Hàng tướng phản quốc- TT.Dương Văn Minh
====
Ngày 30.4, vốn là ngày đại tang, ngày QUỐC HẬN của VNCH.
====
Lính Việt Nam Cộng Hòa := Một nổi nhục cho mọi qu ân đội
Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến1 năm trước
Chỉ có những kẻ trốn tránh trách nhiệm trốn tránh nghĩa vụ làm trai thì mới là một nỗi nhục cho mọi quân đội. Cho dù là người lính miền Nam hay miền Bắc thì họ điều là những người trai hùng sống và chiến đấu cho chế độ của mình, họ ko đáng trách. Chỉ nên trách những kẻ đào ngũ bỏ ngũ khi quốc gia đang lâm nguy.
https://youtu.be/OIMNI0yZkLo
Friday, April 25, 2014
DƯƠNG VĂN MINH NẰM VÙNG CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
On Wednesday, April 23, 2014 11:25 AM, MPham <>
wrote:
SAU KHI ĐÃ ĐẾN PHÁP TỊ NẠN, CỰU ĐẠI TƯỚNG, TỔNG THỐNG NẰM
VÙNG DƯƠNG VĂN MINH VẪN CÒN THÈM KHÁT DANH VỌNG, MUỐN VỀ V.N. PHỤC VỤ CHẾ ĐỘ
CỘNG SẢN
* TRONG CUỘC PHỎNG VẤN ĐẶC BIỆT DÀNH
CHO BÁO "NHÂN BẢN" CUẢ TỔNG HỘI SINH VIÊN BA LÊ, DƯƠNG VĂN MINH TUYÊN
BỐ:
- TÔI KHÔNG ĐẦU HÀNG MÀ TRAO QUYỀN!
- ĐẶT QUYỀN LỢI TỔ QUỐC TRÊN QUYỀN
LỢI CÁ NHÂN VÀ PHE PHÁI.
- CHUYỆN HÀNG TRIỆU NGƯỜI VƯỢT BIÊN
THÌ KHÔNG CÓ AI ĐOÁN TRƯỚC ĐƯỢC!
Đặng Văn Nhâm
Sau cái chết cuả ông Dương Văn Minh,
một cựu đại tướng nằm vùng cho Cộng Sản, cựu quốc trưởng, cựu tổng thống 24 giờ
ngày cuối cùng ở miền Nam VN, để cho việc "cái quan định luận" cuả
một nhân vật lịch sử được thêm phần xác đáng, chúng tôi xin cống hiến bạn đọc
bài viết sau đây cuả nhà báo Đặng Văn Nhâm. Bài này đã viết sau khi chính
ông Minh, hồi còn ở Pháp, đã công khai dành một cuộc phỏng vấn hãn hữu cho một
số sinh viên, chủ biên báo Nhân Bản, ở Paris, trước khi ông sẽ về Việt Nam
để phục vụ đất nước, theo lời mời của chính phủ Cộng Sản Việt Nam (CSVN).
Nhận xét về những lời tuyên bố cuả
ông Minh cũng như lời phê bình của tác giả Đặng Văn Nhâm đều thuộc quyền của
mỗi người đọc.
ĐÁNH TRỐNG KHUA CHUÔNG
Đây là một chuyện khá hi hữu, có thể
coi như một sự phá lệ của ông Dương Văn Minh. Từ khi ngấm ngầm ra lịnh cho bộ
hạ là đại úy Nhung, giết chết hai anh em ông Diệm cho đến nay đã ngót 34
năm, lần đầu tiên ông Minh đã dành cho báo Nhân Bản, phát hành ở Paris,
một cuộc phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn ấy đã diễn ra nhân dịp ông tiếp xúc với Tổng
Hội Sinh Viên VIỆT NAM tại Paris.
Dương Văn Minh đã qua đời tối
6/8/2001 tại Bệnh viện Huntington Memorial, tiểu bang California.
Như vậy, ai cũng có thể nhận ra cuộc
phỏng vấn này hoàn toàn không có tính cách bất ngờ, nếu không muốn nói là dàn
xếp trước. Một điểm đặc biệt đáng chú ý nhất là: trước đó không lâu, báo "TUỔI
TRẺ CHỦ NHẬT" của Cộng Sản Việt Nam (CSVN) xuất bản tại Sài Gòn đã chánh
thức loan tin ông Minh sẽ về nước. Với chỉ dấu rõ rệt và cụ thể ấy, mọi người
đều thừa biết: ông Minh đã ngấm ngầm liên lạc, và thoả thuận với chánh quyền
CSVN về việc ông ta sẽ trở về VN.
Thi hài Tổng Thống Ngô Đình Diệm
trong hầm xe Thiết Vận Xa M113, hai tay bị trói quặt sau lưng.
Trước đây, trên mặt báo này, tôi
cũng đã loan báo tin Cộng Sản Việt Nam đã sửa sang lại dinh Hoa Lan, số
3 Trần Quý Cáp, để đón ông Minh về nước. Tin ấy cũng đã được các báo Cộng Sản
trong nước loan báo. Đó là mặt nổi. Còn mặt chìm, chắc chắn trước khi ra lịnh
sửa sang lại dinh Hoa Lan, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã phải thu xếp xong
chuyện hồi hương của ông Minh rồi.
Đây hiển nhiên không phải là chuyện
ngẫu nhiên, cao hứng, như chuyện của các Việt kiều khác về thăm gia đình, bà
con. Còn chuyện ông Minh về nước để làm gì cho Cộng Sản Việt Nam, thì không ai
có thể đoán biết được. Dù vậy, căn cứ trên những hành động của ông Minh từ 1962
đến ngày 30.4.75, người Việt tị nạn ở hải ngoại vẫn có thể hình dung được một
cách khá chính xác vai trò của ông Minh khi trở về VN như sau:
- Tiếp tục đóng vai TAY SAI, CÒ MỒI
cho Cộng Sản Việt Nam.
- Làm bù nhìn, tạo cớ cho Cộng Sản
Việt Nam tuyên truyền lừa bịp dư luận thế giới Tây phương và đồng bào VN trong
cũng như ngoài nước về vấn đề DÂN CHỦ, và HOÀ HỢP, HOÀ GIẢI DÂN TỘC. Vì hiện
nay VN vẫn còn bị các cơ quan quốc tế nhân quyền tố cáo nặng nề, và dân chúng
VN đã mất hết tin tưởng vào chế độ.
TT Ngô Đình Diệm và 3 tướng đối lập
Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Hinh, và Lê Văn Viễn (thủ lĩnh Bình Xuyên) tại Dinh
Độc Lập, 1954.
Ngay trong lời tuyên bố của ông Minh
dành cho báo Nhân Bản, chúng ta cũng đã thấy được mục tiêu ấy lộ dạng. Nguyên
văn như sau: "...Việc xây dựng đất nước phải có sự hợp tác của cả 2
bên, ở trong cũng như ở ngoài... Tôi rất muốn thấy tự do và hoà bình dân tộc
trên đất nước VN... Bây giờ tôi muốn tự tôi thấy... Tranh đấu với sự đả phá thì
tôi thấy nó không hay bằng việc xây dựng... Tôi mong rằng chúng ta sẽ xây dựng
trong tinh thần hoà giải, dân chủ, tự do..."
Phản tướng Dương Văn Minh cùng đồng bọn
Lê văn Kim, Nguyễn Hữu Có, Trần văn Đôn.
Sau khi đã đọc hết những hàng chữ
vắn tắt nêu trên, tôi nghĩ bạn đọc cũng như tôi, chúng ta đã thấy hiển lộ rõ
ràng những điểm sâu kín sau đây trong tâm trạng của Dương Văn Minh, một phản
tướng, đã lỡ lầm nằm vùng cho Cộng Sản Việt Nam từ năm 1962 đến ngày 30.4.75.
Sau một thời gian chung sống với Cộng Sản Việt Nam, thấy không chịu nổi, ông Minh
đã xin qua Pháp tị nạn, sống nhờ vào đồng lương truy lãnh chật hẹp của quân đội
Pháp, với cấp bực trung úy. Thoạt tiên, ông Minh tưởng rằng, ra hải ngoại, ông
sẽ có dịp được tiếp tục múa may trong cộng đồng người VN hải ngoại. Ông không
ngờ, khi ông đặt chân đến Paris dư luận báo chí VN đã không thèm đếm xỉa gì đến
ông.
Xe tăng Việt Cộng số 390 (trái) và
số 843 (phải) húc cửa Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đồng bào VN tị nạn khắp nơi ở hải
ngoại đã coi ông như một món đồ phế thải, bẩn thỉu, và vô dụng hoàn toàn. Bùi
Tín, Nguyễn Chí Thiện còn được báo chí đề cập đến ít nhiều, và đồng bào ở một
vài nơi còn chịu tốn kém mời mọc đến nói chuyện, và thuyết trình lăng nhăng nọ
kia. Riêng ông Minh không ai thèm nhắc đến, cũng chẳng ai muốn tốn một xu ten
nào cho ông. Từ ngày dắt díu vợ con đến Paris, ông Minh đã phải sống trong âm
thầm tủi nhục của quên lãng. Thực không có gì đau đớn cho bằng tâm trạng của
một anh kép hát vô duyên lúc về già, không còn ăn khách dưới ánh đèn sân khấu
phường tuồng nữa. Nay ông công khai tuyên bố sẽ trở về VN. Chuyện ở hay đi của
ông Minh, chắc cũng chẳng mấy ai trong cộng đồng người Việt tị nạn hải ngoại
quan tâm làm gì. Ngày xưa ông đến Paris trong âm thầm tủi hổ. Nay chẳng lẽ ông
quay trở về cũng với cung cách ấy. Chẳng khác nào như mấy chú bồi nhà hàng, rửa
chén bát trong tiệm ăn Tàu, sau 22 năm ở hải ngoại, mặc áo gấm về làng để lấy
le với bà con chòm xóm chơi. Ông phải đánh trống thổi kèn lên, để cho mọi người
đừng quên rằng: dù sao trong cộng đồng người VN hải ngoại này cũng đang có mặt
của một kẻ mang cái tên Dương Văn Minh sắp về nước đây.
Xe tăng Việt Cộng tiến vào Dinh Độc Lập
trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Nếu ông Minh chỉ đánh trống thổi
kèn, kêu gọi sự chú ý của đồng bào thôi, chúng tôi không thừa thì giờ để bàn
đến chuyện của ông làm gì. Nhưng ngặt nỗi, khi tuyên bố với báo Nhân Bản, ông
còn tỏ ra vô cùng gian trá và ngụy biện, đến mức khiến cho những ai đã từng
biết ít nhiều về tông tích và hành vi của ông trong dĩ vãng đều không khỏi ngứa
ngáy, nhột nhạt. Tôi là một trong số những người ấy, nên chẳng đặng đừng, phải
chịu mất thêm chút thì giờ, để "lật tẩy" ông một lần nữa trước công
luận. Tôi hy vọng, ông Minh sẽ trả lời những điểm tôi lật tẩy ông sau đây, để
cho dư luận được thêm phần sáng tỏ. Dĩ nhiên, nếu tôi có sai lầm nào, tôi sẽ
sẵn sàng tự nhận lỗi ngay.
Minh có ba con, một gái hai trai và
vài cháu nhỏ. Hiện, con trai ông sống ở Paris.
TÔI KHÔNG ĐẦU HÀNG CHỈ TRAO QUYỀN
THÔI!
Thực quả ông Minh là người danh bất
hư truyền. Từ thời ở VN, danh ông đã nổi như cồn. Cha ông phải cái danh cầm
quân đánh giặc, chẳng phải cái danh làm quốc trưởng bù nhìn dưới thời Nguyễn
Khánh, cũng chẳng phải cái danh phản tướng nằm vùng cho CSBV từ năm 1962, qua
trung gian của người em là Dương Văn Nhựt, một sĩ quan cấp tá của CSBV. Ông
cũng chẳng phải nổi danh, vì đã mưu sát anh em TT Diệm, để rửa hận tư thù. Ông
nổi danh vì một câu vè đã phổ biến rất rộng rãi trong dân chúng miền Nam
như sau: "MIỀN NAM CÓ 4 YÊN HÙNG: THIỆU
GIAN, KỲ LÁO, HƯƠNG KHÙNG, MINH NGU"!
Nhận xét của dân gian sao mà chính
xác đến thế. Ở đời, ai cũng biết: hễ đã gian thì phải ngoan. Khi muốn nói láo
thì phải nói láo cho có căn có cớ, mới hòng lừa gạt được dư luận. Ngược lại,
chỉ rước thêm nhục nhã vào người. Thí dụ như câu ông vừa tuyên bố ở trên:
"Tôi không đầu hàng chỉ trao quyền thôi!". Khi báo Nhân Bản hỏi tiếp:
"Thưa ông, vậy thì lúc trao quyền chánh thức khi đó là đối với ai?"
Ông Minh đã trả lời: "Tôi không
nhớ rõ đúng ngày, nhưng bữa sau thì có một phái đoàn đi vào dinh. Tôi cũng
không biết ai là ai. Trong số đó, tôi nhớ có một người tự xưng là tướng Trà.
Ông đến để nhận lãnh trao quyền hành "...
Năm nay ông Minh đã 82 tuổi. Đã già
rồi. Tôi không biết ông đã lú lẫn chưa, đã lâm vào cảnh "đi ỉa không biết
đường lại, đi đái không biết đường về hay chưa", nhưng nghe câu trả lời kể
trên của ông, tôi cảm tưởng như ông đã lẩm cẩm lắm rồi. Nếu những dự đoán kể
trên của tôi mà không đúng, thì chắc chắn ông Minh đã gian trá và ngụy biện một
cách thiếu khôn ngoan. Tôi xin mạn phép nhắc cho ông biết rằng: Trong thời
kháng chiến chống Pháp, chính ông Minh tự khai đã có một thời gian theo kháng
chiến, nhưng bị bỏ rơi, nên tìm về đầu thú với Pháp. Thời này, ông Trần Văn Trà
cùng một lứa tuổi với ông Minh cũng đi theo kháng chiến chống Pháp ở vùng quê
hương ông Minh là Phú Lâm, Chợ Gạo v.v...
Ông Minh đã làm nên tới đại tướng
trong quân đội VNCH, đã trải qua nhiều nhiệm vụ, đã từng đánh nhau với Cộng Sản
Việt Nam suốt mấy chục năm trời, mà ông không biết đối phương của mình là ai,
và ông Trần Văn Trà là ai, thì nghe thực không xuôi tai chút nào. Giả thiết ông
Minh chỉ là một chú binh nhì, loại lính kiểng, trong QĐ-VNCH, và ông Trần Văn
Trà chỉ là một tên du kích xã vô danh tiểu tốt, thì ông Minh nói như vậy còn
nghe tạm được. Câu này ông Minh đã để lòi cái đuôi gian trá ra dài quá!
Chưa hết, ông Minh còn ngụy biện.
Ông phủ nhận 2 chữ "ĐẦU HÀNG" và chỉ chịu 2 chữ "TRAO QUYỀN"
mà thôi.
Phải rồi thân làm đến đại tướng,
trong mấy ngày cuối cùng, lại còn khổ công chạy đôn chạy đáo, lạy lục ông Trần
Văn Hương, kể cả nhẫn nhục, chịu nghe lời ông Hương sỉ vả "vẽ bùa lấy mà
đeo" và gọi bằng thằng này thằng kia, coi như thứ đồ vô loại, để xin ông
Hương chịu trao quyền tổng thống chưa đầy 24 giờ để "ĐẦU HÀNG" thì tệ
quá. Ông Minh đã phải cố gắng cưỡng ép danh từ, gọi chuyện ĐẦU HÀNG của ông
bằng 2 chữ "TRAO QUYỀN", nghe cho nó có vẻ rồng rắn, hoa lá cành một
chút. Nhưng ông Minh đã quên mất rằng, dù cho ông có vận dụng đến danh từ hoa
mỹ nào chăng nữa, ông vẫn không thể nào xoá bỏ được sự thật, và những chứng
tích của lịch sử hãy còn rành rành trên giấy trắng mực đen của phe bên kia, đã
ghi chép tại chỗ, ngay lúc bấy giờ, giữa thời điểm của lịch sử.
Đây tôi xin trích dẫn nguyên văn một
đoạn tường thuật của nhà báo Thành Tín, tức Bùi Tín, trong quyển
"SAÌ GÒN TRONG ÁNH CHỚP CHÓI LỌI CỦA LỊCH SỬ" nhà x.b.tp. Hồ Chí Minh, 1978, trang
14-15-16:
- "Đài phát thanh vắng quá...
Tùng (tức đại tá Bùi Văn Tùng) và Thệ tranh thủ hội ý về nội dung bản tuyên bố
đầu hàng của tổng thống ngụy. Trong chừng 10 phút, Tùng thảo xong. Anh đưa
Dương Văn Minh xem. Minh chỉ xin bỏ 2 chữ "tổng thống". Cuộc đối
thoại như sau:
- Tôi đề nghị các ông cho bỏ chữ
tổng thống.
- Sao lại bỏ? Chức của ông hiện nay
là tổng thống ngụy quyền, có phải không?
- Tôi xin nói thật, tôi không thích
cái chữ tổng thống.
- Không thích là một chuyện. Ông đọc
tuyên bố này trên cương vị là tổng thống chính quyền Sài Gòn chứ có phải với
cương vị nào khác đâu.
- Dạ đúng. Nhưng thưa quý ông, chỉ
cần nói cấp và tên của tôi: đại tướng Dương Văn Minh, là binh sĩ nghe theo tôi.
- Không được. Đây là cương vị của
ông. Cách mạng yêu cầu ông phải nói cho rõ, cho đúng cương vị này.
Minh vẫn lưỡng lự. Tùng biết đã đến
lúc phải quyết đoán. Anh nghiêm nét mặt, nói dằn từng chữ:
- Ông không thích, nhưng chúng tôi
biết, hôm kia ông đã chính thức làm lễ nhậm chức tổng thống từ Trần Văn Hương
chuyển qua. Thế là Minh ngồi xuống, chăm chú chép lại trên một tờ giấy rời
nguyên văn bản dự thảo: "Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính
quyền Sài Gòn kêu gọi quân lực VNCH hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân
Giải Phóng Miền Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa
phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa
phương cho chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam VN". (xin xem
phóng ảnh bản tuyên bố đầu hàng viết tay đính kèm).
Tùng lại nghĩ: đã có đầu hàng thì
phải có tiếp nhận sự đầu hàng. Anh lại lấy giấy thảo: "Chúng tôi đại diện
lực lượng vũ trang cách mạng, đơn vị đánh chiếm dinh Độc Lập, long trọng tuyên
bố thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng và chấp nhận sự đầu hàng không điều
kiện của đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống nguỵ quyền" (xin xem phóng
ảnh đính kèm).
Lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương
Văn Minh và lời chấp nhận đầu hàng của Việt Cộng.
Phóng ảnh bản thảo tuyên bố đầu hàng
của Dương Văn Minh và lời tuyên bố chấp nhận sự đầu hàng của đại tá Cộng Sản
Bắc Việt Bùi Văn Tùng không tìm thấy trong tác phẩm của Bùi Tín, mà trong tài
liệu của đại tá nhà văn Nguyễn Trần Thiết,
sanh năm 1929, tại Thanh Hoá, người đã thẩm cung các thành viên trong nội các
Dương Văn Minh, ngày 30.4.75.
Hơn thế nữa, chắc ông Minh vẫn chưa
quên chuyện sáng ngày 30.4. 75, một tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn LÔI HỔ đã
vào dinh Độc Lập, đòi gặp ông Minh, để phản đối quyết định đầu hàng. Chuyện này
do Nguyễn Văn Diệp, cựu tổng
trưởng kinh tế trong nội các của Trần Thiện Khiêm,
một cán bộ CS nằm vùng, bộ hạ thân cận nhất của ông Minh trong những ngày
cuối cùng của miền Nam đã tự thuật nguyên văn như sau:
- "Lúc đó khoảng 9.30. Buổi
sáng tiếng súng nghe nhiều. Nhưng bây giờ đã thấy vắng lặng. Tôi cũng mừng
trong bụng. Bỗng nhìn phía dưới sân, thấy có một chiếc xe bọc thép đầy lính,
chạy xộc vào đậu trước dinh. Tôi đưa tay chỉ cho anh Minh xem. Và cũng không biết
chuyện gì.
Một lúc liền sau đó, có một anh
chàng mặc đồ lính rằn ri. Súng nịch bên hông. Tuớng người mập mạp có ngang, bặm
trợn, đeo bông mai thiếu tá hay trung tá gì đó, tôi cũng không nhớ rõ, trông vẻ
kịch cợm giông giống như Nguyễn Khánh, bước thẳng lại trước mặt ông Minh, cách
chừng lối một thước, tôi cũng đứng bên ông Minh, anh ta đưa tay chào ông Minh
đàng hoàng -sau này mới biết đám ấy thuộc binh đoàn Lôi Hổ- anh ta hỏi:
- "Thưa đại tướng. Anh em chúng
tôi sẵng sàng chiến đấu. Sao đại tướng lại đầu hàng? Tại sao?"
Hỏi, nhưng mà không phải hỏi thường
đâu. Hỏi chất vấn đó. Cái bộ tịch, tôi đã xem phim cao bồi tôi biết, bộ tịch ngó dữ dằn. Đứng hai chân bẹt bẹt
ra. Hai tay oam oam như sẵn sàng móc súng. Tôi đứng bên ông Minh tôi cũng lạnh
xương sống, ớn da gà. Mà chẳng lẽ bỏ chạy. Chạy đi đâu giờ. Thôi thì bấm bụng
đứng lại với ông Minh. Ông Minh trầm ngâm nhìn anh chàng này, im lặng khoảng
một hai giây gì đó, rồi mới nói:
- "Qua cũng như em, là quân nhân, đầu hàng thật là nhục nhã.
Nhưng mà em nên nghĩ, nếu tiếp tục đánh nhau, thì số phận của anh em binh sĩ sẽ
ra sao? Và đánh nhau rồi, thì dân chúng sẽ chịu sao nổi!"... (trích truyện
"NGÀY CUỐI CÙNG CUỘC CHIẾN TRANH CỦA SÀI GÒN", do nhà văn CS Võ Trần
Nhã ghi theo lời kể của Nguyễn Văn Diệp, đăng trong tuyển tập "30 tháng tư
", nhà x.b. tp Hồ Chí Minh, 1985).
Như thế, câu nói: "Qua cũng như em, là quân nhân, đầu hàng thật là nhục
nhã..." đã phát xuất từ cửa miệng của ông Minh từ lúc 9 giờ 30,
sáng ngày 30.4.75. Vậy mà bây giờ ông lại chối quanh, gọi là "TRAO QUYỀN"! Vậy, rõ ràng ông Minh đã
trắng trợn lừa gạt những người trẻ đang đối thoại với ông, tức báo Nhân Bản và
anh em trong Tổng Hội Sinh Viên VN tại Paris. Vì những người này đã không biết
gì về "cái tẩy" của ông Minh. Nhất là ông đã lừa gạt và đâm sau lưng
anh em chiến sĩ trong quân đội VNCH bằng những lát dao chí tử.
Dương Văn Minh (người ngồi bên phải)
chuẩn bị đọc lời tuyên bố đầu hàng tại Đài phát thanh Sài Gòn ngày 30/4/1975.
Tuy nhiên, từ đó đến nay, không hiểu tại sao các tướng tá và binh sĩ
VNCH hiện đang tị nạn ở hải ngoại đều nín khe, không một ai dám hó hé biện bạch
một lời nào với ông Minh. Lẽ đâu lại có sự sợ hãi hèn nhát đến thế
nhỉ? Như vậy, nếu đem sự tan vỡ nhục nhã cuả quân đội VNCH năm 1975 ra mà xét
theo định luật "NHÂN NÀO QUẢ NẤY" thì thực không có gì đáng tiếc hết
thảy. Phải không quí bạn đọc?
Nên nhớ, đây là lần thứ nhì, ông
Minh đã nại cớ "SỢ ĐỔ MÁU" để che đậy bản chất hèn nhát, và âm mưu
bất chính của ông. Lần thứ nhất, trong khoảng những ngày từ 21 đến 28. 7. 64,
ông Minh đã trả lời tướng Đôn: "TÔI SỢ ĐỔ MÁU", khi bị tướng
Đôn chất vấn, tại sao ông đã không dám can thiệp với Nguyễn Khánh cho 4 tướng
bị giam trên Đà Lạt. Để kết luận về chuyện này, tướng Đôn đã nhận xét ông Minh là một kẻ hèn nhát! (xin xem
VNNC, của Trần Văn Đôn, trang 308).
Đào Ngọc Vân, người lái chiếc xe
Jeep, biển số 15778, cùng đồng đội ở Trung Đoàn 66 áp giải Tổng thống Dương Văn
Minh từ Dinh Độc Lập đến Đài phát thanh Sài Gòn.
Nếu ai chịu khó suy nghĩ một chút về
2 trường hợp "SỢ ĐỔ MÁU" của ông Minh đã viện dẫn, sẽ thấy ngay sự
thật: ÔNG MINH CHỈ SỢ ĐỔ MÁU CỦA MÌNH, CHỚ
KHÔNG SỢ ĐỔ MÁU CỦA NGƯỜI KHÁC"!
Nhưng ông Minh giảo quyệt lái ý
nghĩa của mấy chữ "SỢ ĐỔ MÁU" sang chiều hướng từ bi, nhân đạo không
đúng chỗ.
Nếu ông Minh là một nhân vật dân sự
như ông Hương, không biết cầm cây súng ra sao, thì câu nói ấy ta có thể tin
được phần nào. Trái lại, ông Minh vốn xuất thân là một kẻ võ biền, đã được Tây đào tạo để bắn giết. Cuộc đời của
ông Minh, từ khi mang lon thiếu úy cho đến cấp đại tướng, ông đã từng giết hại
bao nhiêu mạng người rồi? Chắc không đếm xuể, phải không?. Vì cổ nhân đã có
câu:" nhất tướng công thành vạn cốt khô!". Ngoài ra, cả nước VN còn đã biết: tối thiểu ông Minh cũng đã trực tiếp
giết 2 mạng người một cách dã man và hèn hạ là: anh em ông Diệm và ông Nhu.
Hành động ấy của ông Minh đã khiến cho một vị sư huynh của tôi, hiện đang cư
ngụ tại Thụy Điển, vốn là bạn đồng liêu với ông Dương Văn Mau, thân sinh của
ông Minh, và còn là một ân nhân đã có công đem ông Minh vào làm thơ ký công
nhật trong dinh Phó Soái Nam Kỳ, trước khi ông Minh đi lính cho Tây, đã có lần
phải mắng vào mặt ông Minh bằng câu tiếng tây như sau: "Tu es responsable de ton crime!"
Kể từ đó, vị sư huynh của tôi đã từ mặt ông Minh luôn, và đã kể chuyện này lại cho
tôi nghe. Nếu ông Minh không nhớ, tôi sẵn sàng nhắc tên vị ân nhân ấy cho ông
Minh nghe trong một cuộc đối chất tay đôi.
Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4
năm 1975.
Vậy, bây giờ tôi yêu cầu ông Minh
hãy bình tĩnh, lấy lương tâm tối thiểu của một "quân nhân", - trả lời
cho tôi cũng như cho tất cả đồng bào tị nạn hải ngoại biết ông có "ĐẦU
HÀNG" không, hay vẫn còn cố ngụy biện "CHỈ TRAO QUYỀN" mà thôi!
Tôi thừa biết quân đội VNCH có nhiều
anh em binh sĩ can đảm và ngay thẳng hơn ông Minh rất nhiều. Tôi cũng biết: sở
dĩ miền Nam thất trận, khiến hàng triệu đồng bào phải vượt biên tìm tự do và cả
trăm ngàn sĩ quan VNCH đã bị đày ải nhục nhã hàng chục năm trời ròng rã, trong các
trại tù cải tạo của quân CSBV, chỉ vì họ đã có một ông đại tướng, và tổng thống
kiểu Dương Văn Minh!
Ngoài ra, bạn đọc còn có thể nhận ra
được cái tâm trạng ẩm ương, dở hơi dở hám của ông Minh, khi đòi bỏ 2 chữ tổng
thống trong bản tuyên bố đầu hàng do đại tá CS Bùi Văn Tùng soạn cho trên đài
phát thanh. Ông đã lý luận kiểu trẻ con "TÔI KHÔNG THÍCH CÁI CHỮ TỔNG THỐNG".
Đến bấy giờ ông Minh mới nói không thích. Nhưng khoảng trên 24 giờ đồng hồ
trước đó, ai cũng biết ông Minh đã chạy hết đầu này đầu kia để lạy lục, xin cho
bằng được chức tổng thống đang trong tay ông Trần Văn Hương.
Tóm lại, ông Minh càng biện luận,
càng vùng vẫy cố ngoi lên khỏi vũng bùn ô nhục bao nhiêu, thì người ta thấy ông
càng bị lún sâu thêm bấy nhiêu, đến ngập cả đầu cả cổ,mà vẫn chưa chịu tỉnh
ngộ! Tội nghiệp cho thân danh của một ông đại tướng!
ÔNG MINH ĐÃ LỜ TỊT THÀNH TÍCH NẰM
VÙNG CHO CSBV.
Khi đối đáp với báo Nhân Bản, ông
Minh đã cố tình đánh trống lảng chuyện ông nằm vùng, và bị địch vận, sang
chuyện khác. Nguyên văn ông trả lời báo Nhân Bản như sau:
- "Tôi cũng có nghe nói là tôi
đã bị địch vận rồi phải không? Tôi không phải khoe khoang,nhưng không lúc nào
tôi nghĩ là quân đội VN thời đó có thể thua một quân đội nào khác. Quân đội
mình lúc đó có nhiều khả năng lắm chứ!"
Đọc câu ông Minh tự hỏi: "Tôi
cũng có nghe nói là tôi đã bị địch vận rồi phải không?", ai cũng nghĩ câu
kế tiếp chắc chắn ông Minh sẽ biện giải, bác khước hoặc phủ nhận, những dư luận
báo chí đã kết tội ông nằm vùng, vì bị địch vận. Nhưng bất ngờ ông Minh đã
thình lình ngưng ngang tại đó, và quay sang khen tặng lếu láo "quân đội
mình lúc đó có nhiều khả năng lắm chứ!". Sở dĩ tôi nói ông Minh đã khen
quân đội cách lếu láo, vì trước đó không đầy 1 phút đồng hồ, ông đã nói nguyên
văn: "tinh thần binh sĩ lúc đó rất suy kém!".
Tinh thần binh sĩ đã suy kém mà còn
có nhiều khả năng cái nỗi gì?!
Chẳng qua ông Minh đã phải dùng câu
khen lếu láo ấy đột ngột, vì thâm tâm ông Minh đã chợt nhận ra mình vừa trót
dại, lỡ mồm lỡ miệng, khơi động vụ nằm vùng và bị địch vận ra trước công luận.
Nếu nhà báo lanh lợi biết đi sâu vào
chuyện này, thì ông Minh sẽ không sao tránh khỏi cơn bối rối,chắc chắn sẽ trả
lời kiểu giấu đầu lòi đuôi, lạy ông con ở bụi này, làm trò cười và để bia miệng
tiếng đời cho cho thiên hạ hậu thế.
Nhưng dù ông Minh có lật lọng tráo
trở như thế nào chăng nữa, ông vẫn không thể xoá bỏ được sự thật của lịch sử
hãy còn chứng tích và nhân chứng sờ sờ ra đó. Ông Minh sẽ trả lời tôi và dư
luận báo chí hải ngoại như thế nào về chuyện anh chị Phạm Ngọc Thảo đã
kể cho tôi nghe chuyện: vào khoảng thời gian ông Minh đóng vai quốc trưởng,
ngồi trong dinh Gia Long, (nơi mà thời Tây ông đã từng làm việc ở đó với thân
phận một thơ ký công nhật quèn của
phủ Phó Soái Nam Kỳ), đã có lần ông Minh kêu đại tá Phạm Ngọc Thảo mà bảo rằng:
- "Ê, Thảo à, thằng Nhựt nó
đang ở trong dinh nè, toi có muốn gặp nó nói chuyện một chút hôn?".
Sở dĩ ông Minh đã khoe như thế với
ĐT Phạm Ngọc Thảo, vì ông nghĩ, anh Thảo cũng là một nhân vật miền Nam theo
kháng chiến chống Pháp. Nay ĐT Thảo về làm việc cho quốc gia, chắc cũng nằm
vùng như anh em ông, nên ông muốn bắt thân và nối cầu liên lạc. ĐT Thảo biết
Dương Văn Nhựt, là một đảng viên Cộng Sản Việt Nam, bí danh Mười Ty, em của ông
Minh, đã theo Cộng Sản tập kết ra Bắc. Lúc bấy giờ Dương Văn Nhựt đã theo
chương trình hồi kết cán bộ Mùa Thu của miền Nam, lẩn trốn vào Sài Gòn, hoạt
động nằm vùng với Dương Văn Minh. Vì thế, ĐT Thảo đã tìm mọi cách từ chối khéo
léo, khiến cho ông Minh không khỏi bẽ bàng và lo ngại. Về sau ông minh đã lập
tâm tìm cách ám hại ông Thảo bất thành. Bây giờ ĐT Phạm Ngọc Thảo đã ra người
thiên cổ, nhưng chị Thảo, một nhân chứng sống hãy còn sờ sờ ở Mỹ, làm sao ông
Minh có thể chối cãi chuyện này được.
Chưa hết, một bài báo của nhà văn,
đại tá CSBV tên Nguyễn Trần Thiết, (người đã thẩm cung ông Minh và nội các của
ông trong ngày 30.4.75), đã kể lại thành tích nằm vùng của ông Minh như sau:
- "...Từ ngày đó, tôi luôn ấp ủ
khát vọng viết tác phẩm: "VIÊN TỔNG THỐNG CUỐI CÙNG". Thủ tướng
Võ Văn Kiệt người trực tiếp chỉ đạo nắm Dương Văn Minh trong những năm đánh Mỹ
đã viết thư giới thiệu tôi với "Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh" Anh bảo tôi: " Lúc thiếu thời, ông Minh có cô bạn gái rất thân. Chị đi theo
kháng chiến, làm thứ trưởng bộ Y Tế của chánh phủ cách mạng lâm thời CHMNVN.
Tháng 5. 1975, hai người bạn cũ gặp lại nhau ở Sài Gòn. Tình bạn của họ càng
thêm khắng khít.
Anh Kiệt viết thơ riêng giới thiệu
tôi với chị Năm. Chị Năm tiếp tôi rất niềm nở, thân tình. Chị cho tôi xem
(không đọc) lá thư ông Minh mới viết cho chị dày 16 trang. Chị chỉ vào những
dấu chấm than ở cuối thư bình phẩm:
- Ngày ông Minh sang Pháp có hơn 2
chục xe công và tư đưa tiễn ông. Tôi tin là ngày ông Minh trở về nước không xa
nữa. Con người này không thể quên quê hương. Ngày bị đầy sang Thái Lan, nếu về
nước sẽ bị vào tù và không loại trừ khả năng bị xử bắn, nhưng ông vẫn trở lại
mảnh đất quê hương.
Tôi tin vào lời khẳng định của người
bạn gái từ hơn nửa thế kỷ của ông Minh"
(chép nguyên văn của Nguyễn Trần
Thiết).
Tôi xin nói thêm người bạn gái ấy
của ông Minh tên là Bùi Thị Mè, rất thân cận với Võ Văn Kiệt.
Trong khi đó, trả lời báo Nhân Bản,
ông Minh đã dám nói nguyên văn:
- "Trước năm 1975, tôi không
bao giờ gặp ông Kiệt và cũng không biết ông Kiệt là ai."
Một lần nữa, ông Minh lại tỏ ra
thiếu thành thực. Ông Minh đã từng làm tới đại tướng, quốc trưởng, và tổng
thống, chỉ huy trên một triệu binh sĩ, đánh nhau hằng ngày với Cộng Sản, và
lãnh đạo trên 25 triệu sanh linh của một nửa nước ở miền Nam, mà ông không biết
các lãnh tụ đối phương của ông, như tướng Trần Văn Trà và Võ Văn Kiệt là ai,
thì quả thực là một điều rất khó tin như chuyện ma quái hoang đường "CON
MA VÚ DÀI TRÊN CÂY DA XÀ" của báo Sài Gòn Mới!
Gỉa thiết, nếu ông Minh là một người
thật thà như đếm, và "ngu" đúng mức y như câu vè truyền khẩu đã kể
trong dân gian, thì ôi thôi dân tộc VN quả đã tới thời mạt vận mới sanh ra một
ông đại tướng, kiêm tổng thống Dương Văn Minh. Như thế, chuyện đồng minh Mỹ đã
vội vã thắt hầu bao, và rút quân cấp tốc ra khỏi VN năm 1973 quả là một hành
động khôn ngoan, sáng suốt. Vậy, tôi khuyên ông Minh không nên nông cạn qui
trách cho người Mỹ đã bỏ rơi VN lúc bấy giờ.
Ông Minh hãy mở to mắt ra mà xem
thái độ của người Mỹ đối với chánh phủ và nhân dân Nam Hàn. Nước Đại Hàn cùng
một hoàn cảnh chia đôi như VN. Người Mỹ cũng đã tốn hao nhiều sinh mạng và tiền
bạc, để giúp đỡ Nam Hàn chống chọi lại mọi làn sóng xâm lăng thô bạo của Bắc
Hàn. Cho đến nay, về mặt kinh tế Nam Hàn đã trở thành một trong 4 con rồng Á
Châu. Về mặt quân sự và chánh trị, quân Bắc Hàn đã nhiều phen tìm mọi cách đánh
phá xâm nhập Nam Hàn đều bị thất bại. Cho đến giờ phút này người Mỹ vẫn còn duy
trì một lực lượng quân sự ở Đại Hàn.
Với bài học trước mắt ấy, Ông Minh
có biết tại sao không?
Câu trả lời rất giản dị là: vì trong
hàng tướng lãnh, và tổng thống Nam Hàn đã không có một người nào giống như ông
Dương Văn Minh hết thảy!
Có khi nào ông Minh chịu khó tự vấn
lương tâm, để tự thành khẩn chấp nhận tội lỗi của mình trước lịch sử dân tộc
hay không?
Trong đời làm tướng, có khi nào ông
Minh nghe ai kể chuyện các sĩ quan Nhật thời đệ nhị thế chiến đã dùng
Hara-Kiri, mổ bụng tự sát, khi nước Nhựt đầu hàng hay không? Nếu có, ông Minh
có hiểu tại sao các sĩ quan Nhật ấy đã phải tự sát không?
- "Thưa ông đại tướng Dương Văn
Minh, chỉ vì họ không chịu nổi cái nhục đấy ông Minh ạ!"
Gần đây hơn nhất, hồi tháng 5, năm
ngoái, 1996, đô đốc hải quân Mỹ Jeremy Mike Boorda đã dùng khẩu súng lục P. 38,
bắn vào ngực để tự sát, giữa lúc ông ta mới 56 tuổi, có vợ, 4 con, và đời ông
ta đang lên hương. Nguyên nhân chỉ vì báo Newsweek đã nêu lên thắc mắc về 2
chiếc mề đay có chữ "V" trên ngực của ông, đã được tưởng thưởng công
trạng từ năm 1965 đến 1973, khi ông phục vụ trên các chiến hạm USS Craig, và
USS Brooke, ở VN. Báo Newsweek cho rằng ông không đủ tư cách mang 2 chiếc huy
chương có chữ "V" như thế. Chuyện chỉ đơn giản như vậy. Nhưng đô đốc
Jeremy Mike Boorda đã cho rằng danh dự người quân nhân của ông bị tổn thương,
và ông chỉ còn lấy cái chết để bảo tồn danh dự. Cái chết bất ngờ của đô đốc
Jeremy Mike Boorda chẵng những khiến cho binh sĩ trong quân đội Mỹ xúc động mà
còn khiến cho cả dân tộc Mỹ nghiêng mình kính phục, coi ông như một vị anh hùng
hiếm có trong lịch sử quân đội Mỹ.
Đọc tin này, tôi không biết ông đại
tướng Dương Văn Minh của quân đội VNCH có cảm thấy tự thẹn chút nào không? Hay
là ông đã lẩm bẩm một mình: "Ồ, cái thằng cha khùng!"
Thế mới biết chức vụ, và địa vị vẫn
không phải là cái thang để đo mức độ liêm sỉ của con người!
KÉO BÈ KẾT CÁNH LẬP THÀNH PHẦN THỨ
3, TOÀN LÀ CÁN BỘ CS NẰM VÙNG NGƯỜI MIỀN NAM!
Trong thời gian ông Minh bị 2 ông
Thiệu- Kỳ đày sang Thái Lan, tôi đã sang Thái nhiều lần, nhờ anh Nguyễn Văn
Ứng, nhân viên của toà đại sứ VN tại Bangkok, đưa đến nhà ông Minh, để thăm
ông. Dịp này ông Minh đã nói với tôi:
- "Em à, em về nói với 2 ông
Thiệu- Kỳ cho qua về nước. Qua không làm chánh trị nữa đâu. Qua nhớ nhà. Qua
về, chỉ lo vui tuổi già với vườn Lan thoại!"
Chẳng bao lâu sau khi ông Minh về
nước, tôi thấy trong nhà ông đã dập dìu tấp nập toàn những người miền Nam, như:
Lý Quí Chung, Ngô Công Đức, Nguyễn Hữu Chung, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ
Ngọc Cứ, Võ Long Triều, Lý Chánh Trung, Trần Ngọc Liễng, Huỳnh Tấn Mẫm, nghị
sĩ, cựu đại tá Hồng Sơn Đông, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và Triệu Quốc Mạnh,
phó biện lý toà sơ thẩm Gia Định... Đám này đã họp thành một khối chánh trị
mệnh danh "thành phần thứ 3", mang màu sắc trung lập, nhưng thực chất
đều là bọn CS nằm vùng, hoặc thân Cộng.
Trong cơn dầu sôi lửa bỏng ở Sài
gòn, ông Minh đã vội vàng phong ngay cho chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một sĩ
quan đã giải ngũ, nằm vùng cho CS, đảm nhiệm chức vụ trọng yếu phụ tá tổng tham
mưu trưởng, dưới quyền của Vĩnh Lộc. Đồng thời, ông còn phong cho Triệu Quốc
Mạnh, một tên cán bộ CS, lãnh chức giám đốc cảnh sát đô thành. Ngoài ra ông
Minh còn liên lạc chặt chẽ với Lê Đức Thọ, Võ Văn Kiệt... qua trung gian của
người em tên Dương Văn Nhựt, bí danh Mười Ty.
Theo lời của tướng Nguyễn Hữu Có,
lúc bấy giờ đang đóng vai phụ tá cho ông Minh, kể lại như sau:
- "Ngày 29.4.75, là ngày tôi
vất vả nhất. Đi đâu Minh Cồ cũng đem tôi theo, nhất là họp hội bên Ấn Quang.
Lệnh thầy bảo đến lúc nào là đi lúc đó. Tội nghiệp cho Minh cồ làm tổng thống
nhưng lại giữ nhiệm vụ kẻ thừa hành, giống như một đại đội trưởng nhận lệnh
miệng của tiểu đoàn trưởng thôi. Nhiều lúc tôi tự nghĩ Minh cồ làm tổng thống
hay Thích Trí Quang đây?...
Thực sự hôm nay ở trong tù tôi nghĩ
lại mà thấy tội nghiệp cho Minh Cồ, thích làm tổng thống mà khả năng quá hạn
chế, do đó bị Thích Trí Quang điều khiển đủ mọi
chuyện...
Ngày lịch sử trong đời làm chánh trị
của Minh Cồ không phải là ngày nhận chức tổng thống mà chính là ngày 29.4.75,
vì ngày này từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya Minh Cồ và tôi phải đến "hoàng cung Ấn Quang" 5 lần và lần nào
cũng với nội dung là "thầy" cũng hứa hẹn một cách chắc chắn không thể
sai lệch là sắp xong. Bên kia chậm lắm là tối 29.4.75 hay sáng 30.4.75 sẽ bàn
thảo việc thành lập chánh phủ liên hiệp..." (trích trong bài "TÂM
TÌNH TƯỚNG CÓ TRONG NHÀ TÙ HÀ TÂY" của nhà báo CS Hồ Văn Quang ghi lại).
Tay sai nằm vùng Việt Cộng Thích Trí
Quang.
Nói về Thích Trí Quang, nếu ai đã đọc quyển "BẠCH THƯ" CỦA
HOÀ THƯỢNG THÍCH TÂM CHÂU, phát hành tại Canada, năm 1994, đều thấy rõ Thích Trí Quang chẳng qua chỉ là một tên tay sai nằm
vùng của CSBV mà thôi. Trong Bạch Thư, trang 29, có câu nguyên văn,
chứng tỏ phe PG đấu tranh miền Trung và Ấn Quang chỉ là một tổ chức ngoại vi
của CSBV, nhằm phá hoại hàng ngũ quốc gia miền Nam: "Khi quân Cộng Sản từ rừng về Sài Gòn, đã có gần 500
tăng ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra chào đón"!
Với những bằng chứng cụ thể, có mức
độ khả tín cao, vừa nêu trên, chắc bạn đọc đã nhận ra được phần nào chân tướng
của Dương Văn Minh. Ngoài miệng ông ta nói với báo Nhân Bản là:
-Phải đặt quyền lợi tổ quốc trên
quyền lợi cá nhân và phe phái.
Nhưng thực chất, ông Minh đã có tinh
thần bè phái rất cao, đến mức có thể coi như kỳ thị Nam - Bắc. Ông đã thành lập
thành phần thứ 3 toàn là người miền Nam, khiến đã có dư luận Dương Văn Minh
muốn phục hồi: NAM KỲ QUỐC. Nhưng sở dĩ ông Minh đã không làm nổi như Nguyễn
Phong Tân, đả đảo Bắc Kỳ Cá Rô Cây, chỉ vì thời thế đã đổi thay, và ông Minh
không đủ khả năng như Nguyễn Phong Tân. Chẳng khác nào tướng Nguyễn Hữu Có đã
nhận xét về Minh Cồ rất xác đáng: ham làm tổng thống lắm, nhưng khả năng quá
giới hạn.!
Vì không có khả năng, gian trá,
thiếu đức độ, nhưng tham vọng lại quá lớn, nên ông Minh đã phải hạ mình chầu chực Trí Quang một cách hèn hạ quá đáng.
Hành động như thế chứng tỏ ông Minh đã chẳng phải vì quyền lợi tổ quốc nào cả,
mà chỉ vì muốn củng cố cái ghế tổng thống 3 chân của mình mà thôi!
KHÔNG AI TIÊN ĐOÁN ĐƯỢC HÀNG TRIỆU
NGƯỜI MIỀN NAM ĐÃ VƯỢT BIÊN
Đó là câu trả lời báo Nhân Bản của
ông Minh. Đọc câu này tôi có cảm tưởng, ông Minh chỉ biết nói mà không suy nghĩ
kỹ điều mình nói. Thoáng nghe qua, lời ông có vẻ hợp lý. Nhưng suy nghĩ cho kỹ,
lời ông Minh rất hàm hồ, nông cạn. Người ta thường nói: "làm chánh trị là
tiên liệu". Năm nay ông Minh đã 82 tuổi rồi, chớ không phải còn non trẻ
gì. Hơn thế nữa, ông đã làm nên tới chức đại tướng, từng đóng vai quốc trưởng,
dù chỉ là bù nhìn, đóng vai tổng thống, dù chưa đầy 24 giờ đồng hồ...
Chính vì trí óc nông cạn, đần độn,
lại thêm tham vọng quá lớn, đã khiến cho ông Minh trở nên mù quáng và ích kỷ.
Trong cơn dầu sôi lửa bỏng của đất nước và dân tộc, ông đã tỏ ra vô cùng ích
kỷ, chỉ biết nghĩ đến mạng sống cá nhân ông, địa vị của riêng ông, và sự yên ổn
cho gia đình của ông.
Ông đã đem hết bầu đàn thê tử, và gia nô của ông vào trú
ngụ trong dinh Độc Lập, để bảo toàn an ninh cho họ. Trong khi đó các người
khác, như ông Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu không ai làm như vậy. Bởi quá ích kỷ
như thế, làm sao ông Minh còn đầu óc đâu để nghĩ đến số phận của hàng trăm ngàn
chiến hữu của ông, chỉ vài ngày sau, đã bị quân CSBV lừa đi học tập cải tạo
cách khổ sở nhục nhã suốt cả chục năm trời. Vì bản chất ích kỷ lại thêm đần
độn, nên ông Minh đã không tiên đoán được chuyện: sau ngày 30.4.75, miền Nam sẽ
trở thành một trại tập trung cải tạo lao động khổng lồ kiểu Liên Sô. Nếu ông
Minh chịu khó đọc sử sách một chút, chắc ông đã thừa biết, sau khi bọn Bôn xê
vích lên cầm quyền ở Nga Sô, toàn thể hoàng gia Nga đã bị thủ tiêu, hàng triệu
người thuộc chế độ cũ đã bị vùi thân trong các trại cải tạo lao động vùng Tây Bá
Lợi Á.
Ngày 11.4.75, tức 19 ngày trước khi
miền Nam rơi vào tay CSBV, chính đại văn hào Nga Alexandre Soljenitsyne, đang ở
một chân trời xa VN tít tắp đã tiên đoán không sai lầm chút nào bằng câu nguyên
văn: "Tout le Vietnam sera transformé en un camp de concentration"!
Hơn thế nữa, ngay sau khi Ban Mê
Thuột vừa bị mất vào tay CSBV, Don Rockland, cố vấn tâm lý chiến của tướng Trần
Văn Trung, tổng cục trưởng tổng cục chiến tranh chánh trị, cùng với một ê kíp
chuyên viên Mỹ, như Martin, Jacobson, Bill Lehmann v.v... hằng ngày đã ra rả
báo tin cảnh tỉnh nhân dân miền Nam, sau này cả miền Nam sẽ bị tắm máu, nhân
dân miền Nam sẽ bị bọn CSBV trả thù tàn bạo, và thâm độc, vì bọn CS đã phải
gian nan vất vả suốt mấy chục năm trời để đoạt được chánh quyền về tay chúng...
Như thế, trước những hành vi cướp
bóc, hãm hại, trả thù tàn ác vô nhân đạo của bọn CSBV, nhân dân VN phải liều
chết bồng bế nhau chạy ra biển tìm tự do là chuyện rất dễ hiểu và rất dễ thấy.
Chuyện ấy đơn giản và thuận lý như công thức: hễ nước bị lửa đốt nóng, nước sẽ
sôi, và bốc hơi...!
Điều này ai cũng có thể thấy trước.
Vậy mà ông Minh lại ngụy biện cho là: "KHÔNG AI TIÊN ĐOÁN ĐƯỢC"!
Chắc ông Minh tưởng đầu óc mọi người
đều giống như đầu óc của ông thôi!
KẾT LUẬN
Nếu muốn mổ xẻ cho tận cùng những
lời tuyên bố của ông Minh trước khi ông ta về với Cộng Sản, như lá rụng về cội,
tôi thấy còn rất nhiều điều đáng nói. Nhưng, tôi chợt nghĩ chúng ta đã mất thì
giờ với ông đến như thế này là đã quá nhiều rồi. Chúng ta không nên phí phạm
thêm một chút giây phút nào nữa cho ông Minh.
Trước khi kết luận bài phân tách
này, tôi muốn mượn lời cuối của ông Minh nói với báo Nhân Bản và anh em tổng
hội SVVN tại Paris, nguyên văn như sau: "...tôi tin tưởng là các cây viết
trẻ không bóp méo sự thật".
Câu nói này của ông Minh, một mặt có
tính cách vuốt ve, mơn trớn, để phỉnh gạt tuổi trẻ. Mặt khác, muốn xỏ xiên
những người làm báo nhà nghề, đã biết tẩy ông quá nhiều. Ông rất sợ phải đối
diện với giới báo chí nhà nghề. Vì ông sợ bị lật tẩy trước công luận thì ê mặt
lắm.
Với những bằng chứng và các luận cứ
mà tôi vừa nêu trên đây, chẳng ai cần bóp mép sự thật làm gì. Vì trong lời
tuyên bố kể trên, chính ông Minh đã ngụy biện để bóp sự thật của lịch sử méo
xẹo theo gian ý của ông trước rồi.
Bây giờ, chúng tôi, những người làm báo nhà
nghề, đã từng theo dõi các hành vi của ông, từ lúc ông còn là một anh thơ ký
công nhật tầm thường của dinh Phó Soái Nam Kỳ cho đến khi ông trở thành một đại
tướng, làm quốc trưởng, và tổng thống 24 giờ, chúng tôi có bổn phận trả sự thật
lại cho lịch sử.
Những hạng tội đồ dân tộc như ông, càng vùng vẫy, càng ngoan
cố, thì vết nhơ trong lịch sử càng thêm lan rộng mãi ra mà thôi. Tôi thiển
nghĩ, ông nên để cho lịch sử phán xét vô tư thì hơn. Ông chẳng cần biện bạch
chạy tội làm gì. Như thế ông chỉ mua giây mà cột thêm vào người đấy thôi!
Về phần anh em THSVVN ở Paris và báo
Nhân Bản, sau khi đã đọc xong bài này, chắc sẽ không khỏi cảm thấy có một chút
gì đắng cay vướng víu trong cổ họng.
Tuổi trẻ lúc nào cũng đáng yêu và
đáng quí. Tuổi trẻ không gian trá, lưu manh và quỷ quyệt. Tuổi trẻ ở hải ngoại
cũng như trong nước, bây giờ không ai đần độn, và tham vọng mù quáng đến mức
thảm hại như một vài người đã từng đóng vai trò lãnh đạo bất thành của miền Nam
VN. Những người lãnh đạo già nua bất tài, nhiều tham vọng lố bịch ấy đã để lại
cho giới trẻ hải ngoại cả một bài học chua cay, tủi nhục, ê chề.
Đêm nằm vắt tay lên trán, họ suy
nghĩ: "Vì sao họ phải chịu thân phân lưu vong như thế này? Lỗi ấy do đâu?
Bởi ai mà ra?" Chắc chắn họ đã tìm thấy ngay câu trả lời cụ thể:
- Là do tập đoàn tướng lãnh ngu dốt,
bất tài, tham nhũng, thối nát cầm quyền ở miền Nam mà ra. Những tẩu tướng, phản
tướng bất tài của VN đã biến cả mấy thế hệ "con rồng cháu tiên"
thành những con cháu của loài giun, dế!
Nếu tài năng và nhân cách của mấy
ông tướng VN chỉ được bằng 1 phần 10 của các nhà lãnh đạo Nam Hàn, thì tuổi trẻ
VN đã không phải sống cuộc đời lưu vong tủi nhục hiện nay ở hải ngoại. Họ đã
được hãnh diện như các thanh niên Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore v.v...
mấy con rồng Á Châu.
Hình ảnh phụ chú: MP
Please note: If you forward this
email please delete the forwarding history, which includes my email address. It
is a courtesy to me and others who may not wish to have their email addresses
sent all over the world! Deleting the history helps prevent spammers from
mining addresses and sending out viruses. Thanks!
Nguồn:https://vulep-books-links.blogspot.com/2014/04/duong-van-minh-nam-vung-che-o-cong-san.html
ĐẠI HÈN TƯỚNG
DƯƠNG VĂN MINH, TỘI ĐỒ DÂN TỘC
!
Trương Minh Hòa
Sau ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, miền nam Việt Nam trải qua thời kỳ khủng hoảng chính trị triền miên, do những kẻ đảo chánh gây ra, từ đó tạo thời cơ cho Việt Cộng vùng dậy sau 9 năm cầm quyền của chí sĩ Ngô Đình Diệm. Những người mệnh danh là" hội đồng quân nhân cách mạng", thật sự chỉ là đám phản tướng, loạn tá nầy, phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc, chính họ là nguyên nhân đưa đến thảm họa 30 tháng 4 năm 1975. Nhìn lại 35 năm đất nước bị nhuộm đỏ và tập đoàn" thái trú Trung Cộng gốc khỉ ở Việt Nam" đang đưa dần đất nước thành một huyện của Trung Cộng, để thấy được những" thủ phạm" gây ra thảm cảnh ngày nay là ai?.
-Trung tướng Dương Văn Minh: người cầm đảo cuộc phản loạn ngày 1 tháng 11 năm 1963.
-Trung tướng Nguyễn Khánh: sau khi chỉnh lý Dương Văn Minh, lên làm quốc trưởng và sau đó chính vợ của Nguyễn Khánh đã " lập công" với Việt Cộng, đưa vợ tên kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát vào mật khu, nên bị loại ra khỏi chính quyền, sống lưu vong. Tuy nhiên, trong những ngày cuối cùng cuộc chiến, sau hiệp định Paris, chính Nguyễn Khánh cũng là người lên tiếng " yêu cầu Mỹ rút quân, không viện trợ cho Miền Nam", để Việt Cộng được thắng lợi, phù hợp với mưu đồ của đảng Cộng khỉ" đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào". Sau nầy, Nguyễn Khánh, với cấp bậc đại tướng, trở thành quốc trở chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, một tổ chức mang nhiều tai tiếng gần đây, chỉ đứng sau Mặt Trận Hoàng Cơ Minh về lừa bịp hải ngoại.
-Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ: chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương, một kẻ bốc đồng, hay phô trương, lớn tiếng hô hào" bắc tiến" nhưng sau nầy, khi ở Hoa Kỳ, lại" tiến về Bắc" trở thành con bài tuyên vận, tà lọt, cút cung tận tụy cho những thằng dốt như Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Thế Duyệt....
-Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu: là người phá nát đại quân trấn giữ vùng địa đầu giới tuyến bằng các lịnh lạc bất nhất: sớm tái phối trí lực lượng, chiều di tản, tái chiếm...khiến các lực lượng tổng trừ bị là Thủy Quân Lục Chiến, Dù... đành phải trở thành" bất khiển dụng", trói chân, tay trung tướng Ngô Quang Trưởng, đưa đến thất thủ quân khu 1 và lan đến quân khu 2, thiếu tướng Phạm Văn Phú đành bó tay và đưa đến thất thủ Miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Miền Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung, gặp phải những phản tướng như thế, nên đưa đến thảm họa mất nước ngày nay, thật là bất hạnh vô cùng. Thế mà ngày nay vẫn còn một số kẻ " thuộc hạ" thân tín như tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, tìm cách" tháo chạy trách nhiệm" của ông Thiệu, đổ hết trách nhiệm cho Hoa Kỳ, tung hỏa mù, nhưng lối lý luận của ông tiến sĩ khó thuyết phục được người Việt hải ngoại, dù có bằng cấp cao.
Nguyên nhân chánh trong vụ thất thủ miền Nam là bắt đầu từ cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, do trung tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Chính Dương Văn Minh và đám phản tướng, loạn tá... sau khi đảo chánh, giết hại tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu một cách dã man; một công lớn đối với Việt Cộng là Dương Văn Minh đã thả hầu hết những tên siêu điệp Việt Cộng bị bắt như Mười Hướng ( Nguyễn Ngọc Ban), nên sa đó, mạng lưới gián điệp càng lớn mạnh qua 2 cục: nghiên cứu và đặc công, hoạt động khủng bố mạnh hơn bao giờ hết.
Cũng chính Dương Văn Minh là người bỏ cả" mạng lưới miễn nhiễm siêu vi Việt Cộng" là quốc sách ấp Chiến Lược, tạo cơ hội cho Việt Cộng vùng dậy ở các vùng nông thôn. Dương Văn Minh là người ảnh hưởng rất sâu đậm các tên Việt Cộng nằm vùng khối Ấn Quang, nhất là sau vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức, cái chết gây phân hóa dân tộc Việt Nam ở miền nam, là cơ hội để Việt Cộng nằm vùng xuyên tạc về" sự đàn áp Phật Giáo" một cách lếu láo trong nước, ở hải ngoại, được tên thiền sư Nhất Hạnh, cư sĩ Võ Văn Ái....thổi phồng ở các nước Tây Phương. Nên 6 tháng sau sự kiện" tự thiêu", xảy ra cuộc đảo chánh tai hại, do tác động phần lớn từ đám ác tăng Ấn Quang và các phản tướng như: Mai Hữu Xuân, Trần Thiện Khiêm, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Đổ Mậu....vì bọn phản tướng nầy e ngại tổng thống Ngô Đình Diệm đang có kế hoạch trẻ trung hóa hàng tướng lãnh để chuẩn bị chiến trường, đối phó với Việt Cộng, trong tinh thần tự cường, nên cùng đứng dưới trướng của trung tướng Dương Văn Minh, cùng ắt tay nhau đi theo sự chỉ đạo của khối Ấn Quang, làm tan tành cả miền nam sau nầy.
Cái chết của Thích Quảng Đức còn bao phủ nhiều giả thuyết về những hành vi mờ ám của Ấn Quang, với tăng thống Đôn Hậu, thượng tọa Trí Quang....có giả thuyết cho là: vụ tự thiêu nầy là do những tên ác tăng, Việt Cộng nằm vùng đội lớp cao tăng chỉ đạo, mà Thích Quảng Đức chỉ là nạn nhân. Vụ tự thiêu nầy là cảnh dàn dựng của bọn ác tăng, Ấn Quang, thuộc Tứ Diệu Xú:" tham, gian, dâm, ác", theo vài nguồn tin cho là: tự thiêu là bốc thăm, lúc đó trúng thăm tự thiêu là Thích Nhật Thường ( tục danh Lê Văn Sua), là người xuất gia, lên hàng cao tăng mà có hai, ba vợ...con là Lê Văn Lâm, sau làm đại úy tuyên úy Phật Giáo ( cũng có vợ con). Đêm cuối cùng, do các bà vợ đến vấn kế, nên Thích Nhật Thường bỏ trốn, sau cùng Thích Quảng Đức thay thế. Cái chết của Thích Quảng Đức được các tờ báo nằm vùng như tờ Tin Sáng của Ngô Công Đức, thổi phồng:" trái tim bất diệt". Cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, chủ động là do ảnh hưởng của đám giặc Cộng mặc áo cà sa Ấn Quang, nên khi cái gọi là" cách mạng thành công" thì bọn gian tăng lộng hành, khuynh đảo cả chính quyền miền Nam mãi đến sau nầy; nên ngay thời Nguyễn Khánh, dưới áp lực của đại ác tăng, Việt Cộng nằm vùng Thích Trí Quang, chúng giết hại người em út trong gia đình chí sĩ Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Cẩn, để trả thù những cơ sở nằm vùng miền trung đã bị Ngô Đình Cẩn triệt hạ gần như toàn bộ.
Bọn Việt Cộng, gian tăng Ấn Quang, với thế lực bao trùm từ thời sau 1 tháng 11 năm 1963 đến khi Việt Cộng vào cướp bốc, giết người ngày 30 tháng 4 năm 1975, nên khi nghe nói bất cứ tên thầy cúng, thợ tụng, hoặc" chuyên gia ma chay" nào thuộc gốc Ấn Quang, nay được" di tu" ở nước ngoài, là đáng nghi ngờ, nhìn lại, gần như toàn bộ những kẻ mặc áo cà sa, mang những chức sắc" tư biên tự diễn" như đại đức, thượng tọa, huề thượng... đều là chủ nhân của các TIỆM PHẬT" hoành tráng" ở các nước Tây Phương, có tên làm chủ vài tiệm Phật, trị giá nhiều triệu Mỹ Kim... chính những cơ sở tiệm Phật nầy là nơi xuất phát các cuộc đánh phá sự yên bình của người tỵ nạn, là nơi công an, gián điệp xâm nhập hợp pháp, móc túi qua chiêu bài từ thiện, cúng dường và nhất là chúng đang có mưu đồ dùng uy tín lãnh đạo tôn giáo, trong tay có số Phật tử Tam Tạng thời đại, đễ hổ trợ cho băng đảng Việt Tân, thành lập các" cộng đồng người Việt Tự Do Quốc Doanh", là điều cần phải cảnh giác, khi thấy bọn giặc cà sa nhảy vào làm chính trị ( bình thường chúng chối dài: tôn giáo không làm chính trị)....nên đa số kẻ mặc áo cà sa thuộc Ấn Quang là không bao giờ tin được, chúng xuất ngoại dễ dàng sau 1975, nhất là ra đi an toàn dưới chương trình" xuất khẩu người tỵ nạn" vào những năm 1976 đến 1978, với người Hoa, phương tiện tàu bè ra đi tương đối tốt. Hình như chúng được đảng chỉ thị để trà trộn vào cộng đồng hải ngoại, mượn lớp áo cà sa để làm" lãnh đạo tinh thần" một cách" không người lái", tái diễn màng kịch nói cũ như ở Việt Nam trước 1975, nay lập lại tại hải ngoại?.
Nếu không có tên đại hèn tướng Dương Văn Minh đảo chánh, thì miền Nam đứng vững, dưới tài lãnh đạo và tinh thần ái quốc của chí sĩ Ngô Đình Diệm, người mà thời ấy được thế giới đánh giá là một trong các nhà lãnh đạo tài ba nhất ở Á Châu, không thua gì Lý Quang Diệu ở Tân Gia Ba. Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, đánh sập hoàn toàn những công trình chống Cộng, bảo quốc an dân mà tổng thống Ngô Đình Diệm đã bỏ ra nhiều công sức từ sau ngày trở về chấp chánh, thay Bảo Đại, vốn không còn hợp thời nữa trong công cuộc lãnh đạo đất nước. Do đó Dương Văn Minh cùng đám phản tướng, lũ súc sanh Ấn Quang chỉ đạo, chính là những tội đồ dân tộc, làm cho đất nước đi dần vào suy thoái, dọn đường cho Việt Cộng làm cái gọi là" đại thắng mùa xuân 1975". Rồi cũng chính Dương Văn Minh, nhảy ra vào giờ phút chót, làm công tác cho giặc lần cuối: ban lịnh đầu hàng vô điều kiện, cùng với tên tướng nội gián Nguyễn Hữu Hạnh, làm tan hàng cả một quân đội hùng mạnh tại Đông Nam Á.
Dương Văn Minh đúng là hèn tướng" tham sinh quí tử", khi hắn mới lên làm tổng thống bất hợp pháp, do áp lực của nhiều phía, thì cho thủ tướng Vũ Văn Mẫu đuổi Mỹ, qua cơ quan D.A.O ( Defense Attach Office) trong 24 giờ, đó là thành tích giống như" chống Mỹ cứu nước" mà gần đây, trên vài tờ báo, một tùy viên của Dương Văn Minh tự hào về thành tích" đuổi Mỹ" của tên đại tướng hèn nầy.
Cái hèn của Dương Văn Minh là sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, được Việt Cộng ban cấp quyền công dân của cái gọi là" Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam", nên trong lần bầu cử đầu tiên năm 1976 để chọn ra những" đại biểu quốc hội bù nhìn, do đảng cử và dân chỉ bỏ phiếu hợp thức hóa, công dân Dương Văn Minh rất là cảm động, hèn hạ lếu láo:" đây là lần đầu tiên trong đời, được cầm lá phiếu bầu cử dân chủ..", hình ảnh hắn, cùng lời nói rất hèn nầy được hầu hết các tờ báo quốc doanh đăng tải. So với cụ Trần Văn Hương, dù ông có đầy đủ phương tiện để ra đi như đại tướng Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm....nhưng ông nhất định ở lại, Việt Cộng màu mè, giả nhân giả nghĩa, đề nghị cấp cho gia đình cụ 100 kí gạo hàng tháng, thì Trần Văn Hương thẳng thừng trả lời:" tôi không thể nhận, trong khi anh em binh sĩ bị đói trong tù". Hạ sĩ danh dự Trần Văn Hương quả hiên ngang gắp triệu lần đại tướng hèn Dương Văn Minh.
Sau khi được hưởng đầy đủ" chế độ" ưu đãi của đảng và nhà nước Việt Cộng qua công lao:
-Gìết hại anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm: một đối thủ mà Hồ Chí Minh và đảng cướp Việt Cộng sợ nhất, chúng cay cú ấp chiến lược, luật chống khủng bố 10/59...
-Tạo điều kiện cho Việt Cộng vùng lên khắp nông thôn sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963.
-Làm vô hiệu hóa sức kháng cự của quân lực VNCH qua lịnh đầu hàng vô điều kiện, nếu không thì các đơn vị vẫn tử thủ đến hơi thở cuối cùng, nhất là quân khu vẫn đứng vững, có thể được lực lượng Hòa Hảo miền tây ủng hộ mạnh, thì Việt Cộng gặp rất nhiều khó khăn và thiệt hại nặng nề, có khả năng đảo ngược tình hình sau nầy. Đây là công lao rất lớn của Dương Văn Minh đối với Việt Cộng.
Sau nầy Dương Văn Minh được Việt Cộng cho xuất ngoại để được hưởng bơ sửa, hay là có mưu đồ làm cuộc bàn giao khác hải ngoại cho Việt Cộng?. Dù Dương Văn Minh nổi tiếng là đuổi Mỹ, hay Nguyễn Văn Thiệu cũng chửi Mỹ trước khi" trở thành chiến sĩ ra khơi, trung tướng đào ngũ" thì cả hai cũng đã qua Mỹ để sống những ngày cuối cùng và chết ở đất Mỹ cho sướng. Đó là sự mâu thuẫn giữa những kẻ đuổi, chửi Mỹ, trong đó có một số kẻ được Mỹ cứu qua chương trình H.O, được Mỹ giúp thời các trại tỵ nạn, nếu không có Mỹ, là thân xác họ trở thành những bửa tiệc linh đình cho loài cá mập...thế mà vẫn cho là: thằng Mỹ điếm, thằng Mỹ xấu....mà không nhìn lại bản thân mình như thế nào?
Đất nước tàn tạ như ngày nay là do tên hèn tướng Dương Văn Minh và đám phản tướng, cùng lũ giặc Cộng đội lớp tôn giáo Ấn Quang, bầy quạ đen linh mọp Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, Trần Bá Cương...Việt Cộng cũng" chống Mỹ cứu nước, đế quốc Mỹ là kể thù số một.." thế mà ngày nay bám sát" thằng Mỹ" để đớp, liếm láp" bơ thừa sữa cặn", gom góp tiền của dân, cấp viện để qua Mỹ đầu tư, mua nhà, cho con cháu du học và tìm cách ở luôn, bộ chúng không sợ con cháu học được" thói hư tật xấu của đế quốc Mỹ?". Chúng cho xã hội chủ nghĩa là tốt đẹp" độc lập, tự do, hạnh phúc" tại sao không đầu tư, mang tiền gởi ngân hàng nhà nước, cho con cháu học hành tại các trường đại học do đảng và nhà nước đào tạo...lại bỏ thiên đàng, đi theo bọn tư bản phản động?../.
Trương Minh Hòa
Nguồn: http://www.conongviet.com/ChinhTri/truongminhhoa/webpril2110-truongminhhoa-duongvanminh.htm
Mặt thật hàng tướng Dương Văn Minh
Mỗi lần 30 tháng 4 đến, người Việt tỵ nạn lại nhắc đến Dương Văn Minh và gọi ông là “Hàng Tướng”. Nhưng hành tung và vai trò của ông trong cuộc chiến VN vẫn còn nhiều bí ẩn. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra và có một vài tranh luận xung quanh hàng tướng này.
Hôm đám tang Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, cựu dân biểu VNCH, có đọc một bài điếu văn, nói rằng “Đây là cái chết lần thứ nhì của một người lính suốt đời lo cho đất nước”. Tuy nhiên, qua bài điếu văn đó, người ta nhận thấy Nguyễn Hữu Chung muốn mượn cái chết của Tướng Dương Văn Minh để nói về mình hơn là nói về Tướng Minh. Đó là cái bệnh trầm kha của nhiều “lãnh tụ” quốc gia. Hôm 30 tháng tư vừa qua, nhân kỹ niệm 30 năm mất miền Nam, Đại Tá Vũ Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ, có viết bài “Tưởng Niệm Big Minh, Một Vòng Hoa Cho Niên Trưởng”, nhưng nội dung bài này cũng chỉ để nói lên tình “huynh đệ chi binh” mà thôi.
Website của Giao Điểm, [một diễn đàn chống “Giatô” và kêu gọi Phật giáo Ấn Quang “hồi tà”, trở về với Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh,] đã phổ biến bài “Cái chết của một Hàng Tướng: Dương Văn Minh (1916-2001)” của Vũ Ngự Chiêu, tức Chánh Đạo, tức Nguyên Vũ, nói là trích trong “Ngàn Năm Soi Mặt, tâm bút”, để bênh vực cho Tướng Dương Văn Minh. Trong nỗ lực bôi đen “Giatô”, Vũ ngư. Chiêu viết rằng ông Lâm Lễ Trinh đã “làm án tử hình Ba Cụt hầu chuẩn bị bước lên chức Bộ trưởng Nội vụ – một bản án tiêu biểu cho chế độ giáo phiệt của anh em ông Diệm” (tr. 137), mặc dù Ba Cụt đã chịu đầu hàng. Ở cuối bài, Vũ Ngự Chiêu đã kết kuận như sau: “Hậu thế sẽ có dịp thẩm giá Tướng Minh một cách trung thực hơn. Vì Tướng Minh, giống như ông Trần Văn Hương, chỉ là những tác nhân phụ thuộc, ở buổi “hết quan, tàn quân.” Nhóm Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, v.. v… mới là những tội nhân chính của lịch sử.”
Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh.
Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ. Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh.
* Vài nét về Tướng Big Minh
Dương Văn Minh sinh ngày 16.2.1916 tại Vĩnh Long (có tài liệu nói sinh tại Mỹ Tho). Sỡ dĩ ông có biệt danh là Big Minh vì cao 6 feet và nặng 200 pounds, và được gọi như thế để khỏi lẫn lộn với Tướng Trần Văn Minh.
Ông có vợ và ba con: hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm hiện ở Pháp, và người con gái là Dương Mai, có chồng là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài, hiện ở Pasadena, California.
Lúc nhỏ ông theo học trường Chasseloup Laubat ở Saigon và đỗ tú tài II vào năm 1938 cùng một lớp với Tướng Trần Văn Đôn.
Năm 1940, ông Minh gia nhập quân đội Pháp, tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bi. Thủ Dầu Một với cấp bậc Aspirant tức là Chuẩn Úy.
Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, Dương Văn Minh đang phục vụ tại Caps Jacques (Vũng Tàu) và bi. Nhật cầm tù. Khi Pháp trở lại, ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp năm 1946 với cấp bậc Thiếu Úy.
Năm 1952 ông mang cấp bậc Đại Úy và phục vụ tại Phủ Thủ Hiến Nam Phần. Từ Năm 1953 – 1954, ông được thăng Thiếu Tá rồi Trung Tá và phục vụ tại Tổng Tham Mưu Quân Khu 1. Năm 1954 – 1955 ông là Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Saigon.
Dương Văn Minh là cháu của Nguyễn Ngọc Thợ Khi ông Diệm về chấp chánh, ông Nguyễn Ngọc Thơ được mời làm Bộ Trưởng Nội Vụ, đã đề cư? Dương Văn Minh chỉ huy huy lực lượng bảo vệ Saigon. Ngày 3.5.1955, Dương Văn Minh được thăng Đại Tá và giữ chức Quân Trấn Trưởng Saigon.
Dương Văn Minh Nguyễn Ngọc Thơ
Người đầu tiên đã giúp ông Diệm chống lại các giáo phái không phải là Đại Tá Dương Văn Minh mà Đại Tá Dương Văn Đức.Ngày 5.6.1955, Đại Tá Đức được cử chỉ huy Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây Nam Phần. Ông cho quân tiến chiếm Cái Vồn (Cần Thơ), phá tan đại bản doanh của Tướng Trần Văn Soái. Ngày 29.6.1955 ông tiến vào núi Ba Chúc, tấn công lực lượng của Tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt.
Ngày 21.9.1955, với tư cách Quân Trấn Trưởng Saigon, Đại Tá Dương Văn Minh được cử làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Dịch Hoàng Diệu, mở cuộc hành quân truy kích tàn quân Bình Xuyên tại Rừng Sát. Trung tá Nguyễn Khánh làm Chỉ Huy Phó và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh làm Tham Mưu Trưởng.. Sau khi Chiến Dịch Hoàng Diệu chấm dứt, ngày 6.11.1955, ông Diệm cho tổ chức biểu tình hoan hô các chiến sĩ Rừng Sát trở về. Đại Tá Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng. (Có tài liệu nói Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng ngày 23.10.1955).
Trong thời gian ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Tỉnh Trưởng các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên và Mỹ Tho, Ba Cụt đã mưu sát ông đến 6 lần, nhưng ông vẫn thoát được. Để đối lại, ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng đã cho mở các cuộc hành quân để truy kích Ba Cụt, nhưng không bắt được. Do đó, khi nghe ông Ngô Đình Nhu hỏi ý kiến về việc dẹp loạn Trần Văn Soái và Ba Cụt ở miền Tây, ông xin lãnh trách nhiệm ngay. Đây là một cơ hội tốt giúp ông thanh toán một kẻ thù luôn theo đuổi ông. Ông xin xử dụng Tướng Dương Văn Minh vào công tác này. Vì thế, ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá Dương Văn Đức chỉ huy và cho Đại Tá Đức lên Thiếu Tướng. Tướng Đức tỏ vẽ bất bình về chuyện chấm dứt công tác một cách đột ngột này.
Do đó, ngày 10.6.1956, ông Diệm phải cử Tướng Đức đi làm Đại Sứ tại Nam Hàn.
Rất hận về chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ đưa Tướng Dương Văn Minh xuống cướp chỗ của mình, khi tham gia cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964 lật đô? Dương Văn Minh, Tướng Đức đã đi tìm ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc đó là Thủ Tướng Chính Phủ, kéo ra và đánh mấy bớp tai trước mặt mọi người!
Mặc dầu Dương Văn Minh đang bị điều tra về việc biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bảy Viễn, ngày 1.1.1956, ông Diệm đã cư? Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây. Ngày 13.4.1955 Tướng Ba Cụt đã bị bắt ở Chắc Cá Đao, cách Long Xuyên 15 cây số và bi. Tòa Án Quân Sự tuyên án tử hình. Sáng 13.7.1956, lúc 5 giờ 40 sáng, Tướng Ba Cụt đã bị hành quyết tại nghĩa địa ở đường Hoa Bình, Cần Thợ
Trong cuộc phỏng ván ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y, lúc đó là Tỉnh Trưởng Chợ Lớn, cho biết sau khi xử bắn và chôn Ba Cụt xong, Nguyễn Văn Nhung có về gặp ông và cho ông biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho anh ta đào xác Ba Cụt lên đem đi thiêu rồi lấy tro rải xuống sông Cửu Long, để tay chân bộ hạ của Ba Cụt không lấy xác ông ta đem về lập đền thờ. Nhưng có nhân chứng khác cho biết Nguyễn Văn Nhung đã đào xác Ba Cụt lên, văm nhỏ rồi bỏ vào bao bố đem rải xuống sông chứ không hề thiêu.
Trong cuốn hồi ký “VN máu lửa quê hương tôi” Đỗ Mậu phịa rằng “vì ông Diệm nhiều lần dụ dỗ Lê Quang Vinh theo đạo Thiên Chúa mà Lê Quang Vinh nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Thiên Chúa thì Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Saigon và sẽ được trọng thưởng, và tất nhiên sẽ được tha mạng.” (trang 124).
Ngày 31.5.1956, Chiến Dịch Nguyễn Huệ kết thúc. Ông Diệm lại cử Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định các tỉnh Tiền Giang và Hậu Giang. Ngày 29.8.1956 ông Diệm cử Tướng Minh làm Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng, chỉ huy Phân Khu Saigon.Chợ Lớn và tiếp tục chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định miền Tây. Ngày 30.10.1956, chiến dịch này kết thúc với kết quả 441 bị tử trận, 948 về quy thuận, 1169 bị bắt và hơn 1.000 súng bị tịch thụ
Ngày 1.2.1957 Dương Văn Minh được thăng Trung Tướng và giữ chức Chỉ Huy Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Chức Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng được trao lại cho Tướng Dương Văn Đức mới đi học khóa chỉ huy và tham mưu ở Mỹ về. (Khi Tướng Đức xin đi Pháp, chức này lại được trao cho Tướng Nguyễn Khánh). Tướng Minh cũng được gởi qua Mỹ học khóa chỉ huy và tham mưu tại ỤS. Command and General Staff College ở Fort Leavenworth thuộc bang Kansas.
Đầu năm 1960, cơ quan tình báo khám phá ra Tướng Dương Văn Minh đã liên lạc với Hà Nội qua người em là Thiếu Tá VC Dương Văn Nhựt, nên Tướng Minh không được tin dùng nữa (chúng tôi sẽ tường thuật sau). Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cư? Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu mới từ Hoa Kỳ về làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát Tướng Minh.
Cuối năm 1962 Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”. Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tư Lệnh Vùng I, được cử làm Tư Lệnh Lục Quân, một chức vụ mới đặt để thay thế Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
Lúc đầu, Tướng Harking tỏ vẽ bất bình về chuyện Tướng Minh bị hạ tầng công tác. Ông ta nghĩ rằng ông Diệm sơ. Tướng Minh làm đảo chánh nên đã hành động như vậy. Nhưng sau khi biết được Tướng Minh có liên lạc với VC, cơ quan CIA cũng đồng ý về biện pháp này.
Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên khi muốn lật đổ ông Diệm, CIA quyết định xử dụng Tướng Minh. Nhưng sau đó chỉ cho Tướng Minh làm Quốc Trưởng 3 tháng.
Ngày 30.1.1964, theo sự sắp xếp của CIA, Tướng Nguyễn Khánh làm “chỉnh lý” xúc các tướng đảo chánh và biến Dương Văn Minh thành Quốc Trưởng bù nhìn.
Ngày 24.10.1964, Nguyễn Khánh đưa ông Phan Khắc Sửu lên làm Quốc Trưởng thay Dương Văn Minh. Ngày 24.11.1964, ông Sửu thăng cho cả Nguyễn Khánh lẫn Dương Văn Minh lên Đại Tướng. Ngày 20.12.1964, Nguyễn Khánh bắt Dương Văn Minh đi lưu vong, làm Đại Sứ VNCH tại Thái Lan. Mãi đến năm 1968, khi ông Trần Văn Hương lên làm Thủ Tướng, Dương Văn Minh mới được trở về VN. Ông đã đến Saigon ngày 5.10.1968.
Sau đây là một số bí ẩn chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh.
VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG
Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại:
Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp: “Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn. “Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói: “- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó. “Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi. “Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả! “Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt! “Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1]
Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.
Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau: Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít. Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.
Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.
Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì. Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2]
Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”
CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG
Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả. Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén. Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10., Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh. Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi. Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?” Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.
Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy.
Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”.
Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau: “Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam – được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”. Bài báo viết thêm: “Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”
BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ
Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ.
1.- Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm. Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ. Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.
Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh: – Tại sao hai ông ấy chết? Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3]
“Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) ” DVM
2.- Giết ông Ngô Đình Cẩn Chính
Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày
28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên
tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán
quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo
không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ
đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong
trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi
hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân
xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn
Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách
nhiệm giết ông Cẩn. Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm
luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge
giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng
Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm
cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the
difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá
Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc
để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.”
Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!
Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!”
Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ
Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở
Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể
chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu
cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói
với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên
hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.Frank Snepp cho biết thêm:
“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4]
Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội.
Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151.
Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.
Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.
Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại, lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:
“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống…”
Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.
Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng. Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5]
Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt.
“Văn Kiện” Đầu hàng
Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng
nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân
nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để
bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng
Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc
Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng
chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh
vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người
bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau
là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền… Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to:
“Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy
tùng nhất loạt tuân lệnh.Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30.
Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!
Quyết định trả tự do tại dinh Độc Lập tối 2/5/1975.
Ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Binh… được trả tự do.
Quyết định trả tự do của Ủy ban quân quản được thông báo tại buổi lễ
trang trọng và thân mật tại hội trường dinh Độc Lập tối 2/5/1975. Tại
buổi lễ này, Phó chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn – Gia Định Cao Đăng
Chiếm đã phát biểu với một chất giọng miền Nam trầm ấm:
“…Nhân
dân Việt Nam chúng ta đã trải qua cuộc đấu tranh anh dũng và khốc liệt,
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại chính sách
Việt Nam hóa chiến tranh để giành thắng lợi vĩ đại và vô cùng to lớn từ
xưa đến nay.
Thi
hành chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, Chính phủ mong rằng
trong tình hình mới chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực xây dựng lại Tổ quốc
của chúng ta, làm cho nhân dân chúng ta giàu mạnh, Tổ quốc của chúng ta
hùng cường. Do đó, chúng tôi mong rằng mỗi người VN chúng ta đều tùy
theo khả năng của mình, góp công sức vào việc xây dựng Tổ quốc của chúng
ta. Bữa nay, thi hành lệnh của cấp trên, các anh được tự do về với gia
đình. Chúng tôi sẽ tổ chức đưa các anh về đến nơi đến chốn…”. (Trích băng ghi âm)
Đáp lại, ông Dương Văn Minh nói ngắn gọn thế này:“
…Ngày hôm nay, đại diện cho các anh có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan
nghênh sự thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi
hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh
em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp
tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước.Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi
rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt
Nam độc lập”. (Trích băng ghi âm)Mọi người được về với gia đình
ngay sau buổi lễ đó. Chiếc xe Ford màu xanh dương đậm đưa ông Minh ra
khỏi dinh Độc Lập lúc 22 giờ. Khi xe chuyển bánh, vị tổng thống 48 giờ
nói:- Thôi, giã từ quá khứ chết chóc. Vĩnh viễn hòa nhập vào đời sống hòa bình.(Theo Tuổi Trẻ)
NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau:
“Thi,
“Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
“Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
“Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.
“Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
“Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra…”
Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên.
Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:
Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm:
(1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra.
(2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.
Thứ hai là ngố:
Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ:
(1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền.
(2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!
Thứ ba là hèn:
(1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào!
(2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại:
– Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định.
Tổng Thống Minh trả lời:
– Các em chuẩn bị bàn giao đi.
Thiếu Tá Tài hỏi lại:
– Có phải là đầu hàng không?
Tổng Thống Minh trả lời:
– Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.
Thiếu Tá Tài nói:
– Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?”
Tổng Thống Minh trả lời:
– Tùy ý các anh em.
Nói xong cúp máy!
(3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò… Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.
Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây.
Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.
Lữ Giang
29.4.2009
Ghi chú:
[1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28.
[2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70.
[3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231.
[4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383.
[5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.
Nguồn: https://ongvove.wordpress.com/2009/04/29/m%E1%BA%B7t-th%E1%BA%ADt-hang-t%C6%B0%E1%BB%9Bng-big-minh/
21.Hình ảnh Dương Văn Minh bị bắt và được trao trả tự do..DAT
Dương Văn Minh là Tướng VC nằm vùng phá hoại VNCH, đã tạo phản, đảo chính, và giết TT Ngô đình Diệm dã man để làm quà tặng sinh nhật Hồ Chí Minh, và vì em của hắn là Dương Văn Nhựt, Tướng VC trung kiên của cs Bắc Việt. Từ đây, Dân VNCH có thể thấy hết đường đi đen tối và việc làm phương hại chính quyền VNCH của Dương Văn Minh. VNCH nuôi dưởng quá nhiều vi khuẩn ung thư độc hại và tham nhũng; cho nên, VNCH khó sống lâu được. Và tay chân bộ hạ nằm vùng của Dương văn Minh gồm có Phạm Ngọc Thảo và Phạm xuân Ẩn là những tay VC nằm vùng đồng thời được VC vinh thăng mà sau nầy ai cũng đã biết.
Sau khi Việt Nam bị thằng cặc cộng sản Hồ chí Minh (đầy tớ của Cộng Sản Nga và Cộng Sản Tàu) chia đôi với Pháp, Miền Bắc theo chế độ Cộng Sản dưới sự che chở của Nga Tàu. Miền Nam tìm cách thoát khỏi Pháp và nhờ Mỹ viện trợ. Thằng cặc Hồ chí Minh muốn cả nước Việt Nam trở thành cộng sản và tiến hành đánh chiếm miền Nam. Hàng ngày thanh niên miền Bắc vào Nam đánh nhau chêt nhiều như heo chó gà vịt, nhưng thằng cặc Hồ chí Minh cậy vào sức mạnh của Liên Bang Xô Viết, Bọn Tàu ghẻ cộng sản, và các nước cộng sản Đông Âu . . . quyết không ngừng cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt. Trong lúc này các nước Tự do đã khám phá ra rằng Chủ Nghiã Cộng Sản đang bị phá sản, và chống Cộng không phải là việc làm cần thiết nữa, và thế là Mỹ bỏ rơi Việt Nam và bắt tay với Tàu. Từ viện trợ hàng tỷ đô la cho miền Nam hạ xuống trăm triệu và cuối cùng là thôi viện trợ. Kết quả là Lính miền Nam đã không đánh nhau nửa . . .kết quả là cả nước Việt Nam phải sống khổ như chó dưới chế độ cộng sản Việt Nam ngu dại trong một thời gian rất dài cho đến khi Cộng Sản thế giới sụp đổ. Đế Quốc Mỹ trao Việt Nam cho đế quốc Tàu là chuyện rỏ ràng ai cũng thấy. Việc Hạm đội 7 của Mỹ thôi bảo vệ Việt Nam, bật đèn xanh cho Tàu Cộng chiếm Hoàng Sa là bằng chứng cụ thể nhất. Trong khi Tàu chiếm Hoàng Sa trong tay Hãi quân miền Nam thì Cộng sản miền Bắc ngây thơ vổ tay reo hò, tưởng rằng Trung Cộng chiếm đảo và tạm quản lý dùm cho Cộng Sản Việt Nam. Thế giới khinh cười Việt Nam cho sự dại dột này . . . Ngày nay Mỹ và Tàu đang đóng trò kình chống nhau, thật ra cả hai là bạn hàng kinh tế của nhau . . . Việt Nam ngày càng phải trở thành đầy tớ thấp hèn của Trung Hoa là điều không thể tránh khỏi. Ngày xưa, tên vua Việt Nam hèn nhát Mạc Đăng Dung, đi chân đất, qua trấn Nam Quan xoả tóc, phủ phục trước Mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước. Ngày nay sau khi Tàu thâu tóm biển đảo Việt Nam, thì thằng chó Cộng Sản Nguyễn Phú Trọng sai đám chó con trải thảm đỏ, bắn đại bác tung hô vạn tuế thằng giặc xâm lăng Tập Cận Bình . . . có cái nhục nào to hơn thế nữa ???!!!
https://youtu.be/y2Ddq2IZZbw
Tiết lộ chấn động của người bắt giữ tướng Dương Văn Minh
Phúc Hưng - Tuệ Minh
(GDVN) - “Khi các ông chưa tiến công
vào, bên dưới tôi còn rất nhiều người chưa đồng tình với tôi mà nếu tôi
tuyên bố đầu hàng trước thì người ta khử tôi mất”, tướng Dương Văn Minh
nói với trung đoàn phó của quân giải phóng, đang cầm chắc khẩu súng
trong tay.
Hình ảnh "không thể quên" về anh bộ đội Cụ Hồ vào trưa 30/4/1975
Những hình ảnh độc về Sài Gòn trước ngày 30/4/1975 (P3)
Những hình ảnh độc về Sài Gòn trước 30/4/1975 (P2)
Chùm ảnh: Người dân ùn ùn rời thủ đô dịp nghỉ lễ 30/4
LTS: Một buổi chiều cuối tháng 4,
chúng tôi đến thăm Trung tướng Phạm Xuân Thệ - Nguyên Tư lệnh Quân khu I
tại phố Nguyễn Hoàng Tôn (quận Tây Hồ, HN). Mân mê chén trà đặc quánh
trên tay, vị chỉ huy từng bắt, áp giải tướng Minh "lớn" đến Đài phát
thanh Sài Gòn đọc lời đầu hàng, xúc động, kể lại.
Qua lời ông, chúng tôi có thể cảm nhận được hào khí năm nào vẫn còn nguyên nơi ông – một vị anh hùng quân đội mà mỗi vết thương trên người ông đều ghi dấu một trận chiến đấu oanh liệt, từ Khe Sanh, Trị Thiên khói lửa đến Đại thắng mùa xuân. Sau đây, báo Giáo dục Việt Nam xin gửi tới bạn đọc toàn bộ lời kể của Trung tướng Phạm Xuân Thệ về tháng 4 lịch sử năm xưa trong đó có những chi tiết lịch sử đặc biệt lần đầu tiên được ông kể:
Qua lời ông, chúng tôi có thể cảm nhận được hào khí năm nào vẫn còn nguyên nơi ông – một vị anh hùng quân đội mà mỗi vết thương trên người ông đều ghi dấu một trận chiến đấu oanh liệt, từ Khe Sanh, Trị Thiên khói lửa đến Đại thắng mùa xuân. Sau đây, báo Giáo dục Việt Nam xin gửi tới bạn đọc toàn bộ lời kể của Trung tướng Phạm Xuân Thệ về tháng 4 lịch sử năm xưa trong đó có những chi tiết lịch sử đặc biệt lần đầu tiên được ông kể:
Tổng biên tập báo Giáo dục Việt Nam Nguyễn Tiến Bình chụp ảnh lưu niệm với Trung tướng Phạm Xuân Thệ |
“Thời kỳ đó tôi là trung đoàn phó của
Trung đoàn 66 thuộc sư đoàn 304 của quân đoàn 2. Năm 1974, trung đoàn 66
của tôi chiến đấu trên mặt trận Quảng Đà đánh chiếm quận địa Thượng Đức
và giải phóng được quận địa này. Đầu năm 1975, chiến dịch Tây Nguyên mở
màn. Xuân 1975, thắng lợi xong thì Bộ chính trị và Bộ Tổng tư lệnh
quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Đến 29/3/1975 đơn vị tôi lại
vào đánh chiếm sân bay Đà Nẵng và giải phóng TP. Đà Nẵng.
Ngày 6/4/1975, toàn bộ binh đoàn duyên hải (quân đoàn 2, Tư lệnh là tướng Nguyễn Hữu An) đã bắt đầu hành quân từ Đà Nẵng vào tiếp tục chiến đấu để giải phóng các tỉnh còn lại ở miền Trung. Riêng sư đoàn 304 của tôi đi cùng quân đoàn. Đến 10/4/1975, chúng tôi được lệnh hành quân vào phía Nam thực hành tiến công hành tiến. Lúc đó tất cả các đơn vị khác của quân đoàn 2 đi theo đường Tây Trường Sơn đã vào trong miền Nam hết rồi. Còn lại của quân đoàn 2 là trung đoàn tôi với lực lượng của quân khu 5 quân khu Trị Thiên đảm nhiệm tiến công chiến dịch Huế - Đà Nẵng.
Ngày 6/4/1975, toàn bộ binh đoàn duyên hải (quân đoàn 2, Tư lệnh là tướng Nguyễn Hữu An) đã bắt đầu hành quân từ Đà Nẵng vào tiếp tục chiến đấu để giải phóng các tỉnh còn lại ở miền Trung. Riêng sư đoàn 304 của tôi đi cùng quân đoàn. Đến 10/4/1975, chúng tôi được lệnh hành quân vào phía Nam thực hành tiến công hành tiến. Lúc đó tất cả các đơn vị khác của quân đoàn 2 đi theo đường Tây Trường Sơn đã vào trong miền Nam hết rồi. Còn lại của quân đoàn 2 là trung đoàn tôi với lực lượng của quân khu 5 quân khu Trị Thiên đảm nhiệm tiến công chiến dịch Huế - Đà Nẵng.
BẤM VÀO ĐÂY XEM CHÙM ẢNH 2 CHIẾC XE TĂNG ĐẦU TIÊN HÚC ĐỔ CỔNG DINH ĐỘC LẬP CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (KỲ 1)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P2)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P3)
HÌNH ẢNH "KHÔNG THỂ QUÊN" VỀ ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ VÀO THỜI KHẮC TRƯA 30/4/1975
Trung tướng Phạm Xuân Thệ cùng ban chỉ huy trung đoàn 66 (Ảnh tư liệu) |
Sau khi giải phóng TX. Hàm Tân, đêm 21/4/1975 nhận nhiệm vụ thì đến ngày 22/4/1975 nổ súng chiến đấu giải phóng được TX. Hàm Tân làm chủ được sân bay… Đến sáng hôm sau thì giải phóng được toàn bộ tỉnh Bình Tuy. Rạng sáng ngày 23/4, chúng tôi lại tiếp tục hành quân vào. Đến chiều 24/4, khoảng 3 - 4h, chúng tôi tập kết ở 1 đồn điền cao su (đồn điền ông Quế) cách TP. Sài Gòn khoảng 60km. Lúc này chúng tôi mới biết mình được tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn.
Ngày 24/4 chúng tôi làm nhiệm vụ trinh sát. Ngày 25/4, trinh sát và chuẩn bị lực lượng xong thì 17h ngày 26/4, chiến dịch Hồ Chí Minh nổ súng bắt đầu trên mặt trận hướng Đông. Hướng Đông gồm quân đoàn 2. Sư đoàn 304( gồm 2 trung đoàn 24 và trung đoàn 9 đảm nhiệm đánh căn cứ Nước Trong và tổng kho Long Bình) sư đoàn 3, sư đoàn 35 (đánh Bà Rịa Vũng tàu và sau đó vượt Cát Lái đánh vào quận Nhà Bè) còn trung đoàn 66 "bị" quân đoàn để lại làm lực lượng dự bị vừa cho quân đoàn, vừa cho sư đoàn.
Khi nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 2 thành lập một binh đoàn thọc sâu, trung đoàn 66 cùng các đơn vị tiến đánh căn cứ Nước Trong và tổng kho Long Bình. Khi các trung đoàn 9, trung đoàn 24 đánh xong trận Nước Trong, một phần tổng kho Long Bình thì cùng trung đoàn 66 tiến thẳng vào nội đô TP. Sài Gòn. Đích cuối cùng là Đài phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân quân đội Sài Gòn và Dinh Độc lập. Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 gồm trung đoàn 66, Lữ đoàn xe tăng 203, pháo binh, công binh, đặc công và các binh chủng phục vụ chuẩn bị tiến đánh vào Sài Gòn.
Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn giải Dương Văn Minh ra đài phát thanh |
Chiều 27/4/1975, chúng tôi đánh chiếm
căn cứ Nước Trong. Đến trưa hôm sau, quân ta hoàn toàn làm chủ căn cứ
Nước Trong. Đây là trận đánh quan trọng góp phần đưa các binh đoàn của
ta triệt tiêu sinh lực địch, áp sát Sài Gòn.
Bắt đầu 17h ngày 29/4 thì xuất phát, đến 21h chúng tôi vượt qua cầu Sông Buông, khi đó địch phá hỏng nên chúng phải khắc phục lại cho đến đến 24h mới đến được cầu Xa Lộ, vượt qua đầu cầu Xa Lộ đến Thủ Đức cũng đã 4h sáng.
Tuy nhiên, lực lượng đi đầu vào đầu cầu Sài Gòn bị địch chống cự rất quyết liệt. Đồng chí Ngô Văn Nhỡ - Đại úy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng của Lữ đoàn 203 đã hy sinh ngay trên tháp pháo. Tuy nhiên, sau đó chúng tôi cũng đã bắn hạ được 4 – 5 chiếc xe tăng trên cầu Sài Gòn và 3 tàu chiến của địch. Thế trận giằng co, đến 8h sáng thì chúng tôi mới giải quyết xong cứ điểm này. Thông cầu Sài Gòn, chúng tôi thọc thẳng vào nội đô thành phố. Khi vượt qua cầu Thị Nghè thì có dân chỉ đường cho. Tại đây quân địch chống cự ít nhiều nhưng không đáng kể.
Khi đến cổng Dinh Độc Lập, xe tăng thứ
nhất do anh Bùi Quang Thận chỉ huy húc vào cánh cổng bên trái của cổng
chính Dinh Độc Lập và mắc kẹt vào đó. Xe tăng thứ hai do anh Lê Đăng
Toàn chỉ huy đâm bật tung cánh cổng chính tiến vào sân...
Nội các Dương Văn Minh ở thời điểm 30/4/1975 (Ảnh tư liệu) |
Chiếc xe Jeep của chúng tôi theo xe anh Toàn đi vào. Vừa đặt chân đến tiền sảnh tầng 1 của Dinh Độc Lập, xe dừng lại. Chúng tôi bước xuống thảm cỏ rồi tiến nhanh vào Dinh Độc Lập để cắm cờ. Lên hết cầu thang tầng 1, chúng tôi gặp một người cao to, mặc áo cộc tay. Đó là ông Nguyễn Hữu Hạnh, ông ta nói: "Tôi là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá cho Tổng thống Dương Văn Minh. Toàn bộ nội các của Tổng thống Dương Văn Minh đang ngồi trong phòng họp, mời cấp chỉ huy vào làm việc".
BẤM VÀO ĐÂY XEM CHÙM ẢNH 2 CHIẾC XE TĂNG ĐẦU TIÊN HÚC ĐỔ CỔNG DINH ĐỘC LẬP CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (KỲ 1)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P2)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P3)
HÌNH ẢNH "KHÔNG THỂ QUÊN" VỀ ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ VÀO THỜI KHẮC TRƯA 30/4/1975
Ông Nguyễn Hữu Hạnh dẫn chúng tôi đi khoảng hơn 10m, đến một cửa phòng lớn, ông Hạnh giới thiệu đây là Tổng thống Dương Văn Minh. Đến lúc này tôi mới biết ông Dương Văn Minh, trước đó chỉ nghe trên đài nói là ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống nguỵ quyền Sài Gòn, nhưng chưa hề biết mặt mũi ông Minh như thế nào.
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P2)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P3)
HÌNH ẢNH "KHÔNG THỂ QUÊN" VỀ ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ VÀO THỜI KHẮC TRƯA 30/4/1975
Ông Nguyễn Hữu Hạnh dẫn chúng tôi đi khoảng hơn 10m, đến một cửa phòng lớn, ông Hạnh giới thiệu đây là Tổng thống Dương Văn Minh. Đến lúc này tôi mới biết ông Dương Văn Minh, trước đó chỉ nghe trên đài nói là ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống nguỵ quyền Sài Gòn, nhưng chưa hề biết mặt mũi ông Minh như thế nào.
Khi vào bên trong, ông Hạnh giới thiệu Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Tổng thống Dương Văn Minh nói: "Chúng tôi đã biết quân giải phóng tiến quân vào nội đô và đang chờ quân giải phóng vào để bàn giao". Ngay lập tức, tôi trả lời: "Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, không có bàn giao gì cả".
Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh (Ảnh tư liệu) |
Khi đó quân giải phóng đã chiếm được
Sài Gòn, những tiếng súng nổ ăn mừng khắp xung quanh Dinh Độc lập, khiến
cho nội các của Dương Văn Minh lo sợ. Ông Minh nhất quyết không ra Đài
phát thanh để đọc lời đầu hàng. 5 phút rồi 10 phút trôi qua, tiếng súng
vẫn nổ ra không ngớt. Tay phải tôi cầm một khẩu súng ngắn. Mặc dù trong
phòng có điều hòa nhưng mồ hôi trên trán ông Minh vẫn rịn ra. Không khí
căng thẳng.
Khoảng 30 phút sau khi thuyết phục
Dương Văn Minh miễn cưỡng đồng ý ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng.
Khi đó Dương Văn Minh nói: “Ra đài phát thanh sợ không đảm bảo an toàn”. Tuy nhiên, chúng tôi nhất quyết buộc Dương Văn Minh phải ra Đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Tôi nói: "Chúng tôi đã làm chủ Sài Gòn và sẽ đảm bảo an toàn cho ông...".
Rồi chính Dương Văn Minh lên xe Jeep đưa đường đưa ra Đài phát thanh.
Tôi và Dương Văn Minh ngồi cùng một ghế ở bên ghế phụ, bên cạnh lái
chính. Dương Văn Minh ngồi trong, tôi ngồi ngoài. Khi đó trên xe còn có
cả Vũ Văn Mẫu.
Tay tôi vẫn cầm khẩu súng ngắn.
Tay tôi vẫn cầm khẩu súng ngắn.
Lúc này quân Giải phóng ở đó rất nhiều
rồi: xe tăng, xe ô tô, bộ đội ta vào rất đông nên chúng tôi đi phải
lách vì từ Dinh độc lập ra Đài phát thanh mất khoảng 20 phút.
Trên đường đi, thấy xe tăng, pháo binh của ta hai bên đường rất đông thì tôi mới hỏi Dương Văn Minh: “Thấy sức mạnh quân giải phóng như thế nào?”. Dương Văn Minh trả lời: “Chúng tôi biết khi quân giả phóng tiến công vào là chúng tôi sẽ thất bại”. Tôi hỏi tiếp: “Tại
sao các ông biết thất bại mà không tuyên bố đầu hàng trước để chúng tôi
phải đánh vào đến và bắt các ông thì các ông mới tuyên bố đầu hàng?”. Dương Văn Minh nói: “Khi
các ông chưa tiến công vào mà bên dưới tôi còn rất nhiều người chưa
đồng tình với tôi mà nếu tôi tuyên bố đầu hàng trước thì người ta khử
tôi mất”. "Điều đó chứng tỏ Dưỡng Văn Minh rất sợ hãi", tướng Thệ nhớ lại.
Dương Văn Minh tại đài phát thanh ngày 30/4 (Ảnh tư liệu) |
Sau khi đưa Dương Văn Minh đến Đài
phát thanh, tôi đã soạn thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh.
Khi đang soạn thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh thì có một
ông đến nói: “Anh là ai?” Tôi nói: “Tôi là Phạm Xuân Thệ - đoàn phó đoàn Đông Sơn”.
Sau đó, tôi mới biết đó là đồng chí Bùi Tùng – chính ủy lữ đoàn 203.
Rồi chúng tôi cùng soạn thảo để cho Dương Văn Minh đọc lời tuyên bố đầu
hàng. Tuy nhiên khi tôi đưa cho Dương Văn Minh đọc thì Dương Văn Minh
không đọc được và nói: “Chữ viết do cấp chỉ huy viết xấu tôi không đọc được”. Thế là tôi phải đọc lại cho Dương Văn Minh viết lại.
Sau đó, chúng tôi lại đưa Dương văn
Minh quay trở về Dinh độc lập. Tại đây, gặp bộ tư lệnh quân đoàn, có một
đồng chí chỉ huy quát tôi: “Anh là ai? Ở đâu?Anh ở đơn vị nào? Ai
cho phép anh tự ý đưa Tổng thống Dương Văn Minh đến Đài phát thanh? Nếu
anh làm sai tôi cách chức anh, bỏ tù anh…”. Tôi tức cũng quát lại (vì không biết ông ta là ai, hồi đó không phải lính nào cũng biết mặt các chỉ huy cấp trên): “Tôi đưa Tổng thống Dương Văn Minh đi đọc tuyên bố đầu hàng, anh làm gì mà nhắng lên thế”. Lúc đó tôi nhìn thấy mặt ông ta rất tức giận. Sau mới biết đó là Phó chính ủy quân đoàn 2 Công Trang.
Lúc đó, sư trưởng trực tiếp của tôi là ông Nguyễn Ân (Sư trưởng sư đoàn 304) nói: “Nó là thằng Thệ, E phó E66. Sai đâu để sau. Cho nó về chỉ huy đơn vị”. Thế là tôi chạy một mạch ra chiếc xe Jeep, về đơn vị đang đóng quân ở cảng Sài Gòn. Vậy là miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất. Lúc đó tôi vừa vui vừa buồn. Vui vì sau bao nhiêu năm, đất nước đã được giải phóng, độc lập hoàn toàn. Nhưng tôi cũng buồn vì trong trận cuối cùng, có những đồng đội đã hy sinh khi chỉ còn cách giờ phút chiến thắng vài giờ đồng hồ.
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng (Ảnh tư liệu) |
Lúc đó, sư trưởng trực tiếp của tôi là ông Nguyễn Ân (Sư trưởng sư đoàn 304) nói: “Nó là thằng Thệ, E phó E66. Sai đâu để sau. Cho nó về chỉ huy đơn vị”. Thế là tôi chạy một mạch ra chiếc xe Jeep, về đơn vị đang đóng quân ở cảng Sài Gòn. Vậy là miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất. Lúc đó tôi vừa vui vừa buồn. Vui vì sau bao nhiêu năm, đất nước đã được giải phóng, độc lập hoàn toàn. Nhưng tôi cũng buồn vì trong trận cuối cùng, có những đồng đội đã hy sinh khi chỉ còn cách giờ phút chiến thắng vài giờ đồng hồ.
Khi nhắc đến những hy sinh của
đồng đội, ông ngồi lặng, đi đôi mắt rưng rưng, vết sẹo dài trên tay ông
giật giật. Chúng tôi biết ông đang xúc động mạnh. Qua nhiều lần tiếp
xúc và qua những tâm sự của ông, chúng tôi biết trong trái tim người anh
hùng này vẫn đau đáu một nỗi niềm: “Mình chưa hoàn thành trách nhiệm
với bạn bè, đồng đội đang nằm lại nơi chiến trường”...
BẤM VÀO ĐÂY XEM CHÙM ẢNH 2 CHIẾC XE TĂNG ĐẦU TIÊN HÚC ĐỔ CỔNG DINH ĐỘC LẬP CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (KỲ 1)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P2)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P3)
HÌNH ẢNH "KHÔNG THỂ QUÊN" VỀ ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ VÀO THỜI KHẮC TRƯA 30/4/1975
BẤM VÀO ĐÂY XEM CHÙM ẢNH 2 CHIẾC XE TĂNG ĐẦU TIÊN HÚC ĐỔ CỔNG DINH ĐỘC LẬP CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (KỲ 1)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P2)
CHÙM ẢNH ĐỘC VỀ TP SÀI GÒN TRƯỚC 30/4/1975 (P3)
HÌNH ẢNH "KHÔNG THỂ QUÊN" VỀ ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ VÀO THỜI KHẮC TRƯA 30/4/1975
Những sự kiện nổi bật
|
|
Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Tiet-lo-chan-dong-cua-nguoi-bat-giu-tuong-Duong-Van-Minh-post55952.gd
Trở Về Trang Gốc Lịch Sử Việt Nam
Trở Về Trang Gốc Vietlist.us
Kẻ bật đèn xanh cho bọn tướng lãnh hạ bệ Ông Ngô Đình Diệm là Henry Cabot Lodge. Ông ta trở thành "công dân danh dự" của Việt Nam, mặc áo gấm về làng của y là nước Mỹ, y tuyên bố đời y rất ân hận, vì đã không cứu được ông Diệm Có lẽ suốt cuộc đời còn lại của y bị dầy vò về cái chết của ông Diệm, y thật tâm sám hối, nên những năm cuối đời, trước khi chết ông ta viết hồi ký nói lên sự hối tiếc về vụ này.
Riêng bọn phản tướng, chúng là lũ đắc thời, nhẩy múa trên xác chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm không được mấy ngày, rồi chúng nó lại quay ra cắn lẫn nhau. Dương Văn Minh phải được xem là quốc tặc, hắn không phải chỉ làm giặc một lần, mà làm giặc tới hai lần. Không ai gọi giặc bằng ông, vì thế phải gọi hắn là thằng giặc.
Dương văn Minh, tên phản tướng, tay sai việt-gian cộng-sản
Trong số bọn tướng tá nhúng tay vào máu Ngô Đình Diệm thì tên đầu sỏ Dương Văn Minh nặng tội nhất. Đây là những lý do giết người của tên sát nhân:
Dương Văn Minh là một tên dốt nát chính trị. Hắn còn là một tên cơ hội chủ nghĩa, lợi dụng biến cố đạo Phật và Mỹ muốn hạ bệ ông Diệm, nên hắn nuôi tham vọng "phải hạ Diệm, để ngồi vào cái chỗ của Diệm". Bọn Mỹ bật đèn xanh cho hắn làm, có thể bọn Mỹ chỉ muốn thay thế ông Diệm mà không muốn giết ông Diệm. Minh phải giết Diệm, đặt bọn Mỹ trước một việc đã rồi. Để Diệm sống vô cùng nguy hiểm vì một số lớn tướng tá vẫn trung thành với ông Diệm, nên phải giết ông Diệm, để tướng tá không còn chủ mà trung thành. Dù để cho ông Diệm lưu vong thì quyền lực của ông Diệm vẫn còn đó, có ngày ông Diệm sẽ trở lại thì Minh chết vì tội phản nghịch theo cái quy luật "được làm vua thua là giặc". Hai là ông Diệm có quần chúng. Cái đám đông theo nhà chùa vì "pháp nạn" chỉ là giả tạo, không có nhiều, hoặc theo vì xúc động nhất thời, sẽ tan dần khi "đấu tranh" của nhà chùa lộ "chính nghĩa". Đúng như anh Đỗ Thọ đã viết:
"Tôi biết rằng, số lớn dân miền Nam đang còn ngưỡng mộ ông Ngô Đình Diệm tuyệt đối".
Thế nên Minh phải giết ông Diệm, theo cái cách Tào Tháo giết Lữ Bá Xa: "Thà ta phụ người chứ chẳng để người phụ ta". Nhưng mà mưu kế của hắn không đáng làm học trò của Tào Tháo. Giả như hắn giết ông Diệm xong, hắn mượn luôn cái đầu của Đại úy Nhung như Tào Tháo mượn cái đầu của Vương Cấu để yên lòng quân dân, thì có thể hắn có cơ hội tạo dựng một vương triều mang tên hắn. Chết nỗi hắn u mê ám chướng nên phao tin là ông Diệm tự tử. Chuyện này con nít cũng phải bịt mũi mà cười hắn, vì hai ông Diệm Nhu là người Công Giáo tự tử làm sao được.
Quyền hành đã khiến lòng dạ của Minh càng trở nên độc ác, hắn cúi đầu khuất phục sư Trí Quang. Nhà sư hổ mang này đã xử dụng hắn như xử dụng một con chó săn, thúc đẩy hắn thiết lập tòa án phát-xít để lấy thêm đầu của Cần Lao, nhằm vào những người theo Thiên Chúa Giáo. Bọn Cần Lao gộc ăn lộc nhà Ngô phi Thiên Chúa Giáo thì sống nhởn nhơ. Thiếu chính nghĩa và không lý luật, nên chúng chẳng lấy được đầu ai, ngoại trừ ông Phan Quang Đông và ông Ngô Đình Cẩn. Bản án này chửi cha công lý (chúng có công lý đâu mà án với tích). Mọi việc chỉ chứng tỏ rằng bọn chúng độc ác, xa hẳn cái đức hiếu sinh của Phật tổ. Vào lúc Việt Nam Cộng Hòa hấp hối, Dương Văn Minh và bè lũ tưởng rằng thời cơ đã đến, chúng nhẩy ra nắm chính quyền, ép buộc cụ Hương giao chức tổng thống cho hắn, Trí Quang làm quân sư, làm sứ giả hòa bình thương lượng với quân miền Bắc; giặc cộng coi bè lũ ấy như một lũ chó hoang, bắt phải đầu hàng vô điều kiện, không thương lượng gì cả. Thất bại, Minh và Trí Quang đã vặc nhau chí chát về việc này. (Tư liệu của tờ "Quân Đội Nhân Dân" đăng nguyên cuốn băng thu cuộc nói chuyện cuối cùng giữa Minh và Trí Quang vào đầu năm 1976, tôi đọc được lúc ở trong trại tù Việt cộng).
Sau này, khi hắn được sang Pháp để sống nốt chuỗi ngày ô nhục. Hắn trơ mặt nộp đơn xin trở lại quân đội viễn chinh Pháp, để được hưởng hưu bổng của một Trung úy đánh thuê. Ôi cái liêm sĩ, cái dũng khí của một đại tướng, một quốc trưởng và một đại tướng tổng thống ba ngày ! Giá hắn chết sớm hơn, thì bớt nhục cho hắn. Hắn phải chịu quả báo mà sống, để làm tấm bia cho người Việt ném đồ dơ vào vì cái tội giết người công chính.
Người Việt đáng lẽ phải lập ra một Ủy ban "Tháng Tư Đen" để hỏi tội tên phản quốc Dương Văn Minh và bè lũ tẩu tướng đã bỏ nước cho giặc Nhưng thôi, hãy để cho chúng nó sống trong ô nhục và nguyền rủa của quốc dân. Cái chết danh dự gấp ngàn lần cái chết của thể xác. Phải chăng đây cũng là sự quả báo vì Minh và bè lũ đã vấy máu Ngô Đình Diệm.
Trí Quang:
Thích Trí Quang, tên việt-cộng đội lốt nhà sư
Tham đi liền với si, Trí Quang đã ép các vị tu hành chân chính trong đạo Phật về phía ông ta, và vơ bừa cái khối quần chúng đông đảo vốn chỉ có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và "cầu Trời khấn Phật" vái tứ phương trở thành "Phật tử", nâng dân chúng đạo phật lên 80 phần trăm… tưởng tượng, hầu cho ông ta thi hành quỉ kế. Ông ta cũng không ngại ngùng kết đồng minh với cộng sản để loại trừ bớt một kẻ thù khác là Thiên Chúa giáo.
Trí Quang và các sư trong nhóm không những đắc tội với Tổ Quốc, mà còn đắc tội với Phật pháp, làm cho đạo Phật suy yếu. Dù sao ông ta cũng là nguyên cớ đưa đến cái chết cho người công chính Ngô Đình Diệm.
Thích Trí Quang, tên việt-cộng đội lốt nhà sư
Trong "VNMLQHT" Đỗ Mậu nhiều lần viết rằng Cần Lao Công Giáo muốn phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm, Cần Lao Công Giáo "bồng" cụ vào Đệ nhị Cộng Hòa. Những lời hàm hồ như thế cần được xem xét lại.
Trước nhất, tinh thần Ngô Đình Diệm là tinh thần ái quốc, hết lòng chăm lo đời sống nhân dân. Lý tưởng ấy, làm thế nào mà mất được, để nay phải phục hồi.
Người ta mến thương Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nghĩ lại cái thủa an bình trong chín năm lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, rồi nhận diện thực tế qua cái nhìn, cái thấy, cái nghe kể từ ngày tổng Thống Ngô Đình Diệm nằm xuống. Trò dâu bể do bọn người phản loạn gây ra từ 1-11-1963 đem đến sự khốn cùng cho nhân dân miền Nam, khiến người ta phải thốt lên: "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Từ chỗ đau đớn, thấy cần phải đốt lên ngọn đuốc làm sáng tỏ cái đức hy sinh vì nước vì dân của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để làm tấm gương cho xã hội soi chung giữa cảnh đời nhố nhăng, nhiều con chó muốn nhảy lên bàn độc.
Vì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bọn người gieo gió thì phải gặp bão, lẽ nhân quả này đã được một Phật tử tốt nói thay cho mọi người, anh Đỗ Thọ đã viết:
"Phật giáo nổi dậy chống chính phủ. Hội đồng Tướng lãnh lợi dụng Phật giáo với đại sứ Henry Cabot Lodge của người Mỹ đã kết thúc cuộc đời của Tổng Diệm. Tôi là người Phật giáo dù không thấu triệt đạo lý, nhưng thầm nghĩ rằng cái nhân quả vẫn còn đó".
Làm điều tàn ác, bất công thì phải đền bồi. Người chết không thể đền bồi thì phải hoàn trả công lý, giải oan cho nạn nhân. Đỗ Mậu và phe nhóm đã không làm điều đó, còn viết sách quật mồ nạn nhân lên mà chửi đến ba đời. Cái nghiệp giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là của "các ông" và phe nhóm; vì đại đa số dân miền Nam vẫn ngưỡng mộ tổng Thống Ngô Đình Diệm như lời anh Đỗ Thọ vậy. Dân Việt Nam có tình có nghĩa, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, không phải như bọn người ăn cháo đá bát, đái vào bát, đập bể bát, như những kẻ lừa thầy phản bạn.
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chết như một chiến sĩ ngoài mặt trận khi ném vào mặt Henry Cabot Lodge lời này:
"Tôi không bỏ được dân tộc tôi"
Và khi cùng đường, cái chết kề trong gang tấc, vị Linh mục nhà thờ Cha Tam đề nghị ngài nên lẩn tránh, Ngài đã khẳng khái như một chiến sĩ can đảm từ chối:
"Xin cảm ơn Cha, tôi không có tội gì với dân và với Quốc Gia này, tôi thấy không có lý do gì phải lẩn tránh".
"Tôi nghĩ rằng mai hậu công lao của Tổng Thống Ngô Đình Diệm to tát, sẽ được ca ngợi như Tổng thống Lincoln của người Hoa Kỳ bị ám sát năm 1865".
Phan Thiết
Nguồn; http://vietlist.us/SUB_VietHistory/DuongVanMinh.shtml
Thực hiện di nguyện của cha muốn được chôn cất bên cạnh phần mộ tổ tiên, Nguyễn Hữu Hạnh đã thương lượng với Mặt trận Giải phóng xã Phú Phong xin được an táng cha nơi vùng đất thuộc quyền kiểm soát của cách mạng. Phía cách mạng đồng ý và hai bên thống nhất thực hiện lệnh ngừng bắn trong 3 ngày. Mọi việc diễn ra suôn sẻ và Nguyễn Hữu Hạnh trở thành mối quan tâm số một của Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam.
Sự quan tâm đặc biệt
Nguyễn Hữu Hạnh, sinh năm 1924, tại ấp Phú Thuận, xã Phú Phong, huyện Châu Thành, Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình trí thức. Ông nội ông là một nhà nho, kiến thức uyên thâm, nổi tiếng khắp vùng về sự am hiểu lễ giáo và đối nhân xử thế.
Sinh thời, giữ thế kẻ sĩ của người có học, ông từng không chịu tham gia làm hương chức hội tề với quan niệm “Làm dân tốt hơn làm làng”. Ông thường giảng dạy cho con cháu về đạo của người quân tử, về nhân - nghĩa - lễ - trí - tín, sống tốt đẹp và có ích cho đời.
Nguyễn Hữu Hạnh là người có nhiều ảnh hưởng từ ông nội, được ông dạy nhiều điều hay lẽ phải, về tinh thần yêu quê hương đất nước, nhất là phải giữ được lòng tự trọng của người có học.
Sau khi đậu tú tài Pháp, năm 1946, Nguyễn Hữu Hạnh gia nhập Quân đội Liên hiệp Pháp. Theo học tại trường võ bị Vũng Tàu, ra trường với cấp bậc chuẩn úy, ông được điều đi phục vụ tại một đơn vị bộ binh giữ chức vụ Trung đội trưởng dưới quyền Thiếu úy Đại đội trưởng Dương Văn Minh. Có thể nói đây là sự khởi đầu của mối quan hệ thân tình giữa ông với Dương Văn Minh sau này.
Năm 1952, Nguyễn Hữu Hạnh chuyển sang Quân đội Quốc gia Việt Nam cộng hòa, được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tham mưu trưởng Phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đến năm 1954, ông được chỉ định làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 30 Việt Nam biệt lập.
Nguyễn Hữu Hạnh từng được cử đi đào tạo bài bản tại các trường quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, như khóa đào tạo chỉ huy tham mưu cao cấp, khóa dạy tình báo, chiến thuật, chiến lược và phản gián tại Mỹ.
Năm 1955, sau khi bước lên chiếc ghế Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Ngô Đình Diệm mở nhiều chiến dịch tiêu diệt các giáo phái. Nguyễn Hữu Hạnh được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Chiến dịch Hoàng Diệu (tiêu diệt giáo phái Hòa Hảo) với quân hàm thiếu tá, rồi chiến dịch Thoại Ngọc Hầu (tiêu diệt Cao Đài) với quân hàm trung tá, dưới quyền của đại tá Tư lệnh Dương Văn Minh. Sau đó ông liên tục được giao nhiều vị trí quan trọng khác.
Tháng 10/1963, khi đang là đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 Vùng 4 chiến thuật, dưới quyền thiếu tướng Huỳnh Văn Cao thì cha ông là Nguyễn Hữu Điệt qua đời. Trước khi nhắm mắt, cha Nguyễn Hữu Hạnh trăn trối với con trai ước nguyện của mình là được chôn cất ở quê hương, bên cạnh phần mộ của tổ tiên.
Đây là điều rất khó khăn đối với Nguyễn Hữu Hạnh vì phần mộ tổ tiên hiện đang nằm tại xã Phú Phong, huyện Châu Thành, Mỹ Tho, là vùng do Mặt trận Giải phóng kiểm soát. Với quyền lực của mình, Nguyễn Hữu Hạnh có thể chọn một vùng đất khác thuộc quyền kiểm soát của quân đội Việt Nam Cộng hòa, nhưng đây là ước nguyện cuối cùng của cha, Nguyễn Hữu Hạnh không thể không thực hiện.
Qua nhiều lần suy tính, cuối cùng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định liên hệ
với ông Chín Quá - một người trong họ hàng mà Nguyễn Hữu Hạnh biết hiện
đang là người của phía cách mạng. Ông nhờ Chín Quá đến xã Phú Phong xin
phép chính quyền cách mạng cho ông được thực hiện ước nguyện của cha
mình, yêu cầu thế nào ông cũng chấp nhận? Và chính quyền xã Phú Phong
đồng ý với điều kiện hai bên phải ngừng bắn trong 3 ngày. Không thể tự
mình quyết định, Nguyễn Hữu Hạnh liền thảo công văn gửi lên thiếu tướng
Huỳnh Văn Cao - Tư lệnh Quân đoàn 4 và được Huỳnh Văn Cao phê duyệt.
Đám tang diễn ra suôn sẻ, an toàn, hai bên tuân thủ nghiêm ngặt lệnh ngừng bắn. Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ý cảm ơn Mặt trận Giải phóng xã Phú Phong đã tạo cơ hội thuận lợi cho ông. Và 3 ngày sau ông lại bày tỏ nguyện vọng được đến thăm mộ cha bằng trực thăng. Phía cách mạng lại đồng ý với điều kiện Nguyễn Hữu Hạnh phải đi một mình, không có chiếc trực thăng nào đi theo hộ tống. Nguyễn Hữu Hạnh đã thực hiện đúng giao ước và trở về Cần Thơ một cách an toàn.
Sự việc trên sau đó được báo về Trung ương Cục miền Nam và Nguyễn Hữu Hạnh trở thành mối quan tâm số một của Ban Binh vận. Nhiệm vụ tiếp cận, vận động, bồi dưỡng Nguyễn Hữu Hạnh được đồng chí Lê Quốc Lương - Đội trưởng Đội Vận động sĩ quan địch giao cho đồng chí Nguyễn Tấn Thành. Sở dĩ Ban Binh vận chọn đồng chí Nguyễn Tấn Thành vì ông là bác họ của Nguyễn Hữu Hạnh.
Lúc nhỏ hai người rất thân mật, Nguyễn Tấn Thành là người kèm cặp Nguyễn Hữu Hạnh trong việc học hành và thường đàm đạo với ông nội Nguyễn Hữu Hạnh về nho học. Hơn nữa, Nguyễn Tấn Thành chỉ hơn Nguyễn Hữu Hạnh 12 tuổi, hai người cùng thế hệ nên dễ đồng cảm với nhau. Một chi tiết nữa là cả hai lần bị địch bắt, đồng chí Nguyễn Tấn Thành đều được Nguyễn Hữu Hạnh tìm cách cứu thoát. Riêng lần đầu vào năm 1956, Nguyễn Hữu Hạnh đã dùng tư cách Tham mưu trưởng chiến dịch Thoại Ngọc Hầu để yêu cầu bên cảnh sát giao “tên cộng sản” Nguyễn Tấn Thành cho ông để “tra khảo”. Ông che giấu Nguyễn Tấn Thành tại nhà riêng, tìm cách hợp thức hóa giấy tờ và trả tự do sau đó 1 tháng.
Từ mối quan hệ tốt đẹp đó, cộng với sự hỗ trợ đắc lực từ các đồng chí trong Ban Binh vận, Nguyễn Tấn Thành hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ông đã tác động làm thay đổi suy nghĩ về tư tưởng đối với Nguyễn Hữu Hạnh, hướng Nguyễn Hữu Hạnh về phía cách mạng. Nguyễn Hữu Hạnh được mang mật danh là S7 hoặc Sao Mai. Hai người giữ liên lạc với nhau đến tận ngày giải phóng mà không hề bị lộ.
Những đóng góp bước đầu
Nguyễn Hữu Hạnh là người có cảm tình với những người cộng sản mặc dù ông là sĩ quan cao cấp của Việt Nam cộng hòa. Ông quan niệm rằng, mỗi người tự chọn cho mình con đường đi riêng, nhưng trên hết là vì quyền lợi dân tộc, vì quê hương đất nước.
Và ông nhận thấy chính nghĩa đang thuộc về phía “bên kia”. Từ khi hợp tác với cách mạng, không những thực hiện những yêu cầu của Trung ương Cục miền Nam, ông còn tự giác ứng phó trong mọi tình huống, không để điều gì bất lợi xảy ra cho nhân dân, cho cách mạng. Nhờ sự tính toán chu đáo và linh hoạt, ông rất khéo léo trong hành động, không gây bất cứ sự thắc mắc, nghi ngờ nào.
Năm 1967, với tư cách là Phó Tư lệnh Sư đoàn 21 bộ binh tại Bạc Liêu, Nguyễn Hữu Hạnh ra lệnh cho binh sĩ: “Trong lúc hành quân, trực thăng võ trang phải thận trọng, khi nào dưới đất bắn lên thì mới bắn lại chứ không tự ý xả đạn lung tung”. Thiếu tướng Tư lệnh Nguyễn Văn Minh lúc đầu có ý nghi ngờ Nguyễn Hữu Hạnh nhưng không có bằng chứng, hơn nữa Nguyễn Văn Minh từng là cấp dưới của ông nên ít nhiều “nể mặt”, không thắc mắc gì thêm.
Năm 1968, Nguyễn Hữu Hạnh làm Tư lệnh biệt khu 44 (bao gồm Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường). Trong nhiều lần đối mặt với lực lượng cách mạng, Nguyễn Hữu Hạnh đều lệnh cho binh sĩ đánh ở thế giằng co mà không tiến chiếm mục tiêu. Khi quân giải phóng rút quân ông cũng ra lệnh rút quân về. Các cố vấn Mỹ mỉa mai gọi ông là “Tư lệnh thận trọng”, “Tư lệnh không bao giờ chiếm mục tiêu”.
Cũng năm 1968, một cán bộ cách mạng sử dụng tên giả là Huỳnh Xuân đưa vũ khí vào khu quản lý của quân đội Việt Nam cộng hòa. Sự việc bại lộ, Huỳnh Xuân bị bắt và đưa ra tòa. Nhận được yêu cầu của Ban Binh vận, Nguyễn Hữu Hạnh nhờ một luật sư thân tín bào chữa cho Huỳnh Xuân. Theo thỏa thuận, khi ra tòa, Huỳnh Xuân cứ giữ nguyên lời cung, đổ tội cho tên thiếu úy đã trốn thoát và làm một lá đơn kể lại đã có công tháp tùng bảo vệ cho đại tá Nguyễn Hữu Hạnh lúc ông còn là Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 Vùng 4 chiến thuật. Nguyễn Hữu Hạnh đã chứng thực vào lá đơn này và Huỳnh Xuân được trả tự do.
Năm 1969, Nguyễn Hữu Hạnh được phong quân hàm chuẩn tướng, Phó Tư lệnh Quân đoàn 4 dưới quyền tướng Nguyễn Viết Thanh. Đây là một thuận lợi cho cách mạng vì ở vị trí này Nguyễn Hữu Hạnh nắm trong tay Quân đoàn 4 có quyền sinh sát ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Quân đoàn 4 rất mạnh, có nhiệm vụ án ngữ miền Tây trong ý đồ chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu. Trong cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963, chính Nguyễn Hữu Hạnh đã ngầm ủng hộ tướng Dương Văn Minh bằng cách khuyên tướng Huỳnh Văn Cao, lúc đó là Tư lệnh Quân đoàn 4 án binh bất động, không đưa lực lượng Quân đoàn 4 về giải vây, giúp cho cuộc đảo chính của Dương Văn Minh thành công. Trường hợp Quân đoàn 4 kéo về Sài Gòn, tình thế cuộc đảo chính lúc ấy rất có khả năng sẽ chuyển hướng.
Bất ngờ nghỉ hưu non
Năm 1968, dưới sức ép của Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu phải chấp nhận cho tướng Dương Văn Minh về nước, kết thúc một thời gian dài sống lưu vong tại Thái Lan. Nguyễn Hữu Hạnh được Trung ương Cục miền Nam giao một nhiệm vụ quan trọng: tiếp cận và vận động Dương Văn Minh.
Tháng 8 năm 1962, đồng chí Mười Ty móc nối được với gia đình, tìm hiểu thái độ của Dương Văn Minh. Mọi việc được thuận lợi, Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình, Dương Văn Minh hứa sẽ tìm cách.
Ngày 1/ 1/ 1963, trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam cộng hòa. Trong thời gian làm Quốc trưởng, Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng: Ra lệnh hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược.
Từ chối yêu cầu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Namara và tướng Harkin để cho Mỹ ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng, vì làm như thế là “inhumain” (vô nhân đạo). Không trả lời đề nghị yêu cầu chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc) của đại sứ Cabot Lodge. Và theo lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập chính phủ liên hiệp.
Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý đồ của người Mỹ, cuối tháng 1/1964, Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cộng hòa cũng bằng một cuộc đảo chính. Mỹ chỉ thị cho chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh lên đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan, sau đó lại chuyển sang lưu vong ở Thái Lan, có sự giám sát của CIA.
Khi Dương Văn Minh được về nước, chấm dứt thời gian sống lưu vong, cuối năm 1970, theo chỉ đạo của Trung ương và Trung ương Cục miền Nam, Ban Binh vận Trung ương Cục tìm một người thay thế nhiệm vụ của đồng chí Mười Ty để tiếp tục tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Và người được chọn là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
Mọi việc đang trên đà tiến triển thuận lợi thì Nguyễn Hữu Hạnh đột ngột bị thuyên chuyển lên Tây Nguyên làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 2 dưới quyền tướng Ngô Du. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành phải lên xuống Tây Nguyên để tiếp xúc với Nguyễn Hữu Hạnh và thông báo nhiệm vụ khi cần thiết.
Bất ngờ, ngày 15 tháng 5 năm 1974, Nguyễn Hữu Hạnh nhận được quyết định về hưu do chính Nguyễn Văn Thiệu ký khi ông mới 48 tuổi. Lý do là Nguyễn Hữu Hạnh đã phục vụ trong quân đội quá thời gian quy định. Ý đồ sâu xa của Nguyễn Văn Thiệu là loại bỏ bớt những tướng tá ngả theo Dương Văn Minh.
-------------oo0oo---------------
Dương Văn Minh và bè lũ Tướng-Tá phản loạn
Phan ThiếtKẻ bật đèn xanh cho bọn tướng lãnh hạ bệ Ông Ngô Đình Diệm là Henry Cabot Lodge. Ông ta trở thành "công dân danh dự" của Việt Nam, mặc áo gấm về làng của y là nước Mỹ, y tuyên bố đời y rất ân hận, vì đã không cứu được ông Diệm Có lẽ suốt cuộc đời còn lại của y bị dầy vò về cái chết của ông Diệm, y thật tâm sám hối, nên những năm cuối đời, trước khi chết ông ta viết hồi ký nói lên sự hối tiếc về vụ này.
Riêng bọn phản tướng, chúng là lũ đắc thời, nhẩy múa trên xác chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm không được mấy ngày, rồi chúng nó lại quay ra cắn lẫn nhau. Dương Văn Minh phải được xem là quốc tặc, hắn không phải chỉ làm giặc một lần, mà làm giặc tới hai lần. Không ai gọi giặc bằng ông, vì thế phải gọi hắn là thằng giặc.
Dương văn Minh, tên phản tướng, tay sai việt-gian cộng-sản
Trong số bọn tướng tá nhúng tay vào máu Ngô Đình Diệm thì tên đầu sỏ Dương Văn Minh nặng tội nhất. Đây là những lý do giết người của tên sát nhân:
Dương Văn Minh là một tên dốt nát chính trị. Hắn còn là một tên cơ hội chủ nghĩa, lợi dụng biến cố đạo Phật và Mỹ muốn hạ bệ ông Diệm, nên hắn nuôi tham vọng "phải hạ Diệm, để ngồi vào cái chỗ của Diệm". Bọn Mỹ bật đèn xanh cho hắn làm, có thể bọn Mỹ chỉ muốn thay thế ông Diệm mà không muốn giết ông Diệm. Minh phải giết Diệm, đặt bọn Mỹ trước một việc đã rồi. Để Diệm sống vô cùng nguy hiểm vì một số lớn tướng tá vẫn trung thành với ông Diệm, nên phải giết ông Diệm, để tướng tá không còn chủ mà trung thành. Dù để cho ông Diệm lưu vong thì quyền lực của ông Diệm vẫn còn đó, có ngày ông Diệm sẽ trở lại thì Minh chết vì tội phản nghịch theo cái quy luật "được làm vua thua là giặc". Hai là ông Diệm có quần chúng. Cái đám đông theo nhà chùa vì "pháp nạn" chỉ là giả tạo, không có nhiều, hoặc theo vì xúc động nhất thời, sẽ tan dần khi "đấu tranh" của nhà chùa lộ "chính nghĩa". Đúng như anh Đỗ Thọ đã viết:
"Tôi biết rằng, số lớn dân miền Nam đang còn ngưỡng mộ ông Ngô Đình Diệm tuyệt đối".
Thế nên Minh phải giết ông Diệm, theo cái cách Tào Tháo giết Lữ Bá Xa: "Thà ta phụ người chứ chẳng để người phụ ta". Nhưng mà mưu kế của hắn không đáng làm học trò của Tào Tháo. Giả như hắn giết ông Diệm xong, hắn mượn luôn cái đầu của Đại úy Nhung như Tào Tháo mượn cái đầu của Vương Cấu để yên lòng quân dân, thì có thể hắn có cơ hội tạo dựng một vương triều mang tên hắn. Chết nỗi hắn u mê ám chướng nên phao tin là ông Diệm tự tử. Chuyện này con nít cũng phải bịt mũi mà cười hắn, vì hai ông Diệm Nhu là người Công Giáo tự tử làm sao được.
Quyền hành đã khiến lòng dạ của Minh càng trở nên độc ác, hắn cúi đầu khuất phục sư Trí Quang. Nhà sư hổ mang này đã xử dụng hắn như xử dụng một con chó săn, thúc đẩy hắn thiết lập tòa án phát-xít để lấy thêm đầu của Cần Lao, nhằm vào những người theo Thiên Chúa Giáo. Bọn Cần Lao gộc ăn lộc nhà Ngô phi Thiên Chúa Giáo thì sống nhởn nhơ. Thiếu chính nghĩa và không lý luật, nên chúng chẳng lấy được đầu ai, ngoại trừ ông Phan Quang Đông và ông Ngô Đình Cẩn. Bản án này chửi cha công lý (chúng có công lý đâu mà án với tích). Mọi việc chỉ chứng tỏ rằng bọn chúng độc ác, xa hẳn cái đức hiếu sinh của Phật tổ. Vào lúc Việt Nam Cộng Hòa hấp hối, Dương Văn Minh và bè lũ tưởng rằng thời cơ đã đến, chúng nhẩy ra nắm chính quyền, ép buộc cụ Hương giao chức tổng thống cho hắn, Trí Quang làm quân sư, làm sứ giả hòa bình thương lượng với quân miền Bắc; giặc cộng coi bè lũ ấy như một lũ chó hoang, bắt phải đầu hàng vô điều kiện, không thương lượng gì cả. Thất bại, Minh và Trí Quang đã vặc nhau chí chát về việc này. (Tư liệu của tờ "Quân Đội Nhân Dân" đăng nguyên cuốn băng thu cuộc nói chuyện cuối cùng giữa Minh và Trí Quang vào đầu năm 1976, tôi đọc được lúc ở trong trại tù Việt cộng).
Sau này, khi hắn được sang Pháp để sống nốt chuỗi ngày ô nhục. Hắn trơ mặt nộp đơn xin trở lại quân đội viễn chinh Pháp, để được hưởng hưu bổng của một Trung úy đánh thuê. Ôi cái liêm sĩ, cái dũng khí của một đại tướng, một quốc trưởng và một đại tướng tổng thống ba ngày ! Giá hắn chết sớm hơn, thì bớt nhục cho hắn. Hắn phải chịu quả báo mà sống, để làm tấm bia cho người Việt ném đồ dơ vào vì cái tội giết người công chính.
Người Việt đáng lẽ phải lập ra một Ủy ban "Tháng Tư Đen" để hỏi tội tên phản quốc Dương Văn Minh và bè lũ tẩu tướng đã bỏ nước cho giặc Nhưng thôi, hãy để cho chúng nó sống trong ô nhục và nguyền rủa của quốc dân. Cái chết danh dự gấp ngàn lần cái chết của thể xác. Phải chăng đây cũng là sự quả báo vì Minh và bè lũ đã vấy máu Ngô Đình Diệm.
Trí Quang:
Thích Trí Quang, tên việt-cộng đội lốt nhà sư
Tham đi liền với si, Trí Quang đã ép các vị tu hành chân chính trong đạo Phật về phía ông ta, và vơ bừa cái khối quần chúng đông đảo vốn chỉ có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và "cầu Trời khấn Phật" vái tứ phương trở thành "Phật tử", nâng dân chúng đạo phật lên 80 phần trăm… tưởng tượng, hầu cho ông ta thi hành quỉ kế. Ông ta cũng không ngại ngùng kết đồng minh với cộng sản để loại trừ bớt một kẻ thù khác là Thiên Chúa giáo.
Trí Quang và các sư trong nhóm không những đắc tội với Tổ Quốc, mà còn đắc tội với Phật pháp, làm cho đạo Phật suy yếu. Dù sao ông ta cũng là nguyên cớ đưa đến cái chết cho người công chính Ngô Đình Diệm.
Thích Trí Quang, tên việt-cộng đội lốt nhà sư
Trong "VNMLQHT" Đỗ Mậu nhiều lần viết rằng Cần Lao Công Giáo muốn phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm, Cần Lao Công Giáo "bồng" cụ vào Đệ nhị Cộng Hòa. Những lời hàm hồ như thế cần được xem xét lại.
Trước nhất, tinh thần Ngô Đình Diệm là tinh thần ái quốc, hết lòng chăm lo đời sống nhân dân. Lý tưởng ấy, làm thế nào mà mất được, để nay phải phục hồi.
Người ta mến thương Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nghĩ lại cái thủa an bình trong chín năm lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, rồi nhận diện thực tế qua cái nhìn, cái thấy, cái nghe kể từ ngày tổng Thống Ngô Đình Diệm nằm xuống. Trò dâu bể do bọn người phản loạn gây ra từ 1-11-1963 đem đến sự khốn cùng cho nhân dân miền Nam, khiến người ta phải thốt lên: "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Từ chỗ đau đớn, thấy cần phải đốt lên ngọn đuốc làm sáng tỏ cái đức hy sinh vì nước vì dân của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để làm tấm gương cho xã hội soi chung giữa cảnh đời nhố nhăng, nhiều con chó muốn nhảy lên bàn độc.
Vì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bọn người gieo gió thì phải gặp bão, lẽ nhân quả này đã được một Phật tử tốt nói thay cho mọi người, anh Đỗ Thọ đã viết:
"Phật giáo nổi dậy chống chính phủ. Hội đồng Tướng lãnh lợi dụng Phật giáo với đại sứ Henry Cabot Lodge của người Mỹ đã kết thúc cuộc đời của Tổng Diệm. Tôi là người Phật giáo dù không thấu triệt đạo lý, nhưng thầm nghĩ rằng cái nhân quả vẫn còn đó".
Làm điều tàn ác, bất công thì phải đền bồi. Người chết không thể đền bồi thì phải hoàn trả công lý, giải oan cho nạn nhân. Đỗ Mậu và phe nhóm đã không làm điều đó, còn viết sách quật mồ nạn nhân lên mà chửi đến ba đời. Cái nghiệp giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là của "các ông" và phe nhóm; vì đại đa số dân miền Nam vẫn ngưỡng mộ tổng Thống Ngô Đình Diệm như lời anh Đỗ Thọ vậy. Dân Việt Nam có tình có nghĩa, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, không phải như bọn người ăn cháo đá bát, đái vào bát, đập bể bát, như những kẻ lừa thầy phản bạn.
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chết như một chiến sĩ ngoài mặt trận khi ném vào mặt Henry Cabot Lodge lời này:
"Tôi không bỏ được dân tộc tôi"
Và khi cùng đường, cái chết kề trong gang tấc, vị Linh mục nhà thờ Cha Tam đề nghị ngài nên lẩn tránh, Ngài đã khẳng khái như một chiến sĩ can đảm từ chối:
"Xin cảm ơn Cha, tôi không có tội gì với dân và với Quốc Gia này, tôi thấy không có lý do gì phải lẩn tránh".
- Chết như một vị tử đạo, hiên ngang ra pháp trường để minh chứng tình yêu Thiên Chúa và đồng loại.
- Chết như một chiến sĩ dũng cảm đối diện trước quân thù mà không nao núng.
- Chết như một chính nhân quân tử, không lẩn tránh để khỏi bị ô nhục và mang tiếng hèn nhát.
- Chết như thế, không thể có hận thù. Nó là hạt thóc phải được mục rữa, để trổ sinh cây lúa. Cây lúa sẽ đâm hoa kết trái cho muôn ngàn hạt thóc khác.
"Tôi nghĩ rằng mai hậu công lao của Tổng Thống Ngô Đình Diệm to tát, sẽ được ca ngợi như Tổng thống Lincoln của người Hoa Kỳ bị ám sát năm 1865".
Phan Thiết
-------------oo0oo---------------
Những hình ảnh đẹp của Cộng Đồng Việt Nam
Nguồn; http://vietlist.us/SUB_VietHistory/DuongVanMinh.shtml
Danchutudo (Democracy, Freedom, No Communism For Vietnam)
Democracy, Freedom, No Communism For Vietnam
AI ĐẺ RA "PHE CẤP TIẾN" TRONG VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN? MỸ ỦNG HỘ NHÂN DÂN VN HAY ỦNG HỘ VIỆT GIAN-CỘNG-SẢN? – Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)
AI ĐẺ RA “PHE CẤP TIẾN” TRONG VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN? MỸ ỦNG HỘ NHÂN DÂN VN HAY ỦNG HỘ VIỆT GIAN-CỘNG-SẢN? – Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)
AI ĐẺ RA “PHE CẤP TIẾN” TRONG VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN? MỸ ỦNG HỘ NHÂN
DÂN VN HAY ỦNG HỘ VIỆT GIAN-CỘNG-SẢN? – Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)
http://www.humyo.com/F/9145775-545942095/ZDA3NmQxYzMyNjk0Yzg2MjU1MGQ3NzUxZTVjYWQ1Mzk= Từ ngày thực-dân-đỏ Nga-xô, khoác chiếc áo “cách mạng vô sản, xây dựng thế giới đại đồng” bị sụp đổ, nhân dân thế giới đã có thêm nhiều tài liệu, nhân chứng và vật chứng để tái tạo bộ mặt thật của chế độ chính trị ở các nước mà đảng cầm quyền nói là lấy chủ nghĩa Marx-Lenine là “kim chỉ nam”để làm “cách mạng xã hội một cách toàn diện và triệt để”.
Tuy muộn, nhưng kết thúc bao giờ chính nghĩa cũng thắng hung tàn, nên ngày 25-1-2006, tại Strasbourg, Liên minh Quốc hội châu Âu đã thông qua Nghị Quyết 1481, lên án Chủ nghĩa Cộng sản là TỘI ÁC của Nhân Loại.
Đúng ra thì phải lên án một vài nước lớn, chưa từng trải qua thể chế chính trị DÂN CHỦ, còn mang nặng dấu ấn Độc tài Nước Lớn, muốn làm Bá chủ thế giới, đã sử dụng Chủ nghĩa Cộng sản để che bộ mặt là THỰC DÂN TOÀN DIỆN nhằm thực thi CHẾ ĐỘ CHIẾM HỮU NÔ LỆ KIỂU MỚI TRÊN PHẠM VI TOÀN THẾ GIỚI. Cụ thể là nước Nga, dù đã đổi màu cờ, thay tên nước, và đặc biệt là nước Tàu, dù phong kiến, quốc gia cộng hòa, cộng hòa nhân dân thì vẫn tôn thờ chủ nghĩa chauvin nước lớn và tham vọng chinh phục toàn thế giới.
Còn, những tên có căn cốt BÁN NƯỚC CẦU VINH thì giương ngọn cờ cộng-sản Marx-Lenine để lừa dối dân nước mình bán cho lũ XÂM-LƯỢC-ĐỎ.
Tập đoàn mang tên cộng-sản VN, từ khởi thủy cho đến nay, vẫn mãi mãi là lũ có căn cốt bán nước cầu vinh như vậy. Xưa thì chúng vì Nga-xô mà biến nhân dân và đất nước VN thành nô-lệ-đỏ. Rồi cũng vì trung thành với chiến lược bành trướng chế độ thuộc-địa-đỏ cho Nga-xô ra toàn Đông dương, mà chúng chấp nhận đổi tên từ “cộng sản VN” thành “cộng sản Đông dương”. Trong hoàn cảnh “núi liền núi, sông liền sông” với Nga-xô THÔNG QUA Tàu -bành-trướng nên chúng đã dâng đất, dâng biển của VN, miễn là CÓ LỢI cho Nga-xô, bất cần việc đó XÂM HẠI lâu dài cho Nhân dân và Đất nước VN. Cho đến chết thằng đại việt-gian Hồ chí Minh vẫn còn viết di chúc căn dặn toàn thể tập đoàn việt-gian-cộng-sản phải bảo vệ Nga-xô và phải giữ vững sự đoàn kết trong cái gọi là “phe xã hội chủ nghĩa”, tức là những nước do lũ căn cốt bán nước cầu vinh, đi theo Nga-xô và Tàu bành trướng (anh cả và anh hai trong thế giới bạo lực cướp giựt).
Việt-gian-cộng-sản vì quyền lợi của Nga-xô mà xung đột với Tàu-bành-trướng. Nga-xô sụp đổ, chúng quay lại thờ Tàu-bành-trướng làm chủ.
Thờ Tàu-bành-trướng và trọn đời đi theo Tàu-bành-trướng là sự “NHẤT TRÍ” CẢ TƯ TƯỞNG LẪN HÀNH ĐỘNG của tất cả những tên chóp bu việt-gian-cộng-sản qua các thời tổng bí thư.
Nếu Lê Duẩn còn chưa chết thì hắn cũng suy nghĩ và hành động như thế. Chứng cớ là ai cũng biết Lê đức Thọ và Lê Duẩn là cặp bài trùng. Trong nước đã đành, ngay ở nước ngoài cũng từng nói VN trong tay “độc tài của hai tên họ Lê” (la dictature des deux Lê). Tuy Duẩn chết, nhưng chính Lê đức Thọ là kẻ vận động lập đoàn sang tạ tội với Tàu-bành-trướng, gồm cả những bộ mặt mà tên đặc công đỏ Bùi Tín tô vẽ là thân Nga-xô, như Võ nguyên Giáp, Nguyễn văn Linh (lúc đó là tổng bí thư việt-gian-cộng-sản), hay “cấp tiến” như Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, cho đến những tên được Trần Khuê nâng bi như Lê khả Phiêu, và Nông đức Mạnh, được Dương thu Hương khen là “có học và có lòng”!!!
Thật đáng buồn là đúng ra những nhà bình luận thời cuộc trong Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản, trước hết phải DÁM NHÌN VÀO SỰ THẬT của hằng hà tài liệu, chứng cớ cụ thể của quá trình hình thành và hoạt động của cái gọi là đảng cộng sản ở VN, không cần thêm bớt, cũng cho cả người mù bẩm sinh nhận ra DIỆN MẠO VIỆT GIAN của chúng.
Chúng tôi thách thức cả trong và ngoài VN, cả Ta, Tây, Tàu, Nga…chứng minh qua đường lối chính sách, qua hành động và kết quả đạt được của đảng cộng sản VN, hoàn toàn vì LỢI ÍCH CỦA VN cả trước mắt, cả lâu dài. Chúng hoàn toàn không phải là việt-gian theo chuẩn mực tổ tiên VN ta và quốc tế quy định.
Chúng tôi cũng thách thức những ai chứng minh được những thằng mà họ gọi là “cấp tiến” như Nguyễn minh Triết, Nguyễn tấn Dũng… một hành động thôi, không cần nhiều, là “cấp tiến” với KẾT QUẢ CỤ THỂ.
Thật ra mà nói, chúng tôi cam đoan rằng, chẳng một ai có thể làm cái việc “giắt lạc đà qua lỗ kim khâu” đó được, dù là chuyên viên về VN của Viện này, Đại học nọ của Mỹ, Úc, Pháp v.v… Thậm chí cả cái ban tuyên giáo trung ương việt-gian-cộng-sản cũng PHẢI BỊT TAI GIẢ ĐIẾC, chứ nói chi đến lũ tay sai, bồi bút theo đóm ăn tàn, hoặc vài anh chị “chính khứa chống cộng loại nòng nọc trong lỗ chân trâu”, kiểu như NGUYỄN BÁ CẨN v.v…
Trong bài có tên “Hồi chuông báo động”, ngay câu thứ hai, ông Nguyễn bá Cẩn, đã khéo léo chạy tội cho việt-gian-cộng-sản, rằng thì là mà: “Làm sao mà không lo âu sợ sệt vì Cộng sản Việt Nam bị áp lực phải dâng đất và dâng biển cho kẻ thù phương Bắc.”
Từ thời thằng đại-việt-gian Hồ chí Minh còn khả năng làm cho Nông thị Xuân, tòi ra cho nó một đứa con, thì bọn nó đã dâng đất và dâng biển cho giặc Tàu-xâm-lược rồi. Bây giờ bọn thừa kế quyền lực của nó, tiếp tục “sự nghiệp việt-gian, dâng đất, dâng biển” và Đặt Cọc Mốc hẳn hoi, cho chắc ăn, không cho DÂN (mà chúng phỉnh bằng cái tên CHỦ) biết, và ngay trong băng đảng của chúng cũng không chính thức công bố, ngoại trừ bọn chóp bu, trong đó có cả hai thằng Triết và Dũng, mà me-xừ Cẩn vẫn lễ phép gọi bằng “Chủ tịch” và “Thủ tướng”, khơi khơi vậy thôi, để bộc lộ khéo rằng, Cẩn này xin coi hai “Cụ” là “Chủ tịch” và “Thủ tướng” của Cẩn, mặc dù các “Cụ” khinh Cẩn, không cho phép bầu bán!
Ai làm áp lực? Áp lực như thế nào? Bị áp lực hay tự nguyện theo truyền thống việt-gian từ thời thằng Hồ chí Minh? Tại sao phải vụng trộm như “mèo giấu cứt”? Hay bị áp lực bí mật như cảnh Nguyễn bá Cẩn vừa qua, nên phải mọp người cùng mấy thằng “mặt người, cốt má (chưa được là chó)” để khóc lạy ảnh con chó già của việt-gian-cộng-sản, là thằng Cuội Dân Chủ Hoàng minh Chính, việt-gian thờ Nga-xô, tác giả kế hoạch “Tiểu ra quần…à quên, Tiểu Diên Hồng”, có các thành viên mặt trơ, trán bóng như Nguyễn chí Thiện, Bùi Tín, Vũ thư Hiên, nhóm “Đàn Chim Việt”(đúng là CHIM không phải là NGƯỜI)…và cả chí hữu của Đỗ ngọc Yến, là nhà bình “loạn thập cẩm” Ngô nhân Dụng. Cuối cùng thì kiến thức và viễn kiến chính trị của cái lũ “chính khứa nòng nọc nằm lỗ chân trâu” đó biến hội nghị Tiểu Diên Hồng thành “tiểu ra quần” ở hội nghị trong núi và TAN…HÀNG, bố bảo cũng không dám nhắc đến màn “hài kịch chính trị” chảy máu mắt đó!!!
Đã HÈN lại NGU, không dám mở mắt nhìn vào sự thật, không chịu khó cập nhật thông tin, nghiên cứu hàng núi tài liệu, chỉ quen “ăn sổi ở thì”, quen nhận thông tin từ việt-gian-cộng-sản chế biến, giao cho đặc công đỏ ngoài nước, dân chủ cuội trong nước nhai nhuyễn rồi mớm cho nuốt, như xưa kia mẹ mớm cơm cho con. Nghĩa là có biết thưởng thức mùi vị của từng món ăn, thức uống đâu, mà chỉ nuốt hầm bà làng xí cấu. Thật tội nghiệp, nhưng cũng thật đáng khinh, bị những khúc xương thừa của việt-gian-cộng-sản làm cho lúc nào mõm cũng rớt rãi như… chó điên.
Nguyễn bá Cẩn dám khẳng định hai thằng Triết và Dũng là “cánh tiến bộ”. Lại còn thiếu thông minh ở mức dưới trung bình nên không hiểu rằng, việc Tổng thống Bush, ngày 24-6-2008 vừa qua, khi cam kết bảo vệ lãnh thổ và quyền lợi kinh tế… của VN, chỉ là, qua thằng Dũng mà:
Thứ nhất: Công bố cho TOÀN DÂN VN cũng như với thế giới, trong đó có giặc Tàu-bành-trướng, rằng Hoa Kỳ, dù là Cộng Hòa hay Dân Chủ, thì cũng không để yên cho bất kể thế lực bành trướng nào “thôn tính VN'”, cửa ngõ ổn định trong vùng Đông Nam Á, xa hơn nữa là cho vùng Châu Á–Thái Bình Dương.
Hành động Hoa Kỳ ủng hộ VN vào cái ghế ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an LHQ, là biểu lộ hành động bảo vệ Nhân Dân và Đất nước VN trước lũ chó sói phương Bắc, CHỨ KHÔNG PHẢI NÂNG UY TÍN CHO VIỆT GIAN CỘNG SẢN. Chuyện lật đổ việt-gian-cộng-sản phải do NGƯỜI VN TỰ NGUYỆN LÀM LẤY thì mới có hiệu quả lâu dài, KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM HỘ ĐƯỢC.
Rõ ràng, hơn 33 năm qua, các bộ mặt người dạ thú đã tự lộ mặt hoặc bị lột mặt nạ. Ai có tài, ai hám danh; tổ chức nào thật hay dzổm đều hiện nguyên hình. Lực lượng nào là chủ lực trong nước, lực lượng nào ngoài nước, thực sự kiên trì vì nước vì dân đã và đang bị đào thải hoặc vươn lên vững vàng. Tất cả đều bộc lộ chân tướng. NGƯỜI DÂN TRONG VÀ NGOÀI VN, không còn sợ CHỌN LẦM NGƯỜI.
Cũng thế, các tội ác của việt-gian-cộng-sản ngày càng chồng chất, không một thế lực nào có thể bao che cho chúng. Các ngón võ lừa đảo của chúng đã đến kế sách thứ 36 như điềm Trời, khiến chúng đẻ ra cái nghị quyết 36, làm cho chúng ta nhìn ra những cái mà trước đây có nói cũng không ai tin nổi. Đó là giáo dân nhìn ra bộ mặt việt-gian Phạm minh Mẫn và chửi hơn chửi chó.
Những tên đầu trọc “néo-nazi” từ Thích nhất Hạnh đến Thích nhật Từ…. đều lòi mặt chuột là lũ Thích… việt-gian-cộng-sản. Những tờ báo từ Việt Weekly, Cty Người Việt, Ánh dương, Đàn Chim Việt, Giao điểm, Việt báo… cho đến các đảng phái ma trơi, phở bò phở chuột, phong trào hành động nằm vùng… cho đến mấy anh Cuội chống cộng, mấy anh giáo sư tự nhận kiến thức chống cộng đầy hai túi quần, mấy anh cao trào nhân bánh bao… Tất cả đều được Hoa Kỳ thử bằng cách cho đeo huy hiệu cả cờ Mỹ, cờ máu, cho nên Tổng thống Bush mới không thèm gặp con chó nào của việt-gian-cộng-sản.
Rồi cái bẫy “trăm hèn đua nở” cũng thế, mấy anh ngu ngơ ĐƯỢC chính quyền Mỹ gặp mặt, hí hửng đêm về ngủ mơ cười rúc rích cứ như tử vi sắp phát như Xuân Tóc Đỏ (nhân vật của nhà văn đại tài Vũ trọng Phụng, hay và giỏi nhất là chữ ĐỎ). Đây chỉ là kế “mua xương ngựa thiên lý”. Thế là mấy anh vung vít chửi Mỹ, gậy giấy, gậy rơm để khoe “gan to mật lớn”, cuối cùng thì chạy theo, không phải củ cà-rốt, mà củ c… của việt-gian-cộng-sản, tưởng qua mắt được người chống việt-gian “thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ”, a tòng “bịt tiếng nói trung thực” (chúng tôi còn giữ đủ bằng chứng) để làm quà gia nhập “Tổng công ty Cuội”, được việt-gian-cộng-sản giúp cho “phóng viên thường trú ở trong nước”, tưởng qua mắt được thiên hạ.
Qua cuộc đua marathon này, Hoa Kỳ đã giúp người VN nhìn ra những bọn mặt dơi tai chuột, nhìn ra thần tượng Hồ chí Minh chỉ là một con chó chết phản phúc, và lũ đầu nậu cộng sản VN chỉ là những tên việt-gian, cha truyền con nối.
Quốc kỳ Vàng của toàn dân VN hiên ngang, hiện diện khắp nơi, đã từng bằng máu các anh hùng, chiến sỹ QLVNCH, nay thì bằng lòng yêu nước thiết tha của người Việt đang cư ngụ trên toàn thế giới. Số phận những con chim mồi và chó săn, của cả Mỹ và của cả việt-gian-cộng-sản đang đi vào đầm lầy, ngõ cụt!
Thứ hai: Tổng thống Bush nói với thằng Nguyễn tấn Dũng rằng: Hoa Kỳ cam kết bảo vệ lãnh thổ và bảo vệ kinh tế… là cho Nhân Dân VN chân chính. Một người không bị tà niệm thì phải hiểu, đó là lời CẢNH CÁO của Hoa Kỳ ngay với chính tập đoàn việt-gian-cộng-sản rằng, chúng sẽ bị trừng phạt về tội bán đất, bán biển của NHÂN DÂN VN, cả tội bóc lột về KINH TẾ, nay có quá đủ nhân chứng, vật chứng cùng nạn nhân quá rõ ràng và dư thừa, mà không một thế lực gian ác nào, kể cả Tàu-bành-trướng lẫn Nga (đang hiện lại trong bộ mặt thực dân mới) bao che cho chúng được. Chúng nên đầu hàng Nhân Dân VN trong “hòa bình, ổn định”. Còn tiếp tục ỷ lại vào cơ quan chuyên chính (lính, công an, tòa án) và cái ô dù của Tàu-bành-trướng, chọn con đường MÁU, thì chắc chắn đó là máu của bọn chúng. Còn Mỹ cùng thế giới tự do và hơn 80 triệu người VN trong và ngoài nước đã qua sàng lọc trong hơn nửa thế kỷ, loại bỏ trong hàng ngũ bọn cơ hội, mánh mung chính trị, bọn nằm vùng… đủ nhân lực được nuôi dưỡng bằng lòng căm thù quân xâm lược, cộng với tiềm năng quốc phòng, kinh tế của Mỹ và thế giới tự do, chắc đủ khả năng khống chế con sói điên “đại hán bành trướng”, vì trong 1,5 tỷ dân Tàu, chó sói là thiểu số!
Đã đến lúc chúng ta cần giám sát, vạch mặt lũ nằm vùng, chiêu hồi những người nhẹ dạ mà theo địch, chú ý những tên cờ bạc bịp dùng uy tín của ngưới Việt chân chính để ẩn núp, như trường hợp Nam Lộc núp sau hào quang của các vị khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, nữ đại úy phi công thủy quân lục chiến Mỹ là Elizabeth Phạm. Con rắn mối dù có bám vào chân tượng Hai Bà Trưng thì vẫn là con rắn mối, làm chuột còn không được thì sao đòi làm người!
Hãy đặt câu hỏi xem:
Tại sao cách đây 2 năm, FBI lại kêu gọi chúng ta hãy tố giác tụi nằm vùng? (Như thế là ủng hộ việt-gian-cộng-sản sao?)
Tại sao Quốc kỳ Vàng của VN lại tung bay khắp nơi?
Tại sao mãi gần đây lại có phong trào ở Mỹ và một số nước khác, các tác giả không phải VN lại lật lại lịch sử để vinh danh QLVNCH? Thế mà chúng ta vẫn chậm đáp ứng. Tại sao không nhìn ra khả năng chính trị, quân sự và tính chất tầm gửi của Toàn phong Nguyễn xuân Vinh, một người chạy theo Phở Bò như con nít chạy theo bóng bay; một người láu vặt, muốn “hòa giải, hòa hợp” với việt-gian-cộng-sản, thì bày trò tuyên bố không “hòa giải, hòa hợp”, nhưng lại KHUYÊN con em chúng ta NÊN HÒA ĐỒNG với du sinh, con em việt-gian-cộng-sản! Như vậy rõ là muốn ve vuốt con để hy vọng cha lưu ý tới chứ gì? Có khác nào một con chó đi theo vẫy đuôi với đứa bé để được cha mẹ đứa bé thí cho chút bánh biscuit vụn! Đó chính là quan điểm “chính trị ăn xin” vậy!!! Và độc hại hơn là GIỮ tổ chức QLVNCH nằm “dưỡng lão” bao nhiêu năm nay. Vì thế Mỹ có thể gặp mấy tên Cuội ở hải ngoại mà coi như Toàn phong Nguyễn xuân Vinh không hề tồn tại trong vai “hề chính trị”. Thật đáng buồn cho lực lượng trụ cột trong tiêu diệt việt-gian-cộng-sản một cách hiệu quả trong quá khứ!
Một số tập đoàn tài phiệt “tham ăn”, cũng như các chính khứa “nhà quàn”, “nòng nọc lỗ chân trâu”… vì muốn được khúc xương thừa của việt-gian-cộng-sản nên cố tình che bộ mặt lưu manh chính trị, nhắm mắt chấp nhận luận điệu có “phe cấp tiến” của việt-gian-cộng-sản để bào chữa cho đường lối Dân chủ hóa VN trong “hòa bình” và trong “ổn định”. Có nghĩa là ủng hộ “phe cấp tiến” chống “phe giáo điều,bảo thủ”.
Cái trò những loại như Nguyễn bá Cẩn, Hoàng cơ Định (và phở bò), Nguyễn tường Bá, Chu tất Tiến, Hoàng duy Hùng và v.v… khóc thương, quỳ lạy Hoàng minh Chính, chẳng qua là muốn bắn tín hiệu ch
http://www.humyo.com/F/9145775-545942095/ZDA3NmQxYzMyNjk0Yzg2MjU1MGQ3NzUxZTVjYWQ1Mzk= Từ ngày thực-dân-đỏ Nga-xô, khoác chiếc áo “cách mạng vô sản, xây dựng thế giới đại đồng” bị sụp đổ, nhân dân thế giới đã có thêm nhiều tài liệu, nhân chứng và vật chứng để tái tạo bộ mặt thật của chế độ chính trị ở các nước mà đảng cầm quyền nói là lấy chủ nghĩa Marx-Lenine là “kim chỉ nam”để làm “cách mạng xã hội một cách toàn diện và triệt để”.
Tuy muộn, nhưng kết thúc bao giờ chính nghĩa cũng thắng hung tàn, nên ngày 25-1-2006, tại Strasbourg, Liên minh Quốc hội châu Âu đã thông qua Nghị Quyết 1481, lên án Chủ nghĩa Cộng sản là TỘI ÁC của Nhân Loại.
Đúng ra thì phải lên án một vài nước lớn, chưa từng trải qua thể chế chính trị DÂN CHỦ, còn mang nặng dấu ấn Độc tài Nước Lớn, muốn làm Bá chủ thế giới, đã sử dụng Chủ nghĩa Cộng sản để che bộ mặt là THỰC DÂN TOÀN DIỆN nhằm thực thi CHẾ ĐỘ CHIẾM HỮU NÔ LỆ KIỂU MỚI TRÊN PHẠM VI TOÀN THẾ GIỚI. Cụ thể là nước Nga, dù đã đổi màu cờ, thay tên nước, và đặc biệt là nước Tàu, dù phong kiến, quốc gia cộng hòa, cộng hòa nhân dân thì vẫn tôn thờ chủ nghĩa chauvin nước lớn và tham vọng chinh phục toàn thế giới.
Còn, những tên có căn cốt BÁN NƯỚC CẦU VINH thì giương ngọn cờ cộng-sản Marx-Lenine để lừa dối dân nước mình bán cho lũ XÂM-LƯỢC-ĐỎ.
Tập đoàn mang tên cộng-sản VN, từ khởi thủy cho đến nay, vẫn mãi mãi là lũ có căn cốt bán nước cầu vinh như vậy. Xưa thì chúng vì Nga-xô mà biến nhân dân và đất nước VN thành nô-lệ-đỏ. Rồi cũng vì trung thành với chiến lược bành trướng chế độ thuộc-địa-đỏ cho Nga-xô ra toàn Đông dương, mà chúng chấp nhận đổi tên từ “cộng sản VN” thành “cộng sản Đông dương”. Trong hoàn cảnh “núi liền núi, sông liền sông” với Nga-xô THÔNG QUA Tàu -bành-trướng nên chúng đã dâng đất, dâng biển của VN, miễn là CÓ LỢI cho Nga-xô, bất cần việc đó XÂM HẠI lâu dài cho Nhân dân và Đất nước VN. Cho đến chết thằng đại việt-gian Hồ chí Minh vẫn còn viết di chúc căn dặn toàn thể tập đoàn việt-gian-cộng-sản phải bảo vệ Nga-xô và phải giữ vững sự đoàn kết trong cái gọi là “phe xã hội chủ nghĩa”, tức là những nước do lũ căn cốt bán nước cầu vinh, đi theo Nga-xô và Tàu bành trướng (anh cả và anh hai trong thế giới bạo lực cướp giựt).
Việt-gian-cộng-sản vì quyền lợi của Nga-xô mà xung đột với Tàu-bành-trướng. Nga-xô sụp đổ, chúng quay lại thờ Tàu-bành-trướng làm chủ.
Thờ Tàu-bành-trướng và trọn đời đi theo Tàu-bành-trướng là sự “NHẤT TRÍ” CẢ TƯ TƯỞNG LẪN HÀNH ĐỘNG của tất cả những tên chóp bu việt-gian-cộng-sản qua các thời tổng bí thư.
Nếu Lê Duẩn còn chưa chết thì hắn cũng suy nghĩ và hành động như thế. Chứng cớ là ai cũng biết Lê đức Thọ và Lê Duẩn là cặp bài trùng. Trong nước đã đành, ngay ở nước ngoài cũng từng nói VN trong tay “độc tài của hai tên họ Lê” (la dictature des deux Lê). Tuy Duẩn chết, nhưng chính Lê đức Thọ là kẻ vận động lập đoàn sang tạ tội với Tàu-bành-trướng, gồm cả những bộ mặt mà tên đặc công đỏ Bùi Tín tô vẽ là thân Nga-xô, như Võ nguyên Giáp, Nguyễn văn Linh (lúc đó là tổng bí thư việt-gian-cộng-sản), hay “cấp tiến” như Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, cho đến những tên được Trần Khuê nâng bi như Lê khả Phiêu, và Nông đức Mạnh, được Dương thu Hương khen là “có học và có lòng”!!!
Thật đáng buồn là đúng ra những nhà bình luận thời cuộc trong Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản, trước hết phải DÁM NHÌN VÀO SỰ THẬT của hằng hà tài liệu, chứng cớ cụ thể của quá trình hình thành và hoạt động của cái gọi là đảng cộng sản ở VN, không cần thêm bớt, cũng cho cả người mù bẩm sinh nhận ra DIỆN MẠO VIỆT GIAN của chúng.
Chúng tôi thách thức cả trong và ngoài VN, cả Ta, Tây, Tàu, Nga…chứng minh qua đường lối chính sách, qua hành động và kết quả đạt được của đảng cộng sản VN, hoàn toàn vì LỢI ÍCH CỦA VN cả trước mắt, cả lâu dài. Chúng hoàn toàn không phải là việt-gian theo chuẩn mực tổ tiên VN ta và quốc tế quy định.
Chúng tôi cũng thách thức những ai chứng minh được những thằng mà họ gọi là “cấp tiến” như Nguyễn minh Triết, Nguyễn tấn Dũng… một hành động thôi, không cần nhiều, là “cấp tiến” với KẾT QUẢ CỤ THỂ.
Thật ra mà nói, chúng tôi cam đoan rằng, chẳng một ai có thể làm cái việc “giắt lạc đà qua lỗ kim khâu” đó được, dù là chuyên viên về VN của Viện này, Đại học nọ của Mỹ, Úc, Pháp v.v… Thậm chí cả cái ban tuyên giáo trung ương việt-gian-cộng-sản cũng PHẢI BỊT TAI GIẢ ĐIẾC, chứ nói chi đến lũ tay sai, bồi bút theo đóm ăn tàn, hoặc vài anh chị “chính khứa chống cộng loại nòng nọc trong lỗ chân trâu”, kiểu như NGUYỄN BÁ CẨN v.v…
Trong bài có tên “Hồi chuông báo động”, ngay câu thứ hai, ông Nguyễn bá Cẩn, đã khéo léo chạy tội cho việt-gian-cộng-sản, rằng thì là mà: “Làm sao mà không lo âu sợ sệt vì Cộng sản Việt Nam bị áp lực phải dâng đất và dâng biển cho kẻ thù phương Bắc.”
Từ thời thằng đại-việt-gian Hồ chí Minh còn khả năng làm cho Nông thị Xuân, tòi ra cho nó một đứa con, thì bọn nó đã dâng đất và dâng biển cho giặc Tàu-xâm-lược rồi. Bây giờ bọn thừa kế quyền lực của nó, tiếp tục “sự nghiệp việt-gian, dâng đất, dâng biển” và Đặt Cọc Mốc hẳn hoi, cho chắc ăn, không cho DÂN (mà chúng phỉnh bằng cái tên CHỦ) biết, và ngay trong băng đảng của chúng cũng không chính thức công bố, ngoại trừ bọn chóp bu, trong đó có cả hai thằng Triết và Dũng, mà me-xừ Cẩn vẫn lễ phép gọi bằng “Chủ tịch” và “Thủ tướng”, khơi khơi vậy thôi, để bộc lộ khéo rằng, Cẩn này xin coi hai “Cụ” là “Chủ tịch” và “Thủ tướng” của Cẩn, mặc dù các “Cụ” khinh Cẩn, không cho phép bầu bán!
Ai làm áp lực? Áp lực như thế nào? Bị áp lực hay tự nguyện theo truyền thống việt-gian từ thời thằng Hồ chí Minh? Tại sao phải vụng trộm như “mèo giấu cứt”? Hay bị áp lực bí mật như cảnh Nguyễn bá Cẩn vừa qua, nên phải mọp người cùng mấy thằng “mặt người, cốt má (chưa được là chó)” để khóc lạy ảnh con chó già của việt-gian-cộng-sản, là thằng Cuội Dân Chủ Hoàng minh Chính, việt-gian thờ Nga-xô, tác giả kế hoạch “Tiểu ra quần…à quên, Tiểu Diên Hồng”, có các thành viên mặt trơ, trán bóng như Nguyễn chí Thiện, Bùi Tín, Vũ thư Hiên, nhóm “Đàn Chim Việt”(đúng là CHIM không phải là NGƯỜI)…và cả chí hữu của Đỗ ngọc Yến, là nhà bình “loạn thập cẩm” Ngô nhân Dụng. Cuối cùng thì kiến thức và viễn kiến chính trị của cái lũ “chính khứa nòng nọc nằm lỗ chân trâu” đó biến hội nghị Tiểu Diên Hồng thành “tiểu ra quần” ở hội nghị trong núi và TAN…HÀNG, bố bảo cũng không dám nhắc đến màn “hài kịch chính trị” chảy máu mắt đó!!!
Đã HÈN lại NGU, không dám mở mắt nhìn vào sự thật, không chịu khó cập nhật thông tin, nghiên cứu hàng núi tài liệu, chỉ quen “ăn sổi ở thì”, quen nhận thông tin từ việt-gian-cộng-sản chế biến, giao cho đặc công đỏ ngoài nước, dân chủ cuội trong nước nhai nhuyễn rồi mớm cho nuốt, như xưa kia mẹ mớm cơm cho con. Nghĩa là có biết thưởng thức mùi vị của từng món ăn, thức uống đâu, mà chỉ nuốt hầm bà làng xí cấu. Thật tội nghiệp, nhưng cũng thật đáng khinh, bị những khúc xương thừa của việt-gian-cộng-sản làm cho lúc nào mõm cũng rớt rãi như… chó điên.
Nguyễn bá Cẩn dám khẳng định hai thằng Triết và Dũng là “cánh tiến bộ”. Lại còn thiếu thông minh ở mức dưới trung bình nên không hiểu rằng, việc Tổng thống Bush, ngày 24-6-2008 vừa qua, khi cam kết bảo vệ lãnh thổ và quyền lợi kinh tế… của VN, chỉ là, qua thằng Dũng mà:
Thứ nhất: Công bố cho TOÀN DÂN VN cũng như với thế giới, trong đó có giặc Tàu-bành-trướng, rằng Hoa Kỳ, dù là Cộng Hòa hay Dân Chủ, thì cũng không để yên cho bất kể thế lực bành trướng nào “thôn tính VN'”, cửa ngõ ổn định trong vùng Đông Nam Á, xa hơn nữa là cho vùng Châu Á–Thái Bình Dương.
Hành động Hoa Kỳ ủng hộ VN vào cái ghế ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an LHQ, là biểu lộ hành động bảo vệ Nhân Dân và Đất nước VN trước lũ chó sói phương Bắc, CHỨ KHÔNG PHẢI NÂNG UY TÍN CHO VIỆT GIAN CỘNG SẢN. Chuyện lật đổ việt-gian-cộng-sản phải do NGƯỜI VN TỰ NGUYỆN LÀM LẤY thì mới có hiệu quả lâu dài, KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM HỘ ĐƯỢC.
Rõ ràng, hơn 33 năm qua, các bộ mặt người dạ thú đã tự lộ mặt hoặc bị lột mặt nạ. Ai có tài, ai hám danh; tổ chức nào thật hay dzổm đều hiện nguyên hình. Lực lượng nào là chủ lực trong nước, lực lượng nào ngoài nước, thực sự kiên trì vì nước vì dân đã và đang bị đào thải hoặc vươn lên vững vàng. Tất cả đều bộc lộ chân tướng. NGƯỜI DÂN TRONG VÀ NGOÀI VN, không còn sợ CHỌN LẦM NGƯỜI.
Cũng thế, các tội ác của việt-gian-cộng-sản ngày càng chồng chất, không một thế lực nào có thể bao che cho chúng. Các ngón võ lừa đảo của chúng đã đến kế sách thứ 36 như điềm Trời, khiến chúng đẻ ra cái nghị quyết 36, làm cho chúng ta nhìn ra những cái mà trước đây có nói cũng không ai tin nổi. Đó là giáo dân nhìn ra bộ mặt việt-gian Phạm minh Mẫn và chửi hơn chửi chó.
Những tên đầu trọc “néo-nazi” từ Thích nhất Hạnh đến Thích nhật Từ…. đều lòi mặt chuột là lũ Thích… việt-gian-cộng-sản. Những tờ báo từ Việt Weekly, Cty Người Việt, Ánh dương, Đàn Chim Việt, Giao điểm, Việt báo… cho đến các đảng phái ma trơi, phở bò phở chuột, phong trào hành động nằm vùng… cho đến mấy anh Cuội chống cộng, mấy anh giáo sư tự nhận kiến thức chống cộng đầy hai túi quần, mấy anh cao trào nhân bánh bao… Tất cả đều được Hoa Kỳ thử bằng cách cho đeo huy hiệu cả cờ Mỹ, cờ máu, cho nên Tổng thống Bush mới không thèm gặp con chó nào của việt-gian-cộng-sản.
Rồi cái bẫy “trăm hèn đua nở” cũng thế, mấy anh ngu ngơ ĐƯỢC chính quyền Mỹ gặp mặt, hí hửng đêm về ngủ mơ cười rúc rích cứ như tử vi sắp phát như Xuân Tóc Đỏ (nhân vật của nhà văn đại tài Vũ trọng Phụng, hay và giỏi nhất là chữ ĐỎ). Đây chỉ là kế “mua xương ngựa thiên lý”. Thế là mấy anh vung vít chửi Mỹ, gậy giấy, gậy rơm để khoe “gan to mật lớn”, cuối cùng thì chạy theo, không phải củ cà-rốt, mà củ c… của việt-gian-cộng-sản, tưởng qua mắt được người chống việt-gian “thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ”, a tòng “bịt tiếng nói trung thực” (chúng tôi còn giữ đủ bằng chứng) để làm quà gia nhập “Tổng công ty Cuội”, được việt-gian-cộng-sản giúp cho “phóng viên thường trú ở trong nước”, tưởng qua mắt được thiên hạ.
Qua cuộc đua marathon này, Hoa Kỳ đã giúp người VN nhìn ra những bọn mặt dơi tai chuột, nhìn ra thần tượng Hồ chí Minh chỉ là một con chó chết phản phúc, và lũ đầu nậu cộng sản VN chỉ là những tên việt-gian, cha truyền con nối.
Quốc kỳ Vàng của toàn dân VN hiên ngang, hiện diện khắp nơi, đã từng bằng máu các anh hùng, chiến sỹ QLVNCH, nay thì bằng lòng yêu nước thiết tha của người Việt đang cư ngụ trên toàn thế giới. Số phận những con chim mồi và chó săn, của cả Mỹ và của cả việt-gian-cộng-sản đang đi vào đầm lầy, ngõ cụt!
Thứ hai: Tổng thống Bush nói với thằng Nguyễn tấn Dũng rằng: Hoa Kỳ cam kết bảo vệ lãnh thổ và bảo vệ kinh tế… là cho Nhân Dân VN chân chính. Một người không bị tà niệm thì phải hiểu, đó là lời CẢNH CÁO của Hoa Kỳ ngay với chính tập đoàn việt-gian-cộng-sản rằng, chúng sẽ bị trừng phạt về tội bán đất, bán biển của NHÂN DÂN VN, cả tội bóc lột về KINH TẾ, nay có quá đủ nhân chứng, vật chứng cùng nạn nhân quá rõ ràng và dư thừa, mà không một thế lực gian ác nào, kể cả Tàu-bành-trướng lẫn Nga (đang hiện lại trong bộ mặt thực dân mới) bao che cho chúng được. Chúng nên đầu hàng Nhân Dân VN trong “hòa bình, ổn định”. Còn tiếp tục ỷ lại vào cơ quan chuyên chính (lính, công an, tòa án) và cái ô dù của Tàu-bành-trướng, chọn con đường MÁU, thì chắc chắn đó là máu của bọn chúng. Còn Mỹ cùng thế giới tự do và hơn 80 triệu người VN trong và ngoài nước đã qua sàng lọc trong hơn nửa thế kỷ, loại bỏ trong hàng ngũ bọn cơ hội, mánh mung chính trị, bọn nằm vùng… đủ nhân lực được nuôi dưỡng bằng lòng căm thù quân xâm lược, cộng với tiềm năng quốc phòng, kinh tế của Mỹ và thế giới tự do, chắc đủ khả năng khống chế con sói điên “đại hán bành trướng”, vì trong 1,5 tỷ dân Tàu, chó sói là thiểu số!
Đã đến lúc chúng ta cần giám sát, vạch mặt lũ nằm vùng, chiêu hồi những người nhẹ dạ mà theo địch, chú ý những tên cờ bạc bịp dùng uy tín của ngưới Việt chân chính để ẩn núp, như trường hợp Nam Lộc núp sau hào quang của các vị khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, nữ đại úy phi công thủy quân lục chiến Mỹ là Elizabeth Phạm. Con rắn mối dù có bám vào chân tượng Hai Bà Trưng thì vẫn là con rắn mối, làm chuột còn không được thì sao đòi làm người!
Hãy đặt câu hỏi xem:
Tại sao cách đây 2 năm, FBI lại kêu gọi chúng ta hãy tố giác tụi nằm vùng? (Như thế là ủng hộ việt-gian-cộng-sản sao?)
Tại sao Quốc kỳ Vàng của VN lại tung bay khắp nơi?
Tại sao mãi gần đây lại có phong trào ở Mỹ và một số nước khác, các tác giả không phải VN lại lật lại lịch sử để vinh danh QLVNCH? Thế mà chúng ta vẫn chậm đáp ứng. Tại sao không nhìn ra khả năng chính trị, quân sự và tính chất tầm gửi của Toàn phong Nguyễn xuân Vinh, một người chạy theo Phở Bò như con nít chạy theo bóng bay; một người láu vặt, muốn “hòa giải, hòa hợp” với việt-gian-cộng-sản, thì bày trò tuyên bố không “hòa giải, hòa hợp”, nhưng lại KHUYÊN con em chúng ta NÊN HÒA ĐỒNG với du sinh, con em việt-gian-cộng-sản! Như vậy rõ là muốn ve vuốt con để hy vọng cha lưu ý tới chứ gì? Có khác nào một con chó đi theo vẫy đuôi với đứa bé để được cha mẹ đứa bé thí cho chút bánh biscuit vụn! Đó chính là quan điểm “chính trị ăn xin” vậy!!! Và độc hại hơn là GIỮ tổ chức QLVNCH nằm “dưỡng lão” bao nhiêu năm nay. Vì thế Mỹ có thể gặp mấy tên Cuội ở hải ngoại mà coi như Toàn phong Nguyễn xuân Vinh không hề tồn tại trong vai “hề chính trị”. Thật đáng buồn cho lực lượng trụ cột trong tiêu diệt việt-gian-cộng-sản một cách hiệu quả trong quá khứ!
Một số tập đoàn tài phiệt “tham ăn”, cũng như các chính khứa “nhà quàn”, “nòng nọc lỗ chân trâu”… vì muốn được khúc xương thừa của việt-gian-cộng-sản nên cố tình che bộ mặt lưu manh chính trị, nhắm mắt chấp nhận luận điệu có “phe cấp tiến” của việt-gian-cộng-sản để bào chữa cho đường lối Dân chủ hóa VN trong “hòa bình” và trong “ổn định”. Có nghĩa là ủng hộ “phe cấp tiến” chống “phe giáo điều,bảo thủ”.
Cái trò những loại như Nguyễn bá Cẩn, Hoàng cơ Định (và phở bò), Nguyễn tường Bá, Chu tất Tiến, Hoàng duy Hùng và v.v… khóc thương, quỳ lạy Hoàng minh Chính, chẳng qua là muốn bắn tín hiệu ch
o
việt-gian-cộng-sản rằng: Lạy các ông cộng sản, chúng con lạy khóc cái
thây ma Hoàng minh Chính, bỏ ngoài tai sự sỉ vả của đồng hương, thì xin
các ông cứ thử đi, nếu thí cho chúng con một cái ghế đẩu trong đám thư
lại của quý ông, chúng con cam đoan công khai liếm đít các ông, như
thằng Xuân tóc đỏ Nguyễn cao Kỳ, còn dám mang con gái cưng đến cho “Thủ
tướng Dũng” có muốn sài tạm cho khuây nỗi nhục bị Cộng đồng người Việt
tị nạn việt-gian-cộng-sản xua đuổi như đuổi RUỒI NHẶNG!!!
Anh-quốc, ngày 21 tháng 8 năm 2008
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)
http://www.hon-viet.co.uk/NamNhan_AiDeRaPheCapTienTrongVGCS.htm
Anh-quốc, ngày 21 tháng 8 năm 2008
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)
http://www.hon-viet.co.uk/NamNhan_AiDeRaPheCapTienTrongVGCS.htm
Nguyễn Hữu Hạnh – Người phổ biến lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh
29/04/2016 06:19Tháng 10/1963, tại xã Phú Phong, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) diễn ra một đám tang rất đặc biệt. Người quá cố là ông Nguyễn Hữu Điệt, cha ruột đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 Vùng 4 chiến thuật Nguyễn Hữu Hạnh.
Thực hiện di nguyện của cha muốn được chôn cất bên cạnh phần mộ tổ tiên, Nguyễn Hữu Hạnh đã thương lượng với Mặt trận Giải phóng xã Phú Phong xin được an táng cha nơi vùng đất thuộc quyền kiểm soát của cách mạng. Phía cách mạng đồng ý và hai bên thống nhất thực hiện lệnh ngừng bắn trong 3 ngày. Mọi việc diễn ra suôn sẻ và Nguyễn Hữu Hạnh trở thành mối quan tâm số một của Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam.
Sự quan tâm đặc biệt
Nguyễn Hữu Hạnh, sinh năm 1924, tại ấp Phú Thuận, xã Phú Phong, huyện Châu Thành, Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình trí thức. Ông nội ông là một nhà nho, kiến thức uyên thâm, nổi tiếng khắp vùng về sự am hiểu lễ giáo và đối nhân xử thế.
Sinh thời, giữ thế kẻ sĩ của người có học, ông từng không chịu tham gia làm hương chức hội tề với quan niệm “Làm dân tốt hơn làm làng”. Ông thường giảng dạy cho con cháu về đạo của người quân tử, về nhân - nghĩa - lễ - trí - tín, sống tốt đẹp và có ích cho đời.
Nguyễn Hữu Hạnh là người có nhiều ảnh hưởng từ ông nội, được ông dạy nhiều điều hay lẽ phải, về tinh thần yêu quê hương đất nước, nhất là phải giữ được lòng tự trọng của người có học.
Sau khi đậu tú tài Pháp, năm 1946, Nguyễn Hữu Hạnh gia nhập Quân đội Liên hiệp Pháp. Theo học tại trường võ bị Vũng Tàu, ra trường với cấp bậc chuẩn úy, ông được điều đi phục vụ tại một đơn vị bộ binh giữ chức vụ Trung đội trưởng dưới quyền Thiếu úy Đại đội trưởng Dương Văn Minh. Có thể nói đây là sự khởi đầu của mối quan hệ thân tình giữa ông với Dương Văn Minh sau này.
Năm 1952, Nguyễn Hữu Hạnh chuyển sang Quân đội Quốc gia Việt Nam cộng hòa, được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tham mưu trưởng Phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đến năm 1954, ông được chỉ định làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 30 Việt Nam biệt lập.
Nguyễn Hữu Hạnh từng được cử đi đào tạo bài bản tại các trường quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, như khóa đào tạo chỉ huy tham mưu cao cấp, khóa dạy tình báo, chiến thuật, chiến lược và phản gián tại Mỹ.
Năm 1955, sau khi bước lên chiếc ghế Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Ngô Đình Diệm mở nhiều chiến dịch tiêu diệt các giáo phái. Nguyễn Hữu Hạnh được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Chiến dịch Hoàng Diệu (tiêu diệt giáo phái Hòa Hảo) với quân hàm thiếu tá, rồi chiến dịch Thoại Ngọc Hầu (tiêu diệt Cao Đài) với quân hàm trung tá, dưới quyền của đại tá Tư lệnh Dương Văn Minh. Sau đó ông liên tục được giao nhiều vị trí quan trọng khác.
Tháng 10/1963, khi đang là đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 Vùng 4 chiến thuật, dưới quyền thiếu tướng Huỳnh Văn Cao thì cha ông là Nguyễn Hữu Điệt qua đời. Trước khi nhắm mắt, cha Nguyễn Hữu Hạnh trăn trối với con trai ước nguyện của mình là được chôn cất ở quê hương, bên cạnh phần mộ của tổ tiên.
Đây là điều rất khó khăn đối với Nguyễn Hữu Hạnh vì phần mộ tổ tiên hiện đang nằm tại xã Phú Phong, huyện Châu Thành, Mỹ Tho, là vùng do Mặt trận Giải phóng kiểm soát. Với quyền lực của mình, Nguyễn Hữu Hạnh có thể chọn một vùng đất khác thuộc quyền kiểm soát của quân đội Việt Nam Cộng hòa, nhưng đây là ước nguyện cuối cùng của cha, Nguyễn Hữu Hạnh không thể không thực hiện.
Nguyễn Hữu Hạnh trong đám tang cha năm 1963. Bên phải là tướng Huỳnh Văn Cao – Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật. (Ảnh: Tư liệu).
Đám tang diễn ra suôn sẻ, an toàn, hai bên tuân thủ nghiêm ngặt lệnh ngừng bắn. Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ý cảm ơn Mặt trận Giải phóng xã Phú Phong đã tạo cơ hội thuận lợi cho ông. Và 3 ngày sau ông lại bày tỏ nguyện vọng được đến thăm mộ cha bằng trực thăng. Phía cách mạng lại đồng ý với điều kiện Nguyễn Hữu Hạnh phải đi một mình, không có chiếc trực thăng nào đi theo hộ tống. Nguyễn Hữu Hạnh đã thực hiện đúng giao ước và trở về Cần Thơ một cách an toàn.
Sự việc trên sau đó được báo về Trung ương Cục miền Nam và Nguyễn Hữu Hạnh trở thành mối quan tâm số một của Ban Binh vận. Nhiệm vụ tiếp cận, vận động, bồi dưỡng Nguyễn Hữu Hạnh được đồng chí Lê Quốc Lương - Đội trưởng Đội Vận động sĩ quan địch giao cho đồng chí Nguyễn Tấn Thành. Sở dĩ Ban Binh vận chọn đồng chí Nguyễn Tấn Thành vì ông là bác họ của Nguyễn Hữu Hạnh.
Lúc nhỏ hai người rất thân mật, Nguyễn Tấn Thành là người kèm cặp Nguyễn Hữu Hạnh trong việc học hành và thường đàm đạo với ông nội Nguyễn Hữu Hạnh về nho học. Hơn nữa, Nguyễn Tấn Thành chỉ hơn Nguyễn Hữu Hạnh 12 tuổi, hai người cùng thế hệ nên dễ đồng cảm với nhau. Một chi tiết nữa là cả hai lần bị địch bắt, đồng chí Nguyễn Tấn Thành đều được Nguyễn Hữu Hạnh tìm cách cứu thoát. Riêng lần đầu vào năm 1956, Nguyễn Hữu Hạnh đã dùng tư cách Tham mưu trưởng chiến dịch Thoại Ngọc Hầu để yêu cầu bên cảnh sát giao “tên cộng sản” Nguyễn Tấn Thành cho ông để “tra khảo”. Ông che giấu Nguyễn Tấn Thành tại nhà riêng, tìm cách hợp thức hóa giấy tờ và trả tự do sau đó 1 tháng.
Từ mối quan hệ tốt đẹp đó, cộng với sự hỗ trợ đắc lực từ các đồng chí trong Ban Binh vận, Nguyễn Tấn Thành hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ông đã tác động làm thay đổi suy nghĩ về tư tưởng đối với Nguyễn Hữu Hạnh, hướng Nguyễn Hữu Hạnh về phía cách mạng. Nguyễn Hữu Hạnh được mang mật danh là S7 hoặc Sao Mai. Hai người giữ liên lạc với nhau đến tận ngày giải phóng mà không hề bị lộ.
Những đóng góp bước đầu
Nguyễn Hữu Hạnh là người có cảm tình với những người cộng sản mặc dù ông là sĩ quan cao cấp của Việt Nam cộng hòa. Ông quan niệm rằng, mỗi người tự chọn cho mình con đường đi riêng, nhưng trên hết là vì quyền lợi dân tộc, vì quê hương đất nước.
Và ông nhận thấy chính nghĩa đang thuộc về phía “bên kia”. Từ khi hợp tác với cách mạng, không những thực hiện những yêu cầu của Trung ương Cục miền Nam, ông còn tự giác ứng phó trong mọi tình huống, không để điều gì bất lợi xảy ra cho nhân dân, cho cách mạng. Nhờ sự tính toán chu đáo và linh hoạt, ông rất khéo léo trong hành động, không gây bất cứ sự thắc mắc, nghi ngờ nào.
Năm 1967, với tư cách là Phó Tư lệnh Sư đoàn 21 bộ binh tại Bạc Liêu, Nguyễn Hữu Hạnh ra lệnh cho binh sĩ: “Trong lúc hành quân, trực thăng võ trang phải thận trọng, khi nào dưới đất bắn lên thì mới bắn lại chứ không tự ý xả đạn lung tung”. Thiếu tướng Tư lệnh Nguyễn Văn Minh lúc đầu có ý nghi ngờ Nguyễn Hữu Hạnh nhưng không có bằng chứng, hơn nữa Nguyễn Văn Minh từng là cấp dưới của ông nên ít nhiều “nể mặt”, không thắc mắc gì thêm.
Năm 1968, Nguyễn Hữu Hạnh làm Tư lệnh biệt khu 44 (bao gồm Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường). Trong nhiều lần đối mặt với lực lượng cách mạng, Nguyễn Hữu Hạnh đều lệnh cho binh sĩ đánh ở thế giằng co mà không tiến chiếm mục tiêu. Khi quân giải phóng rút quân ông cũng ra lệnh rút quân về. Các cố vấn Mỹ mỉa mai gọi ông là “Tư lệnh thận trọng”, “Tư lệnh không bao giờ chiếm mục tiêu”.
Cũng năm 1968, một cán bộ cách mạng sử dụng tên giả là Huỳnh Xuân đưa vũ khí vào khu quản lý của quân đội Việt Nam cộng hòa. Sự việc bại lộ, Huỳnh Xuân bị bắt và đưa ra tòa. Nhận được yêu cầu của Ban Binh vận, Nguyễn Hữu Hạnh nhờ một luật sư thân tín bào chữa cho Huỳnh Xuân. Theo thỏa thuận, khi ra tòa, Huỳnh Xuân cứ giữ nguyên lời cung, đổ tội cho tên thiếu úy đã trốn thoát và làm một lá đơn kể lại đã có công tháp tùng bảo vệ cho đại tá Nguyễn Hữu Hạnh lúc ông còn là Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 Vùng 4 chiến thuật. Nguyễn Hữu Hạnh đã chứng thực vào lá đơn này và Huỳnh Xuân được trả tự do.
Năm 1969, Nguyễn Hữu Hạnh được phong quân hàm chuẩn tướng, Phó Tư lệnh Quân đoàn 4 dưới quyền tướng Nguyễn Viết Thanh. Đây là một thuận lợi cho cách mạng vì ở vị trí này Nguyễn Hữu Hạnh nắm trong tay Quân đoàn 4 có quyền sinh sát ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Quân đoàn 4 rất mạnh, có nhiệm vụ án ngữ miền Tây trong ý đồ chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu. Trong cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963, chính Nguyễn Hữu Hạnh đã ngầm ủng hộ tướng Dương Văn Minh bằng cách khuyên tướng Huỳnh Văn Cao, lúc đó là Tư lệnh Quân đoàn 4 án binh bất động, không đưa lực lượng Quân đoàn 4 về giải vây, giúp cho cuộc đảo chính của Dương Văn Minh thành công. Trường hợp Quân đoàn 4 kéo về Sài Gòn, tình thế cuộc đảo chính lúc ấy rất có khả năng sẽ chuyển hướng.
Bất ngờ nghỉ hưu non
Năm 1968, dưới sức ép của Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu phải chấp nhận cho tướng Dương Văn Minh về nước, kết thúc một thời gian dài sống lưu vong tại Thái Lan. Nguyễn Hữu Hạnh được Trung ương Cục miền Nam giao một nhiệm vụ quan trọng: tiếp cận và vận động Dương Văn Minh.
Nguyễn Hữu Hạnh lúc mang quân hàm chuẩn tướng (Ảnh: Tư liệu).
Đây chính là thời cơ thể hiện tầm quan trọng trong nhiệm vụ của Nguyễn Hữu Hạnh. Câu chuyện trước đó như sau:
Năm 1960, theo yêu cầu của Ban Binh vận Xứ ủy Nam Bộ (sau này là
Trung ương Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục Địch vận
đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt là
em ruột Dương Văn Minh về Cục Địch vận để giao nhiệm vụ về miền Nam vận
động Dương Văn Minh. Dương Thanh Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty.Tháng 8 năm 1962, đồng chí Mười Ty móc nối được với gia đình, tìm hiểu thái độ của Dương Văn Minh. Mọi việc được thuận lợi, Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình, Dương Văn Minh hứa sẽ tìm cách.
Ngày 1/ 1/ 1963, trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam cộng hòa. Trong thời gian làm Quốc trưởng, Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng: Ra lệnh hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược.
Từ chối yêu cầu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Namara và tướng Harkin để cho Mỹ ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng, vì làm như thế là “inhumain” (vô nhân đạo). Không trả lời đề nghị yêu cầu chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc) của đại sứ Cabot Lodge. Và theo lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập chính phủ liên hiệp.
Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý đồ của người Mỹ, cuối tháng 1/1964, Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cộng hòa cũng bằng một cuộc đảo chính. Mỹ chỉ thị cho chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh lên đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan, sau đó lại chuyển sang lưu vong ở Thái Lan, có sự giám sát của CIA.
Khi Dương Văn Minh được về nước, chấm dứt thời gian sống lưu vong, cuối năm 1970, theo chỉ đạo của Trung ương và Trung ương Cục miền Nam, Ban Binh vận Trung ương Cục tìm một người thay thế nhiệm vụ của đồng chí Mười Ty để tiếp tục tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Và người được chọn là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
Mọi việc đang trên đà tiến triển thuận lợi thì Nguyễn Hữu Hạnh đột ngột bị thuyên chuyển lên Tây Nguyên làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 2 dưới quyền tướng Ngô Du. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành phải lên xuống Tây Nguyên để tiếp xúc với Nguyễn Hữu Hạnh và thông báo nhiệm vụ khi cần thiết.
Bất ngờ, ngày 15 tháng 5 năm 1974, Nguyễn Hữu Hạnh nhận được quyết định về hưu do chính Nguyễn Văn Thiệu ký khi ông mới 48 tuổi. Lý do là Nguyễn Hữu Hạnh đã phục vụ trong quân đội quá thời gian quy định. Ý đồ sâu xa của Nguyễn Văn Thiệu là loại bỏ bớt những tướng tá ngả theo Dương Văn Minh.
Theo Duy tường/ CAND
Tài liệu về Việt gian NCK
Nguồn:http://www.buinhuhung.com/Nghi_Ank/NCK/Vieetj_Gian_NCK_Chayj_Tyj_Nanj.htm Xin xem thêm... PHONG TRÀO PHẢN CHIẾN VIỆT NAM |