trại tù theo sách lược Cộng Sản quốc tế…Chỉ có Trại Cải Tạo Long Khánh này là nơi tập trung Sĩ Quan Cải Tạo Nguy Quân-Ngụy Quyền là đông nhất và lớn nhất cả nước. Có thể nói chính xác không ngoa là nơi hội tụ tinh hoa hồn thiêng sông núi, quê hương tổ quốc  tụ hợp về đây!...Họ là thành phần trí thức yêu nước của người Việt Quốc Gia có lý tưởng Tự Do dân tộc.
Vì tầm mức hết sức quan trọng nầy nên CS/BV cho nhốt chúng tôi vào khu căn cứ quân sự SĐ18/BB bị bỏ lại trong cuộc rút quân và để lại nhiều mìn bẩy phòng thủ chống Việt Cộng nay nó trở  thành chống lại ta!? Việt Cộng gian manh xảo quyệt là chỗ đó!?. Và chúng lợi dụng chỗ nhốt tù đặt thêm một kho đạn chứa đầy bom mìn đạn nổ trong đó. Nó là kho đạn lớn nhất quân khu 7 thuộc miền đông nam bộ Saigon với nhiệm vụ cung cấp vũ khí và đạn dược chiến trường Campuchia để đem quân sang đánh Khờ-Me Đỏ với ý` đồ thành lập Đãng Cộng Sản Đông Dương Việt- Miên-Lào do CSBV lãnh đạo…Nhờ vào vị thế đặc quan trọng tiếp tế nuôi quân cung cấp khí tài cho chiến trường Campuchia. Cũng vừa gần Sàigon cho việc tập trung bắt nhốt con tin Sĩ Quan VNCH để tránh sự phản đòn quân sự của Hoa Kỳ giải cứu con tin dồng minh VNCH, nên chúng đặt ngay kho đạn lớn nhất của chúng giữa vòng rào trại tù Long Khánh và bộ chỉ huy hành quân Quân khu 7 miền đông Nam Bộ thành BCH tiền trạm chuyển quân cho chiến trường Campuchia và cho đó là nơi chắc chắn an toàn nhất dù Mỹ có lực lượng không quân và phản động tàn quân VNCH cũng không thể tấn công giải cứu tủ binh Cải Tạo Saigon đang bị tập trung tại nhà tù Cải Tạo Long Khánh vì có cả kho đạn uy hiếp tính mệnh tù Sĩ Quan Cải Tạo…
Chúng tôi dược chuyển tù  từ Trảng lớn –Tây Ninh - về trại Long Khánh và cuộc sống ý nghĩa nhà tù cộng Sản tiếp diển tại đây. Chúng tôi sống hình như phải tự song và tự sinh tồn như dã thú chốn rừng hoang không cơm ăn, không áo mặc, sống nhơ những bao gạo mụt nát đầy mối mọt mà họ chô giấu trong rừng nhiều năm qua. Vì đói quá nên bắt trùng, dế, cào cào, châu chấu, sâu bọ, rắn rết…bất cứ con gì ngọa ngoại là bỏ vào mồm nhai để sống. Tội nghiệp các ông bác sĩ quân y hay bác sĩ biệt phái Quân đội Sàigon không phải dân tác chiến trong rừng, không quen kỷ năng sống mưu sinh thoát hiễm nên họ không dám ăn thịt chuột vì sợ bênh dịch tả cả trại. Với tình trạng nầy chắc các ông chết đói và không gặp mặt được vợ con, nên tôi lén làm thịt chuột và xin các ông nào alcol, thuốc đỏ để xao bóp và xác trùng cho chuột trước mặt các ông thấy rất an toản vệ sinh dịch tể. Vì co màu đỏ cùa thuốc đỏ nó giống con heo quay Ba Tàu Chợ Lớn khi nướng lên thơm phức nên các ông đòi ăn đở đói. Nhờ vậy mới có sức khỏe và lên tinh thần chịu đựng nhục hình cộng sản trong nhà tù.
Nơi trại giam nhà tù Cộng Sản không có qui chế tù binh chiến tranh của LHQ theo công ước quốc tế ban hành và không có Tổ Chức Giám Sát thi hành HĐ Paris do thành viên các nước cam kết thi hành HĐ Ba Lê đến kiểm soát, giúp đở tù nhân Cải tạo VNCH. Cho nên nhà tù Cộng Sản như cái hỏa lò dịa ngục trần gian, là nơi thanh toán thù hằn chiến tranh trong vùng xôi đậu{Ban ngày là Quốc Gia ban đêm là cộng sản}, các thành phần đảng phái chính trị hoạt động nằm vùng cộng sản, mà họ gọi là nợ máu nhân sân, đều bị lên danh sách, kêu tên chuyển trại, đem đi thủ tiêu trong hôm khuya khoắc như những âm hồn địa phủ. Sự sống trong trại tù Cộng Sản rất mõng manh như trong cái lồng gà không biết mình bị cắt tiết làm thịt lúc nào.
Tinh thần anh em tù Cải Tạo hết sức hoang mang xao dộng, suy sụp tinh thần, về Chíến  Sự thì Mỹ bỏ rơi, phản bội đồng minh VNCH, về chính kiến người dân vô tình lãng quên người chiến sĩ bảo vệ tự-do cho họ được an lành cuộc sống hậu phương!?. Và xã hội bên ngoài gia đình vợ con cha mẹ…bị trả thù phân biệt đối xử “Ngụy Quân-Ngụy Quyền của người Cộng Sản mất tình người!!! Tất cả những thứ gánh nặng trách nhiệm đè lên vai người chiến sĩ trong tinh thần suy sụp và các anh tìm đến cái chết thương tâm. Các anh thẩn thờ ốm đói như ma trơi địa phủ hiện về trong manh áo nhiều mãnh kết vá bằng bao cát thãm thương. Có vài nhóm các anh đi dọc theo căn cứ bờ rào lô cốt để hái những cây rau hoang dại hoặc đào những rể cây Hà Thủ Ô ăn cho đở đói…Vô tình gặp phải trái lựu đạn M26 còn xót lại của chiến hữu rút quân bỏ lại. Các anh tụ năm túm ba lại và cùng chung vào  một lô cốt rút chốt lựu đạn tự sát làm đau lòng anh em còn bám bíu đời nầy!?....
Hằng đêm nghe tiếng súng từ vọng gác của vệ binh Đỏ dọc bờ ráo trại tù, ai nấy củng thắp thỏm mong chờ có một lực lượng tàn quân của ta đến cướp trại và giải thoát tù binh. Nhưng thật đau lòng, sáng ra thấy 2-3 xác bạn bè cải tạo nằm chết vất vưởng chết trên rào kẽm gai. Nếu không nghe tiếng súng cũng nghe tiếng hét hải hùng từ trên trung đoàn quân khu 7/Cs vẵng lại nhửng tiếng tra tấn, đánh đập dã man. Cuối cùng là một phát súng nổ đả đảo Hồ Chí Minh của Trung Úy Thắng /BĐQ kèm theo yêu sách quy chế tù binh chiến tranh áp dụng cho tù binh VNCH không cần học Cải Tạo để được nhân dân khoan hồng tha thứ!?. Sáng ra anh em trong tổ lên khiêng anh về vì bị bắn gẩy hết một chân trái đem về trại và nhốt trong “Cô nết”{Containner của Mỹ}trước sân hội trường cổng trại làm gương chống lại đãng lãnh đạo nhân dân!???
Trong trại Long Khánh, hằng ngày các đội các khối phải thay phiên nhau ra rừng cao su Long Khánh vác cũi cao su đem về đun nấu cho cả trại gầ 3.000 tù và thêm cho cả bộ chỉ huy trung đoàn cộng Sản ngàn người nữa, nên phải huy động cả lực lượng tù binh hằng trăm cải tạo khuân vác cách xa trại 5-6 km.Chúng tôi hợp lại thành một đạo quân đầy khí thế hào hùng như thưở nào chưa “Gẩy Súng tan hàng”. Chúng tôi đua nhau vào bải phế thải quân cụ SĐ18BB cũ tìm trong đống phế liệu những bạc đạn, những khung sườn xe cũ để tự chế thành xe “Cải tiến” có người kéo và đẩy làm phương tiện chở cũi về trại và chia củi cho trung đoàn bộ đội hướng dẫn đi phá rừng cao su của dân làng làm chủ do những chủ đổn điền tư bản bỏ nước vượt biên!. Chúng tôi -Cải Tạo- Được lệnh bộ đội cán bộ trung đoàn/CS cho cưa đốn chặt bỏ làm cũi, khi cây cao su 5-6 tuổi còn sức cho mũ mà phải bị chặt phá thì tiếc quá!? Chắc họ không trồng nên không biết tiếc công và phí của hay họ dốt không biết giá trị xuất khẩu cao su.
 
Mỗi lần được đi vác cũi cao su là chúng tôi mừng lắm!vì có những giờ phút thoải mái, thư giản Tự-Do, tiếp xúc với dân làng cho đỡ nhớ gia đình vợ con, tìm lại một chút ấm lòng và nhờ người dân  mua giùm nhưng cục đường táng {đương thẻ vàng} một bánh thuốc rê, một gói thuốc lào 555 giữa hai hàng súng AK canh giữ và quát tháo của vệ binh bộ đội và họ chống chế bảo rằng; ”Bảo vệ chúng tôi khỏi bị nhân dân đánh đập do chúng tôi là kẻ thù của dân tộc”Các vệ binh vừa dứt tiếng hét thì có tiêng khóc gào của vài thiếu phụ ẳm con xông vào đoàn tù khóc thét đòi trả chồng, trả cha cho con họ và bị Bộ đội vệ binh kéo xệch ra khỏi đoàn tù! Trong ánh mắt buồn tũi căm hận, oán hờn của đoàn tù cải tạo.
Chúng tôi, đoàn tù Cải Tạo đã tiếp tay hay bị tiếp tay với kẻ thù Cộng Sản được lệnh chúng phá nát tài sản nhân dân để làm cũi chụm, thiêu đốt của cải nhân dân trước sự ngơ ngát và bất lực của quần chúng một thời ủng hộ và có đóng thuế cho cán bộ VC nằm vùng của chúng. Với khí thế tức tối của đoàn tù căm phẩn, thì nó tạo thành sức tàn phá rừng cao su thật khủng khiếp bạt rừng ngả đổ tả tơi lá cành trước sự phẩn nộ cực độ ngườii dân câm nín chết lặng trong lòng không tiếng nói???
Trên đường về trại chúng tôi đi ngang qua ngôi mộ chàng Tù Cải Tạo:
RỪNG SU BA MỘ!!!
Rừng Su Long Khánh ngả bóng hoàng hôn,
Mộ chàng Cải Tạo thương tâm nát hồn,
Bên bờ suối vắng rừng Su vác cũi
Một thân thiếu phụ cùng con khóc chồng,
Đạo quân Cải Tạo vai mang cũi khúc,
Lặng lẽ ngang qua trước mộ chàng tù,
Thường khi vẫn thấy buồn lên ánh mắt,
Ành hình thiếu phụ Nam Sương khóc chồng,
Bên cạnh mộ đứa con còn để chõm,
Thương thương đã biết chuyện gì chiến tranh,
Mẹ khóc cha đây trò chơi đánh trận,
Cha vờ chết cho khiếp vía kẻ thù,
Bùm…chéo!!…cho kẻ thù cha gục ngả,
Con kêu bố dậy…cả nhà ăn cơm,
***
Bẵng đi nửa tháng đoàn tù vác cũi,
Ngang qua không thấy tiều tụy dáng nàng,
Đứa bé chắc còn mê đi giết giặc,
Bỏ lại rừng su bóng lẽ mộ chàng,
Hoàng hôn chập choạng chiều hôm tắt nắng,
Bên dòng suối vắng rực đỏ rang chiều,
Lồ lộ ba ngôi gia đình xum hợp,
Nàng tìm cái chết cửa tử bên kia,
Thủy chung tình nghĩa hẹn hò nước non,
Thằng bé khóc la xác mẹ gào thét,
Suốt cả đêm trường chết lạnh rừng Su,
Trong cái chết biết đâu là sự thật,
Của trò đùa địa ngục đỏ trần gian,
Tiết hạnh khả phong má hồng chung thủy,
Rừng Su thẹn mặt núi sông cúi đầu,
***
Giờ đây rừng Su có ba ngơi mộ,
Biểu tượng gia đình dân tộc quê hưng,
Mất một cả ba đều hết nghĩa sống,
“Hòa Giải Dân Tộc” chỉ có trong mơ,
Thệ nguyện với lòng cùng non cùng nước,
Cải Tạo nầy phục nguyện với non sông,
Tù binh chiến sĩ hồn thiêng đất nước,
Quê hương nước Việt sạch bóng quân thù,
Cho anh cho tôi và cho tất cả,
Qua cơn mê thức tỉnh bởi lầm tham,
Vàng tan đá nát biết bao ly biệt,
Cho hồn phu phụ tử thê xum vầy,
Tiết hạnh khả phong anh hùng Liệt Nữ
Chí nguyện trai hùng trọn vẹn quê hương!!!
Huỳnh Mai

Chúng tôi về lại trại tù như đoàn quân chiến thắng đánh thuê cho cộng sản để phá rừng cao su của nhân dân bởi một đoàn tù dài dằng dặt cũng có những chiếc xe cải tiến chở gổ về giương nòng đại bác tiến về trại làm vang ầm cả khu rừng cao su đổ nát theo lòng căm phẩn người dân.

Nay trời nắng gắt, cỏ tranh bên bờ rào trại héo tàn nghiêng ngả trên rào kẽm gai, tổ chúng tôi gồm 10 người được cử lên làm tạp dịch trên trung đoàn với nhiệm vụ lên làm tạp dịch; bửa củi  quét dọn vệ sinh và làm cỏ quanh bờ rào cho thoáng tầm nhìn quan sát kiểm soát cải tạo sinh hoạt và phòng vệ  kho đạn. Tôi cắt đặt Trung úy/tổng thống phủ-thường theo bảo vệ ông Nguyễn văn Thiệu có thân hình to lớn khỏe mạnh và một Trung Úy pháo binh lãnh nhiệm vụ thay phiên bửa củi cho trung đoàn, và 3 anh nữa lo dọn vệ sinh vệ sinh hội trường sân cờ và xách  nước tưới cây và tắm heo cho trung đoàn. Còn 5 người còn lại kể cả tôi dọn dẹp khai hoang bờ rào giữa trung đoàn và cải tạo để dễ quan sát kiệm soát tù.
Dọn cỏ tranh khô bên trong bờ rào nhiều lớp kẽm gai đầy mìn bẩy và đạn dược vất ngổn ngang vướng vít trong rào mới là diều nguy hiễm vô cùng. Các vệ binh bộ đội bắt buộc anh em cải tạo chúng tôi phải làm thế mạng cho họ trước họng súng lom lom chự chờ nhả đạn. Không phải chúng tôi sợ chết vì muốn họ xác nhận là họ cần và bắt buộc chúng tôi phải làm thế mạng họ và không nghi nghờ gì chuyện làm và kế hoạch vừa nẩy ra trong đầu của riêng tôi mà bốn bạn đồng tù của tôi không hay biết gì cả?.
Chúng tôi tuân lệnh những vệ binh “nhóc con” và bắt đầu ra lệnh cho bạn tù vạch một khoảng trống kẽm gai chôi chui vào và bảo 4 anh đứng phía ngoài  tiếp tay chuyển vật dụng tôi trao ra cho an toàn. Hiểu ý nhau vì là quân tác chiến có huấn luyện bài bản kinh nghiệm chiến trường, các anh chạy vào nhà bếp trung đoàn đem ra cho tôi hai chiếc đủa bếp bằng sắt nhọn dầu để tôi xăm đất dò mìm 3 râu chống người và gở những trái mìn Laymore ra khỏi máy bấm kich hoạt nổ xong xuôi trao ra phía ngoài giử lấy. Kế tiếp là những trái lựu đạn M26 cùng những băng đạn  tiểu liên M60 cùng vô số dây đạn đại liên 30 và phòng không bắn máy bay của quân ta bỏ lại khi rút lui. Hoàn tất được khâu nguy hiễm đó rồi thì chúng tôi dọn cỏ tranh cũng lẹ không có gì khó khăn…Trước những cặp mắt kinh ngạc và thán phục của đám vệ binh cộng sản. Chúng xin anh em chúng tôi chỉ cho cách mở mắc kẽm gai không cần phá rào mìm nổ, thì tôi lấy 2 viên đạn M16  đưa vào giữa hai hàm răng cắn bẻ lấy đầu đạn và trút thuốc ra chỉ còn vỏ đạn và hạt nổ nhưng nó không nổ được khi không lảy cò súng. Có hai vỏ đạn rồi, thì trồng vào đầu mắc lá kẽm gai và xoáy vòng nghịch chiều nhau là chúng sẽ rơi ra khỏi vị trí đường kẽm ngay! Chúng thán phục vô cùng. Và mời chúng tôi tiếp tay phá rộng cửa rào kho đạn kế bên đêm xe ra vào chở đạn rộng rải nhanh hơn và chúng chần chừ không chịu làm vì sợ nguy hiễm. nay có chúng tôi hướng dẫn nên làm luôn cho xong vệc.

Tôi và các bạn tù đồng ý lảm việc theo yêu cầu bắt buộc này!... nhưng mũi súng của viên chỉ huy vệ binh VC thì không đồng ý luôn luôn chỉa súng vào chúng tôi. Và ra lệnh cho thêm 3 đồng chí vệ binh khác trao súng cho hắn giữ và đến với chúng tôi phụ giúp gở rào chắn cũ và nới rộng thêm một cái” barack “rào chắn thứ hai được rộng thêm cho kịp trời tối buổi chiều. Những thao tác cũ: dọn mìn bẩy, thu gom đạn dược và dọn dẹp khoáng đảng đám cỏ tranh khô, được chất thành 3 đống cỏ rác lè tè…dọc ngoài bờ rào như bao đống rác khác mà vệ binh canh gác kho đạn thường làm sạch sẽ vệ sinh láng trại .Và thường hay đốt rác vào ban sáng hôm sau để sưởi ấm, nấu nước pha trà, uống cà phê, hút thuốc lào như an  em cải tạo chúng tôi vậy…Thấy công việc cũng sắp hoàn tất như dự tính, tôi bảo 2 anh vệ binh và 2 bạn tù trong nhóm dọn phá mở rộng rào, sang tăng cường tiếp tay với nhóm đang làm mới cái Barack rào càn cho kịp chiều tối nghỉ ngơi. Tất cả đều đồng ý đi làm việc…Để lại mình tôi trong trời chiều nhá nhem tối, tôi vội vàng thu gom dọn dẹp dụng cụ làm việc và  nhanh lẹ lén lấy những dây đạn đại liên phòng không 50 ly và các dây đạn đại liên 30ly phòng thủ pháo đài có những đầu đạn lửa màu cam rực chói trong nắng chiều, đem nhét vội vào 3 đóng cỏ tranh khô, nhưng vẫn không quên điều sơ đăng kỹ thuật cho đầu đạn ngang tầm mặt đất hơi ngếch lên cao để khỏi chui vào lòng đất và hướng về mục tiêu kho đạn trước mặt. Kết quả hay không? là kỹ thuật đặt giàn phóng  này theo tầm “Đạn đạo”bay đi! Chắc phải thành công nếu có kích hỏa bằng mồi lửa đống rơm! Tôi đã từng làm việc nầy và từng đẩy lui nhửng đợt tấn công địch quân Cộng Sản BV tại Căn Cứ Hỏa Lực 6 để bảo vệ sân bay Phượng Hoàng tại Đắk-Tô-Ngã Ba Biên Giới Việt Miên Lào bằng kích hỏa những trái hỏa tiển lấy từ giàn phóng của trực thăng UH.1 và phóng nó bằng pin máy truyền tin PRC.25 vào chân núi nơi tập trung quân CSBV. Sau khi khỏa lấp vết tích và “Ngụy trang”che dấu dàn phóng “Đạn tiển”, tôi trở lại với bạn tù để hoàn tất công việc cái rào chắn biết di động. Và chúng tôi được trả về trại trong sự an toàn, vui mừng của anh em bạn tù. Các bạn trong toán đều mệt nhoài vì đả trải qua những giờ phút hiễm nghèo tháo gở “Mìn” vừa qua, nhưng riêng tôi tư thấy hãnh diện việc làm của mình cho anh em cải tạo một cách âm thầm không cho ai biết đến! và tư thưởng cho mình một Bi thuốc lào trong góc tối của cái sạp ộp ẹp tù nằm, khi chết đi thì chính những mãnh váng này ghép thành quan tài đem chôn Cải Tạo…


Đêm nay sao không khí ngột ngạt bao trùm cả trại xa xa phía bên kia biên giới có tiếng bom rền đạn nổ thình thoãng những tang đạn nổ gó vườn cao su hình như có cuộc đụng độ với nhóm tàn quân còn ẩn náo rừng sâu núi Chúa Chan.Trên bầu tròi đen không mây có những tia chớp lòe của vệ tinh Mỹ đang chụp Không Ành chiến trưòng biên giới Campuchia hay các trại tù binh Cải Tạo mọc lên trong rừng sâu chưa phát hiện!?

Mệt mõi thao thức không ngủ được khi chợp mắt được thì tiếng kẽng sáng vang lên cho giờ chuẩn bị đi lao động.Tôi thức dậy thay vì xúc miệng rửa mặt. Tôi chạy ra ngoài hố vệ sinh bên rào và giả vờ đi cầu để trộm nhìn sang bên kia rào trung đoàn vệ binh quan sát tình hình sinh hoạt bên kia nhưng không thấy động tịnh gì. Trong sương sớm cỏ cây còn đọng giọt sương…làm ướt cỏ khô nên vệ binh không đốt được rác lấy lửa đun nước pha trà như mọi khi. Tôi thất vọng và quay sang một bạn tù ngồi kế bên đang đi cầu để chào! Nhưng bắt gặp anh đang moi từ lổ hậu môn bệnh trĩ lòi trề ra một tuble ống thuốc nhôm trong đó có 2 khâu chỉ vàng và một tờ tiền Cụ Hồ mới đổi. Số tiên vàng này phải giao nộp cho Quản Giáo giữ và được trả lại khi còn sống ra về…Nhưng bạn tôi cứ nhét vào hậu môn bệnh trĩ cho chắc ăn. Anh bạn quay sang tôi buồn và nói: tôi phải làm thế để lấy tiền nhờ đám vệ binh VC mua giùm thuốc trị bệnh trĩ, mấy hôm rày đi cầu ra máu nhiều quá, nhức nhối hôi thúi vô cùng. Còn lại bao nhiêu mướn “Đài”{Radio}nghe tin tức đài BBC và VOA. Nghe đâu “Việt Nam chiu Trung Lâp  kể từ 0 Giờ ngày…..và thả hết tù binh VNCH{Nghe rè…rè không rõ vì máy bị phá song hay hết pin…}Chúng tôi từ giã nhau sau khi anh nhét trở lại ống nhôm đựng tiền vàng vào hậu môm là tất cả mạng sống của anh!?, tay anh đầy máu được rữa bằng nước của lon guigo mang theo đi cầu của bất cứ ai là Cải Tạo.

Hôm nay đến đội tôi trực nhà bếp kẻ thì ra bờ suối  dung thùng đại liên xách nước rửa chảo”đụng”to để nấu 3 chảo lớn cơm, nhóm thì xách nước tắm heo và cho heo ăn, nhóm thì đi lãnh rau muống, bí ngô, cá nhám biển to như cá mập cả trăm ký hơn đầy phong ngứa…Thấy còn sớm nhà thầu chưa chở cá và rau đến nên anh em cải tạo tụm năm túm ba lại thi nhau hút thuốc lào. Mỗi người một ống”Ba rô Ca”làm bằng ống đạn đèn chiếu sáng. Tiếng rít thốc lào kêu ro ro...! trong đóm lửa bập bùng và những lản khói tỏa mờ bao trùm những kuôn mặt dại khờ say sưa…và có người say thuốc té úp mặt vào cái bếp tự chế nấu ăn phải dấu quản giáo, làm phỏng mặt, cháy cả long mày sùi cả bọt mép!...

Đã 8 giờ hơn xe cá mới về mọi người tập trung làm cá lặt rau nấu cơm tất bật choc họ kịp giờ đem cơm cho lao động xa ngoài trại….

Tôi nhìn bóng mặt trời biết đã hơn 10 giờ hơn, sắp đến giờ chia cơm từng tổ từng đội trong các cái thau được gò nắn từ tole tháo gở mái nhà khu gia binh đang sắp  từng hàng dài thẳng tắp. Mọi đại diện tổ đông đảo chờ lấy cơm, trong khi chờ đợi, anh bạn Đ/Úy{xin dấu tên  vì đã chết!} cháu của bà Tùng Long chủ bút báo” Saigon” vụ Khỉ Đột Cà Mau” kéo tôi ra ngoài và bàn tiếp lá số Tử Vi của Cụ Hồ Chí Minh, sinh nhằm ngày nầy, tháng nầy lá rơi vào cung “Vô Chánh Diệu”. Cung Mệnh vô chánh diệu gặp”Thiên Không “ thủ mệnh, bàn chiếu và xung chiếu có sao Hỏa Linh, Thiên Khốc, Thiên Hư ngộ Tuần+Triệt…Xét theo khoa Tử Vi Đẩu Số thì Hồ Chí Minh là con người gian hùng hiễm ác Sâu độc. Cuộc đời bôn ba hải ngoại,vì Vô Chính Diệu mạng yểu{chết sớm} nhưng  nhờ sao Tuần+Triệt hóa giải nên sống lâu và công danh sự nghiêp hiển hách của một Chính Khách nổi tiếng. Khi mất tác dụng của sao Tuần và Triệt tức là lúc hết thời{chết} thì trở thành “Ách Nước, Hại Dân” cũng vì con sao Thiên Không biểu tượng cho sự nham hiểm +sao Hỏa Linh là tượng trưng cho gian hùng độc ác..!???. Theo ý anh nên đưa khoa Tử Vi nầy vào chương trình huấn luyện các trườngVõ Bị Đà Lạt và trường Liên Quân Thủ Đức thì anh thấy thế nào!?...Ý anh rất hay! hiện Bộ TTM/QL/VNCH của tôi đang xúc tiến cải tổ chương trình học cho các quân trường võ Bị Đà Lạt và Liên Quân Thủ Đức để nâng cao trình độ kiến thức và khả năng lãnh đạo “Chính trị-Ngoại Giao” của một Sinh viên Sĩ Quan Võ Bị về mặt thuần túy quân sự. Tôi có đưa chương trình nầy qua ban, sở phòng “Nghiên Huấn Tu Thư” thuộc Bộ/TTM/Tổng Cục Quân Huấn phê duyệt và chấp thuận. Theo tôi thấy nó  rất hay và bổ ích them cho kiến thức quân sự của một Sĩ Quan ra trường. Ít ra về mặt giao tiếp với xã hội bên ngoài. Tiếp xúc với phái đoàn Ngoại Giao Quân Sự nước ngoài. Tham dự những buỗi dạ hội Quan chức ngoại giao chinh phủ nước ngoài có các phu nhân đến dự, ngoài môn giao tế Nhảy Đầm{Dacing}có dạy nhà trường cần phải có môn học Tướng Số -Tử Vi kèm theo, vừa lịch sự khiêu vủ, vừa biết tác động tâm lý chiếm cảm tinh các cô, các bà để gây ảnh hưởng tác động ngoại giao với phái đoàn. Tử Vi- Tướng Số còn giúp cho cả chiến thuật quân sự theo binh thư Tôn Pháp, biết lấy Âm Dương Ngũ Hành chế hóa cho lẽ thắng thua theo “Thiên thời ,địa lợi nhân hòa”, hay: ”Biết người,biết ta trăm trận trăm thắng”. Tất cả đều đang hướng tới chương trình hiện đại hóa Sĩ Quan VNCH theo phương tây đầy đủ trinh độ, khả năng kiến thức và tài quản trị điều hành đất nước cho vai trò lãnh đạo Quốc Gia! Và…

TẦM ĐẠN RƠI CAO!

Chuyện phải ngưng ngang vì có tiếng nổ lẹt đẹt vài viên đạn M16 trong đống rác đang ung khói phía bên kia rào Trung Đoàn vệ Binh là chuyện thường ngày bộ đội vệ binh ra đốt rác…Chúng tôi chào nhau về với vệc lãnh cơm cho tổ. Nhưng tiếng nổ nhỏ vẫn kéo dài chưa dứt, tôi hơi chột dạ, bồn chồn không yên và đứng nhoài người định nghiêng mình ngó sang bên kia thì một tiếng nổ ầm lớn vang lên, tiếp theo là những tiếng nổ của đạn đại lien 50ly, 30ly xen kẽ nhau chớp nhoáng những viên đạn lửa bay vào kho đạn đang bốc cháy và kèm theo tiếng kẻng báo động khắp Trung Đoàn cùng tiếng la cháy cháy hô to của bộ đội bên kia rào.

Anh em Cải Tạo bên đây rào ngơ ngác nhìn nhau một thoáng vui mừng và cùng nhau đồng hô to sau tiếng nô “Ầm…Âm” khủng khiếp!!! “Nổ Kho Đạn”anh em ơi…!!!.và các anh rinh phần ăn của tổ, đội minh chạy về!...???

Tiếp theo đó là nhiều tiếng nổ lớn rung rinh  trời đất, bay tốc mái tole. Những trái đạn  chưa kịp nổ rơi” lịt bịt” tứ tung như mưa!khắp láng trại cài tạo và chúng phát nổ lần thừ 2 thật là khủng khiếp chết người!...Tôi chui dưới gầm bàn phát thức ăn ban nãy! được trải vĩ sắt  PSP{lót sân bay dã chiến của Mỹ}lúc nào không biết và tôi thoát nạn nhờ nó đang đở cái nhà bếp bị sập phủ trùm lên nó. Tôi lòm còm gở từ tấm tole chui ra quần áo dính đầy nước cá kho và cơm canh đầy người!...Việc đầu tiên thoát ra khỏi nhà bếp bị đè, tôi vội đi tìm  người bạn Tử Vi của tôi, vì anh là tổ trưởng nuôi heo 25 cho Trại cải tạo, thật ra có 15 con cho trại còn 10 con nuôi giùm cho cán bộ Trung Đoàn để ăn cơm chung khẩu phần ăn của anh em cải tạo bị bớt  khẩu phần ăn…Nhìn về phía chuồng heo chỉ thấy bầy heo nhốn nháo kêu la inh ỏi không thấy  anh đâu cả. Sợ heo xuất chuồng chạy ra ngoài nên tôi phải chạy đến đóng cữa chuồng, tới nơi thì hởi ơi!!! Anh bị đạn nổ và chết tại cửa chuồng đầu anh bị bể nát và bị mấy con heo xúm nhau giành ăn phần óc trắng hếu… văng ra dính vách tole chuồng. Tôi đã từng chứng kiến nhiều cái chết bạn bè chiến hữu ngoài mặt trận tôi chỉ biết Buồn mà thôi!!! vì trong tay chúng tôi còn có súng để chống cự lại kẻ thù!...nhưng ở đây chúng tôi -Cải Tạo- không có tất sắt trong tay không có phương tiện tự vệ mà phải bị chết mới là Đau. Tôi lôi xác bạn ra ngoài và mở toang cửa chuồng phóng thích đàn heo sợ chúng chết vì đạn nổ vì còn bị nhốt trong chuồng!? Đặt xác bạn vào nơi an-toàn trong nhà bếp tan hoang chỉ cò tấm tole lũng lổ đạn là che xác anh nằm…

Còn lại mình tôi, trong tiếng nổ long trời, trái đạn rơi lịt bịt thấy như trái sung rụng…nhưng chúng biết nổ chết người, tôi không còn đường nào trốn tránh, cứ mặc kệ cho nó tránh tôi!? Bản năng lì lợm cố hữu ngoài mặt trận đã trở lại trong tôi và phó mặc theo may rủi…Tôi lấy lại bình tỉnh và chạy về phía đội tổ của tôi dọc theo bờ suối mặc cho đạn nổ trươc mặt và sau lưng tôi không tránh né mặc tình cho số mệnh chối từ tôi!. Trên đường chạy tìm đồng đội…chạy qua cái giếng mà tôi mới đào cùng các bạn 2 ngày hôm trước thì thấy trên thành giếng có nhiều vết máu loang và vở đất trên miệng giếng vì đạn nổ và nhìn xuống giếng thấy 3 xác bạn chết im lìm không tiếng kêu cứu và họ đã chết hết rồi!...Chạy tới ngang qua chỗ ở của tôi mọi vật vắng lặng trong đổ nát chỉ còn xót lai căn nhà bếp chưa sập làm tôi chợt nhớ lại trong tổ của tôi có ông già Ngự là Đ/Úy đội phòng vệ phi trường Tân Sơn Nhất bị phù nề bại liệt vì thiếu vitaminB -Chất cám của gạo nên không đi đứng được chỉ bò và lết mà thôi!. Cứ mỗi lần phiên trực nhà bếp là lấy nước vo cơm có cám nấu chao cho bạn ăn. Nghĩ đến đây, tôi vội thò đầu vào qua tắm tole đổ và thấy ông già Ngự ngồi khóc một mình không có ai bên trong cả. Ông lo sợ và niệm liên hồi theo tiếng đạn nổ. Thấy được tôi ông mừng quá: Đ/Úy cứu tôi với, tụi nó chạy bỏ lại mìmh tôi vì không  đi được nên chúng quên tôi!?. Thôi anh đi với tôi!...tôi bung mạnh tấm tole mở rộng đường và kề lưng cổng ông ra khỏi đóng đỗ nát nhắm hướng bờ suối cõng ông chạy nhập bọn bạn bè. Tôi không thấy ông nặng vì ông ốm đói…hay vì đạn nổ sau lưng thôi thúc tôi cõng ông chạy như bay…ra bờ suối. Đến cuối dãy nhà khu gia binh và quẹo xuống suối thì thấy cả nhóm đông bạn bè cải tạo đang nằm rạp xuống bờ tường mong manh tránh đạn rơi nổ. Như để chứng minh nhận xét đúng của tôi, một trái đạn hỏa tiên 122ly từ kho đạn bay ra rớt bên bờ rào kẽm gai cạnh lô cốt gác của vệ binh ngăn chặn đòn tù chạy xuống suối tránh đạn nổ vang trời. Trái đạn bị vướng rào còn đong đưa nhún nhảy phía đuôi còn bốc khói xì xì…!!! Cách đám tù cải tạo chừng 50m nhưng không nổ chỉ xì khói như hăm dọa. Nếu nó nổ chắc không có bài viết nầy….vì hằng trăm cải tạo lẫn cả tôi và Đ/Úy Ngự không còn sống hôm nay. Lúc đó chúng tôi bị ứ động lại chỗ nầy suýt chết vì các Cán Bộ quàn giáo và Vệ binh Cộng Sản không cho chúng tôi vượ qua rào xuống bờ suối tránh đạn nỗ nhờ các hốc đá che chắn mạng sống. Họ núp trong lô cốt an toàn và xả sung bắn vào chúng tôi khi đạp kẽ gai vươt qua rào và có 5-6 xác anh em cải tạo chúng tôi chết đang mằm vướng mắc kẽm gai cạnh bên trái hỏa tiễn 122ly chưa bắn nảy đang nằm chình ình ra đó!???. Họ mất hết tình thương đồng loại lẫn tình người. Và trời đất cung không tha cho họ…Trong im lặng nín thở chờ đợi tiếng nổ sau để quyết định đời mình thì một trái đạn cối 81 ly bay xẹt vào văn phòng thay phiên gác nổ lớn giết chết 4 cán bộ vệ binh trong đó có một đại úy VC ác ôn ra lệnh bắn chết cải tạo vừa rồi.
Một trái đạn và tiếp theo nhiều trái đạn nữa nổ tung sát cạnh rào tù văng nốc chòi canh đổ ập chồng lên rào kẽm gai đè lên xác người còn vướng dây kẽm để lộ ra một khoảng trống làm sinh lộ cho tù thoát hiễm…Tiếng nổ lớn sát phía sau góc nhà ẩn núp làm sụp thêm khoảng tường như cố tình xua đuổi người cải tạo không cho tránh đạn. Đám người tù có lẩn cả tôi ù té chạy vượt qua rào trống kẽm gai vừa mới tạo sẳn.
 
Xác tù vươn rào kẽm gai
Anh em cải tạo nghe tiếng nổ lớn thì nỗi kinh hoàng, sợ hải thôi thúc liều lĩnh theo bản năng sinh tồn tự vệ và thấy không ai ngăn cản nên ùa nhau chạy tràn xuống suối vòng qua lô cốt, lần nầy quyết liệt hơn mọi người thừa cơ hội trời giúp nên trở thành cuộc vượt thoát trại tù không ai ngăn cấm. Tôi cũng như mọi người tìm đường vượt thoát nhưng tôi không thể bỏ lại Đ/Úy Ngự chạy đi một mình, nên khom mình xuống cỏng bạn chạy theo. Vừa khòm mình xuống cỏng bạn thì làn sóng người phía sau tràn tới dẫm dạp trên người tôi và tôi té xuống nhưng vẫn lấy thân che chở bạn. Trước khi ngất đi bên tai tôi vẫn nghe tiếng súng nổ, tiếng người la hét…và tôi cố gục trên người bạn tôi để che chở cho anh khỏi bị dẫm đạp…!!!Từng loạt súng AK 47 của vệ binh cộng sản núp trong các hóc đá bờ suối bắn vào những cải tạo thoát tù vượt trại một cách dã man khát máu của bọn cầm thú mất tính người. Tiếng la hét và và thây người ngã gục chồng kín lên nhau và máu đả nhuộn thắm rào tù…chảy xuống dòng suối vương vãi xác tù thành một dòng đỏ tang thương trên màu cờ dân tộc!!! Tiếng kêu rên thảm thiết dậy đất trời làm át hẳn tiếng đạn nổ trong tù…Máu đã loang đỏ cả dòng suối mà hằng ngày tôi xách nước sinh hoạt cho đồng tù! và bắt nhừng con cá con cài thiện bửa ăn, cũng bị bọn vệ binh giành lấy, lý do là cá của “ Nhân Dân”các anh không có quyền bắt để ăn!?

Khi tôi mở mắt tỉnh dậy thấy ê- ẫm và đau nhức cả mình mẩy và bên tai tôi vẫn còn tiếng la hét hải hùng không phải trong mơ mà là một thực tế của hiện thực trần gian. Một bàn tay rờ nhẹ vào trán tôi tôi thấy như được xoa dịu cơn đau và sẳng sang tha thứ những ai là kẻ thù trong quá khứ làm tôi đau đớn tũi hờn!!! Nhưng Không!? Tiếng la hét đau đớn vẫn quanh đây. Và tôi biết được đây là bệnh xá Trung Đoàn nơi tôi đang cải tạo. Một giọng nói thân thiện quen tai lúc lảnh cơm tù ban sáng, xin thêm miếng “Cơm  cháy” còn động đáy nồi cho heo ăn, bác sĩ Bình{Đại Úy/BS/Tổng Thống Phủ riêng cho Ông Thiệu} và các bác sĩ khác nổi tiếng Saigon chuyên khoa gây mê mổ xẻ-Phẩu thuật- thuộc trại cải tạo, đều được triệu tập lên  trung đoàn để phụ tá cho các Y-Tá Bác Sĩ Giải phóng bộ dội mổ, gấp mãnh đạn cho bệnh nhân bị nổ kho đạn. Bác sị Bình khuyên tôi nằm yên dể chăm sóc và theo dõi những ca phẩu thuật khác đang diễn ra trong tiếng la hét rân trời trước mặt tôi…

Ôi một cảnh tượng khủng khiếp kinh hoàng, quả là” Địa Ngục Trần Gian”Người ta cưa chân, cưa tay các tù nhân cải tạo bị thương vô tội vạ bằng những cái cưa sắt tự chế của tù cải tạo làm ra trong sinh hoạt trại: để đóng  rương-hòm, lượt là, kẹp tóc cho Cán bộ trung đoàn làm quà kỹ niệm gởi về Bắc. Y-Sĩ Bộ Đội dùng cưa, dao, kéo mất vệ sinh này, không cần thuốc tê, không cần gây mê,Không cầm máu, không thuốc chống nhiễm trùng. Tất cả đều không, trong điều kiện  thiếu thốn thuốc men. Các Bác Sĩ Sàigon chế độ cũ từ chối những ca phẩu thuật thiếu khoa học kỹ thuật và vô nhân đạo nầy và yêu cầu nên chuyển bênh nhân về bệnh viện trung ương sài gòn cấp cứu vì nơi đây thiếu phương tiện y khoa phẩu thuật cấp cứu. Cán Bộ Quảng Giáo Trung Đoàn liền lên lớp dạy các bác sĩ “Ngụy”tinh thần phục vụ y-khoa tho quan niệm Cách Mạng phải chuyên chính với kẻ thù ”Ngụy Quân, Ngụy Quyền” mà các anh sắp sữa học tới đây giữa hai bênh nhân bị thương trên mặt trận thì người y sĩ cùa ta-bộ đội- phải dành thuốc cứu người mình trước đã, còn kẻ thù tính sau nếu đủ thuốc chưa cho họ!??? Trường hợp này cũng không ngoại lệ. Các xe chuyển các bộ đội và thuốc men về bệnh viện trung ương hết rồi phòng khi cứu cấp dọc đường và trung ương thiếu thuốc nên không có gì ở đây, các anh tự cứu lấy…Ở đây chì có muối pha nước rửa vết thương và thuốc xuyên tâm liên uống chống nhiễm trùng mà thôi. Chúng tôi biết nói gì hơn trong hoàn cảnh khốn cùng này của người Cải Tạo và cảm thấy rằng tinh thần y khoa của Tổ nghành y Hyporat bị  xúc phạm và chà đạp của Cộng Sản!???

Tôi trở về trại theo các bác sỉ cải tạo vì thấy không giúp ích gì được cho bệnh nhân theo chức năng và lương tâm nghề nghiệp và về để mai tang đồng đội. Từ cổng trại nhìn vào, tôi thấy hai hàng quan tài chật kín lối đi trong hội trường, được ghép vội vàng bằng những tấm váng sạp giương của các anh đang mằm. Đâu đây còn tiếng khua động của búa đinh để tiếp tục đóng thêm quan tài cho người vừa mới chết trong ánh lửa bập bùng như ma trơi dưới ánh trăng mờ nhạt lặng lẽ soi bong đêm hắt hiu buồn…!
Về tới chỗ ở thấy ông già Đại-Úy Ngự có đó tự bao giờ. Ông thấy lại tôi mà cười ra nước mắt lưng tròng cám ơn tôi đã giúp ông sống sót lúc hiễm nguy và giúp tôi nằm xuống nghĩ ngơi. Ông cho tôi biết trên Trung Đoàn sai vệ binh xuống báo cáo các trại hòm ngoài tỉnh Long Khánh đã hết hòm cạn kiệt hút hàng nên lấy váng sạp của anh em đóng cho họ cái hòm gọi là tình chiến hữu có nhau.

ẢO-ẢNH TRONG MƠ!!!

Nằm nghe các bạn sống sót kể nhau, khi theo chân Bộ Đội ra chợ Long Khánh mua hòm [quan tài], thấy dân chúng ùn túa ra đường lộ lớn và chuẩn bị khăn gói di tản ra khỏi vùng nổ kho đạn Long Khánh và nói rằng vụ nổ lớn quá và khéo dài từ 10g30 sáng đến tận đêm khuya nên Tù Cải Tạo chết hết rồi. Tin nầy đồn đến tận Saigon…Câu chuyện đến đây tôi thấy trong người mệt mõi mê thiếp và chìm dần vào ảo ảnh cơn mê…các bác sĩ kinh nghiệm nghề nghiệp cho đây là hiện tượng bệnh nhân sắp chết. Riêng về kinh nghiệm chiến trường khi một chiến hữu của mình bị thương nặng sắp chết, họ thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng thoải mái. Họ bình tâm biết mình sắp giải thoát nên họ xóa được ranh giới hận thù và trong ánh mắt họ là tinh thương bao la  muốn găp lại người thân thương!và tôi đã đạt được đến trạng thái tâm linh nầy. Trong ảo ảnh mê mờ, thấy tôi trơ lại thành phố Sài gòn thân yêu. Thấy mọi người đổ xô ra đường phố vây vẩy tay, miệng hét to “Giải Phóng nữa rồi bà con Ơi!”hoan hô VNCH….Cứ mỗi lần nghe tiếng nổ lớn từ phía kho đạn Long Khánh làm rung chuyển cả thành phố. Dân chúng bàn tán và khấu nhau rằng: Do vệ tinh Mỹ chiếu tia “Laide”đốt kho đạn cứu Saigon, nhưng tất cả không nhìn thấy tôi và họ đi xuyên qua người mà họ không hay biết tôi sợ họ đụng phải tôi nép sát vào tường và tôi đã lọt xuyên qua tường, đứng trước lớp học sinh đang học và cũng là nơi trước đây 2 năm bị bắt  nhổ cỏ, vệ sinh tạp dịch cho chính quyền cách mạng phường khóm trước khi trình diện cải tạo. Và tôi đi ngang một quán cơm, nghe mùi cơm thơm phức, rất thèm và xin ăn nhưng ngươi ta làm ngơ không biết,tức minh tôi hét lón:”Tôi từ Long Khánh về đây. Đói bụng quá, xin cho tôi ăn cơm… đói quá!” mọi người vẫn không nghe tôi nói không trả lời, cũng không hay biết  có tôi đứng trước mặt họ và tôi đã đọc được ý nghĩ của họ không thích Công Sản và lầm bầm vái trời “Đạn Nổ cho chết thằng VC”

Quá buồn lòng…tôi quyết định trở về nhà, thì lập tức tôi có mặt tại nhà khu gia binh Quân Tiếp vụ Tô Hiến Thành cũng còn mái tole siêu vẹo bị đạn rớt lung mái nhà chưa kịp sửa trước khi đi cải tạo. Thấy nhà cừa đống  khoen cài, thấy vợ tôi đang ngồi khóc với đứa con gái lên ba đang vô tư nghịch chén BoBo{Cao lương} luộc nấu thay cơm tối trước khi đi ngủ. Nghe tiếng vợ tôi bảo con qua ý nghỉ:”Mẹ có đến chùa Từ Nghiêm ở đường Bà Hạt để tìm xác ba con cải tạo tù Long Khanh bị nổ đạn sang nay!? Ở trong xóm khu gia binh của mình, ai có chồng Sĩ Quan Cải Tạo trại Long Khánh hãy đi nhận xác chồng theo thông báo phường khóm quản lý khu gia binh”. Tôi nghe rõ và gỏ cửa vào nhà. Vợ tôi vẫn không hay, không biết tôi lên tiếng nói đề vợ tôi vui mừng vì tôi chưa chết và đang ở đây, nhưng vợ tôi vẫn lặng thinh và buồn bả thở than như tôi không hề có mặt bao giờ. Nắm nắm lấy bàn tay nhỏ bé của vợ tôi như nắm vào khoảng hư không trống rổng…buồn tình tôi đến bên cạnh con tôi bế nó lên như bế hư không, không nắm bắt được hình hài của nó và nó vẫn vô tư nghịch những hạt bobo thay cơm của hai mẹ con nó. Tôi cảm thấy bơ vơ trống trải như ngày nào 30-4-1975. Mọi người đều vô tình ngoảnh mặt làm ngơ chạy theo chiến thắng kẻ thù…nay vợ con quên lãng không nhận ra mình. Đời người bạc bẻo thế đó!.Tôi buồn và bỏ nhà ra đi nhưng quên mở cữa nhưng nó vẫn xuyên qua bên ngoài mà không động chạm dến cánh cữa. Tôi không thèm để ý đến điều ngạc nhiên lý thú đó!!! Tôi vừa ra khỏi cửa bắt gặp lại bà mẹ vợ tôi từ trong cánh cửa không mở hiện ra tôi không ngạc nhiên lắm vì trong thơ gởi vào trại tù vợ tôi có báo tin là mẹ chết rôi! Bà nhìn tôi thương hại trong ánh mắt chở che không nói lấy một lời nào, nhưng tôi đọc được ý nghĩ tư tưởng của mẹ bảo tôi mau quay về trại Cải tạo kẻo muộn còn ở đây có mẹ lo!. Chúng tôi liên lạc cho nhau bằng ý nghĩ tư tưởng không bằng lời…và tôi thui thủi trở lại trại tù.

Thấy tôi tỉnh lại và ngoại ngậy tay chân ông đại úy già mừng rỡ kêu lên và báo bác sĩ hay! Còn tôi tỉnh lại cãm thấy cơn đau lập tức kéo đến hành hạ thân xác tôi của một người vừa trải qua một giấc mơ giữa thực và ảo giữa sống và chết!? hay là nhưng trải nghiệm bên kia cửa tử, thế giới ngươi chết??? Như vậy chết và sống đâu có gì cách biệt và khác nhau!? ranh giới giửa sống và chết chỉ được phân định cách biệt nhau giử hận thù và tình thương giửa chiến tranh và hòa bình. Nó tạo nên một trạng thái của một dòng sống liên tục bất tận của nhân sinh vũ trụ. Tôi cố nhắm mắt một chút để ôn lại mọi diễn tiến xảy ra và một phần nào hiểu rõ tình hình cho hiện tại bấy giờ.
THỰC TẠI LÀ ĐÂY!
Dưới ánh trăng mờ thê thảm nguyên cả hội trường cải tạo rộng lớn đầy kín những cổ quan tài và những hàng nến cháy lung linh bập bùng theo từng cơn gió thoảng trong ánh trăng nhạt nhòa sương đêm! Có mấy ai rạng danh anh hùng mà cầm được nước mắt để khóc cho người nằm xuống vì quê hương tổ quốc.
 “Hồn tử sĩ gió… ù ù thổi,
Ánh trăng khuya doi dỏi soi
Nào ai mạc mặc nào ai gọi hồn”-Nguyễn Du
Diễn tiến tình hình…
Trung Đoàn CS sai cử người đại diện xuống để lập biên bản kiểm kê số người thương vong và lấy danh sách họ tên người chết để báo cáo về thân nhân gia đình có người đi học cải tạo. Thông báo cho trại biết ngoài tỉnh Long Khánh và vùng phụ cận các trại hòm {quan tài} hết hàng cung cấp cho chúng ta và “Thế cho nên phải tự khắc phục nấy!?” phải tập trung anh nào bị bệnh lên Trung Đoàn chữa trị.
Phía Cải Tạo chúng tôi phải chuyển những ngươi bị thương và xin cho một số Bác Sĩ Cải Tạo đi theo giúp bệnh nhân…



Đêm khuya gần sáng tiếng la tiếng hét đau đớn nảo lòng vang vọng từ phía bệmh xá trung đoàn/CS hòa lẫn với mùi tử khí rùng rợn lạnh lòng trước những cổ quan tài như tiếng gọi hồn ai oán…!
Sáng sớm hôm sau vệ binh áp tải các bác Sĩ về trại các anh vẽ mặt buồn so muốn khóc…các anh bảo ”họ chuyển người bị thương và xác chết của họ đi hết rồi!? và mang theo tất cả thuốc mem cứu hữa dọc đường để cấp cứu Cán Bộ và Bộ Đội của họ. Trên trung đoàn chỉ còn những người bị thương là người Cải Tạo tụi mình bị chúng bỏ lại cùng với hai bao muối hột bảo mình nấu` sôi lên dùng để rửa vết thương và dặn thêm ngày rửa 4-5 lần chóng lành lắm. Chúng tôi trong rừng cũng chửa bệnh bằng muối và thuốc lá Xuyên Tâm Liên chống”Sưng tấy” thế mà cũng sống ra “Phếch” đấy!?
Trước khi trở về trại có hai người bạn ta vừa chết vì vết thương quá nặng không thuốc men thiếu dụng cụ y khoa can thiệp phẩu thuật kịp thời và không cho chuyển thương sớm về bệnh viện trung ương thành phố! Một số anh em còn lại vết thương còn mãnh đạn đính trong người nếu không kịp thời mổ đạn lấy ra họ sẽ bị nhiễm trùng và chết!
Đây chính là bản chất hận thù, độc ác của quân đội Cộng Sản Quốc Tế nói chung và Bộ Đội Cụ Hồ Bắc Việt Nam nói riêng xuất phát từ long thù hận của giai cấp vô sản chuyên chính với kẻ thù:”Thà giết lầm hơn bỏ xót”. Người cộng sản không tình đồng loại  họ sẳn sàng ban phát súng “Ân huệ” cuối cùng cho thương bệnh binh của họ mỗi khi bị truy kích của quân ta-VNCH- Để bảo toàn mạng sống cho họ được nhanh chống rút lui hơn là bị vướng víu thương binh. Cũng vì lý do nầy, trong cuộc chiến tranh Miền Nam, phía quân cộng sản Bắc Việt không có` chủ trương bắt giữ tù binh của VNCH trong các cuộc công đồn đánh bót được thành công, nếu bắt được địch VNCH họ VC khai thác xong là họ giết chết ngay. Không bắt giữ làm tù binh vì họ lén lút xâm nhập miền nam chỉ có mật cứ lén lút thì làm sao có đất nhốt tù binh và nuôi ăn họ. Họ cứ giết khỏi nuôi ăn và canh giữ tù. Chỉ có tù binh Mỹ là họ để lại làm con tin trao đổi cho ngày 30-4-1975 chỉ có toàn là tù binh Mỹ không có tù binhVNCH, nếu có họ cũng giết…giết để không có tù binh và  chứng tỏ được mình là “Kẻ xăm lăng”Miền Nam và vi phạm trắng trợn H Đ Paris/73 chỉ có tù binh Mỹ và Tù binh VC trao đổi nhau mà thôi!??? Số tù binh Mỹ bị bắn rơi máy bay tại Hà Nội trong trận bỏ bomb chiến dịch Line Backer 1-2 trong 12 ngày đêm san bằng Hà Nội cuối năm 1972. Để trao đổi tù binh Cộng Sản bị bắt tại Miền Nam/VNCH, một tù binh Mỹ đổi lấy cả ngàn tù binh Cộng Sản Bắc Việt, cho có tiếng trao đổi và có tiếng cộng sản nhân đạo với dư luận quốc tế…và cũng để lấp đi sự xấu xa vô nhân đạo Cộng Sản BV thô bạo trắng trợn chiếm lấy miền Nam/VN và tự cho mình được quyền ”Giải phóng” dân miền Nam để che mắt thế giới bị đui chột, mù lòa…!?
Trại tù chúng tôi thật sự đã vắng hẳn không còn đông đúc, chen lấn lấy cơm phân chia theo phần ăn, hay sắp hàng đông đảo chờ phân công nô dịch tù đày. Nay chỉ còn lại không đầy 800-900 người so với ngày qua 2.500-3.000 cải tạo. Vì ngày kho đạn nổ trong trại cải tạo có đến 2/3 số anh em cải tạo đi theo đám vệ binh Cộng Sản có súng ống dẫn đầu ra ngoài lao dộng cải tạo trên các cánh đồng nông, lâm trường của Cộng Sản khai phóng đất rừng nên cũng khá xa trại 5-6 cây số nên cũng được an toàn khi kho đạn Long Khánh nổ. Và đây là cơ hội vận thời hiếm có để vượt thoát trại tù của Cải Tạo đã đến. Kho đạn nổ thật hiếm xẩy ra trong bối cảnh đen tối trại tù Cải tạo lúc nầy. Chắc có một nhóm tàn quân chiến hữu nào đó đến giải cứu. Thời cơ có một không hai đã đến không nên bỏ lở cuộc vượt thoát này. Các tù Cải Tạo rất nhạy bén và tinh ý lắm chỉ cần cái nhái mắt là cả một kế hoạch vượt thoát đã được hội thảo thành hình, mỗi người tự biết trách nhiệm của mình trong chiến thuật “Mưu sinh thoát hiễm” được huấn luyện Võ Bị nhà trường.
Các Sĩ Quan Cải Tạo muốn sớm làm chủ tình thế, và giải quyết sự việc nhanh chóng gọn gàn không gây đổ máu cho mình và địch. Cải Tạo đang lao động tự nhiên bỏ cuốc bỏ cày và đi về một phía đất trống tập trung lại và quỳ gối xuống đất, hai tay để phía sau đầu như VC ngày xưa bị khui hầm không trốn thoát…và gây bất ngờ cho bọn vệ binh Bộ Đội- Vì sớm muộn gì họ cũng bắt tập trung lại để khống chế cải tạo không lợi dụng đạn nổ mà trốn thoát, phía cải tạo chúng tôi cũng momg như vậy để tập trung ngược lại các vệ binh đang ẩn dấu đâu đó chưa xuất hiện và rình bắn chúng tôi khi bỏ chạy thoát!?. Khi  vệ binh về đông đủ  để kiểm danh tù “Ngoan”của chúng và mất cảnh giác đề phòng, bị chúng tôi tước  đoạt súng và bắt trói tay lại thành từng nhóm và để sung lại cho họ sau khi tháo băng đạn và đạp cong nòng sung như chú tôi thường lảm khi “Gẩy Súng Tan Hàng” Tháng Tư/75…Xong chúng tôi chia nhau phân tán mỏng đi nhiều nơi nhiều hướng cho địch khỏi truy tìm. Những vị Sĩ Quan nầy không kết thành một lực lượng duy nhất chiến đấu!? {vì Mất dân rồi chiến đấu cho ai!???} và phải tự mìmh mưu sinh thoát hiễm cho đời chiến binh…!!!Đa số các anh chạy sang hướng biên giới Campuchia theo ngỏ Tây Ninh Xuân Lộc vì nơi đó vẫn còn lực lượng người Thượng Fulro bảo vệ và đưa sang Campuchia để đi Thái Lan tỵ nạn Cộng Sản. Cũng có số it chạy vào nhà dân nhờ che chở và giúp đỡ về Saigon với gia đình để tìm đường vượt biên vì không thể nào sống chung Cộng Sản và bị bọn cờ Đỏ/30 phát hiện lập công Cách Mạng. Biết rằng muôn ngàn khó khăn nguy hiễm đang chờ đón họ, nhưng đó là cái giá TỰ-Do mà họ đã đánh mất vì sự phản bội của người theo Cộng Sản.
Qua ngày sau dân chúng nơi đồn điền cao su quanh vùng bị Bộ Đội Cộng Sản chiếm đất lấy vườn cao su phá tan tành nguồn sinh lợi cao su có giá trị kinh tế xuất khẩu cao hơn để trồng ngũ cốc ngô, khoai,săn…có giá trị kinh tế kém hơn, với mục đích đốn bỏ cây cao su làm cũi dun lò, bán làm chất đốt cho dân. Nay Cải Tạo vượt thoát tù lúc kho đạn nổ và vắng bóng trên các nông –lâm trường của Bộ Đội Miền Bắc vào Nam. Người dân rất đông đảo ùa vào trong vườn đập phá, gặt hái, đào bới tan tành hoa lá các nương khoai, rẩy sắn …phá tan công sức lao động nô lệ của người cải tạo để trả thù bị Cộng sản chiếm đất của dân và bắt tù cải tạo nô lệ phục vụ cho bọn cướp Miền nam lấy đất đai và sự sống lâu dài của dân địa phương này!?.
Cuộc sống dưới bất cứ chế độ nào dù Cộng Sản hay Tư bản để phải chiến đấu giành giựt nhau để mà sinh tồn nhưng cái sinh tồn đó có hợp đạo lý và công tâm không? Là điều đáng nói nơi người Cộng Sản vẫn bất công và thiếu lương thiện thực hiện chủ nghĩa.
Chiến tranh là ngàn đời muôn thưở của nhân sinh tất cả đề theo dòng biến dịch thời gian mọi sự việc đều thay ngôi đổi chủ.”Cá ăn kiến thì kiến ăn cá” Nếu chế độ không được lòng dân thì chiến tranh vẫn chưa chấm dứt…chính thể suy tàn!
Hai hôm sau trên trung đoàn sai vệ binh xuống trại cải tạo lấy người người lên làm nô dịch dọn dẹp vệ sinh, sửa sang lại những căn nhà hư đổ do nổ đạn tàn phá. Phía chúng tôi có cả mấy chục cải tạo đi làm phu dọn dẹp. Vào cổng khu vực trung đoàn thấy ngổn nganh đầu đạn và mảnh đạn đủ loại tràn ngập toàn khu trung đoàn, với những nhà không nóc, tường gạch đổ nát trơ khung sườn nhà. Dụng cụ bàn ghế, giường kệ bị ngả đổ hỗn lọa tứ bề. Sự thiệt hại khá nhiều hơn bên phía trại chúng tôi, các anh phải chia nhau thành nhiều toán dọn dẹp xắp xếp đống đổ nát hoang tàn bề bộn cây váng và tole mái nhà v.v…
Tôi khập khểnh cà nhắc theo nhóm nhặc mãnh đạn vở lung tung cho vào chiếc xe Cải Tiến như xe cút kít được chế lại từ đóng sắt vụn bải xe trong nhà tù SĐ18BB cũ. Dùng để kéo cũi trong rưng ”Su”{cao su}Long Khánh. Xe có hai bánh bằng niền sắt xe Jeep chạy trên bạc đạn có khung sắt làm bằng tole xe hơi có hai càng kéo và đẩy kê râm rầm…Sức chứa nó nhiều và chở nặng khỏe hơn vác cũi trên vai. Với sức người, tiêu chuẩn chỉ tiêu cho tù khổ sai lao động là đường khính 40cm, dài70cm cho một cải tạo vác xa 5km cho một người tù từ rừng cao su về lại trại mà chúng cướp của dân.
Để nhặt đạn, chúng tôi dàn hàng ngang di chuyển lượm mãnh đạn bỏ vào xe đẩy và tiến dần dần vào kho đạn vụ nổ vừa qua kinh hoàng gây chấn động đến tận Saigon vẫn còn nghe tiếng nổ long trời.
Trực nhận đầu tiên không thấy kho đạn đâu cả, nó biến mất và để lại một vùng đất xám xịt nóng chảy đào sâu đen hỏm, chung quanh bờ rào cây cỏ cháy sạch rụi và hiện tượng đặc biệt trong vòng bán kính 100m sức ép không khí thổi văng sạch sẻ những thứ chướng ngại vật không còn mãnh nào vở của đạn  còn xót lại. Nhưng có điểm kỳ lạ và huyền dịu nhất là tượng Phật Bà Quang Âm  cạnh kho đạn cách đó 30 m vẫn còn đúng vững, nguyên vẹn không bị ngả đổ vì sức chấn động kinh hồn và cũng không bị vết đạn phá hủy. Màu trắng tinh anh của bức tượng làm bằng Thạch Sứ vẩn không bị  đổi màu cháy xám  với sức nóng kinh khiếp…chỉ ngoại trừ một bàn tay của Quan Âm cầm bình Tịnh Thủy đã bị Bộ Đội Cộng Sản dung búa cũi chặt bàn tay Phật Bà để lấy bình Tịnh Thũy đựng nước tiểu cho bản tính ngông nghêng !? Trước khi xẩy ra vụ nổ khá lâu rồi lúc chiếm được SĐ18BB và tôi đã thấy tượng Phật Bà mất bàn tay mấy ngày trước khi lên trung đoàn giai rào lại kho đạn và làm chứng nhân vụ nổ này. Còn điều hy hữu nữa là gốc mai già khi dọn sạch rào, tôi chừa lại vì không nở chặt bỏ, nay vẩn còn ngạo nghể trơ cành trong lửa đạn lao tù!...
MỘT ĐẠO QUÂN VNCH BỊ BỎ RƠI!!!
Tình trạng thiệt hại của trung đoàn theo nhận xét tôi nó tệ hại gấp nhiều lần phía bên trại cải tạo chúng tôi.Vì kho đạn nằm lọt thỏm vào khu vực trung đoàn.Văn phòng làm việc và canh gác bảo vệ tiếp xúc kho đạn gần hơn. Xe chuyển tải đạn được hoạt động đông đảo hằng ngày để cung cấp cho chiến trường Campuchia đánh Khờ Me Đỏ qua biên giói Tây Ninh. Vì nó có tầm mức quan trong nên thiệt hại của họ càng lớn hơn nhiều lần so với cải tạo. Những xác chết của họ được chuyển vận trong đêm đến suốt sang và thay thế lính Quân khu về trám chỗ trống bị thiệt hại. Vì thế nên vệ binh  toàn là người lạ mặt, không nhận ra mặt hàng ngày đám vệ binh cũ và họ cũng không biết điều hành công việc hàng ngày còn xa lạ và ngơ ngáo nhưng bản chất còn hách dịch cho ta đây là kẻ chiến thắng Cộng Sản. Đám vệ binh mới này chưa quen với cách nhận tiền của Cải Tạo, thì Sơn Hồng Đức là mộtcCải tạo đứng ra nhận lãnh môi giới dịch vụ bắt liên lạc với vệ binh bộ đội. Đức bà con với Sơn Ngọc Thành của chính phủ lon-nol Campuchia cùng học cải tạo chung tù, anh Đức được bạn bè đồng tù đặt cho cái` tên là bộ trưởng ngoại giao cải tạo chuyên viên đi mướn đài [ radio] 3 cửa sổ [là tên gọi của bộ đội miền bắc mới vào nam] tức radio 3band của mình để bắt đài quốc tế BBCva VOA…là chuyên viên móc nối với cán bộ, bộ đội ham tiền Đức đã thuyết phục được các vệ binh miền bắc rằng làm việc để có tiền cưới vợ gái miền nam đẹp, hiền lắm! và dễ thương hơn gái miền bắc, họ chanh chua đanh đá hiếp chồng! làm đám vệ binh khoái chí cười!...Anh Sơn Hồng Đức là con ma xó chuyên đi săn tin nóng hổi và cũng là đài phát thanh” cải tạo” đầy tin tức quốc nội lẩn quốc tế. Nhưng chính cuộc đời và tương lai anh đi về đâu!? Trong cái nhà tù vĩ đại của Cộng sản này!?Anh vừa là nạn nhân Cộng Sản như tôi vừa là thân chủ Tử Vi của tôi anh thường hay nhờ tôi lấy lá số Tử Vi theo ngày sanh, tháng để lập thành lá số và luận đoán lá só cho anh. Thực ra đúng sai của tử vi không quan trọng cho cá nhân anh, mà là ý kiến lời khuyên, luận bàn trao đổi nhau về tin tức, nhận định tinh hình thời sự trong tù là chính yếu tối cần cho nhau qua hình thức tử vi để che đậy sự dòm ngó của “Ăng ten”cải tạo do Cộng Sản cài người vào anh em ta để được về sớm với vợ con họ! Nếu lấytheo Mai Hoa dịch số thì anh Đức được quẻ “Phục Lâm” nghĩa là tương lai anh sẽ phục hồi sự nghiệp bằng con đường đấu tranh với cuộc sống gian nan như hổ rình mồi trong rừng rậm. Tương lai rất huy hoàng nổi tiếng như chúa sơn lâm …trong công cuộc phục hồi sự nghiệp cùng lý tưởng quê hương [Campuchia] trên bước đường lưu lạc xa xứ …và anh chỉ gật đầu ghi nhận mà không nói! nhưng hiểu ý tôi nói qua lời luận đoán! cho anh!...




Thật ra tôi không quan tâm mấy về sự thiệt hại của phía trung đoàn cộng sản tôi quan sát để nhận định tương quan lực lượng giữa ta và địch theo thói quen tại chiến trường xưa nay là thế! Thật với lòng tôi không muốn thấy cái chết của anh em Bộ Đội trong trận nổ kho đạn này, dầu cho họ có tàn ác đến đâu chăng nữa với anh em Cải Tạo trong tù, cũng không làm mất nhân bản của người chiến sĩ VNCH để trả đòn thù với Cộng Sản anh em cùng quê hương dân tộc mình.
Chúng tôi không muốn các anh phải chết mà muốn cả thế giới này thôi đi bản tánh ích kỷ, tham lam vì quyền lợi và an toàn của nước mình và đã cấu kết quyền lợi và quyền lực với nhau để chia phe phái Cộng Sản và Tư Bản thành những đế quốc cực đoan rồi lôi kéo các nước nghèo yếu và nhược tiểu vào phe cánh của mình như Việt Nam, Lào, Campuchia của Đông Dương vào những trận chiến giành giựt con mồi của nhau cho bảo vệ quyền lợi, tham vọng làm giàu kinh tế nước mình, nên chia thế giới thành nhiều khu vực cai trị của khối Cộng Sản Liên Xô Trung Quốc và khối Tự-Do Tư Bản các nước Âu Mỹ và họ gây nên chiến tranh Việt nam làm mất đi tự-do, độc lâp, và chủ quyền dân tộc và vận mệnh đất nước không nằm trong tay dân tộc Việt Nam nữa!? Mọi quyết định hay toàn quyền tự quyết dân tộc theo tự do mình muốn. Dầu cho Cộng Sản Hà Nội có chiến thắng miền Nam 30-4-1975 cũng là chiến thắng cho Liên Xô cho Trung Quốc cho khối Cộng Sản quốc tế mà thôi chớ người dân Bắc Việt Hà Nội đâu quyết định được cuộc chiến thắng bại này. Đó là do quan thầy Liên Xô Trung Quốc chỉ định phải thắng giùm cho họ mà thôi!. Ông Lê duẫn trả lời báo chí tại Liên Xô: ’Cuộc chiến VN kéo dài quá lâu là vì Vn không có quyền để thắng.”Vì CS/BV đánh giặc là đánh cho Liên Xô và cho Trung Quốc!!! theo nghĩa vụ quốc tế “
Phía VNCH/Saigon chiến đấu vì chính nghĩa Quốc Gia với lý tưởng Tự-Do dân tộc và họ chiến đấu để tự vệ trước cuộc xăm lăng của Cộng Sản vào Miền Nam VNCH. Dù có chính nghĩa cũng không thắng nỗi chủ nghĩa ngoại lai Cộng sản biết lừa gạt dân tộc mình và che mắt cả thế giới!...
Quân Đội VNCH bị trói tay, bức tử của đồng minh Hoa Kỳ khi quyền lợi và tham vọng quyền lực của đôi bên Tàu Cộng và Hoa Kỳ thỏa thuận chia vùng châu Á/TBD để trị. Miền Nam mất vào tay Cộng Sản tay sai Hà Nội là điều tất nhiên khi hung tàn thắng đạo nghĩa xua nay lẽ thường! Trước sức mạnh của đế quốc thời đại thì chủ quyền lý tưởng của một dân tộc một nước nhược tiễu như Vn đâu có quyền quyết định thắng thua của chính mình nên quân đội VNCH buông súng chiến đấu nhưng không chịu đầu hàng trong nỗi đau oan nghiệt cho một lý tương Tự-Do chưa được hoàn thành trách nhiệm và tất thắng theo chân lý  dân tộc VN.
Như vậy cái thắng của CSHN đâu phải là cái thắng chính nghĩa có đạo lý dân tộc. Cái thắng nầy là cái thắng sỉ nhục dân tộc đem đất nước làm chư hầu, nô lệ chủ nghĩa Cộng sản ngoại lai, làm mất sự sống Tự-Do dân tộc
Sự kiện nổ kho đạn này để cho thế giới và dân tộc yêu chuộng Tự-Do Hòa bình thấy được rằng cách hành xử của họ bất công và thiếu đạo lý xã hội loài người để a-dua và chạy theo những phong trào tổ chức phản chiến của nhân dân Hoa Kỳ bênh vực và ca ngợi cho kẻ thù Cộng Sản Hà Nội và miệt thị khinh rẻ sứ mệnh của một Đạo Quân TỰ-DO VNCH chiến đấu vì tự-Do hòa bình thế giới đâu riêng gì cho một việt nam trước sự bành trướng của Đại Đồng Cộng Sản Quốc Tế Liên Xô Trung Quốc. Tìm mọi cách hạ nhục VNCH và nâng cao uy tín cho Cộng Sản Hà Nội nhiều lỗi lầm nhưng họ đã đáng thương và đáng cổ võ chiến thắng hơn Quân đội VNCH!???
MỘT CUỘC TỰ SÁT TẬP THỂ TRONG TÙ CẢI TẠO!!!
Sự nổ kho đạn trong tù này gây chấn động và bàng hoàng cả thế giới!!!…Đây là một cuộc tự sát tập thể trong nhà tù Công Sản của một đạo quân Quân Lực/Việt Nam Cộng Hòa để cho thế giới thấy rằng Quân Đội VNCH nêu cao tinh tần bất khuất không đầu hàng Cộng sản vì lý tưởng TỰ-DO và HÒA BÌNH THẾ GIỚI…và để chứng minh lòng dũng cãm của nhân dân Miền nam anh hùng chống Cộng Sản không hèn kém và yếu đuối như nhận xét của giới chức lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ bêu xấu QL/VNCH  hầu che dấu toan tính dã tâm bán đứng Miền Nam VNCH cho Trung Quốc qua tay sai Cộng Sản Hà Nội theo thỏa thuận chia quyền lực ảnh hưởng tại Đông Nam Á này của Hoa kỳ và Trung Cộng!?
Tiếng nổ lớn trong tù Cải Tạo làm cho đồng bào Miền nam giựt mình tỉnh thức lương tri dân tộc còn chạy theo cái chiến thắng Cộng sản Hà Nội mà nghoảnh mặt làm ngơ, cố tình lãng quên mà phản bội lại những công ơn  chiến sĩ Tự-Do VNCH đã từng hy sinh chiến đấu bảo vệ bảo vệ cho họ được an vui hạnh phúc cuộc đời tự-do của miền Nam. Nhất là những phong trào quần chúng của trí thức sinh viên, học sinh, văn nghệ sĩ Cùng các đoàn thể tôn giáo Phật Giáo và Thiên Chúa giáo đấu tranh chống đối biểu tình tiếp tay nằm vùng VC. Họ đã phản bội và đâm sau lưng chiến sĩ Tự-do VNCH
Chúng tôi cho kho đạn nổ và “Tự Sát Tập Thể”trong nhà tù của chiến Sĩ VNCH là để cho dân chúng Vn yêu chuộng Tự-Do hòa bình dân tộc biết được giá trị cuộc sống tự-do của dân việt mình phải trả bằng máu bằng xương trong nỗi nhục nhả uất hờn, thương đau đầy nước mắt cho người nằm xuống và “Để cho cuộc sống quê hương trổi dậy đứng lên…!”
Cái chết tập thể Cải Tạo trong tù không nhằm vào sự đánh đổi sinh mạng với kẻ thù Cộng sản để tìm sự thắng-bại được –mất, hơn-thua…vì hận thù mà tìm sự thức tỉnh cho người dân tự làm chủ được vân mệnh đất nước, dân tộc mình không theo kẻ ngoại bang Quốc tế Cộng sản mà Nô lệ hóa dân tộc của cộng sả Hà Nội.
Cái chết của chúng tôi để phản đối những nhà lãnh đạoVnCh đã phản lại hy sinh xương máu công lao của chiến hữu để đầu hàng Cộng Sản cho mưu đồ phản quốc riêng mình và bỏ nước chạy đi. Làm ô nhục và mất nhuệ khí và danh dự của QL/VNCH có truyền thống danh dự của Ngươi Việt Quốc Gia Việt Nam.
Và cuối cùng chúng tôi chết đi! Cho vừa lòng những con người “Ăn cơm Quốc Gia mà  thờ ma cộng sản”không còn lợi dụng xương máu chiến sĩ VNCH để tiêu lòn quỵ lụy Cộng Sản thành lập MT/GPMN của Vc nằm vùng thờ chủ nghĩa Cộng sản trong miền nam.
Chúng tôi là một đạo quân bị lãng quên của quê hương của đất nước và của dân tộc này!!! Khi lịch sử dân tộc sang trang ngày 30-4-1975 nhưng chúng tôi vẫn mãi mãi là linh hồn của Tự-Do Dân Tộc Việt nam. Và luôn luôn hòa quyện linh hồn vào các cuộc đấu tranh yêu nước của toàn dân vì Tự-Do Hòa Bình, Độc lập cho đất nước tôi…
Khóc Bạn Trong Tù…!
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
Anh nằm xuống quên đi đời quên lãng,
Mắt môi anh khép kín vạn miềm đau,
Quê hương ta đó trong tù cải tạo!
Đất nước anh xây chưa vẹn ước mong,
Cuộc cờ dang dỡ thôi đành thua cuộc!
Trách chi hồn nước cho đời lãng quên,
Anh nghe tiếng nổ hồn anh rộng mở,
Vùng trời Cải tạo đạn nổ trong tù,
Bao nhiêu hận quốc bồi trong thuốc đạn!?
Nổ cho thế giới,”Thực Sống”là đây…
Cho dân nước tôi thôi đừng quên lãng,
Xương, Máu thịt này cái giá TỰ-DO
***
Xác anh gục ngã trời vang tiếc hận,
Đạn nỗ trong tù hồn nước quặng đau,
Hận nước thù nhà gào trong tiếng nổ,
Tan tác quân thù gục ngã cùng ta!
Bạn và thù chi...phân đôi đất nước!?
Quê hương trả lại ước nguyền Tự-Do,
***
Đêm hiu hắt trăng tàn soi tàn bóng lẽ,
Cổ quan tài lịệm kín xác hồn anh,
Không ai than khóc tiếc thương Cải tạo!
Men thù cay đắng nhấp say lửa thù,
Đạn nổ trong tù hồn dâng tiếng gọi,
Quê hương này lắm nỗi vạn miền đau…!
***
Anh chết đi cho hồn thiêng dậy sóng!
Cho lao tù sụp đỗ dưới chân anh,
Cho đời thương hận không còn quên lãng
Dựng lại quê hương sạch bóng nhà tù..!
Tiếng ru lửa đạn hòa hồn sông núi,
Hồn anh vào cõi mộng lành quê hương!!!
Huỳnh Mai
[Đạn nổ trong tù]






DƯ ÂM TIỀNG NỔ TRONG TÙ,
Sụ kiện đạn nổ trong tù gây nhiều hoang mang dư luận trong nước lẫn nước ngoài gây chấn động người lòng dân cả nước là dân chúng miền nam có con em chồng cha đi cải tạo. Hầu hết 1/3 các gia đình miền nam VN là có một thân nhân trong trại cải tạo và có khoảng một triệu người bị bắt giam trong vác nhà tù Cộng Sản. Có hơn 200 nhà tù  cộng sản rải rác khắp nơi từ Miền Nam, tận mũi Cà Mau, ra đến miền Trung nam phần, trải dài lên đến tận biên miền bắc sát Trung Hoa, Lào Cai, Mống Cái, và sâu trong rặng núi Hoàng Liên Sơn hoang dả độc chướng vô cùng miền Bắc Việt nam.
Với những nhà tù không có qui chế nhà cho tù binh quốc tế và kiểm soát của LHQ. Cộng sản Việt Nam nhốt tù một cách dã man tàn nhẩn hơn cả nô lệ thời tiền sử mà không một cáo trạng mức án nào nào được xét xử qui định rỏ ràng luật pháp và không thời hạn tù cho cải tạo tù binh VNCH…
Nhà tù Cộng Sản VN đã nhốt tù binh VNCH suốt 3 năm đầu cho tới suốt chục năm sau không kêu án tù sau khi chiếm được Miền nam/Vn ngày 30-4-1975 chưa được quốc tế phát hiện và quan tâm số phận tù binh VNCH và hầu như bị lãng quên  của tổ chức  nhân quyền, nhân đạo quốc tế của LHQ vì họ đang ca ngợi, cổ vũ cho chiến thắng VN của người Cộng Sản mà không nhìn thấy phía sau hậu trường bức màn sắt Cộng Sản VN.
Phía người dân trong nước còn bàng hoàng chưa tỉnh mộng sống chung với Cộng Sản còn say chiến thắng với chính mình…!?Và họ nghĩ rằng đưa thân nhân của họ vào trại tập trung cải tạo là con đường sống của người thân họ sau khi cải tạo sám hối lỗi lầm dân tộc là được tái hòa nhập vào cộng đồng xã hội Chủ Nghĩa Cộng sản người dân miền nam bị mê hoặc dối lừa Cộng sản với chủ trương chính sách khoan hồng nhân đạo và hòa giải dân tộc của nhà nước cộng sản Vn. Cả thế giới thuộc nước thứ ba đều xúc động tin vào lời hứa Cộng sản, đi học 10 ngày, 1 tháng là về sum hợp gia đình…Riêng người Cải tạo là lính chiến QL/VNCH đã từng chết sống với Cộng Sản Bắc Việt để bảo vệ Miền Nam, nên không lầm và tin những gì ”Cộng Sản nói mà hay nhìn những gì Cộng sản làm”[lời nói TT Nguyễn văn Thiệu].
Với chính sách phân biệt “Ngụy Quân-Ngụy Quyền” và đường lối trả thù cộng sản không thực tâm hòa hợp hòa giải dân tộc thống nhất đất nước. Họ là kẻ chiến thắng cho chủ nghĩa Nga -Tàu Cộng sản nên rất tàn độc  muốn tiêu diệt ngay chính dân tộc mình…
Mới có 3 năm đầu mà có khoảng 165.000 Sĩ Quan Cải Tạo chết trong nhà tù Cộng Sản Vn. Theo các viện nghiên cứu điều tra của Hoa Kỳ và Liên Hiêp Châu Âu thuộc khối Tự-Do thì hàng ngàn người Cải Tạo bị bạo hành tra tấn dã mang, tay chân bị xiềng xích trong các tư thế đau đớn trong nhiều tháng nhiều năm làm da thịt  bị sướt gai tre thúi rửa, bị tiêm chích các thứ thuốc hóa chất độc hại vào mạch máu. Và tinh thần bị suy sụp khi nghe tin thân nhân bị giết. Và cuộc cải tạo chết người này vẫn còn tiếp tục vô thời hạn cho người dân Miền nam vô tổ quốc trong cuộc chiếm đóng của Cộng Sản Hà Nội.
Với bản chất vô sản chuyên chính của giới người bần cố nông  nghèo nàn lạc hậu và giới công nhân lao động ít học nghe lời xúi giục của cộng sản nổi dậy làm cách mạng cướp phá hay cưỡng chiếm được chính quyền thì họ tàn bạo và dã man vô cùng…Tất cả thú tính con người điều bộc lộ trong chủ nghĩa cộng sản tại những cuộc cách mạng Nga Hoàng, các nước cộng sản Đông âu,Bắc Hàn, Cuba và tại Trung Cộng với chủ nghĩa Maois. Còn tại Việt nam nay là Tư Tưởng của Cộng sản Hồ chí Minh với cuộc cách mạng cải cách ruộng đất năm 1954 tại Bắc việt với hằng trăm ngàn địa chủ miền Bắc chết trong tay man rợ của bần cố nông do cộng sản HCM tạo dựng cảnh đỗ máu dân Việt vì sự ngu dốt lạc hậu của chủ nghĩa cộng sản HCM nối giáo cho quan thầy Nga-Tàu.
Để trở lại vụ nỗ kho đạn trong tù cải tạo tại Long khánh thì bản chất độc ác tàn bạo Cộng sản có tính truyên thống quốc tế vẫn luân lưu trong huyết quản cộng sản Hà Nội. Họ vẫn tiếp tục lừa dối, phỉnh gạt và dọa dẫm người dân…Cộng sản Hà nội đem số xác chết của tù binh cải tạo bị đạn nỗ trong tù ra trình làng trước truyền thông báo chí quốc tế và người dân trong nước rêu rao tuyên truyền làm bằng chứng cho họ đã dũng cãm anh hùng tiêu diệt bọn phản động chống phá cách mạng như trước đây đã từng khoe khoang với quốc tế trong chiến tranh chống Mỹ của họ với tình hình an ninh bất ổn nên họ chưa thả được cải tạo về sum hợp gia đình. Cộng sản Bắc Việt cố giữ con tin tù binh cải tạo để Mỹ không dám quay trở lại chiến tranh với VN lý do “ném chuột sợ vở đồ”của Mỹ và CSVn cũng muốn Mỹ đưa VnCS vào ghế LHQ loại bỏ biểu tượng VNCH hợp hiến chiếc ghế tại LHQ nếu Cộng sản đại diện VN bằng chiếc ghế LHQ thì VN có quyền kiện Hoa Kỳ bồi thường Chiến tranh VN. Đó là mưu sâu ý đồ cộng Sản BV.
Sự thật CSHN đánh hơi biết được dân chúng Miền nam rục rịch phản đối chính sách  giết người cải tạo nên họ đặt cả một kho đạn trong tù Long Khánh để không ai dám cướp tù kể cả dân thường và sau đó chuyển tù dần dần ra Bắc Việt sát biên giới Việt Trung ;Lào Cai, Móng cái và dãy núi rừng Hoàng Liên Sơn gần biên giới cho Trung Quốc trong nôm hộ như tù nhân của Trung Quốc dựa hơi CSVN và tiếp tục đòi hỏi áp lực Mỹ trong bang giao Việt Trung sau kết thúc chiến tranh VN cũng nhờ vào Trung Quốc.
Trong phản đối này nói lên sự bất tín nhiệm cộng sản HN bội tín dân tộc với 10 tháng ngày cải tạo không về cho mãi đến 3 năm rồi 10 năm hơn thế nữa cũng không thấy về…Họ còn phản bội cướp công giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền nam của chính phủ Lâm Thời Giải Phóng năm 1976 Miền Nam VN. Phản đối bắt lính con em Miền namVN đi làm nghĩa vụ quốc tế đem quân sang đánh Campuchia ngày 25-12-1978 với bọn Khờme Đỏ để thành lập mưu đồ Liêng Bang Cộng Sản Đông Dương do VN lãnh đạo gồm Việt Miên Lào tại Đông Nam Á[Cung như  liên bang Đông Âu 12 nước do Liên Xô lãnh đạo] hòng phỏng tay trên Trung Quốc nên bị Trung Cộng dạy cho bài học”Ăn cháo đá bát”của vn vong ơn bội nghĩa nhờ Trung Quốc mới chiếm lấy được Miền Nam  và loại khỏi VNCH cùng Mỹ 30-4-1975.
Cuộc tự sát tập thể trong tù của nhóm Sĩ Quan Cải Tạo/Miền Nam cho nỗ kho đạn Long Khánh đã gây tác động phản tỉnh người dân Miền Nam trước sự hiện nguyên hình độc tài tàn bạo bá quyền thống trị của Cộng sản Hà Nội lừa phỉnh”Giải Phóng Miền Nam” nay đã lộ mặt rồi! Nên chúng không còn dấu diếm được ai với sự thống trị tàn bạo dân quân cán chính Vnch làm cho người dân Miền Nam ùn ùn bỏ nước ra đi tìm TỰ-Do xứ khác. Họ dùng tàu, thuyền, ghe cộ để vượt biển ra đi, hay dùng đường rừng xuyên núi vượt biên giới sang tị nạn Thái Lan bất chấp hiễm nguy mạng sống con người trốn chạy Cộng sản bạo tàn Việt Nam. Còn những ai kém may mắn hơn không có phương tiện vượt biên vì còn kẹt lại cha, chồng thân nhân của họ trong tù Cộng sản đành ở lại chịu đòn thù cộng sản đ1nh tư bản, họ bị tịch thu nhà cửa đất đai phương tiện sống và bị đuổi ra vùng kinh tế mới ở! Để lại nhà cho cán Bộ bắc Việt vào chia nhau ở!? Với lý do ”cải tạo lao động dân miền nam ngồi mát ăn bát vàng” là bọn đĩ diếm tay sai đế quốc Mỹ là kẻ thù dân tộc. Nay nghĩ lại thấm thía vô cùng và nó tạo nên một dòng mặc cảm dân tộc tội lỗi với Tổ Quốc quê hương, với lương tâm Người Việt Quốc Gia bị Cộng Sản HCM phỉnh lừa phản bội lại Tự-Do Miền Nam. Cho đến ngày nay, hiện tại bây giờ của 36 năm qua nhắc lại Tự Do Dân Chủ Nhân quyền, người dân Miền Nam/Vn hối hận vô cùng và không dám đứng lên đòi lại nhửng gì ngày xưa đã mất về tay Cộng sàn HN đã hứa đem lại Dân chủ,nhân Quyền gắp trăm lần trong “Thiên Đàng Xã Hội Chủ Nghĩa” ngày nay!? Tôi phải nói…!? Nói để tạ tội cùng dân tộc này mà tôi đã đóng góp xương máu và hy sinh bảo vệ Tự do Dộc Lập Dân Tộc của tổ tiên Người Việt Quốc Gia giao phó và trách nhiệm tổ quốc danh dự trao cho một người Sĩ Quan Quân Lực/VNCH..
Cuộc tự sát tập thể trong nhà tù Cộng sản của chiến sĩ VNCH là lời cảnh báo cho cả thế giới thấy được rằng CSVN rất tàn ác hung bạo giết người trong tù không có vũ khí tự vệ trong tay, và không có luật quốc tế tù binh dành cho họ, nên họ phải chịu bị chết oan ức trong tù. Chỉ có Cộng Sản giết người nên mới đặt kho đạn nổ trong tù để tiêu diệt kẻ thù cải tạo của Cộng sản vi phạm luật chiến tranh về tù binh chiến tranh mà Cộng BắcViệt đã ký công ước quốc tế trong chiến tranh VN.
Nay cộng đồng quốc tế và các phong trào phản chiến và phong trào yêu chuộng hòa bình không còn biết thương hại vả bên vực cho kẻ yếu thế cô đơn thảm hại đi xâm lược Miền Nam bị đánh tơi bời hoa lá bởi QL/VNCH và quân đội Mỹ ở Miền NamVN hết lòng và dũng cảm hy sinh bảo vệ lý tưởng Tự-Do của họ. Vì vậy Cộng đồng Quốc tế không còn bị Cộng Sản VN đánh lừa sự ủng hộ trợ giúp nữa! CSVN mất uy tín và ghẻ lạnh với họ vô cùng dù cho họ có đổi màu “Tắc Kè” dân chủ dân quyền cho dân việt nhưng vẫn còn thực lực mạmh mẽ của khối  Cộng Sản Trung Quốc làm quan thầy giật dây chỉ đạo CSVN.
Nay Cộng Sản VN Đang tiếp tay CSTQ bành trướng sang 3 nước Đông Dương Việt- Miên-Lào và gây bất ồn hòa bỉnh thế giới làm căng thẳng cho khu vực Đông Nam Á của CSVN chấp nhận chư hầu cho CSTQ.
Cuộc Tự sát tập thể Cai Tạo trong tù Cộng sản là “Mật hiệu” báo động cho toàn dân cà nước thấy rằng CSBV mất hết nhân tính dân tộc học đòi bạo ngược ngang tàn của chủ nghĩa ngoại lai Cộng Sản không có chính nghĩa của lòng yêu nước dân tộc theo truyền thống người Việt Quốc Gia ngàn năm chống Giặc Tàu Phương Bắc vì Việt Nam đã và đang là chư hầu của Trung Cộng mất rồi!??? Vì thế không thể sống chung hào bình với Cộng Sản HN, nhất thiết phải đứng lên đồng lòng đòi quyền tự quyết cũa người dân cho tự do độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ lãnh hãi VN loại bỏ cường quyền thồng trị đảng CSVN ra khỏi thể chế chính trị  tương lai Việt Nam.

Và cũng là thông điệp kèm theo tiếng nổ rung chuyển thế giới báo tin là chủ nghĩa Cộng sản được trắc nghiệm và nếm trải qua Việt nam là chủ nghĩa tàn bạo, độc ác nhất thế giới không có tình người đi ngược lại với triều lưu tiến hóa nhân loại. Chủ Nghĩa Cộng Sản Mác-Lênine đi ngược lại quyền làm người và đánh mất già trị Tự Do trong tinh phổ quát của nó cho nhân loại là một thứ quyền thiêng liêng cao cả nhất con người được Thượng Đế ban cho mà cộng Sản Cướp lấy làm cho  cả thế giới nầy là nô lệ Của Cộng Sản. Họ phân chia Xã hội ra nhiều giai cấp, gây mâu thuẫn gai cấp với nhau vì quyền lợi và chia rẻ nhau để dể bề thống trị và bây giờ chúng biến “ Tập Đoàn Tư Bản Đỏ”[Con ông cháu cha] và 3,6 triệu đảng viền Cộng Sản làm lực lượng bảo vệ đảng CSVN trước nguy cơ sụp đỗ nay mai.
Kết quả thông điệp sứ giả trong tù cải tạo của chiến sĩ Tự Do VNCH đã từng bị thế giới lãng quên sau 30-4-1975 mất miền nam đã rao giảng và tuyên ngôn cho sự giải tán chế độ chế độ cộng Sản Liêng Bang 12 nước Đông âu và làm sụp đổ chủ thuyết Cộng Sản ngay tại bản gốc nước Liên Xô vào năm 1991 khi chủ nghĩa cộng sản lạc hậu, lỗi thời và cản đà tiến hóa nhân loại bị cả thế giới tẩy chai khi nó phơi bầy thực thực thể bản chất phản động luật tiến hóa căn bản của nhân sinh vũ trụ.
Đứng trước sự thử thách cả quê hương và dân tộc khó khăn người chiến sĩ quân đội VNCH vẫn giữ niền tin yêu đất nước và lý tưởng Tự-Do dân tộc…Họ bất khuất và chết tập thể3 trong nhà tù, để nói lên khí tiết anh hùng trung quân ái quốc của các chiến sĩ VNCH một lòng vì nước quên thân:
“Tiếng ru lửa đạn hòa hồn song núi,
Tiễn anh vào cõi mộng lành quê hương…!”
Cái chết tập thể của cài tạo tù binhVNCH trong nhà tù Cộng Sản đã đánh động cả thế giới lương tâm người yêu chuộng Tự-Do hòa bình quan tâm chú ý đến CSVN hành động bạo lực và tàn ác với tù binh VNCH và ngay cả dân tộc mình mới vừa chiếm được Miền nam VN mà thế giới hết lòng thương hại ủng hộ hòa bình dân tộc và an ninh khu vực của họ. Báo chí quốc tế, phóng viên truyền thông, truyền hình các nước thi nhau tìm hiểu và quan sát VN kỹ càng hơn…Kể cả Hoa Kỳ cũng phải lưu tâm và đặt biệt hơn có trách nhiệm của Mỹ  đối với tù binh cải tạo VNCH đã một thời chiến đấu theo lý tưởnng Tự-Do Hòa bình và an ninh thế giới mà Mỹ lãnh đạo bá quyền cho Tự-do thế giới…!
Người Mỹ can thiệp quá muộn màng lấy có cho vấn đề tù binh VNCH bị Cộng sản Bắc Việt bắt giữ cầm tù khi Mỹ rút quân đi và phản bội đồng minhVNCH để tránh  bị thế giới lên án chỉ trích và nguyền rủa Mỹ kém văn minh, không nhân đạo không thua gì Cộng sản VN. Người Mỹ còn bị chỉ trich thẳng thừng của người Pháp cũng có liên quan trong cuộc chiến Việt Nam trong thời”Điện Biên Phủ 54” bị thua trận tại Bắc Việt Nam nhưng họ không bỏ rơi tù Pháp Việt trong nhà tù Cộng sản Hà nội nẵm chỉ trong vòng 30 ngày hiệp ước Geneve, bằng mọi giá người Pháp phải lấy cho ra tù dồng minh với Pháp đã cộng tác với quân đội Pháp ra khỏi tay khát máu Cộng sàn HCM là đệ tam sát thủ của quốc tế Nga Tàu. Người mỹ không chủ động nhiệt tình và lơ là với trách nhiệm, làm cho lấy có để khỏi bị nguyền rủa đê hèn phản bội nên cuộc trao đổi thương lượng với Việt Cộng kéo dài trong suốt 20 năm sau đến năm 1995 khi Cộng sản Vn và Hoa Kỳ chính thức bang giao nhau thì đã quá muộn màng làm chết mất 165.000 chiến sĩ trong nhà tù cộng sản chính thức bị bắt giam. Còn số chết lẽ tẻ của Quân Dân Cán Chính và các tổ chức đảng phái chính trị trong chính phủ VNCH trong các trại tù bí mật biệt lập chưa dược kiểm kê hết vì bị thủ tiêu không chính thức chưa được phát hiện và dĩ nhiên Mỹ không cần biết đến khi phủi tay vô trách nhiệm với đồng minh VNCH.
Trại Cải Tạo Long Khánh bị đánh động và phát hiện của tổ chức nhân đạo quốc tế nên được quan tâm , theo dõi của quốc tế can thiệp cho về xum họp gia đình. Nhưng với điều kiện phải đưa gia đình vào khu “Kinh Tế Mới”. Còn những tù binh ở lại bị cộng sản biên chế vào tội phạm chiến tranh nên giao qua cơ quan Công an thuộc ngành tư pháp quản lý cải tạo theo luật pháp quốc gia Cộng Sản. Cứ như thế theo luật pháp Cộng sản là 2- 3-6-9-cho đến 17 hay 20 năm thả ra từng đợt gọi là cách mạng Khoan Hồng sum Họp Gia Đình cho kẻ thù Dân Tộc Cộng Sản!???.
Những tù cải tạo trước 3 năm do quân đội Cộng sản quản lý. Sau 3 năm từ khi nổ trại tù long Khánh chuyển sang trại Hàm Tân do công an quản chế theo pháp lệnh nhà tù dân sự trong nước mà tù binh cải tạo không được thông báo án lệnh và thời gian giam giữ, chỉ khi nào ra về mới biềt được mình “Bị Thả Ra”…!!!
Hoa Kỳ lấy đi Sĩ Quan Cải Tạo theo diện HO là việc làm có lương tâm trách mhiệm của một dân tộc có nền văn hóa văn minh xuất phát từ cuộc nội chiến Nam-Bắc Hoa Kỳ năm 1865 cách nay hơn 145 năm vẫn còn có nhân đạo, nhân tính hơn người Việt Cộng sản thời nay vẫn còn bản tính thú rừng hoang.
Người tù Cải Tạo trên 3 năm Mỹ mới nhận vào diện HO và cho đi Mỹ tái định cư [tránh trả thù Cộng sản], còn dưới 3 năm chưa lãnh đủ đòn thù Cộng Sản  nên không được”Khoan hồng” tái  định cư tại Hoa Kỳ. Nên nhớ rằng trong số người dưới 3 năm toàn là dân anh hùng liều lĩnh vượt trại, vượt tù bị bắn chết, hoặc dân đào thoát sống ngoài vòng pháp luật Cộng Sản. Ngoài số người đó ra, dưới 3 năm là những chuyên gia, những nhà khoa học kỹ thuật lỗi lạc xuất chúng ở Miền Nam bấy  giờ đi lính và Biệt Phái cơ quan ngành bộ của chính phủ Sài gòn. Họ là những nhân tài dất nước mà Cộng sản biết được và cần họ giúp cộng sản trong giai đoạn đầu xây dựng đỗ nát chiến tranh mà Việt Cộng không có những người tài đó  nên Việt Cộng đặt điều kiện cho Mỹ chấp nhận trên 3 năm mới được tái định cư. Trong khi CSVN thả hết những người họ cần giữ lại những nhả khoa học, chuyên gia, Kỹ thuật, y tế Bác Sĩ, Kỹ Sư để điều hành đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Như thế chứng tỏ Mỹ Mắc sai lầm thua trí tính toán của Cộng Sản để không bị chảy máu chất xám dân tộc ra nước ngoài. Vì Cộng Sản Việt Nam rút được kinh nghiệm đàn anh Liên Xô trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, khi Đức đầu hàng đồng minh thì Mỹ và Liên Xô vào giải giới chiến tranh, thì Mỹ khôn ngoan hơn chỉ bắt giữ và chiêu mộ các nhà bác học và nhân tài khoa học đã từng chế tọa hỏa tiển V1-V2 làm khinh khiếp quân đội đồng mimh. Còn Liên Xô ham giữ và chiếm đống đất nước, cơ sở vật chất của Đức nên không có Bác học chế tạo vũ khí và thua Mỹ về vũ khí và khoa học không gian gần đây. Một lần nữa Mỹ đã thua Công Sản/VN về mặt nhân tài và chất xám có từ phía VNCH.
TÌNH NƯỚC MÊNH MÔNG TRONG TÌNH NGƯỜI QUÊN LÃNG!!!
Chúng tôi ra về trong bơ vơ xa lạ trong cái lạ lẩm của người thân….Thành phố bây giờ đã đổi thay chóng vánh không còn những gương mặt phấn son yêu kiều diễm lệ của Sai gòn chiều thứ bảy thướt tha dạo phố…Cái vẽ đẹp ngày nào của Sai Gòn đã tàn tạ theo năm thàng qua!!! sau biến cố lịch sử ngày 30-4-1975.
Những nét lo âu thể hiện trên gương mặt xạm nắng bơ phờ không còn linh hoạt tuổi đời son trẻ. Người trong những chiếc quần cọc ngắn phong sương lao động, tất cả lo toan cuộc sống không có thì giờ nhàn rỗi trang điểm lại cho chính mình là “Hòn Ngọc Viễn Đông” Tất cả điều bị chìm mờ trong sắc áo Bà Ba đen xạm và khăn vằn quấn ngang vai biểu trưng cho thời đại cách mạng anh hùng tại Miền Nam nước Việt, làm che mờ  và hoại thể sắc màu hồn nhiên tươi thắm của một Miền Nam Tự-Do trong tim tôi! những người cải tạo trở về trong mất mát buồn đau!!!
Bổng tôi chợt nhận ra rằng tôi là kẻ chưa thoát ra tù chỉ là một con gà bị nhốt trong lồng tù Nhỏ ra ngoài tù Lớn mà thôi!...Nơi đây tôi có thêm được bà con, dòng họ và thân quyến trong gia đình cùng xóm giềng phố cũ!…trong một nhà tù rộng lớn hơn. Và tôi phải chịu thêm nhiều cay đắng bức rức của mợt xã hội tù Cộng Sản bao trùm cả dân tộc Miền Nam. Nhưng người tù nầy là những người nô lệ và khuất phục của chế độ đồng hóa Cộng Sản. Họ là những thành phần con dân Miền Nam nghe lời xúi giục của bọn Việt Gian Cộng Sản[Việt Cộng] đánh phá VNCH chế độ Sài gòn, họ ”Ăn cơm Quốc Gia Thờ Ma cộng sản” thì hậu quả là ngày hôm nay!? Họ bị Cộng Sản vắt chanh bỏ vỏ và hết là con bài lợi dụng nên họ căm tức và hận thù nhưng không thể nào làm được gì Cộng Sản khi chiếm được Miền Nam và đặt nền mống độc tài Đãng trị.
Vì quá xấu hổ nên họ tình vờ lãng quên với anh em Cải Tạo. Họ không dám nhìn như chẵng biết chẵng quen coi nhau xa lạ! và cũng không dám để công an, mật vụ Công sản bắt gặp liên hệ chuyện trò thăm hỏi Cải Tạo của bạn cũ, xóm giềng, ngay cả người bà con họ hàng, thân tộc cung không nhìn nhau vì sợ bị ảnh hưởng khó khăn cho cuộc làm ăn sinh sống có tiếp xúc với chính quyền sẽ bị khó dễ  kiếm chuyện đuổi việc vì thân thích với “Ngụy”. Hồ sơ lý lịch lính Ngụy cải tạo là điểm đen vết xấu cho đến suốt 3 đời con cháu vẫn bị phân biệt đối xử như kẻ thù truyền kiếp thế hệ mai sau không ngóc đầu nổi!?
Ngay như trong khu gia binh tôi ờ, toàn là lính tráng bạn bè xưa cũ gặp mặt nhau cũng không dám chào nhau hay ngồi chung nhau uống tách cà phê vì cộng sản rất đa nghi hay để ý và theo dõi Cải tạo. Cứ nữa tháng kêu lên phường khóm trình diện một lần và phải báo cáo hoạt động bản thân. Không khéo nó kiếm chuyện lấy nhà đuổi đi Kinh Tế Mới khổ đời! Đã mất nước rồi bây giờ mất thêm nhà nữa thì còn lại gì cho dân tôi!?. Nhiều lúc mình sống giữa lòng thân ái của người thân, mà cảm thấy xa lạ trong thâm tình ruột thịt của một quê hương xứ sở lưu đày này: ”Giữa bạn có thù giữa thù có bà con!!!? ”Ôi sao Việt Nam oan nghiệt quá…! Bao tủi nhục oán hờn chỉ giành riêng cho người Cải Tạo chúng tôi!??? Ngày lại qua ngày, tháng lại qua năm, suốt cả 36 năm rồi hồn tôi lúc dại lúc khờ. Tôi dại là vì tôi hy sinh chiến đấu bảo vệ cho những người thuộc thành phần bộ lại chúng tôi là chiến sĩ Quốc Gia được an tâm biểu tình nơi hậu tuyến! Tôi khờ là quá đặt lòng tin vào Chính nghĩa Quốc Gia vào bọn”Việt Gian Cộng Hòa” mà tôi phục vụ chiến đấu…và cuối cùng họ phản bội lại dân tộc phản bội lại Tự-Do bắt chúng tôi chiến sĩ VNCH đầu hàng giặc cộng và bỏ mặc chúng tôi trong tù cải tạo của người Cộng Sản để chúng yên tâm tháo chạy khỏi nước…!!!Tôi buồn nên tôi lãm nhãm những vần thơ và tôi tinnhững người cùng thời cuộc chiến và cùng mắc chứng bệnh “Hội Chứng Chiến Tranh” như tôi và hầu hết các Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ ở Mỹ đều mắc phải Hội Chứng Phản Bội Này!???                                                                      
Huỳnh Mai
kỷ niệm 30-4-2011, viết xong 28-3-2011
{Đạn nổ trong tù cải tạo!!! }
Huỳnh Mai St.8872  
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
Khung trời cải tạo nát tan đạn nổ,
Vắt ngang rào thép ngả đổ thây người,
Long trời lở đất giết người không súng,
Chiến trường không cân sức chiến tranh qua,
Trại Hòm Long Khánh hút hàng cung cấp,
Sáu mãnh vạc nằm ghép xác thân anh,
Vác chôn anh quan tài còn rỉ máu…!
Cải Tạo tù suối vắng mộ anh nằm!
Hãy quên đi những gì đời khuất tất,
Mấy ai nghĩ đến mộ người tù binh!?
Chết trong tù quê nhà không đổ máu!
Vẹn lời thề cho dân tộc được bình an,
Anh gục ngã cho đời vương mầm sống!
Lời nguyền sông núi tiếng nổ vang to!
Ngục tù xiềng xích theo anh tung vở!
Lửa tù bốc cháy trong miền Tự-Do!!!

                                                                               Huỳnh Mai  [Khóc bạn trong tù!
                                                                                                                                 

                                                                                                   Quân Sử Việt Nam (Top



ĐÊM NOÉL BUỒN!!!


BÀI THƠ DÂNG CHÚA:
Huỳnh Mai St.8872                           MỪNG CHÚA TRONG TÙ !!!
Dạ Lệ Huỳnh                                                                                       Huỳnh Mai St.8872
December 25,2011                                                                                  {Mùa cải tạo}
Réveillon, 0h 24-12-2011
    
 LẠY CHÚA...!
Con là lính trận nơi vùng hỏa tuyến,
Ngăn bước quân thù đuổi Chúa vào Nam,
Chuyến tàu vĩ tuyến,triệu người theo Chúa!
Vượt Trường Sơn truy Chúa quân rợ Hồ...
                    ***
Tuyến lửa địa đầu Cộng-Hồ cố vượt,
Hòang hôn vĩ tuyến tím cả chiều hoang,
Xác thù đỏ lửa cổ thành Quản Trị,
Trường Sơn ngút khói đường 9 Nam Lào,
Xác cộng hồn Hồ thương đau lòng Chúa!
Tình thương không tắt nổi lửa vô thần...
Linh hồn Quỷ-Đỏ đâu còn có Chúa,
Vào Nam đuổi Chúa chiếm bỏ Tự-Do!
Bắt giam con Chúa vào tù cải tạo,
Nhốt Chúa vào tù cho khỏi vượt biên,
                     ***
Đêm tù sao sáng Noél trời gió lạnh,
"Giáo Trường" nhà tù vắng tiếng thánh ca,
Chúa sinh hang đá,tù nhân đắp vội,
Máng heo không cỏ lạnh lẻo Cúa ơi...!!!
Thiên thần nón cối...AK canh gát,
Bay lượn quanh trời hang núi chúa sinh,
Canh chừng Chúa trốn theo tù cải tạo,
Thân Chúa Hài Đồng bao cát che thân
Đức Mẹ bơ vơ,tù gặp quản giáo,
Bỏ Chúa Hài Đồng trước súng AK,
                      ***
Quản giáo tù quắc nhìn con chiên Chúa!
Oan gia ngỏ hẹp,ta lại gặp nhau!?
Trên trời có Chúa,nơi dây có Bác!
Thắng bại: thành-hư nay đã rỏ rồi,
Thiên thần có súng...vệ binh có cánh!
Thánh thần-ác quỷ đố ai rạch ròi!?
Thực tế Bác đây chính là cuộc sống,
Tình thương của Chúa chỉ đói nhăng răng!!!
Bỏ Chúa theo Hồ,phu thê xum hợp...
Đàn chiên của Chúa,Bác đây chăn giùm,
                      ***
Góc tù "Cô-Nét" tựợng Chúa lăn lóc!
Đá hang,Đức Mẹ,Chúa Con... lộn nhào!
Tháng ngày giam biệt trong thùng Cô-Nét*
Kính Mừng Chúa con gặp Chúa trong tù...!!!
*{Thùng container của Mỹ bỏ lại trong tù}
                                    Huỳnh Mai St,8872

Kính tặng con chiên của Chúa giáo sứ Thái Hà.Và Cha Nguyễn Văn Lý trong tù Cải tạo:
Thiên Đàng Xã Nghĩa Cộng Sản Việt Nam,nhân ngày biến động Tự Do Tôn Giáo Việt Nam
                                                                                  Đêm Noél,24-12-2011/Sài Gòn
                                                                                                Huỳnh Mai St.8872



Chủ Nhật, ngày 30 tháng 11 năm 2014


Mùa Giáng Sinh đầu tiên trong tù, 1975


Mùa Giáng Sinh đầu tiên trong tù, 1975

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1024x917.


Từ cuối năm 1974, chiến cuộc VN thay đổi hẳn vì sự chênh lệch giữa hai bên về tiếp tế và hỏa lực ngày càng rõ nét. Phía QLVNCH thì quân viện đã bị Quốc Hội Mỹ cắt giảm trầm trọng nên hỏa lực sút giảm thấy rõ. Phe Cộng sản thì được Nga và Trung Cộng tăng cường việc trợ ồ ạt, tải vào Nam một số lượng khổng lồ vũ khí gồm cả xe tăng hạng nặng và trọng pháo tối tân nhất. Tháng Ba năm 1975, tỉnh Phước Long bị CS đánh chiếm, không lâu sau đó đến lượt Ban-Mê-Thuột thất thủ, mở đầu cho những tổn thất và di tản liên tục của phía VNCH, đưa đến ngày Quốc Hận 30/4 khi miền Nam VN hoàn toàn bị CS chiếm.


Vào những ngày cuối của cuộc chiến, đơn vị tôi đóng tại Gò Dầu Hạ, cùng với Sư Đoàn 25 BB phụ trách mặt trận Tây Ninh, lúc bấy giờ đang bị áp lực nặng nề từ một lực lượng địch quân đông đảo gấp nhiều lần, với vô số xe tăng và trọng pháo, liên tục tấn công và pháo kích vào các vị trí đóng quân của ta. Chiều ngày 28/4, sau khi bị mất liên lạc với Quân Đoàn và Bộ Tổng Tham Mưu, trước tình hình vũ khí ngày càng hao hụt mà không có tiếp tế, cũng chẳng còn yểm trợ pháo binh hay phi cơ, lại phải chịu hỏa lực pháo khủng khiếp của địch, đơn vị quyết định di tản, mở đường máu băng đồng chạy về hướng Hậu Nghĩa. Chạy suốt đêm, bị địch truy kích liên tục, đơn vị rã thành những nhóm nhỏ. Đến sáng 29/4 thì nhóm của tôi gồm chừng hơn trăm người bị bộ đội CS vây kín. Kiểm lại thì chẳng còn bao nhiêu súng đạn, chúng tôi đành chịu bị địch bắt và giải vào nhốt trong một khu rừng thuộc mật khu Chà Rầy.


Ngày hôm sau thì nghe tin sét đánh: Dương Văn Minh đã đầu hàng, Việt Nam Cộng Hòa đã chính thức bị khai tử! Nhiều anh em trong chúng tôi đã bật khóc, lòng vô cùng đau đớn trước cái chết nhanh chóng không ngờ của miền Nam thân yêu.

Sau 1 tuần lễ bị giam, đến sáng sớm ngày 6/5, bộ đội và du kích CS tập họp hết mấy trăm tù binh VNCH bị giam tại khu rừng đó lại, đọc “Lệnh Tha” của “Cách Mạng”, thả tất cả mọi người vô điều kiện không phân biệt cấp bậc, cho về “trình diện tại địa phương”, chỉ cần “chấp hành tốt các qui định của chính quyền mới”. Không những thế, “Cách Mạng” còn phát cho mỗi tù binh mấy chục bạc để mua vé xe đò về nguyên quán!


Chúng tôi ngẩn ngơ, vì không ngờ họ lại thả mình dễ dàng như vậy, trong lòng không khỏi lấy làm lạ, có phần thầm phục cái “mã thượng” của “Cách Mạng”! Đi bộ mấy tiếng đồng hồ ra đến bến xe Trảng Bàng, chúng tôi gặp lại rất nhiều đồng đội bị bắt và giam ở chỗ khác, cũng được thả về, trong đó có cả ông Trung Tá Liên Đoàn Trưởng, mấy ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng. Lại càng ngẩn ngơ, càng thấy “Cách Mạng” sao mà “khoan hồng nhân đạo” quá sức tưởng tượng!


Về nhà, tôi bước vào trước sự ngạc nhiên sung sướng của gia đình, vì thằng con bấy lâu mất tích ngoài mặt trận tưởng đã chết, nay bỗng trở về như một bóng ma! Trong những ngày sau đó, rất nhiều bạn bè của tôi, phần đông cũng là sĩ quan rã ngũ, nghe tin tôi về thì ghé thăm. Nghe chuyện phóng thích vô điều kiện mà tôi là chứng nhân trực tiếp, ai cũng lắc đầu le lưỡi, phục “Cách Mạng” sát đất!


Vài tuần sau đó, có lệnh tập trung các anh em binh sĩ, hạ sĩ quan “học tập tại chỗ” 3 ngày. Rồi sĩ quan cấp tá trở lên “trình diện học tập, đem theo 1 tháng tiền ăn”. Cấp tá vừa đi xong là đến bọn sĩ quan cấp úy chúng tôi bị kêu trình diện, “đem theo 10 ngày tiền ăn”. Tôi đến trình diện tại trường nữ trung học Gia Long vào chiều ngày 23/6/1975, gặp rất nhiều bạn bè cũng trình diện tại đó. Bữa ăn chiều hôm ấy, “Cách Mạng” đặt nhà hàng Soái Kinh Lâm ở Chợ Lớn nấu đồ ăn tầu mang vào phát cho anh em ăn. Ai nấy đều phởn phơ vui vẻ, cứ ngỡ rằng chỉ có 10 ngày mà ăn uống ngon lành thoải mái như thế thì có nhằm nhò gì! Ở trường Gia Long mấy hôm, đến chiều 27/6 một đoàn xe Molotova đến chở chúng tôi đi suốt đêm, đổ vào Trảng Lớn. Ở đó, cán bộ CS mà chúng tôi phải gọi là “Quản Giáo”, chia chúng tôi ra thành đội, thành tổ, vào ở trong những căn nhà bỏ hoang của một trại lính cũ. Họ kêu các đội lên lãnh thực phẩm mang về tự nấu, gồm gạo mốc, rau muống đã gần hư thúi và muối hột. Chúng tôi bắt đầu cảm thấy hơi kỳ kỳ, ngờ ngợ, nhưng vẫn còn bám vào cái tin tưởng “10 ngày”. Rồi màn tự khai đầu tiên xẩy ra, rồi tập họp học tập “Nội qui, Qui định”, “8 câu hỏi nhận thức”… 10 ngày qua đã lâu mà chẳng thấy động tĩnh gì, trong khi mọi chỉ thị, sinh hoạt đều mang dấu chỉ của một sự ở lại lâu dài.


Sự tương phản rõ rệt giữa thái độ “mã thượng” của “Cách mạng” lúc đầu và thực tế phũ phàng bấy giờ khiến chúng tôi mau chóng nhận ra là mình đã bị Cộng sản lừa ! Khi mới chiếm xong miền Nam vào 30/4/1975, họ chỉ nắm được trong tay, có nghĩa là đang bắt giữ được, giỏi lắm là 10% tổng số sĩ quan QLVNCH - trong đó có tôi và các sĩ quan trong đơn vị tôi. Đại đa số đã rã ngũ, lột bỏ quân phục, sống lẫn lộn rải rác trong dân chúng, muốn tìm bắt không phải là chuyện dễ. Mà đây lại chính là thành phần được CS đánh giá là nguy hiểm nhất cho chế độ mới, cần phải tập trung giam giữ bằng mọi giá. Những bộ óc lợi hại, xỏ lá nhất của “Cách Mạng” đã bày ra một mưu kế khá cao cường: thả con tép bắt con tôm! Khi họ phóng thích vô điều kiện những sĩ quan bắt được trong những ngày cuối của cuộc chiến như nhóm sĩ quan trong đơn vị tôi, thì chính chúng tôi là những nhân chứng sống cho cái gọi là “khoan hồng nhân đạo” của “Cách Mạng”, khiến các anh em còn tại đào tin tưởng. Vì thế mà khi có lệnh gọi trình diện thì đại đa số sĩ quan còn ở ngoài đều chui đầu vào rọ, CS tóm gọn một mẻ lớn ngon ơ!!! Họ đã tính toán rất kỹ và ấn định trình tự gọi “trình diện học tập” rất bài bản để không ai có thể nghi ngờ gì. Qua sự việc này, CSVN đã chứng tỏ rõ ràng khả năng điếm đàng lưu manh đệ nhất, xứng đáng là bậc thầy của mọi tập đoàn độc tài gian ác trên thế giới! “Thấp cơ thua trí”, chúng tôi bị lừa một quả lớn, lớn quá! Khi tỉnh ra thì cá đã nằm trong rọ!!!


Trong thời gian 8 tuần lễ ở Trảng Lớn, tôi biết ở trại bên có một anh Dược sĩ cùng khóa 20 Quân Y Hiện Dịch với tôi, Trung úy Mai Gia Thược, trong cơn tuyệt vọng đã tự tử bằng một quả lựu đạn lượm được khi đi lao động. Tinh thần của tất cả các trại viên đều sa sút, ai cũng buồn bã, bi quan vì không biết tương lai sẽ đi về đâu, tựa như ở tù mà không hề có bản án, không biết ngày nào ra.


Ngày 17/8/1975, cán bộ CS tập họp toàn bộ trại viên, chia thành từng nhóm. Họ dùng một danh từ mới lạ tai là “biên chế” để chỉ việc làm này. Rồi từng nhóm được lệnh lên Molotova, di chuyển về những trại khác nhau. Nhóm tôi được đưa vào doanh trại cũ của Tiểu đoàn Pháo binh Sư đoàn 18 nằm gần thị xã Long Khánh. Lại có màn chia đội, tổ, v.v... Rồi bắt đầu các công tác gọi là “ổn định chỗ ăn chỗ ở”, tức là sửa lán trại, đào giếng lấy nước xài, khai quang khu vực chung quanh…v.v... Rồi đắp nền, xây “Hội trường” để “sửa soạn bước vào học tập”.


Trong các trại viên, các anh lớn tuổi, có gia đình con cái rồi thì hẳn là lo buồn, rầu rĩ hơn bọn trẻ chưa vợ chưa con như lũ chúng tôi. Mà còn buồn hơn khi những dịp lễ, dịp nghỉ lớn trước kia của mình, như Giáng Sinh và Tết Nguyên Đán, vì càng thêm nhớ gia đình và không khí xum họp vui vẻ những ngày xưa… Tay Chính Trị Viên của Tiểu đoàn Bộ đội CS quản lý trại tôi là một anh già người miền Trung, tên là Năm Sinh. Tay này hay tập họp cả trại lại để “lên lớp” - chữ của “Cách mạng”, thí dụ như “Quán triệt chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước”, “Giải thích thêm về Nội qui, Qui định”. Y nói lè nhè, vừa nói vừa đi tới đi lui, tay chắp sau đít, mặt luôn luôn ngước lên trần nhà. Bọn trẻ chúng tôi ngồi tít phía sau, thường lén chơi cờ croix-zero với nhau hoặc lơ mơ suy nghĩ chuyện riêng, dư biết những gì hắn nói chỉ như là một đoạn băng rè phát ra từ một cái máy thu âm cũ, có nghĩa là học thuộc lòng bài bản do Đảng giao cho rồi cứ thế mà “bài tiết” lại! Đôi khi, sự dốt nát của những tay cán bộ CS này cũng mua vui cho chúng tôi được đôi chút. Tôi nhớ lần “lên lớp” trước mùa Giáng Sinh đầu tiên trong tù năm 1975, sau khi đọc lệnh cấm trại viên tụ tập cầu nguyện trong dịp lễ này, Năm Sinh gật gù nói với vẻ đắc ý : “Các anh nên nhớ là Kinh Thánh đã dạy rằng “Phật tức tâm, tâm tức Phật”, nên đâu cần gì phải tụ họp cầu nguyện?”. Cả lũ tù cười ồ, trong khi mặt y ngớ ra, ngạc nhiên không hiểu tại sao!


Mùa Giáng Sinh đầu tiên trong trại trôi qua trong tẻ nhạt. Mọi trại viên đều thấm thía về thân phận cá chậu chim lồng, không ai còn mơ hồ gì nữa. Rồi Tết đến, cũng một bầu không khí ảm đạm, thê lương y hệt như thế. Cũng may là Ban Quản Giáo cho gia đình gửi quà Tết lên cho bọn tù từ tuần trước, nên anh em cũng có tí đồ ăn “cải thiện”, vui vẻ với nhau một chút trong mấy ngày Tết.


Thời gian trong tù chẳng bao lâu sau đã chứng tỏ rõ ràng khả năng dồi dào và đa dạng của các cựu sĩ quan quân đội miền Nam, khác hẳn bọn sĩ quan quản giáo, rặt là một lũ vô học, không có trình độ, dốt nát ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Chỉ với tay không và óc sáng tạo, anh em chế ra đủ thứ. Trước tiên là các dụng cụ để làm việc, họ dùng các tấm sắt đường rầy xe lửa cũ, các thứ vật liệu phế thải thu nhặt được mà làm ra mọi thứ: từ cuốc, xẻng, xà beng…v.v... cho đến “xe cải tiến”, ròng rọc gỗ, lò rèn và ống bễ... Nhiều anh em có những khả năng đặc biệt, thí dụ như anh Nguyễn Thanh Thu, họa sĩ kiêm điêu khắc gia, người tạc bức tượng Thương Tiếc nổi tiếng đặt trước Nghĩa Trang Quân Đội bên lề Xa lộ Biên Hòa, được các quản giáo chiếu cố tận tình, nhờ vẽ hết cái này đến cái khác.


Còn nhớ có một anh quản giáo tên là Tý, mà chúng tôi gọi là anh Quản Bia, vì anh có bộ mặt đần độn và hàm răng vẩu, trông giống y hệt như hình tên VC trên tấm bia tập bắn ở các quân truờng. Anh này đem xuống cho anh Thu tấm hình bà vợ, một chị nhà quê miền Bắc tiêu biểu, đầu quấn khăn vành dây có đuôi gà, răng đen mã tấu, mặt rỗ hoa, mắt lác xệch. Anh Quản Bia cung cấp giấy croquis vẽ, màu nước…v.v... không biết kiếm ở đâu ra, bắt anh Thu vẽ cho bà vợ một bức họa chân dung, với yêu cầu là phải “hiện đại hóa” cho thành phụ nữ tân thời, nguyên văn lời anh là “giống như phụ nữ miền Nam”! Vài ngày sau, anh Thu trình tác phẩm nghệ thuật đã hoàn tất: chị vợ nhà quê nay môi son má phấn, mặt hết rỗ, mắt không còn lác, tóc phi-dê ngon lành, đeo bông tai, vòng vàng đàng hoàng, trông rất chi là hiện đại và sang trọng. Anh Bia hài lòng lắm, bèn thưởng cho anh Thu mấy tán đường thẻ, hí hửng đem tranh về cất kỹ, đợi dịp đi phép sẽ mang về Bắc làm quà cho vợ!


Sau này anh em tù “ngụy” có phong trào đi lượm những mảnh bom, mảnh nhôm vụn. Những khi rảnh rỗi ngoài giờ lao động, cả trại thi nhau hì hục cưa, mài, dũa… làm lược, làm trâm cài tóc… để mai này tặng vợ con khi có dịp. Những tấm tôn phế thải được đem về đập cho thẳng, cưa ra, gò thành gầu múc nước, nồi, chảo, thùng… để dùng hàng ngày. Anh em còn làm cả những chiếc va-ly đựng đồ, có khóa đàng hoàng, trông rất “chiến”, chỉ thua va-ly samsonite chút đỉnh. Các anh quản giáo trông thấy, suýt soa khen đẹp, và đều xuống đặt làm cho mỗi anh một hai cái, chờ đi phép sẽ xài. Tuyệt vời hơn, anh em bắt đầu “chế” đàn guitare, thùng đàn gò bằng tôn, cần đàn thì đẽo bằng gỗ củi, dùng dây điện và dây điện thoại xe lại làm đủ bộ 6 dây đàn, từ dây “mì” thấp nhất đế dây “mí” cao nhất. Từ những cây đàn đầu tiên còn thô sơ chưa được chính xác và nghe chưa hay, qua kinh nghiệm dần dần kỹ thuật được cải tiến nên những cây đàn làm về sau trông đẹp hơn và nghe rất được. Nghe nói ở trại khác, anh em còn làm cả vĩ cầm, có archet kéo đàng hoàng! Rồi trong trại nổi lên phong trào học nhạc, anh này dạy anh kia, cho qua thời giờ rảnh sau khi lao động mệt nhọc.


Tôi được một anh bạn gò tặng cho cây đàn, sướng quá vì vốn mê nhạc mà đã lâu không được chơi. Cùng tổ với tôi, người tôi thân nhất là Nguyễn Ngọc Ngạn, giáo chức, Trung úy biệt phái, mà chúng tôi gọi là Giáo Ngạn. Thân với hắn vì cả hai thằng đều khoái văn nghệ, đều có máu tếu và đều “phản động ngầm”. Thí dụ như bài hát ca tụng già Hồ: “Bác đến từng nhà, thăm các cụ già, cầm tay chúng con, bác bắt nhịp bài ca Kết Đoàn”, được chúng tôi sửa lời thành: “Bác đến từng nhà hăm các cụ già, còng tay chúng con, bác bắt buộc người ta kết đoàn…”, hát nho nhỏ với nhau rồi khoái chí cười hinh hích! Người ta đâu có muốn “kết đoàn” theo kiểu của “Bác” đâu, nhưng bị “Bác” bóp cổ bắt buộc nên rất chán!


Có được cây đàn, tôi và Giáo Ngạn tối tối nghêu ngao ca hát các loại “nhạc vàng”, vì thời còn trẻ tôi thuộc lòng rất nhiều nhạc cả VN lẫn ngoại quốc. Tiếng đồn bay xa, dần dần anh em các đội tổ khác muốn nhớ lại “hương xưa”, mời chúng tôi đi “du ca”, hát “nhạc yêu cầu”, đổi lại anh em đãi chúng tôi thuốc lào, chè cháo! Được mấy tháng thì chuyện “du ca” bị chấm dứt sau khi chúng tôi bị quản giáo và vệ binh rình bắt quả tang, may chỉ bị làm kiểm điểm. Báo hại các anh em trong đội tôi cả mấy buổi tối phải “ngồi đồng” sau giờ lao động, kiểm thảo phê bình chúng tôi thay vì có thời giờ làm việc riêng, nên phàn nàn quá xá!


Cuối tháng 8 năm 1976, chúng tôi bị lùa lên hội trường, bắt đầu “học” bài đầu tiên của loạt “10 bài học cải tạo dành cho sĩ quan chế độ cũ”, do cán bộ chính trị từ Trung đoàn xuống “lên lớp”, to chuyện lắm. Nói chung thì các bài bản của CS đều là thứ tuyên truyền rẻ tiền, với những tiêu đề đại loại như “Đế quốc Mỹ to nhưng không mạnh”, “Đế quốc Mỹ: con đỉa hai vòi”, “Ba giòng thác Cách mạng”, “Nhiệm vụ xây dựng tổ quốc trong thời đại mới”… Bọn tôi xách cái ghế con lên ngồi giả vờ nghe, nhưng kỳ thực hoặc đánh cờ, hoặc “bút đàm” với nhau, hoặc ngủ gật. Lên lớp xong rồi, cán bộ còn ra lệnh phải về họp tổ thảo luận, đào sâu thêm để sau đó làm “thu hoạch” cho tốt! Tổ tôi cũng phải họp lại vào buổi tối cho có lệ, nhưng bàn với nhau cử hai “lính gác giặc”, một anh thủ cửa trước, một anh cửa sau, còn mọi người ai nấy cứ làm việc riêng - anh thì vá quần áo, anh thì dũa lược nhôm, anh thì đánh cờ tướng…v.v... Khi thấy có quản giáo hay vệ binh xuất hiện từ xa là “lính gác giặc” báo động, tất cả các đồ linh tinh biến mất trong chớp mắt, nhìn vào người ta chỉ thấy cả tổ đang ngồi nghiêm chỉnh, nghe một tổ viên (dĩ nhiên là đã có cắt cử từ trước) đang thao thao phát biểu, đúng y chang yêu cầu học tập! Theo nhận xét và kinh nghiệm của cá nhân tôi, đại đa số anh em tù chỉ vờ vịt, vì trót lâm vào cảnh “cá nằm trên thớt” nên đành cắn răng “nín thở qua sông” cho qua chuyện, chứ học tập học tiếc cái gì! Chẳng đời nào CS “cải tạo” được các cựu sĩ quan QLVNCH!


Thấm thoắt đã lại gần Tết, cái Tết thứ nhì trong tù cải tạo. Các trại viên sau hơn một năm bị tù, dường như đã cam phận hơn và chấp nhận thân phận tù đày không biết ngày ra. Trong hoàn cảnh ấy, làm gì cho vui một chút thì vẫn hơn là rầu rĩ, suốt ngày nhìn trời hiu quạnh! Cán bộ trại cũng ra lệnh cho trại viên sửa soạn văn nghệ đón Xuân để ra điều là “an tâm cải tạo”.


Các đội, tổ được phân công dựng sân khấu ngay tại hội trường chính. Anh Nguyễn Thanh Thu xin cán bộ cung cấp vải và sơn để trang trí sân khấu. Anh thực hiện hai tấm vải treo dọc hai bên cánh gà, vẽ hai con hạc rất đẹp, đối xứng với nhau, ngóc mỏ nhìn lên mặt trăng màu vàng trên nền trời đêm đen bạc. Cán bộ xuống xem, tấm tắc khen. Anh Thu nói nhỏ với tôi :”Mấy thằng cán bộ này ngu thiệt! Tôi vẽ hai con hạc đứng một mình này có ý nghĩa là bọn mình cô đơn trong tù, nhìn trăng nhớ nhà, rầu thúi ruột, mà tụi nó không hiểu, cứ khen tới…”


Ngày mồng một Tết năm ấy, trại viên cũng làm đầu lân bằng tre và giấy bồi, đi múa khắp trại, có cả ông Địa phe phẩy quạt. Giáo Ngạn mặc quần tây, áo sơ mi trắng đem theo từ lúc đi trình diện cải tạo, chơi thêm cái cà-vạt làm bằng bao cát, đi vòng vòng chúc Tết anh em “mau chóng cải tạo tốt để được về sớm”. Tôi phụ trách ban nhạc gồm hơn chục anh em, mỗi người một cây đàn tôn, cũng ráo riết tập dợt. Trong buổi trình diễn đón Xuân, Giáo Ngạn vẫn trong bộ đồ kẻng, đeo cà-vạt, làm MC. Có lẽ đó là lần làm MC đầu tiên trong đời của hắn, có thể cũng là điềm báo hiệu sự nghiệp MC sau này chăng?


Ban nhạc chúng tôi thì ngoài mấy cây đàn guitare tôn, còn có một bộ trống cũng gò bằng tôn, phất giấy có thoa nước cơm đặc nhiều lần cho cứng, và một cây contre-basse làm bằng một cái thùng phuy cưa đôi, dây bật phình phình, cũng xôm tụ ra phết. Chúng tôi hòa tấu bài “Those were the days” (khi nộp chương trình văn nghệ cho “khung”, tôi khai là nhạc Liên xô). Bài hát này thời trước 75 khá phổ thông, và lời ca tiếng Anh, nếu ai biết, cũng rất thấm thía đối với hoàn cảnh chúng tôi bấy giờ, ngụ ý nhớ tiếc những ngày vui cũ: “Those were the days, my friend - We thought they'd never end - We'd sing and dance forever and a day - We'd live the life we choose - We'd fight and never lose - 'Cause we were young and sure to have our way…” Dĩ nhiên anh em tù cải tạo rất khoái, vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Cũng may là không có tay ăng-ten nào đâm thọc, nên chúng tôi không bị rắc rối. Tối về thì tổ anh nuôi phát cho anh em mỗi người một mẩu thịt heo bé tí, đặc ân của “Cánh mạng” đãi ngộ bọn tù nhân dịp Xuân về… Từng nhóm nhỏ, chúng tôi gom chung đồ tiếp tế, pha cà phê hoặc trà, nấu nồi chè đậu xanh, ngồi quây quần trò chuyện tới khuya, ngậm ngùi nhắc những kỷ niệm Tết vui những ngày xưa cũ…


Không lâu sau cái Tết năm ấy, trại viên lại được lệnh “biên chế”, từng đội từng tổ lại bị xé ra, ráp trở lại thành những nhóm mới, đi đến những địa điểm tù khác nhau. Thì ra đây cũng nằm trong kỹ thuật “giam tù phản động” của Cộng sản: họ sợ rằng để bọn tù ở chung với nhau lâu ngày thì sẽ kết bè kết nhóm, thân nhau tin nhau đủ để có thể âm mưu tổ chức trốn trại hoặc nổi loạn. Vì thế cứ độ hơn một năm là họ “biên chế”, chẻ nát các đội, tổ, xào xáo lung tung và chia thành nhiều nhóm mới, chuyển đến nhiều trại mới khác nhau để tránh hậu họa. Kỹ thuật này do quan thầy Liên Xô và Trung Cộng nghiên cứu và áp dụng thành công từ bao nhiêu năm, nay đệ tử Việt Cộng dùng để khống chế bọn tù “ngụy”.


Mới đó mà đã ba mươi mấy năm. Những bạn tù hồi đó, người may mắn vượt thoát ra ngoại quốc, kẻ còn ở lại sống chật vật dưới chế độ CS. Điều lạ lùng là có những người trước đây ở trong tù khốn khổ thì giữ được tư cách, lập trường, đáng mặt trượng phu, mà khi vượt biên thành công, ra ngoài sống thoải mái ở nước tự do thì lại dần dà biến chất, lập trường chao đảo một cách quái đản khó hiểu, thậm chí còn ra mặt ca tụng cảnh “phồn vinh” bây giờ của Saigon, thán phục trình độ ăn chơi sang trọng của tầng lớp cán bộ CS ăn trên ngồi trước mà nay họ được “hân hạnh” quen biết! Nói chuyện với những người ấy, có khi mình có cảm tưởng là thằng bạn tù ngày xưa đã chết, người mình đang gặp đây là một nguời khác, một người hoàn toàn xa lạ! Giáo Ngạn thì từ mười mấy năm nay, kể từ sau vụ Paris By Night “B40”, chắc là ngượng ngùng nên dù qua Úc nhiều lần nhưng chẳng liên lạc với ai nữa. Thì thôi! Điểm chung đã không còn, có gặp nhau cũng chỉ là gượng gạo, thà là nghỉ cho rồi!


Trại tù L9T5 Long Khánh của chúng tôi có được hơn chục anh em cựu tù cùng sống tại Sydney, từ 1994 đến nay năm nào cũng họp mặt mỗi cuối năm, hàn huyên chuyện cũ chuyện mới. Những mái đầu xanh ngày xưa giờ đã lốm đốm bạc. Trong nhóm cũng đã có người ra đi vĩnh viễn. Vài anh em ở đây hàng năm vẫn chung góp để tiếp tế cho một vài bạn tù hồi đó nay còn ở VN, giúp họ có được một cái Tết tương đối tươm tất cho gia đình.


Nhớ lại những kỷ niệm xưa mà lòng không khỏi bồi hồi. Và buồn vì không biết bao giờ mới được về thăm một quê hương Việt Nam, khi thực sự có tự do dân chủ...


Nguyễn Mạnh Tiến


 (saohomsaomai)

 

http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=31791
 

 
 


ĐÊM NOÉL BUỒN!!!

BÀI THƠ DÂNG CHÚA:
Huỳnh Mai St.8872                 
Dạ Lệ Huỳnh                                                                
December 25,2011                                                            
Réveillon, 0h 24-12-2011

MỪNG CHÚA TRONG TÙ !!!                               Huỳnh Mai St.8872
                            
 LẠY CHÚA...!!!
Con là lính trận nơi vùng hỏa tuyến,
Ngăn bước quân thù đuổi Chúa vào Nam,
Chuyến tàu vĩ tuyến,triệu người theo Chúa!
Vượt Trường Sơn truy Chúa quân rợ Hồ...!
                    ***
Tuyến lửa địa đầu Cộng-Hồ cố vượt,
Hòang hôn vĩ tuyến tím cả chiều hoang,
Xác thù đỏ lửa cổ thành Quản Trị,
Trường Sơn ngút khói đường 9 Nam Lào,
Xác cộng, h
ồn Hồ thương đau lòng Chúa!
Tình thương không tắt nổi lửa vô thần..!.
Linh hồn Quỷ-Đỏ đâu còn có Chúa,
Vào Nam đuổi Chúa chiếm bỏ Tự-Do!
Bắt giam con Chúa vào tù cải tạo,
Nhốt Chúa vào tù cho khỏi vượt biên,
                     ***
Đêm tù sao sáng Noél trời gió lạnh,
"Giáo Trường" nhà tù vắng tiếng thánh ca,
Chúa sinh hang đá,tù nhân đắp vội,
Máng heo không cỏ lạnh lẻo Cúa ơi...!!!
Thiên thần nón cối...AK canh gát,
Bay lượn quanh trời hang núi chúa sinh,
Canh chừng Chúa trốn theo tù cải tạo,
Thân Chúa Hài Đồng bao cát che thân
Đức Mẹ bơ vơ,tù gặp quản giáo,
Bỏ Chúa Hài Đồng trước súng AK,
                      ***
Quản giáo tù quắc nhìn con chiên Chúa!
Oan gia ngỏ hẹp,ta lại gặp nhau!?
Trên trời có Chúa, nơi dây có Bác!
Thắng bại: thành-hư nay đã rỏ rồi,
Thiên thần có súng...vệ binh có cánh!
Thánh thần-ác quỷ đố ai rạch ròi!?
Thực tế Bác đây chính là cuộc sống,
Tình thương của Chúa chỉ đói nhăng răng!!!
Bỏ Chúa theo Hồ,phu thê xum hợp..!.
Đàn chiên của Chúa,Bác đây chăn giùm,
                      ***
Góc tù "Cô-Nét" tựợng Chúa lăn lóc!
Đá hang Đức Mẹ,Chúa Con... lộn nhào!
Tháng ngày giam biệt trong thùng Cô-Nét*
Kính Mừng Chúa- Con gặp Chúa trong tù...!!!
                                          
                                          Huỳnh Mai St,8872
                                            [ Mùa cai3i tạo ]
*{Thùng container của Mỹ bỏ lại trong tù}
                                  
Kính tặng con chiên của Chúa, giáo sứ Thái Hà.Và Cha Nguyễn Văn Lý trong tù Cải tạo:
Thiên Đàng Xã Nghĩa Cộng Sản Việt Nam,nhân ngày biến động Tự Do Tôn Giáo Việt Nam
                                                                                  Đêm Noél,24-12-2011/Sài Gòn
                                                                                                Huỳnh Mai St.8872 
Nguồn: http://maidayhoabnh.blogspot.com/2011/12/em-noel-buon.html
 



TÙ BINH CẢI TẠO- QL.VNCH




Đã thêm một sự kiện trong đời từ ngày 1 tháng 5 1975 vào nhật kí của anh ấy: TÙ BINH CẢI TẠO- QL.VNCH.
Hồi Ký đời cải tạo,
- ĐẠN NỔ TRONG TÙ CẢI TẠO LONG KHÁNH!!!
{RIVER BRIDGE KWAII OF SOUTH VIETNAM}
Huynh Mai St.8872
http://www.calameo.com/books/00057558823a02570b8cd

- VƯỢT BIỂN TRÊN ĐÓNG XƯƠNG TÀN!
Huỳnh Mai St.8872
http://en.calameo.com/books/000575588237e16375b65

Quan niệm & tư tưởng: KHÔNG BAO GIỜ HÒA HỢP- HÒA GIẢI VỚI CSBV VÀ VC.MTGPMN
— tại trại tù cộng sản: Tây Ninh- Suối Máu- Long Khánh V.v...
Hình ảnh




Hình ảnh: Đã thêm một sự kiện trong đời từ ngày 1 tháng 5 1975 vào nhật kí của anh ấy: TÙ BINH CẢI TẠO- QL.VNCH.
Hồi Ký đời cải tạo,
- ĐẠN NỔ TRONG TÙ CẢI TẠO LONG KHÁNH!!!
{RIVER BRIDGE KWAII OF SOUTH VIETNAM}
Huynh Mai St.8872
http://www.calameo.com/books/00057558823a02570b8cd

- VƯỢT BIỂN TRÊN ĐÓNG XƯƠNG TÀN!
Huỳnh Mai St.8872
http://en.calameo.com/books/000575588237e16375b65

Quan niệm & tư tưởng: KHÔNG BAO GIỜ HÒA HỢP- HÒA GIẢI VỚI CSBV VÀ VC.MTGPMN
— tại trại tù cộng sản: Tây Ninh- Suối Máu- Long Khánh V.v...
Hình ảnh
Thích · · 54 phút trước ·




































"HÒA HỢP HÒA GIẢI DÂN TỘC KHÔNG!?"
 
Ngày Quốc Hận 30-4-2013, Người dân trong nước lẫn nước ngoài- Cộng đồng Người Việt Quốc Gia, tỵ nạn cộng sản bớt tính gây gắt, xung đột ý thức hệ Cộng Sản & Tự Do sau 38 năm đổ nát quê hương; chia rẻ, hận thù dân tộc và trở thành mộ tổ quốc cộng sản ngoại lai mất tính dân tộc. gây nên biết bao oán hờn, hận thù ...!!!
Người ta nghĩ đến " Hòa hợp hòa giải dân tộc" là liệu pháp chữa lành bệnh chiến tranh. Nhưng không thể nào, vì Việt Nam là con bệnh trầm kha, hết thuốc trị, chỉ chờ chết, mà thôi!, không muốn từ bỏ; cố bám quyền lực và địa vị thuộc quyền Tàu Cộng, là tay sai thái thú Đảng CSVN.
Hòa hợp hòa giải dân tộc, là tự tính, sẵn có của dân tộc Việt từ ngàn xưa cùng huyết thống Lạc Hông. Nay thì không có gì phải HHHG với nhau, nếu thực tâm Đảng CSVN biết hối lỗi và đã sai lầm yêu nước là yêu CNXH VN, do Đệ Tam Quốc Tế HCM đề ra, dể đi theo chủ thuyết ngoại lai Cộng Sản Mac-Lenin.
Đảng cầm quyền độc tài CSVN hãy biết tự xử, và hành xử có trách nhiệm với lương tri dân tộc quá khổ đau và sắp bị Tàu Cộng nô lệ hóa Việt Nam, của kẻ thù truyền thống xâm- Giặc Tàu phương Bắc- và Hãy dẹp bỏ điều 4 hiến pháp- Bỏ ngay độc tài Đảng trị- tức là trao trả lại quyền tự quyết; tự chủ cho nhân dân, để người dân được quyền lập hiến, lập pháp, chọn cho mình một thể chế Tự Do- Dân Chủ có quốc tế LHQ giám sát công bằng. Không cần phải Hòa Hợp Giãi Hòa dân tộc, thì tự bản chất sinh tồn dân tộc phải kết đoàn lại với nhau, để chạy theo và đuổi kịp nền văn minh phát triển, tiến bộ thế giới..
" Hòa Hợp Hòa Giải " là kết quả Năng Lựợng của thời gian, nó được hình thành bởi Động Năng của tích lũy hành động; việc làm sai trái trong quá khứ của thời gian. Năng lượng này tồn động trong không gian và thời gian, và mãi không thay đổi hay tan biến, và luôn luôn tìm cách giải phóng năng lượng này vào thời gian, không gian thích hợp.
Có thể 38 năm sau 1975- 2013 , hành động " Giải Phóng " biến thành Động Năng " Chiếm Đóng " Tùy theo tâm thức và ý thức trách nhiệm với dân với nước của người Cộng Sản " Tự Diễn Biến Hòa Bình " đạp đổ lẫn nhau...Không thể nào lấy ' Hòa Hợp Hòa Giải " mà đánh lừa quá khứ của thời gian vì nó hàm chứa Động Năng của hành động bán nước hại dân; hèn với giặc, ác với dân của CSVN.
 GIẢ TỪ VŨ KHÍ {Trường Vũ }
  Kỷ niệm Quốc hận VN- 30-4-1975 - 2013
 " Gãy Súng Tan Hàng "- Chiến sĩ QL.VNCH

 http://youtu.be/fA4lAheatJw 
                                           
                                   
            Huỳnh Mai St.8872
Đại Úy- Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH
 Sĩ quan Cải Tạo Miền Nam VN
    {Gãy súng...Tan hàng!!! }

GÃY SÚNG ...!

Kính thưa quý niên trưởng,
Kính thưa quý huynh trưởng,
Kính thưa quý chiến hữu,

Dòng thời gian xuôi chảy và đẩy lùi dĩ vãng xa dần, nhưng ở một thời điểm nào đó ... nó lại mang dĩ vãng ngược trở về trong ký ức của chúng ta. Những ngày Xuân tha hương đã lặng lẽ qua đi ... Tháng Tư đến ... một tháng tư của máu và nước mắt từ 36 năm trước lại trở về trên bước đường lưu vong, viễn xứ ... Một trang sử tang thương của Quân-Dân-Cán-Chính VNCH nói chung, những người đã từng mang sáu chữ cao qúy "Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm" trên vai nói riêng. Dù dòng dĩ vãng trôi xa nhưng mỗi độ tháng tư đến ... những người của một thời bi hùng làm sao không gượng nén đau thương đi vào vùng ký ức sống lại giây phút bàng hoàng của từng mạch máu chực vỡ toang, uất hờn theo mỗi nhịp đập con tim, một tiếng thét vang muốn vỡ tung lồng ngực hoặc nghẹn không thốt nên lời khẽ buông tiếng thở dài xót xa xé nát cõi lòng... ngày 30/04/1975 tang thương ... "Gãy Súng" !

Khoác vào mình bộ quân phục làm Người Lính gìn giữ quê hương là chấp nhận những gì gian nan, cực khổ, hiểm nguy nhất ngay cả hy sinh tánh mạng ... Gói trọn cuộc đời trong chiếc áo trận phủ dày bởi khói lửa sa trường để bảo vệ Tổ Quốc là chấp nhận gãy súng được hiểu theo nghĩa của lính là đáp đền nợ nước. Hai mươi năm chinh chiến đã có biết bao nhiêu Người Lính VNCH gãy súng xong nợ xương máu không trở về hoặc trở về im lìm trong hòm gỗ cài hoa hay gởi lại một phần thân thể trên chiến trường ...! Nhưng lần gãy súng sau cùng là nỗi đớn đau, uất nghẹn không thốt nên lời ... Năm vị tướng lãnh cùng một số "Quân-Cán-Chính VNCH" các cấp đã bày tỏ sự uất nghẹn này bằng ly rượu độc, bằng viên đạn bắn vào đầu, vào tim, bằng những quả lựu đạn chết tập thể để bảo vệ "Danh Dự" của kẻ chinh nhân, của tập thể Quân Lực VNCH và cũng để bảo toàn "Chính Nghĩa" của lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ; Những Người Lính còn lại không trở về bằng poncho buồn phủ kín đời anh hay khập khễnh nạng gỗ giã từ vũ khí hoặc lắng yên u buồn trên chiếc xe lăn xa rời chiến trận ... Họ trở về bằng một thể xác dật dờ với muôn ngàn mảnh vỡ của tâm hồn, trở thành một người mất nước ngay chính trên quê cha, đất mẹ ...!

Hai mươi năm nuốt vội cơm khô, gạo sấy để người dân hậu phương có bát cơm trắng thơm ngon ... Hai mươi năm uống từng ngụm nước sông hồ kinh rạch để giòng nước mát ngọt ngào trong từng mạch sống của người dân ... Hơn bảy ngàn đêm giấc ngủ chưa tròn ... Người Lính chỉ mong đem giòng máu thắm của mình dập tắt khói lửa binh đao, ước mơ một ngày nào đó chiến chinh tàn để quê hương không còn rách nát, người dân được vui sống trong cảnh thanh bình. Ngày 30/04/1975 tàn cuộc chiến ... nhưng nó không tàn như mơ ước nhỏ nhoi, hiền hòa của Người Lính ... nó tàn bằng sự tang thương trên đỉnh tang thương, sâu thẳm dưới tận đáy vực sâu của thống khổ, mỗi một mạch nước trong lòng đất mẹ đã trở thành những giòng máu đỏ tuôn chảy ngày đêm trong 36 năm, người dân đã khóc bằng máu hơn 1/3 thế kỷ ...!

Những mơ ước đơn sơ sau ngày chiến chinh tàn, trở về quê tìm tuổi thơ mất hôm nao, vui cùng ruộng nương cùng đàn trâu hay tìm thăm bạn bè đang ngủ say trong nghĩa trang buồn ... mãi mãi là mơ ước không bao giờ đến trong thiên đường cộng sản. Trả súng đạn này khi sạch nợ sông núi rồi ... ôi xót xa nghẹn trong hơi thở ! Chưa sạch nợ sông núi, súng đạn cũng chưa trả, nhưng bị gãy súng tang thương. Ngày tàn chinh chiến, Người Lính VNCH được kẻ chiến thắng "khoan hồng" bằng gông cùm, xiềng xích và "hộ tống" bằng những khẩu AK 47 sẵn sàng khạc đạn trên những chiếc xe bít bùng, lén lút lao đi vùn vụt trong màn đêm đen tang tóc hoặc bị nhét vào trong các hầm tàu chật chội không đủ không khí để thở ... đưa vào các trại tù khổ sai trên hai miền Nam Bắc, bị cưỡng bức trở thành những tử tội, bị hành hạ tra tấn độc ác, dã man bởi lũ quỷ đội lốt người mạo danh đi "Chống Mỹ cứu Nước". Sau ngày tàn chinh chiến, cha mẹ già run run còng lưng chống gậy dìu nhau lần mò ra đứng nơi đầu ngõ mỗi ngày với những dòng lệ trào tuôn, mỏi mòn hơi thở trông ngóng đứa con yêu đang chết dần mòn ở một địa ngục máu nào đó trên quê hương ; Người vợ hiền với thân xác hao gầy, thống khổ, lam lũ ôm những đứa con thơ đói khát, trông chờ ngày đoàn tụ sau "1 tháng học tập" của chồng, của cha trong thiên thu, tuyệt vọng ... Vợ con của người tù bị lũ cướp nước bóp nghẹt sự sống, thoi thóp trong lý lịch gia đình "ngụy quân, ngụy quyền", bị chiếm đoạt nhà cửa, bị "giải phóng" thêm lần nữa vào tuyệt lộ "Vùng Kinh Tế Mới" nơi rừng sâu, nước độc.

Những người tù may mắn còn sống sót trở về từ địa ngục "Trại Cải Tạo" đã bị bọn cộng sản giam lỏng trong nhà tù lớn với cái án tử to tướng "NGỤY" trong hồ sơ lý lịch. Sau thời gian dài bị giam cầm, xiềng xích, tra tấn, bỏ đói, cưỡng bức lao động ... người tù trở về bằng cái xác chết biết đi, hình hài kiệt quệ, tiều tụy, bệnh hoạn ... nay phải mang thêm bản án tử hình treo dưới sự quản chế của lũ bạo quyền địa phương. Những cái xác chết biết đi này chật vật tìm những việc làm lao động chân tay quá sức để mua lon bo-bo, củ khoai, bó rau phụ tiếp cầm hơi cho gia đình trong chính sách "hộ khẩu" bóp bao tử người dân của lũ bạo quyền đỉnh cao ngu dốt nhưng huênh hoang, ngông cuồng không ngượng mõm láo phét tự xưng là "đỉnh cao trí tuệ".

Hằng năm cứ mỗi lần tháng tư đến là cả một quá khứ tang thương, chua xót lại hiện về, trong khi Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản ở khắp nơi trên thế giới tổ chức tưởng niệm ngày "Quốc Hận", ngày đại tang của quê hương trong bầu không khí trang nghiêm, đau buồn xen lẫn lòng sôi sục căm hờn, hừng hực khí thế đấu tranh trên con đường vong quốc, thì trong nước lũ bạo quyền CSVN cướp nước lại tưng bừng tổ chức rầm rộ ngày chiến thắng "Giải phóng Miền Nam". Hơn 1/3 thế kỷ trôi qua, bọn chúng càng đào sâu thêm hố "thù hận" đối với những người thuộc chế độ VNCH, những thương phế binh VNCH chỉ còn lại tấm thân phế tàn sống lê lết trong khói xe, bụi đường vẫn còn bị đối xử tàn tệ, bị chà đạp bên lề cõi sống. Lũ cộng sản độc ác chẳng những hèn hạ trả thù người sống mà bọn chúng còn đê tiện trả thù đối với người đã chết bằng cách dã man tàn phá Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, tàn nhẫn giẫm lên những nắm xương tàn, những xác chết vô tri không còn lòng thù hận. Thế mà bọn chúng gian xảo luôn mồm lải nhải kêu gọi người Việt tị nạn cộng sản nơi hải ngoại xóa bỏ hận thù, hòa hợp, hòa giải.

_"Giải phóng, Hòa bình, Thống nhất đất nước" chỉ là những tấm bình phong của lũ CSVN dùng để che đậy sự cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam, nhuộm đỏ cả quê hương, bành trướng chủ nghĩa cộng sản vô thần, khát máu theo lệnh của quan thầy Nga Sô và Trung Cộng.

_"Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc" bị lũ bạo quyền cộng sản không tim óc, xảo trá dùng làm bình phong che đậy sự cai trị độc tài, bạo tàn, dã man, khát máu và ngu dốt.

"Trại Cải Tạo" là ngôi mộ máu, lò sát sinh của lũ CSVN dùng để tắm máu, trả thù, giết dần mòn và vùi chôn Quân-Cán-Chính VNCH.

"Vùng Kinh Tế Mới" là tử địa mà lũ cộng sản dùng để đày ải, giam lỏng người dân sau khi bị "giải phóng" hết tài sản, nhà cửa.

Những từ ngữ "bọn phản động, ma cô, đĩ điếm, bám chân đế quốc ăn bơ thừa sữa cặn" đã được lũ cộng sản mặt dày gian trá, lật lọng, nham hiểm, trơ trẽn trau chuốt lại thành những viên ma túy bọc đường "Việt kiều yêu nước, khúc ruột ngàn dặm" dành cho những kẻ mê muội, loạn trí, bán rẻ lương tâm, cúi đầu nhận giặc làm cha ... những kẻ mở mắt ngủ mơ trên tấm thảm nhung đỏ nhuộm máu dân Việt trong "thiên đàng cộng sản".

Cuộc chiến VN đã bị các thế lực chính trị thế giới dàn xếp kết thúc tang thương vào năm 1975, một sự dàn xếp bất công, tàn nhẫn đối với người lính VNCH, Quân Dân Cán Chính của Miền Nam Việt Nam nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung. Trận chiến quân sự năm 1975 đã chấm dứt hai mươi năm binh lửa trên đất nước Việt Nam trong cuộc chiến "Quốc-Cộng" còn dang dở, trang sử máu đã được lật qua ba mươi sáu năm nhưng không lắng đọng im lìm cuối đáy dĩ vãng, không rơi vào quên lãng. Ngày 30/04/1975 ngừng tiếng súng nhưng máu và nước mắt dân Việt vẫn tuôn rơi trên con đường dài 1/3 thế kỷ dưới nền hòa bình trong nô lệ bởi thảm họa cộng sản. Một cuộc chiến khi kết thúc thì được phân định rõ ràng kẻ thắng, người bại, nhưng chúng ta không thể đem chuyện thắng bại luận anh hùng ... những kẻ chiến thắng năm 1975 chẳng những đã không được xem là anh hùng mà còn bị toàn dân phỉ nhổ, kinh tởm, kết án là lũ cướp nước, là thiên cổ tội nhân trong dòng sử Việt, trái lại những người "thua cuộc" chẳng những không nhục mà còn được vinh danh là những anh hùng ngàn đời trong lòng dân tộc, những đứa con yêu quý, bất tử của quê hương mẹ Việt Nam. Cuộc chiến quân sự hai mươi năm trên quê hương Việt Nam đã trôi vào quá khứ 36 năm, nhưng nó vẫn chưa kết thúc vì quá khứ chỉ là một khúc quanh của dòng lịch sử thăng trầm xuôi chảy theo dòng thời gian bất tận của tạo hóa ; Lịch sử không có trang cuối thì ngày 30/04/1975 chỉ là một trang sử lật qua, khép lại 20 năm khói lửa, mở đầu cho sự tang thương, thống khổ của dân tộc Việt Nam bởi thảm họa cộng sản, chớ không khép lại kết thúc cuộc chiến ý thức hệ trên lằn ranh Quốc-Cộng. Sau cái ngày mà lũ CSBV trơ trẽn gọi là "giải phóng", chẳng những người dân mà ngay cả lũ tà quyền CSVN cũng biết rõ chính quyền VNCH thực sự vì dân, vì nước ... Người Lính VNCH mới thật sự là những người chiến đấu vì sự tự do của quê hương, dân tộc ... Sự thật này không thể chối cãi hay sửa đổi được.

Hai mươi năm chinh chiến, chúng ta biết sự hy sinh của Người Lính VNCH bằng những hình ảnh, tin tức chiến sự nóng bỏng gởi về từ chiến trường, những chiếc trực thăng sơn màu tang trắng, những chiếc xe tải thương hú còi inh ỏi trên đường phố, chúng ta chứng kiến và cảm nhận được sự hy sinh của Người Lính qua hình ảnh những chiếc quan tài gỗ được phủ lá quốc kỳ, những thương bệnh binh thân thể đẫm máu, quấn đầy băng trắng nơi Tổng Y Viện Cộng Hòa hoặc các Quân Y Viện ... nhưng mấy ai hiểu được Người Lính nghĩ gì khi họ âm thầm bước trong bóng đêm dưới cơn mưa tầm tả nơi rừng sâu, núi thẳm, dưới cơn nắng cháy nung người, những kinh rạch bùn lầy nước ngập cả thân mình hoặc ôm súng lạnh căm nơi tiền đồn biên giới, vọng gác hẻo lánh để canh giữ quê hương ; Ngày 30/04/1975, chúng ta biết năm vị tướng lãnh cùng một số sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ các cấp đã quyên sinh, chúng ta nhìn thấy hình ảnh trung tá CSQG Nguyễn Văn Long tự sát dưới chân bức tượng Nguời Lính TQLC ... Chúng ta cảm nhận được sự uất nghẹn, tang thương của người chiến sĩ VNCH nhưng có ai hiểu rõ được tâm trạng của họ trong giây phút "gãy súng" ; Chúng ta biết sự đau đớn từ thể xác đến tinh thần mà Người Lính VNCH phải hứng chịu trong các trại tù "cải tạo" nhưng có ai biết được sự đau thương, xót xa đó đến mức độ nào ...!

Ngày 30/04/1975, chế độ VNCH sụp đổ nhưng không bị vùi chôn.

Ngày 30/04/1975, Người Lính VNCH "gãy súng" nhưng không tan hàng.

Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ "Chính Nghĩa" của Tổ Quốc, của Hồn Thiêng Sông Núi, của Người Việt Quốc Gia vẫn còn đây, ngạo nghễ tung bay phất phới trên con đường đấu tranh ở khắp mọi nơi trên thế giới tự do.

Người Lính VNCH đem tấm thân nhỏ bé hứng chịu hằng triệu quả đạn pháo, hằng tỷ viên đạn đủ loại của khối cộng sản quốc tế được sử dụng bởi lũ CSVN trong hai mươi năm dài chinh chiến ... Người Lính VNCH vẫn hiên ngang sừng sững trước quân thù.

Người Lính VNCH bị lũ CSVN hành hạ, tra tấn chết đi sống lại bao nhiêu lần trong những năm dài nơi cuối đáy địa ngục máu "Trại Cải Tạo"... Người Lính VNCH vẫn sống.

Người Lính VNCH bị lũ giặc đê tiện, hèn hạ, dã man bóp nghẹt sự mưu sinh ngoài xã hội với con dấu tử to tướng "NGỤY" ... Người Lính VNCH vẫn sinh tồn.

Người Lính VNCH vẫn còn đây ; Dân tộc Việt Nam kiêu hùng yêu nước vẫn còn đây.

Ngày 30/04/1975 là ngày toàn dân Việt Nam tròng bản án "Tử" vào cổ đảng CSVN với ba tội danh lớn nhất "Diệt chủng, Đưa dân tộc vào địa ngục trần gian và Phản Quốc". Bản án này sẽ được thi hành trong một ngày gần đây trước "Đại Tòa Án Nhân Dân", trước bàn thờ Hồn Thiêng Sông Núi.

_Chúng tôi nhắc lại quá khứ để tiếp tục lên án, tố cáo tội ác của đảng cướp CSVN đã gây nên sự thống khổ, tang tóc cho cả dân tộc từ quốc nạn 30/04/1975, ngày mà lũ quỷ đỏ cướp nước, trơ trẽn gian trá gọi là ngày "giải phóng", ngày "cách mạnh thành công".

_Chúng tôi nhắc lại quá khứ để nói lên sự độc ác của lũ quỷ đỏ CSVN dã man sống bằng nước mắt và máu của người dân ; Lũ tội đồ CSVN chỉ biết sống hưởng thụ bằng cách dùng bạo lực cướp của người dân, cướp tài sản quốc gia, tham nhũng và bán đất nước cho quan thầy Tàu Cộng để trở thành những tên tư bản đỏ nhuộm đầy máu tanh.

_Chúng tôi nhắc và ghi lại sự thật về trang sử máu dĩ vãng, một sự thật mà lũ bạo quyền CSVN nham hiểm đã bóp méo, sửa đổi, bôi xóa để nhồi nhét vào đầu óc thế hệ trẻ những trang sử hoang đường, gian trá.

_Chúng tôi nhắc và ghi lại một biến cố tang thương của dân tộc từ đại họa "giải phóng" bởi lũ người cộng sản vô thần, khát máu, không tim óc để nhắc nhớ và lưu lại cho thế hệ hậu duệ ngày "30/04/1975" là ngày "Quốc Hận", ngày "đại tang" của dân tộc Việt Nam.

_Chúng tôi nhắc lại dĩ vãng để Tri Ân những người đã hiến dâng cuộc đời, sinh mạng, một phần thân thể bảo vệ hai chữ "Tự Do" cho Miền Nam Việt Nam. Chúng tôi cũng chân thành cảm ơn người dân Miền Nam đã cùng Người Lính VNCH hứng chịu thảm họa chiến tranh do tên tội đồ Hồ Chí Minh và đảng vô thần thổ phỉ CSVN gây nên. Chúng tôi cũng xin được chia sẻ những nỗi đau mất mát tang thương của người dân trong và sau cuộc chiến bởi thảm họa cộng sản.

Chúng tôi nhắc lại dĩ vãng là để gom đau thương biến thành sức mạnh đóng góp công sức rút ngắn con đường đấu tranh giải thể, khai tử lũ bạo quyền CSVN. Bọn bạo quyền CSVN nhất định phải sụp đổ để đền tội với quê hương, dân tộc ... Ngày đó sẽ không xa và thê thảm gấp trăm ngàn lần ngày 30/04/1975.

Người Lính VNCH "gãy súng" ... quê hương bị cưỡng bức đổi chủ, thay tên ... Ba triệu người Việt sống lưu vong trên khắp thế giới ... khoảng gần một triệu người Việt ngủ yên dưới lòng biển cả, hằng ngàn người rã xác trên đường bộ vượt biên ... Thanh niên, thiếu nữ bị những kẻ "giải phóng" bán làm nô lệ lao động nơi xứ người và hằng ngàn ngàn phụ nữ Việt Nam bị lũ thú cộng sản cấu kết với bọn "dâm thương" lột trần truồng cho người nước ngoài ngắm nghía, sờ soạng chọn lựa trước khi bị bán làm nô lệ tình dục nơi đất lạ quê người ... Trên 80 triệu người dân phải nuốt nước mắt uất nghẹn, căm hờn kéo lê kiếp sống nô lệ thống khổ, thoi thóp, tang thương dưới sự cai trị độc tài, bạo tàn, khát máu của lũ người cùng màu da mang danh "giải phóng", một lũ độc ác, ươn hèn, nhu nhược bán nước và hại dân.

Người Lính VNCH Tưởng Niệm Quốc Hận lần thứ nhất, mái tóc còn xanh ... lần thứ 36, mái tóc bạc phơ, kẻ còn, người mất ... và còn phải tưởng niệm bao nhiêu lần "Quốc Hận" nữa trên xứ lạ, quê người hay là mãi mãi ...! Dĩ vãng tang thương của một lần "gãy súng" đã trôi xa 36 năm vào dòng thời gian ... nhưng dòng tiềm thức của Người Lính VNCH vẫn âm thầm luân chuyển quặn thắt từng cơn trong từng mạch máu, từng hơi thở, nỗi đau "gãy súng" vẫn đong đưa uất hờn theo mỗi nhịp đập của con tim hơn 1/3 thế kỷ. Khóe mắt của những người lính già xa quê hương, những "KBC" mang vết thương lòng đớn đau âm thầm trong kiếp sống vong quốc ngay chính trên quê hương ... rưng rưng những giọt xót xa, tang thương, uất nghẹn mỗi khi nói hay nghe nhắc đến hai chữ "Gãy Súng" ...!

Hai mươi năm dài chinh chiến ... Người Lính VNCH chưa hề chùn bước trong cơn bão lửa chiến tranh do tên "thiên cổ tội nhân" Hồ Chí Minh và bọn vô thần, bệnh hoạn CSBV gây nên. Người Lính VNCH đánh tan tác, giáng những trận kinh hồn trên đầu giặc, làm bạt vía quân thù trên khắp các mặt trận lớn nhỏ. Nhưng ... trận chiến năm 1975, Người Lính VNCH bị trói tay "bức tử" trở thành kẻ thua cuộc ... Người Lính VNCH không thua trên chiến trường, trên quê hương mà bị thua tại Quốc Hội Hoa Kỳ ... Người Lính VNCH không buông súng mà bị "gãy súng" vì quyền lợi của người bạn đồng minh ... Đó là nỗi đau đớn, uất nghẹn của Người Lính ... đớn đau trong tận cùng của đau đớn ... uất nghẹn trên chót vót đỉnh tang thương của uất nghẹn ...! Những ai đã từng khoác chiến y mới thấm thía nỗi uất nghẹn không thốt nên lời này ... Có người đã cắn môi đến chảy máu dồn sự uất nghẹn đó bật khỏi bờ môi như viên đạn cuối cùng bay ra khỏi nòng súng vang lên hai tiếng Đ.M ...!

Người Lính VNCH ôm nỗi "uất nghẹn" gãy súng, ray rức tâm hồn, đau đớn cõi lòng cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. 36 năm trôi qua, chưa có từ ngữ nào và cũng chưa có ai kể cả những người bị bức tử diễn tả được trọn vẹn sự "uất nghẹn" này. Người viết bài này cũng như tất cả những người một thời khoác chiến y dùng sinh mạng bảo vệ hai chữ "Tự Do" cho Miền Nam Việt Nam, ngẩng cao đầu nói một câu "Người Lính VNCH bị bức tử gãy súng chớ không hèn nhát buông súng xuôi tay trở thành kẻ thua cuộc".

Trân trọng kính chào.

Tưởng Niệm Quốc Hận lần thứ 36.
"Mũ Đen" Hoàng Nhật Thơ.

 




Tưởng Nhớ Nhà Thơ Tạ Ký


    


https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiAgHfqdsw4qYOHK33RLf4qkehm44FFDYLTr7k1uqnp5EIxJjrE21n60pil4RyEFc5L30g4gQdFCIWEWNEJ2QUoKILKS2Vcq0bjj9Qh8OgPZvbj19JbX82MEmwjijgw4GOvV8i5cWydxl9G/s1600/18082011197_1(2).jpg
Tập hồi ký
Đạn Nổ Trong Tù Cải Tạo Long Khánh!!!
{RIVER BRIDGE KWAII OF SOUTH VIETNAM}
Tác giả: Huỳnh Mai St.8872
Bh: Dạ Lệ Huỳnh
http://vietnamesebooks.blogspot.com/2011/03/no-trong-tu-cai-tao-long-khanh-huynh.html

 Mai Nguyễn Huỳnh đã chia sẻ trạng thái của Thang Pham.

KHÓC CHO NGƯỜI NĂM XUỐNG!
Một nén hương lòng tưởng nhớ đến anh Tạ Ký- Một người tù, một nhà thơ chịu nhiều bất hạnh thương đau giữa dòng đời quên lãng, khi tiếng nói Tự Do bị bóp nghẹt trong nhà tù Cộng Sản VN, với các tù binh cải tạo QL.VNCH
Cúi đầu khấn nguyện hương hồn anh Tạ Ký được sớm về vùng đất trời...niêm viễn Tư Do! của "Vùng 5 Chiến Thuật "- Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa- QL.VNCH


*Thêm ghi chú- Tôi và nhà thơ Tạ Ký là bạn đồng tù cải tạo, cùng phòng và sát giường nhau. nên biết tính khí nhà thơ còn nặng lòng yêu nước!

“Cúi Xuống”:

…Cúi xuống nhìn hòn sỏi
Hòn sỏi nhìn trời cao
Cúi xuống nhìn luống cải
Luống cải nhìn ông sao
Cúi xuống nhìn cục đất
Cục đất nằm im lìm
Cúi xuống nhìn ngọn cỏ
Ngọn cỏ đợi sương đêm
…..
Cúi xuống nhìn ngón cẳng
Ngón cẳng dài thêm ra
Bàn chân có năm ngón
Ngón nào riêng của ta ?
…..
Cúi xuống thêm chút nữa
Gục trên đầu gối mình
                  Thơ- Tạ Ký

Huỳnh Mai St.8872

Đồng tù cải tao chung cạnh anh!



Tưởng Nhớ Nhà Thơ Tạ Ký
Phong Châu


Sài gòn năm giờ chiều. Sau cơn mưa lớn trời dịu hẳn lại. Những tàn lá xanh của hàng cây sao được giũ lớp bụi lại càng xanh hơn làm cho không khí ban chiều trở nên dễ chịu. Tôi đang cặm cụi vá ruột xe đạp cho một khách quen thì nghe có tiếng xầm xì ở phía sau lưng. Quay lại nhìn lên thì thấy Tôn Thất Trung Nghĩa với cái miệng mom móm và nụ cười dễ thương đang nhìn xuống tôi. Thoáng thấy đôi mắt của Tôn Thất Trung Nghĩa nhìn tôi hơi là lạ như muốn nói với tôi điều gì đó. Đứng bên cạnh Tôn Thất Trung Nghĩa là một người, không phải là một ông già nhưng tóc đã bạc trắng, người nhỏ thó, khuôn mặt hơi xương có đôi mắt sáng nhưng lộ vẻ lo âu. Tôn Thất Trung Nghĩa không nói gì, ra dấu cho tôi tiếp tục công việc.Tôi nhìn người đàn ông khẻ gật đầu chào. Tôn Thất Trung Nghĩa kéo thùng đạn garant đựng đồ nghề của tôi vào sát bức tường loang lổ và ngồi xuống. Người đàn ông đứng dựa lưng vào tường. Tôn Thất Trung Nghĩa móc trong túi vải màu xanh gói thuốc rê ra vấn bằng mẩu giấy báo. Nghĩa một điếu, người đàn ông một điếu. Họ nói chuyện gì đó nho nhỏ với nhau tôi không nghe được.

Khoảng mười phút sau tôi vá xong ruột xe, lắp vào và bơm. Tôi bỏ đồng bạc giấy vào túi, nhặt miếng giẻ dính dầu mỡ lâu ngày lau vội hai bàn tay bẩn rồi đi đến trước mặt Tôn Thất Trung Nghiã và người đàn ông.Tôn Thất Trung Nghĩa cười, vẫn cái miệng mom móm và nụ cười dễ thương quay nhìn người đàn ông đứng bên cạnh và nói: “đây là Châu, như tôi đã nói với anh, một đứa em rất dễ mến, đang lao động theo kiểu xã hội chủ nghĩa để kiếm cơm…”. Lối nói của Tôn Thất Trung Nghĩa lúc nào cũng pha chút giễu đùa. Tôn Thất Trung Nghĩa chỉ nói vậy thôi. Người đàn ông nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hình như có chút gì thương hại. Không biết thương hại cho tôi hay thương hại cho anh, cho Tôn Thất Trung Nghĩa và cho cả bao nhiêu bè bạn đang ngơ ngác lang thang khắp các vỉa hè Sàigòn. Người đàn ông bắt tay tôi siết mạnh và giữ một hồi lâu. Tôn Thất Trung Nghĩa đứng lên nhìn tôi nói tiếp: “Và đây là Tạ Ký, bạn của tao vừa đi tù ra”. Người đàn ông mà Tôn Thất Trung Nghĩa vừa giới thiệu là Tạ Ký không nói gì cả, cũng không thấy cười nhưng sao tôi cảm giác rằng anh đã nói và nói nhiều trong cái bắt tay siết mạnh vừa rồi. Tôn Thất Trung Nghĩa lại móc trong túi xách gói thuốc rê vấn hai điếu, đưa cho Tạ Ký một điếu và tôi một điếu. Tôn Thất Trung Nghĩa vấn thêm một điếu nữa cho mình. Tôi lấy bật lửa châm thuốc lần lượt cho cả ba. Tôi cũng không biết phải nói gì trước người đàn ông có tên Tạ Ký vừa mới quen. Nhưng ký ức của tôi hình như cũng bắt đầu làm việc với cái tên nghe quen quen này. Sau khi hít vài hơi cho khói vào tận phổi, Tôn Thất Trung Nghĩa vỗ vai tôi nói: “Tao đưa Tạ Ký đến thăm mày một chút, bây giờ hai đứa tao phải đi thăm mấy thằng bạn nữa, chiều mai hai đứa tao sẽ đến đây và tụi mình sẽ đi làm một xị…”. Nói xong Tôn Thất Trung Nghĩa dắt xe đạp xuống lòng đường. Tôn Thất Trung Nghĩa với thân hình to lớn, ngồi trên chiếc xe đạp ọp ẹp thấy mà tội cho cả xe lẫn người. Tạ Ký ngồi đằng sau dáng nhỏ thó, co rúm như con ếch khô. Đôi mắt anh hình như còn quá xa lạ với thành phố Sàigòn sau mấy năm trong trại tù cộng sản. Một cơn gió nhẹ thoảng qua, vài chiếc lá xoay xoay trong khoảng không rồi rơi nằm trên mặt đường. Tôn Thất Trung Nghĩa và Tạ Ký đi rồi tôi thấy buồn buồn nên thu dọn đồ đạc, buộc thùng đạn garant đựng đồ nghề sau xe và đạp về nhà. Trời cũng vừa sụp tối.

Tôi biết về Tạ Ký rất ít qua một số bài thơ của anh đăng trên báo dạo trước ở Sàigòn. Tôn Thất Trung Nghĩa sau đó có kể nhiều lần cho tôi nghe về Tạ Ký. Sau này mỗi khi có cơ hội chỉ một mình anh và tôi, Tạ Ký kể chuyện về đời anh cho tôi nghe. Không biết nhận ra điều gì nơi tôi khiến Tạ Ký gửi gấm cho tôi một ít tâm sự về đời anh trong khi tôi là người bạn nhỏ tuổi nhất trong số các bạn bè của anh. Hơn nữa, tôi lại là người mới được quen anh sau này. Đã từ lâu Tôn Thât Trung Nghĩa và Tạ Ký là đôi bạn tri kỷ. Hai người lúc nào cũng bên nhau như hình với bóng. Hai người đều là giáo sư của nhiều trường trung học tại Sàigòn. Tôn Thất Trung Nghĩa dạy môn vạn vật còn anh Tạ Ký dạy văn chương.Tạ Ký cũng là một sĩ quan quân đội, có dạo anh lên dạy tại trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ở Đà Lạt, lúc đó anh cũng có dạy thêm ở một vài trường tư thục trong đó có trường Việt Anh của giáo sư Lê Phỉ và vợ của Tạ Ký là học sinh của trường này. Tôn Thất Trung Nghĩa sau dạy tại trường Sư Phạm Sàigòn cho đến khi đi du học ở Ý và trở về trình luận án tiến sĩ luật và được dạy tại đại học luật khoa Sàigòn về môn toán kinh tế. Tôn Thất Trung Nghĩa và Tạ Ký là đôi bạn chơi thân với nhau vì cả hai có tính nghệ sĩ ngông nghênh bất cần đời mà nhiều bạn bè biết đến. Nơi hẹn hò thường xuyên của hai người là một cái quán nhỏ nằm trong một góc bên trong chợ Đũi. Chợ Đũi nằm ngay ngả tư Trần Quý Cáp và Lê Văn Duyệt, nơi đoạn đường có hai hàng me xanh quanh năm. Chính nơi quán nhậu bình dân này, Tôn Thất Trung Nghĩa là nguồn cảm hứng cho Tạ Ký trong một số bài thơ được in trong tập “Sầu Ở Lại”. Trước 1975, đối với tôi, cái tên Tạ Ký chẳng có gì là đặc biệt so với tên của các nhà thơ như Bùi Giáng hay Nguyễn Đức Sơn là những nhà thơ có nhiều nét riêng hết sức đặc biệt mà giới văn học Miền Nam Việt Nam thường nhắc tới như những nhà thơ “điên điên”. Anh sống giữa thủ đô Sàigòn, dạy học, làm thơ, nhậu nhẹt với bạn bè, thích cá độ đua ngựa và vô số nữ sinh mê anh qua những bài thơ anh đọc trong lớp cho họ nghe. Bạn bè của anh cũng thích thơ của anh. Trong tập thơ “Sầu Ở Lại”, nhiều bài thơ anh ghi tặng bạn bè, ngoài tên Tôn Thất Trung Nghĩa có những tên rất quen như Phạm Công Thiện, Thế Viên, Huy Trâm, Bùi Giáng, Trương Đình Ngữ, Hoài Khanh, Nguyễn Liệu, Lê Khắc Lý, Cao Thế Dung…Trong một bài thơ bốn câu với tựa đề “Tôn Thất Trung Nghĩa”, Tạ Ký viết:

Từng đêm chợ Đũi đẫm sầu
Ly la ve đổ gội đầu tóc xanh
Người sơn dã lạc kinh thành
Ngả nghiêng đáy cốc độc hành trong đêm

Tạ Ký ví Tôn Thất Trung Nghĩa như “Người Sơn Dã” thật không sai! Cũng trong “Sầu Ở Lại”, Tạ Ký đề tặng và ghi nhận hình ảnh của Tôn Thất Trung Nghĩa trong thơ của mình nhiều hơn bất cứ một người bạn nào khác. Tôi nhiều lần nghe anh đọc thơ, những bài thơ tình, những bài thơ nói về thực trạng xã hội mà anh đang sống, những bài thơ nhắc lại thời kỳ son trẻ, thời kỳ anh chưa nhận chân ra những thực tế phũ phàng khi đa số thanh niên đi theo kháng chiến để rồi mộng vỡ tan tành. Anh nói anh “bị mắc lừa” từ những năm anh mười tám đôi mươi. “Sầu Ở Lại” được giới thiệu với bạn bè vào cuối thập niên sáu mươi và do bạn bè “xúi”, “Sầu Ở Lại” được gửi dự thi giải văn học toàn quốc và đã nhận được giải nhất vào đầu thập niên bảy mươi. Theo lời kể của Tôn Thất Trung Nghĩa thì sau khi nhận được một số tiền thưởng từ giải văn học, Tạ Ký ới bạn bè đến chợ Đũi đãi anh em liền mấy chầu và số tiền còn lại đủ để trả nợ vòng vòng các quán nhậu mà anh đã có sổ ghi. Những lần ăn độ đua ngựa, anh nhét tiền đầy trong áo sơ mi, leo lên xích lô về chợ Đũi rồi ới bạn bè đến nhậu suốt đêm và đọc thơ cho bạn bè nghe.

Như đã nói ở trên, Tạ Ký là một nhà giáo nhưng anh không có mấy cái dáng dấp của nhà mô phạm. Với bản chất là một nghệ sĩ, một người ưa phiêu bạc, anh có rất nhiều bạn bè, yêu mê đến cuồng nhiệt cái “chân thiện mỹ” mà anh nói là “khó có được” lẫn những cái “xấu” đáng yêu mà anh bắt gặp rất nhiều. Anh có ký tặng tôi cuốn “Sầu Ở Lại” được in trên giấy hoa tiên. Tôi đọc đi đọc lại nhiều bài trong “Sầu Ở Lại” và thấy anh đã đánh mất một thời hoa niên vì theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc lên đường cứu nước, bỏ lại làng quê thân yêu “đất cày lên sỏi đá”. Đến khi bừng tỉnh thì thấy “mình” và “thế hệ của mình” bị lừa gạt quá nhiều. Anh thấy được bộ mặt lừa dối và thô bỉ của cộng sản nên ân hận và tìm cách cứu mình…Anh đã cùng với nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và vài người nữa vượt tuyến, băng qua sông Thu Bồn để về vùng Quốc Gia năm 1952…

…Mười tám tuổi, vải thô thay nhung lụa
Giày vỏ xe hơi mòn gót liên khu…
Để rồi:

…Khi ba mươi biết được chuyện xưa lầm
Thì đau khổ đã hằn trên trán nhỏ…

Cha mẹ và bà con của anh sống những năm dài dưới gót “dép râu” tại liên khu 5 trong vùng việt minh kiểm soát. Anh kể cho tôi nghe cơn lụt năm 1964 đã cuốn phăng nhà cửa và người mẹ của anh ra lòng biển cả, lúc đó anh đang ở Sài Gòn. Nhắc đến chuyện này anh ân hận vì không có mặt tại quê nhà để có thể cứu mẹ. Vợ của Tạ Ký hình như là một người có nhan sắc (tôi có thấy một lần trong nhà anh nhưng không thấy rõ mặt lúc tôi đưa anh về nhà sau khi bị công an phường bắt) và là học trò của anh lúc anh dạy ở trường Việt Anh – Đà Lạt của giáo sư Lê Phỉ. Sau tôi có hỏi giáo sư Lê Phỉ thì giáo sư cũng cho biết đúng như vậy. Có một điều đặc biệt là không bao giờ nghe anh nhắc đến vợ con trong lúc tâm sự với tôi. Tôn Thất Trung Nghĩa là người cho tôi biết vợ của Tạ Ký đã không còn yêu thương anh nữa sau khi anh đi tù về. Nhiều lần anh tâm sự sau khi đã uống ngà ngà và mặt đỏ gay, anh tỏ ý không vui về tính nết của vợ – và ngay cả lòng chung thủy, nhất là khi anh đang còn trong trại tù của cộng sản. Ở tù ra, anh vẫn trở về căn nhà cũ nhưng anh không còn điểm tựa. Anh trở thành một bóng mờ trong gia đình. Sáng sớm anh rời nhà ra đi mà chẳng biết đi đâu và làm gì. Anh chỉ biết tìm đến với bạn bè và theo họ lang thang khắp nơi trong thành phố. Sống trong thời kỳ hết sức ngột ngạt thì hầu như người đàn ông nào thuộc “chế độ cũ” cũng rời nhà vào mỗi buổi sáng để tránh những cặp mặt dòm ngó của công an và ngay cả với những người trong khu phố, trong phường. Bạn bè kéo đi đâu anh đi đó, từ các quán cà phê “vớ” trên các vỉa hè đến các quán nhậu rẻ tiền. Anh không biết đi xe đạp. Có tiền thì đi xích lô, không có tiền thì cuốc bộ. Nhà anh ở trong con hẻm đường Bùi Chu, góc Hồng Thập Tự. Sau khi đã biết tôi một thời gian ngắn, thỉnh thoảng một mình anh ghé đến “chỗ làm việc” của tôi trước cổng trường văn khoa cũ. Hai anh em nhâm nhi ly cà phê và hút vài điếu thuốc lá lẻ. Sau đó anh lại đi nơi khác, chẳng biết đi đâu. Cũng có nhiều lúc, anh ngồi chơi với tôi một lát thì Tôn Thất Trung Nghĩa đạp chiếc xe đạp cọc cạch tới. Thường thì Tạ Ký và Tôn Thất Trung Nghĩa ghé tôi vào buổi chiều mà hai anh nghĩ là tôi đã rảnh việc để kéo nhau đi làm một xị. Chúng tôi hay đến quán bà Năm Lửa ở đường Cao Thắng nằm sát đường xe lửa. Một hai xị, một hai dĩa nghêu ốc luộc, lúc nào có tiền thì thêm một con khô mực hay một con cua luộc nhỏ. Thế thôi. Tại đây tôi cũng được nghe về một thời vàng son của hai anh. Tôi là người chịu nghe chuyện nên Tạ Ký cứ mỗi lần cần tâm sự lại tìm đến tôi. Anh thủ thỉ với tôi những chuyện có thể tâm sự được. Biết hoàn cảnh của anh sau khi đi tù về, tôi có đề cập đến vấn đề vượt biên thì anh buồn bã nói…Đâu có tiền mà vượt biên…Bạn bè ai cũng thương anh nhưng không ai có thể đèo bòng cái chuyện nguy hiểm và tốn kém đó. Anh cũng biết như thế nên nói với bạn bè…ai đi được cứ đi, đừng thắc mắc gì về Tạ Ký này cả…

Tôi nhớ mãi một buổi sáng khoảng chín mười giờ anh đến chỗ tôi sửa xe đạp. Lúc này cũng là giờ cao điểm mà công an phường Dakao đi dẹp lòng lề đường tức là xua đuổi bắt bớ những người buôn bán hoặc làm những nghề “linh tinh” như nghề sửa xe đạp, sửa giày dép, bán vé số, bán cà phê… Khi thấy hai công an đang nhắm vào để “hốt” mớ đồ nghề của tôi thì anh đã nhanh tay chộp được cái ống bơm rồi chạy biến đi nơi khác. Tôi thấy anh chạy về phía đường Hiền Vương rồi mất dạng. Công an liệng thùng garant đựng đồ nghề của tôi lên chiếc xe tải nhỏ cùng với những bàn vé số, bàn ghế ly tách…của mấy quán cà phê lề đường. Mấy chị bán hàng chạy theo kỳ kèo vừa xin xỏ vừa chửi bới om xòm. Tôi nản quá bèn thu quén mấy món đồ còn sót lại rồi nhảy lên xe đạp chạy thẳng về hướng Thị Nghè. Đến đường Nguyễn Bỉnh Khiêm tôi vòng lại khu Tân Định rồi ra Hai Bà Trưng, quanh lại nhà thờ Đức Bà và cố tìm nhưng chẳng thấy Tạ Ký đâu cả. Tôi không về nhà mà đạp thẳng qua nhà Tôn Thất Trung Nghĩa ở đường Hồ Biểu Chánh, Phú Nhuận, lúc đó Tôn Thất Trung Nghĩa sắp ra chỗ tôi sửa xe vì đã có hẹn với Tạ Ký. Tôi kể chuyện bị công an đuổi và Tạ Ký xách ống bơm chạy không biết giờ này đang ở đâu. Vừa kể xong câu chuyện thì thấy Tạ Ký đang ngồi chễm chệ trên xe xích lô tiến vô phía cổng nhà Tôn Thất Trung Nghĩa với vẻ mặt hớn hở như vừa lập được một chiến công. Tôi giã từ nghề sửa xe đạp từ đó…

Có một buổi tối chúng tôi hẹn găp nhau ở nhà của bạn tôi là anh Thái Văn Tùng ở đường Đoàn Thị Điểm gần vườn Tao Đàn, anh Tùng là con của hoạ sĩ Thái Văn Ngôn nổi tiếng về vẻ cá vàng trên tranh sơn mài Thành Lễ ở Bình Dương. Khi cộng sản chiếm hết cơ sở Thành Lễ, ông về quê ở Vũng Tàu làm rẩy và vài năm sau ông mất. Ngoài tôi, Tôn Thất Trung Nghĩa, Tạ Ký còn có anh Nguyễn Văn Đức (cựu hiệu trưởng trường Pétrus Ký), anh Phan Ngọc Răng (GS dạy vạn vật) và vài người bạn của Tùng để nghe Tạ Ký đọc một số bài thơ của anh viết trong tù. Theo anh thì lúc đang ở tù, anh đã làm được vài chục bài thơ mà đa số anh nhớ trong đầu để khi ra tù mới ghi lại xuống giấy, một số ghi trên giấy gửi bạn cùng tù và nhờ họ ráng học thuộc mỗi người một hai bài để sau khi ra trại ghi lại rồi đưa cho anh. Mỗi lần bọn quản giáo xét trại là mỗi lần mọi người đều lên ruột. Rất may là chưa bao giờ chúng bắt gặp một bài thơ nào của anh. Một lần có lệnh chuyển trại, mọi người được lệnh phải mang hết đồ đạc ra ngoài, chúng vào lục soát bên trong lán trại, sau đó chúng lùa tù vào lán trại mà không mang theo đồ đạc, chúng lục soát đồ đạc của từng người, không tìm ra được gì chúng mới ra lệnh cho tù mang đồ đạc vào trại. Đó là một lệnh chuyển trại giả để khám xét vì chúng nghe phong thanh Tạ Ký có làm thơ. Tạ Ký có một quy ước với các bạn (chỉ vài người) là khi nào có lệnh khám xét hay những hành động khác thường của bọn quản giáo thì các bài thơ phải được tiêu huỷ ngay bằng cách nuốt vô bụng chứ không xé bỏ vì sợ dấu tích rơi rớt khiến chúng phát giác ra được. Thái Văn Tùng đãi một bữa ăn ngon có rượu ngoại và thuốc lá Pall Mall. Sau đó Tạ Ký đọc thơ. Những bài thơ viết bằng ngôn ngữ giản dị nhưng mang nhiều hình ảnh và âm thanh làm xúc động mọi người có mặt tối hôm đó. Nghe thơ anh, thấy cả một trời đau thương tan tác đọa đày đến xé ruột. Những hình ảnh trong thơ đâm toạc vào tim người nghe, đau thương ướt đẫm lai láng. Chúng tôi, không ai cầm được nước mắt theo lời thơ của anh. Giọng anh lúc uất nghẹn lúc trầm buồn lúc cay đắng tuyệt vọng. Hai bài thơ gây xúc động mạnh cho anh em là bài “Thăm Chồng” và “Chuỗi Hạt Huyền”. Bài thứ nhất nói về một người vợ dắt con đi thăm chồng, đứa con nhìn thấy cha nó nên nó chạy xổ đến, ngờ đâu người cha đứng phía sau hàng rào kẽm gai, mặt đứa bé đâm vào kẽm gai chảy bê bết máu. Lần sau đến thăm chồng, người vợ đi một mình, đứa bé đã chết vì vi trùng uốn ván! Bài thứ nhì với nội dung…ngày xưa anh tặng cho người yêu chuỗi hạt huyền trong ngày cưới, chuỗi hạt huyền lóng lánh kiêu sa…bây giờ trong trại tù anh thấy vô số những chuỗi hạt huyền, mỗi ngày anh đều thấy rất nhiều và nhiều vô kể khi anh bó gối ngồi ngắm để rồi nhớ người yêu xưa…Những chuỗi hạt huyền đó là những đàn ruồi xanh có thân hình no tròn long lánh với đôi cánh óng ánh dưới ánh mặt trời đậu hàng hàng lớp lớp trên những hàng rào giây thép gai quanh những hố tiêu…những lần nghe tiếng động, chúng bay lên và phát ra những âm thanh nghe đến rợn người… “Ruồi từ hố tiêu bay lên. Tiếng ruồi lao xao như sóng gợn. Mắt ruồi nâu làm nhớ tóc tây phương. Ruồi đậu trên giây thép gai như chuỗi hạt huyền…
Anh không chép những bài thơ viết trong tù cho bạn bè. Nhưng, người con gái nuôi của anh tên Bảy là người cất giữ những bài thơ đó và vài chục tập “Sầu Ở Lại”mà anh còn giữ được sau những đợt truy quét các sản phẩm văn hóa Miền Nam Việt Nam. Anh đưa Bảy đến gặp tôi nhiều lần và tôi biết chắc chắn cô Bảy là người mà anh tin và giao phó cho cô nhiều thứ kể cả việc cô Bảy sẽ liên lạc với tôi khi có những sự bất trắc xảy ra cho anh (điều này như là một điềm báo).
Tôi cũng linh cảm rằng, ngoài cô Bảy, tôi là người anh có thể tin tưởng được, lý do là nhiều lần tâm sự hay có những chuyện cần bàn bạc, anh chỉ gặp tôi chứ không không gặp Tôn Thất Trung Nghĩa. Sau những lần chuyện trò hết sức riêng tư, anh dặn tôi là đừng nói cho Tôn Thất Trung Nghĩa nghe. Tôi có thể giải thích được điều đó: Sở dĩ anh tin tôi là vì lập trường chính trị mặc dù tôi chỉ là loại đàn em và chỉ mới quen anh trong một thời gian rất ngắn. Khi bàn đến tình hình chính trị trong nước, nhất là khi đề cập đến chủ nghĩa cộng sản, anh và tôi có nhiều ý tưởng trùng hợp trên mặt nhận định, quan điểm và lập trường.
Bỏ nghề sửa xe tôi chuyển sang nghề bán sách cũ, bán chui ngoài vỉa hè Lê Lợi. Tôn Thất Trung Nghĩa và Tạ Ký vẫn thường ghé tìm tôi cà phê cà pháo vào buổi sáng và “làm một vài xị” vào buổi chiều. Tạ Ký nói năng rất điềm đạm những lúc uống cà phê nhưng đến lúc nhậu lại là một Tạ Ký khác. Nhiều lúc anh trở nên nóng nảy bất ngờ bạn bè không ai cản ngăn được. Nhiều lần uống rượu với anh em, anh nổi cơn chửi cộng sản khiến anh em xanh mặt. Có một buổi chiều chúng tôi đến một quán nhậu nằm trên đường Bàn Cờ thuộc phường 4 quận 3. Hôm ấy cũng có anh Nguyễn Văn Đức, Phan Ngọc Răng và một người mà tôi gặp lại rất tình cờ, đó là giáo sư Trương Toàn, dạy triết mà tôi là học trò của anh tại Đà Lạt hồi đầu thập niên 60. Thông thường khi gặp nhau như thế, anh em trao đổi cho nhau những tin tức nghe được từ các đài phát thanh BBC và VOA, những tin tức về vượt biên cùng những tin cộng sản đàn áp bắt bớ, đưa ra toà, xử tử…Tạ Ký uống được vài ly là mặt anh đỏ gay và nổi cơn chửi cọng sản (khi uống rượu vào là chửi cọng sản đã trở thành một cái tật của nhiều người, kể cả tôi). Ai cũng khuyên anh đừng chửi, vì đâu đâu cũng có công an. Tôi ngồi đối diện với anh, nhìn anh thông cảm như muốn chia sẻ cùng anh, tôi ôn tồn nói với anh: “Ở đây công an nhiều lắm không nên đụng tới chúng”. Tôi vừa dứt câu thì Tạ Ký đứng bật lên và tay vơ lấy xị đựng rượu. Anh nhìn thẳng vào tôi với ánh mắt rực lửa rồi hét lên “Tao không sợ thằng nào cả…” đồng thời đập ngay xị rượu vào đầu tôi (tưởng đầu tôi là đầu việt cộng chắc!).

Mọi người đều bàng hoàng sửng sốt trước phản ứng quá nhanh của Tạ Ký. Trong nháy mắt, tôi thấy có hai thanh niên mặc sơ mi trắng bỏ ngoài từ bên kia đường phóng qua giữ chặt hai tay Tạ Ký rồi quặt ra phía sau. Có lẽ khi đó anh nhận thấy tình huống quá nguy hiểm nên nhìn vào tôi phán thêm một câu: “Mày kêu công an bắt tao đi, tao cứ uống, tao không về…”. Giọng anh lè nhè, mắt sụp xuống, tay xụi lơ và thân mình như muốn ngả giữa hai tên công an. Đến nước này thì phải một ăn một thua. Trong đám tôi là người nhỏ nhất, tôi lại là “nạn nhân” của Tạ Ký. Tôi cảm thấy đầu tôi hơi ê ê nên đưa tay sờ lên chỗ bị ê. Tôi cảm thấy ướt nơi tay. Tay tôi dính đầy máu. Thật đáng mừng! Tôi vội chìa “bàn tay máu” ra trước mặt hai tên công an phân bua: “ Cha này là anh của tôi, chả làm thợ mộc, làm được bao nhiêu là nhậu hét bấy nhiêu, say sưa tùm lum, ông già thấy chiều không về bảo tôi đi tìm, đến đây thấy chả nhậu, kêu về không chịu về, tôi đòi kêu công an còng đầu chả, chả đập tôi bể đầu…Chả bị bắt cả chục lần về tội nhậu vô rồi quậy mà vẫn chứng nào tật ấy, mấy anh mang thằng chả về đồn nhốt cho chả chừa…”. Chủ quán và các thực khách đều nghe tôi phân bua. Hai tên công an không nói năng gì cả. Tôi quay sang nhìn Tôn Thất Trung Nghĩa đang đứng đực mặt ra: “ Mấy cha làm ơn về báo cho ông già tôi biết là thằng cha mất nết này nhậu say đánh người bị công an bắt, nói ông cầm hộ khẩu đến lãnh ra…”. Được tôi mở đường, mấy anh em dắt xe đạp biến mất. Tôi ngồi xuống bên lề đường tiếp tục phân trần để tạo dư luận cho những người quanh đó nghe hầu có thể làm nhân chứng phòng khi khi công an hỏi đến. Trong khi đó tôi thấy hai tên công an đẩy Tạ Ký qua bên kia đường và đi về hướng Phan Thanh Giản, sau đó đẩy Tạ Ký vô đồn công an phường 4 cách chỗ tôi ngồi độ ba trăm thước. Tôi nghĩ “điệu này là tiêu đời Tạ Ký rồi…”

Tôi sợ chúng hỏi và lục xét giấy tờ của Tạ Ký là bể chuyện vì anh là sĩ quan mới “học tập” về. Còn nước còn tát. Tôi vừa nghĩ cách cứu Tạ Ký vừa phân trần với đám đông bu quanh tôi. Tôi kể tội Tạ Ký nào là uống rượu như hũ chìm, làm được đồng nào là uống hết đồng đó, không vợ không con, báo hại ông bà già, bị công an bắt nhiều lần làm kiểm điểm tại địa phương…Khoảng mười phút sau tôi vẫn không thấy hai tên công an trở lại. Chúng đang tra hỏi ? đang lập biên bản ? Những người đứng chung quanh tỏ vẻ thương hại và thông cảm với tôi. Chốc chốc tôi đưa tay lên sờ vết thương trên đầu cho máu vấy thêm vào tay. Rồi trong nháy mắt, tôi quyết định đánh bài liều có. Tôi dắt xe đạp đến thẳng đồn công an mà trong lòng hồi hộp và sợ không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi dựng xe dưới lề đường nhìn vào thấy Tạ Ký năm sòng xoải trên một chiếc ghế dài, hai mắt nhắm nghiền ngáy khò khò (giả vờ là cái chắc)! Hai tên công an mặc thường phục lúc nãy ngồi sau chiếc bàn đọc báo, một tên công an nữa mặc đồng phục ngồi ở chiếc bàn bên trong đang ghi chép gì đó vào một cuốn sổ. Tôi bước chậm vào phía trước ghế dài Tạ Ký đang nằm, cúi đầu chào ba tên công an và cố tình đưa bàn tay máu cho chúng thấy. Tôi nói: “ Mấy anh làm ơn nhốt dùm cha này, tôi về kêu ông già lấy hộ khẩu ra lãnh…Cả ba tên công an nhìn tôi nhưng chẳng nói năng gì cả. Tôi bước sát tới chỗ Tạ Ký đang nằm và cúi xuống nắm vai lắc mạnh: “Dậy đi cha, dậy xin làm kiểm điểm rồi về, cha gây phiền phức quá…”.

Tôi cố ý tạo cho mấy tên công an cái cảm tưởng Tạ Ký là kẻ nát rượu, hư thân mất nết, bê bối…Trong khi lắc vai, tôi bấm mạnh mấy cái để cho anh biết mà hành động cho phù hợp với lời nói của tôi…may ra…Tôi lại sợ lỡ có một tên công an nào khác đến thấy cái cảnh này lại hạch hỏi lôi thôi thì chỉ có rắc rối thêm. Ba tên công an vẫn “không ý kiến”, tôi bèn đỡ Tạ Ký dậy ngồi trên ghế, mắt anh nhắm nghiền, người ngả qua ngả lại như muốn ngả (đóng kịch giỏi), miệng thì há hốc trông thật buồn cười, đầu gục xuống ra cái điều say ngất ngư và phát ra tiếng khò khò trong cuống họng…Đến lúc này ba tên công an vẫn không có phản ứng gì. Tôi mạnh dạn nói : “ Xin mấy anh cho tôi lôi chả về nhà, chả không còn biết trời trăng gì nữa…”, tôi lại xỉ vả tiếp: “ Cho cha đi cải tạo là vừa lắm, cứ vào công an rồi ra hoài cũng chẳng ăn thua gì, chứng nào tật nấy…Tôi đỡ Tạ Ký đứng lên. Lúc này anh đóng kịch tợn thêm nữa, hai đầu gối xụm xuống, miệng vẫn há hốc, người mềm nhủn và mắt vẫn nhắm nghiền…Cái thân hình gầy còm giờ đây sao mà nặng dữ!

Tôi thấy ba tên công an cười. Tôi mừng trong bụng. Tôi vội lôi Tạ Ký ra ngoài đường đặt ngồi sau xe đạp, hai chân buông thỏng đụng xuống mặt đường, đầu gục trên yên xe. Tôi vội leo lên xe, đỡ đầu Tạ Ký cho dựa vào sau lưng, cầm hai tay cho ôm eo tôi. Không chần chờ, tôi nhấn bàn đạp cho xe chạy về hướng Phan Thanh Giản, quay nhìn lại phía sau nhiều lần nhưng không thấy có công an đuổi theo. Đến Phan Thanh Giản tôi quẹo phải (đường một chiều) chạy đến đường Vườn Chuối rồi đâm qua Phan Đình Phùng. Tôi cố tình chạy như vậy để đánh lạc hướng công an vì sợ chúng nghi ngờ điều gì rồi đuổi theo. Băng qua một con hẻm đến đường Hồng Thập Tự. Lúc này tôi mới thong thả nên đưa tay ra sau đấm vào vai Tạ Ký: “Thôi nhen cha, khỏi cần đóng kịch nữa…”. Lúc đó Tạ Ký mới hoàn hồn và lấy tay đấm thùm thụp vào lưng tôi” “Tao phục mày quá Châu ơi” rồi không quên hỏi mấy người bạn cùng đi nhậu. Tôi nói họ di tản hết rồi, không có ai bị gì cả. Bấy giờ anh mới thấy bàn tay tôi đầy máu nên bảo tôi đạp thẳng về nhà của anh ở trong một con hẻm trên đường Bùi Chu. Đó là lần đầu tiên tôi ghé nhà của anh. Vô nhà, anh chỉ tôi đến lavabo rửa tay dính đầy máu. Tôi thấy có một người đàn bà trong nhà đứng ở một góc bên trong không rõ mặt, mặc áo màu hồng cũ, người nhỏ nhắn. Tôi nghĩ trong bụng người này chắc là vợ anh. Người đàn bà không hỏi han gì đến anh , anh cũng chẳng nói một lời nào cho đến khi tôi rửa tay và mặt xong anh bảo: “Thôi, mày đi về đi, sáng mai gặp lại…”.

Sáng hôm sau Tôn Thất Trung Nghĩa và Tạ Ký ra Lê Lợi gặp tôi cùng uống cà phê, anh kể cho Tôn Thất Trung Nghĩa nghe việc anh đóng kịch giả say và tôi đã cứu anh ra sao. Số anh em cùng nhậu hôm trước ai ai cũng tưởng là Tạ Ký sẽ vô tù trở lại. Sau đó, thỉnh thoảng tôi có gặp lại các anh có mặt chiều hôm đó cho đến lúc họ lần lượt đi vượt biên. Riêng Tôn Thất Trung Nghĩa thì vẫn gặp thường xuyên. Cũng từ đó Tạ Ký càng mến tôi hơn. Có chuyện gì anh cũng đều kể cho tôi nghe, riêng chuyện gia đình thì anh thường than thở rằng vợ anh không còn đối đãi tử tế với anh sau ngày anh đi tù về. Tôi cũng không biết anh có bao nhiêu người con và họ đang làm gì. Có chuyện gì xích mích trong gia đình thì anh lại ghé rủ Tôn Thất Trung Nghĩa rồi hai người ra chỗ tôi đang bán sách cũ ngoài đường Lê Lợi để uống cà phê buổi sáng hoặc đi nhậu một hai xị nếu là buổi chiều.

Tôi hành nghề bán sách không đầy một tháng, biết mình bị công an để ý nên bỏ nghề rồi chuyển qua nghề giữ xe đạp trước cổng trường sư phạm, tức là trường Quốc Gia Sư Phạm cũ ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà. Nói là “nghề” cho xôm chứ tôi làm sao mà có được một bãi giữ xe. Chủ bãi giữ xe là một nhân viên của trường sư phạm cũ còn lưu dụng nên được trường cho đặt một xe bán cà phê trước cổng trường và căng dây giữ xe cho sinh viên. Một hôm Nghĩa rủ tôi và Tạ Ký đến uống cà phê ở đây. Trước 75 Tôn Thất Trung Nghĩa có dạy ở trường sư phạm nên ai cũng biết, Tôn Thất Trung Nghĩa bảo ông chủ bãi cho tôi một chân giữ xe và ông ta vui vẻ nhận lời. Tôi hành nghề giữ xe đạp là nguyên do như thế.

Vào một buổi tối của tháng chín năm bảy tám Tạ Ký đến nhà tôi, khi đó khoảng tám giờ hơn. Tôi thấy anh có vẻ hớt hải lo âu, chắc là có chuyện gì không hay cho anh đây. Tôi nghĩ như thế. Hay là công an đã tìm ra manh mối kẻ say rượu hôm trước ở đường Bàn Cờ. Không lẽ chúng tài ba đến thế. Tạ Ký bảo tôi chở anh ra ngồi ở một quán cà phê vỉa hè, anh bảo: “Vợ con tao đã đi vượt biên hết rồi…”. Tôi hơi sửng sốt khi vừa mới nghe, sửng sốt vì nghĩ rằng tại sao anh không đi vượt biên cùng với vợ con. Vào những năm đó, chuyện vượt biên không phải là chuyện lạ. Lạ đối với tôi là Tạ Ký bị bỏ lại. Tôi trấn an anh: “Có gì mà anh phải hốt hoảng, vợ con anh đi vượt biên chứ phải anh tổ chức cho họ đi đâu mà sợ…”. Anh nói cộc lốc: “ Không được, chúng sẽ đến bắt tao…”. Tôi không biết động cơ nào khiến anh lo sợ thái quá như thế. Vào thời điểm đó những ai có dính dáng đến chuyện vượt biên, dù chỉ nói đến hai chữ “vượt biên” mà công an nghe được cũng đã bị khó dễ với chúng. Tệ hại nhất là những gia đình có người vượt biên, chúng đến đuổi những người còn lại ra khỏi để tịch thu nhà. Tạ Ký sẽ bị đuổi ra khỏi nhà là trăm phần trăm vì anh không có tên trong “sổ hộ khẩu” do mới học tập về và chưa hết thời kỳ quản chế. Anh hốt hoảng cũng phải. Uống vội ly cà phê anh bảo tôi chở anh về nhà ở đường Bùi Chu nơi tôi đã đến một lần sau khi bốc được anh ra khỏi đồn công an ở đường Bàn Cờ.
Anh mở cửa vào nhà lấy mấy bộ áo quần áo, một mớ giấy tờ và quơ chiếc quạt máy để ở bàn rồi vội trở ra khoá cửa, xong anh bảo tôi chở anh ra trước cổng vườn Tao Đàn ở đường Hồng Thập Tự. Thấy anh vô cùng bối rối nên tôi không dám hỏi han gì thêm. Anh dặn tôi khoan cho Tôn Thất Trung Nghĩa và bạn bè hay chuyện vợ con anh đi vượt biên. Tối hôm sau anh và cô Bảy, con nuôi của anh đến nhà và rủ tôi đi. Tôi đạp xe đạp còn anh và cô Bảy ngồi xích lô. Tôi thấy mặt anh rất buồn, mặt cô Bảy cũng buồn. Tôi đạp xe theo anh đến đường Bùi Viện và vào quán ăn Ba Thừa. Anh nói đãi tôi bữa ăn để chia tay. Tôi hỏi có phải anh sắp đi vượt biên không. Anh trả lời không và nói tiếp… “tao phải đi xa rồi sau này mày sẽ biết, con gái của tao”, anh chỉ cô Bảy, “sẽ cho mày biết tao ở đâu…”. Cô Bảy cho tôi biết một số địa điểm khi cần tôi đến gặp cô để biết tin tức Tạ Ký sau này. Đây là bữa ăn chia tay tưởng sau đó còn gặp lại anh, đâu ngờ… Khi chia tay ở quán Ba Thừa, anh dặn tôi ngày mai có mặt ở bến xe Miền Tây lúc mười một giờ. Trên đường về tôi rất hoang mang về dự tính của anh khi quyết định rời thành phố để về Miền Tây. Cả đêm hôm đó tôi không tài nào ngủ được. Hình ảnh Tạ Ký cứ lảng vảng trước mắt tôi. Tôi không hiểu nổi anh. Hôm sau tôi đạp ra bến xe Miền Tây, đến nơi tôi đã thấy anh và cô Bảy. Tôi chẳng nói năng hay hỏi han nhiều với anh, chỉ nói hy vọng sớm biết tin và gặp lại anh. Khi xe chuyển bánh tôi thấy cô Bảy lau nước mắt. Xe chạy ra khỏi bến, tôi đạp thẳng về nhà Tôn Thất Trung Nghĩa để cho hay là vợ con Tạ Ký vượt biên và Tạ Ký đã đi miền Tây. Tôn Thất Trung Nghĩa cũng sửng sốt không kém gì tôi khi mới nghe tin đó.
Tạ Ký đi rồi, như đã giao hẹn trước, một tuần sau tôi tìm cô Bảy để biết tin tức Tạ Ký tại khu chợ trời bán sách cũ đường Bùi Quang Chiêu, cô Bảy bán sách cũ nhưng không có sạp, cô gửi sách ở các sạp quen, khi cần thì cô ghé lấy giao cho khách mua. Lần đầu tiên đến gặp, tôi được cô Bảy kể cho nghe câu chuyện Tạ Ký bị trấn lột trên đường từ Cần Thơ đi Long Xuyên. Những lần sau cô Bảy cho tôi biết tình trạng sinh hoạt của Tạ Ký ở Chợ Mới cho đến khi Tạ Ký bị bắt và chết trong tù. Sau đây là toàn bộ câu chuyện mà cô Bảy kể cho tôi nghe:
Tuần trước, tôi và cô Bảy đưa Tạ Ký lên xe để về Cần Thơ. Khi xe đến Cần Thơ thì trời đã tối. Xe đò chạy rất chậm vì phải ngừng ở nhiều trạm để đóng thuế, xét hàng, xét người…Tạ Ký muốn tranh thủ về quận Chợ Mới, tỉnh An Giang nên anh không ở lại Cần Thơ, anh thuê một chiếc xe ôm để đưa anh thẳng về Long Xuyên. Trong túi xách tay của anh chỉ có vài bộ quần áo, một số giấy tờ và lận trong người độ hơn ngàn bạc. Khi người thanh niên chở anh ra khỏi thành phố Cần Thơ khoảng một tiếng đồng hồ thì tai nạn đã đến với anh. Chính người lái xe ôm này chở anh vào một con đường ruộng vắng vẻ, đập anh một trận bán sống bán chết rồi lấy hết tiền và túi xách của anh. Nằm bất tỉnh dưới ruộng cho đến sáng hôm sau anh mới tỉnh và mò lên đường đón xe trở lại Cần Thơ rồi quay lại Sài Gòn. May mà anh dấu tiền nhiều nơi trong người nên còn một ít tiền để đi xe. Nghỉ ở Sài Gòn hai hôm, anh lại tiếp tục chuyến đi như đã định. Chuyến đi lần này bình yên và anh đến ở nhà của một người người bạn thân cùng quê ở quận Chợ Mới. Anh nói với người bạn là vì chuyện gia đình, anh xin ở tạm vài tuần rồi sẽ ra đi. Anh đưa cho người vợ của bạn một số tiền để phụ vào việc ăn uống. Thời gian đầu cả hai vợ chồng bạn tiếp đãi anh tử tế, nhưng sau khi số tiền của anh đã cạn và thời gian vài tuần đã qua mà anh vẫn chưa đi thì người vợ và người con gái tỏ vẻ khó chịu về sự hiện diện của anh. Lần lữa chưa biết tính toán ra sao, tiền bạc cũng không còn nên thái độ của người vợ và con của bạn càng khiến cho anh hết sức khó chịu, hai mẹ con thường hay lớn tiếng nói bóng nói gió và có những hành vi khiếm nhã với anh. Loay hoay mãi với những buồn bực và cô đơn, thêm nỗi nhớ con, anh trở thành một người hoàn toàn thụ động mặc cho số mạng đưa đẩy. Anh chưa kịp rời nhà người bạn thì chính người vợ của chủ nhà mời công an đến bắt anh vào đêm khuya. Chúng đưa anh về nhà giam của huyện. Với mớ giấy tờ chúng lấy được và qua lời khai để chạy tội “khai báo tạm trú trễ” của người vợ chủ nhà, công an huyện giữ anh một tháng để lấy cung và tra tấn trước khi chuyển lên công an tỉnh.

Tại nhà giam của ban phản gián tỉnh An Giang, anh bị chúng ghép tội làm gián điệp. Chúng dùng nhiều trò tra tấn rất dã man khiến anh bị chết lên chết xuống nhiều lần. Mỗi ngày chúng cho anh hai củ khoai mì chấm muối và một gáo nước lạnh (thời kỳ này cả nước đói trầm trọng). Thân hình gầy còm của anh làm sao chịu nổi những trận tra khảo của chúng! Chúng thường xuyên xích chân anh vào một thanh sắt lớn cùng với nhiều người tù khác. Chúng bắt anh kê khai việc làm gián điệp, những người liên hệ, nhất là nghi vấn việc anh bỏ Sài Gòn xuống Chợ Mới. Trong các tờ khai, sau khi đề ngày tháng năm, anh chỉ viết mấy chữ…Tôi không có gì để khai…

Sau một thời gian không nhận được tin tức gì của anh, cô Bảy nóng lòng xuống Chợ Mới thì được gia đình người bạn cho biết là anh đã bị bắt. Cô Bảy đưa cho chủ nhà tiền bạc để lo thăm nuôi dùm. Nhưng trong thời gian Tạ Ký nằm tù, anh không hề nhận được tin tức hoặc thức ăn gì bên ngoài gửi vào. Việc Tạ Ký bị bắt và bị tra tấn đến chết mới kêu người nhà (vợ chồng bạn) đem về chôn không ai biết được nếu không có một người tù tên là Phạm Hữu bị tù từ 1975, cùng ở chung với Tạ Ký tại trại giam của tỉnh, được Tạ Ký nhờ liên lạc với gia đình cô Bảy nếu ông được về trước. Khi được thả ra, ông Phạm Hữu nhờ người nhà lên Sài Gòn tìm đến nhà cô Bảy và mời cô xuống Long Xuyên gặp để nghe ông kể chuyện Tạ Ký ở trong tù. Cô Bảy kể cho tôi nghe những gì cô nghe ông Phạm Hữu đã kể cho cô. Cô kể trong giàn giụa nước mắt. Tôi nghe mà lòng quặn thắt. Cô Bảy cũng nói với tôi cô không có điều kiện để xuống Chợ Mới dời mộ Tạ Ký về Sài Gòn, cô đang chờ để đi Phi Luật Tân. Sau lần gặp cô Bảy để nghe chuyện Tạ Ký, tôi không còn gặp cô. Tôi hy vọng cô đã sang được Phi Luật Tân và mang theo hình ảnh của một người cha, dù là cha nuôi nhưng tôi biết chắc chắn là cô rất kính yêu Tạ Ký.

Tạ Ký là một nhà thơ sống chí tình với bạn bè. Anh là một nhà giáo. Anh là một sĩ quan, một chiến sĩ Quốc Gia bất khuất trước kẻ thù cộng sản. Anh đã từng nói với tôi, anh sẽ là một trong những người đầu tiên đứng lên diệt cộng sản khi có cơ hội, anh và cộng sản không đội trời chung! Anh cũng mong một ngày mai tươi sáng sẽ về với Việt Nam thân yêu để anh được tiếp tục làm thơ, uống rượu với bạn bè và rong chơi khắp các miền đất nước. Nhưng số phận của anh thật hẩm hiu và bi đát. Lúc ở tù không ai thăm nuôi, lúc trở về vợ hất hủi, bỏ rơi, dắt con cái đi vượt biên không một lời từ biệt. Nỗi cô đơn, đau đớn ê chề đến khủng hoảng phải chạy đi trốn, nương thân nhờ người quen để rồi chết một cách thảm thương dưới tay của kẻ thù độc ác.

Giờ đây, có lẽ vợ con của Tạ Ký đang yên vui ở một nơi nào đó tại đất Mỹ, Úc châu hay Âu châu…có biết chuyện chồng, cha của mình chết trong ngục tù cộng sản? Nếu biết, xin thắp cho anh một nén hương để tưởng nhớ.

Khoảng đầu năm 1980, trước khi đi vượt biên, Tôn Thất Trung Nghĩa có lập bàn thờ tại nhà để bạn bè đến thắp nhang cho Tạ Ký. Tôi đến nhà Tôn Thất Trung Nghĩa nhiều lần để nghe Tôn Thất Trung Nghĩa Nghĩa tâm sự thêm về tình bạn giữa anh và Tạ Ký. Sau đó Nghĩa vượt biên thành công, đến được Songkla Thái Lan và sáu tháng sau được nhận vào Mỹ. Khi còn ở Songkla, Tôn Thất Trung Nghĩa có viết thư cho tôi mô tả chuyến đi của mình. Lúc định cư ở Mỹ, Tôn Thất Trung Nghĩa ở Pennsylvania, sau đó xuống Florida rồi qua California. Tháng 10 năm 1990 tôi nhận được tin Tôn Thất Trung Nghĩa đã chết vì ung thư máu. Hai kẻ tri âm – Tạ Ký và Tôn Thất Trung Nghĩa đều đã vĩnh viễn ra đi. Họ có gặp lại nhau ở bên kia thế giới hay không? Hai người đã ra đi. Chỉ còn “Sầu Ở Lại”. Tôi đã mang nỗi sầu đó!

Ngồi viết những dòng này về Tạ Ký, tôi buồn lặng người. Nhớ Tạ Ký. Nhớ Tôn Thất Trung Nghĩa. Dĩ vãng hàng me xanh Chợ Đủi, quán cà phê vỉa hè Lê Lợi, quán nhậu bà Năm Lửa, quán nhậu đường Bàn Cờ, quán Ba Thừa buổi tối chia tay…Có ai còn nhớ đến Tạ Ký? Bài thơ sau đây của anh viết trong tù đã đọc cho bạn bè nghe. Tôi không nhớ hết, nhớ đủ nhưng cũng xin ghi ra đây như đốt lên một nén hương tưởng nhớ đến anh, bài thơ có tựa đề “Cúi Xuống”:

…Cúi xuống nhìn hòn sỏi
Hòn sỏi nhìn trời cao
Cúi xuống nhìn luống cải
Luống cải nhìn ông sao
Cúi xuống nhìn cục đất
Cục đất nằm im lìm
Cúi xuống nhìn ngọn cỏ
Ngọn cỏ đợi sương đêm
…..
Cúi xuống nhìn ngón cẳng
Ngón cẳng dài thêm ra
Bàn chân có năm ngón
Ngón nào riêng của ta ?
…..
Cúi xuống thêm chút nữa
Gục trên đầu gối mình

Phong Châu Tháng 7 – 1992


Nguồn: http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/08/tuong-nho-nha-tho-ta-ky_22.html

NHỮNG BÀI THƠ CẢI TẠO...!!!
Thơ mới hiện đại VN
Quê hương tàn chinh chiến…/ Sầu đông trong cải tạo! / Sàigon mùa đông chinh chiến!
Huỳnh-Mai * đăng lúc 11:13:53 AM, Apr 07, 2011 * Số lần xem: 416
http://maidayhoabnh.blogspot.com/…/nhung-bai-tho-cai-tao.ht



Thơ,
SẦU ĐÔNG TRONG CẢI TẠO!
{Nước Mắt…kẽm gai}
Huỳnh-Mai.St.8872
Bh.Dạ lệ Huỳnh

Mù sương trắng xóa phủ trùm láng trại!
Một màu tang tóc cỏi chết mùa đông!
Tiếng kẻng vang lên chiêu hồn sức sống,
Một đám thây ma sống cảnh vô hồn!
Chiến bào tơi-tả…lắm đầy bụi muối,
Mồ hôi hãn- mã lao cải nông trường…
Nợ nước tình nhà nay vào cải tạo!
Cày xới vun trồng sỏi đá thành cơm…
Đá lên bông…vút cao miền kiêu hãnh!?
Nhìn rào kẽm thép thấy lạnh buồn thêm!
-0-
Cái lạnh Miền Nam đã bằng rét Bắc!
Mà sao tím-tái lòng người Miền Nam!?
Gió bấc đem đông tràn vào Cải-Tạo!?
Mang theo rau muống ngập đầu bếp ăn…
Bắp ngô, khoai sắn…lẽ người chiếng thắng!
Con sâu cái kiến…cũng lẽ trời nuôi…
Rét lòng lượm nhặt tàn dư thuốc cáng!?
Phì phà khói thuốc cho tù…lên hương…!?
Gió đông thuốc cáng…lên đời sâu bọ!
Thuốc rê cải tạo…chịu đời đắng cay…!!!
-0-
Mưa phùn gió bấc lạnh lòng lao cải!
Run…tiếng bomb rền vang chiến trường xưa…
Điếu thuốc lượm được! năm ba đứa hút!!!
Ấm lòng chiến sĩ trong tù gió đông…
Bắp, khoai cải tạo:”là của nhân dân?
Không quyền nướng cắp”…no lòng tù nhân!?
Thoát cơn đói lạnh…tình người chiến bại!
Đòn thù độc ác…”thú-người “rừng xanh…!?
Dù đói lạnh người tù không biết khóc!?
Để dành nước mắt khóc cho quê hương!?
-0-
Bên kia trời…nhìn qua rào kẽm thép…!
Bình minh còn phủ sương đông quá dày…!
Mắt thép kẽm gai…lạnh lùng nhìn cảnh báo!?
Bên ngoài rào…” chuồng trại của nhân dân”…!?
Xem ra nó khổ còn hơn người tưởng!?
Bắp khoai ngô sắn…nghẹn lời khóc than!
Giọt sương đọng…nước mắt trên rào kẽm!
Tiếng hạt buồn rơi rụng…mắt kẽm gai!
Nước mắt kẽm gai vì đời đổ lệ!?
Cho người quên lãng…cho mình lãng quên!
-0-
Ngục tù cải tạo khí hùng bất khuất!
Đã quen rồi, hổ lại nhớ rừng xanh…?
Nước mắt kẽm gai khóc đời chiến sĩ!
Cũng không ngăn nổi”đạn nổ trong tù!
Trong cơn đạn nổ…thấy lòng rộng mở!
Ấm lại quê hương…một chút kiêu hùng!?
Tặng lại quê hương tất lòng Cải-Tạo!?
Không còn non nước…vẫn lòng Quốc-Gia!
Trong kiếp đọa đày nào ai có biết!?
Đêm đông khóc hận nước non một mình…!

Huỳnh-Mai
Nước mắt kẽm gai
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2013/10/nhung-bai-tho-cai-tao.html 

  
Quê hương tàn chinh chiến…
                             Huỳnh-Mai.St.8872
                             Bh.Dạ Lệ Huỳnh

Ngồi ngắm mây qua khung trời Cải-Tạo,
Lắng tiếng bomb rền…vọng tiếng rừng sâu…
Mắt lệ hỏa châu hết buồn chinh chiến,
Pháo hoa chiến thắng nhỏ lệ trong tù,
Một đời chinh chiến trọn giành tổ quốc…
Một thưỡ hòa bình cho đất nước tôi,
Mà sao cay đắng dành riêng Cải Tạo…
Góc tối tù đày phần thưởng chiến tranh,
Thương đau chấp nhận vì anh chiến sĩ,
Ngục tù cải tạo…quê hương hòa bình,
                          -0- 
Quê hương một dảy nước non dân tộc,
Một thoáng hòa bình…phải giá đắng cay…
Đời là hạnh phúc “Thiên-đàng Cộng-Sản”
Sống đời nô cộng chịu kiếp sắn khoai…
Bắp ngô độn bửa người thành trâu ngựa…
Hòa bình êm-ả trên đồng cỏ xanh,
Đó là hạnh phúc cho người phản chiến,
Con vật tế thần chủ nghĩa cộng nô…
 Đành lở rồi quê hương tàn chinh chiến,
Hòa bình không thấy…thấy toàn thương đau…?
                               -0- 
Hởi người chiến sĩ đừng buồn cải tạo…
Quê hương mình vận nước…hãy chưa thôi,
“Hòa bình phản chiến”ý người dân muốn,
Anh phải ngồi tù…phản chiến theo dân…
“Hòa bình gảy súng” thôi đành chấp nhận,
Danh dự trách nhiệm…đâu bằng hiếu dân,
Chiến đấu hy sinh cũng vì tổ quốc…
Cải tạo tù đày chết cũng vì dân…
Dù chiến bại chí hùng anh bất khuất,
Không hổ thẹn lòng chết cũng vì dân,
                         -0-
Lâu lắm rồi vận nước chưa đổi thay…
Ba lăm năm chiến thắng,giấc ngủ dài,
Thở ngắn than dài mình ta thức trọn…
Canh xác Tự-Do cạnh xác người say,
Người dân chưa tỉnh…Tự-Do còn chết
Đấu tranh đơn độc…hiểm nguy riêng mình,
Chiến hữu Tự-Do tìm đường xứ ngoại…
Bỏ lại mình ta chôn xác Tự-Do…
Không kèn không trống… không ai đưa tiễn,
Tù trong, tù ngoài mộ chí Tự-Do…
                          -0-
Ta biết tủi hờn…hồn thiêng sông nùi,
Sống chặt đời thà nát với cỏ cây…
Thấy được mình.làm phân cho hoa lá,
Tô điểm thêm đời…thiếu vắng Tự-Do,
Mất Tự-Do rồi…đời đâu nghĩa sống…?
Mồ hoang chiến sĩ…sung gảy vẫn còn…
Lưu dấu một thời hòa bình chiến đấu…
Để lại lòng người….một chút nhớ thương,
Sống chi một kiếp…đời người nô cộng…?
Quê hương tàn chinh chiến…mất Tự-Do,
                                        Huỳnh-Mai
                                   “Tàn chinh chiến” 



Thơ,
        Sàigon mùa đông chinh chiến!
                                                   Huỳnh-Mai.St.8872
                                                      Bh.Dạ lệ Hùnh           

Đông về thành phố từng cơn buốt lạnh!
Lạnh lắm không anh cải tạo trong tù!?
Nơi đây sương lạnh một trời thiếu vắng…!
Ai dìu bước em trong nắng mùa đông!
                          -0-
Sàigon đó anh…đông nầy lạnh lắm!!!
Cái lạnh se lòng gió Bắc vào Nam…!
Me già rụng lá, lệ rơi lã chã…!
Rơi trên ghế đá để sầu công viên!
                       -0-
Vắng anh là cả mùa đông cõi chết!
Nghe lòng buốt lạnh thiếu vắng chinh nhân,
Anh mang hơi ấm từng vùng hỏa tuyến!
Sưởi ấm lòng em lúc giá đông về!
                        -0-
Anh đi biền biệt mang theo nồng ấm…!
Bỏ lại Sàigon…cho mặc giá đông!
Cái lạnh rừng sâu…chiến trường anh đó!
Tràn về phố thị giá buốt lòng em!
                         -0-
Đèn đường ngơ ngẩn thẩn thờ soi bóng…!
Cúi đầu ngấn lệ sầu đông vắn-dài!
Ai đem cái lạnh từ phương Bắc đến…!?
Cho kiếp má hồng khóc bạn tình xưa!
                       -0-
Áo ấm mùa đông, chiếc khăn choàng cổ!
Chưa kịp trao anh…dung duỗi chiến trường!
Anh có biết cái lạnh mùa đông cải tạo!?
Cái lạnh Sàigon thấu buốt tim côi…!
                          -0-
Sàigon mùa đông phủ đầy sương trắng!
Ào ảnh dần lên…áo trắng học trò!
Tung bay tà áo dệt trời thơ mộng…!
Sao nay…trắng xóa khăn tang Sàigon!
                             -0-
Sương đông mờ ảo nhạt nhòa phố thị!
Anh đâu có biết tên đường nhà em!?
Đổi đường đổi phố đổi cả mùa đông…!?
Chỉ còn giá lạnh… cái trong lòng người!?
                           -0-
Thành Hồ sương trắng chìm trong ảo vọng!
Lộ nét trang đài vóc dáng kiêu sa…!
Nét người con gái hồng lên đôi má!
Mùa đông Sàigon khuất bóng trong mơ!
                        -0-
Sàigon buốt lạnh mùa đông xứ Bắc,
Không có tuyết rơi…lệ đổ ngập lòng!
Ngắm nhìn sương trắng phủ “Thành chiến bại”!
Thương “Cây súng gảy bên rào kẽm gai…!
                                              Huỳnh-Mai                                    
                                      {Mùa đông chinh chiến}

Nguồn: http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=6515



TRẠI TẬP TRUNG CẢI TẠO: MỘT KIỂU NHÀ TÙ MAN RỢ NHẤT CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN MÀ NHÂN LOẠI TỪNG BIẾT ĐẾN




Xuất bản 20 thg 7, 2014
TRẠI TẬP TRUNG CẢI TẠO: MỘT KIỂU NHÀ TÙ MAN RỢ NHẤT CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN MÀ NHÂN LOẠI TỪNG BIẾT ĐẾN - MỘT TỘI ÁC DẬY TRỜI CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

+Truc Le các bạn cứ yên tâm đi, trên đời này cái gì nó cũng có cái giá phải trả đắt đỏ của nó, chế độ cộng sản nó thâm hiểm độc ác thì tôi khẳng định rằng, một thời gian không sa nữa đâu,những hành vi của chúng nó đối với các bạn như thế nào thì sau này gia đình vợ và các con của chúng sẽ phải chịu hậu qủa hoàn toàn,hoặc là sự nhân qủa này hồi âm nhanh thì ngay bản thân chúng nó phải gánh chịu,chứng minh cho các bạn biết rằng trong thời gian qua toà án quốc tế đã truy nã gắt gao đối với những tên tội phạm khát máu thuộc lãnh tụ đảng cộng sản trung quốc, bao gồm giang trạch dân và lương bằng cùng với trên 30 tên đồng phạm về tội hủy diệt nhân loại đấy, các bạn cứ yên tâm, cho dù sớm hay muộn thì đảng cộng sản việt nam cũng phải có ngày đó,kể cả tên nào chết rồi họ cũng dựng cỗ quan tài nên để xét sử chứ họ không có tha đâu,,Hiển thị bớt


https://youtu.be/FiR5sCwFpeA

• TÙ CẢI TẠO: TỘI ÁC CHỐNG NHÂN LOẠI CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM - Đỗ Ngọc Uyển

TÙ CẢI TẠO: 
TỘI ÁC CHỐNG NHÂN LOẠI CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đỗ Ngọc Uyển - 29-3-2014

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. 




Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.”

HÃY SO SÁNH khi Việt Cộng chiếm toàn cõi VN
------------
Tất cả những hình ảnh này do cá nhân chụp lại để làm kỷ niệm. Hoàn toàn không với mục đích tuyên truyền. Hãy nhìn kỹ những dáng dấp oai vệ; chứa đầy lòng nhân đạo, tình người cùng với tình yêu thương dân tộc; của những chàng Quân Cảnh của QLVNCH; người chăm sóc và bảo vệ luật pháp quân đội.
 

Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

“Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam
Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị “cào bằng,” không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… 



Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . .

Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:

  • Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
  • Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
  • Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
  • Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.


Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” thì “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps ...)

“Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam
Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:

  • Tội ác thứ 1 – Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế(Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)
Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.

Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

  • Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture)
Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:
a. Hành hạ bằng cách bỏ đói - Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.

Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…

b. Hành hạ thể xác - Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:

Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.

Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.

Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.

Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau. Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.

Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…

c. Tra tấn tinh thần - Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:

- Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) - Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng.

Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh. Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.

Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”

- Tự phê (Confession) - Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong lòng dân tộc.” Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.

Tự phê” một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…

  • Tội ác thứ 3 – Tội giết người (Murder)
Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên “chánh án” cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong “bản án giết người” đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.

Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…

  • Tội ác thứ 4 – Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)
Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.
  • Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)
Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 “trại tù cải tạo” của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. “Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm.”

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi “định cư” tại những “khu kinh tế mới” ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những “trại cải tạo.” Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh – cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực – là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi “học tập cải tạo” mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).
 


HÃY SO SÁNH VỚI NGƯỜI LÍNH VNCH ĐỐI XỬ 
VỚI NHỮNG CON THÊU THÂN

MrBinhBet
Bây Giờ đảng Rước Mỹ Vào. 
Đéo Ai Còn Nhớ Thằng Nào Chết Oan! 
Tiên Sư Cộng Sản Việt Nam. 
Cuối đời Bán Cả Giang San Nước Nhà. 
Hỏi Thằng Đồng Vẩu Tại Sao???. 
Minh Râu Lấy Biển Nước Tao Cho Tầu?

 
Photos & Video from YouTube: VNCH Former VC on HoChiMinh Trial - Chuyện Người Cán Bộ VC TrườngSơn Năm Xưa (1954-1975) - by canbobodang

Tôi còn nhớ rõ một buổi trưa nắng chang chang của năm 78, 79 gì đó. Đang ngồi đợi trên xe buýt ở Lăng Cha Cả khởi hành đi Chợ Lớn thì tôi nghe có tiếng hát rất hay, nhưng vô cùng u uất: "Rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi ... Thành phố sau lưng ...
Rồi bước lên xe là một thương binh VNCH trẻ khoảng 25,26 tuổi. 

Anh ta cụt một chân, trên cổ treo cây guitar vừa đàn hát vừa xin tiền. Anh ta mặc chiếc quần của Thủy Quân lục Chiến rằn sọc ngang, áo thun bạc phếch, trên đầu đội nón vải đi rừng của lính VNCH. *** 

Dường như một số người trên xe biết và có cảm tình với anh ta nên có lẽ nói cho mọi người đều biết: "Ảnh là Thủy Quân Lục Chiến, bây giờ tội nghiệp lắm ..." Người thương binh VNCH khẻ gật đầu như muốn chào mọi ngưòi nhưng vẫn hát.. 

Một bà cụ ngồi phía sau chạy lên dúi vào tay anh ta mấy cái bánh ú và hỏi: 
- "Q. sáng giờ con ăn gì chưa?". 

Người thương binh ngưng hát trả lời: 
- "Dạ, con ăn chút bánh mì rồi ngoại..." 

Thì ra bà cụ biết người thương binh này và vẫn thường giúp đỡ anh ta cho nên anh ta gọi bà cụ là ngoại. Đây cũng là cách gọi thân mật của người trong Nam. *** 

Lúc đó có nhiều người dúi tiền vào chiếc túi vải treo trước ngực người thương binh. Mỗi lần ai cho anh, anh đều nói:
- "Xin cảm ơn ông / bà". 

Dường như mọi người đều cho một ít như muốn nói "Tặng anh một chút để anh sống qua ngày ... 
Chúng tôi dù sao còn may mắn hơn anh ..." *** 

Khi anh ta bước gần đến tôi, nhìn gương mặt anh ta tôi có cảm tình ngay. Gương mặt sáng và thông minh. Anh tuy mất một chân nhưng rất rắn chắc. Tôi cũng lấy ít tiền dúi vào túi vải, anh ta nói :
- "Đa tạ ông". 

Tự dưng tôi cầm lấy tay anh ta và hỏi:
- "Anh bị thương năm nào?" 

Anh trả lời: 
- "Dạ em bị thương năm 1972 đó ông Thầy" 

Có lẽ anh ta nghĩ tôi là Sĩ Quan VNCH nên trả lời và gọi tôi "Ông Thầy". 

Tôi nghe thế tôi rất xúc động vì tôi cũng bị thương năm 1972... có điều là chúng tôi .... khác chiến tuyến nhưng tôi lại được lính Biệt Động Quân VNCH cứu sống...

Lính VNCH thường gọi sĩ quan là "Ông Thầy". Tôi thật xúc động. Một lối xưng hô đầy tình yêu thương và kính nể một cách tự nhiên, giữa binh sĩ và Sĩ Quan trong QLVNCH. 

Trái lại, chúng tôi gọi nhau là ĐỒNG CHÍ. Nhưng, ý chí chúng tôi không bao giờ ĐỒNG. CSVN không bao giờ tin ai cả. Ngay những người cùng "chí hướng", chúng cũng ngày đêm rình rập, ăn thua, kèn cựa , giết hại lẫn nhau để được ngoi lên cái vị trí mong muốn. 

Cả cha mẹ còn bị chúng đem ra đấu tố, giết hại. CSVN không màng tới sinh mạng, sự sống của con người. Chúng trơ trẽn nói rằng: "đẩy 100 bộ đội vào miền Nam, nếu 5 trong số 100 bộ đội này vào được trong Nam thì đó là một "thành công" của đảng"???!!! 

Tôi vội nói:
- "Tôi cũng bị thương năm 72..."
Anh ta dường như không chú ý câu nói của tôi và như có người chia sẻ, anh ta khe khẽ kể tiếp: 
- "Đơn vị Thủy Quân Lục Chiến của em chặn quân Bắc Việt tại bờ Nam sông Thạch Hãn vào tháng Tư năm 1972 ... tụi nó đông lắm, xe tăng, bộ binh của chúng đông nghẹt luôn ... Tiểu Đoàn 3 Sói Biển tụi em tuy chặn đứng chúng nhưng thiệt hại 50 % đó ông thầy ạ ... 
Em bị thương trận đó ... 
Bây giờ ... 
Khổ lắm ..." *** 

Anh bị thương năm 72, tôi cũng bị thương năm 72 ... Anh và tôi cùng được chữa trị bởi Quân Y Viện VNCH ... Không biết lúc đó tôi và anh có cùng Quân Y Viện không? Tôi lúc đó được nằm trên giường ... Anh có thể nằm ... dưới đất nhường chỗ cho tôi ...

Dường như nước mắt của cả tôi và anh ta đều giàn giụa ... Anh ta khẽ gật đầu chào và quay đi .... 

Anh bước xuống xe và tiếp tục lời hát : 
"... Sao không hát cho những bà mẹ từng đêm nhớ con xa ...
Hay hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua ... "

*** Bóng người thương binh TQLC dần lẫn vào đám đông những người buôn thúng bán bưng ....những đứa trẻ gầy gò bưng bình trà đá bán dạo tại bến xe ... 


Trời trưa nắng chang chang nhưng tôi nghe như mưa đổ trong lòng ... Cơn mưa khóc hận cho miền Nam hưng thịnh nhân bản ngày nào bây giờ đang sống dưới tay loài quỉ Đỏ ... 

Và từ đó tôi không có dịp gặp lại ngưòi thương binh TQLC đó ... Không biết anh trôi dạt nơi nào ....  

Tôi là một cựu bộ đội đảng viên, đã từng bị Đảng CSVN xua vào Nam cùng với hàng triệu thanh niên miền Bắc khác vào xâm lược miền Nam qua ngã "Đường Mòn Hồ Chí Minh" để "giải phóng miền Nam".

Tôi bị lính Biệt Động Quân VNCH phục kích bị thương nặng tại Tây Nguyên năm 1972 và được chính họ cứu sống trong tình ANH EM cùng MỘT MẸ.

  • Lính Biệt Động Quân VNCH đã cứu tôi tại chiến trường Tây Nguyên (mà VNCH gọi là Cao Nguyên). Sau đó họ dùng trực thăng đưa tôi tới Quân Y Viện Pleiku, nơi đây, họ đặt tôi trên gường để sơ cứu tôi chung với lính VNCH. Chiến trường năm 72 rất ác liệt nên thương binh VNCH cũng rất nhiều. Họ cho tôi năm trên giường trong khi rất nhiều thương binh VNCH nằm dưới đất. Điều này làm tôi rất xúc động. Sau đó VNCH đưa tôi đến một khu riêng để điều trị thương binh của Bắc Việt. Nới này có Quân Cảnh VNCH canh gác.
  • Khi vết thương tôi tạm ổn thì họ đưa tôi về trại tù binh Pleiku, sau đó thì đưa ra trại tù binh Trung Ương Phú Quốc. Tại trại tù binh của VNCH, họ đối xử với chúng tôi rất tử tế, cho ăn uống đầy đủ, rất ngon, trái với khi chúng tôi bị đói rách, chết chóc trên đường Trường Sơn. Nói tóm lại, trong trại tù binh chúng tôi được sống như "thiên đàng". Và từ Phú Quốc, máy bay C130 chở chúng tôi ra sông Bến Hải trao trả tù binh năm 1973.
  • Tôi đã nhận thấy sự nhân bản, yêu đất nước, con người đích thực của xã hội miền Nam VN, trái với sự lừa lọc, láo khoét, dối trá mà đảng CSVN tuyên truyền cho chúng tôi khi còn ở ngoài Bắc. Năm 1973 tôi bị trao trả về miền Bắc và tiếp tục phải sống trong cảnh đói nghèo và tối tăm trong xã hội miền Bắc Cộng Sản.
Về tài liệu BĐQ bắt giữ tù binh và cứu chữa bệnh nhân tại Quân Y Viện thì tôi không biế hay không? VNCH có quay làm tài liệu hay không thì tôi vẫn chưa thấy vì khi chiến sự xảy ra, ít phóng viên nào đến tận chiến trường cả. Về Video cảnh trao trả tù binh thì có bài hát mà tôi "favourite" trong channel của tôi "xin tron tuoi loan" có cảnh Quân Cảnh VNCH chuẩn bị trao trả tù binh.

Sau 1975 thì sự xảo trá của cộng sản VN càng hiện rõ khi chúng vào Nam cướp bóc của cải đem về Bắc, cướp nhà cửa ruộng vườn của người dân Nam khiến dân cả nước phải sống trong bần cùng. Cộng sản VN trả thù người lính VNCH bằng cách đẩy hàng trăm ngàn người cựu lính VNCH vào các trại tù khổ sai ... Đó là những chính sách "giải phóng" hay sao?

Ngày nay tôi cảm thấy rất đau lòng khi thấy đất nước VN còn đói rách, tham nhũng hoành hành. Con gái thì bị buôn bán như nô lệ tình dục và con trai thì bôn ba đi làm nô lệ lao động. Ngày nay bọn CSVN dâng đất cho Trung Quốc để được yên thân , mặc sức vơ vét dân VN. "Sự nghiệp giải phóng" của cộng nô chỉ là trò lưu manh cướp giựt. Tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ vì đã từng tham gia vào đội quân cướp bóc CSVN mặc dù tôi bị cưỡng ép. Tôi nghĩ bạn bè, đồng đội của tôi với hơn "HAI Triệu Người" đã vùi thây trên con đường chết chóc mang tên "Hồ Chí Minh", hẳn sẽ không được ngậm cười nơi Chín Suối khi nhìn thấy sự "hy sinh" của họ mang một kết cuộc bi thảm như xã hội VN ngày nay.

Hiện nay tôi vào Youtube để chia sẻ với các bạn trẻ về những kinh nghiệm đau thương với cộng sản mà tôi và những thanh niên miền Bắc đã trãi qua. Tuy nhiên bọn công an mạng luôn tìm cách truy lùng và đánh phá tôi. Chúng đã đánh sập channel của tôi đến hai lần. Lần đầu chúng đánh sập nick canbobodang vào tháng 10 năm 2009 và lần thứ hai chúng đánh sập nick canboroibodang vào tháng 3 năm 2010. Nhân dịp này, tôi xin cám ơn những tấm thịnh tình của những người bạn tôi, những người cùng chí hướng CHỐNG CỘNG đã cùng tôi ngày đêm làm cho bọn cộng nô ăn không ngon, ngủ không yên.

Cho dù bọn VC có đánh sập channel tôi bao nhiêu lần đi chăng nữa, chúng vẫn không bao giờ dập tắt được ngọn lửa đấu tranh đang bừng cháy trong tôi. Và nếu chúng "dập" được tôi thì còn biết bao nhiêu người đặc biệt là thế hệ trẻ trong và ngoài nước sẽ cùng nhau DIỆT CỘNG cứu nước Việt Nam.
canbobodang

Chào bạn VNCHDalat,
Cám ơn bạn hỏi thăm về câu chuyện này. Đây là câu chuyện tôi kể lại khi tôi còn nick canboroibodang (mà bị công an mạng đánh sập đầu năm nay). Câu chuyện này được bạn trẻ VirtuousRebel copy lại và làm nên cái clip "Rừng Lá Thấp" để tưởng nhớ đến những người lính Cộng Hòa. Đây là câu chuyện tôi đã chứng kiến.


Cảm ơn VNCHdalat đã cho thêm chi tiết về câu chuyện cảm động này.
Jason Nguyen



 

(Việt Cộng hay bản chất khát máu với đồng đội tại nơi trao trả tù binh và những người tìm Tự Do Cuối Cuộc Chiến.)                                               
Bờ sông Thạch Hản Quảng Trị nơi
trao trã tù binh năm 1973


  Sự cố! Một danh từ mà phe Việt Cộng mang vào thủ đô Sài Gòn của chính quyền miền Nam VNCH ngay sau buổi trưa ngày 30-4-1975. Sự cố, nguyên là từ Hán Việt chỉ một việc vừa xảy ra (Chữ Sự thuộc bộ Quyết, chữ Cố thuộc bộ Phác) nhưng hầu như được hiểu là điều bất thường và không hay xảy ra trong một quá trình hoạt động nào đó: Máy có sự cố, có sự cố trên đường đi... (Đại Từ điển tiếng Việt, trang 1408). Ít người thuộc phía miền Nam VNCH biết đến danh từ này ngoại trừ những ai đã từng có thời gian làm việc, sống gần với phe Việt Cộng như trong các phiên họp, tù giam ở các nhà lao, nhà máy, khu vực doanh trại bộ đội...

Bài viết này, tác giả viết về các sự cố xảy ra ở những buổi trao trả tù binh cho phe Việt Cộng trong thời kỳ thi hành Hiệp Định Ba Lê 1973. Trước tiên, tác giả xin giải thích chữ Việt Cộng dùng trong bài viết là để chỉ chung Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng miền Nam (tức Mặt Trận Giải Phóng và sau này họ cải danh là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam (sau ngày 6-6-1969) nhưng ai cũng biết cả hai phe họ đều là một và đều do chính quyền Hà Nội chỉ huy).

Ngoại trừ phần lớn tù binh quân nhân Hoa Kỳ (hầu hết là phi công) được phe Việt Cộng trao trả tại sân bay Gia Lâm ở Hà Nội (giam tập trung ở nhà lao Hỏa Lò sau vụ tập kích Sơn Tây ngày 20-11-1970) thì chỉ có một số rất ít tù binh quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh như Úc, Tân Tây Lan... được trao trả tự do tại Lộc Ninh. Về tù binh các bên người Việt thuộc phía chính quyền miền Nam VNCH và Việt Cộng được Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát (việc thi hành Hiệp Định Ba Lê) ấn định sẽ được trao trả tại các địa điểm như bờ sông Thạch Hãn (tỉnh Quảng Trị), Đức Phổ (tỉnh Quảng Ngãi), Bồng Sơn (tỉnh Bình Định), Lộc Ninh, Minh Hòa (tỉnh Bình Long), Bình Thủy (tỉnh Cần Thơ)...

Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát có tên là International Commission of Control and Supervision (gọi tắt là ICCS) đã ấn định 4 đợt trao trả chính như sau:

  • Đợt 1 khởi sự từ 12 tháng 2 đến 26 tháng 2 năm 1973 và phía miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 7000 (bẩy ngàn) tù binh (bao gồm cán binh trong các lực lượng võ trang cùng tù chính trị) để nhận lại 1032 (một không ba hai) người (thuộc quân nhân, công chức, cán bộ) và 163 tù binh quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
  • Đợt 2 khởi sự từ ngày 8 cho đến ngày 13 tháng 3, phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng là 5.596 (năm ngàn năm chín sáu) người để nhận lại 1.004 (một ngàn lẻ bốn) người cùng 142 quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
  • Đợt 3 khởi sự từ ngày 14 cho đến ngày 19 tháng 3, phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 7.294 (bẩy ngàn hai chín tư) người để nhận lại 1.214 (một ngàn hai một bốn) người cùng 140 quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
  • Đợt 4 khởi sự từ 23 đến tháng 4 năm 1973, phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 6.619 (sáu ngàn sáu một chín) người để nhận lại 2.178 (hai ngàn một bẩy tám) người cùng 149 quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
                                                        
                                                                   
Những tù binh cộng sản trước giờ trao trã Mỗi ngày trao trả thường có từ 8 đến 10 chuyến máy bay vận tải C 130 của phía chính quyền miền Nam VNCH chở tù binh phe Việt Cộng đến tại nơi trao trả. Tù binh thuộc Cộng Sản Bắc Việt (các lực lượng chánh qui xâm nhập) được trao trả tại Quảng Trị (bờ sông Thạch Hãn) và tù binh thuộc Việt Cộng miền Nam (gồm tù chính trị, các lực lượng võ trang địa phương...) được trao trả tại nhiều địa điểm ở miền Nam.


Ngoài ra, còn có các vụ trao trả lẻ tẻ không đúng theo kế hoạch mà ICCS đã dự trù. Nơi trao trả tù binh người Việt đầu tiên là tại Lộc Ninh thuộc tỉnh Bình Long. Ta biết Lộc Ninh (cấp quận) nguyên là một vùng dân cư hẻo lánh nằm cạnh thung lũng sông Rừng Cấm của tỉnh Bình Long, khi trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) xẩy ra thì Lộc Ninh lọt vào tay Việt Cộng (vào ngày 7 tháng 4) và kể từ đây, Lộc Ninh trở thành thủ đô của cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Ở Lộc Ninh có một phi trường nhỏ nằm giữa rừng cao su, cách quốc lộ 13 khoảng 1 km (thuộc quyền kiểm soát của trung đoàn 9 Bộ Binh miền Nam VNCH trước đó) và đã trở thành nơi để trao trả tù binh.

THÚ TÍNH CỦA CỘNG SẢN VỚI ĐỒNG ĐỘI CỦA MÌNH

Các sự cố đã xẩy ra trong các buổi trao trả mà đều do tù binh phe Việt Cộng gây ra. Trong ngày cuối của đợt 2, một tù binh Việt Cộng tên Nguyễn Văn Chẳng (nguyên là quân nhân thuộc Công Trường 9) trong lúc chờ làm các thủ tục thì đột nhiên, anh ta xin được quay về trại tù (Phú Quốc) thay vì sẽ đi sang phần đất thuộc phe Việt Cộng (các lều dã chiến gần đó) để nhận tư trang mới. Sự chọn lựa của tù binh Nguyễn Văn Chẳng là một bất ngờ, làm bối rối tất cả những nhân viên có nhiệm vụ tiến hành việc trao trả-nhận lãnh người đang có mặt tại chỗ (bao gồm đại diện ICCS, phía miền Nam VNCH cùng phe Việt Cộng). Khi được thông báo tin có tù binh xin ở lại (không về với rừng sâu âm u cùng các đồng đội-đồng chí nữa) thì khá đông các tù binh Việt Cộng khác (từ các lều bên phe Việt Cộng) liền xông đến và đả thương anh Nguyễn Văn Chẳng liền. Các đại diện của ICCS cùng nhân viên phía miền Nam VNCH liền nhẩy vào can thiệp, đám tù binh gây rối bị giải tán và bị buộc phải quay trở về chỗ cũ (các lều dã chiến). Nguyễn Văn Chẳng được các đại diện của ICCS đưa gặp các nhân viên phía chính quyền miền Nam VNCH để làm các thủ tục mới về trường hợp của cá nhân anh (chuyển sang quy chế chiêu hồi) nhưng thật không ngờ, anh ta lại đổi ý lần nữa và xin được trao trả về với đồng đội của mình. ICCS đành tiến hành tiếp các thủ tục bàn giao anh ta cho phe Việt Cộng. Việc anh Nguyễn Văn Chẳng vừa xong thì chỉ chốc lát sau, có một tù binh thứ hai (không rõ tên) xin được ở lại phía chính quyền miền Nam VNCH. Khi được thông báo, các đại diện của ICCS đã vội cách ly anh nầy đến một chỗ khá xa các lều dã chiến của phe Việt Cộng (có lẽ họ rút kinh nghiệm từ chuyện đả thương vừa rồi). Khi các thủ tục cho việc xin ở lại này đã xong, đại diện của ICCS đã hộ tống người thứ hai này ra đến tận máy bay trong chuyến quay về lại phi trường Biên Hòa.

                                                    
Những tù binh trước giờ trao trả đã thanh toán nhau


ICCS đang hộ tống một tù binh xin được ở lại theo quy chế chiêu hồi của VNCH

ICCS là tên gọi tắt của International Commission of Control and Supervision mà được dịch là Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát (việc thì hành Hiệp Định Ba Lê 1973) nguyên khởi đầu có 4 quốc gia thành viên là Indonesia, Canada, Ba Lan và Hung Gia Lợi. Cuối tháng 7-1973 thì Canada từ bỏ nhiệm vụ và ra khỏi tổ chức ICCS (lý do là một thành viên người Canada bị phe Việt Cộng bắt giam và hăm dọa vô lý do) để liền sau đó, ghế trống này được thế bằng quốc gia Iran (tháng 1-1974) cho đến khi tàn cuộc chiến. Trong cuộc chiến tại Ban Mê Thuột (bắt đầu từ ngày 10-3-1975) phe Việt Cộng còn công khai bắt giữ 2 đại diện ICCS của Indonesia và Iran (cấp đại úy) và chỉ trao trả họ về nước sau khi đã chiếm được toàn miền Nam VNCH. Những phương tiện đi lại của ICCS (máy bay, xe cộ, tàu thuyền...) đều được sơn 4 vạch mầu da cam để tránh ngộ nhận có thể bị tác xạ. Thực tế đã có các vụ tác xạ vào phi cơ trực thăng UH (do phe Việt Cộng gây ra) nhưng được bào chữa là do phi công bay lạc nên phía Việt Cộng hiểu lầm là phía miền Nam VNCH cố tình sơn 4 vạch để bay đánh phá vùng cách mạng. ICCS không hoạt động từ đầu năm 1975 (vì sự vi phạm trắng trợn của phe Việt Cộng khi công khai tiến chiếm tỉnh Phước Long trong ngày 6-1-1975) cho đến khi tự động chấm dứt nhiệm vụ trong ngày 30-4-1975.

Mỗi buổi trao trả đều có mặt đại diện của ICCS và 4 bên gồm Mỹ, miền Nam VNCH, Việt Cộng miền Nam và Cộng Sản Bắc Việt (gọi là Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự (UBLHQS)có trụ sở chính là trại Davis nằm trong phi trường Tân Sơn Nhứt)

Ngày 25-3 (cuối đợt 4) tại phi trường Biên Hòa, trong khi chờ đợi được trao trả cho phe Việt Cộng, 210 (hai trăm mười) tù binh xin được ở lại phần đất của chính quyền miền Nam VNCH thay vì về với phe Việt Cộng. Con số người hồi chánh quá đông đã gây bối rối cho tất cả các thành viên của ICCS cùng UBLHQS nên sự quyết định không được thống nhất. Số tù binh này liền tỏ ý quyết liệt, sẽ tự sát tại chỗ nếu như họ bị buộc phải trả về cho phe Việt Cộng. Cuối cùng ý nguyện của họ được chấp thuận.


                                                          






Hai bên bờ sông Thạch Hản, nơi trao trả tù binh năm 1973


Tại sao lại có một con số quá đông tù binh xin chọn được hồi chánh khi mà cảnh xum họp với đồng đội mình chỉ sẽ diễn ra trong khoảng khắc? Câu trả lời sẽ không lạ khi ta quay trở về đợt trao trả đầu tiên tại phi trường Lộc Ninh. Buổi xế trưa ngày 22-2-1973, vừa được trao trả xong thì một nữ tù binh (trong số 904 phụ nữ) tên Bùi (người gốc Bình Định) đã bị bạn đồng tù giết chết trước sự chứng kiến của các nhân viên ICCS cùng UBLHQS. Thấy có người bị giết chết, các đại diện của ICCS đòi lập biên bản, phía chính quyền miền Nam VNCH đòi phe Việt Cộng phải trao trả lại các hung thủ để họ sẽ truy tố. Đại diện của phe Việt Cộng (trong UBLHQS) từ chối với lý do người của họ phải để cho họ giải quyết và họ đã hứa sẽ thi hành (có hay không thì không ai biết) khi về tới căn cứ (sâu tuốt luốt trong rừng). Sau cùng, sự việc đành phải để êm xuôi vì trong Hiệp Định Ba Lê không có chi tiết về giải quyết các hành vi bạo động trong việc trao trả tù binh (Điều 8, Chương III). Một sĩ quan thuộc binh chủng Quân Cảnh miền Nam VNCH (tên Đoàn C Hậu) đã kể lại những nữ tù binh tham dự việc thủ ác như sau: " Từ lúc còn ở sân trại giam Cần Thơ cho đến khi chờ lên máy bay C 130 để đến đây (Lộc Ninh), cái đám giặc cái này lúc nào cũng lấy khăn che kín mặt như sợ ai nhìn thấy, biết tụi nó là Việt Cộng...

210 tù binh phe Việt Cộng xin được ở lại miền Nam VNCH vì họ sợ hình ảnh thảm sát bởi đồng đội một khi đã bước chân hẳn vào rừng sâu âm u, không còn ICCS hoặc UBLHQS để có thể can thiệp. Những vụ tù binh bị bạn đồng tù giết chết trong các trại giam (Phú Quốc, Côn Đảo...) không xa lạ với các tù binh Việt Cộng. Nhẹ thì bị vây đánh tập thể, xô té xuống giếng nước (khi tắm rửa-giặt giũ)... Nặng thì bị móc bóng đèn (1 hoặc 2 mắt), lấy ráy tai (cây sắt đâm xuyên qua 2 tai)... và có thể tin tức về vụ giết người tại phi trường Lộc Ninh (trong buổi trao trả ngày 22-2-1973 kể trên) đã được các quân nhân Quân Cảnh miền Nam VNCH kể lại cho các tù binh nghe. Địa ngục trần gian mà phe Việt Cộng thường kể về các trại tù binh của chính quyền miền Nam VNCH (tại Phú Quốc, Côn Đảo...) chính là vì có những quỷ sứ (cái gọi là chi bộ Đảng CS trong nhà tù) sống lẫn lộn trong các phòng giam chứ không là ai khác.


                                      


Trong các buổi trao trả, tổng cộng có tất cả là 240 tù binh phe Việt Cộng xin được ở lại phần đất thuộc phía chính quyền miền Nam VNCH (chuyển sang quy chế chiêu hồi) và không hề có một tù binh phía miền Nam VNCH nào xin được ở lại với phe Việt Cộng.


Đặc biệt có một tù binh phe Việt Cộng (thuộc thành phần chính trị) được phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả nhưng phe Việt Cộng cương quyết không tiếp nhận dù biết rõ nhân thân tù binh này là đảng viên Cộng Sản (được kết nạp vào đảng ngày 3-2-1966), có bí L.71 khi y hoạt động trong nội đô Sài Gòn. Tù binh đó là Huỳnh Tấn Mẫm, người có thời là quyền Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn (1969). Huỳnh Tấn Mẫm sinh năm 1943 tại Gia Định (ngoại ô Sài Gòn), sinh viên Đại học Y Khoa (1963)... Phe Việt Cộng giao cho Mẫm nhiệm vụ bằng mọi cách y phải nắm được những vị trí hợp pháp, công khai trong tập thể sinh viên để dấy lên mạnh mẽ phong trào sinh viên-học sinh đấu tranh ngay tại thủ đô Sài Gòn và y đã thi hành các việc phá rối-trị an như: Đốt xe Mỹ, Hát cho đồng bào tôi nghe (kêu gọi phản chiến có một phía), Chống Quân Sự Học Đường...

Sau 2 vụ Biệt Động Thành Việt Cộng (T4) ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật (ngày 28-6-1971) và giáo sư Nguyễn Văn Bông (ngày 10-11-1971) thì Huỳnh Tấn Mẫm bị bắt giam (ngày 5-1-1972) cho đến 20-2-1974 thì phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả y tại Lộc Ninh (chung với gián điệp Huỳnh Văn Trọng, luật sư Nguyễn Long, sinh viên Cao Thị Quế Hương...) nhưng phe Việt Cộng đã từ chối. Phía chính quyền miền Nam VNCH đành phải đưa Mẫm trở về, nhưng biết chắc nếu thả ra, y ta sẽ lại lãnh đạo một số sinh viên-học sinh ở thủ đô Sài Gòn và lợi dụng luật pháp để tiếp tục phá rối trị an xã hội. Chính quyền miền Nam VNCH đã giam y tại nhà lao Chí Hòa rồi chuyển sang giam tại Tổng Nha Cảnh Sát. Hai tháng sau, ngày 21-4-1974, Mẫm được chuyển ra trại chiêu hồi tại eo biển Lagi-Hàm Tân cho đến tháng 4-1975 thì nhân viên coi trại chuyển Mẫm về giam tại Sài Gòn (bót cảnh sát gần Thảo Cầm Viên). Ngày 29-4-1975, Mẫm được trả tự do và ngay sau đó (buổi tối) y lên tiếng trên hệ thống truyền thanh (Radio và Truyền hình), ngỏ lời cám ơn những người đã ủng hộ y và y yêu cầu chính quyền miền Nam VNCH thả hết tù chính trị, kêu gọi đồng bào hãy ở lại, đừng di tản ra nước ngoài.

Tại sao phe Việt Cộng lại cố tình không tiếp nhận tù binh Huỳnh Tấn Mẫm (nêu lý do Mẫm là sinh viên, không phải là tù binh (trong các lực lượng võ trang) và yêu cầu chính quyền miền Nam VNCH trả Mẫm về với gia đình). Có người cho là phe Việt Cộng làm vậy vì họ còn muốn lợi dụng Mẫm (ở thế hợp pháp sống trong lòng nội đô Sài Gòn) nhưng làm vậy, họ đã đẩy Mẫm phải tiếp tục cảnh tù đầy (bởi các quyết định của đồng chí mình). Phe Việt Cộng đối xử với Mẫm như vậy vì có thể thấy nếu tiếp nhận y vào mật khu thì khi có dịp tiếp xúc với các người trẻ khác (thanh niên dễ hòa đồng với nhau), có thể sẽ y gieo vào đầu óc họ các ý tưởng đấu tranh-biểu tình (như khi y còn hoạt động ở nội đô Sài Gòn). Và, nếu sự việc có vậy thì họ sẽ giải quyết trường hợp y ra sao? Làm giống như chính quyền Hà Nội đã làm (bắt tập trung cải tạo) với những công nhân (hồi hương từ nước Pháp về miền Bắc Việt Nam ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến) đã lãn công, biểu tình (trước nhà máy) khi thấy công đoàn (đoàn viên đoàn Thanh Niên Lao Động) chà đạp quyền lợi của một số công nhân trong phân xưởng làm việc. Tốt hơn hết để cho chính quyền miền Nam VNCH tiếp tục giam cầm Mẫm trong bối rối (tìm cách giải quyết).


3 TÙ BINH VNCH ĐỔI LẤY 1.200 TÙ BINH VIỆT CỘNG

Nhìn các con số tù binh được trao trả trên đây, ai cũng thấy phía chính quyền miền Nam VNCH trả tự do nhiều người hơn bên phe Việt Cộng. Có buổi trao trả, phía chính quyền miền Nam VNCH trao cho phe Việt Cộng 1200 (một ngàn hai trăm) tù binh để nhận lại chỉ vỏn vẹn có 3 người tù mà họ phải nằm trên cáng như ở buổi trao trả ngày 21-3-1973 tại bờ sông Thạch Hãn.

                                             
3 tù binh VNCH đổi lấy 1200 tù binh VC

Phe Việt Cộng thường rêu rao phía chính quyền miền Nam VNCH thường cố tình ém nhẹm con số tù binh và họ phải làm dữ (tiếp tục đấu tranh) thì phía chính quyền miền Nam VNCH mới trao trả 3.506 (ba ngàn năm không sáu) tù binh cho đợt cuối cùng (từ ngày 8-2 đến ngày 7-3-1974). Trong các phiên họp của UBLHQS tại trại Davis, phe Việt Cộng vẫn lải nhải nói là không còn giam giữ bất kỳ một tù binh thuộc phía chính quyền miền Nam VNCH và giải thích tù binh phía chính quyền miền Nam VNCH bị bắt trong chiến dịch Lam Sơn 719 là do Pathet Lào cầm giữ (trường hợp điển hình là đại tá Nguyễn Văn Thọ (Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù) cũng như họ chối nói không biết về các tù binh biệt kích (chương trình OPLAN-34) của miền Nam VNCH bị bắt trên vĩ tuyến 17. Sau ngày 30-4-1975, những tù binh này tiếp tục ở tù thêm nhiều năm thì mới được thả. Về các tù binh Hoa Kỳ, phe Việt Cộng vẫn chối, nói không còn giam giữ bất kỳ người nào khi chiến tranh chấm dứt (quân nhân Mỹ cuối cùng rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt vào ngày 29-3-1973) nhưng vào mùa Hè năm 1976, sau khi có sự tiếp xúc giữa nhân viên sứ quán Việt Cộng tại Paris-Pháp Quốc và một cựu nhân viên CIA (Frank Snepp) thì chính quyền Hà Nội đã trao cho chính quyền Hoa Kỳ danh sách mới của 12 quân nhân Mỹ mất tích. Những nguồn tin từ các người tù thuộc chính quyền miền Nam VNCH (thời gian bị tập trung tù cải tạo sau ngày 30-4-1975) cho biết, họ đã từng thấy (tận mặt) các tù binh Hoa Kỳ còn sống tại các trại giam đèo heo hút gió ở miền Bắc VN.

Phía chính quyền miền Nam VNCH đã không thể trao trả cho phe Việt Cộng một tù binh nổi tiếng khác vì lý do người này khăng khăng không nhận cấp bậc và chức vụ thật của y. Đó là Nguyễn Tài (hay Nguyễn Công Tài, con ruột nhà văn Nguyễn Công Hoan), mang cấp bậc là đại tá và là Thứ trưởng Bộ Công An của Cộng Sản Bắc Việt. Nguyễn Tài bị cảnh sát quốc gia bắt được khi hoạt động gián điệp tại nội đô Sài Gòn nhưng dù đã thấy các bằng chứng về mình (do cảnh sát miền Nam VNCH chưng ra), y vẫn chối, nói một cái tên khác và khai cấp bậc y chỉ là Đại úy. Chính vậy mà phía chính quyền miền Nam VNCH không thể trao trả y cho phe Việt Cộng trong các buổi trao trả tù binh được. Ngày 30-4-1975 Nguyễn Tài được một nhân viên cảnh sát quốc gia giải thoát khỏi nhà lao Chí Hòa nhưng khi về với phe mình thì y đã bị cấp trên nghi ngờ về lòng trung thành của bản thân. Y như trường hợp của các cựu tù binh Việt Cộng khác sau khi được tha, họ phải tập trung tại các trại an dưỡng ở Sầm Sơn-Thanh Hóa và phải buộc làm kiểm điểm nhiều lần y như đang bị ở tù lần nữa. Lãnh đạo phe Việt Cộng có cái suy nghĩ quái gở là khi nhận lãnh tù binh bên phe mình về thì một mặt gọi các tù binh nầy là anh hùng, kẻ chiến thắng... nhưng mặt khác thì lại nghi ngờ về sự trung thành của họ. Thậm chí có lãnh đạo đảng còn muốn các tù binh khi bị sa vào tay chính quyền miền Nam VNCH (tại mặt trận hay trên đường hoạt động) thì người đó nên chết đi còn hay hơn là ở tù (trong tay đối phương) và để cấp trên phải đi lãnh về.

Ngày nào đó, nếu có một tù binh Hoa Kỳ còn sống mà vượt thoát được đến nơi tự do, thì đây sẽ là một sự cố lớn trong các sự cố về việc trao trả tù binh của các bên tham chiến trong thời chiến tranh tại Việt Nam. (nguồn  http://ubtttadcsvn.blogspot.de/2012/09/su-co-tai-noi-trao-tra-tu-binh-ben-phe.html)

BÀI ĐỌC THÊM:

1.Những Phi Vụ Trao Trả Tù Binh
http://768kq.blogspot.de/2013/07/nhung-phi-vu-trao-tra-tu-binh.html
2.Trại tù binh Phú Quốc 1973
http://tienggoicongdan.com/2013/04/21/trai-tu-binh-phu-quoc-1973/
3.Tù Binh, anh đi về đâu?
http://kinhdotruyen.com/tac-gia-phan-nhat-nam/truyen-tu-binh-va-hoa-binh-loai-tu-binh-anh-di-ve-dau-16474.html

Trịnh Khánh Tuấn, ngày 14.11.2013


                                                                             


Thư Bộ đội cu Hồ gửi Anh Lính Miền Nam
by Một cựu bộ đội cu Hồ trong đoàn “giải phóng quân” 1975.

Nguyễn Bá Chổi vừa nhận được lá thư dưới đây của của một cựu bộ đội cụ Hồ qua đường bưu điện. Nhận thấy nội dung liên quan đến “đại thắng mùa xuân” mà “đảng ta” đang chuẩn bị ăn mừng ngày kỷ niệm lần thứ 38, Chổi xin quá giang Danlambao cho đăng lại nơi đây sau khi được sự đồng ý của tác giả bức thư với điều kiện dấu tên. Tiện thể, người nhận xin gửi nơi đây lời cám ơn đến anh cựu “giải phóng quân” Cách Mạng đã chia sẻ tâm sự phản tỉnh với “Ngụy quân”.



Anh Chổi, 
Trước hết tôi xin phép anh, thú thật, nhờ đọc những bài viết của anh suốt mấy năm nay, từ Cu Tèo trong mục “Bác cháu ta lên mạng” đến Kỵ Binh rồi Nguyễn Bá Chổi, tôi biết được anh từng là một người lính trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước 30 tháng Tư 1975, và biết được tuổi anh với tôi cũng xêm xêm nhau. Tôi viết “xêm xêm” theo kiểu nói người Miền Nam các anh hay dùng để anh hay rằng tôi, một bộ đội cụ Hồ thập thành trước kia nay đã tự giác tự nguyện tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc trên con đường Ngụy-quân hóa và Mỹ-cút hóa (con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng ta đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp núp đồng Đô - theo văn phong kiểu anh viết vậy).

Bởi vì sau khi giải phóng Miền Nam, tôi khoái quê hương của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh. Xin anh đừng buồn hay thấy bị xúc phạm khi tôi dùng chữ “Ngụy” trong thư này, lý do giản đơn là, một phần do quen mồm quen mép, một phần khác quan trọng hơn là, nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy... Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng, mà bây giờ nhờ đọc qua loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” của Đặng Chí Hùng kèm theo những hình ảnh tư liệu dẫn chứng, tôi mới biết được thực sự ai ngụy ai ngay, nhưng đây không phải là nội dung tôi muốn đề cập đến trong thư này. 

Thưa anh Chổi, điều tôi muốn đề cập với anh hôm nay là cám ơn các anh đã... thua cuộc chiến tranh mà trước kia chúng tôi hăm hở gọi là “giải phóng Miền Nam”. Thực tế cho thấy đó là “giải phóng Miền Bắc”. Nói thế nghe ra là ”phản động”, nhưng thực chất là vậy. Nếu bác Hồ từng nói “Nước Việt nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” - cứ cho bác Hồ nói đúng đi, mặc dầu theo sách giáo khoa Cách mạng dạy thì Việt Nam ta không chỉ có một mà có tới 53 dân tộc (trong Nam các anh gọi là 53 sắc tộc, xem ra đúng hơn), thì ta cũng có thể nói, nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi. 

Thực tế đó là gì? Cũng giản đơn và dễ dàng như tòa án Hải Phòng vừa xử phạt tù anh em Đoàn Văn Vươn là nạn nhân, và phạt tù treo đám thủ phạm tép riu, còn đám đầu sỏ chủ mưu thì hoàn toàn vô can, trong vụ cưỡng chế tài sản nhân dân mà chính Thủ tướng kết luận “hoàn toàn trái pháp luật”. Nếu các anh không thua cuộc chiến thì bộ đội cụ Hồ chúng tôi đâu có thu được hàng tỷ khối chiến lợi phẩm mang về làm náo nức nhân dân Miền Bắc, trong đó có cậu bé 13 tuổi quê hương Xô Viết Nghệ Tĩnh sau này là nhà báo Huy Đức ghi lại: 

“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; Cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; Con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn. 

Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày [1], Thép Đã Tôi Thế Đấy [2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.” (Bên Thắng Cuộc). 

Còn chính bộ đội cụ Hồ như chiến sĩ gái Dương Thu Hương háo hức bao nhiêu trên đường giải phóng Miền Nam thì sau 30/4/75, khi vào đến Sài Gòn đã... Ta thử đọc trích đoạn cuộc trao đổi giữa cô với nhà báo Đinh Quang Anh Thái (*)

“Đinh Quang Anh Thái: Bà từng viết rằng, ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi các phụ nữ khác trong đoàn quân của bà trầm trồ trước sự trù phú vật chất của miền Nam thì bà ngồi khóc trên lề đường Sài Gòn. Bà có thể nhắc lại tâm trạng của bà lúc đó? 

-Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc. 

Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.” 

Rồi chuyện ông bác sĩ bộ đội cụ Hồ mà anh gặp tại nhà người bạn chiến hữu của anh ở Tân Định ngay sau khi mới giải phóng Sài Gòn trông như người ngoài hành tinh mới đến, cứ ngơ ngơ ngáo ngáo, bảo “có vào đây mới biết đồng bào Miền Bắc ngoài đó quá khốn khổ”. 

Anh Chổi ơi, vài mẩu chuyện trên đây là của vài ba cá nhân lẻ tẻ nhưng là đại diện cho tâm trạng chung của tuyệt đại bộ phận đoàn quân “đại thắng mùa xuân” ngay sau khi mèo mù vớ được cá rán Miền Nam đó anh. Bây giờ thôi những mẩu chuyện cá nhân để nhìn vào tổng thể sờ sờ trước mắt. 

Giá như ngày đó Mỹ không chịu cút, Ngụy không chịu nhào và các anh cứ tiếp tục giữ vững Miền Nam với chế độ Tư Bản một mình thì chúng tôi, tức Miền Bắc, cứ vẫn xếp hàng cả ngày và chỉ được tiêu chuẩn “mỗi năm ba tấc vải thô, lấy gì che kín cụ Hồ em ơi”, Ba Ếch cứ tiếp tục trốn chui trốn nhủi trong rừng tràm U Minh, đêm du kích ngày chích mông, chứ làm gì có nhà thờ họ hoành tráng lừng lựng giữa Rạch Giá như bây giờ. Nói chung không nhờ Miền Nam các anh thua thì làm gì chúng tôi được nếm mùi bã Tư bản để được như ngày nay. Không nhờ các anh bỏ của chạy lấy người thì của đâu cho Cách Mạng lấy làm giàu như bây giờ. Không nhờ các anh thua cuộc thì ngày nay chắc chắn Miền Bắc chúng tôi còn tệ hơn nước anh em XHCN Bắc Triều Tiên của cậu Giun Kim Ủn bây giờ. 

Nói túm lại, kỷ niệm ngày 30 tháng Tư 75 là để mừng cho Miền Bắc chúng tôi được giải phóng, chứ Miền Nam các anh thì bị một vố phỏng... nhớ đời này qua đời khác. Nhưng ở đời này, anh còn lạ gì, khốn nạn của người này là hạnh phúc của người kia. Thôi thì Miền Nam các anh đã hưởng lâu rồi, nhiều rồi, nhường cho đồng bào Miền Bắc chúng tôi được giải phóng một ti, cho công bằng. 

Cảm ơn anh đã đọc hết thư này của một người cựu thù cùng máu đỏ da vàng, cùng quê hương “ông bác” mà ngày nay mỗi lần nghe nhắc đến là tôi muốn độn thổ vì xấu hổ. 

Trân trọng chào Anh, 
Một cựu bộ đội cu Hồ trong đoàn “giải phóng quân” 1975. 
Sài Gòn, năm thứ 38 ngày Giải phóng Miền Bắc. 
 Nguồn:

• TÙ CẢI TẠO: TỘI ÁC CHỐNG NHÂN LOẠI CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM - Đỗ Ngọc Uyển

TÙ CẢI TẠO: 
TỘI ÁC CHỐNG NHÂN LOẠI CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đỗ Ngọc Uyển - 29-3-2014

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. 




Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.”

HÃY SO SÁNH khi Việt Cộng chiếm toàn cõi VN
------------
Tất cả những hình ảnh này do cá nhân chụp lại để làm kỷ niệm. Hoàn toàn không với mục đích tuyên truyền. Hãy nhìn kỹ những dáng dấp oai vệ; chứa đầy lòng nhân đạo, tình người cùng với tình yêu thương dân tộc; của những chàng Quân Cảnh của QLVNCH; người chăm sóc và bảo vệ luật pháp quân đội.
 

Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

“Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam
Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị “cào bằng,” không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… 



Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . .

Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:

  • Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
  • Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
  • Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
  • Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.


Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” thì “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps ...)

“Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam
Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:

  • Tội ác thứ 1 – Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế(Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)
Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.

Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

  • Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture)
Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:
a. Hành hạ bằng cách bỏ đói - Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.

Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…

b. Hành hạ thể xác - Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:

Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.

Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.

Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.

Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau. Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.

Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…

c. Tra tấn tinh thần - Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:

- Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) - Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng.

Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh. Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.

Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”

- Tự phê (Confession) - Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong lòng dân tộc.” Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.

Tự phê” một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…

  • Tội ác thứ 3 – Tội giết người (Murder)
Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên “chánh án” cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong “bản án giết người” đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.

Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…

  • Tội ác thứ 4 – Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)
Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.
  • Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)
Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 “trại tù cải tạo” của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. “Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm.”

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi “định cư” tại những “khu kinh tế mới” ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những “trại cải tạo.” Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh – cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực – là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi “học tập cải tạo” mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).
 


HÃY SO SÁNH VỚI NGƯỜI LÍNH VNCH ĐỐI XỬ 
VỚI NHỮNG CON THÊU THÂN

MrBinhBet
Bây Giờ đảng Rước Mỹ Vào. 
Đéo Ai Còn Nhớ Thằng Nào Chết Oan! 
Tiên Sư Cộng Sản Việt Nam. 
Cuối đời Bán Cả Giang San Nước Nhà. 
Hỏi Thằng Đồng Vẩu Tại Sao???. 
Minh Râu Lấy Biển Nước Tao Cho Tầu?

 
Photos & Video from YouTube: VNCH Former VC on HoChiMinh Trial - Chuyện Người Cán Bộ VC TrườngSơn Năm Xưa (1954-1975) - by canbobodang

Tôi còn nhớ rõ một buổi trưa nắng chang chang của năm 78, 79 gì đó. Đang ngồi đợi trên xe buýt ở Lăng Cha Cả khởi hành đi Chợ Lớn thì tôi nghe có tiếng hát rất hay, nhưng vô cùng u uất: "Rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi ... Thành phố sau lưng ...
Rồi bước lên xe là một thương binh VNCH trẻ khoảng 25,26 tuổi. 

Anh ta cụt một chân, trên cổ treo cây guitar vừa đàn hát vừa xin tiền. Anh ta mặc chiếc quần của Thủy Quân lục Chiến rằn sọc ngang, áo thun bạc phếch, trên đầu đội nón vải đi rừng của lính VNCH. *** 

Dường như một số người trên xe biết và có cảm tình với anh ta nên có lẽ nói cho mọi người đều biết: "Ảnh là Thủy Quân Lục Chiến, bây giờ tội nghiệp lắm ..." Người thương binh VNCH khẻ gật đầu như muốn chào mọi ngưòi nhưng vẫn hát.. 

Một bà cụ ngồi phía sau chạy lên dúi vào tay anh ta mấy cái bánh ú và hỏi: 
- "Q. sáng giờ con ăn gì chưa?". 

Người thương binh ngưng hát trả lời: 
- "Dạ, con ăn chút bánh mì rồi ngoại..." 

Thì ra bà cụ biết người thương binh này và vẫn thường giúp đỡ anh ta cho nên anh ta gọi bà cụ là ngoại. Đây cũng là cách gọi thân mật của người trong Nam. *** 

Lúc đó có nhiều người dúi tiền vào chiếc túi vải treo trước ngực người thương binh. Mỗi lần ai cho anh, anh đều nói:
- "Xin cảm ơn ông / bà". 

Dường như mọi người đều cho một ít như muốn nói "Tặng anh một chút để anh sống qua ngày ... 
Chúng tôi dù sao còn may mắn hơn anh ..." *** 

Khi anh ta bước gần đến tôi, nhìn gương mặt anh ta tôi có cảm tình ngay. Gương mặt sáng và thông minh. Anh tuy mất một chân nhưng rất rắn chắc. Tôi cũng lấy ít tiền dúi vào túi vải, anh ta nói :
- "Đa tạ ông". 

Tự dưng tôi cầm lấy tay anh ta và hỏi:
- "Anh bị thương năm nào?" 

Anh trả lời: 
- "Dạ em bị thương năm 1972 đó ông Thầy" 

Có lẽ anh ta nghĩ tôi là Sĩ Quan VNCH nên trả lời và gọi tôi "Ông Thầy". 

Tôi nghe thế tôi rất xúc động vì tôi cũng bị thương năm 1972... có điều là chúng tôi .... khác chiến tuyến nhưng tôi lại được lính Biệt Động Quân VNCH cứu sống...

Lính VNCH thường gọi sĩ quan là "Ông Thầy". Tôi thật xúc động. Một lối xưng hô đầy tình yêu thương và kính nể một cách tự nhiên, giữa binh sĩ và Sĩ Quan trong QLVNCH. 

Trái lại, chúng tôi gọi nhau là ĐỒNG CHÍ. Nhưng, ý chí chúng tôi không bao giờ ĐỒNG. CSVN không bao giờ tin ai cả. Ngay những người cùng "chí hướng", chúng cũng ngày đêm rình rập, ăn thua, kèn cựa , giết hại lẫn nhau để được ngoi lên cái vị trí mong muốn. 

Cả cha mẹ còn bị chúng đem ra đấu tố, giết hại. CSVN không màng tới sinh mạng, sự sống của con người. Chúng trơ trẽn nói rằng: "đẩy 100 bộ đội vào miền Nam, nếu 5 trong số 100 bộ đội này vào được trong Nam thì đó là một "thành công" của đảng"???!!! 

Tôi vội nói:
- "Tôi cũng bị thương năm 72..."
Anh ta dường như không chú ý câu nói của tôi và như có người chia sẻ, anh ta khe khẽ kể tiếp: 
- "Đơn vị Thủy Quân Lục Chiến của em chặn quân Bắc Việt tại bờ Nam sông Thạch Hãn vào tháng Tư năm 1972 ... tụi nó đông lắm, xe tăng, bộ binh của chúng đông nghẹt luôn ... Tiểu Đoàn 3 Sói Biển tụi em tuy chặn đứng chúng nhưng thiệt hại 50 % đó ông thầy ạ ... 
Em bị thương trận đó ... 
Bây giờ ... 
Khổ lắm ..." *** 

Anh bị thương năm 72, tôi cũng bị thương năm 72 ... Anh và tôi cùng được chữa trị bởi Quân Y Viện VNCH ... Không biết lúc đó tôi và anh có cùng Quân Y Viện không? Tôi lúc đó được nằm trên giường ... Anh có thể nằm ... dưới đất nhường chỗ cho tôi ...

Dường như nước mắt của cả tôi và anh ta đều giàn giụa ... Anh ta khẽ gật đầu chào và quay đi .... 

Anh bước xuống xe và tiếp tục lời hát : 
"... Sao không hát cho những bà mẹ từng đêm nhớ con xa ...
Hay hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua ... "

*** Bóng người thương binh TQLC dần lẫn vào đám đông những người buôn thúng bán bưng ....những đứa trẻ gầy gò bưng bình trà đá bán dạo tại bến xe ... 


Trời trưa nắng chang chang nhưng tôi nghe như mưa đổ trong lòng ... Cơn mưa khóc hận cho miền Nam hưng thịnh nhân bản ngày nào bây giờ đang sống dưới tay loài quỉ Đỏ ... 

Và từ đó tôi không có dịp gặp lại ngưòi thương binh TQLC đó ... Không biết anh trôi dạt nơi nào ....  

Tôi là một cựu bộ đội đảng viên, đã từng bị Đảng CSVN xua vào Nam cùng với hàng triệu thanh niên miền Bắc khác vào xâm lược miền Nam qua ngã "Đường Mòn Hồ Chí Minh" để "giải phóng miền Nam".

Tôi bị lính Biệt Động Quân VNCH phục kích bị thương nặng tại Tây Nguyên năm 1972 và được chính họ cứu sống trong tình ANH EM cùng MỘT MẸ.

  • Lính Biệt Động Quân VNCH đã cứu tôi tại chiến trường Tây Nguyên (mà VNCH gọi là Cao Nguyên). Sau đó họ dùng trực thăng đưa tôi tới Quân Y Viện Pleiku, nơi đây, họ đặt tôi trên gường để sơ cứu tôi chung với lính VNCH. Chiến trường năm 72 rất ác liệt nên thương binh VNCH cũng rất nhiều. Họ cho tôi năm trên giường trong khi rất nhiều thương binh VNCH nằm dưới đất. Điều này làm tôi rất xúc động. Sau đó VNCH đưa tôi đến một khu riêng để điều trị thương binh của Bắc Việt. Nới này có Quân Cảnh VNCH canh gác.
  • Khi vết thương tôi tạm ổn thì họ đưa tôi về trại tù binh Pleiku, sau đó thì đưa ra trại tù binh Trung Ương Phú Quốc. Tại trại tù binh của VNCH, họ đối xử với chúng tôi rất tử tế, cho ăn uống đầy đủ, rất ngon, trái với khi chúng tôi bị đói rách, chết chóc trên đường Trường Sơn. Nói tóm lại, trong trại tù binh chúng tôi được sống như "thiên đàng". Và từ Phú Quốc, máy bay C130 chở chúng tôi ra sông Bến Hải trao trả tù binh năm 1973.
  • Tôi đã nhận thấy sự nhân bản, yêu đất nước, con người đích thực của xã hội miền Nam VN, trái với sự lừa lọc, láo khoét, dối trá mà đảng CSVN tuyên truyền cho chúng tôi khi còn ở ngoài Bắc. Năm 1973 tôi bị trao trả về miền Bắc và tiếp tục phải sống trong cảnh đói nghèo và tối tăm trong xã hội miền Bắc Cộng Sản.
Về tài liệu BĐQ bắt giữ tù binh và cứu chữa bệnh nhân tại Quân Y Viện thì tôi không biế hay không? VNCH có quay làm tài liệu hay không thì tôi vẫn chưa thấy vì khi chiến sự xảy ra, ít phóng viên nào đến tận chiến trường cả. Về Video cảnh trao trả tù binh thì có bài hát mà tôi "favourite" trong channel của tôi "xin tron tuoi loan" có cảnh Quân Cảnh VNCH chuẩn bị trao trả tù binh.

Sau 1975 thì sự xảo trá của cộng sản VN càng hiện rõ khi chúng vào Nam cướp bóc của cải đem về Bắc, cướp nhà cửa ruộng vườn của người dân Nam khiến dân cả nước phải sống trong bần cùng. Cộng sản VN trả thù người lính VNCH bằng cách đẩy hàng trăm ngàn người cựu lính VNCH vào các trại tù khổ sai ... Đó là những chính sách "giải phóng" hay sao?

Ngày nay tôi cảm thấy rất đau lòng khi thấy đất nước VN còn đói rách, tham nhũng hoành hành. Con gái thì bị buôn bán như nô lệ tình dục và con trai thì bôn ba đi làm nô lệ lao động. Ngày nay bọn CSVN dâng đất cho Trung Quốc để được yên thân , mặc sức vơ vét dân VN. "Sự nghiệp giải phóng" của cộng nô chỉ là trò lưu manh cướp giựt. Tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ vì đã từng tham gia vào đội quân cướp bóc CSVN mặc dù tôi bị cưỡng ép. Tôi nghĩ bạn bè, đồng đội của tôi với hơn "HAI Triệu Người" đã vùi thây trên con đường chết chóc mang tên "Hồ Chí Minh", hẳn sẽ không được ngậm cười nơi Chín Suối khi nhìn thấy sự "hy sinh" của họ mang một kết cuộc bi thảm như xã hội VN ngày nay.

Hiện nay tôi vào Youtube để chia sẻ với các bạn trẻ về những kinh nghiệm đau thương với cộng sản mà tôi và những thanh niên miền Bắc đã trãi qua. Tuy nhiên bọn công an mạng luôn tìm cách truy lùng và đánh phá tôi. Chúng đã đánh sập channel của tôi đến hai lần. Lần đầu chúng đánh sập nick canbobodang vào tháng 10 năm 2009 và lần thứ hai chúng đánh sập nick canboroibodang vào tháng 3 năm 2010. Nhân dịp này, tôi xin cám ơn những tấm thịnh tình của những người bạn tôi, những người cùng chí hướng CHỐNG CỘNG đã cùng tôi ngày đêm làm cho bọn cộng nô ăn không ngon, ngủ không yên.

Cho dù bọn VC có đánh sập channel tôi bao nhiêu lần đi chăng nữa, chúng vẫn không bao giờ dập tắt được ngọn lửa đấu tranh đang bừng cháy trong tôi. Và nếu chúng "dập" được tôi thì còn biết bao nhiêu người đặc biệt là thế hệ trẻ trong và ngoài nước sẽ cùng nhau DIỆT CỘNG cứu nước Việt Nam.
canbobodang

Chào bạn VNCHDalat,
Cám ơn bạn hỏi thăm về câu chuyện này. Đây là câu chuyện tôi kể lại khi tôi còn nick canboroibodang (mà bị công an mạng đánh sập đầu năm nay). Câu chuyện này được bạn trẻ VirtuousRebel copy lại và làm nên cái clip "Rừng Lá Thấp" để tưởng nhớ đến những người lính Cộng Hòa. Đây là câu chuyện tôi đã chứng kiến.


Cảm ơn VNCHdalat đã cho thêm chi tiết về câu chuyện cảm động này.
Jason Nguyen



 

(Việt Cộng hay bản chất khát máu với đồng đội tại nơi trao trả tù binh và những người tìm Tự Do Cuối Cuộc Chiến.)                                               
Bờ sông Thạch Hản Quảng Trị nơi
trao trã tù binh năm 1973


  Sự cố! Một danh từ mà phe Việt Cộng mang vào thủ đô Sài Gòn của chính quyền miền Nam VNCH ngay sau buổi trưa ngày 30-4-1975. Sự cố, nguyên là từ Hán Việt chỉ một việc vừa xảy ra (Chữ Sự thuộc bộ Quyết, chữ Cố thuộc bộ Phác) nhưng hầu như được hiểu là điều bất thường và không hay xảy ra trong một quá trình hoạt động nào đó: Máy có sự cố, có sự cố trên đường đi... (Đại Từ điển tiếng Việt, trang 1408). Ít người thuộc phía miền Nam VNCH biết đến danh từ này ngoại trừ những ai đã từng có thời gian làm việc, sống gần với phe Việt Cộng như trong các phiên họp, tù giam ở các nhà lao, nhà máy, khu vực doanh trại bộ đội...

Bài viết này, tác giả viết về các sự cố xảy ra ở những buổi trao trả tù binh cho phe Việt Cộng trong thời kỳ thi hành Hiệp Định Ba Lê 1973. Trước tiên, tác giả xin giải thích chữ Việt Cộng dùng trong bài viết là để chỉ chung Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng miền Nam (tức Mặt Trận Giải Phóng và sau này họ cải danh là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam (sau ngày 6-6-1969) nhưng ai cũng biết cả hai phe họ đều là một và đều do chính quyền Hà Nội chỉ huy).

Ngoại trừ phần lớn tù binh quân nhân Hoa Kỳ (hầu hết là phi công) được phe Việt Cộng trao trả tại sân bay Gia Lâm ở Hà Nội (giam tập trung ở nhà lao Hỏa Lò sau vụ tập kích Sơn Tây ngày 20-11-1970) thì chỉ có một số rất ít tù binh quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh như Úc, Tân Tây Lan... được trao trả tự do tại Lộc Ninh. Về tù binh các bên người Việt thuộc phía chính quyền miền Nam VNCH và Việt Cộng được Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát (việc thi hành Hiệp Định Ba Lê) ấn định sẽ được trao trả tại các địa điểm như bờ sông Thạch Hãn (tỉnh Quảng Trị), Đức Phổ (tỉnh Quảng Ngãi), Bồng Sơn (tỉnh Bình Định), Lộc Ninh, Minh Hòa (tỉnh Bình Long), Bình Thủy (tỉnh Cần Thơ)...

Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát có tên là International Commission of Control and Supervision (gọi tắt là ICCS) đã ấn định 4 đợt trao trả chính như sau:

  • Đợt 1 khởi sự từ 12 tháng 2 đến 26 tháng 2 năm 1973 và phía miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 7000 (bẩy ngàn) tù binh (bao gồm cán binh trong các lực lượng võ trang cùng tù chính trị) để nhận lại 1032 (một không ba hai) người (thuộc quân nhân, công chức, cán bộ) và 163 tù binh quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
  • Đợt 2 khởi sự từ ngày 8 cho đến ngày 13 tháng 3, phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng là 5.596 (năm ngàn năm chín sáu) người để nhận lại 1.004 (một ngàn lẻ bốn) người cùng 142 quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
  • Đợt 3 khởi sự từ ngày 14 cho đến ngày 19 tháng 3, phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 7.294 (bẩy ngàn hai chín tư) người để nhận lại 1.214 (một ngàn hai một bốn) người cùng 140 quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
  • Đợt 4 khởi sự từ 23 đến tháng 4 năm 1973, phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 6.619 (sáu ngàn sáu một chín) người để nhận lại 2.178 (hai ngàn một bẩy tám) người cùng 149 quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
                                                        
                                                                   
Những tù binh cộng sản trước giờ trao trã Mỗi ngày trao trả thường có từ 8 đến 10 chuyến máy bay vận tải C 130 của phía chính quyền miền Nam VNCH chở tù binh phe Việt Cộng đến tại nơi trao trả. Tù binh thuộc Cộng Sản Bắc Việt (các lực lượng chánh qui xâm nhập) được trao trả tại Quảng Trị (bờ sông Thạch Hãn) và tù binh thuộc Việt Cộng miền Nam (gồm tù chính trị, các lực lượng võ trang địa phương...) được trao trả tại nhiều địa điểm ở miền Nam.


Ngoài ra, còn có các vụ trao trả lẻ tẻ không đúng theo kế hoạch mà ICCS đã dự trù. Nơi trao trả tù binh người Việt đầu tiên là tại Lộc Ninh thuộc tỉnh Bình Long. Ta biết Lộc Ninh (cấp quận) nguyên là một vùng dân cư hẻo lánh nằm cạnh thung lũng sông Rừng Cấm của tỉnh Bình Long, khi trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) xẩy ra thì Lộc Ninh lọt vào tay Việt Cộng (vào ngày 7 tháng 4) và kể từ đây, Lộc Ninh trở thành thủ đô của cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Ở Lộc Ninh có một phi trường nhỏ nằm giữa rừng cao su, cách quốc lộ 13 khoảng 1 km (thuộc quyền kiểm soát của trung đoàn 9 Bộ Binh miền Nam VNCH trước đó) và đã trở thành nơi để trao trả tù binh.

THÚ TÍNH CỦA CỘNG SẢN VỚI ĐỒNG ĐỘI CỦA MÌNH

Các sự cố đã xẩy ra trong các buổi trao trả mà đều do tù binh phe Việt Cộng gây ra. Trong ngày cuối của đợt 2, một tù binh Việt Cộng tên Nguyễn Văn Chẳng (nguyên là quân nhân thuộc Công Trường 9) trong lúc chờ làm các thủ tục thì đột nhiên, anh ta xin được quay về trại tù (Phú Quốc) thay vì sẽ đi sang phần đất thuộc phe Việt Cộng (các lều dã chiến gần đó) để nhận tư trang mới. Sự chọn lựa của tù binh Nguyễn Văn Chẳng là một bất ngờ, làm bối rối tất cả những nhân viên có nhiệm vụ tiến hành việc trao trả-nhận lãnh người đang có mặt tại chỗ (bao gồm đại diện ICCS, phía miền Nam VNCH cùng phe Việt Cộng). Khi được thông báo tin có tù binh xin ở lại (không về với rừng sâu âm u cùng các đồng đội-đồng chí nữa) thì khá đông các tù binh Việt Cộng khác (từ các lều bên phe Việt Cộng) liền xông đến và đả thương anh Nguyễn Văn Chẳng liền. Các đại diện của ICCS cùng nhân viên phía miền Nam VNCH liền nhẩy vào can thiệp, đám tù binh gây rối bị giải tán và bị buộc phải quay trở về chỗ cũ (các lều dã chiến). Nguyễn Văn Chẳng được các đại diện của ICCS đưa gặp các nhân viên phía chính quyền miền Nam VNCH để làm các thủ tục mới về trường hợp của cá nhân anh (chuyển sang quy chế chiêu hồi) nhưng thật không ngờ, anh ta lại đổi ý lần nữa và xin được trao trả về với đồng đội của mình. ICCS đành tiến hành tiếp các thủ tục bàn giao anh ta cho phe Việt Cộng. Việc anh Nguyễn Văn Chẳng vừa xong thì chỉ chốc lát sau, có một tù binh thứ hai (không rõ tên) xin được ở lại phía chính quyền miền Nam VNCH. Khi được thông báo, các đại diện của ICCS đã vội cách ly anh nầy đến một chỗ khá xa các lều dã chiến của phe Việt Cộng (có lẽ họ rút kinh nghiệm từ chuyện đả thương vừa rồi). Khi các thủ tục cho việc xin ở lại này đã xong, đại diện của ICCS đã hộ tống người thứ hai này ra đến tận máy bay trong chuyến quay về lại phi trường Biên Hòa.

                                                    
Những tù binh trước giờ trao trả đã thanh toán nhau


ICCS đang hộ tống một tù binh xin được ở lại theo quy chế chiêu hồi của VNCH

ICCS là tên gọi tắt của International Commission of Control and Supervision mà được dịch là Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát (việc thì hành Hiệp Định Ba Lê 1973) nguyên khởi đầu có 4 quốc gia thành viên là Indonesia, Canada, Ba Lan và Hung Gia Lợi. Cuối tháng 7-1973 thì Canada từ bỏ nhiệm vụ và ra khỏi tổ chức ICCS (lý do là một thành viên người Canada bị phe Việt Cộng bắt giam và hăm dọa vô lý do) để liền sau đó, ghế trống này được thế bằng quốc gia Iran (tháng 1-1974) cho đến khi tàn cuộc chiến. Trong cuộc chiến tại Ban Mê Thuột (bắt đầu từ ngày 10-3-1975) phe Việt Cộng còn công khai bắt giữ 2 đại diện ICCS của Indonesia và Iran (cấp đại úy) và chỉ trao trả họ về nước sau khi đã chiếm được toàn miền Nam VNCH. Những phương tiện đi lại của ICCS (máy bay, xe cộ, tàu thuyền...) đều được sơn 4 vạch mầu da cam để tránh ngộ nhận có thể bị tác xạ. Thực tế đã có các vụ tác xạ vào phi cơ trực thăng UH (do phe Việt Cộng gây ra) nhưng được bào chữa là do phi công bay lạc nên phía Việt Cộng hiểu lầm là phía miền Nam VNCH cố tình sơn 4 vạch để bay đánh phá vùng cách mạng. ICCS không hoạt động từ đầu năm 1975 (vì sự vi phạm trắng trợn của phe Việt Cộng khi công khai tiến chiếm tỉnh Phước Long trong ngày 6-1-1975) cho đến khi tự động chấm dứt nhiệm vụ trong ngày 30-4-1975.

Mỗi buổi trao trả đều có mặt đại diện của ICCS và 4 bên gồm Mỹ, miền Nam VNCH, Việt Cộng miền Nam và Cộng Sản Bắc Việt (gọi là Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự (UBLHQS)có trụ sở chính là trại Davis nằm trong phi trường Tân Sơn Nhứt)

Ngày 25-3 (cuối đợt 4) tại phi trường Biên Hòa, trong khi chờ đợi được trao trả cho phe Việt Cộng, 210 (hai trăm mười) tù binh xin được ở lại phần đất của chính quyền miền Nam VNCH thay vì về với phe Việt Cộng. Con số người hồi chánh quá đông đã gây bối rối cho tất cả các thành viên của ICCS cùng UBLHQS nên sự quyết định không được thống nhất. Số tù binh này liền tỏ ý quyết liệt, sẽ tự sát tại chỗ nếu như họ bị buộc phải trả về cho phe Việt Cộng. Cuối cùng ý nguyện của họ được chấp thuận.


                                                          






Hai bên bờ sông Thạch Hản, nơi trao trả tù binh năm 1973


Tại sao lại có một con số quá đông tù binh xin chọn được hồi chánh khi mà cảnh xum họp với đồng đội mình chỉ sẽ diễn ra trong khoảng khắc? Câu trả lời sẽ không lạ khi ta quay trở về đợt trao trả đầu tiên tại phi trường Lộc Ninh. Buổi xế trưa ngày 22-2-1973, vừa được trao trả xong thì một nữ tù binh (trong số 904 phụ nữ) tên Bùi (người gốc Bình Định) đã bị bạn đồng tù giết chết trước sự chứng kiến của các nhân viên ICCS cùng UBLHQS. Thấy có người bị giết chết, các đại diện của ICCS đòi lập biên bản, phía chính quyền miền Nam VNCH đòi phe Việt Cộng phải trao trả lại các hung thủ để họ sẽ truy tố. Đại diện của phe Việt Cộng (trong UBLHQS) từ chối với lý do người của họ phải để cho họ giải quyết và họ đã hứa sẽ thi hành (có hay không thì không ai biết) khi về tới căn cứ (sâu tuốt luốt trong rừng). Sau cùng, sự việc đành phải để êm xuôi vì trong Hiệp Định Ba Lê không có chi tiết về giải quyết các hành vi bạo động trong việc trao trả tù binh (Điều 8, Chương III). Một sĩ quan thuộc binh chủng Quân Cảnh miền Nam VNCH (tên Đoàn C Hậu) đã kể lại những nữ tù binh tham dự việc thủ ác như sau: " Từ lúc còn ở sân trại giam Cần Thơ cho đến khi chờ lên máy bay C 130 để đến đây (Lộc Ninh), cái đám giặc cái này lúc nào cũng lấy khăn che kín mặt như sợ ai nhìn thấy, biết tụi nó là Việt Cộng...

210 tù binh phe Việt Cộng xin được ở lại miền Nam VNCH vì họ sợ hình ảnh thảm sát bởi đồng đội một khi đã bước chân hẳn vào rừng sâu âm u, không còn ICCS hoặc UBLHQS để có thể can thiệp. Những vụ tù binh bị bạn đồng tù giết chết trong các trại giam (Phú Quốc, Côn Đảo...) không xa lạ với các tù binh Việt Cộng. Nhẹ thì bị vây đánh tập thể, xô té xuống giếng nước (khi tắm rửa-giặt giũ)... Nặng thì bị móc bóng đèn (1 hoặc 2 mắt), lấy ráy tai (cây sắt đâm xuyên qua 2 tai)... và có thể tin tức về vụ giết người tại phi trường Lộc Ninh (trong buổi trao trả ngày 22-2-1973 kể trên) đã được các quân nhân Quân Cảnh miền Nam VNCH kể lại cho các tù binh nghe. Địa ngục trần gian mà phe Việt Cộng thường kể về các trại tù binh của chính quyền miền Nam VNCH (tại Phú Quốc, Côn Đảo...) chính là vì có những quỷ sứ (cái gọi là chi bộ Đảng CS trong nhà tù) sống lẫn lộn trong các phòng giam chứ không là ai khác.


                                      


Trong các buổi trao trả, tổng cộng có tất cả là 240 tù binh phe Việt Cộng xin được ở lại phần đất thuộc phía chính quyền miền Nam VNCH (chuyển sang quy chế chiêu hồi) và không hề có một tù binh phía miền Nam VNCH nào xin được ở lại với phe Việt Cộng.


Đặc biệt có một tù binh phe Việt Cộng (thuộc thành phần chính trị) được phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả nhưng phe Việt Cộng cương quyết không tiếp nhận dù biết rõ nhân thân tù binh này là đảng viên Cộng Sản (được kết nạp vào đảng ngày 3-2-1966), có bí L.71 khi y hoạt động trong nội đô Sài Gòn. Tù binh đó là Huỳnh Tấn Mẫm, người có thời là quyền Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn (1969). Huỳnh Tấn Mẫm sinh năm 1943 tại Gia Định (ngoại ô Sài Gòn), sinh viên Đại học Y Khoa (1963)... Phe Việt Cộng giao cho Mẫm nhiệm vụ bằng mọi cách y phải nắm được những vị trí hợp pháp, công khai trong tập thể sinh viên để dấy lên mạnh mẽ phong trào sinh viên-học sinh đấu tranh ngay tại thủ đô Sài Gòn và y đã thi hành các việc phá rối-trị an như: Đốt xe Mỹ, Hát cho đồng bào tôi nghe (kêu gọi phản chiến có một phía), Chống Quân Sự Học Đường...

Sau 2 vụ Biệt Động Thành Việt Cộng (T4) ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật (ngày 28-6-1971) và giáo sư Nguyễn Văn Bông (ngày 10-11-1971) thì Huỳnh Tấn Mẫm bị bắt giam (ngày 5-1-1972) cho đến 20-2-1974 thì phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả y tại Lộc Ninh (chung với gián điệp Huỳnh Văn Trọng, luật sư Nguyễn Long, sinh viên Cao Thị Quế Hương...) nhưng phe Việt Cộng đã từ chối. Phía chính quyền miền Nam VNCH đành phải đưa Mẫm trở về, nhưng biết chắc nếu thả ra, y ta sẽ lại lãnh đạo một số sinh viên-học sinh ở thủ đô Sài Gòn và lợi dụng luật pháp để tiếp tục phá rối trị an xã hội. Chính quyền miền Nam VNCH đã giam y tại nhà lao Chí Hòa rồi chuyển sang giam tại Tổng Nha Cảnh Sát. Hai tháng sau, ngày 21-4-1974, Mẫm được chuyển ra trại chiêu hồi tại eo biển Lagi-Hàm Tân cho đến tháng 4-1975 thì nhân viên coi trại chuyển Mẫm về giam tại Sài Gòn (bót cảnh sát gần Thảo Cầm Viên). Ngày 29-4-1975, Mẫm được trả tự do và ngay sau đó (buổi tối) y lên tiếng trên hệ thống truyền thanh (Radio và Truyền hình), ngỏ lời cám ơn những người đã ủng hộ y và y yêu cầu chính quyền miền Nam VNCH thả hết tù chính trị, kêu gọi đồng bào hãy ở lại, đừng di tản ra nước ngoài.

Tại sao phe Việt Cộng lại cố tình không tiếp nhận tù binh Huỳnh Tấn Mẫm (nêu lý do Mẫm là sinh viên, không phải là tù binh (trong các lực lượng võ trang) và yêu cầu chính quyền miền Nam VNCH trả Mẫm về với gia đình). Có người cho là phe Việt Cộng làm vậy vì họ còn muốn lợi dụng Mẫm (ở thế hợp pháp sống trong lòng nội đô Sài Gòn) nhưng làm vậy, họ đã đẩy Mẫm phải tiếp tục cảnh tù đầy (bởi các quyết định của đồng chí mình). Phe Việt Cộng đối xử với Mẫm như vậy vì có thể thấy nếu tiếp nhận y vào mật khu thì khi có dịp tiếp xúc với các người trẻ khác (thanh niên dễ hòa đồng với nhau), có thể sẽ y gieo vào đầu óc họ các ý tưởng đấu tranh-biểu tình (như khi y còn hoạt động ở nội đô Sài Gòn). Và, nếu sự việc có vậy thì họ sẽ giải quyết trường hợp y ra sao? Làm giống như chính quyền Hà Nội đã làm (bắt tập trung cải tạo) với những công nhân (hồi hương từ nước Pháp về miền Bắc Việt Nam ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến) đã lãn công, biểu tình (trước nhà máy) khi thấy công đoàn (đoàn viên đoàn Thanh Niên Lao Động) chà đạp quyền lợi của một số công nhân trong phân xưởng làm việc. Tốt hơn hết để cho chính quyền miền Nam VNCH tiếp tục giam cầm Mẫm trong bối rối (tìm cách giải quyết).


3 TÙ BINH VNCH ĐỔI LẤY 1.200 TÙ BINH VIỆT CỘNG

Nhìn các con số tù binh được trao trả trên đây, ai cũng thấy phía chính quyền miền Nam VNCH trả tự do nhiều người hơn bên phe Việt Cộng. Có buổi trao trả, phía chính quyền miền Nam VNCH trao cho phe Việt Cộng 1200 (một ngàn hai trăm) tù binh để nhận lại chỉ vỏn vẹn có 3 người tù mà họ phải nằm trên cáng như ở buổi trao trả ngày 21-3-1973 tại bờ sông Thạch Hãn.

                                             
3 tù binh VNCH đổi lấy 1200 tù binh VC

Phe Việt Cộng thường rêu rao phía chính quyền miền Nam VNCH thường cố tình ém nhẹm con số tù binh và họ phải làm dữ (tiếp tục đấu tranh) thì phía chính quyền miền Nam VNCH mới trao trả 3.506 (ba ngàn năm không sáu) tù binh cho đợt cuối cùng (từ ngày 8-2 đến ngày 7-3-1974). Trong các phiên họp của UBLHQS tại trại Davis, phe Việt Cộng vẫn lải nhải nói là không còn giam giữ bất kỳ một tù binh thuộc phía chính quyền miền Nam VNCH và giải thích tù binh phía chính quyền miền Nam VNCH bị bắt trong chiến dịch Lam Sơn 719 là do Pathet Lào cầm giữ (trường hợp điển hình là đại tá Nguyễn Văn Thọ (Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù) cũng như họ chối nói không biết về các tù binh biệt kích (chương trình OPLAN-34) của miền Nam VNCH bị bắt trên vĩ tuyến 17. Sau ngày 30-4-1975, những tù binh này tiếp tục ở tù thêm nhiều năm thì mới được thả. Về các tù binh Hoa Kỳ, phe Việt Cộng vẫn chối, nói không còn giam giữ bất kỳ người nào khi chiến tranh chấm dứt (quân nhân Mỹ cuối cùng rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt vào ngày 29-3-1973) nhưng vào mùa Hè năm 1976, sau khi có sự tiếp xúc giữa nhân viên sứ quán Việt Cộng tại Paris-Pháp Quốc và một cựu nhân viên CIA (Frank Snepp) thì chính quyền Hà Nội đã trao cho chính quyền Hoa Kỳ danh sách mới của 12 quân nhân Mỹ mất tích. Những nguồn tin từ các người tù thuộc chính quyền miền Nam VNCH (thời gian bị tập trung tù cải tạo sau ngày 30-4-1975) cho biết, họ đã từng thấy (tận mặt) các tù binh Hoa Kỳ còn sống tại các trại giam đèo heo hút gió ở miền Bắc VN.

Phía chính quyền miền Nam VNCH đã không thể trao trả cho phe Việt Cộng một tù binh nổi tiếng khác vì lý do người này khăng khăng không nhận cấp bậc và chức vụ thật của y. Đó là Nguyễn Tài (hay Nguyễn Công Tài, con ruột nhà văn Nguyễn Công Hoan), mang cấp bậc là đại tá và là Thứ trưởng Bộ Công An của Cộng Sản Bắc Việt. Nguyễn Tài bị cảnh sát quốc gia bắt được khi hoạt động gián điệp tại nội đô Sài Gòn nhưng dù đã thấy các bằng chứng về mình (do cảnh sát miền Nam VNCH chưng ra), y vẫn chối, nói một cái tên khác và khai cấp bậc y chỉ là Đại úy. Chính vậy mà phía chính quyền miền Nam VNCH không thể trao trả y cho phe Việt Cộng trong các buổi trao trả tù binh được. Ngày 30-4-1975 Nguyễn Tài được một nhân viên cảnh sát quốc gia giải thoát khỏi nhà lao Chí Hòa nhưng khi về với phe mình thì y đã bị cấp trên nghi ngờ về lòng trung thành của bản thân. Y như trường hợp của các cựu tù binh Việt Cộng khác sau khi được tha, họ phải tập trung tại các trại an dưỡng ở Sầm Sơn-Thanh Hóa và phải buộc làm kiểm điểm nhiều lần y như đang bị ở tù lần nữa. Lãnh đạo phe Việt Cộng có cái suy nghĩ quái gở là khi nhận lãnh tù binh bên phe mình về thì một mặt gọi các tù binh nầy là anh hùng, kẻ chiến thắng... nhưng mặt khác thì lại nghi ngờ về sự trung thành của họ. Thậm chí có lãnh đạo đảng còn muốn các tù binh khi bị sa vào tay chính quyền miền Nam VNCH (tại mặt trận hay trên đường hoạt động) thì người đó nên chết đi còn hay hơn là ở tù (trong tay đối phương) và để cấp trên phải đi lãnh về.

Ngày nào đó, nếu có một tù binh Hoa Kỳ còn sống mà vượt thoát được đến nơi tự do, thì đây sẽ là một sự cố lớn trong các sự cố về việc trao trả tù binh của các bên tham chiến trong thời chiến tranh tại Việt Nam. (nguồn  http://ubtttadcsvn.blogspot.de/2012/09/su-co-tai-noi-trao-tra-tu-binh-ben-phe.html)

BÀI ĐỌC THÊM:

1.Những Phi Vụ Trao Trả Tù Binh
http://768kq.blogspot.de/2013/07/nhung-phi-vu-trao-tra-tu-binh.html
2.Trại tù binh Phú Quốc 1973
http://tienggoicongdan.com/2013/04/21/trai-tu-binh-phu-quoc-1973/
3.Tù Binh, anh đi về đâu?
http://kinhdotruyen.com/tac-gia-phan-nhat-nam/truyen-tu-binh-va-hoa-binh-loai-tu-binh-anh-di-ve-dau-16474.html

Trịnh Khánh Tuấn, ngày 14.11.2013


                                                                             


Thư Bộ đội cu Hồ gửi Anh Lính Miền Nam
by Một cựu bộ đội cu Hồ trong đoàn “giải phóng quân” 1975.

Nguyễn Bá Chổi vừa nhận được lá thư dưới đây của của một cựu bộ đội cụ Hồ qua đường bưu điện. Nhận thấy nội dung liên quan đến “đại thắng mùa xuân” mà “đảng ta” đang chuẩn bị ăn mừng ngày kỷ niệm lần thứ 38, Chổi xin quá giang Danlambao cho đăng lại nơi đây sau khi được sự đồng ý của tác giả bức thư với điều kiện dấu tên. Tiện thể, người nhận xin gửi nơi đây lời cám ơn đến anh cựu “giải phóng quân” Cách Mạng đã chia sẻ tâm sự phản tỉnh với “Ngụy quân”.



Anh Chổi, 
Trước hết tôi xin phép anh, thú thật, nhờ đọc những bài viết của anh suốt mấy năm nay, từ Cu Tèo trong mục “Bác cháu ta lên mạng” đến Kỵ Binh rồi Nguyễn Bá Chổi, tôi biết được anh từng là một người lính trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước 30 tháng Tư 1975, và biết được tuổi anh với tôi cũng xêm xêm nhau. Tôi viết “xêm xêm” theo kiểu nói người Miền Nam các anh hay dùng để anh hay rằng tôi, một bộ đội cụ Hồ thập thành trước kia nay đã tự giác tự nguyện tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc trên con đường Ngụy-quân hóa và Mỹ-cút hóa (con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng ta đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp núp đồng Đô - theo văn phong kiểu anh viết vậy).

Bởi vì sau khi giải phóng Miền Nam, tôi khoái quê hương của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh. Xin anh đừng buồn hay thấy bị xúc phạm khi tôi dùng chữ “Ngụy” trong thư này, lý do giản đơn là, một phần do quen mồm quen mép, một phần khác quan trọng hơn là, nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy... Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng, mà bây giờ nhờ đọc qua loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” của Đặng Chí Hùng kèm theo những hình ảnh tư liệu dẫn chứng, tôi mới biết được thực sự ai ngụy ai ngay, nhưng đây không phải là nội dung tôi muốn đề cập đến trong thư này. 

Thưa anh Chổi, điều tôi muốn đề cập với anh hôm nay là cám ơn các anh đã... thua cuộc chiến tranh mà trước kia chúng tôi hăm hở gọi là “giải phóng Miền Nam”. Thực tế cho thấy đó là “giải phóng Miền Bắc”. Nói thế nghe ra là ”phản động”, nhưng thực chất là vậy. Nếu bác Hồ từng nói “Nước Việt nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” - cứ cho bác Hồ nói đúng đi, mặc dầu theo sách giáo khoa Cách mạng dạy thì Việt Nam ta không chỉ có một mà có tới 53 dân tộc (trong Nam các anh gọi là 53 sắc tộc, xem ra đúng hơn), thì ta cũng có thể nói, nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi. 

Thực tế đó là gì? Cũng giản đơn và dễ dàng như tòa án Hải Phòng vừa xử phạt tù anh em Đoàn Văn Vươn là nạn nhân, và phạt tù treo đám thủ phạm tép riu, còn đám đầu sỏ chủ mưu thì hoàn toàn vô can, trong vụ cưỡng chế tài sản nhân dân mà chính Thủ tướng kết luận “hoàn toàn trái pháp luật”. Nếu các anh không thua cuộc chiến thì bộ đội cụ Hồ chúng tôi đâu có thu được hàng tỷ khối chiến lợi phẩm mang về làm náo nức nhân dân Miền Bắc, trong đó có cậu bé 13 tuổi quê hương Xô Viết Nghệ Tĩnh sau này là nhà báo Huy Đức ghi lại: 

“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; Cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; Con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn. 

Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày [1], Thép Đã Tôi Thế Đấy [2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.” (Bên Thắng Cuộc). 

Còn chính bộ đội cụ Hồ như chiến sĩ gái Dương Thu Hương háo hức bao nhiêu trên đường giải phóng Miền Nam thì sau 30/4/75, khi vào đến Sài Gòn đã... Ta thử đọc trích đoạn cuộc trao đổi giữa cô với nhà báo Đinh Quang Anh Thái (*)

“Đinh Quang Anh Thái: Bà từng viết rằng, ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi các phụ nữ khác trong đoàn quân của bà trầm trồ trước sự trù phú vật chất của miền Nam thì bà ngồi khóc trên lề đường Sài Gòn. Bà có thể nhắc lại tâm trạng của bà lúc đó? 

-Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc. 

Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.” 

Rồi chuyện ông bác sĩ bộ đội cụ Hồ mà anh gặp tại nhà người bạn chiến hữu của anh ở Tân Định ngay sau khi mới giải phóng Sài Gòn trông như người ngoài hành tinh mới đến, cứ ngơ ngơ ngáo ngáo, bảo “có vào đây mới biết đồng bào Miền Bắc ngoài đó quá khốn khổ”. 

Anh Chổi ơi, vài mẩu chuyện trên đây là của vài ba cá nhân lẻ tẻ nhưng là đại diện cho tâm trạng chung của tuyệt đại bộ phận đoàn quân “đại thắng mùa xuân” ngay sau khi mèo mù vớ được cá rán Miền Nam đó anh. Bây giờ thôi những mẩu chuyện cá nhân để nhìn vào tổng thể sờ sờ trước mắt. 

Giá như ngày đó Mỹ không chịu cút, Ngụy không chịu nhào và các anh cứ tiếp tục giữ vững Miền Nam với chế độ Tư Bản một mình thì chúng tôi, tức Miền Bắc, cứ vẫn xếp hàng cả ngày và chỉ được tiêu chuẩn “mỗi năm ba tấc vải thô, lấy gì che kín cụ Hồ em ơi”, Ba Ếch cứ tiếp tục trốn chui trốn nhủi trong rừng tràm U Minh, đêm du kích ngày chích mông, chứ làm gì có nhà thờ họ hoành tráng lừng lựng giữa Rạch Giá như bây giờ. Nói chung không nhờ Miền Nam các anh thua thì làm gì chúng tôi được nếm mùi bã Tư bản để được như ngày nay. Không nhờ các anh bỏ của chạy lấy người thì của đâu cho Cách Mạng lấy làm giàu như bây giờ. Không nhờ các anh thua cuộc thì ngày nay chắc chắn Miền Bắc chúng tôi còn tệ hơn nước anh em XHCN Bắc Triều Tiên của cậu Giun Kim Ủn bây giờ. 

Nói túm lại, kỷ niệm ngày 30 tháng Tư 75 là để mừng cho Miền Bắc chúng tôi được giải phóng, chứ Miền Nam các anh thì bị một vố phỏng... nhớ đời này qua đời khác. Nhưng ở đời này, anh còn lạ gì, khốn nạn của người này là hạnh phúc của người kia. Thôi thì Miền Nam các anh đã hưởng lâu rồi, nhiều rồi, nhường cho đồng bào Miền Bắc chúng tôi được giải phóng một ti, cho công bằng. 

Cảm ơn anh đã đọc hết thư này của một người cựu thù cùng máu đỏ da vàng, cùng quê hương “ông bác” mà ngày nay mỗi lần nghe nhắc đến là tôi muốn độn thổ vì xấu hổ. 

Trân trọng chào Anh, 
Một cựu bộ đội cu Hồ trong đoàn “giải phóng quân” 1975. 
Sài Gòn, năm thứ 38 ngày Giải phóng Miền Bắc. 

http://nhogikhong-300475.blogspot.com/2014/07/tu-cai-tao-toi-ac-chong-nhan-loai-cua.html

Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam Việt Nam

Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam Việt Nam
Tác Giả: Huỳnh Kim Quang – Việt Báo – 24/04/2015


american ally

Năm nay 2015, đánh dấu 40 năm (1975-2015) ngày Bắc Việt xâm chiếm Miền Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến Việt Nam dù đã kết thúc trên chiến trường bom đạn nhưng những hệ lụy đau thương của nó còn kéo dài cho đến nay!
Trong số những hệ lụy trở thành vết hằn khó xóa trên thân phận nghiệt ngã của người dân Miền Nam là chiến dịch sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Cộng Sản đẩy hơn một triệu trí thức, văn nghệ sĩ và quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào các trại tù khổ sai mà Cộng Sản gọi một cách mị dân là “trại học tập cải tạo.” Trong những trại tù khổ sai đó, nhiều người đã bị thủ tiêu bí mật, bị xử tử công khai, bị buộc phải làm việc cật lực trong điều kiện đói khát, đau bịnh, không thuốc men, không chăm sóc, bị đối xử bất công và tàn bạo không tình người. Nhiều người đã phải ngồi tù lâu hơn 20 năm. Sau khi được thả ra, hầu hết đều mang thân tật bệnh, suy nhược, quản thúc, theo dõi, thất nghiệp, nghèo đói, và xem như bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Trong khi đó, hàng triệu thân nhân, gồm cha mẹ, vợ con của những người tù chính trị này đã phải sống trong hoàn cảnh vô cùng đau khổ bên ngoài trại tù để tranh đấu cho sự sống còn của bản thân và gia đình trong sự bức bách của chính quyền Cộng Sản và sự kỳ thị của xã hội.
Bức tranh toàn cảnh về thân phận bi đát của những người tù chính trị Việt Nam Cộng Hòa dưới chế độ Cộng Sản sau năm 1975 tại Miền Nam đã được nhiều người Việt, gồm những nạn nhân mà cũng là chứng nhân, viết lên trong nhiều thập niên qua. Nhưng số lượng sách bằng tiếng Anh do người Mỹ viết về biến cố này thì vẫn còn quá ít ỏi. Đặc biệt là loại tài liệu nghiên cứu đến nơi đến chốn, chẳng hạn, đến gặp trực tiếp, phỏng vấn và nghe chính các nạn nhân cựu tù chính trị VNCH kể lại đầy đủ chi tiết, do người Mỹ viết bằng tiếng Anh thì lại càng hiếm hơn.
Trong số tài liệu hiếm quý đó có tác phẩm “A Gift of Barbed Wire – America’s Allies Abandoned in South Vietnam” [Tặng Vật Cuộn Dây Thép Gai: Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam Việt Nam] của tác giả Robert S. McKelvey. Sách do Nhà Xuất Bản University of Washington Press ấn hành tại Seattle của Hoa Kỳ và London của Anh Quốc lần đầu vào năm 2002. Sách in bìa cứng, dày trên 260 trang.
Tựa đề tiếng Anh của cuốn sách là dịch từ câu thơ trong bài “Tặng Vật Tỏ Tình” của nhà thơ Trần Dạ Từ sáng tác vào năm 1964 tại Việt Nam:
“Tặng cho em cuộn dây thép gai
Thứ dây leo của thời đại mới.”
(I give you a gift of barbed wire,
Some creeping vine of this new age.)
Ngoài Lời Nói Đầu, Giới Thiệu và Kết Luận, tác phẩm “A Gift of Barbed Wire” của Robert S. McKelvey gồm 2 phần chính: Phần I gồm 4 truyện nói về bản thân của những cựu tù chính trị VNCH; Phần II gồm 10 truyện nói về bản thân những cựu tù chính trị và cha mẹ, vợ con của họ.
Tác giả Robert S. Mckelvey là Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam từ năm 1969 tới 1970 trong nhiệm vụ sĩ quan Dân Vụ hoạt động tại phía tây bắc thành phố Đà Nẵng, theo ông cho biết trong Lời Nói Đầu của cuốn sách. Ông hiện là giáo sư về môn tâm phân học trẻ em và thanh thiếu niên tại Đại Học Oregon Health and Science University ở Portland. Ông là tác giả của các tác phẩm “The Dust of Life: America’s Children Abandoned in Vietnam” [Bụi Đời: Những Đứa Trẻ Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Việt Nam], và “A Gift of Barbed Wire: America’s Allies Abandoned in South Vietnam” [Tặng Vật Cuộn Dây Thép Gai: Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam Việt Nam].
Mắt Thấy Tai Nghe
Để viết cuốn sách này, tác giả Robert S. McKelvey đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Việt Nam trong thập niên 1980s tiếp xúc trực tiếp và phỏng vấn cũng như chính mắt chứng kiến cuộc sống vất vả khổ cực trăm bề của các cựu tù chính trị VNCH và thân nhân ngay trên mảnh đất quê hương của họ. Trong Lời Nói Đầu của tác phẩm “A Gift of Barbed Wire,” tác giả đã kể sơ về thân thế và sự nghiệp của ông cùng với mối quan hệ của ông với đất nước và người dân Việt.
 “Giữa năm 1969 và 1970 tôi phục vụ tại Việt Nam trong nhiệm vụ một đại úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Tôi được phân công làm sĩ quan Dân Vụ, chịu trách nhiệm với “việc chiến thắng trái tim và tâm thức” của người Việt Nam trong khu vực hoạt động của chúng tôi ở phía tây bắc của thành phố Đà Nẵng thuộc miền trung Việt Nam. Công việc này đưa tôi vào việc tiếp xúc hàng ngày với thường dân Việt Nam, hầu hết là nông dân, và đã cung cấp cho tôi quan điểm khác về cuộc chiến hơn là trong trường hợp tôi ở trong trung đội bộ binh, một khẩu đội pháo binh, hay một đơn vị không quân. Trong một ý nghĩa nào đó, tôi hành xử chức năng như một binh sĩ tình nguyện Thủy Quân Lục Chiến hơn là một người lính bộ binh, làm cho tôi dễ hiểu và cảm thông với sự đau khổ của những người Việt Nam bị mắc kẹt giữa các lực lượng đánh nhau.
Sau khi rời Việt Nam vào tháng 5 năm 1970 tôi trở về nhà để bắt đầu nghề nghiệp mới của một bác sĩ. Tôi học xong trường y khoa năm 1974 và hoàn tất việc huấn luyện làm một bác sĩ tâm thần và bác sĩ nhi đồng vào năm 1979. Trong những năm bận rộn đó tôi ít suy nghĩ về các kinh nghiệm thời chiến tranh của tôi. Rồi trong thập niên 1980s nhiều cuốn sách, phim ảnh, và thảo luận nhằm khảo sát vai trò của Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam đã đánh thức sự thích thú của tôi, và làm cho tôi nhớ lại, Việt Nam. Tôi bắt đầu tìm kiếm cách trở lại Việt Nam và làm việc với người Việt Nam, lần này như là một bác sĩ tâm thần. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, tại Trung Tâm Chuyển Tiếp Tị Nạn Phi Luật Tân, và tại Hoa Kỳ, tôi nghiên cứu về đời sống của những người Mỹ Á Châu gốc Việt, từ những đứa trẻ sinh ra trong thời chiến tranh tới những người đàn ông Mỹ và phụ nữ Việt Nam.(2) Sau đó tôi nới rộng mục tiêu của mình để bao gồm những trẻ em Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ, và Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.”
Cũng trong Lời Nói Đầu của “A Gift of Barbed Wire,” Robert S. McKelvey kể lại về các chuyến đi Việt Nam để sưu tập tài liệu và gặp gỡ phỏng vấn các cựu tù chính trị VNCH và ấn tượng đầu tiên khi chứng kiến tình cảnh bi thương của những cựu tù chính trị.
“Vào năm 1990, thời gian đầu tiên tôi trở lại thăm Việt Nam kể từ lúc phục vụ trong quân đội ở đó, tôi đã mua 2 bức tranh sơn mài.(3) Chúng miêu tả một cách trừu tượng những người đàn bà thanh lịch với mái tóc đen dài phủ xuống chiếc áo dài có hoa màu tím và xanh lá cây, y phục Việt Nam truyền thống. Người bán hàng nói với tôi rằng họa sĩ vẽ bức tranh đó sống gần đây. Tôi quyết định đến thăm ông ấy. Sau khi đi tìm một hay hai giờ đồng hồ qua các đường phố đông đúc và dơ dáy của Thành Phố Hồ Chí Minh, cuối cùng tôi đã tìm ra căn chung cư nhỏ hai tầng vừa là chỗ ở vừa là phòng vẽ tranh của ông ấy. Vợ ông ấy mở cửa và, sau khi xác minh rằng tôi đến đó để xem và có thể mua một vài bức tranh của chồng bà, đã mời tôi vào nhà.

Bà ấy đóng vai trò như là người quản trị phòng trưng bày tranh và dẫn tôi đi xem một vòng, giải thích cách những bức tranh được vẽ và miêu tả một số chủ đề của tranh ảnh. Tôi ngưỡng mộ tác phẩm của chồng bà bao nhiêu, nhiều bức tranh mà sau đó tôi đã mua, thì tôi càng bị quyến rũ bởi cặp mắt sâu và đẹp của bà ấy bấy nhiêu. Với tôi cặp mắt ấy có vẻ được đong đầy với nỗi buồn đau vô hạn. Khi hỏi về bối cảnh hội họa của chồng bà, tôi biết được rằng ông ấy đã từng phục vụ là một sĩ quan Lục Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau chiến thắng năm 1975 của Cộng Sản, chính quyền mới đã bắt bỏ tù ông. Khi tôi hỏi tại sao, bà cho biết rằng đây đã là số phận của nhiều người từng làm việc cho chính quyền cũ. Bà cũng nói vắn tắt về cuộc đời của bà trong thời gian năm năm vắng chồng, mô tả tình cảnh nghèo khổ và bị xã hội cô lập mà bà đã phải chịu đựng và sự chiến đấu sau đó của họ để xây dựng lại cuộc sống sau khi ông được ra tù. Lắng nghe bà kể chuyện tôi bắt đầu hiểu đôi chút về nỗi buồn trong đôi mắt của bà.

Đây là kinh nghiệm đầu tiên của tôi với cựu tù chính trị Việt Nam và gia đình của họ. Tôi đã từng không biết rằng sau khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, hơn một triệu người là cựu đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta, trong số hai mươi triệu dân, đã bị đẩy vào các trại học tập cải tạo.(4) Ở đó họ bị bắt buộc đào hào và kênh dẫn nước, trồng trọt, và xây nhà làm đường. Họ được nuôi bằng những khẩu phần chết đói – hai chén cơm, một ít muối, và một chút xíu canh cải mỗi ngày. Vào ban đêm, sau một ngày làm việc cực nhọc, họ bị lên lớp về những lỗi lầm của chính quyền cũ và người Mỹ, về các lý thuyết Mác-Lê, và về những vinh quang của chế độ Cộng Sản mới, được mô tả bởi những cai tù như là “chính quyền tốt nhất thế giới.” Họ cũng bị đòi hỏi phải thú tội về những tội ác quá khứ của họ như là một phần của quá trình học tập cải tạo để lấy cớ là sẽ “chuyển” họ thành “người mới.”(5) Điều đó đã không được tiết lộ với họ cho đến về sau mà những thú tội này tạo thành cơ bản cho những buộc tội thêm nữa để chống lại họ và ngay cả bỏ tù họ lâu hơn.
Cuối cùng được thả từ những trại học tập cải tạo sau khi đã bị bỏ tù từ một tới hơn hai mươi năm, các cựu tù nhân trở về nhà như những người đàn ông chỉ còn da bọc xương. Họ kiệt sức, bệnh tật, và chán ngán sâu sắc chính quyền mới và những ý định thực sự của nó. Có rất ít người, như nhà họa sĩ mà tôi đã gặp, tìm ra được công việc làm đúng với nghề nghiệp mà họ đã từng được đào tạo. Tuy nhiên, hầu hết đã phải sinh sống bằng bất cứ công việc gì mà họ có thể tìm ra, một thứ giai cấp thấp bị khinh khi của những người đàn ông có học thức cao và thông minh với không còn triển vọng cho một tương lai phát đạt tại Việt Nam với chính họ hay với con cháu của họ.
Tôi đã gặp một trong nhiều cựu tù chính trị kém may mắn trong thời gian chuyến thăm Việt Nam sau này. Ông ấy đã từng là một thiếu tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng vào lúc tôi gặp ông năm 1993 thì ông là một người đạp xích lô tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Công việc của ông là đạp xích lô chở những du khách Tây Phương từ các khách sạn sang trọng quanh khu vực thương mại trung tâm qua những chuyến mua sắm hay tham quan. Trong thời gian thực hiện cuốn phim Pháp Indochine (Đông Dương) ông đã là một phu xích lô cho nữ tài tử điện ảnh Catherine Deneuve. Nếu được hỏi, ông sẽ đưa ra một tờ giấy copy được ép nylon của hình bìa tạp chí Paris Match mà ông đã được chụp trong lúc chở nữ tài tử Deneuve trên chiếc xe xích lô của ông. Ông ấy cùng tuổi tôi, và mỗi ngày khi tôi quan sát cái tướng gầy gò mà phải ráng gân cốt để đẩy chiếc xe nặng chở những du khách Mỹ và Pháp to con qua các con đường đông nghẹt người của thành phố, tôi suy nghĩ về những khác biệt trong số phận của chúng ta.
Trong những năm sau khi họ được thả từ các trại học tập cải tạo hầu hết cựu tù nhân đều quyết định rời Việt Nam. Một số đã vượt biên như thuyền nhân hay đi đường bộ xuyên qua Cam Bốt và Thái Lan, trong khi những người khác thì rời khỏi nước theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (ODP).(6) Đến được Hoa Kỳ thì họ lại đối diện thử thách, đặc biệt khó khăn với người già, về việc thích ứng với một quốc gia với các truyền thống văn hóa khác nhau quá lớn. Họ thường không nói được tiếng Anh nhiều và cũng hay bị kỳ thị chủng tộc, định kiến, và kỳ thị trong việc làm. Không như các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta, có ít người Mỹ biết hay quan tâm đến những câu chuyện của họ.

Chẳng có cuốn phim nào nói về cuộc đời họ. Những cuốn sách mà họ đã viết về các kinh nghiệm của  họ thì không nằm trong các danh sách bán chạy nhất.(7) Không có phim Miss Saigon để giúp chúng ta hiều sự đau khổ của họ. Ngay cả tài liệu khoa học cũng chỉ viết vài trang trình bày về các vấn đề của họ.(8) Tôi tự hỏi, bằng cách nào họ và những người vợ của họ có thể chịu đựng nhiều thập niên đau khổ kéo dài và lập đi lập lại như thế? Sự đau khổ đó ảnh hưởng đến phát triển nhân cách, sức khỏe tâm thần và triển vọng cuộc sống của họ ra sao? Cái gì còn lại của hy vọng và ước mơ thời trai trẻ của họ? Đây là một số nghi vấn mà tôi tìm kiếm câu trả lời trong tác phẩm này.
Khi tôi bắt đầu tìm hiểu về những cựu tù chính trị của Việt Nam tôi đã biết trước rằng tôi sẽ gặp những người tuyệt vọng và đau khổ đang đau buồn đối với quá khứ và phẫn uất vì tất cả những gì họ đã mất mát. Sau nhiều giờ gặp họ, lắng nghe những trải nghiệm của họ, và rồi suy ngẫm và viết về họ tôi đã, với sự ngạc nhiên của mình, phát giác điều gì đó khác hẳn. Trong khi một vài người trong số mà tôi biết là đau khổ, không có vẻ gì tuyệt vọng, và hầu hết tất cả đều cho thấy khả năng hồi phục rất lớn trên gương mặt của những người dường như bị chấn thương nặng nề.” (Robert S. McKelvey, A Gift of Barbed Wire, University of Washington Press,  Seattle and London, 2002, Lời Nói Đầu, trang XI, XII, XIII, XIV)
Đó chỉ là sơ lược về tình cảnh sống của vài cựu tù chính trị VNCH trong số rất nhiều người mà tác giả Robert S. McKelvey đã gặp trong những chuyến đi Việt Nam để chuẩn bị cho cuốn sách này. Phần nội dung dày hơn 260 trang sau đó của cuốn sách mới là những câu chuyện về người thật và việc thật của các cựu tù chính trị VNCH từ lúc gia nhập Quân Lực VNCH chiến đấu bên cạnh đồng minh Mỹ để bảo vệ tự do, dân chủ, cho đến khi Miền Nam sụp đổ, rồi vào tù Cộng Sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ra tù, sống lây lất khổ sở, sau cùng đi Mỹ và đối diện những va chạm khắc nghiệt của cuộc sống mới.
Robert S. McKelvey nêu ra 7 trường hợp tiêu biểu cho hàng trăm ngàn cựu tù chính trị VNCH để kể chuyện về họ và thân nhân của họ trong tác phẩm “A Gift of Barbed Wire” gồm, cuộc đời của một bác sĩ, một kỹ sư, một thợ hớt tóc, một gián điệp, một phi công, một thầy giáo, và một chính trị gia. Vì tôn trọng một vài trường hợp mà trong đó người được McKelvey phỏng vấn không muốn nêu danh tánh thực và cũng để giữ sự an toàn cho những người còn lại trong nước, đặc biệt tình hình an ninh khắc nghiệt của người dân tại Việt Nam vào thập niên 1980s, tác giả đã chọn cách không nêu danh tánh thật của tất cả cựu tù chính trị VNCH được kể trong sách này.
Ngày 30 Tháng 4 và Lời Hứa Cuội Của Cộng Sản
Người dân miền Nam, đặc biệt những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, những người còn ở lại Việt Nam và chứng kiến sự kiện miền Nam bị Cộng Sản chiếm, có cảm nghĩ như thế nào trong ngày 30 tháng 4 năm 1975? McKelvey thuật lại lời kể của một cựu phi công Không Quân VNCH tên là Trà kể rằng, “Đó là một ngày kinh hoàng. Chúng tôi mất mọi thứ. Chúng tôi không biết phải làm gì. Một số đơn vị đã chiến đấu đến cùng; những đơn vị khác không tuân lệnh tổng thống Nam Việt Nam [Dương Văn Minh để đầu hàng]. Tôi không biết hàng xóm của tôi là Cộng Sản hay không và không biết họ sẽ làm gì, vì vậy tôi quyết định ở lại với một người bạn ít ngày trước khi về nhà chỉ để thấy điều gì đã xảy ra. Tôi nói với vợ tôi là nơi nào tôi nên ở để vợ tôi không lo ngại. Đêm 30 rất là yên lặng — thật đáng sợ.” Đêm trước thì có nhiều hỏa tiễn và tiếng nổ, nhưng cái đêm đó thì không có hỏa tiễn. Im lặng đáng sợ bởi vì chúng tôi không biết cái gì xảy ra. Sau hai ngày vợ tôi khuyến khích tôi về nhà. Không có gì xảy ra. Tôi không biết làm gì. Tôi không hiểu phải giúp gia đình tôi bằng cách nào.” (Sách đã dẫn, trang 112)
Bi kịch làm thay đổi cả cuộc đời của các quân cán chính VNCH trong các trại tù lao động khổ sai kéo dài hàng chục năm bắt đầu với lời hứa gian dối của chế độ Cộng Sản về thời gian đi học tập cải tạo từ 3 ngày đến 30 ngày. McKelvey thuật lại lời kể của cựu phi công VNCH Thọ như sau:
“Có thông báo [trên đài phát thanh và những cái loa chát chúa] rằng tất cả quân nhân của chế độ cũ đểu phải đi học tập cải tạo. Bạn đựợc cho biết đến văn phòng chính quyền hay trường học và viết lý lịch của bạn, một loại sơ yếu lý lịch. Rồi bạn về nhà và chờ. Sau một tháng có thông báo khác bảo bạn trình diện đi học tập cải tạo. Các sĩ quan, hạ sĩ quan, và những cấp bậc thấp hơn thì được cho biết việc học tập cải tạo của họ sẽ kéo dài 3 ngày và họ có thể về nhà mỗi đêm. Các sĩ quan cấp bậc cao hơn, cấp tá tới tướng, và viên chức chính quyền cao hơn được cho biết việc học tập cải tạo của họ kéo dài lâu hơn và họ phải trình diện tại trường trung học hay đại học gần đó với đầy đủ lương thực và quần áo cho 30 ngày.” (Sđd., trang 112, 113.)
Nhưng rồi hàng trăm ngàn quân cán chính VNCH đã phải ngồi tù lao động khổ sai tới cả chục năm, có người ở tù tới 21 năm, như trường hợp nhà tình báo Sang đã bị bắt ở tù học tập cải tạo từ tháng 3 năm 1975 cho đến năm 1996 mới được thả (Sđd., trang 71).
Những Năm Tháng Trong Tù
Ở tù là một khổ nạn, nhưng ngồi tù Cộng Sản thì lại càng là cực hình khốn khổ không thể tả! Những năm sau 1975 cho đến giữa thập niên 1980s, Việt Nam là một đất nước nghèo đói, lạc hậu và khép kín với thế giới bên ngoài. Vì vậy, chế độ Cộng Sản đã cai trị dân bằng luật rừng, đặc biệt là chế độ đối với các tù chính trị. Các cựu tù chính trị VNCH phải tự xây cất nhà tù để giam cầm chính họ, tự canh tác hoa màu đủ thứ và sung túc nhưng lại bị buộc sống chết đói, và gánh chịu bao nhiêu tàn ác, dã man của chế độ tù Cộng Sản.
Nói về việc ăn uống trong tù McKelvey thuật lời kể của cựu phi công VNCH Thọ như sau: “Trong thời gian năm đầu tại miền Nam chúng tôi ăn cơm độn bo bo. Đó không phải là bo bo bình thường, mà chỉ là loại thô cũ. Chúng tôi cố nấu cho mềm, nhưng nó không ngon chút nào. Qua năm thứ hai tại miền Bắc chúng tôi ăn cơm độn với bắp. Năm thứ ba chúng tôi có sắn khô và đôi khi ăn cơm vào những lễ lớn như Tết. Năm 1978 và 1979 là tệ nhất. Thiếu thực phẩm trên cả nước và nhiều người chết. Vì thiếu thực phẩm họ bắt đầu để gia đình đến thăm nuôi chúng tôi tại các trại tù để họ có thể bổ sung khẩu phần ăn của chúng tôi. Các thân nhân đã mang cho tù gạo, lương khô, và thuốc men.” (Sđd., trang 117)
Ở trong tù, các cựu tù chính trị VNCH không những làm việc cực nhọc, ăn uống thiếu thốn khổ sở mà còn bị đánh đập, hành hạ, và thậm chí giết chết. McKelvey ghi lại lời của cựu phi công Thọ như sau: “Họ nhốt tù trong “chuồng cọp” [một hộp thiết nhỏ giống như cái thùng chở hàng hóa], để nó ra giữa trời dưới ánh nắng mặt trời, và chỉ cho tù một chút thức ăn – 2 ca nước và một tô sắn 2 lần một ngày. Hay họ còng tù vào tường ở cổ tay và mắt cá. Thật là không thoải mái chút nào!” (Sđd., trang 116)
Cựu phi công Thọ còn chứng kiến 2 lần Cộng Sản giết tù chính trị VNCH. McKelvey thuật lại lời Thọ như sau: “Hai lần. Lần thứ nhất là lúc ở trong Nam tại Biên Hòa. Một ông cố trốn trại ban đêm nhưng bị bắt. Ngày hôm sau họ đã xử tội ông. Họ buộc chúng tôi phải nghe phiên xử qua tiếng loa bự. Một giờ sau chấm dứt họ bắn chết ông ấy. Lần thứ hai lúc đã ra Bắc. Ba hay bốn người trốn trại. Sau vài ngày họ bị bắt lại và bị mang trở về trại. Họ đánh một trong những người đó tới chết. Những  người khác thì bị đưa đi trại khác.” (Sđd., trang 116)
McKelvey thuật lại lời của cựu tù chính trị là nhà chính trị VNCH tên Hung (tác giả không đánh dấu) kể rằng, “Tôi hỏi có người nào chết trong tù không. “Nhiều! Đói khát và làm việc nặng nhọc làm cho nhiều người bị bệnh. Rất dễ chết. Không phải là tình trạng tinh thần hay cá tính của người tù. Chỉ là không có đủ để ăn và không có thuốc men.” (Sđd., trang 187)
Cựu tù chính trị VNCH là nhà chính trị Hung còn kể chuyện Cộng Sản cực kỳ hung ác hơn nữa với tù chính trị VNCH. Mckelvey thuật lại lời kể của Hung rằng, “Lúc đó chúng tôi ở trại không xa biên giới Cam Bốt. Đó là thời gian Chiến Tranh Việt-Miên. Việt Cộng đặt mìn Claymore [mìn chống cá nhân] chung quanh trại tù. Chúng tôi nghĩ là họ bảo vệ chúng tôi, nhưng họ nhắm mục tiêu mìn Claymore vào chúng tôi! Họ cho biết rằng nếu Cam Bốt tấn công, họ sẽ giết chúng tôi trước bởi vì chúng tôi cũng là kẻ thù của họ.” (Sđd., trang 208, 209)
Sự bức bách và tàn ác của chế độ tù Cộng Sản đã khiến cho người tù chính trị VNCH có lúc không thể im lặng chịu đựng và đứng lên chống lại. McKelvey thuật lại lời kể của một cựu tình báo VNCH là cựu tù chính trị tên Sang về tình trạng nghiêm trọng tại trại tù Hàm Tân vào những năm từ 1976 đến 1980, như sau: “Một ngày kia chúng tôi đi ra ngoài lao động trong một nhóm 40 người tù với một cai tù và 2 người lính. 12 người chúng tôi khống chế cai tù và lấy vũ khí của họ. Chúng tôi có 2 khẩu súng M-16 và một khẩu K-54. Chúng tôi vào rừng đế đến mật khu của những nhóm chống chính quyền đã xây dựng căn cứ cho chúng tôi. Cộng Sản phái 2 trung đoàn lính tới và công an tủa ra 2 tỉnh, Thuận Hải và Đồng Nai, để tìm chúng tôi. Sau 6 ngày tôi bị bắt đầu tiên. 4 ngày sau 9 người khác bị bắt và 2 người bị bắn chết.” (Sđd., trang 85)
Hoàn Cảnh Vợ Con Người Tù Chính Trị VNCH
Các quân cán chính VNCH bị Cộng Sản bắt đi tù học tập cải tạo tất nhiên là chịu rất nhiều thống khổ và đau thương trong những nhà tù nhỏ, nhưng vợ con và thân nhân của họ ở bên ngoài cũng không khác gì một nhà tù lớn với vô vàn gian nan, khổ cực và tủi nhục. Họ vừa phải gánh vác trách nhiệm thế cha và làm mẹ nuôi dạy con cái và buôn bán tảo tần, vừa phải đối mặt với những áp bức của chế độ Cộng Sản và sự kỳ thị của xã hội.
Tác giả Robert S. Mckelvey đã trực tiếp phỏng vấn và ghi lại nhiều trường hợp rất thương tâm của những người vợ con của cựu tù chính trị VNCH. McKelvey thuật lại lời của người vợ của một chính trị gia tên Hung là bà Tho (tác giả cũng không bỏ dấu) kể tình cảnh gia đình sau khi chồng bị bắt đi học tập cải tạo như sau:
“Sau khi ông nhà tôi đi tù tôi phải chăm sóc 7 đứa con của chúng tôi và tiệm chụp hình. Cửa tiệm làm ăn không khá. Chồng tôi là người chính yếu gánh vác việc ấy trước đây, và sau khi ông ấy đi không ai trong chúng tôi biết làm sao để tiếp tục điều hành. Người ta cũng sợ không dám ủng hộ cửa tiệm bởi vì chồng tôi là người đi tù học tập cải tạo. Ngay cả những thân nhân của chúng tôi và người bạn thân nhất của chồng tôi cũng tránh xa. Nó giống như là chúng tôi mắc bịnh nguy hiểm, một thứ bệnh lây nhiễm, và người ta sợ chúng có thể lây lan họ. Họ không muốn dính dáng tới và vướng vào phiền phức với chính quyền.” (Sđd., trang 196)
Những người vợ con cựu tù chính trị VNCH còn phải bị bắt học tập cải tạo tại địa phương. Bà Tho kể với McKelvey rằng, “Mỗi tháng tất cả những bà vợ của những người đàn ông bị tù học tập cải tạo bị đòi hỏi phải đến họp. Mục đích là để cải tạo chúng tôi tại nhà. Họ bảo chúng tôi không được buôn bán và tận dụng lợi thế của người dân. Thực tế họ muốn chúng tôi ở nhà và làm ruộng.” (Sđd., trang 197)
Những người vợ cựu tù chính trị VNCH khóc hết nước mắt hàng đêm vì hoàn cảnh bế tắc và vì Cộng Sản áp bức người quá đáng.  Bà Tho kể với McKelvey rằng, “Mỗi đêm tôi đợi mấy đứa con đi ngủ và không thể nghe được, thì tôi khóc bởi vì chúng tôi không có đủ tiền cho tôi đi thăm nuôi chồng tôi. Một ngày sau khi chồng tôi đi tù những người từ chính quyền đến và liệt kê mọi thứ chúng tôi có. Họ lấy một số đồ đạc như máy truyền hình và quần áo của thằng con trai đi lính của chúng tôi. Họ nói rằng đó là “tài sản của nhân dân.” Khi chồng tôi là người chủ gia đình đi rồi, tôi đã bán những gì chúng tôi có để nuôi gia đình. Tôi bán nồi và chảo trước nhà. Ngay cả vậy mà cũng không có gì nhiều để ăn. Thịt và cá thì hiếm khi có. Chúng tôi trộn cà chua với cơm chỉ để làm đầy bao tử.” (Sđd., trang 197)
Điều cực kỳ bất công mà Cộng Sản đã làm với những gia đình cựu tù chính trị VNCH là không cho con cái họ đi học. McKelvey thuật lại lời bà Tho kể rằng, “Thực tế con cái không được phép đi học bởi vì địa vị của cha chúng nó trong chính quyền cũ. Chẳng hạn, con gái của tôi học rất giỏi ở trung học. Sau khi tốt nghiệp cháu muốn vào đại học. Ở đó có danh sách ưu tiên để quyết định ai được nhận. Nếu gia đình bạn là Cộng Sản, bạn đứng đầu danh sách. Nếu họ làm việc cho chính quyền cũ, thì bạn đứng đội sổ. Bởi vì cha và anh của cháu đều đi tù học tập cải tạo, nên cháu đã không được nhận.” (Sđd., trang 198)
Ra Tù, Về Nhà, Đi Vượt Biên
Ra khỏi những nhà tù nhỏ là các trại tù học tập cải tạo, các cựu tù chính trị VNCH tường có thể bước qua được khúc quanh nghiệt ngã này để bắt đầu làm lại cuộc đời. Nhưng, không, họ chỉ mới bước chân vào cái nhà tù lớn của xã hội Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản với vô số khổ sở và trớ trêu khác đang chờ chực.
Đúng vậy, như lời kể của một cựu kỹ sư và thầy giáo thời  VNCH đi tù học tập cải tạo về mà McKelvey thuật lại như sau: “Ngày đầu về nhà tôi lo sợ về an ninh. Tôi phải đem giấy chứng nhận ra tù học tập cải tạo đến văn phòng an ninh phường, văn phòng hành chánh phường, và ty an ninh tỉnh để ký xác nhận. Trong tháng đầu sau khi tôi về nhà tôi cũng phải có mặt ở những buổi họp trong xóm mỗi đêm. Chúng giống y chang những buổi họp trong trại tù. Tôi phải đứng dậy và thú tội trước 15, 20 người láng giềng của tôi đang có mặt trong buổi họp. Mỗi lần như thế tôi đều phải bắt đầu bằng câu, “Tôi biết ơn Cộng Sản.” Sau một tháng như vậy tôi mới nhận được giấy nói rằng tôi đã trở lại làm công dân Việt Nam. Rất là quan trọng để tờ giấy đó được ký chứng nhận bởi công an địa phương. Nếu bạn phạm trọng tội, thì họ sẽ lấy lại [giấy tờ và quyền công dân của bạn].” (Sđd., trang 47)
Một cựu tù chính trị VNCH khác là cựu đại tá và chỉ huy Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn tên Bích kể cho McKelvey nghe ngày từ trại tù trở về nhà như sau: “Hơi là lạ. Ban đầu, mấy đứa con không nhận ra tôi bởi vì tôi rất ốm. Tôi đi lại khó khăn bởi vì vấn đề dinh dưỡng. Tôi rất yếu. Tất cả trừ đứa con trai út của tôi đều đã đi thăm nuôi tôi ở ngoài Bắc với vợ tôi. Trải qua 2 năm đầu chúng tôi không được phép nhận thư từ gia đình, và qua 3 năm đầu chúng tôi không được thăm nuôi. Sau đó họ có thể thăm nuôi mỗi 6 tháng, nhưng vợ tôi không có tiền để đi thăm nuôi tôi đều như thế. Bà chỉ đi thăm tôi mỗi năm 1 lần hay 2 năm một lần.” (Sđd., trang 65)
Còn cựu tù chính trị VNCH là nhà tình báo Sang thì kể như sau, theo McKelvey, “Khi tôi trở về nhà một số người sợ tôi và không muốn liên hệ với tôi. Những người khác thì thông cảm, nhưng tôi không muốn họ gặp rắc rối vì tôi gần gũi với họ, do đó tôi sống rất cô độc. Sauk hi trở về nhà nhiều cựu tù chính trị sống cô độc. Nhiều bà vợ bỏ  họ trong lúc họ còn trong tù. Nhiều người khác về nhà bị rồi loạn thần kinh mà một thời gian ngắn sau đó họ đã ly dị. Hầu hết họ đều không có việc làm. Những nào người ở tù nhiều năm có con lớn lên và khó hiểu biết chúng. Những đức con độc lập, và không có sự gần gũi giữa chúng và người cha đi tù. Khi những cựu tù ly di với các bà vợ thì những đứa con cảm thấy vô vọng.” (Sđd., trang 95)
Giáp mặt với cuộc sống khó khăn mọi mặt ở nhà như thế, nhiều cựu tù chính trị VNCH đã tìm đường vượt biên.
Nhà tình báo Sang kể tiếp cho McKelvey nghe, “Hầu hết mọi người tù trong các trại tù cải tạo đều hy vọng trở thành những người tị nạn tại một quốc gia khác.” (Sđd., trang 95)
Cựu tù chính trị VNCH nguyên là phi công tên Tra (tác giả không bỏ dấu) kể về chuyện vượt biên của ông cho McKelvey nghe rằng, “Tôi cố vượt biên bằng thuyền nhiều lần, nhưng đều bị gạt, họ bỏ tôi ở lại. Lần cuối cùng tôi cố vượt biên với mấy người bạn và tôi mua thuyền. Kế hoạch là chúng tôi phải neo thuyền ngoài khơi. Chúng tôi đi ra thuyền đó bằng ghe nhỏ. Nhưng người lái ghe nhỏ của tôi đã bị lạc, và tôi không bao giờ thực hiện được việc đó. 2 người bạn khác của tôi thì đã thành công lái tàu tới Mã Lai Á.” (Sđd., trang 120)
Qua Mỹ Và Những Khó Khăn Của Cuộc Sống Mới
Ra khỏi Việt Nam đối với các cựu tù chính trị VNCH là một nhu cầu để được sống tự dọ và hạnh phúc, nhất là qua Mỹ. Nhưng trước khi tới Mỹ, không một cựu tù chính trị VNCH nào hình dung ra được những hoàn cảnh thế nào mà họ sẽ phải đối diện mỗi ngày. Vì thế, qua Mỹ là một trong những bước ngoặc lớn trong cuộc đời của một cựu tù chính trị VNCH.
Chúng ta hãy nghe lại lời kể của cựu phi công Tra về những khó khăn nào mà ông gặp phải khi qua Mỹ, “Chúng tôi có nhiều khó khan. Đôi khi tôi nghĩ chúng tôi không tạo nên nó. Sau khi chúng tôi gặp lại nhau vài năm thì bà [vợ] nói với tôi, “Anh biết đó, chúng ta vẫn còn đang thích nghi. Vẫn còn khoảng cách giữa chúng ta.l” Tại Việt Nam, là người chồng, tôi chăm sóc mọi thứ. Ở đây tôi không có gì, không việc làm và không tiền bạc. Bà ấy cho tôi mọi thứ. Tôi cảm thấy bị coi thường. Bà ấy nói rằng, “Hãy ở nhà và nghỉ ngơi.” Tôi nói, “Không, tôi muốn đi làm ngay nếu được.” Vì thế bà đi và bảo với người quản trị của hãng xưởng nơi bà ấy làm việc. Ông ấy cho tôi một việc làm lắp ráp điện tử vào năm 1991, và từ đó tôi làm việc ở đó tới nay.” (Sđd., trang 121)
Trường hợp của bà Oanh là vợ của cựu phi công Tra là một điển hình của những người vợ cựu tù chính trị VNCH đã đến Mỹ trước và phải đấu tranh sinh tồn rất khổ cực để vừa nuôi con vừa nuôi chồng trong một đất nước hoàn toàn xa lại. Bà Oanh kể với McKelvey như sau:
“Tôi không biết mặt mũi của tôi ra sao trong thời gian đó. Tôi rất bận rộn đến nỗi không có thì giờ để soi gương. Điều duy nhất mà tôi nghĩ về là kiếm tiền. Tôi có việc làm trong khâu dây chuyền lắp ráp. Tôi chỉ kiếm được 3.25 đô la một giờ, và vì vậy tôi tới sở xã hội để xin giúp đỡ. Người phụ nữ ở đó cũng là một người Việt. Bà ấy rất khinh khỉnh. Bà nói rằng, “Bạn kiếm được 3.25 đô la một giờ, vậy mà bạn vẫn còn đi xin giúp đỡ hà? Tiền nhà của cô chắc là quá cao. Tại sao bạn không dời tới [một chương trình trợ cấp nhà ở rõ rang mà nơi đó có nhiều người tị nạn Việt Nam mới tới ở]? Tôi rất giận. Tôi không biết phải nói gì. Tôi chỉ khóc và bỏ đi.” (Sđd., trang 127)
Còn một khó khăn khác mà nhiều cựu tù chính trị VNCH khi qua Mỹ gặp phải đó là sự cách biệt giữa cha mẹ và con cái lớn lên bên này đã trở thành xung đột khó giải kết trong gia đình. Tác giả Robert S. McKelvey nêu ra trường hợp con cái trong gia đình của cựu phi công là cựu tù chính trị VNCH qua lời kể của người con gái tên Phuong (tác giả không đánh dầu), như sau:
“Tôi nhớ căng thẳng giữa ba tôi và người em gái của tôi. Lúc đó em gái út của tôi và tôi ở nhà và 2 đứa em gái khác ở đại học. Tôi không nhớ căng thẳng nhiều tới mức nào giữa ba tôi và tôi, nhưng ba tôi bị bực mình với em gái út của tôi bởi vì nó quá bướng bỉnh. Họ không hạp nhau. Ba tôi thì rất truyền thống và đối xử với con cái theo cách ở Việt Nam. Em gái út tôi là con gái Mỹ. Nó nói những gì nó suy nghĩ và hành động độc lập. Ông còn nhớ sự kiện ba mẹ tôi kể cho ông nghe về việc em gái tôi lái xe lui ra quá nhanh? Ba tôi nói rằng, “Tôi rất giận đứa con gái đó.” Tại Việt Nam bạn không thể hành động như vậy, ngay dù bạn đang giận dữ. Bây giờ em gái tôi cho rằng, “Ba không thích em – Em là đồ rác.” (Sđd., trang 139)
Kết Luận
Ông Quyet (tác giả không đánh dấu) là một học giả có bằng thạc sĩ tại Hoa Kỳ và dạy tiếng Anh tại Học Viện Quân Sự Quốc Gia Việt Nam (VNCH) trước năm 1975. Sau năm 1975 Quyet đi tù học tập cải tạo. Quyet đã trình bày bằng văn bản ba điều với McKelvey về quan điểm của ông đối với chế độ Cộng Sản Việt Nam. Trong đó ông chỉ trích chính sách tàn ác của Cộng Sản đối với dân quân miền Nam và cho rằng chính quyền CSVN còn nợ người dân miền Nam lời xin lỗi.
Điều thứ ba của văn bản của Quyet viết rằng, “Thứ ba, các anh [Cộng Sản] lớn tiếng kêu gọi mọi người “tha thứ và quên đi.” Hãy để tôi nói rõ rằng chúng tôi đã không, và đang không, mắc nợ các anh bất cứ điều gì [đối với những gì chúng tôi đã làm]. Hầu hết chúng tôi chiến đấu dũng cảm đơn giản là để tự bảo vệ. Không có gì sai với điều đó cả. Khi chiến tranh chấm dứt quá khứ nên để lại sau. Chúng tôi có thể đã là bạn bè của các anh và cùng nhau làm việc với các anh để xây dựng đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, nhưng các anh đã chọn ôm giữ ác cảm chống lại chúng tôi và đối xử với chúng tôi tồi tệ hơn với thú vật. Các anh mới chính là người nợ chúng tôi một lời xin lỗi [cho điều đó] và đặc biệt đối với việc [các anh] làm ô nhiễm nơi an nghỉ thiêng liêng của những chiến sĩ đã nằm xuống của chúng tôi.” (Sđd., trang 168)
Trong phần kết luận cuốn sách, tác giả Robert S. McKelvey rút ra 5 nhận định từ những kinh nghiệm và bài học của chiến tranh Việt Nam, của các cựu tù chính trị VNCH mà người Mỹ và chính quyền Mỹ cần đặc biệt quan tâm.
Một, nạn nhân của chiến tranh là những con người nhạy cảm, tế nhị và dễ bị tổn thương nên, người Mỹ cần đối xử công bằng với các đồng minh của mình. Hai, sự đau khổ của các nạn nhân chiến tranh không chấm dứt sau khi ký hiệp định hòa bình và rút quân [Mỹ] về nước. Do vậy, việc điều trị vết thương chiến tranh cần thời gian dài sau đó. Ba, Hoa Kỳ cần cẩn thận cách can thiệp trên thế giới, mà cụ thể là cần lắng nghe nguyện vọng của các đồng minh. Bốn, Hoa Kỳ cần có trách nhiệm với các đồng minh hay quốc gia mà mình can thiệp bằng chiến tranh. Và năm, người Mỹ cần nhận thức rõ là họ chiến tranh vì cái gì. Nên nhớ, chuyện mở cuộc chiến tranh không giống như chuyện trong phim, vì nó sẽ để lại nhiều đau khổ cho vô số người trong nhiều thập niên sau đó.
Dù cuốn “A Gift of Barbed Wire” đã được xuất bản cách nay 13 năm, nhưng những điều mà tác phẩm này nói đến vẫn còn là các bài học giá trị mà các chính quyền tại Việt Nam và Hoa Kỳ cần phải học lại kỹ lưỡng để tránh gây đau thương cho cả một dân tộc. Đối với người Việt trong và ngoài nước, tác phẩm này chắc chắn là một kho tàng ký ức sâu đậm của một thời lịch sử không thể quên. Khi có dịp gợi lại thì thấy rằng nó vẫn còn nguyên ở đó.
Xin cám ơn tác giả Robert S. McKelvey.
Chú thích:
(2) R. S. McKelvey, The Dust of Life: America’s Children Abandoned in Vietnam [Bụi Đời: Những Đứa Trẻ Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Việt Nam] (University of Washington Press, Seattle, 1999).
(3) Tranh sơn mài là hình thức hội họa truyền thống Việt Nam được đưa tới Việt Nam từ Trung Quốc vào thế kỷ thứ 15. Sơn mài màu cứng được dung cho gỗ mềm, được đánh bóng cho thật là láng như đồ sứ, và rồi được trang trí hay sơn với những sơn mài màu sắc khác nhau (P. Huard và M. Durand, Viet Nam: Civilization and Culture [Việt Nam: Văn Minh và Văn Hóa], tái bản lần thứ 2 [École Francaise d’Extréme Orient, Hà Nội, 1994], trang 204-7).
(4) N. L. Jamieson, Understanding Vietnam [Hiểu Việt Nam] (University of California Press, Berkeley và Los Angeles, 1993), trang 363.
(5) Sách đã dẫn trên, trang 364.
(6) Chương Trình ODP là sự thỏa thuận song phương đạt được và tháng 7 năm 1979 giữa chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam cho phép sự nhập cư của người Việt vào Hoa Kỳ hợp pháp và an toàn.
(7) Chẳng hạn, xin xem, T. T. Vu, Lost Years: My 1,632 Days in Vietnamese Reeducation Camps [Những Năm Mất Mát: 1,632 Ngày Của Tôi Trong Các Trại Học Tập Cải Tạo Của Việt Nam] (Institute of East Asian Studies, University of California, Berkeley, 1988); T. V. Doan và D. Chanoff, The Vietnamese Gulag [Trại Tù Chính Trị Việt Nam] (Simon and Schuster, New York, 1986).
(8) Thí Dụ, xin xem, M. C. Smith-Fawzi, E. Murphy, T. Pham, L. Lin, C. Poole, và R. F. Mollice, “The Validity of Screening for Post-Traumatic Stress Disorder and Major Depression among Vietnamese Former Political Prisioners” [Giá Trị Của Việc Kiểm Tra Đối Với Chứng Bất An Và Trầm Cảm Nặng Do Căng Thẳng Bởi Hậu Chấn Thương Trong Số Những Cựu Tù Chính Trị Việt Nam], Acta Psychiatrica Scandinavica (1997: 96): trang 87-93; R. F. Mollica, K. McInnes, T. Pham, M. C. Smith-Fawzi, E. Murphy, và L. Lin, “The Dose-Effect Relationships between Torture and Psychiatric Symptons in Vietnamese Ex-Political Detainees and a Comparison Group” [Các Mối Quan Hệ Hiệu Quả Liều Lượng Giữa Tra Tấn và Các Triệu Chứng Tâm Thần Trong Các Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam và Một Nhóm So Sánh], Journal of Nervous and Mental Disorder (1998: 186): trang 543-53.

Bình luận (28)

  • LINH YÊN-cường để-L.T.C.-luật khoa SG

    chuyện đã rỏ từ lâu mà bất kỳ ai củng hiểu,sau 75 mọc lên rất nhiều trại giam cấp huyện,cấp thành phố và cấp tỉnh trên toàn quốc, miền BẮC được chọn là nơi giam giử nghiệt ngă các tù nhân chính trị cao cấp,ác ôn do yếu tố địa hình địa lý khắc nghiệt…”tập trung cải tạo”"lao động cải tạo”hay”giáo dục cải tạo lầm đường lạc lối”những danh từ nghe rất kêu chứ thực chất là những vụ trả thù,khổ sai lao động vất vả mà không được ăn no,hành xác với kết quả là hàng ngàn sỉ quan,công chức VNCH bị chết chóc,bệnh tật tại trại cải tạo…vượt biên chết trên biển ĐÔNG,tù cải tạo ngả gục trước lính canh,dân đi kinh tế mới chết vì bệnh tật,đói khổ…ai dám bảo rằng sau ngày CS tràn vào miền nam VN không có tắm máu?? ông cựu đại úy dân sự vụ TQLC HOA KỲ hiểu hoàn cảnh của quân dân cán chính VNCH bị bỏ rơi,phản bội củng hơi muộn nên khi viết sách cho xuất bản thì mọi việc đả trở thành dỉ vảng,lương tâm con người chai sạn trước tội ác đi qua .Những nhân tố chính gây nên thảm họa lịch sử 1975 hầu như đả ra người thiên cổ( cả MỸ lẩn VIỆT) cho nên trách nhiệm chỉ còn trên vài bài báo,trên khẩu hiệu đả kích hoặc tuyên truyền của bên thắng cuộc và bên thua…máu lẩn nước mắt của giai đoạn tháng 4/75 có lẻ đã khô cạn giờ chỉ là lời ai oán,thở dài cay đắng của trăm ngàn nạn nhân
    Reply
  • Nada

    Vẫn thiếu một phần mà tác giả không nói tới đó là ảnh hưởng đối với con cái của những người bị cải tạo dù họ sinh ra sau khi người tù về lại với gia đình. Hãy hỏi những sinh viên con HO, họ biết việc học của họ tới đâu nếu gia đình còn ở lại VN
    Xin trích bài của Nancy Nguyễn, đọc mà thấy đau lòng, cha mẹ bị đầy ải còn bắt con cái mang những di lụy mãi trong đời
    Link: http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/40years-april30/kyuc40nam-010615-01062015115020.html/
    KÝ ỨC VỀ MỘT THỜI KHÔNG SỐNG.
    8 Tháng 1 2015 lúc 9:39
    (Không biết nên tag ai, thôi thì, ai còn nặng lòng, xin tự tag mình vô vậy …)
    Xin đừng cười! Nếu ai đó kể ký ức của họ, về một giai đoạn lịch sử mà họ không hề sống qua.
    Tôi sinh ra cả thập kỷ sau Thống Nhất, và mãi một thập kỷ sau đó nữa, mới lờ mờ có những nhận thức đầu tiên về cuộc đời. Chuyện tưởng chừng như nực cười mà có thật là tôi, à không, cả thế hệ chúng tôi, đều ít nhiều có “ký ức” về cái ngày định mệnh ấy, và cả bốn mươi năm sau đó nữa.
    Sài Gòn, trong ký ức tôi là những ngày mưa, có lúc dẳng dai, có khi bất chợt. Nhà tôi nghèo lắm, nên mỗi khi trời trở gió là mẹ tôi hay cuống cuồng gom quần áo, giày dép của mấy anh em vào “kẻo mưa trôi mất”. Mỗi lần như vậy, mẹ lại nhìn đôi dép của anh Hai thật lâu. Rồi một ngày, mẹ bất chợt: “ngày ba con đi cải tạo, ba chỉ mang theo có mỗi một đôi dép với mấy bộ đồ …” Người ta bảo chỉ dăm bữa thôi, rồi sẽ về ngay ấy mà. Và mẹ tôi đã đợi. Đợi. Đợi …
    Và đợi!
    “Hồi đó khổ lắm, chẳng biết xoay đâu ra tiền để thăm tù, con ạ!” Giọng mẹ tôi lạc đi, và khoé mắt chưa một lần thôi đỏ, đù đã kể đi kể lại câu chuyện ấy đến … quá nhiều lần: “Những ngần ấy năm! Chẳng biết xoay đâu ra tiền …”
    Rồi cha tôi cũng mãn hạn, trở về mái ấm xưa, để cay đắng nhận ra, trong ngần ấy năm đầy biến cố của cuộc đời, con người ta đã thay đổi, và chính cha tôi cũng đã đổi thay. Mẹ tôi trở thành người phụ nữ thao lược, đảm đang, còn cha tôi, ông trở thành một người đàn ông đầy mặc cảm thua sút, mặc cảm núp váy vợ. Dần già, ông trở nên cọc cằn, độc đoán. Dần già, ông trở thành một người lạ, ngay trong chính mái ấm của bản thân mình.
    Tuổi thơ tôi đó, những cơn cãi vã, những trận đòn roi. Tuổi thơ tôi đó, những ngày lang thang chỉ mong không bao giờ phải trở về nhà. Tuổi thơ tôi đó, một mái gia đình xiêu vẹo, nứt lở, chỉ chờ ngày sụp đổ.
    Tại sao những gì buồn bã, và đau thương nhất, lại thường sảy ra vào những ngày mưa? Một ngày mưa trút nước của năm 1988, có một bà mẹ trẻ, một tay ẵm con, một tay dắt thêm hai đứa nữa, lủi thủi đi. Nước mắt, lẫn vào trong mưa, bé nhỏ, đớn đau, cùng quẫn…
    “Không phải tại ba con, tại nhà tù nó thế!” Tôi không biết đó là sự thật, hay mẹ tôi chỉ đang tự huyễn hoặc mình. Nhưng có một điều rất thật, là có một người vợ mất chồng, và ba đứa trẻ mất cha… Vâng, giữa những cái giả dối tởm lợm của một chế độ tự xưng là “Giải Phóng” ấy, có những điều rất thật, đó là vô vàn những nỗi đau. Rất thật.
    30 tháng Tư, đối với tôi, chỉ mơ hồ, như một màn sương, và lẩn khuất trong màn sương ấy, là những trại tù, và những số phận bị cầm tù, từ ngày ấy đến mười bốn ngàn sáu trăm ngày sau đó, có khi là mãi mãi … Như mẹ tôi, một người tù!
    “Tánh ba con xuề xoà, nên chỉ mang theo có vài bộ đồ, và mỗi một đôi dép. Họ bảo chỉ dăm bữa, rồi lại về ngay ấy mà!” Câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần, mà lần nào giọng mẹ tôi cũng nghẹn lại, cũng lạc đi. Đâu đó sâu trong khoẻ mắt Người, dường hằn lên dung hình một kẻ lữ thứ cô độc, xiêu vẹo trong cơn bão giông.
    Trong khoảnh khắc định mệnh ấy của dân tộc, cái lũ chúng tôi còn chưa mở mắt chào đời, nhưng ai dám bảo chúng tôi không có ký ức về 30 tháng Tư? Xin đừng cười! Nếu ai đó kể ký ức của họ, về một quãng đời không hề sống. Có khi, đó lại là những ký ức ám ảnh nhất của một đời người.
    Như ký ức về những giọt nước mắt được giấu kỹ trong mưa…
    Reply
  • Sinh viên

    VN 40 NĂM SAU CHIẾN TRANH: CHIẾN THẮNG KIỂU CS ĐÃ NHƯỜNG CHỖ CHO THAM NHŨNG KIỂU TB NHƯ THẾ NÀO
    Nick Davies - Theo tờ Guardian - Athena, cộng tác viên Dân Luận chuyển ngữ
    Bài chuyển ngữ dài, SV trích đoạn ngắn CHIẾN THẮNG KIỂU CS
    Vào một buổi sáng sớm của tháng Hai năm 1968, khi giao tranh ở miền Trung Việt Nam đặt tới đỉnh cao mới về sự điên cuồng, một toán lính Hàn Quốc tràn vào ngôi làng Hà My. Những người lính này thuộc lữ đoàn Thanh Long, chiến đấu bên cạnh người Mỹ, cố gắng dập tắt một cuộc nổi dậy của phe cộng sản.
    Họ dồn những người nông dân và gia đình của họ vào một khu vực tập trung mà người Mỹ gọi là “ấp chiến lược”. Bằng việc đưa những người nông dân này rời khỏi làng, họ hy vọng rằng quân du kích cộng sản sẽ bị bỏ đói và không có chỗ trú ẩn. Và đã nhiều tuần liên tiếp, những người nông dân và gia đình của họ trốn khỏi ấp chiến lược, quay lại làng Hà My.
    Giờ đây, sức chịu đựng của lữ đoàn Thanh Long đã vượt quá giới hạn. Trong vài giờ sau khi đặt chân đến làng Hà My, lính Hàn Quốc đã tập hợp người dân thành các nhóm nhỏ và phóng hỏa đốt nhà một cách có hệ thống. Một giờ sau, chúng giết 135 người dân làng. Nhiều năm sau đó, sự thật cũng bị chôn vùi theo những nấm mồ này.
    30 năm sau cuộc thảm sát, một đài tưởng niệm đã được xây lên bằng tiền của những người lính thuộc lữ đoàn Thanh Long khi những người này quay lại đây và bày tỏ sự ăn năn hối lỗi. Nhưng dường như vẫn có điều gì đó không đúng. Trên đó không hề ghi một dòng nào giải thích cho cái chết của những người này.
    Những người dân làng giải thích rằng khi đài tưởng niệm mới được xây dựng, mặt sau của tấm bia có ghi chi tiết những gì đã xảy ra ngày hôm đó. Một người thận chí còn giữ một bản copy những từ ngữ đó, rồi chuyển thành một bài thơ hùng tráng gợi nhớ về lửa thiêu, máu, thi thể cháy đen và chất đống trên cát: “Đau đớn thay khi nhìn cảnh những ông bố bà mẹ ngã quỵ dưới ngọn lửa… Khủng khiếp thay những đứa trẻ kêu gào khóc lóc, vẫn còn bú sữa trên bầu ngực của người mẹ đã chết…”
    Nhưng, những người dân làng kể tiếp, một số quan chức ngoại giao Hàn Quốc đã đến thăm nơi đây trước khi đài tưởng niệm chính thức mở cửa và phàn nàn về bài thơ này; thay vì đứng lên bảo vệ bài thơ thì quan chức Việt Nam lại đồng ý che nó đi bằng cách vẽ thêm mấy bông hoa sen. Heonik Kwon, một nhà nhân chủng học người Hàn Quốc, từng nghiên cứu về làng Hà My tại thời điểm đó đã ghi lại lời của người dân làng nói rằng từ chối lịch sử kiểu này giống như thảm sát lần hai vậy, “giết chết ký ức về vụ thảm sát”.
    Tại sao người dân Việt Nam lại chấp nhận thỏa hiệp như vậy? Tại sao những người chiến thắng lại để cho bên thua cuộc viết lại lịch sử cuộc chiến tranh?
    Người dân làng cho biết câu trả lời thực ra rất đơn giản: Hàn Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào nền kinh tế Việt Nam, và đã chấp nhận chi trả khoản tiền xây dựng bệnh viện địa phương nếu bài thơ về cuộc thảm sát kia được che giấu đi. Vì vậy quan chức Việt Nam đã đồng ý, vì họ không thể kháng cự lại được. Và đó chính là điểm mấu chốt.
    Một tháng trời đi khắp nơi, nói chuyện với những người nông dân, học giả, các chuyên gia và cựu chiến binh từ cả hai phía đã hé lộ những sai lầm và cả sự thỏa hiệp. Người Mỹ đã thành công trong việc tuyên truyền những điều sai trái về nguyên nhân và cách họ tiến hành cuộc chiến. Mặc dù thua trên mặt trận quân sự, Mỹ và các đồng minh quay trở lại với thứ vũ khí còn mạnh mẽ hơn: đó là tài chính. Giờ thì đến lượt các nhà lãnh đạo Việt Nam NÓI DỐI những điều còn kinh khủng hơn…
    Reply
    • Lông Bông

      Trong tay đã sẵn đồng tiền
      Dẫu rằng đổi trắng thay đen khó gì
      Bao nhiêu bom đạn và bạo lực khủng khiếp mà không khuất phục được. Thế mà bằng sức mạnh của đồng đô la người ta mua được hết!!! Nhân phẩm, sinh mạng con người rẻ như bèo!!!
      Reply
  • Sinh viên

    VN 40 NĂM SAU CHIẾN TRANH: CHIẾN THẮNG KIỂU CS ĐÃ NHƯỜNG CHỖ CHO THAM NHŨNG KIỂU TB NHƯ THẾ NÀO?
    Nick Davies - Theo tờ Guardian - Athena, cộng tác viên Dân Luận chuyển ngữ
    Bài chuyển ngữ dài, SV trích lược THAM NHŨNG KIỂU TB
    Cho đến vài năm trước, các nhà báo làm cho một trong những tờ báo lớn ở Sài Gòn vẫn thường dừng lại để mua cafe từ một người phụ nữ thân thiện bán hàng cả ngày trên vỉa trước cửa văn phòng của họ. Họ thường gọi bà ấy là Bà Bán Cafe. Bà có một câu chuyện nhỏ về cuộc chiến, nhưng phần lớn là câu chuyện về những điều xảy ra từ sau khi hòa bình lập lại. Đó là những điều mà Đảng Cộng sản Việt Nam trước giờ toàn nói dối…….
    Trên hè phố Sài Gòn, Bà Bán Café đã dõi theo tất cả những biến cố đó. “Tôi vẫn kiếm được tiền như thế, vẫn sống trong một căn phòng như thế,” bà trải lòng. “ …. Đất nước thay da đổi thịt, nhưng không phải dành cho những người như tôi. Chỉ những người có các mối quan hệ mới trở nên giàu có.” Sau nhiều năm, bà vẫn bán một loại café duy nhất. Trong khi bà vẫn nghèo khổ, thì người đàn ông sở hữu công ty này đã lèo lái … hiện tại công ty đó có giá trị lên tới 100 triệu USD.
    * * *
    Ngồi trong văn phòng ở phía bên kia của thành phố là cựu tổng biên tập Nguyễn Công Khế. Ông đã làm cho báo Thanh Niên suốt nhiều năm, một tờ báo có văn phòng ngay tại tòa nhà mà Bà Bán Cafe ngồi bán. Trong thời gian đương chức, ông Khế đã làm phật ý một số người có quyền lực… Hành động của ông Khế quả thực rất liều lĩnh. Mỗi tuần, vào thứ Ba ở Hà Nội và thứ Năm ở Sài Gòn, các tổng biên tập đều bị triệu tập để nhắc nhở tuần này được đăng và không được đăng bài gì. Đáp lại sự cố gắng của ông Khế, vào năm 2008, ông bị sa thải.
    Vào tháng Mười Một năm ngoài, ông Khế lại liều lĩnh một lần nữa khi kêu gọi chính phủ cho phép tự do báo chí trên tờ New York Times. Phải nhấn mạnh rằng; tên của ông Khế bị gắn với lời kêu gọi này, ông nói rằng lãnh đạo Việt Nam đã phản bội lại chính bản thân họ.
    “Lúc ban đầu, những người tham gia cách mạng giành chính quyền đều có lý tưởng rất tốt là phát triển đất nước và xây dựng một quốc gia thịnh vượng, nhưng rồi mọi chuyện đã đi chệch hướng. Những người đã tham gia cách mạng, những người đã phải thề sẽ sống trong sạch – cuối cùng, họ đã phản bội lại chính ý thức hệ và cam kết của họ”
    Bản thân ông Khế cũng từng tham gia cách mạng. Vào đầu những năm 1970, khi còn là sinh viên, ông Khế đã kích động chống Mỹ và bị bỏ tù 3 năm. Ông hiểu vì sao hàng ngũ lãnh đạo lại sử dụng CNTB như một thứ công cụ để kích cầu nền kinh tế, nhưng rồi ông cũng thấy được mặt trái của nó – đó là nạn tham nhũng và vấn đề bất bình đẳng.
    Ông Khế cho rằng cứ mỗi 10USD chi cho một dự án công, thì có đến 7USD chui vào túi một người nào đó. Có tin được không? Vậy là có đến 70% ngân sách Việt Nam bị đánh cắp? Đây hẳn phải là tỉ lệ ăn cắp đáng báo động. Tôi và ông Khế nói chuyện qua một người phiên dịch. Ông Khế gật đầu, khuơ tay trong không khí áng chừng: “Khoảng 50 – 70%”.
    Tổ chức Minh bạch Quốc tế vào năm ngoái đã thống kê rằng Việt Nam bị coi là một trong những quốc gia tham nhũng nhiều nhất thế giới, xếp sau 118 quốc gia và chỉ đạt 31 điểm trên thang điểm 100.
    Ai cũng thừa nhận là nạn tham nhũng chẳng có gì xa lạ. Ở Việt Nam quan chức có truyền thống lâu đời trong việc lừa bịp về tầm ảnh hưởng của họ và thường ưu tiên những người trong gia đình. Nhưng cáo buộc ở đây là mức độ tham nhũng đã chạm đến một người mới dưới sự lãnh đạo của hàng ngũ hiện tại….
    Martin Gainsborough, một học giả người Anh, đã dành nhiều năm tại Việt Nam để nghiên cứu về sự phát triển của khu vực Đông Nam Á, viết rằng: “Thay vì được truyền cảm hứng bởi những ý tưởng cải cách, động cơ của các quan chức nơi đây là để nhận hối lộ… Những gì chúng ta thường nhắc đến như “cải cách”, lại chính là nỗ lực giành quyền kiểm soát lợi ích chính trị kinh tế, tài chính và các nguồn khác..”
    Ba tháng gần đây, một trang web kỳ lạ đã đăng những cáo buộc chi tiết về hành vi của một lãnh đạo trong hàng ngũ cấp cao của Việt Nam. Trang web đó có tên là Chân Dung Quyền Lực (“Portrait of Power”) và sao chép các cáo buộc này dưới dạng văn bản, ghi âm và băng video. Trang web này chưa bao giờ được xác nhận, nhưng giới quan san sát cho rằng toàn bộ việc này đều do một chính trị gia quyền lực cung cấp thông tin nội bộ nhằm triệt hạ đối thủ.
    Dần dần, nhà nước đã chấp nhận tham nhũng và các vụ đàn áp. Ông Khế nhún vai: “Chúng tôi đã đánh đổi hàng triệu mạng sống cho nền độc lập và công bằng. Hồi còn ở trong tù, tôi đã tưởng tượng ra cảnh đất nước xóa bỏ hoàn toàn được nạn tham nhũng sau chiến tranh, nhưng điều đó đã không xảy ra. Việc phát triển đất nước là điều nên làm, vì vậy chúng tôi không chống lại những ai làm giàu hợp pháp. Nhưng chúng tôi không cho phép những người làm giàu bất hợp pháp và khiến những người nghèo phải nghèo khổ hơn.”
    Mặc dù từng được ghi nhận là nước thành công trong việc phát triển kinh tế khá đồng đều, nhưng Việt Nam không còn đứng về phía người dân nghèo như trước đây nữa. Một báo cáo năm 2012 của Ngân hàng Thế giới đã lưu ý rằng “sự bất bình đẳng đang quay trở lại trên bàn nghị sự”. Từ giữa năm 2004 đến 2010, thu nhập của 10% số người nghèo nhất đã giảm 1/5, trong khi 5% số người giàu nhất Việt Nam chiếm gần một phần tư tổng thu nhập.
    Đỉnh điểm tồi tệ của sự bất bình đẳng này diễn ra ở các vùng nông thôn. Hàng triệu người nông dân bị thu hồi đất canh tác để lấy chỗ xây dựng nhà máy và làm đường. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước 91.8% hộ gia đình nông thôn sở hữu đất. Đến năm 2010, gần một phần tư trong số này không có đất. Và thế là những người ông dân nghèo đổ xô đến các thành phố, nhập cuộc với hàng trăm nghìn người khác. Làn sóng những người này đã hòa vào nhau tạo nên “thành phần kinh tế phi chính thức” – được ẩn giấu dưới các xưởng sản xuất tại nhà riêng hoặc ngồi buôn bán trên vỉa hè – và tham gia lao động tại các khu công nghiệp mới hoặc khu chế xuất.
    Trong phần kinh tế phi chính thức, thì không có sự bảo hộ nào cả. Trong lĩnh vực công nghiệp, sự bảo hộ này còn yếu hơn. Giáo sư Angie Ngoc Tran là một chuyên giao về nghiên cứu lao động tại Việt Nam. Trong cuốn sách Ties That Bind của mình. Bà Ngoc Tran kết luận: “Với sự gia tăng nguồn vốn vào Việt Nam qua kênh đầu tư nước ngoài và tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, chính phủ đang ngày càng ít đứng về phía người dân hơn. Đôi khi, một số cơ quan và tổ chức của nhà nước còn liên minh với các ông chủ tư bản.”
    Mọi công nhân đều được đảm bảo một mức lương tối thiểu. Đầu tiên, vào năm 1990, mức lương này tương đương với việc “mức lương đủ sống”. Nhưng qua từng năm, vì lo sợ mất vốn nước ngoài, chính phủ đã để mức lương này bị cắt giảm, đóng băng và chi phối bởi lạm phát, kết quả là vào tháng Tư năm 2013, công đoàn của nhà nước đã phản đối rằng mức lương đó chỉ đủ để chi trả cho 50% những thứ thiết yếu.
    Trong khi đó, chăm sóc y tế và giáo dục không còn miễn phí nữa. Bản báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho biết “thu nhập đang bắt đầu trở nên quan trọng hơn trong việc xác định cơ hội sử dụng các dịch vụ cơ bản”, và rằng chính phủ đang chi tiền xây dựng bệnh viên cho người giàu nhiều hơn cho các trung tâm y tế xã cho người nghèo.
    …. Thực tế hiện tại là Việt Nam đang phải hứng chịu những điều tồi tệ nhất từ hai hệ thống: (1)nhà nước độc tài xã hội chủ nghĩa và (2)ý thức hệ tư bản hoang dã; hai hệ thống này kết hợp với nhau đang đánh cắp tiền bạc và quyền lợi của người dân Việt Nam trong khi một nhóm nhỏ đang tìm cách vơ vét cho đầy túi và nấp sau những khẩu hiệu cách mạng rỗng tuếch. Đó mới là điều DỐI TRÁ KINH KHỦNG NHẤT.
    Thắng lợi trong chiến tranh nhưng lại thua trong hòa bình, những hứa hẹn về một nhà nước xã hội chủ nghĩa của các lãnh đạo giống như những lời tuyên truyền rỗng tuếch. Theo như lời một cựu quân du kích đã mạo hiểm cả cuộc đời của mình cho lý tưởng này, thì: “Đó là những tên tư bản đỏ.”
    Reply
  • nguyen dinh

    Một số đông người Miền Nam bị cuốn vào cuộc chiến như bước vào một giấc mộng du. Không định hướng, không nhận thức rõ về vai trò của mình trong cuộc chiến.
    Sau cuộc chiến là tỉnh giấc với những nghiệt ngã của kẻ thua trận.
    Nhưng cứ mãi cay đắng mãi về những nỗi đau cũ chẳng giúp bớt đau, mà chỉ đưa mình quay lại những cơn ác mộng.
    Reply
    • Nada

      Không biết tại sao bạn nói: Một số đông người Miền Nam bị cuốn vào cuộc chiến như bước vào một giấc mộng du. Không định hướng, không nhận thức rõ về vai trò của mình trong cuộc chiến.
      Số đông là bao nhiêu?
      Thế còn con em của những người bắc di cư năm 54
      Chỉ những người sống không ý thức mới bước vào cuộc chiến như bước vào một giấc mộng du.
      Bạn không biết gì về chiến tranh mới nói thế.
      Không thể đối diện với cái chết, bị giết trong cuộc chiến mà không nhận thức rõ vai trò của mình trong cuộc chiến
      Reply
  • LÊ VĂN SONG -THÁI QUYỀN-ĐỖ THIỆN MÔ-LÊ THÁI THIỆN

    có thể người MỸ không thua cuộc trong cuộc chiến vì với tiềm năng quân sự hùng hậu hồi ấy(và cả bây giờ)họ dư sức đánh hoặc yểm trợ cho miền nam VN chiến đấu chống lại BẮC VIỆT,nhưng vì phong trào phản chiến quá mạnh từ dân chúng ,, bên trong quốc hội và bọn báo chí thiên tả thân Cộng đã hủy hoại và làm đảo ngược cái chiến thắng gần kề của chiến tranh VN và cái sự thật sâu xa,bỉ ổi,đau đớn nhất là vì quyền lợi to lớn hơn là thị trường TQ màu mở và dưới áp lực cúa “nhóm lợi ích”HK gốc DO THÁI buộc bỏ rơi VN hầu dồn viện trợ để bảo vệ bằng được ISRAEL trước sự bao vây của khối Ả RẬP,,,để cuối cùng cái”tiền đồn”ở Đông nam á này tự đơn phương chống đở trước sự xâm lăng ồ ạt của khối CS,,,còn 1 điều “có thể” thứ hai nửa là quân đội miền nam VN thiếu các nhân tài lảnh đạo cấp cao nên mau tan rả
    Lịch sử đi qua 40 năm bên thua cuộc chịu thiệt thòi lớn lao đã đành nhưng họ biết nguyên nhân vì đâu nên nổi có ngày 30/4 uất hận nhưng khổ cái “bên thắng”khư khư ôm chặt cái chiến thắng may mắn trời cho,họ như đinh đóng cột rằng nhờ đỉnh cao trí tuệ,tài tiến công,bách chiến bách thắng,chủ nghỉa anh hùng(?)cách mạng v.v.v….rồi đây đứng trước hiểm họa gần kề bởi sự xâm lấn tàn bạo,thâm hiểm của BẮC KINH nước CH XHCNVN sẽ ứng xử cách nào ??
    Lúc nầy đây sẻ có đồng chí nào bị bỏ rơi hay dân chúng sẽ….
    Reply
    • Carter

      Râts nhanh thôi, thứ nhất bạn đang tỏ ra rất hồ đồ khi cố biện minh cho việc Mỹ sắp thắng nhưng vì lí do blah blah nên thua và theo đó việt nam cộng hòa cũng thua theo vì ko có sự chống lưng của mĩ. Bạn tự cảm nhận sự yếu đuối sự hèn mọn kém cỏi của VNCH ko khi tự bạn lý do cho sự thất bại của mĩ và cho thấy ko có mỹ thì VNCH hay miền nam chẳng là cái gì cả. Nếu bạn nói tham nhũng thì bạn thấy tổng thống của VNCH sống xa hoa như nào trong cái dinh độc lập. Bạn có biết VNCH sẽ chẳng là gì nếu ko có mĩ. Bạn như là con điếm của một nước khác ý và trong khi đó mĩ ko thèm quan tâm tới bạn cũng chẳng viện cớ cho sự thua quộc chỉ có bạn mới đang làm cái điều nực cười mà thôi.
      Reply
  • Cavin

    Cho mình hỏi 1 chút là tại sao Mỹ lại xâm lược Việt Nam để rồi bị chia cắt 2 miền, và từ đó nảy sinh ra rất nhiều những sự kiện, nhân vật, câu chuyện như thế này vậy ?
    Reply
    • Nada

      Đọc lại toàn cảnh về sử thế giới sau từ thế chiến thứ hai, và những hệ lụy cho VN.
      Reply
  • pham v vuong

    vấn đề hệ lụy sau các cuộc chiến thì nó gần như là như vây. các cuộc trả thù các nhân, đúng là có sự trả thù các nhân vì bên nào cũng bị mất mát và có lòng hận thù như nhau. tôi đọc toàn bộ trong blog này và cũng phần nào hiểu được hoàn cảnh của những nguoi thuộc VNCH sau khi thất bại. họ đã rất khổ cực nhưng tác giả cũng nên khách quan thêm về hoàn cảnh lúc đó. theo tôi đưa ra như sau:
    1, sau 30-4-1975 mỹ và đồng minh đã hoàn toàn không còn chịu trách nhiệm vói chính quyền sài gòn. và họ đã ngay lập tưc thực hiện chính sách cấm vận về mọi mặt. vì vậy vấn đề tác giả nói là có quan hệ khép kín thì tôi cho rằng vẫn theo ý chủ quan chứ chưa thực sự khách quan.
    2. việc ăn không nó khi đi tù chính trị: thì vẫn chưa thuyết phục lắm vì sao: vì lúc đó Việt nam roi vào tình trạng suy thoái kinh tế trầm trọng. lương thực bị thiếu hụt, ngay chính những nguoi dân của chính quyền miên bắc cũng đều bị thiếu hụt lương thực trầm trọng họ gần như chỉ an rau củ chú cơm và bắp vẫn là những thứ xa xỉ tại thời điểm đó. ngoài các hoàn cảnh khác quan trên thì nó còn phục thuộc vào ý chủ quan của mỗi người. và sự trả thù là có , tôi đồng ý với tác giả. nhưng trả thù cá nhân chứ chưa phải là chế độ mới thực hiện chính sách trả thù này. cái này chúng ta cần khách quan hơn.
    3 vấn đề thắng thua: đây là hoàn cảnh lịch sử hay là chủ đích của con người. tôi xin nói. nó phục thuộc cả hai yếu tố: hoàn cảnh lịch sử và con người. không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh hay cũng hoàn toàn đổ lỗi cho con người được. nhưng nguyên nhân chính vẫn là từ trong nội bộ của VNCH gây ra sự sụp đổ của chế độ mình bằng các nguyên nhân sau:
    - sau khi mỹ rút quân và bỏ lại cho miền nam khối lượng lớn khí tài và vũ khí. nhưng tại sao VNCH vẫn thất thế vói Miền bắc chỉ chủ yếu súng AK47 và chân dép. đó lại là ý chí phụ thuộc vào con người. miền bác có một ý chí mà người dân ai cũng mong muốn là thống nhất đất nước và trên tinh thần tự nguyện sẵn sàng hi sinh.
    còn miền nam thì sao: quân binh chủng đã quen vói chiến tranh theo kiểu nhà giàu của mỹ. người lính ra trận vì đồng lương nhiều hơn là vì lý trí quyết tâm bảo vệ, nếu có thì chỉ một tỷ lệ ít hơn nhiều so với thực tế.
    - sức mạnh tổng thể của quân đội nó phụ thuộc vào chủ yếu là con người và chiến thuật tác chiến phù hợp chứ không phải là vũ khí hiện đại. miền nam không có người nào có đủ tầm ảnh hưởng cũng như độ tín nhiệm cao trong quân và dân, vì vậy sự thống nhất và tinh thần quân dân không bằng miền bắc, miền bắc họ đã xây dựng được hình tượng vũng chắc trong từng ngườii dân của minh, thòi điếm đó độ tín nhiệm của người dân và tính thống nhất rất cao gần như là tuyệt đối, bất kỳ cuộc phát động hay động viên nào của lãnh đạọ của nhà nước, người dân đều hưởng ứng rất cao đến 90%. như vậy ý chí của họ khác xa vói Miền nam. một lợi thế nũa là họ đã quá quen vói môi trường chiến đấu thiếu thốn mọi thứ và trong moi trường khác nghiệt của rùng nhiệt đới. về cái này tôi không nói sâu ở đây vì còn liên quan đến chiến thuật và tình hình thực tế khác nhau.
    - và cuối cùng là hoàn cảnh: mỹ đã chính thức bỏ rơi Chính quyền VNCH và các chiến thuật tác chiến của quân đội VNCH đã bị khủng hoảng trầm trọng sau khi mỹ rút quân. và không có được các cuộc phòng thủ hay tái chiếm hữu hiệu nào được triển khai, trong khi đó tinh thần quân nhân lại xuống rất thấp dẫn đến tình trạng đảo ngũ, mạnh ai người ấy chạy đã làm cho sức chiến đấu của quân đội VNCH có sự chênh lệch quá lớn so với Miền bắc.
    đó chính là nguyên nhân chính dẫn đến VNCH sụp đổ.
    đó là các nhận định và phân tích của tôi. và cũng đã là lịch sử của dân tộc rồi. vì vậy anh và tôi hay cho dù là ai đã là người việt thì đều bình đẳng như nhau không ai kỳ thị ai cho dù anh là “Ngụy” hay tôi là “CS” thì thật tình mà nói đó là chế độ chứ không phải cá nhân tôi và anh vì thế đừng miệt thị nhau làm gì. bây giờ trong mỗi người việt ai ai cũng biết kẻ thù truyền kiếp của mình chính là thằng TÀU chứ không cần phải nói ra. còn vấn đề đối phó với nó thế nào thì lại phụ thuộc vào tình hình thực tế chứ không thể muốn đánh là đánh được. mình yếu hơn nó thì phải có phương pháp khác đánh nó.
    nếu muốn tranh luận thì tôi vẫn sẵn sàng tranh luận với các chú các bác và anh chị em, cứ gửi vào mail của tôi là được. nếu về việt nam, các bác các chú hay anh chị em có ai đi vũng tàu thì ghé qua nhà tôi chơi.
    Reply
    • Nada

      Trả lời về việc trả thù cá nhân chứ chưa phải là chế độ mới thực hiện chính sách trả thù này.
      Cho vài trăm ngàn quân cán chính miền nam ĐI TÙ (bản thân tôi không thấy cải tạo cái gì)
      Sau khi về, công an bắt trình diện háng tháng, một hôm tuyên bố các anh được phép đạp xích lô!
      Mọi người có sổ gạo để mua bo bo. còn tù về xin hộ khẩu còn không được thì làm gì có sổ gạo!
      Con của tù không được vào đại học
      Sau 40 năm người trong nước thiếu thông tin vì bị cấm tìm hiểu, bị tuyên truyền qua loa, TV nên nhiễm những thông tin lệch lạc.
      Không hiểu sau này có lẽ thế giới sẽ nhìn người Việt giống như người triều tiên (Bắc Hàn)
      Về nhận định: người việt thì đều bình đẳng như nhau không ai kỳ thị ai cho dù anh là “Ngụy” hay tôi là “CS” thì thật tình mà nói đó là chế độ chứ không phải cá nhân tôi và anh vì thế đừng miệt thị nhau làm gì
      Chẳng ai miệt thị anh hết, có điều anh ở trong căn nhà hôi thối mà không bị ám mùi mới là lạ. hay ít ra tôi cũng cẩn trọng khi tiếp xúc. Nếu anh tiếp xúc với người việt ở nước ngoài trong chỗ thân tình họ sẽ nói cho anh hay. Dĩ nhiên phải nói rõ là có rất nhiều người trong nước họ vẫn là họ, bất chấp.
      Xin trích một phần bài của Manh Kim:
      4- Có thể còn nhiều nhóm đối tượng nữa nhưng tạm dừng với nhóm cuối cùng này. Đó là những người có thái độ rõ rệt và chính kiến nhất quán. Họ là người miền Nam hoặc sống lâu năm ở miền Nam, chịu ảnh hưởng của nền giáo dục trước 1975. Sau 40 năm, họ vẫn là họ. Bất chấp!
      Reply
    • Hoàng Xuân Hòa

      phân tích quá hay.
      Reply
    • Hoàng Vũ

      ạn nói hay, nhưng bạn nói ra nguyên nhân thua cuộc của VNCH như vậy đã đủ chưa???
      Thứ nhất, Quân lực VNCH là 1 Quân đội hiện đại và tốn kém.Bạn có biết về Khủng hoảng dầu mỏ 1973 hay không?Cuộc khủng hoảng làm ảnh hưởng tới việc sử dụng khí tài và phương tiện của QLVNCH, cộng với việc viện trợ của mỹ giảm từ 3 tỷ USD xuống chỉ còn 300.000USD khiến QLVNCH thật sự gặp khó khăn với việc chống đỡ sự xâm lấn của Cộng sản Bắc Việt.
      Thứ hai, là việc vi phạm trắng trợn hiệp định Paris (bạn nên tìm hiểu thêm về hiệp định Paris) cộng với việc Mỹ chính thức rút lui khỏi chiến trường Việt Nam ít nhiều đã làm ảnh hưởng tới tâm lí và lòng tin của Miền Nam VN.Nhưng vẫn còn kèm theo 1 Điều khoản Mỹ sẽ đảm bảo CS Bắc Việt k thể vượt quá vĩ tuyến 17 bằng những cuộc không kích trong trường hợp Nam VN bị uy hiếp (mà sau này lời hứa đó đã không thể thực hiện được).
      Thứ ba, là sai lầm trong cuộc triệt thoái cao nguyên của TT Nguyễn Văn Thiệu, dưới sự lãnh đạo của Tư lệnh vùng 2 chiến thuật Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.Mục đích của cuộc triệt thoái là để rút về bảo về vùng lãnh thổ Duyên hải miền Trung.Những sai lầm trong việc triệt thoái đã kéo theo sau đó là 1 loạt sai lầm làm rối loạn hàng ngũ vì đưa VNCH vào thế gọng kìm.
      Thứ tư,CS Bắc Việt lúc này cũng đc viện trợ khủng từ Trung Quốc và Liên Xô (sao k gọi là tay sai?) trong khi VNCH thì đang gồng mình giữ từng tấc đất.
      Và còn rất nhiều lí do khác nữa…..có rất nhiều nguyên nhân khiến VNCH sụp đổ chứ k hẳn là vì nội bộ chính quyền VNCH nhé bạn.CS Bắc Việt từ sau Mùa hè đỏ lửa 1972 cũng thiệt hại vô cùng nặng nề và có lúc tưởng chừng như họ đã bỏ cuộc.
      Nhưng bản chất là vậy, họ luôn đi rêu rao là VNCH là tay sai, là bán nước.Tôi giả sử như tôi và bạn sống gần nhau đi, tôi thấy nhà bạn giàu tôi muốn vào giải phóng nhà bạn, bạn chịu chứ?Tại sao lại phải thống nhất đất nước trong khi tâm tư nguyện vọng của người dân có muốn như vậy?
      Bạn có nói 1 câu rằng “miền nam không có người nào có đủ tầm ảnh hưởng cũng như độ tín nhiệm cao trong quân và dân”.Xin lỗi bạn, có thể bạn k tìm hiểu hoặc cố tình xem thường những người lính VNCH hay sao?Bạn biết Ngô Quang Trưởng chứ?Bạn biết Nguyễn Khoa Nam chứ?….Bạn làm sao có được cái quyền và độ hiểu biết để phán xét rằng họ k có đủ tầm ảnh hưởng cũng như độ uy tín.Cho dù là tướng lĩnh của bên nào đi chăng nữa, họ cũng là những vị tướng tài và một lòng vì đất nước của họ, họ có thể k đi tới đc chặng đường cuối cùng, k được tung hô,ca ngợi như Trần Văn Trà, Văn Tiến Dũng,…nhưng họ đc rất nhiều vị tướng tài trên thế giới ca ngợi, và cho dù có trở thành người thua cuộc nhưng họ vẫn xứng đáng và vẫn luôn trong lòng người dân miền nam VN.Tôi luôn tôn trọng những người lính của cả hai miền, nên hy vọng là bạn cũng vậy!!!
      Người lính VNCH là những người chịu nhiều đau thương, thiệt thòi và uất hận lớn nhất.Một đời hy sinh vì đất nước,chịu nhiều hy sinh mà bạn lại nói là xung trận vì đồng lương chứ k vì đất nước, bạn có đứng trong hàng ngũ của họ k mà bạn có quyền phán xét và xem họ như vậy?Bạn đang nói chếch về phía CS Bắc Việt quá nhiều rồi đó.Đồng lương người lính VNCH cao có gì sai sao?đó là thứ họ xứng đáng được nhận.
      Vậy mà cuối cùng họ lại nhận đc gì?ngoài những lời khinh bỉ của thế hệ con cháu như bạn?Bạn k có quyền và sẽ mãi mãi k đủ tư cách để nói về họ.Thật đáng nực cười, bạn đừng đem quân phục hay điều kiện của 2 bên ra mà so sánh là ai tốt hơn ai, ai chiến đấu vì lí tưởng của mình.
      Có chăng tôi nghĩ rằng người lính CS Bắc Việt quá máu lạnh,quá hung hăng.Ca nhạc của hai miền đã nói lên điều đó, trong khi miền bắc bài nào cũng “Giết sạch nó đi,quét sạch nó đi”…thì miền Nam có những ca khúc như ai oán, đau thương,ca thán và lãng mạn.Người miền Nam có lẽ k phải sinh ra để đi “giải phóng”, họ sinh ra để chống lại những người muốn “giải phóng” họ.Mà có lẽ, vùng miền chưa hẳn đã là nguyên nhân, mà ý thức hệ mới là nguyên nhân chính.
      Và một lần nữa, tôi xin nhắc lại,tôi ko muốn bàn luận về vấn đề chính trị, nhưng xin đừng đem người lính Quân Lực VNCH ra để phán xét.Xin hãy tôn trọng họ!!
      Reply
  • duc bui

    trước ngày 30/4/1975 VNCH đã làm gì với những người cộng sản? năm 1968, sau chiến dịch mậu thân VNCH đã đối xử thế nào với những người cộng sản?
    Reply
    • Ban Hui

      Com. của Duc Bui cho thấy chính sách ngu dân, tráo trở của CS cùng với súng đạn của Nga Tàu đã rất thành công, không chỉ với dân ngu mà ngay cả những vị gọi là có chút học thức cũng bị CS lừa tốt, kể ra hàng vạn (nhạc sĩ Tô Hải, nghệ sị Kim Chi, nhóm bà Bình, Phát…Tấn Mẫm, Khế (nhóm chân gỗ CHMNVN tạm quyền miền Nam từ tháng 4 đến 12/75). câu trả lời cho Duc Bui là: trước 75 CS đã làm gì với VNCH, trước, trong 68′s Tet, CS đã làm gì VNCH? CS thực hiện chỉ thị của Tàu cộng, Nga Sô nhuộm đỏ ĐNÁ, cho bắc Cộng vũ khí từ 1950, Mao dùng Hồ đẩy lùi thế giới Tự do ra xa Trung cộng. Rõ như ban ngày là CS nắm vùng, xâm lấn miền Nam VN. Hoàn toàn chiến tranh chỉ xảy ra ở phần đất miền Nam (dân Bắc chỉ bị Mỹ thả bom, không phải để cứu miền Nam mà vì quyền lợi Mỹ), lính miền Nam không ra khỏi giới tuyến, thế và vận, không may kẻ xâm lăng đã thắng! Do đó chúng phải giả mạo là “đi giải phóng”. Còn vô vàn sự việc khác, cái ác của CS với dân Việt, khủng bố, cắt gân, thủ tiêu thì không thiếu ở các vùng quê hương, nhân chứng thời chiến tranh tầm U 60 trở lên còn đầy, và hàng triệu trang giấy chưa nói đủ tội ác CS Hà Nôi với dân tộc, vẫn đang tiếp diễn đến nay.
      Reply
  • TRIỆU LƯƠNG DÂN

    Nhân kết thúc Thượng đỉnh lần thứ 26 Hiệp Hội các nước Đông Nam Á
    Rồi Đông Nam Á mất cả chì lẫn chài
    Chẳng như Phi Luật Tân đều sợ run vai
    Xứ Chệt muốn uy hiếp bành trướng thế lực
    Ba sân bay quân sự Tàu trên đảo phi đạo dài
    Đối đầu Mỹ -Trung càng ngày càng rộng lớn
    Tân Trân Châu Cảng lịch sử tái lập không sai !
    Mỹ đang chuyển trục bằng NATO châu Á
    Nhật-Hàn đang dàn cờ chiến lược con chủ bài
    Trong vòng quỹ đạo Nước Tề tủi cho Xứ Vệ
    Đúng đồng chí cháu Mao-Hồ là một tuy hai !!!
    TRIỆU LƯƠNG DÂN
    Reply
  • huynguyen

    Hãy xem lại người Mỹ đã làm gì với hàng triệu tấn boom bỏ xuống bắc Việt. Những đồng minh như Đại Hàn đã gây ra bao vụ tàn sát người vô tôị ở miền trung.1968 Việt nam cộng hoà giết bao nhiêu người cộng sản.quay lại về 1959 với luật 10-59 với câu lệnh lừng danh của Ông Diệm(thà giết nhầm còn hơn bỏ sót)bao nhiêu người dân bị giết hại dã man dưới máy chém của nền cộng hoà đệ nhất. .người ta có câu thắng làm vua thua làm giặc hãy chấp nhận thực tại. Nếu mình hay mình taì . sẽ không xảy ra như hồi 1975.Mươn câu nói của ông Ngô quang Trưởng(kẻ thất baị không nên nói mình taì. Tướng thất trận không nói mình thao lược)
    Reply
  • Hải Hùng

    Bố mình là thương binh, mẹ mình là y sĩ, nhưng nhà mình vào những năm 1980s cũng đói ăn từng bữa, nhà mình phải an cháo rau khoai qua ngày. Đó là hoàn cảnh chung của tất cả mọi người dân Việt Nam thời đó, ko riêng gì ai, bên CS hay những người VNCH. Có thể những người VNCH trước đó được viện trợ của Mỹ nên quân nhân và gia đình họ có cuộc sống sung túc đến lúc như vậy hộ ko chịu nổi. Với chúng tôi, nó đã là quá sung sướng so với thời thực dân Pháp, hay tệ nhất là phát xít Nhật.
    Mọi thứ đã qua rồi, nhắc lại chẳng giải quyết được gì cả. Mình nghĩ bây giờ là thời kỳ hội nhập, thân với nước nào cũng được, nhưng phải trên tinh thần độc lập thì mới tồn tại đươc.
    Reply
  • TRIỆU LƯƠNG DÂN

    Tự trách mình trước đã …. khi trách ĐỒNG MINH CHIẾN LƯỢC HOA KỲ ……
    Dạ Quốc yến trong Tòa Bạch Cung còn gì bằng với Thơ Nhật Haiku và Rượu Nhật Sake
    https://www.youtube.com/watch?v=GUr-7gcUBuo
    Obama leads a sake toast for Japan PM at State Dinner
    Spring green in friendship
    United States and Japan
    Nagoyaka ni
    (which means harmonious feeling)
    Xuân bạt ngàn Tình bạn
    Hoa Kỳ cùng bên Nhật Bản
    Vì Thức cảm hòa hài
    Tổng thống Mỹ Obama ngẫu hứng ngâm thơ Haiku tặng Thủ tướng Nhật Abe
    Tổng thống Mỹ ngẫu hứng ngâm Nhật Thi
    Dạ Quốc yến phá lệ ngoại giao thay vì
    Rượu Pháp Champagne lại Nhật Tửu !
    Cao thượng Cao bồi chiêu đãi Hiệp sĩ quá đi
    Tình Bạn Mỹ-Nhật từng sóng Trân Châu cảng
    Bom Nguyên tử như Ngàn Mặt trời mê si !
    Haiku – Sake giữa Thủ đô Hoa Thịnh Đốn
    Văn hóa truyền thống đặc trưng Nhật tế vi
    Hoa Anh Đào bay giữa Trái Tim nước Mỹ
    Ô-Ba-Má mưu lược xoay trục Thế kỷ bước đi .. ..
    Nhân loại lại cảm ơn Chú Sam Mai sau nhé !
    Trị Đại Hán phản phúc cuồng ngông ngu si !
    TỶ LƯƠNG DÂN
    PARIS, 28 tháng Tư 2015
    http://www.nbcnews.com/news/us-news/sake-soul-state-dinner-was-bromance-n350371
    President Obama and Prime Minister Abe’s state dinner toasts include haiku, “House of Cards,” and talk of long-lasting friendship
    By Mitch Rubin and Veronica Toney April 28
    http://www.washingtonpost.com/blogs/reliable-source/wp/2015/04/28/president-obama-and-prime-minister-abes-state-dinner-toasts-include-haiku-house-of-cards-and-talk-of-long-lasting-friendship/
    Reply
  • pham V vuong

    xin được tranh luận với các bác các anh chị em như sau:
    - vấn đề về sự trả thù hay sự thanh lọc nội bộ nói thế nào cũng đúng: đây là điều tất yếu sẽ sảy ra khi kết thúc một cuộc chiến, từ ngàn xưa tới nay thì điều đó không bao giờ tránh khỏi. sau một cuộc chiến chắc chắn sẽ có các cuộc thanh trừng và sàng lọc hay sự trả thù được thực hiện từ bên thắng cuộc là lẽ thường thấy (Tại sao mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống nhật bản hay tại sao có các nhà tù côn đảo hay phú quốc ??? hay tại sao sau 1975 có các nhà tù chính trị) đó là điều tàn khốc của chiến tranh . và bên thua cuộc sẽ chịu một hậu quả mà cuộc chiến nó sẽ mang lại. đây là điều không thể tránh khỏi.
    - vấn đề miền bắc máu lạnh hay quân miền bắc máu lạnh thì xin lỗi: bạn đã có suy nghĩ quá nông cạn, minh chứng bàng việc lấy các thể loại nhạc ra so sánh và nói rằng miền bắc chỉ biết “giết sạch nó đi quét sạch nó đi..” bạn biết giết và quét sạch cái gì ở đây chứ ?. và mang tính chất đổ đồng và vơ đũa cả bó. bạn nhận định thiếu cơ sở, điều này tôi không chấp nhận. chúng ta đã biết sau 1945, chính quyền miền bắc đã thực hiện chính sách thống nhất đất nước. đến 1954 thì chính thức pháp thua việt nam hoàn toàn tại điện biên phủ. và lúc chuẩn bị cho cuộc bầu cử thống nhất đất nước vào tháng 12 năm 1954 thì cũng là lúc mỹ chính thức nhảy vào can thiệp và viện trợ xây dựng chính quyền sài gòn (mà trước đó 1953 mỹ đã nhận định pháp sẽ thua cuộc tại đông dương và đã nhen nhóm ý định thống trị đông dương). và lúc ày chính quyền việt nam mới thành lập và bị sức ép quá lớn từ mỹ và đồng minh của mỹ đã buộc việt nam ký hiệp định paris và chính thức chia cắt đất nước ta ra làm 2 miền từ vĩ tuyến 17. bạn nói máu lạnh là quá hồ đồ. vì ý chí đã đuọc quyết tâm từ rất lâu từ năm 1945 bạn ah.
    - vấn đề sao không gọi là tay sai khi đuọc sự ủng hộ lớn từ liên xô và trung quốc ??? thì bạn cần hiểu được hai định nghĩa sau:
    1: tay sai là gì ???: là lực lượng thực hiện theo sự chỉ đạo hay yêu cầu của chủ thể khác mà không phải là hành vi xuất phát từ chính ý thức của bản thân. tự nguyên thực hiện theo chỉ đạo của người khác.
    2: sự viện trợ: là sự hỗ trợ về vật chất, và tài chính giúp người khác hay tổ chức nào đó về một vấn đề gì đó;
    vậy khối tư bản thì mỹ và cộng đồng EU là đồng minh, còn khối xã hội chủ nghĩa là do Nga và trung quốc và các nước còn lại khác là đồng minh. đây là hệ luy của thế chiến thư 2 đã mang lại 2 phe đối lập trên thế giới. vậy đông minh thì việc viện trợ cho nhau cũng giống như mỹ viện trợ cho chính quyền sài gòn vậy thôi. còn miền bắc không làm theo sự chỉ đạọ của liên xô hay trung quốc mà chỉ nhận viện trợ để làm theo ý chí của mình là giải phóng đất nước khỏi giặc ngoại xâm và thống nhất đất nước khi bị chia cắt, vậy thì làm sao mà gọi là tay sai được. trừ khi làm việc theo sự chỉ đạọ hoàn toàn của nga hay trung quốc mới gọi là tay sai bạn ạh.
    vấn vấn đề thương đau thì tôi xin nói thẳng quan điểm của tôi: bên nào cũng thương đau như nhau chứ không thể nói bên nào hơn bên nào. miền bắc thì triền miên bom đạn nhà cửa tan hoang từ 1954 đến 1975, miền nam thì đã có những cuộc trả thù thanh lọc và vượt biên thảm khốc sau 1975. không thể nói bên này thảm hại hơn bên kia được. đó là lí do hiện tại người việt yêu chuộng hòa bình đến như vậy. còn sự tàn khốc của cuộc chiến không phải hoàn toàn xuất phát từ người dân hai miền nam và bắc. mà nó là hệ luy của sau cuộc chiến thế giới thứ 2. vì VN là cái chiến trường cuối cùng của hai phe Tư Bản và Xã Hội, vì thế mà mức tàn khốc nó cao hơn rất nhiều. và chính bạn Hoang Vu cũng đã nói: “Quân lực VNCH là 1 Quân đội hiện đại và tốn kém.Bạn có biết về Khủng hoảng dầu mỏ 1973 hay không?Cuộc khủng hoảng làm ảnh hưởng tới việc sử dụng khí tài và phương tiện của QLVNCH, cộng với việc viện trợ của mỹ giảm từ 3 tỷ USD xuống chỉ còn 300.000USD khiến QLVNCH thật sự gặp khó khăn” vậy đây không phải là nguyên nhân làm cho VNCH thất bại thì là gì??? vì vậy tôi có nói: “Chiến tranh theo kiểu nhà giàu” là như vậy. và nền kinh tế VNCH lúc đó phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ của mỹ. khác với miền bắc chỉ cần viện trợ về vũ khí, thì VNCH vừa cần về vũ khí lại vừa cần về kinh tế. và bị phụ thuộc hoàn toàn nên khi mỹ rút cũng đồng ngĩa với việc sụp đổ và sự thật thì chúng ta cũng đã rõ.
    vấn đề sai lầm của chính quyền: thì chính quyền nào cũng có sai lầm. những sai lầm dẫn đến mất nước thì đó là sai lầm không thể chấp nhận được. và không lý do gì chúng ta phải bảo vệ chính quyền ấy nữa. đó là quan điểm của tôi.
    tôi hoàn toàn tranh luận trên cớ sở bình đẳng và quan điểm của mình chứ không mang tính chất chính trị hay bôi nhọ các thế hệ trước. mong các bác các anh chị em suy xét theo tính khách quan chứ đừng thấy tôi nói vậy lại cho là tôi xỉ vả hay xúc phạm thì thật tình tôi cũng sẽ không dám tranh luận nữa làm gì sợ mất lòng các bác các anh chị em mà mình thì cũng không vui.
    Reply
    • Lông Bông

      Hay!
      Lấy oán trả oán, oán đối kéo dài. Lấy ân trả oán, oán tiêu tan!
      Cứ cậy tiền của can thiệp khắp nơi rồi bản thân đất nước mình cũng rơi vào bế tắc, bắn nhau suốt ngày như cơm bữa, thanh niên thì sa vào nghiệp ngập ma túy tình dục các kiểu! Đại sứ quán ở đâu cũng trông như cái pháo đài lô cốt nhìn mà phát ớn! Muốn vào thì phải qua mấy cửa với đủ các loại máy kiểm tra! Nếu giàu mà lúc nào cũng phải lo sợ canh chừng cẩn mật như thía thì giàu mà làm giề???!!!
      Reply
  • văn lâm

    Đừng nói là chỉ có ở miền Nam VN mới có đồng minh bị hoa kỳ bỏ rơi như tác giả nghĩ mà ở VN ,đồng minh lớn nhất mà tổng thống Truman của Hoa kỳ do sự đố kị đã vô tình bỏ qua đó chính là ông Hồ Chí Minh chủ tịch nước VNDCCH ,theo đó Hoa kỳ đã gây họa lớn cho nhân dân VN ở cả hai miền cho đến tận 1995.Nếu là quốc gia văn minh,Hoa kỳ phải có trách nhiệm nhận và sửa lỗi với nhân dân VN .
    Reply
  • Lông Bông

    Một, nạn nhân của chiến tranh là những con người nhạy cảm, tế nhị và dễ bị tổn thương nên, người Mỹ cần đối xử công bằng với các đồng minh của mình. Hai, sự đau khổ của các nạn nhân chiến tranh không chấm dứt sau khi ký hiệp định hòa bình và rút quân [Mỹ] về nước. Do vậy, việc điều trị vết thương chiến tranh cần thời gian dài sau đó. Ba, Hoa Kỳ cần cẩn thận cách can thiệp trên thế giới, mà cụ thể là cần lắng nghe nguyện vọng của các đồng minh. Bốn, Hoa Kỳ cần có trách nhiệm với các đồng minh hay quốc gia mà mình can thiệp bằng chiến tranh. Và năm, người Mỹ cần nhận thức rõ là họ chiến tranh vì cái gì. Nên nhớ, chuyện mở cuộc chiến tranh không giống như chuyện trong phim, vì nó sẽ để lại nhiều đau khổ cho vô số người trong nhiều thập niên sau đó.
    Chiến tranh chẳng bao giờ đem lại điều gì tốt đẹp. Nhưng họ quá ngạo mạn và mù quáng để có thể thực sự lắng nghe… Nếu họ chịu lắng nghe thì đâu có những chuyện khủng khiếp xảy ra sau đó. Nhưng ở thời điểm lịch sử đó, với địch thủ đó mà nói đến chuyện đấu tranh bất bạo động như Ghandi thì chỉ là mơ mà thôi… Đôi khi cần phải cho kẻ ác vài bài học dù cái giá phải trả có khủng khiếp đến mức nào… Nếu không thì bao giờ họ mới chịu tỉnh ra!!!
    “Vì sao?” tôi thực đã hét lên. “Cái tụi đần như mày là thế đó. Không bao giờ muốn bàn bạc cái gì. Đấy là cách nhận dạng bọn đần. Không bao giờ muốn bàn cái gì có vẻ trí…”
    Khi ấy nó cho tôi một cú thật sự, và điều kế tiếp mà tôi biết là tôi lại lăn ra sàn nhà như cũ…
    (74 – Bắt trẻ đồng xanh)
    https://www.youtube.com/watch?v=jx_wyO2uGK8
    Reply
  • Lông Bông

    https://www.youtube.com/watch?v=gw6JO_l8NyQ
    Though we never thought that we could lose, there’s no regret
    If I had to do the same again, I WOULD, my friend Fernando…
    Reply
  • Lông Bông

    Maybe that’s a war to end all wars?!
    https://www.youtube.com/watch?v=NctEnrxGVHE
    Đặt nền tảng cho những bước tiếp theo…
    Reply

    Nguồn: http://www.gocnhinalan.com/nhung-cuon-sach-hay/nhung-dong-minh-cua-bi-bo-roi-tai-mien-nam-viet-nam.html

Đời sống người dân miền Nam sau 30/4/1975

 https://youtu.be/JN-xUbrcjAk


Xin xem tiếp...

Tôi đi thăm chồng "cải tạo"
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/06/toi-i-tham-chong-cai-tao.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét