Thứ Hai, 20 tháng 6, 2016

Tiếp theo...PHONG TRÀO PHẢN CHIẾN VIỆT NAMXin xem thêm... PHONG TRÀO PHẢN CHIẾN VIỆT NAM

Tiếp theo...
Xin xem thêm...
PHONG TRÀO PHẢN CHIẾN VIỆT NAM
   
  1. Nhìn lại phong trào phản chiến
    trong cuộc chiến tranh VN
    Trọng Đạt



    CUỘC CHIẾN TẠI ĐẤT NHÀ

    Phản chiến từ 1965 tới 1971.

    Giữa thập niên 60, nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các phương tiện truyền tin tối tân như truyền hình đã đem tin tức, hình ảnh chiến sự tới người dân khiến cho phong trào chống chiến tranh tại Mỹ bùng nổ mạnh. Phong trào chống đối chính phủ Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến Việt nam sở dĩ có ý nghĩa, lớn mạnh là vì đây là lần đầu tiên chiến tranh đã được giới truyền thông đưa vào quảng đại quần chúng

    Từ sau 1975 đến nay, nhiều người thuộc mọi giới quân sự, chính trị, ký giả, sử gia… đã nhìn nhận phản chiến là nguyên nhân quan trọng nếu không nói là hàng đầu đưa tới sụp đổ Đông Dương. Hành pháp Hoa Kỳ đã thua tại mặt trận đất nhà, War at home chứ không phải tại chiến trường.

    Chiến tranh Việt Nam lần thứ hai bắt đầu từ 1957, 1958… khi CS nằm vùng tại miền Nam bắt đầu dùng vũ khí bén nhọn dao găm, mã tấu để giết hại các trưởng ấp nhưng thực sự bắt đầu từ giữa thập niên 60. Năm 1964, lợi dụng tình hình chính trị xáo trộn BV gia tăng xâm nhập, chính phủ Hoa kỳ gửi cố vấn và viện trợ quân sự cho miền Nam . Năm 1965 Hoa Kỳ leo thang chiến tranh, đổ quân vào miền Nam khi BV ngày càng gia tăng áp lực, phong trào phản chiến cũng bắt đầu thành hình và phát triển theo thời gian như sau:

    Ngày 2-5-1964 một trăm sinh viên diễn hành qua Times Square tại New York city, trong khi đó tại San Francisco có 700 người tham gia diễn hành, ngoài ra tại Boston, Seattle, Madison cũng có biểu tình nhưng ít hơn.

    Ngày 24-5-1965 Một tổ chức chống chiến tranh của sinh viên tên là Student for a Democratic Societ lần đầu biểu tình tại Đại Học Michigan gồm 2,500 người tham dự, họ đã được 35 đại học khác trong toàn quốc hưởng ứng.

    Ngày 17-4-1965 có 25,000 người diễn hành tại Washington DC chống chiến tranh Việt Nam, tháng 5 lần đầu tiên tại Đại học Berkeley một nhóm chống chiến tranh đã đốt thẻ trưng binh, khoảng 30,000 người biểu tình tới Văn phòng trưng binh địa phương, họ đốt hình nộm Tổng thống Lyndon Johnson.

    Mặc dù có biểu tình phản chiến nhưng theo thăm dò của viện Gallup, tháng 5-1965 có 48% những người được hỏi tin tưởng chính phủ, 28% không tin, số còn lại không có ý kiến. Hạ tuần tháng 8 viện Gallup thăm dò cho thấy có 24% trong số được hỏi chống gửi quân sang Việt Nam , 60% đồng ý cho là không có gì sai trái.

    Giữa tháng 10-1965, phản chiến lên cao và lan mạnh trở thành phong trào thế giới kéo hàng trăm ngàn người tham gia cùng một lúc tại 80 thành phố lớn tại Mỹ và cả tại Luân Đôn, Paris, La Mã…

    Ngày 2-11-1965 Norman Morrison, 31 tuổi, nhà tranh đấu cho hòa bình tự thiêu dưới cửa sổ tầng thứ ba của Bộ trưởng quốc phòng McNamara tại Ngũ Giác Đài y như nhà sư Thích Quảng Đức năm 1963.

    Ngày 27-11-1965 khoảng 40,000 người chống chiến tranh tới bao vây Tòa Bạch Ốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, cũng trong ngày này Tổng thống Johnson cho tăng quân leo thang từ 120,000 người tới 400,000 người tại Việt Nam.

    Qua năm 1966 tình hình phản chiến đã gia tăng hơn trước, tháng 2 một nhóm 100 cựu chiến binh phản chiến tới Tòa Bạch Cung định ném trả huy chương nhưng bị đẩy lui.

    Ngày 26-3-1966 phong trào phản chiến lan rộng toàn quốc và cả trên thế giới, tại New York có 20,000 người tham gia tại New York . Các cuộc thăm dò của viện Gallup cho biết 59% tin rằng chính phủ gửi quân sang Việt Nam là đúng.

    Tháng 5-1966 một cuộc biểu tình lớn khoảng 10,000 người kêu gọi chấm dứt chiến tranh bên ngoài Tòa Bạch Cung, đài kỷ niệm Washington .

    Thăm dò viện Gallup số người ủng hộ chính phủ xuống còn 41%, số chống đối tăng lên 37%, số còn lại không có ý kiến. Trong khi đó tại Luân Đôn ngày 3-7 có khoảng 4,000 người chống chiến tranh va chạm với cảnh sát bên ngoài tòa đại sứ Mỹ.

    Như vậy trong năm 1966 mặc dù phản chiến có gia tăng hơn trước nhưng số người ủng hộ chính phủ tương đối vẫn còn cao hơn số người chống chiến tranh

    Năm 1967 ngày 14 tháng 1 có từ 20,000 tới 30,000 người chống chiến tranh tại Golden Gate Park San Francisco.

    Ngày 8-2-1967 Những người Thiên chúa giáo chống chiến tranh mở chiến dịch ăn chay vì hòa bình trên toàn quốc. Ngày 17-3-1967 một nhóm phản chiến tới Ngũ giác đài chống chính phủ can thiệp vào VN.

    Ngày 25-3-1967 nhà tranh đấu nhân quyền (Civil-rights leader) Luther King dẫn 5,000 người biểu tình chống chiến tranh tại Chicago .

    Ngày 15-4-1967 400,000 người biểu tình phản chiến tại New York city, họ đi từ Central Park tới trụ sở Liên Hiệp Quốc, cùng ngày có 100,000 người diễn hành tại Francisco.

    Ngày 2-5-1967 nhà triết gia Anh Bertrand Russsell chủ tọa phiên xử của tòa án Russell tại Stockholm kết án Mỹ và đồng minh phạm tội ác chiến tranh tại VN.

    Ngày 1-6-1967 hội Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans Against The War) đã được thành lập.

    Ngày 30-7-1967 Viện Gallup thăm dò cho thấy 52% người Mỹ chống chính sách Johnson, 41% cho là sai lầm, 56% cho rằng Mỹ sẽ thua (losing the war) hoặc bế tắc (at an impasse).

    Ngày 28-8-1967 dân biểu Tim Lee Carter Cộng Hòa, Kentucky nói:

    “Chúng ta còn mạnh, hãy đem hết quân về nước, Việt Cộng chiến đấu hăng vì đó là nước của họ và chúng ta người ngoại quốc can thiệp vào nội bộ nước họ. Khi cần chiến đấu chúng ta chỉ chiến đấu tại đất nước ta hoặc tại bán cầu này”

    Tháng 10-1967 tuần lễ chống động viên (Stop the draft) gây nhiều sô sát ở Oakland , California , hàng ngàn người trên toàn quốc trả thẻ động viên.

    Ngày 21-10-1967 hàng 100,000 người biểu tình tại Lincoln Memorial, Hoa Thịnh Đốn, sau đó 30,000 người diễn hành tới Ngũ Giác Đài, họ tổ chức thức đêm không ngủ.

    Như chúng ta thấy theo thời gian từ 1965 tới cuối 1967, tỷ lệ những người ủng hộ chính phủ giảm dần và tỷ lệ những người phản chiến ngày một cao hơn, con số thăm dò cho thấy cán cân nghiêng nhiều về phía chống.

    Tháng 2-1968 Viện Gallup thăm dò cho thấy 35% ủng hộ Johnson, 50% chống, số còn lại không ý kiến, trong một thăm dò khác có 31% là Bồ câu (Doves) chủ trương hòa bình và 61% Diều hâu (Hawks), chủ trương đánh mạnh.

    Ngày 12-3-1968 ứng cử viên phản chiến Eugene Mc Carthy được nhiều phiếu hơn dự định trong cuộc bầu cử sơ bộ tại New Hampshire cho thấy ý nghĩa của phản chiến đã rõ ràng hơn.

    Ngày 17-3-1968 cuộc biểu tình tụ họp trước tòa Đại sứ Mỹ tại Luân Đôn trở thành bạo động, 86 người bị thương, 200 bị bắt, hơn 10,000 người biểu tình ôn hòa ở công trường Trafalgar nhưng bị cảnh sát ngăn chận.

    Tháng 3-1968 Viện Gallup thăm dò cho biết 49% được hỏi cho biết can thiệp vào VN là sai lầm.

    Ngày 17-4-1968 truyền thông quay phim cảnh bạo động tại Berkeley Cali, cảnh đàn áp của cảnh sát được chiếu tại Ba Lê, Bá Linh khiến cho dân chúng tại đây cũng phản ứng.

    Thăm dò tháng 8-1968 của Viện Gallup cho biết 53% nói gửi quân sang VN là sai lầm.

    Năm 1968 sau trận tổng công kích tết Mậu Thân, truyền thông Mỹ thổi phồng thắng lợi của CS khiến phong trào chống đối lên cao dữ dội, người dân Mỹ không còn tin tưởng vào chính phủ. Phong trào phản chiến tạo hy vọng cho CSBV, họ chỉ mong có thế, sau biến cố Tết mậu thân người dân Mỹ không tin chính phủ có thể thắng CS, vả lại trong năm 1968, số tử thương của quân đội Mỹ tại VN tăng lên quá cao 16,592 người (gồm lính Mỹ chết tại mặt trận và chết vì những lý do khác) khiến phong trào chống chính phủ đã trở nên quyết liệt hơn.

    Tháng 3-1969 (dưới thời Nixon) Gallup thăm dò cho thấy 19% dân Mỹ muốn sớm chấm dứt chiến tranh, 26% muốn VN hóa chiến tranh, 19% ủng hộ chính phủ, 33% muốn đánh CS tới chiến thắng.

    Tháng 7 năm 1969 viện Gallup thăm dò cho thấy 53% dân chúng ủng hộ Nixon, 30% không ủng hộ (New York times, July-31-69).

    Ngày 15-10-1969 hàng triệu người Mỹ bỏ học, nghỉ việc để tham gia chống chiến tranh tại địa phương của mình, đây là những chống đối đầu tiên với chính phủ Nixon. Ngày 15-11-1969 có tới nửa triệu người tham gia biểu tình phản chiến tại Hoa Thịnh Đốn và một cuộc biểu tình tương tự ở San Francisco do Tân ủy ban vận động chấm dứt chiến tranh VN (New Mobilization Committee to End the War in Vietnam - New Mobe) và Ủy ban vận động sinh viên chấm dứt chiến tranh VN (Student Mobilization Committee to End the War in Vietnam - SMC).

    Tháng 10-1969 Viện Gallup thăm dò cho thấy 58% số người được hỏi nói chiến tranh VN là một sai lầm.

    Sang năm 1970 tình hình găng hơn trước khi Mỹ yểm trợ cho VNCH tấn công qua Miên cuối tháng 4-1970, ngày 4-5-1970 bốn sinh viên bị bắn chết trong một cuộc biểu tình tại Đại học Kent Ohio, một tuần sau có hằng 100 ngàn (100,000) người biểu tình tại Washington D.C chống đối việc bắn chết sinh viên và đưa quân sang Miên. Cảnh sát dùng xe bus bao vây xung quanh tòa Bạch Cung để ngăn cản đám biểu tình. Từ sáng sớm trước khi có biểu tình, Nixon tiếp xúc họ tại đài Tưởng niệm Lincoln nhưng không giải quyết được gì, cuộc biểu tình vẫn tiếp diễn.

    Sinh viên toàn quốc bãi khóa (National Students Strike), hơn 450 trường đại học, trung học đóng cửa, có 4 triệu sinh viên tham gia, kể cả ôn hòa cũng như bạo động, đó là cuộc bãi khóa toàn quốc duy nhất trong lịch sử Mỹ.

    Thăm dò Gallup tháng 5-1970 cho thấy 56% ý kiến nói gửi quân sang VN là sai lầm.

    Ngày 29-8-1970 có 25,000 người Mỹ gốc Mễ tham gia biểu tình tại Los Angeles, cảnh sát dùng lựu đạn cay đàn áp, đám biểu tình bị giải tán, có hai người chết. Cảnh sát tấn công một quán gần đó bắn chết Ruben Salazar, chủ nhiệm báo Kmex bằng súng phóng lựu đạn cay.

    Theo Nixon trong No more Vietnams (trang 126-127) tình hình chống đối chiến tranh Đông Dương gia tăng mạnh năm 1969. Năm 1968 thời Johnson phản chiến nói chung bất bạo động như biểu tình, đốt thẻ trưng binh nhưng sang năm 1969 khi Nixon lên làm TT đã tiến tới bạo động, sinh viên bắn cảnh sát, dùng dao uy hiếp ban giám đốc nhà trường, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học.

    Năm 1969-1970 có 1,800 cuộc chống đối biểu tình, 7,500 người bị bắt, 247 vụ đốt nhà, 462 người bị thương, trong số này 2/3 là cảnh sát, 8 người chết. Bạo lực không chỉ ở trường học mà còn lan ra toàn quốc. Từ tháng 1-1969 tới tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném bom, âm mưu ném bom hoặc đe doạ ném bom hầu hết có liên hệ tới cuộc chiến, gây thiệt hại 21 triệu về tài sản, 43 người chết, mấy trăm người bị thương.

    Sau khi chính phủ loan báo giúp VNCH hành quân sang Căm Bốt tháng 4-1970 thì một làn sóng chống đối bạo động lan tràn trong nước. Tại đại học Maryland có 50 người bị thương trong cuộc đụng chạm với cảnh sát khi họ khám xét phòng huấn luyện sĩ quan trừ bị (ROTC). Tại Kent, Ohio hàng trăm người biểu tình đứng nhìn hai người phóng hoả đốt phòng ROTC (Đại học Kent ) cháy rụi, Thống đốc Ohio kêu gọi quân đội tới can thiệp. Ít ngày sau một đám sinh viên ném gạch đá vào quân đội, đẩy họ lên một ngọn đồi. Lên trên đồi lính quay lại, vài người nổ súng, 4 người chết gồm 2 người biểu tình và 2 người đi coi biểu tình. Tháng 8 -1970 một xe van có chất nổ phát hoả nổ tung tại Đại học Wisconsin khiến 1 sinh viên chết, 4 người bị thương gây thiệt hại 6 triệu đồng. Nixon cho biết hành động của sinh viên đã khuyến khích Bắc Việt gây chiến không chịu đàm phán.

    Năm 1971, 1972 việc không thi hành quân dịch tại VN sau này trở thành vấn đề đối với các chính trị gia, ứng cử viên. Những người bị chỉ trích gồm phó Tổng thống Dan Quayle, Dick Cheney, Tổng thống Bill Clinton, George w. Bush, Thượng nghị sĩ Norm Cloleman (Minesota).

    Bên Úc cũng có phản chiến như bên Mỹ. Ngày 23-4-1971 Cựu chiến binh Mỹ tại VN trả lại 700 huy chương trên thềm phía Tây điện Capitol. Hôm sau có khoảng 500 ngàn người phản chiến, được coi là cuộc biểu tình lớn nhất từ sau cuộc diễn hành tháng 11-1969.

    Hai tuần sau vào ngày 5-5-1971 có 1,146 người bị bắt tại điện Capitol vì âm mưu đóng cửa Quốc hội. Tổng số người bị bắt trong cuộc biểu tình vượt quá con số 12,000.

    Ngày 19-4-1972 chính phủ gia tăng oanh tạc BV khiến sinh viên toàn quốc tràn vào các trường đại học đe dọa bãi khóa, tuần sau lại biểu tình phản chiến tại New York, San Francisco, Los Angeles và nhiều nơi khác.

    Ngày 13-5-1972 biểu tình trên toàn quốc chống Nixon cho thả mìn phong tỏa cảng Hải Phòng và mở lại những cuộc oanh tạc BV. Cuộc oanh tạc Hà Nội ngày 24-12-1972 khiến Thủ tướng Thụy điển Olop Palme phản đối kịch liệt, ông cho hành động đó tàn ác như Đức Quốc Xã và Sô viết khiến bang giao Mỹ-Thụy điển lạnh nhạt cho tới tháng 3-1974.

    Nhìn chung cho tới cuối 1968 tổng số lính Mỹ tử thương ở Việt nam lên 35,751 ngàn người (kể cả chết ngoài mặt trận và vì nhiều lý do khác) vượt quá dự đoán và cuộc chiến chưa biết bao giờ hết khiến đa số dân Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước. Người dân ủng chiến tranh VN giảm dần từ thập niên 60 và hai năm đầu thập niên 70. William L. Lunch và Peter W. Sperlich thu thập dữ kiện ý kiến chung đo lường sự ủng hộ chiến tranh từ 1965 tới 1971 như dưới đây (nguồn Wikipedia)

    Tháng, năm - Tỷ lệ (những người ủng hộ)

    8-1965 - 61%
    3-1966 - 59%
    5-1966 - 49%
    9-1966 - 48%
    11-1966 - 51%
    2-1967 - 52%
    5-1967 - 50%
    7-1967 - 48%
    10-1967 - 44%
    12-1967 - 48%
    2-1968 - 42%
    3-1968 - 41%
    4-1968 - 40%
    8-1968 - 35%
    10-1968 - 37%
    2-1969 - 39%
    10-1969 - 32%
    1-1970 - 33%
    4-1970 - 34%
    5-1970 - 36%
    1-1971 - 31%
    5-1971 - 28%

    Nhìn bảng so sánh tỷ lệ người ủng hộ chúng ta thấy số người ủng hộ ngày một giảm và như vậy số người chống ngày càng tăng: Từ cuối 1965 tới cuối 1966 số người ủng hộ giảm từ 61% xuống còn 51%, từ đầu 1967 tới cuối 1967 giảm từ 52% xuống còn 45%, từ đầu 1968 tới tháng 10-1968 giảm từ 42% xuống còn 37%, từ đầu 1969 tới tháng 10-1969 giảm từ 39% xuống 32%, từ đầu 1970 tới giữa 1971 giảm từ 33% xuống còn 28%.

    Những nguyên nhân và các tổ chức.

    Những lý do chính đưa tới phản chiến như chống quân dịch, lý do đạo đức, vấn đề hợp lý, những lý luận thực tiễn. Chính sách động viên khiến giới nghèo trung lưu phải nhập ngũ. Những người phản chiến vì lương tâm tuy ít nhưng tích cực, việc động viên cũng không được công bằng khiến giới bình dân Mỹ và da đen chống quân dịch ngoài ra do những tin tức không kiểm duyệt được phổ biến rộng rãi trên TV cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới phong trào.

    Ngoài việc chống quân dịch, giới sinh viên thường lấy lý do đạo đức chống lại chính sách can thiệp cũa Mỹ vào VN. Đường lối của sinh viên khác với các thành phần dân chúng, họ tố cáo chính phủ có tham vọng đế quốc, chỉ trích chiến tranh vô nhân đạo. William F. Petter viết hàng triệu trẻ em đã bị giết, bị đốt cháy tại cuộc chiến VN, hình Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn một tên Việt Cộng trong dịp Tết Mậu Thân cũng tạo dư luận phản chiến ầm ỹ.

    Một yếu tố khác của phản chiến là nhận thức về sự can thiệp của Mỹ qua thuyết Domino về sự đe dọa của CS không hợp lý. Có người cho thuyết Domino chỉ là con ngáo ộp che dấu tham vọng đế quốc, có người cho Mỹ can thiệp vào VN là can dự vào quyền dân tộc tự quyết của họ.

    Người Mỹ bị phân hóa vì chiến tranh VN, những người ủng hộ cho rằng theo thuyết Domino hễ mất một nước các nước lân cận sẽ mất y như trong ván bài domino. Những nhà quân sự phản chiến cho rằng sự xung đột VN là một vấn đề chính trị, vai trò quân sự không thể hoàn thành mục tiêu. Nhóm phản chiến dân sự cho chính quyền miền Nam không hợp pháp về chính trị, yểm trợ cho nam VN là thiếu đạo đức, vô nhân đạo.

    Khi người dân càng bất mãn với sự can thiệp của chính phủ vào VN, một số tổ chức chống chiến tranh được thành lập như Ủy ban bất bạo động (Committee for Non - violent action - CNVA), một tổ chức hòa bình chịu ảnh hưởng của Ghandi, dùng bất tuân dân sự (civil disobedience) chống lại hành động quân sự. Ủy ban nguyên tử phụng sự hòa bình (Committee for sane nuclear Policy - SANE) một tổ chức quốc tế thành lập từ 1957.

    Từ thập niên 60 tại các trường đại học sinh viên tham gia những phong trào chính trị như chống chiến tranh, phong trào phản chiến trở thành đảng, họ chống lại những truyền thống Mỹ. Những hoạt động chính trị xâm nhập vào các trường đại học rất mạnh như tổ chức sinh viên Những Người Mỹ Trẻ Cho Tự Do (The Young Americains For Freedom – YAF), tổ chức bảo thủ tại một khu đại học thập niên 60, mục đích chính phát huy chủ trương bảo thủ, nguyên tắc chính là ngăn chặn bành trướng Cộng Sản, ủng hộ chính phủ Mỹ trong chiến tranh VN. Phong Trào Sinh viên Tự Do (Student Libertarian Movement) thành lập 1972 nguyên tắc chống chiến tranh, chống động viên.

    Phong trào ngày càng lớn mạnh, tháng 11-1965 hai người phản chiến tự thiêu khiến cho người ta thấy chiến tranh vô nhân đạo. Ngày 2-11, một người tự thiêu trước Ngũ Giác Đài tên Norman Morrison 32 tuổi thuộc giáo phái Quaker. Ngày 9 tháng 11, một người nữa tên Roger Allen La Porte thuộc Catholic Worker Movement tự thiêu trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York City, họ học theo các nhà sư tranh đấu bên VN.

    Phản chiến bắt đầu từ cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 đa số tại Mỹ, phong trào đã khiến chính phủ báo động, người ta bắt đầu điều tra những kẻ tình nghi giúp Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Biến cố Tết Mậu Thân 1968 đã khiến người Mỹ thay đổi lối nhìn của họ về chiến tranh VN. Giới chức quân sự trước đó báo cáo tình hình miền Nam đã được ổn định, trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu thân Mỹ và VNCH đã thắng lớn, CS bị thảm bại nhưng truyền thông Mỹ kể cả khuôn mặt đáng kính như Walter Cronkite đã nói ngược lại, họ thổi phồng thành chiến thắng của CS khiên người dân không tin vào chính phủ và chống chiến tranh mạnh hơn trước, họ nghĩ chính phủ sẽ không thể thắng cuộc chiến tại VN.

    Ngày 15-10-1969 hàng trăm ngàn người đủ thành phần phản chiến toàn quốc tuy nhiên cũng không rõ tỉ lệ thành phần những người tham gia. Cuộc tàn sát Mỹ Lai được dùng làm tiêu biểu cho hành động ô nhục của quân đội.

    Người Mỹ cho rằng VNCH cần được thu phục nhân tâm nên họ cũng đã thực hiện nhiều công tác dân dụng để giúp dân. Những đơn vị Mỹ do quân đội quản lý lo kiến thiết trường học, đường xá, công sở, mở mang chương trình y tế để giúp dân và để thu phục nhân tâm. Tuy nhiên những cuộc oanh tạc tàn phá làng mạc, những vụ thảm sát thường dân như Mỹ Lai đã mang lại hậu quả trái ngược vì mất lòng dân.

    Mặc dù có nhiều tin xấu về chiến sự nhưng dưới thời Johnson, người dân vẫn ủng hộ hành pháp, ngoài thuyết Domino, nhiều người cũng nghĩ tới việc giữ thể diện trong trường hợp phải rút quân như Tổng thống Nixon nói “Mang lại hòa bình trong danh dự”. Ngoài ra tội ác của CS cũng đã được phổ biến sâu rộng như bài “Bàn tay đẫm máu của Hồ chí Minh” trong báo Reader’s Digest năm 1968.

    Tuy nhiên tư tưởng phản chiến vẫn lên cao, nhiều người chống chiến tranh vì căn bản đạo lý trước sự tàn phá gây ra cho thường dân, nhiều người cho chính phủ Hoa Kỳ xâm phạm độc lập của VN hoặc can thiệp vào nội chiến của một nước khác. Những người phản chiến khác cho mục đích cuộc chiến không rõ ràng và không thể thắng được CS.

    Năm 1968 Johnson chuẩn bị tái tranh cử, ngày 31-3 ông tuyên bố rút lui, ông cũng thông báo bắt đầu thương thuyết với Hà Nội. Robert Kennedy ra tranh cử sơ bộ 16-3 với chủ trương phản chiến, rút quân, phó tổng thống Humphrey cũng ra tranh cử sơ bộ, ông hứa tiếp tục ủng hộ VNCH.

    Nghe lời khuyên của các nhà thông thái, cuối tháng 3-1968 Johonson tuyên bố không ra tái tranh cử, ông đã viết trong hồi ký như sau.

    “Lo ngại lớn nhất của tôi không phải là vấn đề Việt Nam … mà chính là sự chia rẽ bi quan tại Mỹ… Tôi dùng bài diễn văn sắp đến như một cơ hội để lấy lại sự cân bằng cũng như mở rộng một sự hiểu biết tốt đẹp hơn. Tôi biết rõ ràng rằng sự sụp đổ của mặt trận tại đất nhà là những gì Hà Nội mong chờ” (Nguyễn Đức Phương - Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 34.)

    Như vậy chính Johnson đã công nhận hành pháp Hoa Kỳ trúng kế của CSBV, họ đã nỗ lực đổ thêm dầu vào ngọn lửa phản chiến tại đất nhà.

    Người Mỹ nói, đất nước dân tộc đã bị phân hóa, a people divided. Thật vậy toàn bộ nước Mỹ bị phân hóa vì chiến tranh VN, phe chống chiến tranh và phe ủng hộ chính phủ thường ẩu đả nhau vì lập trường trái ngược. Nhiều người cho rằng phản chiến do những cuộc biểu tình của sinh viên nhưng có lẽ quan trọng hơn là hai nguồn chống đối khác đó là những người nghèo và dân tộc thiểu số. Họ không được hoãn dịch vì lý do học vấn, dân da đen bị gọi nhập ngũ vì chính phủ cần nhân lực cho cuộc chiến tranh của Tổng thống Johnson khiến họ nghi ngờ chính phủ. Suốt thời kỳ chiến tranh VN, có 11 triệu người Mỹ đã phục vụ (luân phiên) cho ngành Quốc phòng, 2 triệu người đã (luân phiên) ở VN, 600 ngàn đã trốn quân dịch, trong số này 200 ngàn bị buộc tội trốn quân dịch; 300 ngàn tìm cách xin hoãn dịch bị từ chối; 170 ngàn được hoãn dịch, khoảng từ 30 cho tới 50 ngàn người trốn sang Canada và 20 ngàn người trốn tại Mỹ hay ra ngoại quốc (theo “The Vietnam War, A History In Documents”). Phong trào chống lệnh trưng binh lên cao.

    Mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tuyên bố chống chiến tranh tháng 7-1965, ông ta tránh đề cập tới chiến tranh một thời gian nhưng cuối 1966 ông nản lòng khi thấy chiến tranh leo thang và phản chiến lan rộng tại Mỹ. Trong khi ấy hai phe phản chiến và ủng hộ chính phủ đánh nhau vì bất đồng chính kiến. Tháng 3-1967 Luther King dẫn đầu phong trào antiwar tại Chicago . Ngày 4-4-1967 tại nhà thờ Riverside Church New York ông đã lớn tiếng chống đối chính sách chiến tranh của chính phủ, King vừa đòi nhân quyền vừa chống chiến tranh, ông bị ám sát năm 1968.

    Ngay trong quân đội cũng có những người chống chiến tranh, năm 1967 có 6 cựu quân nhân thành lập một tổ chức lấy tên Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans Against The War gọi tắt là VVAW), năm 1970 VVAW có 600 hội viên, mấy năm sau tăng gấp bội. Tháng 1-1971, họ tổ chức thuyết trình tại Detroit, 100 người cựu chiến binh dẫn chứng tội ác chiến tranh, từ 19-4 tới 23-4-1971 họ biểu tình tại Washington D.C rồi cắm dùi tại công viên Potomac Park. Những người này đã vận động Quốc Hội để sớm chấm dứt chiến tranh.

    Bọn họ tố cáo lính Mỹ khi hành quân vào các làng mạc ở Việt Nam đã hãm hiếp, đốt làng, cắt tai, chặt đầu người dân y như quân Mông cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn.

    Năm 1970, phó Tổng Thống Agnew tuyên bố tại trường Wespoint rằng chỉ có một thiểu số phóng đại những mặt xấu của bọn lưu manh côn đồ nhưng thực ra đa số chiến sĩ ta đã chiến đấu, chết tại những cánh đồng lúa Á Châu để bảo vệ tự do trong khi một thiểu số lợi dụng làm bậy. Bọn phản chiến đã dùng điểm này để công kích nỗ lực của ta ở Việt Nam .

    Những cựu chiến binh này nói người dân Mỹ đã bị chính phủ đánh lừa, ta không thể thắng được cuộc chiến này nếu cứ tiếp tục như vậy, ta phải rút bỏ Việt Nam, họ nói tình hình Việt Nam không có gì để đe dọa Hoa Kỳ, thuyết môi hở răng lạnh là sai (The Vietnam War… trang 126).

    Xã hội, đất nước bị phân hóa vì chiến tranh VN. Nhóm phản chiến in những tờ yết thị kêu gọi chấm dứt chiến tranh như một bích chương kêu gọi người da đen có in hình hai người lính da đen đang hành quân:

    “Thời gian ra trận là chỉ có chết … Đa số lính da đen ở Việt Nam phải ra tiền tuyến để chiến đấu và chết cho cuộc chiến này, hãy chấm dứt chiến tranh vì nó sát hại chúng ta… (The Vietnam War, A History In Documents trang 144) ”

    Một tờ yết thị khác cho thấy ngân quĩ chính phủ Johnson dành cho chương trình chống nạn nghèo đói đã chuyển sang cho chiến tranh VN. Tổng thống hy vọng vừa giải quyết nạn nghèo đói vừa giải quyết chiến tranh, nhưng cuối cùng chỉ giải quyết chiến tranh. Họ đăng hình hai ông Tướng Thiệu, Kỳ trông rất dữ tợn, nhe răng trợn mắt và viết.

    “Bọn họ ăn hết của chúng ta, ăn hết cả nhà cửa, thành phố, trường học y tế, môi trường... bọn họ là Tổng thống Thiệu và Phó Tổng thống Kỳ, các quân nhân cầm quyền ở Việt Nam. Năm nay họ đã hút của ta 13 tỉ để xử dụng vào bộ máy chiến tranh của họ. Số tiền này đủ để xây 2,000 trường trung học, 10,000 chung cư bình dân, phục vụ y tế cho 165, 000 bệnh nhân, tăng chương trình chống ô nhiễm lên gấp 10 lần. (Trang 144, sách đã dẫn)

    Những tờ yết thị, bích chương đầy những hình ảnh khích động chống chiến tranh đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng khiến cho phong trào ngày càng lên cao. Những nhà báo, ký giả, phóng viên Mỹ săn tin chiến tranh ở Việt Nam về viết bài phóng sự chống chiến tranh thổi phồng những khía cạnh xấu của cuộc chiến, lên giọng đạo đức giả xuyên tạc sự thật. Tại Âu châu phong trào phản chiến cũng bộc phát không kém phần vì Pháp bị Mỹ hất cẳng ra khỏi Đông Dương 1955 nay thọc gậy bánh xe phá Mỹ.

    Sau trận Điện Biên Phủ Pháp cay cú Mỹ đã không giúp họ để thắng trận, năm 1955 lại bị ông Diệm hất cẳng ra khỏi VN nên đã trả thù bằng cách bài kích Mỹ và VNCH suốt cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Pháp tuyên truyền không công cho Hà Nội, trắng trợn hơn nữa họ còn cho Mặt Trận Giải Phóng miền Nam đặt văn phòng chính thức tại Paris. Ngoài ra CSBV cũng được CS Quốc tế tiếp tay quảng bá tuyên truyền chống Mỹ.

    Tình hình phản chiến ở Hoa Kỳ từ 1965 đến 1971 khiến cho Hành pháp ngày một suy yếu, đất nước bị phân hóa, chính phủ vừa phải lo cuộc chiến Đông Dương vừa phải đối đầu với phong trào chống đối trong nước, nó xuất phát từ tâm lý của anh nhà giầu sợ chết, dù được che đậy dưới hình thức nào cũng không thể dấu diếm được cái bản chất hèn nhát của anh nhà giầu. Đầu năm 1969 có 35,751 người lính Mỹ chết tại Việt Nam , theo tin tức Mỹ riêng năm 1968 Cộng quân mất gần 290 ngàn cán binh, cho tới cuối 1968 có vào khoảng 500 ngàn Việt Cộngbị giết. Tính ra số tổn thất nhân mạng của Mỹ chỉ bằng 5% hoặc 10% so với số tử của CSBV nhưng CS không bao giờ có một lời than, người Mỹ đã sai lầm tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một người nghèo đói đánh thí quân.

    Phản chiến đã tạo niềm tin cho CSBV, họ chỉ chờ có thế. Vào những năm 1952, 1953 người dân Pháp lúc ấy quá chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh Đông Dương vừa chết người tốn của, trong suốt cuộc chiến tranh 1947-1954 đã có 19 chính phủ Pháp bị đánh đổ vì không giải quyết được cuộc chiến. CS chỉ trông chờ vào phong trào phản chiến để đối phương phải chán ghét rồi bỏ cuộc, chiến lược “cố đấm ăn xôi” của CSVN đã từng thành công từ cuộc chiến tranh Việt - Pháp nay họ lại đem áp dụng vào cuộc chiến tranh chống Mỹ.

    Hậu quả

    Qua các dữ kiện, con số thống kê nêu trên trích trong các sách báo, chúng ta có thể kết luận như sau:

    Trong những năm khởi đầu leo thang chiến tranh từ 1965, 1966 mặc dù có biểu tình phản chiến nhưng số người ủng hộ chính phủ ở tỷ lệ 60%, 50% vẫn còn cao hơn số phản chiến khá nhiều. Qua năm 1967 số người ủng hộ chính phủ giảm còn 45%, 46% trong khi số phản chiến tăng lên 50, 51%. Tình hình đã tỏ ra bất lợi cho chính phủ Johnson. Năm 1968 sau trận Tổng công kích Tết Mậu Thân, qua sự thổi phồng của truyền thông nhất là những phóng sự của Walter Cronkite đã khiến cho người dân Mỹ không tin tưởng chính phủ có thể thắng CSVN. Phong trào phản chiến ngày càng lên cao hơn, cuối 1968 số ủng hộ chính phủ tụt xuống còn 37%, số phản chiến vượt lên trên 50%.

    Sang năm 1969, Nixon lên nhậm chức Tổng thống người dân chưa chống đối mạnh vì tin tưởng ông sẽ mang quân về nước, tìm hòa bình trong danh dự, nhưng tháng 10-1969 họ bắt đầu bãi khóa, đình công chống đối mạnh mẽ, tỷ lệ ủng hộ tụt xuống còn 32%. Sau khi Nixon giúp VNCH tấn công qua Căm Bốt cuối tháng 4-1970, người dân càng chống đối dữ, ngày 4-5-1970 bốn sinh viên bị bắn chết trong một cuộc biểu tình tại Đại học Kent Ohio, một tuần sau có hằng 100 ngàn người biểu tình tại Washington D.C chống đối việc bắn chết sinh viên và đưa quân sang Miên.

    Các chính khách phản chiến bắt đầu dành được nhiều phiếu của những người chống đối để vào Quốc hội, cuộc chiến tại đất nhà đã bước sang một giai đoạn mới. Phe phản chiến đã có thực lực trong tay, họ nắm được Quốc hội, lá phiếu của họ đã bắt đầu tạo ảnh hưởng đè nặng trên vai hành pháp. Một phần các chính khách Dân chủ mị dân, họ tiếp tay với phong trào chống chiến tranh để giữ ghế của mình, vả lại ta thường thấy đảng nọ luôn luôn phá đảng kia.

    Bầu cử Tổng thống 7-11-1972 Nixon thắng 47 triệu phiếu phổ phông , 60.7% số phiếu bầu , hơn McGovern 18 triệu phiếu , thắng cử lớn nhất từ xưa tới nay

    Năm 1972 đảng Dân chủ nắm 242 ghế Hạ Viện, Cộng Hòa 192 ghế, Dân chủ nắm đa số, họ chống đối chiến tranh VN mạnh khiến Hành pháp gặp nhiều khó khăn.

    Cuối cùng Lập pháp gồm những vị dân cử phản chiến từ từ trói tay Hành pháp bằng những đạo luật khiến cho Tổng thống mất dần quyền hành trong cuộc chiến. Đầu năm 1973, Nixon ký Hiệp định Paris , đem về nước 587 tù binh.

    Người Mỹ ký hiệp định Ba Lê để rút ra khỏi vũng lầy VN đồng thời lấy lại tù binh và để để tránh cho nước Mỹ khỏi phải cấu xé nhau tan nát. TT Nixon khi tranh cử 1968 hứa sẽ mang lại hòa bình trong nhiệm kỳ, nay tháng 11 -1972 nhiệm kỳ đã kết ông bị thúc ép phải ký Hiệp định Paris gấp vả lại ông phải vội vã vì Quốc hội sắp ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VN để rút quân lấy lại 580 tù binh còn bị BV giam giữ.

    Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Đông Dương, được áp dụng từ giữa tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10-1973 Quốc Hội Mỹ ra Đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (Wars Powers Act), đòi hỏi Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.

    Quân phí của Hoa kỳ trong chiến tranh Đông Dương bị quốc hội cắt giảm. Dần dần VNCH bị Quốc hội Mỹ cắt giảm quân viện xương tủy từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, cón số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471).

    Bầu cử Hạ viện Năm 1974 khiến Dân chủ thắng thêm 49 ghế thành 291 ghế, Cộng hòa mất 48 ghế chỉ còn 144 ghế, Dân chủ chiếm đại đa số, 66.9% Hạ viện, Cộng hòa chỉ còn 33.1%

    Quốc Hội Dân Chủ kiên quyết chống chiến tranh VN, trả thù cho McGovern thất bại nhục nhã trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972 bằng cắt giảm viện trợ quân sự cho miền Nam như trên để bỏ rơi đồng minh. Theo lới kể của Kissinger (Years of Renewal trang 479) Hà Nội xây dựng hệ thống đường xâm nhập tổng cộng trên 20 ngàn km để vận chuyển nhiều xe tăng, đại bác, hỏa tiễn, phòng không vào Nam. Văn Tiến Dũng nói hệ thống đường này như những sợi thừng ngày này qua ngày khác quấn quanh cổ, chân , tay con quỷ (VNCH) đợi lệnh xiết cổ giết nó.

    Ngày 9-8-1974 Nixon từ chức vì vụ Watergate, Phó TT Gerald Ford lên thay, VNCH suy yếu vì bị cắt giảm viện trợ trong khi BV được Nga, Tầu tích cực giúp đỡ mở cuộc tấn công miền nam từ cuối năm 1974 tại Phước Long. TT Thiệu gửi thư cho TT Ford ngày 24 và 25 -1-1975 cho biết tình trạng thiếu thốn đạn dược tiếp liệu. Mặc dù Ford và Kissinger nỗ lực vận động tại Quốc hội để xin viện trợ bổ túc 300 triệu nhưng bị chống đối mạnh, họ tìm cách trì hoãn viện trợ, họ cử phái đoàn dân biểu sang Sài Gòn quan sát trong khi miền Nam đang sụp đổ dần dần

    Theo Kissinger đám người to mồm tại Quốc hội và truyền thông chống liên hệ giúp đỡ Sài Gòn, sự chống đối lên tới tột đỉnh khi họ mở chiến dịch chống cung cấp phương tiện tự vệ cho các nước Đông Dương lâm nguy. Họ không bao giờ ý thức được việc làm tàn ác của mình, đối với họ chỉ có sinh mạng của người Mỹ mới là quan trọng, sinh mạng của nhân dân Đông Dương như cỏ rác không đáng cứu vớt.Trong số báo Los Angeles Times ngày 6-3-1975 kêu gọi bác bỏ khoản viện trợ bổ túc mà còn đề nghị cắt bỏ viện trợ quân sự dưới mức 700 triệu dù đã được chấp thuận, những người này đã tiếp tay với Hà Nội xiết cổ VNCH.

    Theo Cựu Đại tướng Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87, 92) Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho Không quân VNCH phải giải tán hơn 200 phi cơ chiến đấu, oanh tạc, vận tải thám thính, giảm giờ bay thực tập và yểm trợ, yểm trợ giảm 50%, vận chuyễn trực thăng giảm 70%, không vận bằng vận tải cơ bị cắt giảm 50%. Hoạt động Hải quân bị cắt giảm 50%, hoạt động từ tháng 7-1974 ở sông ngòi giảm 70%, giải tán 600 giang thuyền…

    Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hỏa lực giảm trên 70%. Vào tháng 2-1975, số lượng đạn tồn kho của tất cả các loại súng trường, phóng lựu, súng cối, đại bác, lựu đạn… tuột xuống con số nguy hiểm, chỉ còn đủ xử dụng từ 25 đến 31 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày.

    Và cuối cùng trước áp lực CSBV quá mạnh, với tình trạng đạn dược tiếp liệu bị cắt giảm tới xương tủy, miền Nam sụp đổ.

    Tổng thống Johnson đã được nhiều thuận lợi lúc cuộc chiến tại Việt Nam bắt đầu leo thang nhưng đã đưa phản chiến lên cao. Kế hoạch đánh giới hạn mục đích hăm dọa BV để họ phải đàm phán là một sai lầm lớn lao, ngoài ra ông đã giao toàn bộ kế hoạch quân sự cho McNamara một người dân sự bất tài, không được các Tướng lãnh kính nể khiến cho cuộc chiến kéo dài và nuôi dưởng phong trào chống đối đưa tới thảm bại.

    Nixon lên nhậm chức đầu năm 1969 thừa hưởng một gia tài đổ nát do Johnson để lại, khác với Johnson đã được hưởng nhiều thuận lợi như đã nói ở trên, Nixon phải đương đầu với nhiều gian nan thử thách. Phong trào chống đối do chính phủ trước để lại đè nặng lên vai ông, Quốc hội nay đã nằm trong tay các nhà dân cử phản chiến chỉ tìm cách trói tay hành pháp buộc phải rút quân bỏ Đông Dương.

    Nói về những nguyên nhân đưa tới sự sụp đổ VNCH chúng ta có thể kể: kế hoạch tái phối trí lực lượng của Tổng thống Thiệu thất bại, quân viện bị cắt giảm tới xương tủy, Nixon đã bắt tay được Trung Cộng... nhưng đó chỉ là những nguyên nhân gần

    Một phần vì thuyết Domino lỗi thời, nhất là vì sự chống đối lên cao, phản chiến tuy là một nguyên nhân xa nhưng chính nó đã đóng vai chủ động trong tiến trình xóa bỏ sự tồn tại của VNCH và cả Đông Dương. Sự thực dù có nhiều khuyết điểm, hành pháp Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo VNCH, các vị Tướng lãnh… từ 1955 cho tới 1975 đã làm hết sức mình để giữ vững miền Nam nhưng phong trào phản chiến tại Mỹ đã làm đảo lộn tất cả mọi kế hoạch chính trị quân sự Việt-Mỹ đưa tới sụp đổ tan tành.

    Phong trào phản chiến đã lộng hành như vậy phần lớn vì thuyết Domino đã lỗi thời, người Mỹ thấy đã đến lúc không cần phải giữ Đông Dương, CS không còn là mối đe dọa như trước.

    Cuộc chiến tại đất nhà là điều mà chính người Mỹ cũng không thể ngờ nó có thể tai hại đến thế.

    Trọng Đạt

    Tài Liệu Tham Khảo.

    Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002

    Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.

    English.illinois.edu/maps/vietnam/antiwar.html: Mark Barringer: The Anti-war Movement in the United States .

    Radical times: The antiwar Movement of the 1960s, Politic and the Antiwar Movement.

    Answer.com: Vietnam Antiwar Movement

    Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999

    Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.

    Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001

    Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985

    Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974

    The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman - General Editor, A Bison-book 1985

    Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.

    Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa, Vietnambibliography, 2003.

    Phạm Văn Sơn, Lê Văn Dương, Nguyễn Ngọc Hạnh: Cuộc Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa Của Việt Cộng Mậu Thân 1968: Khối Quân Sử, Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH Xuất bản 1968, Đại Nam tái bản tại hải ngoại.

    Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006.

    Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh, 2005.

    Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1990.


    Posted by Tiếng Thông Reo
    TrọngĐạt
    1- Phong trào phản chiến tại nước Mỹ

    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60

    • 1 2 3 4 
    Làn sóng biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam rầm rộ trong lòng nước Mỹ và nhiều nước khác đã truyền đi thông điệp phản chiến mạnh mẽ những năm 60 và đầu 70, là một trong các nhân tố quan trọng dẫn đến kết thúc cuộc chiến cách đây tròn 40 năm.

    Những bức ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60

    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Một nhóm sinh viên nữ tại Đại học California, Berkeley, Mỹ, biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam. Phần lớn phong trào chống chiến tranh bắt đầu từ các trường đại học với các tổ chức như Sinh viên vì một Xã hội Dân chủ (SDS). (Ảnh: history.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Mark Rudd, từ Đại học Columbia, tổ chức cuộc biểu tình sinh viên năm 1968, dẫn đến việc chiếm đóng 5 tòa nhà chính quyền và khiến trường phải tạm ngừng hoạt động. (Ảnh: history.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Ngày 15/11/1969, hơn 500.000 người đổ xuống đường ở Washington, D.C., tham gia một trong những cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử Mỹ. "Một đội quân bất bình lớn nhưng ôn hòa ​​di chuyển qua thành phố", tờ New York Times vào thời điểm đó đưa tin về sự kiện này. (Ảnh: history.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Ngày 30/4/1970, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố cần điều thêm 150.000 lính đến Việt Nam, dẫn đến các cuộc biểu tình quy mô lớn tại các trường đại học trên khắp nước Mỹ. (Ảnh: history.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Tại Đại học Kent State ở Ohio, Cảnh vệ Quốc gia đối đầu những người biểu tình sau khi một tòa nhà bị đốt cháy. Lực lượng cảnh vệ nổ súng vào sinh viên, khiến 4 người thiệt mạng và làm 8 người bị thương. (Ảnh: history.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Những nghệ sĩ nổi tiếng biểu diễn trong một cuộc biểu tình phản đối Mỹ ở Stockholm, Thụy Điển năm 1965. (Ảnh: Holger Ellgaard)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Biểu tình tại Vancouver, Canada năm 1968. (Ảnh: John Hill)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Đoàn người xuống đường trong thời tiết giá rét để biểu tình tại Lund, Thụy Điển. (Ảnh: Wiki)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Ba người đàn ông đeo biển "Mỹ, hãy ra khỏi Việt Nam" đứng trước Lãnh sự quán Mỹ tại The Hauge, Hà Lan năm 1967. (Ảnh: Nationalarchivebot)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Hàng nghìn sinh viên Đại học Washington, Mỹ chiếm đóng một đường cao tốc ngày 5/5/1970. (Ảnh: Tomhayden)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Cảnh sát xử lý một cuộc biểu tình tại Đại học George Washington năm 1971. (Ảnh: history.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Cựu binh tại Washington D.C. phản đối cuộc chiến ở Đông Dương bằng cách vứt huy chương và đồng phục của họ qua hàng rào trước tòa nhà quốc hội Mỹ Capitol. (Ảnh: history.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Năm 1965, khoảng 50 giảng viên đại học tại Michigan, Mỹ tổ chức một diễn đàn để phản đối chiến tranh Việt Nam. 3.000 người tham dự sự kiện này với các hoạt động gồm tranh luận, thuyết giảng và biểu diễn âm nhạc, tất cả nhằm mục đích giáo dục cộng đồng về hòa bình.
    "Điều thấy được từ sự kiện này là chúng ta có thể làm nên khác biệt chỉ trong một đêm", Giáo sư triết học Frithjof Bergmannm, nhà tổ chức chính của hoạt động nói. Trong ảnh, giáo sư Frithjof Bergmann (phải) và nhà hoạt động Alan Haber hồi tháng ba tham dự lễ kỷ niệm 50 năm tổ chức sự kiện này. (Ảnh: Michigandaily)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Ngày 17/3/1968, khoảng 80.000 người biểu tình tại quảng trường Trafalgar, Anh phản đối chiến tranh tại Việt Nam và việc chính phủ Anh hỗ trợ Mỹ. (Ảnh: lib.berkeley.edu)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Tariq Ali (phải), lãnh đạo Phong trào Việt Nam Đoàn kết tại Anh, và nữ diễn viên Vanessa Redgrave thông báo với người biểu tình rằng họ sẽ đưa thư phản đối đến Đại sứ quán Mỹ. (Ảnh: home.bt.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Hai người sau đó dẫn đầu khoảng 8.000 người biểu tình đến trước cửa Đại sứ quán Mỹ, nơi được hàng trăm cảnh sát bao quanh bảo vệ. Nhóm của Redgrave được phép chuyển thư, nhưng đám đông bị chặn lại. Cảnh sát dùng đất đá, pháo và bom khói để giải tán đám đông. Khoảng 300 người bị bắt giữ, hơn 50 người biểu tình và 25 cảnh sát phải nhập viện. (Ảnh: The Guardian)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Lá cờ Mỹ với biểu tượng phản chiến được giơ cao trong cuộc biểu tình ở Washington D.C. (Ảnh: history.com)
    Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
    Jan Rose Kasmir, vào thời điểm đó là học sinh cấp ba, tham gia cuộc diễu hành đến Lầu Năm Góc để phản đối chiến tranh Việt Nam tháng 10/1967. Hình ảnh cô cầm hoa đứng trước hàng cảnh vệ được nhiếp ảnh gia người Pháp Marc Riboud ghi lại đã trở thành biểu tượng của phong trào phản chiến.
    "Cô ấy chỉ nói chuyện, cố gắng thu hút sự chú ý của những người lính, có thể là đang cố gắng trò chuyện cùng họ", Riboud nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2004. "Tôi có cảm giác là những người lính còn sợ cố ấy hơn cô ấy sợ những lưỡi lê".
    Cập nhật: 22/04/2015 Theo VnExpress
    Xem thêm: việt nam chiến tranh phong trào phong trào phản đối chiến tranh việt nam

    Phong trào phản chiến của sinh viên Việt Nam tại Mỹ 

    Phong trào phản chiến của du học sinh Việt Nam ngay trong lòng nước Mỹ là một trong những nhân tố quan trọng buộc Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam.
    Phong trao phan chien cua sinh vien Viet Nam tai My - Anh 1
    Có rất nhiều câu chuyện đề cập về chiến tranh Việt Nam . Theo các nhà sử học Mỹ, trong những năm 60, đầu những năm 70 của thế kỷ trước, phong trào phản chiến của du học sinh Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng buộc Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam.
    Phóng viên Đài THVN đã có dịp tìm hiểu về phòng trào phản chiến cách đây hơn 40 năm qua ký ức của những người trong cuộc hiện đang sinh sống và làm việc tại Mỹ:

    Nguồn:http://khoahoc.tv/chum-anh-ve-phong-trao-phan-doi-chien-tranh-viet-nam-thap-nien-60-61494 

    Reply With Quote
2- Phong trào phản chiến sinh viên tại Sài Gòn

Tổng hội Sinh viên Sài Gòn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn - Gia Định là một tổ chức hợp pháp đại diện cho quyền lợi của sinh viên, bao gồm các hội sinh viên các trường đại học khu vực Sài GònGia Định trước năm 1975. Trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam, có thời gian tổ chức này chủ trì và tập hợp sinh viên tham gia các phong trào và hoạt động chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa và chống lại sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam. Nhiều lãnh đạo của tổ chức này thực chất là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, như chủ tịch hội Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng... vì vậy trong giai đoạn 1967-1971 Tổng hội chịu sự điều khiển của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Sau sự kiện 30-4-1975, Tổng hội Sinh viên bị giải tán, nhiều thành viên lãnh đạo thân cộng sản tham gia và giữ các vị trí khác nhau trong chính quyền mới.
Cần phân biệt rõ phong trào học sinh sinh viên chống chính quyền và chống Mỹ (do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đứng đằng sau) và Tổng hội Sinh viên Sài Gòn. Có những thời điểm, Tổng hội là thủ lĩnh các phong trào đấu tranh chống chính quyền và chống Mỹ (giai đoạn 1967-1971). Khi Tổng hội do những người thân chính quyền Sài Gòn lãnh đạo, Tổng hội không tham gia hoạt động chống chính quyền. Thời điểm này, phong trào học sinh - sinh viên chống chính quyền do các lãnh tụ sinh viên thân cộng sản, có thể là thành viên các hội sinh viên của các trường thành viên của Tổng hội, lãnh đạo.

Mục lục

Ra đời và cơ cấu tổ chức

Tổng hội Sinh viên Sài Gòn được thành lập năm 1963, trong thời kỳ đấu tranh chống lại chính quyền của Ngô Đình Diệm. Trụ sở của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đặt bên cạnh Hồ Con Rùa (nay là Nhà Văn hóa Thanh Niên Thành phố Hồ Chí Minh[1])
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn quy tụ 17 phân khoa. Chủ tịch ban đại diện 17 phân khoa mỗi năm họp lại và bầu ra Ban đại diện Tổng hội. Hai bên, một là Chính quyền Sài Gòn, hai là Thành đoàn Sài Gòn đứng sau là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam bằng nhiều cách muốn nắm lấy Tổng hội Sinh viên. Thường có ít nhất hai liên danh tranh cử. Mỗi phân khoa được bầu một phiếu. Liên danh nào đạt 9 phiếu là thắng cử. Muốn có được 9 phiếu, trước hết phải ra tranh cử ở các lớp, vào ban đại diện các phân khoa, tranh cử chủ tịch ban đại diện sinh viên nhà trường.
  • Nguyễn Hữu Thái là người được đề cử là chủ tịch Tổng hội đầu tiên (1963-1964)[2].
  • Nhiệm kỳ 1964-1965 chủ tịch Tổng hội là Lê Hữu BôiNguyễn Trọng Nho là thành viên Quốc dân đảng, có khuynh hướng chống cộng sản.
  • Nhiệm kỳ 1965-1966, Tô Lai Chánh thân chính quyền nắm vai trò chủ tịch. Giữa năm 1966, hàng trăm sinh viên y khoa đã kéo đến bao vây trụ sở Tổng hội (số 4 Duy Tân), chất vấn Tô Lai Chánh, khiến Chánh phải bỏ trốn về Cần Thơ. Sinh viên đấu tranh đã chiếm trụ sở và phát động phong trào "tự trị đại học" do Hồ Hữu Nhựt làm chủ tịch. Ngày 30-4-1967, tại số 4 Duy Tân diễn ra cuộc bầu cử lịch sử giữa hai liên danh là Hồ Hữu NhựtLê Hồng Khanh, kết quả là Hồ Hữu Nhựt đã trở thành chủ tịch Tổng hội với 2/3 số phiếu[3].
  • Nhiệm kỳ 1967-1968 Nguyễn Đăng Trừng làm chủ tịch.
  • Nhiệm kỳ 1968-1969 Nguyễn Văn Quỳ làm chủ tịch
  • Năm 1969, liên danh Nguyễn Văn Quỳ (Chủ tịch Ban đại diện Sinh viên Nông Lâm Súc) tiếp tục đắc cử, Huỳnh Tấn Mẫm làm phó chủ tịch, sau đó khi Nguyễn Văn Quỳ tốt nghiệp, Huỳnh Tấn Mẫm được đôn lên làm Chủ tịch (1969[4]-1971).
Hoạt động đấu tranh của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn chống Mỹ mạnh mẽ nhất trong các giai đoạn lãnh đạo của Hồ Hữu Nhựt (1966-1967), Nguyễn Đăng Trừng (1967-1968), Nguyễn Văn Quỳ (1968-1969), và Huỳnh Tấn Mẫm (1969-1970).
Đến 1971, liên danh Lý Bửu Lâm (khuynh hướng thân chính quyền Sài Gòn) đắc cử. Huỳnh Tấn Mẫm sau đó được bầu là Chủ tịch của Tổng hội Sinh viên Nam Việt Nam mới ra đời tháng 7/1971[3].
Các thành viên lãnh đạo khác của Tổng hội gồm: Lê Văn Nuôi (Chủ tịch Tổng đoàn học sinh Sài Gòn), Nguyễn Hoàng Trúc (Tổng thư ký Tổng hội sinh viên Sài Gòn), Hạ Đình Nguyên (phó chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn), Võ Như Lanh, Trịnh Đình Ban, Cao Thị Quế Hương, Trần Thị Lan, Trần Thị Huệ, Nguyễn Thành Công, Nguyễn Xuân Lập, Cao Lập, Lê Hiếu Đằng.
Khoảng thời gian 1969 - 1972 là giai đoạn phong trào học sinh - sinh viên lên cao trào. Khí thế đấu tranh lan tỏa khắp đường phố Sài Gòn, được sự ủng hộ của nhiều thành phần, nhiều giới trong xã hội, từ tăng ni Phật tử, các ba má phong trào, công đoàn, đội ngũ dân biểu đối lập… cho đến Phó Tổng thống Chính quyền Sài Gòn Nguyễn Cao Kỳ, đại tướng Dương Văn Minh[5].
Ban Chấp hành Tổng hội Sinh viên đã tan rã từ giữa năm 1972, vì Chính quyền Sài Gòn tiến hành bắt hết các lãnh đạo sinh viên, song song với việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công Việt Nam Cộng hòa tại chiến trường Quảng Trị. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng lấy lại trụ sở Tổng Hội.
Từ đầu năm 1973, các phong trào sinh viên tranh đấu ở Sài Gòn do cộng sản tổ chức phần lớn đã bị dập tắt. Các "lãnh tụ sinh viên học sinh" như Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban, Trần Thị Lan, Lê Văn Nuôi, Võ Như Lanh, Nguyễn Xuân Lập... đã bị kết án và vừa được trao trả tù binh theo Hiệp định Paris[6]. Từ năm 1973 đến 1975, các lãnh tụ phong trào sinh viên chống chính quyền phải hoạt động bí mật, hoặc bị cầm tù.

Các hoạt động nổi bật

Các phong trào và hoạt động của Tổng hội mục đích là: đòi hòa bình, chống sự can thiệp của Mỹ, chống quân sự hóa học đường, đòi thả tù chính trị, ủng hộ chính phủ liên hiệp hòa giải dân tộc, ủng hộ tổng tuyển cử thống nhất đất nước[1].
Phong trào học sinh - sinh viên này từng khiến chế độ Sài Gòn mất ăn mất ngủ[5].
Các hoạt động nổi bật:
  • Tháng 8-1964 sinh viên họp ở tổng hội, kéo đến phủ thủ tướng phản đối hiến chương mới của chính phủ Nguyễn Khánh. Khi có báo đăng sai lệch về cuộc gặp này, tổ chức biểu tình rầm rộ từ Trường J.J.Rousseau (tức Trường Chasseloup Laubat, nay là Trường THPT Lê Quý Đôn) kéo đến Bộ thông tin đòi đính chính.
  • Năm 1970: phong trào đòi trả tự do cho Huỳnh Tấn Mẫm (chủ tịch hội) và 30 thành viên khác bị chính quyền bắt giữ, được sự ủng hộ của các phong trào sinh viên quốc tế. Đây còn gọi là ‘Vụ mồng 10 tháng 3′, ngày Huỳnh Tấn Mẫm và các sinh viên bị bắt.
  • Năm 1970, Đại hội thanh sinh viên thế giới cùng hội thảo với chủ đề "Sinh viên thế giới và Hòa bình Việt Nam" được Tổng hội sinh viên Sài Gòn kết nối tổ chức tại chùa Ấn Quang và Đại học Nông Lâm Súc. Sự kiện diễn ra trong hai ngày 10 và 11-7-1970, thu hút hàng ngàn sinh viên học sinh và các tầng lớp nhân dân, tôn giáo. Chủ tịch Tổng hội sinh viên Hoa Kỳ Charles Palmer dẫn đầu phái đoàn Hoa Kỳ, trong đó có Sam Brown, Ronald Young, những người trước đó từng tổ chức các cuộc biểu tình lớn nhất tại Washington đòi Tổng thống Nixon chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Tham dự còn có Chủ tịch Tổng hội sinh viên các nước Úc, Hà Lan, New Zealand, các linh mục đại diện Liên tôn thế giới… Đặc biệt là sự có mặt của GS. George Wald (Đại học Harvard, Mỹ) – người đạt giải thưởng Nobel Y khoa về sinh học năm 1967[4].
  • Năm 1971 trong phong trào chống bầu cử tổng thống độc diễn của Nguyễn Văn Thiệu.
  • Chiến dịch đốt xe Mỹ: tháng 12-1970, nhân sự kiện em học sinh Nguyễn Văn Minh ở Quy Nhơn bị hai lính Mỹ bắn chết ngay trước cổng trường trong trò chơi bắn người uống bia, nối theo những vụ giết hại dân thường như Thảm sát Sơn Mỹ, tổng hội liền phát động phong trào đốt xe Mỹ để bày tỏ sự phẫn uất. Rất nhiều nhóm hành động mang tên Sao băng, Sao chổi, Sao xẹt... đã được lập. Chiếc xe đầu tiên bị đốt để mở đầu chiến dịch ở ngã tư Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai bây giờ) - Cường Để.
  • Phong trào "Hát cho đồng bào tôi nghe": năm 1965 ra đời Đoàn Văn nghệ sinh viên - học sinh thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, khởi xướng và lãnh đạo phong trào này. Qua các thời kỳ đoàn trưởng gồm: sinh viên y khoa Trương Thìn (1965), Tôn Thất Lập (1969), Trần Xuân Tiến (1973)[7].

Đánh giá

"Người Mỹ khi ấy cho rằng phong trào đấu tranh của học sinh - sinh viên còn "nguy hiểm hơn Việt Cộng"[4]
Thế hệ học sinh - sinh viên trước năm 1975 được ví như những "ông trời con"[5]
Theo tham luận Thành đoàn TP.HCM tại một hội thảo 2010 nhấn mạnh: Khu đoàn, Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã nêu cao ngọn cờ tập hợp, phát triển đa dạng các phong trào đấu tranh của thanh niên, sinh viên, học sinh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung[8].
Một số cựu lãnh đạo phong trào sinh viên Sài Gòn sau này đã đánh giá lại Đảng CSVN, như Lê Hiếu Đằng[9][10], Hạ Đình Nguyên[11][12], Huỳnh Tấn Mẫm.




 https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiAgHfqdsw4qYOHK33RLf4qkehm44FFDYLTr7k1uqnp5EIxJjrE21n60pil4RyEFc5L30g4gQdFCIWEWNEJ2QUoKILKS2Vcq0bjj9Qh8OgPZvbj19JbX82MEmwjijgw4GOvV8i5cWydxl9G/s1600/18082011197_1(2).jpg
HUỲNH TẤN MẪM, HIỆN TƯƠNG PHẢN CHIẾN & TỰ DO!

Hai thế hệ Hậu Duệ QL.VNCH- Vá lại cờ Vàng! Mai Nguyễn Huỳnh St.8872 HUỲNH TẤN MẪM, HIỆN TƯƠNG PHẢN CHIẾN & TỰ DO! Cảm ơn Bichthuy Ly- Hậu Duệ QL.VNCH. Đã thay cha, anh mình, thế hệ
QL.VNCH, nói lên tiếng nói uất hờn " Vong gia bại quốc..." của...
Cảm ơn Bichthuy Ly- Hậu Duệ QL.VNCH. Đã thay cha, anh mình, thế hệ QL.VNCH, nói lên tiếng nói uất hờn " Vong gia bại quốc..." của bè lủ Việt Cộng nằm vùng- MTGPMNVN. Trong đó có phong trào phản chiến của Chủ Tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn Huỳnh Tấn Mẫm, là một tên "Ăn cơm quốc gia, thờ ma Công Sản ". Phản bội lại lý tưởng Tự Do dân tộc, của người Việt Quốc Gia VN, Và " Đâm sau lưng chiến sĩ QL.VNCH, ngày đêm nơi " Hỏa đầu giới tuyến " ngăn bước quân thù Cộng Sản miền Bắc, bảo vệ tự do Sài gòn cho Huỳnh Tấn Mẫm được an toàn " Biểu tình & Phản chiến " chống lại Tự Do/VNCH
Phản tỉnh thế hệ... Hậu Duệ VNCH của các bạn tuổi trẻ hôm nay, như Bichthuy Ly & Nguyen Thi Hong... là nguồn cảm hứng tương lai cho Tự Do, Dân chủ, Hòa bình Việt Nam...!!!
Huỳnh Mai St.8872



Ảnh đại diện của Bichthuy Ly
Bichthuy Ly



GÓC TÂM TÌNH VỚI BÁC HUỲNH TẤN MẪM
(của một thanh nữ đang sống ở hải ngoại)

Trước khi vào đề cho cháu xin phép được xưng hô là bác cháu, vì cháu là một thanh nữ đang sống ở Hải Ngoại. Nội, Cha, Chú cháu là những người là những người từng sống ở Sài Gòn trong khoãng thời gian mà bác quậy phá SG, và những người thân nầy của cháu đã phải xếp bút nghiên để bưóc vào quân ngũ, chứ không được ưu đải như bác, một thanh niên chưa từng bước chân vào nghiệp lính trong chế độ cộng hoà. Cũng có thể vì đó bác không biết được sự khốc liệt của cuộc chiến và sự xão trá của người cộng sản(?) Cháu cũng như bác chưa hân hạnh đưọc cầm súng ra chiến trường, nhưng cháu đưọc nghe kể và có tham khảo các tài liệu trên INTERNET, nên cháu cũng nhận ra được bề mặt phải và trái của cuộc chiến vừa qua. Cháu cũng có đọc qua về các việc làm của bác trong quá khứ, lúc bác còn là một sinh viên của Y Khoa SG.
Cháu chỉ tâm tình với bác bằng một góc độ riêng và từ sự hiểu biết của cháu về Bác mà thôi. Lý do mà cháu phải tâm tình với bác vì bác có đề cập đến người hải ngoại trong bức tâm thư của bác! https://www.facebook.com/tvietnam/posts/699625660084822

Thưa bác,

Mở đầu tâm thư bác có nói:

"Tôi là Huỳnh Tấn Mẫm, không mang một danh phận nào trong guồng máy công quyền hay một địa vị xã hội, tôi chỉ là một thanh niên – nếu các bạn cho tội dùng từ này – một thanh niên nhiều tuổi, và hơn thế, là một công dân có ý thức trách nhiệm về tình hình đất nước hiện nay. Tôi tiếc là không còn nhiều thời gian và sinh lực như các bạn, để có thể cống hiến một cách xứng đáng và trọn vẹn cho một vận hội mới đang đến với dân tộc."

Lời nói của bác xem ra có chút ngậm ngùi chua chát cho đường công danh hoang (quan)lộ không đưọc thênh thang như những tên khác cùng thời cùng lứa tuổi, cùng tuổi đảng như bác, đúng ra vị trí bác không phải như vâỵ ? vì bác có công rất lớn cho cuộc cách mạng cướp miền nam. Sự đóng góp của bác nhiều hơn những tên già gọi là lão thành cách mạng đã từng ngồi chót vót trên cao như hiện nay. Bá Dơ Y Tá Nguyễn tấn Dũng mà còn làm tới chức Thủ Tướng, thì làm sao có thể so sánh được với một trí thức miền nam như bác?; Có công đốt hàng trăm xe Mỹ, hàng ngày quậy phá khu vực Sài Gòn cùng với các ác tăng của Phật Giáo Ấn Quang đem bàn phật xuống đường và biểu tình khắp nơi, có phải vậy không bác? Thôi thì bác đừng lên tiếng, cháu thấy hay hơn là bác thốt ra những lời chua chát như vậy! Mời các bạn tham khảo theo link nầy để biết những gì mà PG Ấn Quang đã làm gì cho chế độ VNCH? https://www.youtube.com/watch?v=OprRM20rfDs

Trong mấy câu đầu của bác cháu có thấy bác khoe khoang về ý thức trách nhiệm của bác về tình hình đất nước hiện nay (?), cháu sẽ đề cập đến phần ý thức trách nhiệm nầy của bác ở phần cuối.

THÀNH TÍCH CỦA HUỲNH TẤN MẪM

Theo sự tham khảo của cháu từ nhiều nguồn khác nhau trên INTERNET; Trong thời đệ nhị cộng hoà Huỳnh Tấn Mẫm hoạt động rất tích cực, mang thành tích cống hiến cho con đường cướp nước của đảng csVN, ngày 03 tháng 02 năm 1966, Mẫm được kết nạp làm đảng viên Đảng Nhân Dân Cách Mạng VN (Đảng Cộng Sản) do Nguyễn Ngọc Phương và Phan Đình Dinh (tức Chín Kế, thuộc Đoàn ủy Sinh viên Khu Sài Gòn – Gia Định) giới thiệu. Nghi thức kết nạp đơn giản với cờ Đảng (cờ đỏ búa liềm) được diễn ra tại nhà người chị của Mẫm ở Bà Quẹo, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình do chính Phan Đình Dinh (Chín Kế) chủ trì. Đánh giá cao khả năng của Mẫm, Thành Đoàn đã tuyển chọn Mẫm làm bí thư chi bộ Đảng Đoàn Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (SVSG), mang bí số L.71 với nhiệm vụ: bằng mọi cách phải nắm được những vị trí hợp pháp công khai trong tập thể sinh viên để dấy lên mạnh mẽ phong trào svhs đấu tranh ngay tại Thủ đô Sài Gòn.

Vậy là bác HTM là một đảng viên csVN, từ năm 1966 còn Nguyễn tấn Dũng tuyên thệ đảng ngày ngày 10 tháng 6 năm 1967, sau bác 1 năm. Ngày bác HTM nổi tiếng khắp miền nam, thì tên Y Tá chắc còn đang đi chích dạo đâu đó ở Cà Mau? Chiếu theo thành tích nầy, thì bây giờ bác phải là Chủ Tịch Đảng hay Chủ Tịch nước mới xứng, phải không bác?

Thành tích cách mạng của bác Huỳnh Tấn Mẫm không dừng lại ở đó mà ngày càng sôi nổi hơn; Vào năm 1970, nào là thành lập Uỷ Ban Đòi Quyền Sống thuộc Tổng Hội SVSG, tổ chức đốt xe Mỹ khắp nơi trong thủ đô Sài Gòn- Gia Định, chiến dịch nầy được giao cho tên Nguyễn Xuân Thượng và Võ Thi Bạch Tuyết (kế nhiệm NXT). Năm 1969, khi Huỳnh Tấn Mẫm làm quyền Chủ tịch Tổng hội SVSG, Phong trào Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe, thành lập từ 1965, được phát động mạnh mẽ với chủ lực là Đoàn Văn nghệ SVHS Sài Gòn do Tôn Thất Lập làm trưởng Đoàn (khi mới thành lập vào năm 1965 Trương Thìn làm trưởng Đoàn, từ 1969 là Tôn Thất Lập, từ 1973 là Trần Xuân Tiến). Huỳnh tấn Mẫm, được sự tiếp sức của tổ chức Phong trào Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe, tạo thành một lực lượng lèo lái tập thể sinh viên Sài Gòn tham gia vào nhiều hình thức đấu tranh chống chính quyền, phá rối hậu phương.

Nhóm chuyên sáng tác của phong trào nầy gồm có: Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, La Hữu Vang, Nguyễn Văn Sanh, Nguyễn Tuấn Kiệt, Trương Quốc Khánh, Trần Long Ẩn, Trần Xuân Tiến, Trương Thìn… Những bài ca quen thuộc được phong trào nầy thường xử dụng như: Hát Cho Dân Tôi Nghe, Hát Trong Tù (Tôn Thất Lập), Dậy Mà Đi (Nguyễn Xuân Tân cũng chính là Tôn Thất Lập), Tự Nguyện (Trương Quốc Khánh), Hát Từ Đồng Hoang (Miên Đức Thắng), Non Nước Tôi (Nguyễn Văn Sanh)…

30 tháng 8 năm 1970, Huỳnh Tấn Mẫm lại tổ chức chống Quân sự Học đường tại Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp: Cảnh sát ập tới giải tỏa cuộc tụ họp và bắt đi một số. Sau khi lập xong hồ sơ, tất cả đưọc thả chỉ giữ lại 3 đối tượng là Huỳnh Tấn Mẫm, Trần Hoài (Đại học Huế) và Lê Văn Nuôi (học sinh Cao Thắng).
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, được sự hổ trợ của một một số dân biểu, tăng ni thuộc Phật Giáo Ấn Quang và trí thức phản chiến tại Sài Gòn như: Gs. Lý Chánh Trung lại cầm đầu cuộc tuyệt thực chống ‘đàn áp svhs’tại Viện Đại học Sài Gòn, gồm một số giáo chức và phụ huynh, một ít sư cô thuộc tịnh xá Ngọc Phương của ni sư Huỳnh Liên, bà Thơm (má của Huỳnh Tấn Mẫm), một số svhs, Ls. Nguyễn Long (Chủ tịch Phong trào Dân tộc Tự quyết), Ls. Trần Ngọc Liễng (Chủ tịch Lực lượng Quốc gia Tiến bộ), Nguyễn Văn Cước (Chủ tịch nghiệp đoàn Hỏa xa), TTThích Mãn Giác, TT Nhật Thường….Nhờ vậy, khi ra tòa, cả ba đối tượng Mẫm, Hoài và Nuôi đều được thả tự do!

MỘT VÀI ĐÓNG GÓP TIẾP BẢN TÂM SỰ CỦA BÁC HTM:

1. Để tiếp tay với đảng csVN bác đã so sánh VN với Tàu Cộng như sau:
"Việt Nam là một nước nhỏ về quy mô dân số và diện tích so với họ, lại chậm phát triển về kinh tế, khoa học kỹ thuật, về công nghệ thông tin, công nghệ quân sự… lại đúng vào lúc xã hội đang suy yếu, kinh tế bên bờ vực thẳm, tầng lớp lãnh đạo thì suy thoái tư tưởng- đạo đức - lối sống, tham lam, nhũng nhiễu đầy khắp. Thử hỏi trong tình thế đó làm sao có thể đối địch trước một tham vọng vĩ cuồng như thế của đối phương?"

Thưa bác Huỳnh Tấn Mẫm,

Nước VN chúng ta từ xưa tới nay có lớn và đông dân hơn Tàu Cộng bao giờ đâu?? Vậy sao 13 lần quân Tàu xâm lược nước ta đều bị đánh bại?? Trong quá khứ nước Đại Việt chúng ta lúc nào cũng thua kém với Tàu về mọi mặt, như dân số, quân số, kinh tế, quốc phòng, văn hoá...... Nếu không thua kém thì bọn xâm lược Bắc Phương đâu bao giờ có cái tên quốc gia đầy ngạo mạn là TRUNG HOA hay TRUNG QUỐC? Nhưng ông bà ta vẩn hiên ngang hét to là "QUYẾT CHIẾN!! KHÔNG HOÀ " mổi khi giặc xâm lăng nước ta và cuối cùng quân dân ta đánh bại được quân cướp nước hùng mạnh gấp 3, 4 lần hơn chúng ta.

Còn bác là một trí thức, bác thừa để hiểu được Sử Việt và thế nào là sức mạnh của Tàu ?? Chẳng lẽ ngày xưa ông bà ta khi đánh với Bắc Phương , không biết được sự chênh lệch về quân số và quốc phòng của đối phương hay sao??

Từ ngày có mặt giàn khoan HD 981 và NH9 trong vùng biển VN, người dân VN đã từng chứng kiến được 16 con khỉ HÈN trong Bộ Chính Trị, một đám tướng bại liệt thần kinh như Phùng Quang Thanh, Trần Đại Quang, Nguyễn Chí Vịnh, đám tướng hải quân bưng bô, sống vì Đại Hán , chết làm ma Đại Hán như Tư Lệnh Hải Quân, Chính Uỷ HQ, Tư Lệnh CSB....và 500 tên trong cái QH bù nhìn của nước CHXHCNVN. Không lẽ bác Huỳnh Tấn Mẫm muốn mọi người trong nưóc và hải ngoại chạy theo định hướng của bác hay sao?? Tức là không có chút hy vọng nào để đối đầu với Bắc Phương?? Bài lên lớp nầy của bác xem ra không khác mấy tên mà cháu đã nêu ra trong bảng phong thần phía trên của cháu?

2. Bác Huỳnh Tấn Mẫm nói:

"Các bạn thử nghĩ xem. Họ bao vây và khống chế ta, nhưng không cho ta la lên để nhờ người can thiệp, không cho ai giúp sức, vâng, trói lại và đánh, buộc ta phải tự nguyện đầu hàng! Qua cách nói và hành động của họ, cơ hồ như ta đã là quốc gia phụ thuộc không có bao nhiêu chủ quyền?"

Thưa bác,

CHXHCNVN bưng bô cho Tàu Cộng từ thời Hồ chí Minh, một lảnh tụ anh minh của bác HTM, thời mà bác còn là sinh viên đang quậy phá thủ đô VNVCH, lúc đó Hồ chí Minh và Phạm Văn Đồng đã dâng Hoàng Sa- Trường Sa cho Mao rồi! Chủ quyền nước ta, từ thời họ Hồ cũng nằm trong tay họ Mao lâu rồi!
Những ngày bác HTM còn là sinh viên, sao bác lại không sớm nhận thức ra được điều nầy à? Phải chi lúc đó thay vì bác đi đốt xe Mỹ, liên kết với PG Ấn Quang, đem bàn thờ xuống đưòng, quậy phá khắp nơi ở SG-GĐ, thì bác hô hào chống Tàu thì hay quá? Bác đâu đến nổi thất sủng như 39 năm qua? Ngày xưa, bác quậy phá như thế, mà chính phủ VNCH vẩn cho bác đi học, cấp học bổng cho bác, không hề kỳ thị và bắt bác đi cải tạo mút mùa như bọn tà quyền csVN hiện nay. Vậy mà bác vẩn cấm đầu cắm cổ chạy theo chúng? Cháu không biết tình trạng nầy của bác trong y khoa gọi là gì?

Tiếp theo HCM, các triều đại tiếp theo càng gắn bó hơn với Bắc Phương, csVN đã dâng hết chổ nầy đến chổ kia cho Bắc Phương như, Ải Nam Quan, 1/2 Thác Bản Giốc, cao điễm núi Lão Sơn, các cột mốc bị di dời xa các cột mốc biên giới củ để VN phải mất nhiều đất nơi biên giới Trung Việt, rồi đến vịnh Bắc Bộ đảng csVN đã dâng cho Bắc Phương thêm 11.000km2, đảo Gạc Ma sau 1988 đến nay có đòi được gì đâu?? Đã vậy còn không dám nhắc tới cũng không cho dân là lễ truy điệu??

Xin được hỏi, lúc đó bác đang ngậm gì trong miệng mà không ai thấy bác lên tiếng?? Nếu đang bị bệnh nơi đưòng cuống họng, bác có thể viết được mà? phải không bác? Đằng nầy bác không dám hó hé và cũng không dám viết gì hết là sao?

Ý thức Tổ Quốc và Dân Tộc của bác đang ở đâu ? hay là còn để trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn chưa lấy xuống??

Thái độ của bác sao giống Ông bạn Lê Hiếu Đằng của bác như đúc? Nhưng ông LHĐ trước khi nhắm mắt mới từ bỏ đảng, còn bác đã từ bỏ đảng chưa?? Nếu như bác còn đảng tịch, thì bác nên kêu đám Thanh Niên của Đoàn Thanh Niên Thành Phố HCM ra mà lên lớp. Bác lên tiếng, tâm tình với thanh niên sinh viên và đồng bào hải ngoại làm gì? không khéo mọi người lại tưởng bác đang bị thần kinh ?

Thưa bác HTM,

Bọn cháu thấy nơi bác còn có điểm rất lạ: Vào thời VNCH cháu được nghe mọi người kể, hàng ngày bác điều quân xuống đường không biết mấy bận?? Trong khoảng gần xấp xĩ 10 năm cầm quyền của Ông Thiệu, không biết mấy trăm cuộc xuống đường của bác và PG Ấn Quang? Trong khi đó, ngoài tiền tuyến thì các chiến sĩ quốc gia đang đem xương máu ra để bảo vệ miền nam VN, lúc đó ngay trong hậu phương, bác đã hết mình lập thành tích cống hiến cho cách mạng, không biết sao chính quyền lúc đó không bắt bác đi lính?

Hôm nay đất nước mà bác đang sống, đã rơi vào quỷ đạo của Tàu cộng hơn nửa thế kỹ qua và sau 39 năm cướp được miền nam, trong đó có sự góp sức của bác; Vậy mà 39 năm qua, cộng sản hà hiếp nhân dân đũ mọi hình thúc, dâng đất biển cho đàn anh liên tục mà chỉ thấy bác xuất hiện đi biểu tình đúng có 1 lần, so với thời VNCH thì còn chênh lệch xa lắm! Hay là bây giờ bác bạc nhược hơn xưa, không thể ra quân được nhiều? hay vì gia đình, vợ, con ? Không khéo bọn thanh niên nam nữ ở hải ngoại như bọn cháu lại hiểu lầm là bác đang tiếp tay với các tướng hèn trong QĐND, 16 con khỉ đột bán nước và 500 tên trong cái QH gia nô của đảng?? Vì những lời trong tâm thư nầy của bác, đọc kỹ, nội dung không khác các lời tuyên bố của đám bưng bô kể trên.

3. Cuối cùng là 2 điểm mà bác không hài lòng với đảng cầm quyền của bác, đâu có khác nguyện vọng của nhân dân từ bấy lâu nay? Dân muốn đảng phải nằm trong luật pháp từ lâu lắm rồi, còn việc đưa bọn tàu Cộng ra toà án quốc tế, nhân dân cũng đã lên tiếng hơn 2 tháng qua, trong đó cã cháu nửa bác ạ!! Đâu cần đợi tới bác tâm sự rồi mọi người mới biết??

Ý thức trách nhiệm để có thể cống hiến một cách xứng đáng và trọn vẹn cho một vận hội mới đang đến với dân tộc (?) Bác muốn đề cập tới cái hèn như mấy con khỉ đột, các tướng hèn và đám lục lâm gia nô trong QH nước CHXHCNVN đã lên tiếng từ một tháng qua? đó là tiếp tục giử hoà bình trong khu vực, né tránh đụng độ với nước lớn có sức mạnh không thể nào đối đầu đưọc???

Nếu như thế thì thanh niên nam nữ và đồng bào hải ngoại rất cám ơn tâm tình của bác, có thể nói là những dòng tâm thư của bác mang ngụ ý là muốn sống tiếp tục với đảng bán nước cho tới ngày bác đi gặp quốc tặc hồ chí minh và bạn hắn là Mao sếng sáng. Tâm thư của bác viết, cháu đề nghị, bác dâng lên đảng để kiếm được một mảnh đất thật tốt để dành lo hậu sự cho bác, mà đảng chắc chắn sẽ ban tặng cho một anh hùng cứu đảng như bác. Trân trọng và chúc sức khoẻ bác! Mong cho bác sống để nhìn dân hành động, chứ không phải chúc bác sống lâu để viết tiếp tâm thư gởi ra hải ngoại đâu nhé.!

Tóm lại với bức tâm thư nầy, theo cháu, bác không nên viết vì nó không có tác dụng gì hết? Nó chỉ để nói lên điều ăn năn của bác trước khi theo ông Lê Hiếu Đằng về bên kia thế giới. Vì nếu như bác muốn làm, thì những năm trước trước bác đã thể hiện được quyết tâm vì TỔ QUỐC và DÂN TỘC VN của bác, chứ không đợi đến ngày hôm nay mới lên tiếng? Quốc gia hưng vong , thất phu hữu trách, mà bác đâu phải là hạng thất phu? Toàn dân trong và ngoài nước mấy năm nay đã lên tiếng, hàng chục cuộc biểu tình của đồng bào toàn quốc đã xãy ra để phản đối Tàu cộng cướp nước, bác lúc đó đang ở đâu, làm gì?? Ý thức về trách nhiệm của một ngưòi thanh niên có tuổi, của một kẻ sĩ thời đại như bác như thế sao?
ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ HUÝNH TẤN MẪM NÓI HÃY NHÌN NHỮNG GÌ HUỲNH TẤN MẪM LÀM

Nguồn:http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/07/goc-tam-tinh-voi-bac-huynh-tan-mam.html?spref=fb

Mai Nguyễn Huỳnh
21 Tháng 4 2015 lúc 17:23 ·
█▬█ █ ▀█▀ Cô gái lột đồ vừa đi vừa khóc trên đường phố Sài Gòn !
Là hiện tương gì đây?!
Ngày xưa, trước năm 1975 có hiện tượng " Truồng Chạy " của nam giới trong phong trào phản đối chiến tranh tại Sài Gòn, của giới sinh viên phản chiến Huỳnh Tấn Mẫm làm Sài Gòn sụp đổ 30 Tháng 4?! Kế tiếp là cộng sản Băc Việt vào Sài Gòn trương cờ Trung Quốc 6 ngôi sao, để đánh tư sản mại bản, làm cho dân Ba Tàu Chợ Lớn nổi điên lên...cởi bỏ quần áo, trần truồng chạy rong trong khu phố Chợ lớn và leo lầu, nhẩy xuống tự tử. Cũng là hiên lột tả sự thật trần truồng miền Nam bị " Phỏng Giái sau 30 tháng 4 "
Ngày nay sau 40 năm qua, phụ nữ VN " Lột truồng " giũa đường phố là hiện tượng gì đây??!. Có phải chăng con người VN mất tất cả tình thương, hạnh phúc và quyền làm chủ gia đình, đất nước.. và phản bội với nhau, nên mất ý thức làm người...trong Thiên Đàng XHCN.VC- Vô nhân tánh . Và muốn " Đại đồng hóa với muôn loài cầm thú thời ăn lông ờ lổ "- Thật là Công Xúc Tu sĩ với dân tộc Á Đông- Việt Nam chúng ta!!! https://youtu.be/SEHPy4KGH6  
Nguồn:  https://plus.google.com/109586918239522307642/posts/GvBZpGbiYKXẢnh





phat-giao-an-quang-tay-sai-suc-vat-ho-chi-minh

phat-giao-an-quang-tay-sai-suc-vat-ho-chi-minh
Phật Giáo Ấn Quang tay sai súc vật hồ chí minh

Phật Giáo Ấn Quang « Đổi Mới » – Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Trước khi tôi viết bài này, thì quý độc giả đã thấy Phật giáo Ấn Quang cũng đã cố đẻ ra cho được cái gọi là « Lực lượng cư sĩ chấn hưng Phật giáo »; nhưng muốn nói đến cái « Lực lượng » này, thì bắt buộc tôi phải nói đến những thứ « Lực lượng » của Phật giáo Ấn Quang, từ lúc khởi đầu như sau:
Nếu đảng cộng sản Hà Nội đã từng tuyên bố «đổi mới » từ đầu thập niên 1980, thì đồng thời Phật giáo Ấn Quang cũng đã cùng hòa một nhịp điệu « đổi mới ». Đây mới thực sự là: « Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu ».
Tuy nhiên, nhìn lại tất cả những gì Phật giáoẤn Quang tức « GHPGVNTN » đã làm từ bao nhiên năm qua, thì xem ra Phật giáo Ấn Quang chỉ mới đổi mà thôi.
Sở dĩ nói là mới đổi, là bởi vì vào những năm tháng dài của cả hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa, Phật giáo Ấn Quang cũng đã từng đẻ ra những cái gọi là « Lực lượng » như sau:
Sau tháng 8 ăm 1945, Phật giáo đã thành lập « Lực lượng Phật giáo Cứu quốc Trung bộ, do « Hòa thượng Thích Đôn Hậu tức Diệp Trương Thuần làm Chủ tịch kiêm Chủ tịch Hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên và trụ trì chùa Thiên Mụ, Huế.
Năm 1947, Thích Đôn Hậu đã bị Pháp bắt giam một thời gian vì tội làm cộng sản. Sau khi được trả tự do, năm 1948, được cử làm cố vấn đạo hạnh Hội Phật giáo Trung phần. Năm 1949, làm Chánh Hội trưởng Tổng trị sự Hội Phật giáo Trung Việt.
Năm 1951, Thích Đôn Hậu được « cung thỉnh » làm đàn đầu Hòa thượng trong đại giới đàn tại chùa Ấn Quang. Năm 1952, tại Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc, Thích Đôn Hậu được suy cử làm Giám luật Giáo hội Tăng già toàn quốc.
Từ ngày 20-12-1960, khi cộng sản Hà Nội cho thành lập « Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam » cho đến năm 1963, Thích Đôn Hậu là một trong những thầy chùa phát động phong trào chống chính quyền của Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
Sau khi Nền Đệ Nhất Cộng Hòa bị sụp đổ, Thích Đôn Hậu vẫn tiếp tục giữ chức « Chủ tịch Phật giáo cứu quốc ».
Ngày 24-8-1964, « Lực lượng Phật giáo cứu quốc » đã dập đầu ông Trần Sô khi ông dắt đứa con trai 10 tuổi đến khám bệnh tại phòng mạch của Bác sĩ Thái Can; tức Thi sĩ Thái Can, vây bắt Đại tá Lê Quang Mỹ, Thị trưởng Đà Nẵng và đốt cháy sạch Tòa Thị Chính Đà Nẵng; đồng thời đánh giết người và đốt cháy sạch sẽ nhà cửa của đồng bào hai phường Thanh Bồ-Đức Lợi và định tấn công đến phường Tam Tòa ở gần đó, nhưng nhờ sự can thiệp của quân đội nên Tam Tòa đã thoát nạn.
Năm 1966, Phật giáo Ấn Quang đã thành lập thêm các « Lực lượng » mà tại miền Trung đã do Thích Đôn Hậu chỉ đạo như:
« Lực lượng Phật tử quyết tử, Lực lượng sinh viên học sinh quyết tử, Lực lượng thanh niên quyết tử, Lực lượng Phật giáo tranh thủ cách mạng, để kết hợp với Lực lượng Phật giáo cứu quốc để nổi loạn và chiếm giữ miền Trung để thành lập « Chính Phủ Miền Trung » và để có sức mạnh quân sự Phật giáo Ấn Quang đã thành lập Quân Đoàn Vạn Hạnh, Lực lượng này gồm những sĩ quan, quân nhân, cảnh sát, công chức, trong đó có Bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, thị trưởng Đà Nẵng đã gia nhập Quân Đoàn Vạn Hạnh, Thích Minh Chiếu là Thiếu tá trưởng phòng Tuyên úy Vùng 1, quân khu 1 làm Tư lênh và « Tổng Hành Dinh Quân Đoàn Vạn Hạnh » đã được đặt tại « chùa « Phổ Đà, nơi đây đã từng là nhà tù từng giam hàng trăm các viên chức chính quyền và các vị cán bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng suốt bốn mươi ngày, trong đó có Giáo sư Nguyễn Hữu Chi, tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, ông Lê Nguyên Long, Trưởng ty Thông tin Quảng Nam, Thiếu tá Mai Xuân Hậu, quận trưởng quận Hòa Vang và quá nhiều vị nữa « (Xin quý độc giả hãy đọc lại bài: Cuộc Bạo Loạn Bàn Thờ Phật Xuống Đường Tại miền Trung, Mùa hè 1966 để biết được một cách rõ ràng hơn). Phật giáo Ấn Quang nên biết, rất nhiều chứng nhân và nạn nhân vẫn còn sống đấy, một ngày nào đó khi các vụ án năm xưa tại miền Trung Việt Nam được đưa ra trước luật pháp quốc tế, thì các vị ấy sẽ sẳn sàng để đứng ra đòi công đạo cho chính họ và thân nhân của họ nữa.
Năm 1968, sau khi những người dân hiền của Cố đô Huế đã nhận diện được bộ mặt sát nhân của Thích Đôn Hậu rồi, thì Y đã chạy ra chiến khu của Việt cộng, sau đó ra Bắc, trong dịp này Thích Đôn Hậu đã được chụp hình chung với Hồ Chí Minh và Tôn Đức Thắng. Phật giáo Ấn Quang hãy chờ cuốn sách của ta đây sắp phát hành thì mọi người sẽ thấy rõ ràng hơn.
Trong thời gian ở chiến chu của Viêt cộng Thích Đôn Hậu đã giữ những chức vụ như sau:
« Phó chủ tịch Ủy ban Trung ương liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam; tháng 6-1969, Thích Đôn Hậu được cử làm Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, đã được Việt công cử đi dự nhiều « Hội nghị quốc tế ».
Đến trước và sau ngày 30-4-1975, tại Đà Nẵng, Phật giáo Ấn Quang đã thành lập:
« Lực lượng Hòa hợp- Hòa giải Phật giáo thị bộ Đà Nẵng, Lực lượng An Ninh Phật giáo, cả hai đều được đặt tại chùa Pháp Lâm, ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng.
Suốt trong thời gian này, tại Đà Nẵng, Thích Đôn Hậu như một ông vua Lý ( Xin quý độc giả hãy đọc lại bài: 30-4-1975: Máu Và Nước Mắt, để biết rõ hơn về những hành vi của Thích Đôn Hậu.
Năm 1976, Thích Đôn Hậu đắc cử « đại biểu Quốc hội khóa VI và là Ủy viên Đoàn, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và là Phó pháp chủ Hội đồng chứng minh kiêm giám luật Giáo hội Phật giáo Việt Nam cộng sản ».
Thích Đôn Hậu đã được cộng sản Hà Nội ban thưởng, trao gắn những thứ như sau:
« Huân Chương Hồ Chí Minh, Huân Chương Độc Lập, Huy Chương Vì Sự Nghiệp Đại Đoàn Kết Toàn Dân ».
Ngày 23-4-1992 (21-3-âm lịch) vào lúc 19 giờ 55 phút, Thích Đôn Hậu đã chết tại chùa Thiên Mụ, Huế, sống và làm giặc tổng cộng tất cả là 88 năm.
Sau khi Thích Đôn Hậu chết, Phật giáo Ấn Quang đã phù phép ra hai « tăng thống », vì thực sự Thích Đôn Hậu không hề làm « tăng thống » một giây phút nào cả, mà chỉ làm « Phó pháp chủ kiêm Giám luật Giáo hội Phật giáo Việt Nam cộng sản » cho đến hơi thở cuối cùng.
Phật giáo Ấn Quang đổi mới hay mới đổi?
Như đã nói, với quá nhiều những thứ « Lực lượng » mà Phật giáo Ấn Quang, tức « GHPGVNTN » mà Ấn Quang đã từng thành lập để gây nên những tang thương, máu lệ trên khắp nẽo đường của đất nước, đặc biệt là tại miền Trung. Và bây giờ, Phật giáo Ấn Quang lại đẻ thêm ra cái gọi là «Lực lượng cư sĩ chấn hưng Phật giáo ». Thực ra cái « Lực lượng » này nó chỉ là biến thể từ những cái: « Lực lượng Phật giáo cứu quốc: Cuộc thảm sát Thanh Bồ- Đức Lợi, 24-8-1964; cho đến những thứ « Lực lượng » để đem bàn thờ Phật xuống đường vào mùa hè 1966, cho đến những màn chém giết hàng ngàn người vô tội trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân, 1968, xin quý vị hãy đọc lại bài: Tưởng Niệm Bốn Mươi Năm Cuộc Thảm Sát Mậu Thân: 1968-2008, và những ngày trước khi thành phố Đà Nẵng rơi vào tay của cộng sản Hà Nội.
Và chắc mọi người cũng đã nghe được những cái mồm của cái « LLCSCHPG » khi một tên nào đó đã cướp lời của ông Chính Khí Việt, rồi nói thao thao bất tuyệt, nhằm để không cho ông Chính Khí Việt nói hết được ý kiến của ông. Với cảnh này, nó đã làm sống lại trong tôi những hình ảnh của các vị đã bị Phật giáo Ấn Quang bắn chết tại Đà Nẵng như: Ông Hồ Hân, ông Phạm Lý, ông Nguyễn Phận và đặc biệt là ông Bùi Ngọc Cang đã bị « Lực lượng An ninh Phật giáo » bắn chết ngay giữa nhà trước mặt vợ con của ông. Xin quý độc giả hãy đọc lại bài: 30-4-1975: Máu Và Nước Mắt, để biết rõ hơn về những hành vi dã man và tàn ác của Phật giáo Ấn Quang.
Những người yêu nước chân chính không cần phải « đối thoại » với lũ tham tàn bạo ngược.
Tại sao tôi lại có thể dùng những từ ngữ như thế để chỉ Phật giáo Ấn Quang? Xin thưa: Bởi tôi đã chứng kiến quá nhiều những hành vi tàn bạo của Phật giáo Ấn Quang, từ khi còn bé. Vì thế, bây giờ tôi đã là một người già, đã trãi qua hơn nữa thế kỷ, đã đi qua một cuộc đời, tôi đã chiêm nghiệm, đã thấy, đã biết, nên không thể dùng từ ngữ nào khác hơn để nêu cho đích danh đối với lũ Giặc Án Quang.
Tôi còn nhớ, trước đây, trong một lần anh chị Giáo sư Đặng Văn Nhâm đã đến thăm gia đình chúng tôi, khi anh Đặng Văn Nhâm ngõ lời như sau:
« Tôi chưa bao giờ mời ai viết chung với tôi, nhưng bây giờ tôi mời cô viết chung với tôi trong cuốn sách Giặc Thầy Chùa, vì tôi ở trong Nam, không biết nhiều về những gì đã xãy ra ngoài Trung, còn cô, đã sống tại đó, vậy cô có đồng ý hay không? »
Và tôi đã đồng ý, do đó, trong cuốn « Giặc Thầy Chùa số 2, Anh chị Đặng Văn Nhâm đã trích lại những bài viết của tôi trên Văn Nghệ Tiền Phong. Đến cuốn Giặc Thầy Chùa số 3, thì tôi đã viết loạt bài Tăng Phỉ Miền Trung, mà anh Đặng Văn Nhâm đã in trong cuốn sách này. Ngoài ra, tôi vì tình nghĩa với một người chị rất thương tôi đó là chị Trần Mộng Chi, tức chị Đặng Văn Nhâm chị cũng là người đồng hương với tôi trên vùng đất « Ngũ Phụng Tề Phi ». Như thế mà bọn chúng lại buông những lời lẽ mất dạy giữa anh chị em tôi, thật đúng Là Loài Chó Sói Cắn Hoài Phải Gió.
Tôi cũng đã và sẽ gom hết, và giữ lại tất cả những lời của bọn chúng đã dựng đứng mọi chuyện về tôi; để sau này, tôi sẽ viết về bọn chúng với những điều mà chưa ai biết…
Với những điều mà tôi đã kể ở trên, nên tôi muốn đề nghị với các vị là những người của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, không nên vào các diễn đàn của cái gọi là «LLCSCHPG », vì cứ nhìn vào cách hành xử của chúng đối với ông Chính Khí Việt thì chúng ta đã rõ. Một lần nữa tôi xin lập lại rằng:
Cái gọi là Lực lượng cư sĩ chấn hưng Phật giáo, nó chỉ là biến thể của những thứ « Lực lượng » từng gieo máu lửa và từng giết hàng vạn đồng bào vô tội trong suốt cả chiều dài của cuộc chiến Quốc- Cộng tại Việt Nam, như từ « Lực lượng Phật giáo cứu quốc, Lực lượng Phật giáo tranh thủ cách mạng, Lực lượng Phật giáo quyết tử, Lực lượng sinh viên- học sinh quyết tử, Lực lượng thanh niên Phật giáo quyết tử, Lực lượng Hòa hợp- Hòa giải Phật giáo trước những ngày 30-4-1975, và còn nhiều ‘ thứ « Lực lượng » khác, để bây giờ chúng kết hợp những thứ « Lực lượng » ấy thành một, là « Lực lượng cư sĩ chấn hưng Phật giáo ».
Chính vì thế, tôi muốn nói: ngày xưa, từ những năm đầu của thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày 30-4-1975, chúng ta đã không chấp nhận những thứ « Lực lượng » làm giặc ấy rồi, thì hôm nay, quý vị đã và đang làm những việc vì đại cuộc chung thì không nên vào các diễn đàn của cái « Lực lượng » này, và cũng không cần « đối thoại ». Tuy nhiên, với ngọn bút trên tay, thì chúng ta không bao giờ ngưng nghỉ, chúng ta phải dùng những ngọn bút kiếm để « đâm những thằng gian bút chẳng tà ».
Riêng về Thiếu tá Liên Thành, có thể vì một lý do nào đó nên sách của ông đã bị in sai lạc, mà khó có ai có thể hiểu được.
Nhân đây, tôi xin nêu ra một trường hợp có thật: Tôi có một người bạn, anh Nguyễn Văn Đức, có người em ruột Nguyễn Văn Hậu thi Tú tài toàn phần bị rớt, cả hai anh em là con người vợ chính đã qua đời, và cả người cha ruột cũng đã mất, nên sống với người kế mẫu và hai cô em gái tại đường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. Nhưng vì gia sản của cha mẹ anh để lại rất lớn, nên bà kế mẫu này luôn luôn tìm cách để tranh phần cho hai cô con gái ruột của mình, bà lại rất khắc nghiệt với hai người con của người vợ chính, nhưng khi anh Đức trưởng thành thì bà lại nể sợ anh Đức. Có lẽ vì không vui với hoàn cảnh đó, nên người em trai khi đi thi Tú tài bị rớt. Người anh ruột thì đã có bằng Tú tài toàn phần từ lâu; song anh không thể vào trường sĩ quan, bởi anh sợ khi anh đi rồi, thì đứa em trai nhỏ tuổi của anh sẽ sống không yên với bà kế mẫu. Thế rồi, sau nhiều đêm suy nghĩ, anh Đức đã quyết định trao tấm bằng Tú tài của mình cho người em ruột, để cậu này đi vào trường Sĩ quan, sau đó cậu Hậu trở thành một Sĩ quan Hải quân; còn anh Đức phải nhận lấy giấy tờ của em mình để trở thành một Hạ sĩ quan; song sau đó anh đã dự khóa Sĩ quan đặc biệt và cũng thành một Sĩ quan. Cho đến trước ngày 30-4-1975, anh Đức là Đại úy thuộc Tiểu đoàn 61, Biệt Động Quân Biên Phòng. Có một điều cả hai anh em dù cố nhớ mà vẫn thường hay lẫn lộn về ngày, tháng, năm sinh của mình, cũng như cả hai đều không dám nói ra sự thật vì sợ phạm luật; còn bạn bè, đặc biệt là người tình của họ thì càng rắc rối hơn, vì khi gặp các đồng đội của cả hai, thì họ gọi tên theo giấy tờ trong đơn vị, nhưng khi đến nhà thăm thì lại nghe người trong nhà gọi theo tên thật của hai anh em, Đức thành Hậu và Hậu thành Đức. Còn trường hợp của Thiếu tá Liên Thành thì chắc cũng có một nguyên do nào đó, mà không ai hiểu được chỉ trừ chính ông mới biết mà thôi. Và cái « LLCSCHPG » này đã khai thác vào điểm này để tấn công ông.
Nhưng, bất kể vì một nguyên do nào, cũng không một ai, kể cả Phật giáo Ấn Quang, cũng không thể phủ nhận được rằng Thiếu tá Liên Thành đã từng là Trưởng ty Cảnh sát Thừa Thiên- Huế. Một điều khác nữa là vụ án của hai « nhà sư » Thích Quảng Lợi và Thích Như Ý, mà tôi đã viết trong bài: Tưởng Niệm Bốn Mươi Năm Cuộc Thảm Sát Mậu Thân: 1968-2008, bài này tôi đã viết vào ngày 26-01-2008, trước Tết Mậu Tý hai tuần lễ, và đã đăng trên vnfa.com, số báo Xuân Mậu Tý; nghĩa là trước khi cuốn sách Biến Động Miền Trung của Thiếu tá Liên Thành được phát hành; nhưng khi đọc cuốn sách này tôi mới hay rằng vụ án này giống như những gì tôi đã biết và đã viết.
Phật giáo Ấn Quang « đổi mới » như thế nào?
Thưa có, song chỉ là mới đổi, Ấn Quang đã mới đổi cái tên Thích Viên Định, đã ký tên dưới sự « Thừa ủy nhiệm » của « tăng thống » Thích Quảng Độ, như mọi người đã thấy cũng qua cái « Thông cáo báo chí của Văn phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế – Phát ngôn nhân Viện hóa đạo GHPGVNTN » tức Ấn Quang, mà Đinh Thạch Bích cũng là một trong những đóa sen đã nở ở trong lò…n, nên đã trân trọng đội lên đầu rồi cũng đem chưng lên cái nghĩa trang điện tử Exodus. Vậy, chúng ta thử hỏi tại sao bây giờ là Thích Viên Định, mà không là Thích Quảng Độ???
Về điều này, đã có nhiều suy luận khác nhau. Còn theo tôi, thì tôi đã liên tưởng đến một loài Trăn lúc còn ở quê nhà.
Người Việt chúng ta thường nói là Cọp dữ, chứ ít ai nói là Trăn dữ; bởi ai cũng biết con cọp mỗi lần bắt mồi, nó thường gầm thét hung tợn, sau khi vồ được con mồi thì nó liền xé xác ra để ăn thịt. Nhưng loài Trăn thì ngược lại, nó cũng hung ác như con cọp, nhưng cách bắt mồi của nó không như con cọp, mà mỗi khi rình bắt một con mồi, con Trăn nó không gầm thét mà nó rất nhẹ nhàng, lại thêm những tiếng kêu như tiếng sáo trúc cũng như loài rắn lục, nhưng tiếng kêu của con Trăn nó phát ra từ cái miệng đỏ loét của nó lớn hơn, nó đã làm cho những con mồi như bị thôi miên, không thể chống cự, rồi nó dùng cái tấm thân to béo và nhẳn thín của nó, để siết chặt con mồi cho đến khi mềm nhũn, rồi nó mới nuốt chững con vật, đôi khi là một con bò, con trâu to lớn và có khi là con người nữa vào trong cái bụng của nó. Và đó, là lúc con Trăn nó đã và đang no mồi, nó không cần di chuyển nữa,,mà nó tìm một nơi yên tỉnh, êm ấm, rồi nó khoanh mình để « đông miên », để thưởng thức cái no nê trong lúc con mồi đang tiêu dần trong bụng của nó, để nuôi dưỡng cái tấm thân mỗi ngày càng thêm khỏe mạnh, cho đến khi con mồi trong bụng nó đã tiêu hết, song những cục xương của con vật thì lại không bao giờ tiêu hóa được; nên lúc đó, nó phải móc phần đuôi của nó trên một cành cây, đầu của nó thòng xuống đất, còn cái mồm của nó thì há ra thật lớn, để những cục xương của con mồi rơi ra hết. Và chính lúc này, là lúc con Trăn đã đói trở lại, thì nó lại tiếp tục phát ra những tiếng kêu réo rắt từ cái mồm của nó để rình bắt những con mồi khác.
Cũng tương tự, Thích Quảng Độ hiện nay đã và đang no nê với những con mồi mà ông ta đã nuốt được qua những lời kêu gọi « Tháng Năm Bất tuân Dân Sự- Biểu Tình Tại Gia » đã được phát ra từ ngày 29-3-2009, với kết quả là cái « Đại hội Việt kiều toàn thế giới lần đầu tiên » sẽ được khai diễn tại Hà Nội vào tháng 11-2009. Bởi thế, nên cái « Thông cáo baó chí » ở trên đầu của Đinh Thạch Bích, người ta chỉ thấy Thích Viên Định ký tên là đã « Thừa ủy nhiệm của Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN ».
Như vậy, mọi người đừng lầm tưởng một khi con Trăn đã no mồi, thì nó không đi bắt mồi nữa. Không, khi nó no thì nó nằm lim dim ngủ, nhưng sau đó, khi nó đói, nó lại tiếp tục rình rập để bắt những con mồi cho đến khi nó chết, và tất cả những con Trăn khác của loài Trăn này, chúng cũng đều giống nhau như thế, không hề khác một ly nào cả.
Trở lại với cái « LLCSCHPG »:
Tôi vẫn nhớ, trước đây, qua bài viết: Trả Lời Võ Văn Ái, tôi đã viết: tôi vẫn tạm xem như cái « Thông cáo báo chí » kia là do Võ Văn Ái viết ra. Nhưng, cho đến hôm nay, theo như những lời đề nghị của ông Đặng Phúc là vào dịp « Lễ tiểu tường » của « Tăng thống » Thích Huyền Quang, thì « Lưỡng viện Giáo hội » nên trả lời về bài viết: « … Hàn Giang Trần Lệ Tuyền Bất Lương … Người Đàn Bà Mất Gà… », trong đó có lời kêu gọi:
« … người Việt dân tộc nói chung và người Phật tử nói riêng cũng không thể tin và nể trọng bà, nếu không nói là quyết liệt lên tiếng chống đối sự giảo hoạt và gian dối của bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền ».
Và « lễ tiểu tường » của « tăng thống » Thích Huyền Quang đã qua từ lâu, mà những lời đề nghị của ông Đặng Phúc vẫn không hề được « Hội đồng Lưỡng viện của GHPGVNTN » trả lời một cách xác đáng; điều đó đã chứng tỏ rằng: Nói theo cách nói của Phật giáo thì: Bản văn viết về: … « Hàn Giang Trần Lệ Tuyền Bất Lương và là Người Đàn Bà Mất Gà … » thì những kẻ thừa hành đã « Thỉnh thị tôn ý của Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội mà người đứng đầu là « Hòa thượng » Thích Quảng Độ, Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; tất cả đều đã đồng tâm như nhất với cái bản văn ấy rồi mới trao cho « Phát ngôn nhân của Viện hóa đạo, để phát đi trên các hệ thống thông tin toàn cầu. Nói cho rõ ràng là bản văn đó là tiếng nói chính thức của « Hòa thượng » Thích Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN » và cả Giáo hội Phật giáo Thống nhất nữa. Tất cả đã đồng tâm kêu gọi: « không riêng người Phật tử mà cả người Việt dân tộc phải tập trung lực lượng để quyết liệt đánh Hàn Giang Trần Lệ Tuyền ».
Do đó, mà trước đây, qua bài: Trả Lời Võ Văn Ái tôi đã nói: Nếu các ngươi đã đặt ta đây lên ngang bằng với các « Tăng thống » và đã xem ta là đối thủ, thì ta đây cũng vô cùng hoan hỉ để chấp nhận là đối thủ của GHPGVNTN. Vậy, bài viết trước đây, phải được hiểu là: Trả Lời Thích Quảng Độ. Vì không ai lại đi trả lời với một cái loa phóng thanh.
Và cũng chính vì thế, mà hôm nay, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền này, đanh thép tuyên bố sẽ không bao giờ đối thoại với bất cứ kẻ nào, mà chỉ chấp nhận một cuộc đối luận duy nhất với « Hòa thượng » Thích Quảng Độ, Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ( Ấn Quang), vì chính Thích Quảng Độ là người đã phát ra cái bản văn: «Hàn Giang Trần Lệ Tuyền Vô bằng và bất lương… người đàn bà mất gà … » với lời kêu gọi: không riêng tám mươi phần trăm là Phật tử và cả người Việt dân tộc phải quyết liệt lên tiếng để đánh Hàn Giang Trần Lệ Tuyền. Và Cuộc đối luận này sẽ phải do quý vị trong Ban Điều Hành của Trang Điện Báo Hồn Việt Chủ Trì và Giám Sát.
Xin quý độc giả hãy cảm thông, vì chính « GHPGVNTN » tức Ấn Quang, đã muốn như thế, chứ không phải do ý của Hàn Giang Trần Lệ Tuyền.
Cuối cùng, tôi xin kính lời đến quý vị trên các diễn đàn, với những ý kiến, và những lời nói thay cho tôi thật đúng với những gì mà tôi muốn diễn đạt. Tôi đã và sẽ giữ lại tất cả những lời nói, cũng như những dòng của quý vị đã viết; mặc dù chỉ biết qua bút danh, chứ không hề biết quý vị là ai; song tôi sẽ gom hết vào trong một tuyển tập trong tương lai. Xin quý vị hãy nhận nơi đây, với tất cả lòng tri ân thành kính của tôi.
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền.












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét