Thứ Hai, 20 tháng 6, 2016







Das „Hintertürgeschäft“ zwischen Henry A. Kissinger, Nixon  und Mao´s Kanzler Chou An Lais in Peking, am 20. Juni. 1972. Der Inhalt des Gespräches ist aufgezeichnet und bereits veröffentlicht.

*
„Canh bạc cửa hậu“ giữa Henry Kissinger, Nixon và „thủ tướng“ của Mao là Chu Ân Lai tại Bắc kinh ngày 20.06.1972. Nội dung cuộc giàn xếp đã được ghi lại và công bố.
44.  Vậy là tất cả những gì trước đó Hoa Kỳ gọi là „liên minh chống cộng sản“ tại miền Nam Việt Nam đã bỗng chốc trở thành những khái niệm mỉa mai báo trước những hệ lụy vô cùng thê thảm. Những thế lực cầm cân nẩy mực các động thái trên chiến trường Việt Nam tại Nhà Trắng về thực chất đã buông tay thả lỏng, bật đèn xanh cho khối cộng sản, Trung cộng và Bắc Việt có thể xâm lăng không hạn chế Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu người dân miền Nam đã phải chạy nạn quân đội cộng sản Bắc Việt bằng tất cả các con đường có thể có. Sự khát máu trả thù và mức độ tàn bạo kiểu Stalin của quân đội xâm lăng cộng sản Bắc Việt trên thực tế đã vượt xa ranh giới mọi sự suy tưởng.


45.  Từ ngày Hồ và đảng cs của y tự nguyện làm Việt gian theo mệnh lệnh của „quốc tế 3 cộng sản“, manh động dùng các thủ đoạn bạo lực cướp chính quyền của Chính phủ Liên Hiệp vào năm 1946 (xin nhấn mạnh là: cướp!),  thì bộ máy cầm quyền bù nhìn của Hồ đã hiện nguyên tà tướng là một thứ tay sai của quốc tế cộng sản, đặc biệt là cộng sản Nga-Xô. Chưa đủ, quốc tế cộng sản còn có thêm một cái Cravatte mầu đỏ nữa, nhưng Hồ quàng cả hai, nhìn kỹ là cái thòng lọng của Mao và đcs Tầu. Mà Cravatte Tầu nổi tiếng ví như cái thòng lọng thắt không chết ngay, cho nên Hồ và tay sai đã phải chịu đeo mãi đến tận ngày hôm nay.  Vì phải đeo đẳng mãi cái tròng „lý tưởng cộng sản“ của những thế lực đế quốc thực dân đỏ, nên Hồ và đảng cs của y đã quyết tâm tẩy não toàn dân là: "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn" cũng phải cướp cho bằng được miền Nam. Nay Trường Sơn đã xơ xác cháy rụi, miền Nam đã quằn quại dưới xích xe tăng Nga, xanh rờn mầu áo bộ đội bằng vải khaki Tầu, nhưng cũng chưa thể đủ. Phải nhuộm đỏ cả Lào, Campuchia và bán đảo đông dương thì Hồ Chí Minh và „đảng cs đông dương“(!) mới tạm hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy, quân đội đảng cộng sản Việt nam thừa thắng tiến đánh Campuchia, vì đã dự trữ sẵn màn tuyên truyền tẩy não thanh niên là đi làm „nghĩa vụ quốc tế“. Lần này để thế chân dãy Trường Sơn đã bị đốt cháy, là vô số thanh niên miền Nam, theo danh từ của đcs là: „con của Mỹ, Ngụy“. Đó là một trong những lý do xẩy ra cuộc „chiến tranh biên giới Việt-Trung“ vào tháng 2. 1979. Về thực chất chỉ là một „bài học“ của đảng cs Tầu dành riêng trừng phạt đảng cs Việt Nam. Nhưng mỗi lần có biến, muôn lần như một, đảng csvn tùy tiện vồ lấy những gì bấy lâu nay thường cướp trắng được của nhân dân là xương máu vô hạn và lòng yêu nước có thừa, đem ra tế sống, trả giá cho những bài học muôn năm không thuộc của đảng csvn.


46.  Trở lại với vấn đề truyền thông trong cuộc biến loạn đầy tội ác của GHPGVNTN vào những năm 1963 và những năm sau đó. Với sự hậu thuẫn của CIA và đảng csvn, thực thi trực tiếp bởi tay các cán bộ cs trá hình „tăng sỹ Phật giáo“ GHPGVNTN. Một kẻ thực thi tội ác, một kẻ xuyên tạc bóp méo dư luận quốc tế tại phương Tây. Cuộc hành hình hỏa thiêu đặc biệt dã man tên Thích Quảng Đức đã bị bộ máy truyền thông khối cộng sản bóp méo xuyên tạc thành: “Nhà sư tự thiêu, phản đối đàn áp tôn giáo của chính phủ VNCH“. Để góp phần lèo lái đánh lạc hướng dư luận Mỹ và phương Tây.  

   Thích Nhất Hạnh, tên cộng sản trá hình Phật giáo và đồng bọn đã hô hào xách động giới sinh viên đông và Tây Âu qua chiêu bài „phản chiến“, xuống đường biểu tình bằng những khẩu hiệu xảo trá „phản đối chiến tranh Việt Nam“. Cộng thêm sự tuyên truyền hùng hậu của giới báo chí bất lương, từng được giật dây bởi CIA, dư luận và công luận quốc tế về cuộc chiến tranh của Mỹ tại chiến trường Việt Nam do vậy đã bị bóp méo sai lệch nghiêm trọng, nghiêng hẳn về phía có lợi cho đảng csvn. Cuộc chiến xâm lăng của khối cs và quân đội cộng sản Bắc-Việt đã được bôi trát tô hồng để biến thành cuộc „chiến tranh giải phóng dân tộc“ cùng vô số  những luận điệu xảo ngữ tương tự. Cái gọi là „đại thắng lợi“ của quân đội cs chắc chắn đã phải tiêu tàn phá sản nếu không nhờ những đòn ngón im lặng phản trắc có dụng ý của Mỹ và khối đồng minh.

47.  Cái gọi là “đảng cộng sản Việt nam“, mà mỗi đảng viên của nó nói cho thật đúng nghĩa của chữ đó, thì chưa từng có một tên nào, từ đầu xỏ cho đến tay sai đáng được gọi là „cộng sản“ cả. Càng chẳng thể dùng đến danh từ thông dụng „cánh tả“, „thiên tả“ (cũng hàm ý có nguồn gốc „cộng sản“) hiện đang dùng tại châu Âu và phương Tây, cụ thể là tại Đức, là một trong những nơi sản sinh ra nó. Ở đây vẫn còn phải gọi chúng là „cộng sản“ bởi vì ngoài những lý do khác…, là nhất thiết phải giữ nguyên trạng những cấu thành quan trọng làm nên tội ác không thể xóa bỏ của một can phạm, tổ chức, đã và đang nhân danh lạm dụng trá hình hết thảy mọi danh tự khái niệm để gây tội ác (đi sâu vào vấn đề này chưa phải là mục đích của bài viết này, phần chi tiết hơn sẽ đề cập trong phần 2., sau bài này). Những gợi đề chi tiết đặc biệt có giá trị chủ đạo vạch mặt „đảng cộng sản Việt nam“, về thực chất chỉ là một tập đoàn Việt gian giả danh trá hình „cộng sản“, xin xem thêm các tác phẩm Sự tích con yêu râu xanh ở Việt Nam hoặc „Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, phần cập nhật mới nhất trong năm 2012 của chính tác giả Nhà báo Việt Thường, hoặc của các tác giả Việt Nam và thế giới nổi tiếng khác. 

   Về thực chất, đảng csvn, đại diện bởi tên đầu đảng xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh, cùng những đồng đảng đồng chí tay sai kế thừa hiện nay chỉ là một tập đoàn ô hợp vong bản, đã và đang dùng tất cả mọi phương tiện và con đường tội ác, tiếp tục phản bội Tổ quốc và dân tộc Việt Nam, chỉ để nhằm thỏa mãn cơn đói khát vô độ tham vọng quyền lực thống trị. 


Từ ngày thành lập vào những năm 1930 đến nay là năm 2012, lịch sử tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam đồng nghĩa với chiều dài của sự bội phản và tất cả những gì là tội ác chồng chất của đảng csvn đối với đất nước, dân tộc Việt nam và nhân loại. Những di hại tổn thất do những tội ác của đcsvn gây ra là những vết thương vô cùng độc hại và nghiêm trọng. Nếu ngay bây giờ đây, hay trong một ngày mai… rất gần, cái tập đoàn phản dân bán nước này bị nhân dân Việt Nam vùng lên truy quét đập tan xóa sổ, thì những vết thương không thể chữa lành này chắc chắn sẽ còn mãi mãi để lại những hậu quả di chứng, tổn thất và mất mát vô cùng sâu đậm cho muôn đời thế hệ con cháu người Việt nam trong mai hậu. „Trúc Lam Sơn không ghi hết tội. Nước Đông Hải chẳng rửa sạch tanh hôi“: Sẽ là một phần lời kết án để đời mà muôn thế hệ người Việt Nam sẽ hằng ghi nhớ không quên, dành sẵn để kết án truy tố vĩnh viễn những tội ác tầy trời bất khả bôi xóa của đảng cộng sản vn và bè lũ tay sai.


48.  Cái tập đoàn đcsvn và tay sai này đã tự nguyện làm thân khuyển mã, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng. Một điều mà đời đời những thế lực đế quốc xâm lăng Hán tộc từ phương Bắc, là những tổ tiên hiếu chiến  của Mao Trạch Đông, chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ có thể thực hiện. Nhưng, những kẻ hậu duệ kế thừa hắn vẫn chưa một lần, và cũng không thể một lần muốn tự thức tỉnh, phá vỡ giấc mộng vô minh ngàn đời, đói khát quyền lực thống trị, viễn chinh xâm lăng là: dùng mọi cách, làm sao có thể thôn tính và nuốt trọn Việt Nam. 

    Từ ngày Hồ Chí Minh còn lang thang học cách đu giây quốc tế cộng sản Nga Tầu, đặc biệt là từ khi đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho Nga-xô và Mao Trạch Đông để leo lên chức „chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa“, cho đến ngày y „chính thức“ cầu viện Mao và đcs Tầu hậu thuẫn mọi phương tiện chiến tranh từ Tầu cộng, Nga-xô và khối cs để xâm lăng VNCH, thì cũng là lúc Hồ mở cửa, rước vào miền Bắc Việt Nam một tập đoàn quân gián điệp Tầu cộng trá hình hùng hậu, dưới hình thức „cố vấn, chuyên gia nước bạn Trung Quốc“. Đến ngày hôm nay, sau mấy chục năm  bám rễ, đội quân gián điệp hùng hậu này đã len lỏi có mặt trong tất cả các vị trí then chốt trong bộ máy ngụy quyền của Hồ và đảng csvn. Chế độ ngụy quyền của đcsvn ngày hôm nay đã hoàn toàn lệ thuộc đảng cs Trung cộng như một thứ thái thú chư hầu, đến nỗi, mỗi lần chúng phải quyết định những chuyện gì quan trọng thì lũ đầu đảng đều phải „đi sứ“ sang chầu tận Bắc Kinh để thỉnh lệnh của các đồng chí „Tầu Thiên tử“.

49.  Cũng chính đảng cộng sản đã bóc lột đất nước và nhân dân Việt Nam một cách tàn nhẫn thậm tệ. Đại đa số quần chúng nhân đân Việt Nam đã bị đảng cs cưỡng bức trấn lột mất hết tự do, tài sản quyền lợi, nhưng thay vào đó họ bị đcs che đậy  ru ngủ bằng một rừng những danh từ xảo trá như „nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ“ v.v. Tất cả đại đa số khối quần chúng đã bị biến thành giai cấp vô sản thực sự, bị đẩy xuống đáy tầng của sự ngèo nàn bất công và lạc hậu. Việt Nam hôm nay đã tụt hậu một cách thê thảm xuống hàng cuối cùng của của tất cả những  gì là giá trị có thể nêu danh. Tất cả những gì là quyền tự do căn bản của nhân dân đều đã bị đảng cs cướp sạch hoặc trà đạp một cách thô bạo trắng trợn. Tất cả hệ thống „Hiến pháp“, „hành pháp“ cùng vô số các „luật định“ của bộ máy nhà nước ngụy quyền cs đã bị đục khoét rỗng, nhào nặn bóp méo từ trong ra ngoài, đã được tô vẽ bôi hồng chỉ để thực thi có một mục đích duy nhất là che đậy, ngụy biện để hòng hợp pháp hóa duy trì áp đặt quyền lực độc tôn thống trị „bất di bất dịch“ của đảng csvn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Cái gọi là „quốc hội“ của bộ máy nhà nước bù nhìn cộng sản chỉ là những cái biển hiệu dùng để lòe bịp thế giới bên ngoài. Còn đối với nhân dân Việt Nam, nó là một liều thuốc cực kỳ độc hại,  hơn thế nữa,  trên thực tế, còn là những cái bẫy xập chết người.

50.  Các đảng viên đảng cộng sản phải học thuộc lòng  những „tư tưởng và hành động“ xảo trá của Hồ Chí Minh, phải chấp nhận nhiều sự thử thách mới được ra nhập vào đảng csvn, một lần ra nhập là phải chấp hành tuân thủ đến trọn đời. Một trong những vô số những cái „nhẹ như không“ mà các đảng viên cs đều phải thuộc làu là „không gia đình, không tổ quốc, không tôn giáo, và không dân tộc“. Các đảng viên cs phải tuân thủ tuyệt đối, không được từ nan chối bỏ bất kỳ nhiệm vụ gì mà đảng cs ra lệnh, nếu đảng cần, thì dù có phải bỏ lại hoặc bán rẻ tất cả: Gia đình, tổ quốc, tôn giáo và dân tộc. Vì đối với đcs, chỉ có một thứ có thể vượt lên trên hết thảy, đó là quyền lợi và sự sống còn của đảng csvn. Cho nên một trong những khẩu hiệu quen thuộc của Hồ Chí Minh, qua ngòi bút của Tố Hữu ( tức Tôn Thất Lành), một tên đầu xỏ rành nghề với các thủ đoạn cắt lưỡi tập đoàn trí nô của đcs, đã viết thành „thơ“ cho tất cả các đảng viên cs đều có thể học thuộc lòng như sau:


„Giết ! giết nữa bàn tay không phút nghỉ!

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cùng rập bước chung lòng, thờ Stalin bất diệt“.


Ngoài ra, các đảng viên đảng cs cũng còn phải „nhập tâm“ những xảo ngữ xú danh của những tay tổ gian hùng của quốc tế cộng sản, trong đó có Lê nin như: „Không có thể phản bội, không thể làm người cộng sản“, nói cách khác: “không là kẻ phản bội, không phải là người cộng sản“.

51.  Ngay từ ngày thành lập, „Tổ Quốc“ của đảng cộng sản vn và những kẻ tay sai trung thành kế thừa sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã không phải là đất nước Việt Nam mà là thế giới đại đồng của quốc tế cộng sản, đại diện bởi „Nước Nga - Liên bang chxhcn xô viết“ (UdSSR), và nước Tầu đại Hán („Trung quốc“ - China). (UdSSR: một bóng ma đỏ vừa mới bị tan rã cách đây không lâu, nhưng chưa từng biến mất). „Gia đình“ của các đảng viên cs là tập thể đảng cộng sản “các nước cs xhcn anh em“. „Tôn giáo“ của chúng là mớ vọng tưởng tà ám về một lý tưởng cộng sản không tưởng. Điều đáng nói là Hồ và đảng cộng sản của y ngay từ đầu đã thừa biết rằng: lá cờ đảng cộng sản cùng tất cả những gì là „lý tưởng cộng sản“ chỉ là mảnh cờ hiệu trá hình, một thứ phương tiện che giấu mục đích không hơn không kém. Mặc dù biết rõ  ngay từ đầu như vậy, nhưng, Hồ và đảng cs vẩn phải tiếp tục giương cao mãi lá cờ đỏ sao vàng và búa liềm đó ở tất cả mọi nơi chỗ có thể được, hòng có thể mãi tiếp tục lòe bịp khối đại quần chúng nhân dân, mà phần động số họ, theo sự ước lượng của bộ chính trị đảng csvn là chẳng còn một ai lại có thể lọt lưới sau những màn tầy não toàn diện toàn phần, dưới hình thức tập thể sâu rộng trong toàn dân do đảng cộng sản đã không ngừng thực thi từ mấy chục năm qua.

52.  Sau khi khối cộng sản đông Âu, đại diện bởi Liên bang xô viết xụp đổ, đảng cộng sản Việt Nam như con rắn mất đầu. Để bằng mọi giá giữ vững cho được quyền lực thống trị, những kẻ kế thừa Hồ và tay sai đã phải gồng gánh sinh mệnh thoi thóp của đảng csvn giao hẳn cho đảng cs „Trung quốc“ định đoạt gánh vác, từ nay sốt xắng tình nguyện chỉ để xin làm một chân gác cửa cho „mẫu quốc thiên triều“.

53.  Nhưng, kẻ định đoạt đường hướng tinh thần Việt gian cho đcsvn cùng những kẻ kế thừa nó tại Việt Nam, theo đó phải phục tùng vô điều kiện, trước sau như một vẫn là tên muôn năm chủ tịch đảng – „cha già“ xảo quyệt Hồ Chí Minh, một tên thợ đu dây rành nghề giữa Moskau và Bắc Kinh. Sau khi một đầu dây đã đứt, đặc biệt là sau cái chết của „lão cha ghẻ nói tiếng Nga“ thì đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn lại một đầu dây là „cái váy của người mẹ người Tầu“, lại cũng ghẻ nốt, để bám víu sống còn. Tất nhiên, bất kỳ sự o bế mời chào của các nhà „chính khách thực tiễn“ đến từ các nước phương Tây khác, kể cả „kẻ thù không đội trời chung“ là Mỹ, cũng đều làm cho đám hậu sinh đảng csvn tò mò hớn hở. Miễn làm sao quyền lực thống trị của đảng csvn vẫn còn được tại vị, và dường như đáng hí hửng hơn hết là chứng giả thông manh lọc lõi của họ, sẵn sàng nhẹ tay buông thả cho những thói lưu manh ngu học của chúng. 
   Để theo gương nước Nga "Liên bang xô viết“, qua sự truyền đạt "kinh nghiệm" có tầm nhìn xa xứng mặt gian hùng của các cố vấn đảng cộng sản Nga-xô, thì đảng csvn cùng bộ máy ngụy quyền bù nhìn của nó cũng phải nhất thiết tìm tất cả mọi phương cách để „chìm xuống“, trước khi nó bị lật chìm. “Hạ cánh an toàn“, hoặc „xuống ngựa an toàn“ là những cụm từ thường được tập đoàn trí nô cộng sản trá hình thậm thụt úp mở, tự đắc ám chỉ những thủ đoạn lưu manh hạ đẳng đã tân trang lại của đảng csvn.


Beeindruckend und verhängnisvoll ist das Händeschütteln  zwischen den beiden KP Genossen  Nguyen Minh Triet und Thich Nhat Hanh im Jahr 2005 in Hanoi, nach dem  Inhalte des Geschäftes  mit dem „Opium des Volkes“ neu definiert und unter Dach und Fach waren.
*
Đầy ấn tượng và thật dính chết như keo sơn là cái bắt tay nặng nề đen tối ràng buộc bởi nghiệp chướng sâu dầy tội ác giữa hai đồng chí đảng viên cs Nguyễn Minh Triết và Thích Nhất Hạnh vào năm 2005 tại Hà Nội, sau khi phần nội dung  kế hoạch liên minh ma quỷ sặc mùi „thuốc phiện của nhân dân“ đã được giàn xếp ngã ngũ.
54.  Cùng một mục tiêu trên, đảng csvn, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và các đồng chí cs trá hình Phật giáo đang thi thố mọi thủ đoạn để thực thi cho bằng được nhiệm vụ chiến lược sống còn này. Và Thích Nhất Hạnh chưa một lần dừng lại trên hành trình tích chứa sâu dầy nghiệp nhân tội ác. Với sự trai lỳ khả ố rành nghề, y vẫn tiếp tục khai thác tối đa những nhãn hiệu xảo trá như „hòa bình, phản chiến“ mà đảng cs đang và đã từng tô vẽ cho đồng chí Thích Nhất Hạnh trong „phong trào phản chiến“ đầy tội ác năm nào. Sự tuyên truyền cò mồi trâng tráo của đảng csvn trong nước và hải ngoại, đã tạo nhiều cơ hội để những cơ sở trá hình Phật giáo của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài có thể giăng bẫy một cách tinh vi, lừa vào tròng vô số các Phật tử phương Tây nhẹ dạ. 
    „Lực lượng“ ngoại vi mê muội này sẽ trực thuộc „đội quân thứ ba“, được Thích Nhất Hạnh trù bị trước để cứu đảng csvn khi „tình thế nguy kịch“: Trong trường hợp quyền lực của đảng cs bị đe dọa rung chuyển tận gốc rễ.  Khi đó, các tên cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo núp áo nhà sư có thể tung hoành tạo biến loạn, vừa ăn cướp la làng, vừa dùng chiêu bài „tôn giáo“ để lật ngược tình thế có lợi cho đảng csvn ngay trong lòng thế giới phương Tây. Những „Phật tử“ phương Tây mê muội này, theo tính toán của Thích Nhất Hạnh, khi có biến cố, họ sẽ sẵn sàng (?) một lần nữa xuống đường biểu tình „bảo vệ Phật Pháp“ thay cho đảng csvn… được nhờ, vì đảng cộng sản vn chỉ chờ có thế. Tức là bất kỳ sự phản kháng nào từ phía chính quyền các nước phương Tây sở tại, ra tay đối phó với các „lực lượng biểu tình Phật tử“ của Thích Nhất Hạnh, sẽ là cơ hội khốn nạn nhất để các cơ quan tuyên truyền của đảng csvn đồng loạt lợi dụng khai thác tối đa và „chỉ trích, lên án“ là „kỳ thị Phật giáo“. 

Nhưng các „tăng sỹ“ trẻ gốc Á châu này dù trá hình với dáng vẻ cẩu thả một cách nham nhở hoặc ngây ngô cách nào thì trớ trêu thay lại càng lộ rõ hơn gấp ba gấp bẩy lần tâm địa tham sân si bất khả che giấu của chúng. Phần đông những „tăng sỹ“ trẻ này sau khi mới ra trường từ những „giảng đường Phật học“ của đảng csvn, nói cách khác là „ đại học an ninh, chuyên khoa tôn giáo“, đã được đảng cs và Thích Nhất Hạnh khai sinh vào đời bằng một rừng những xảo ngữ gượng ép như „tăng thân“, “làm mới đạo Bụt“.v.v. vừa mới ra khuôn, chưa phai mầu cờ đỏ, còn sắc cạnh như búa liềm, còn hơi hám khói thuốc phiện và nặng mùi „tôn giáo kiểu cộng sản xã hội chủ nghĩa“.

Các khái niệm, danh từ „Phật Giáo“ khiên cưỡng „hiện đại“ dòng „Tiếp hiện“ này đã tự nó tố cáo tội ác và tâm địa xảo quyệt của Thích Nhất Hạnh đã dùng tất cả mọi phương cách để khai thác pha chế, xào nấu các danh từ và Giáo Lý Phật Pháp theo công thức: „cộng sản + tôn giáo + thuốc phiện“. Vì mục đích những thực đơn đặt hàng của bộ chính trị đcsvn, trong „công cuộc làm mới Đạo Bụt“ nhiều bước nhiều chặng, kéo dài nhiều thập niên của đảng đánh độc thế hệ trẻ, chưa bao giờ là để dành cho đảng cs tự tiêu hóa những sản phẩm tôn giáo sống xượng do chính các đồng chí cs của họ chế biến ra. Vì „tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân“ nên thực đơn đó chỉ để đầu độc nhân dân, để nhân dân tự đầu độc, hoặc làm sao có thể ăn được nhiều, có thể say mà không chết ngay. Còn như trên đã dẫn, đảng cộng sản vn chưa từng thiếu thốn thức ăn tinh thần dành riêng cho các đồng chí đảng viên của họ. (Chuyên sâu về vấn đề này, phần chi tiết vạch mặt những xuyên tạc Giáo Lý Phật Pháp một cách tinh vi có hệ thống của đảng csvn, GHPGVN, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn, xin xem phần 2. , Nguyên bản tiếng Đức, sau bài viết này).

Quay trở lại với vụ „Tu viện Bát-Nhã“ tại Việt Nam vào năm 2005. Cùng với lực lượng an ninh tôn giáo nhà nước ngụy quyền csvn, Thích Nhất Hạnh và  đồng bọn đã phải gấp rút giàn dựng một vở kịch khả ố vụng về bất cần khán giả. Miễn sao để Thích Nhất Hạnh cùng với đám trí ngủ hậu sinh nhẹ dạ người ngoại quốc đã bị xỏ mũi, có thể xênh xang cùng đảng csvn trình diễn một vở kịch xảo trá: „Tự do tôn giáo ở Việt Nam“, tạo trợ lực đáng kể cho đảng cs vào giờ chót, có thể vượt rào cấm vận ra nhập WTO.  

 Sau màn „đụng độ tranh chấp dân sự“ đầy kịch tính được giới trí nô của đảng cs trong nước và hải ngoại làm rùm beng đánh lạc hướng, là màn „khổ nhục kế“ tiếp theo, Thích Nhất Hạnh đã nhập ngay một vai mới là „nạn nhân“, còn gọi là „dân oan“ của đảng. Theo kịch bản, thì số theo Thích Nhất Hạnh về Việt Nam khoảng 100 tên kể cả ngoại quốc để „tạo ấn tượng, trình diễn thời trang và đội hình“ bằng áo nâu nón lá trên đường phố Hà Nội, sau màn „va chạm“ ban đầu đã tạm hoàn thành nhiệm vụ và bị „trục xuất“ về lại châu Âu. Nhưng tập đoàn của Thích Nhất Hạnh được đảng cs bổ xung thay thế ngay bằng  gần 400 tên cs trá hình Phật giáo khác nhập cuộc. Để cho đúng kịch bản, chúng cùng đảng cs diễn nốt vở kịch. Hết „màn trời chiếu đất“, đến bị „xã hội đen bêu riếu nhục hạ thảm thương“, rồi sau chót là màn kết quan trọng nhất: Số cán bộ an ninh tôn giáo trá hình này được đảng cs đem cài cắm tại nước ngoài bằng hình thức quen thuộc là bị „trục xuất“ khỏi Việt Nam để xin tỵ nạn…đểu tại nước ngoài. Rất đông trong số này đến Đức trong tư thế trá hình Phật giáo giả tỵ nạn, tại một trong những cơ sở lớn nhất của Thích Nhất Hạnh tại Đức, đó là Waldbröl, một thành phố nhỏ gần Köln, miền Trung Tây-Đức. Trước đó cơ sở này từng là một học viện quân sự cũ không còn sử dụng (của quân đội Phòng vệ - Liên bang Đức), được đảng csvn và Thích Nhất Hạnh qua tay lũ cs nằm vùng đứng tên mua lại, rồi cải trang thành „ Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật giáo ứng dụng châu Âu“ („EIAB“- GmbH“). Số còn lại cũng lần lượt được đảng cs và Thích Nhất Hạnh cho đi „tỵ nạn“ tại các nước phương Tây khác.

Để xuất phát từ đây (những cơ sở của Thích Nhất Hạnh, GHPGVN, GHPGVNTN cùng các tổ chức ngoại vi tay sai), các cán bộ cs trá hình Phật giáo của Thích Nhất Hạnh đã và đang móc nối hoạt động tay trong tay khăng khít với „đảng Việt Tân“, một tổ chức đã bị lật mặt là một công cụ cò mồi trá hình của công an ngụy quyền Việt gian cộng sản. Đang nói trong phạm vi ở đây là, về các thủ đoạn chiến thuật, chúng tìm mọi cách tập hợp, đoàn ngũ hóa, lừa lái khống chế những người Việt Nam đặc biệt là Tây phương còn mê muội, để chuẩn bị một thứ „lực lượng trù bị“ cho những cuộc xuống đường tuần hành, dùng chiêu bài "tôn giáo", biểu tình với quy mô lớn ngay tại phương Tây, có lợi cho đảng csvn sau này.

Nichts ist zutreffender als die beiden Fotokommentare aus einer vietn. Web-Site:
1.       Linkes Bild: „KP Kadermönch Thich Phap An: 3. von links, (Geschäftsführer des EIAB GmbH in Waldbröl, DE) gemeinsam mit Thich Nhat Hanh und Genossen beim vietn. KP Vorsitzenden Nguyen Minh Triet zu Besuch“.
Hình bên trái: Tên cán bộ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo Thích Pháp Ấn,( thứ 3 từ trái sang) chủ tịch cái gọi là „Công ty trách nhiệm hữu hạn – Trung tâm Phật giáo ứng dụng Châu Âu“tại Waldbröl – CHLB Đức, cùng Thích Nhất Hạnh và đồng bọn gặp gỡ tên đầu lãnh Đảng cộng sản vn Nguyễn Minh Triết.“

Khó có lời bình luận ảnh nào chính xác hơn lời bình luận trên một trang website tiếng Việt khi chú thích bức ảnh bên phải trên đây:
2.       Rechtes Bild: „Thich Nhat Hanh und Frau Genossin Florette Cao Ngoc Phuong bei dem General der KP- Volksbefreiungsarmee Vo Nguyen Giap und Frau  zu Besuch. Zwei große Führer der zwei Kampffronten von der gleichen vietn. KP treffen sich wieder. Der eine tötet mit dem Gewehr, der andere mit dem „Opium des Volkes“. Das Ergebnis lässt sich sehen: Der eine zählt die Leichen der andere das Geld.“.
Hình bên phải: „Thích Nhất Hạnh cùng người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng  thăm vợ chồng tên đại Việt gian Võ Nguyên Giáp. Những tên đại gian hùng của „hai mặt trận“, hai mũi giáp công“ đều cùng của gian đảng Việt-gian cộng-sản. Một tên bắn giết bắng súng đạn, một tên giết người bằng „thuốc phiện của nhân dân“. Kết quả thật đã quá rõ ràng để chúng không còn có thể chối tội ác: Một tên đếm xác chết, một tên đếm tiền, đang chất chứa thêm cao đầy tài khoản tội ác của đảng csvn.  

Não trạng của Thích Nhất Hạnh cũng như tất cả các loại Thích trá hình của đảng cộng sản vn như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ  đều có chung một cơn mê tưởng: Một lần khoác bộ gấm bào „Quốc Sư“ („Thầy của các vị Thầy“), dù chỉ là vài giờ diện thử trong một màn kịch hóa trang. Vì sau đó, vẫn trong năm 2005 màn tổng diễn tập cho vở kịch „Biến cố Tu viện Bát Nhã“ do Thích Nhất Hạnh và an ninh nhà nước ngụy quyền Việt gian cs cùng chung giàn dựng đã đến gần. Vây quanh bởi một đoàn những tên an ninh vgcs trá hình trong lớp cà sa tăng sỹ Phật giáo theo hộ tống, Thích Nhất Hạnh & đồng bọn xênh xang rước đám diễu hành trên đường phố Hà Nội, và không hề bỏ lỡ một lịch hẹn chụp hình nào của các phó nháy chuyên nghiệp an ninh vgcs. Vì đặc biệt là trong năm 2005 này, đúng là lúc đảng csvn đang cần cần phải lôi cái bảng hiệu trá hình „Tự do tôn giáo tại Việt Nam“ ra tô vẽ lại đánh bóng „sạch đẹp“ hơn bao giờ hết, mong nhờ tấm bảng hiệu này đối phó với sự cấm vận của Mỹ và phương Tây, hòng qua đó có thể lòe bịp thế giới tự do, ra nhập WTO. Trong vụ „Tu viện Bát Nhã“, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn thủ vai „nạn nhân“ của đảng cs vn, khoảng 400 tên cs trá hình Phật giáo được an ninh vgcs „sách nhiễu“ và „trục xuất“ khỏi Việt Nam. Tại nước ngoài, Thích Nhất Hạnh và đcsvn lừa lái, móc nối “xin tỵ nạn“ cho chúng dưới danh nghĩa „tín đồ Phật giáo bị đàn áp“. Để thực thi kế sách, cả bộ máy tuyên truyền văn bút trí nô của đảng csvn trong và ngoài nước đồng loạt lên tiếng, thực hiện đúng chức năng tay sai cò mồi quảng bá cho màn kịch này.  Để cùng một lúc khoảng 400 tên cán cs trá hình Phật giáo được đảng cs và Thích Nhất Hạnh „hợp thức hóa“ tư cách giả „tỵ nạn“ của chúng tại nước ngoài. „Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật giáo ứng dụng châu Âu“– („EIAB-GmbH“) trá hình của Thích Nhất Hạnh tại Waldbröl – miền Trung Tây-Đức, là một trong những địa điểm dừng chân ẩn náu đầu tiên của chúng.
Thich Nhu Dien, oberster Vertreter der UBCV bzw. CVBK/ KVVBK in Deutschland, „Vien Giac Pagode Hannover“.
Thích Như Điển, tên đại diện của GHPGVNTN tại „Chùa Viên Giác" – Hannover, CHLB Đức.
55.  Như tất cả những chi nhánh khác tại nước ngoài, thì „Chùa Viên Giác“ tại Hannover nằm về phía Tây-Bắc CHLB Đức cũng là một trong cơ sở quan trọng của GHPGVNTN. „Chùa“ này được đại diện bởi tên Thích Như Điển. Như trên đã dẫn, hệ thống „chùa tự“ đang càng ngày được mở rộng và có mặt khắp nước Đức, về hình thức ngụy trang đa phần đều trực thuộc GHPGVNTN, nằm trong sự điều khiển của tên Thích Quảng Độ, nhưng về thực chất, đang là những cơ sở trá hình của GHPGVN tại nước ngoài, dành cho các cán bộ cộng sản giả danh đội lốt tôn giáo từ trong nước, từng bước sang thay thế và chiếm giữ. 
   Về hình thức hay bản chất, cái gọi là  „GHPGVN“ („giáo hội quốc doanh“) và „GHPGVNTN“ cả hai đều nằm dưới sự khiển dụng trực tiếp của đảng csvn, cho nên, nó là hai cái thòng lọng được thắt bởi một sợi giây duy nhất. Một cái thòng lọng thì đã được cái gọi là „Ban tôn giáo chính phủ“ của đcsvn tròng lên cổ các tín đồ Phật giáo Việt Nam trong nước một cách oan nghiệt. Cái còn lại thì đảng csvn đã tìm đủ cách mà không cách nào với tới được khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian CS tại hải ngoại cho được. Cho nên, chỗ nào có đám cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo này xuất hiện là ở đó lại có những màn dây rợ lòng thòng thê thảm. Thường thi thố giọng lưỡi của thập loại Ma tâm, cũng như có thể đồng loạt giả mắc chứng á khẩu trơ trẽn, bỉ ổi, là những đặc điểm chung của lũ cs trá hình Phật giáo này khi được hỏi đến, chúng đang tìm ai với một mớ thòng lọng trên vai như thế.

Các cơ sở trá hình „chùa tự“ này, trong đó các cơ sở của Thích Nhất Hạnh đã và đang được gấp rút tạo dựng cải trang một cách tương xứng, để có thể dần biến thành những nơi chứa chấp ẩn náu trù bị của một số đông các cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo dành cho một tình huống „đặc biệt nghiêm trọng“, đó là ngày tàn xụp đổ của đảng Việt-gian cộng sản tại Việt Nam. Như trên đã dẫn, ngay trong hiện tại, xét về mặt chiến lược, đảng csvn đang tìm mọi phương cách bôi xóa chối bỏ bản mặt thật tội ác, để làm sao có thể dần dần „biến thoái“ và „chìm lặn xuống“. Chúng đang giàn dựng một cách xảo trá, hòng đánh tráo thay thế vào „chỗ bỏ trống“, là một hệ thống „dân chủ, đa nguyên đa đảng“ bù nhìn và trá hình càng ngày càng tinh vi hơn. Trong „tình hình xấu“ các tên cộng sản trá hình Phật giáo núp áo tu hành sẽ ẩn náu tại các cơ sở trá hình tôn giáo này để chờ thời. Khi một thể chế „dân chủ đa đảng“ mới được thiết lập, chúng sẽ từ đó lợi dụng tối đa các định chế hiến pháp „dân chủ“, dùng  chiêu bài „tôn giáo, Pháp nạn“ để đánh lạc hướng và xách động quần chúng, tạo các cuộc biến loạn, lật ngược tình thế cướp lại chính quyền. Dành cho mục đích này, đảng csvn đã và đang đầu tư một cách ồ ạt, huy động một lượng ngân khoản rất lớn, trong nước cũng như hải ngoại cho các công trình kiến thiết „tôn giáo, Phật giáo“. Trước hết để gây ảnh hưởng thanh thế quyền lực,  thu lợi trước mắt và cũng để rửa tiền bằng những tạo dựng đầu tư (kiểu… dã tràng) dưới dạng những công trình bất động sản.

Ở đây (tại CHLB Đức nói riêng) phải kể đến tất cả các cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài (ở Đức là „EIAB - GmbH“ tại Waldbröl), cùng tất cả các „chùa tự“ trá hình trực thuộc GHPGVN do các tên cộng sản trá hình từ trong nước mới sang, manh nha tạo dựng như „trung tâm văn hóa Phật giáo Franken, Nürnberg“ tức „chùa Vĩnh Nghiêm“, của tên cs Thích Trí Dũng (trực thuộc „Tổ đình chùa Vĩnh Nghiêm“ – Sài gòn) và „chùa Phổ Đà“, tại Đông-Berlin v.v… Kế đến là toàn bộ hệ thống „chùa tự“ trực thuộc GHPGVNTN cùng hệ thống tay sai là các miền „Gia đình Phật tử Việt Nam“, các „khuôn hội“, các „lực lượng“, các „ban hộ niệm“ kèm theo, do tên Thích Như Điển, Thích Quảng Độ, Võ Văn Ái làm „đầu lãnh tinh thần“ như: „Chùa Viên Giác“ tại Hannover, „Linh Thứu“ – Tây Berlin, „Phật Huệ“, „Phật Đạo“ tại Frankfurt, „Tâm Giác“, „Phổ Bảo“ tại München và  vô số các chùa tự khác như „Viên Đức“ tại Ravensburg .v.v. . Sau hết là vô số những „hội chân rết“ theo công thức „đoàn ngũ hóa“ để khống chế lợi dụng, như „hội chuyên gia“,“hội sinh viên“ „đồng hương“, „thân hữu“, „những người bạn“, „doanh nghiệp“,“văn nghệ“, „lớp khiêu vũ“ và … cả „lớp tiếng Việt“ v.v.
56.  Hiện nay cả hai tên Thích Nhất Hạnh và Thích Như Điển đều hoạt động tay trong tay với „Việt Tân“,  một công cụ trá hình của công an Việt gian cộng sản. Các thành phần đầu xỏ và lũ tay sai nòng cốt của đảng này là những tên an ninh chuyên nghiệp, điệp báo nằm vùng lâu năm của đảng Việt gian cs. Cái gọi là „đảng chính trị đối lập“ („ViệtTân“) cò mồi này chính thức khai trương ra mắt ngày 19.09. 2004 tại Berlin, thường được an ninh nhà nước ngụy quyền việt gian cs ngụy trang tạo dựng thanh thế bằng những thủ đoạn khổ nhục kế rẻ tiền, là: dùng chính các báo „công an nhân dân“ của đảng csvn trong nước và giới văn bút trí nô của chúng tại hải ngoại „chỉ trích“ hoặc khoác cho những mặt nạ trá hình hai mặt như „chống cộng, phản động“, hoặc „dân chủ, canh tân“ v.v. Chúng thường rêu rao những bảng hiệu trá hình, là đứng về phía người Việt Nam tỵ nạn chế độ Việt gian cs,  nhưng về thực chất chỉ để  giăng bẫy đánh lừa và tìm cách khống chế khối đồng bào Việt nam Quốc Gia tại hải ngoại. 

Nước Đức thực sự là „miền đất hứa“ và là một trong những „sân sau yên tĩnh“ cho những mưu ma chước quỷ của đảng csvn. Vì tại đây, bên cạnh những lý do khác, là do có một phần khá đông số người Việt Nam sinh sống tại phía Đông của nước Đức. Họ từng là những người được nhà nước ngụy quyền Việt gian cs „ban phát ân huệ“ bằng cách đẩy đi „lao động hợp tác“, để bán sức lao động, thu lợi cho đảng csvn tại „Cộng hòa Dân chủ Đức“, tức Đông-Đức cũ („GDR“ hoặc „DDR“). Họ chịu nhiều ảnh hưởng và sự khống chế trực tiếp của „đại sứ quán“ Việt gian CS tại Đông Đức, do vậy, cũng theo sự tính toán chắc mẩm của đảng csvn, là sẽ còn có thể lợi dụng tối đa phần đông khối người này. Vì trong số những „con người máy xhcn“ đã bị tẩy não toàn phần này, vẫn có thể sẽ còn xót lại đâu đó những „đoạn rễ cộng sản“ đứt thối, chưa bị cơ thể đào thải. 
57.  Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Thích Nhất Hạnh và tập đoàn  GHPGVNTN vẫn đang tìm mọi cách làm biến tướng một cách có hệ thống các nền tảng giáo lý Phật giáo, vẫn tiếp tục chối bỏ tội ác, không ngừng xuyên tạc bôi xóa một cách đê tiện các chứng tích, dữ kiện liên quan đến các giai đoạn lịch sử cận đại và đương đại Việt Nam, trong đó có cuộc „chiến tranh Việt Nam“. Đặc biệt là các chi tiết liên quan tới tôn giáo, Đạo Phật nói chung và GHPGVN, GHPGVNTN nói riêng, được đảng cộng sản Việt Nam khiển dụng làm công cụ gây tội ác, cũng là bình phong che đậy tội ác, củng cố quyền lực, đều bị đảng cs vn bôi xóa, đổi trắng thay đen, làm thất thoát, cắt xén  và xuyên tạc, bất chấp mọi di chứng nguy hại và hậu quả lịch sử cho dân tộc Việt Nam trong đương đại và tương lai.
58.  Vì khuôn khổ bài viết nguyên ngữ tiếng Đức, dành cho khối đọc giả phương Tây, nói tiếng Đức, nên trước hết chỉ đơn cử ở đây những ví dụ nhỏ sơ lược liên quan tới tên Thích Như Điển và GHPGVNTN tại Đức. Với một hậu thuẫn đông đảo các giới văn bút trí nô tay sai của đảng cs vn tại Đức, một trong số đó có những tên đã có học vị tiến sỹ, giáo sư, ví dụ như Thái Kim Lan (môn Triết học, trường đại học tổng hợp Ludwig Maximilian Universität  „LMU – München“), đã là những nền tảng thuận lợi để Thích Như Điển cùng các „đệ tử“ của y „chế tác“ các „luận án tiến sỹ“. Trong đó, phần „sao y bản chính“ đã trở thành một thông lệ, cũng là cơ hội mà các vị „cử nhân“ tương lai của GHPGVNTN không thể bỏ qua. Đặc biệt là những chi tiết quan trọng về giai đoạn lịch sử cận đại đầy tội ác của GHPGVNTN, cùng sự liên kết „như hai mà một“ của nó với đảng cộng sản vn, đã „được“ các „tiến sỹ“ này chép y chang như những „chủ trương đường lối“ của…đảng csvn „chỉ đạo“ GHPGVNTN từ mấy chục năm qua.
59.  Một trong rất nhiều trường hợp được thống kê tường tận, sẽ đơn cử ở đây một trường hợp cụ thể: Tên Thích Hạnh Giới (tục danh Lộc Hồ, sinh ngày 01.01.1971 tại Sài gòn, đệ tử của tên Thích Như Điển) kết thúc chương trình đại học trường Đại học Hannover năm 2003, tại chuyên khoa „Khoa học -xã hội và  -tâm linh“,  ở bộ môn „Phật học – Triết học“, làm „Luận án tiến sỹ - triết học“ với đề tài:
    Tạm dịch: “Đạo Phật Việt Nam tại USA – Một nền tảng của đức tin trên quê hương mới“. (USA: „Hiệp chủng quốc“ hoặc „Liên bang quốc gia Mỹ).
Trong „luận án“ này: nguyên bản tiếng Đức:  („Der vietnamesischeBuddhismus  in  den USA - Der Stellenwert des Glaubens in derneuen Heimat“),
 
người đọc sẽ thường gặp lại giọng lưỡi xảo trá quen thuộc của những tên cs trá hình Phật giáo GHPGVNTN, y chang các giọng  điệu tuyên truyền bôi xóa lịch sử một cách trơ tráo của đảng cs vn đã từng lặp lại từ hàng chục năm nay. Nào là „ Pháp nạn“, nào là „đàn áp tôn giáo bởi chính quyền Ngô Đình Diệm“ v.v.
60.  Một ví dụ khác: „Nhà sử học“ hoặc „giáo sư  Nguyễn Lang“ (!) là một trong những cái mặt nạ tùy thời của tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo Thích Nhất Hạnh (tức Nguyễn Xuân Bảo). Dù cải trang dưới cái mặt nạ „Nguyễn Lang“ hay trá hình trong lớp áo cà sa Phật giáo, y tha hồ „chế tác“ các „tác phẩm văn học“ và „lịch sử Phật giáo Việt Nam“, bằng cách cho tất cả vào khuôn đúc của các nghị quyết đảng csvn để đúc chế lại, cái nào khó nấu chẩy thì mài dũa, đập vỡ hoặc bẻ cong. 
    „Làm mới Đạo Bụt“, hoặc „dòng tu tiếp hiện“ chỉ là một trong vô số những „xảo thuật tái chế“ đó, tạo cho đảng cộng sản vn có thêm nhiều cơ hội của những vi khuẩn tâm linh bệnh hoạn, đeo đẳng ăn bám Phật giáo, mãi sống còn để đầy đọa rút máu tàn phá cơ thể dân tộc Việt Nam. Vì sức ỳ nội tại đã quá tải, đảng csvn không thể chấp nhận Phật giáo „đi chệch hướng cộng sản xhcn“. Do vậy Thích Nhất Hạnh, đảng csvn, GHPGVNTN cùng những kẻ không thể đoạn tuyệt thứ xảo nghiệp thích trí trá, đã phải thường lăng xăng tranh giành lấy bất cứ cơ hội nào để  tuyên xướng, ban phát ân huệ và quảng bá phô trương những khẩu hiệu „hoành tráng và vĩ đại“ có thể cảm động chết người, như „Phật giáo đồng hành cùng dân tộc“, „mái chùa che chở hồn dân tộc“, „Phật giáo là dân tộc“, để lòe bịp nhân dân. Như một thứ bùa chú mê hoặc không thể thiếu của những kẻ cai ngục thuộc giai cấp thống trị giả nhân giả nghĩa nhưng có quyền ăn nói. 
    Hậu quả là qua sự „chế tác“ của đám văn bút trí nô trá hình trong các nhãn hiệu „giáo sư“, „nhà sử học“, „nhà văn hóa“… kiểu Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ và Võ Văn Ái…, những giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam đã bị biến thoái nghiêm trọng, tùy theo những định hướng giai đoạn của đảng cs vn. Và nguy hại hơn cả là mục đích của những nỗ lực sửa sai bóp méo lịch sử này chính là: Làm sao để những vệt máu tội ác không gì lau rửa được của đảng csvn, Thích Nhất Hạnh, GHPGVNTN và tay sai được che đậy khỏa lấp đi phần nào.
Bức cận ảnh  của „Nguyễn Xuân Bảo ở độ tuổi 30, đầu tóc xanh rờn“ đã tự nó đấu tố cái chi tiết „đi tu từ năm 16 tuổi…“ (mười sáu tuổi) trong „tiểu sử lý lịch“ của Thích Nhất Hạnh và cũng khai ra luôn ai là tác giả của „tiểu sử lý lịch“ này. Phần chi tiết xin xem phần 2 sau bài viết này.

61.  Cái nhãn hiệu „Thiền sư“ (!) của Thích Nhất Hạnh cũng như vô số những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo khác, xét về những thủ đoạn thực thi chẳng khác gì cách làm của Mao Trạch Đông và đảng cs „Trung quốc“ trong cái gọi là „cách mạng văn hóa“(!) qua bàn tay của đảng cs vn. Ngay từ những năm 1962, khi Thích Nhất Hạnh thay mặt đảng cs vn, trá hình trong lớp áo cà sa „tăng sỹ“ Phật giáo GHPGVNTN đi làm nhiệm vụ „ngoại giao tôn giáo vận“ tại nước ngoài, thì các „đồng chí chuyên trách“ của GHPGVNTN đã chọn ngay cho y một cái tước hiệu „Thiền sư“ vang như chuông, rất „thời thượng“. Loại bỏ ngay từ đầu, và „cách mạng văn hóa“ luôn cách chọn danh xưng khả xứng, cẩn trọng khiêm tốn tối thiểu, ví dụ như „Đại đức“, „chú tiểu“, „Tỳ khưu“, „Sadi“, „Sa môn“ v.v… có vẻ „quê mùa“ dành cho một người „nương náu cửa Phật“ ở độ tuổi của hắn tại Việt Nam vào thời điểm đó. 
   
   Dùng „danh xưng khả xứng“ chỉ là một phần nhỏ nhưng bất khả phân, những tinh túy của Giới, Luật trong Giáo Pháp của Đức Phật do Chư Tổ sư nhiều đời hằng truyền thừa, đã trở thành truyền thống trân quý dành cho giới tăng ni, tu sỹ Phật giáo, xuất gia hoặc tại gia khắp nơi trên thế giới. Nhưng đảng cs vn và Thích Nhất Hạnh suy luận cách khác: Nếu „tấm áo cà sa không làm nên một tăng sỹ, vậy thêm cái danh hiệu chắc phải thừa đủ“. Thật là cay đắng cho một số đông giới quần chúng ưa chuộng cầu vọng Phật giáo tại phương Tây, đã từng, và vẫn còn nhẹ dạ cho tới tận hôm nay, vẫn chưa thể hiểu „vì nguyên cớ gì, cách đây trên 2500 năm, Đức Phật Thế Tôn đã không mang cái danh hiệu „Thiền sư“ kêu như chuông kia, đi „đăng ký bản quyền“ tại một sở phát minh sáng chế nào đó cho yên chuyện“.

Như đã dẫn ở trên,  bằng những thủ đoạn thâm nhập, đánh lạc hướng và lèo lái một cách có hệ thống những nguồn tin của giới truyền thông, học thuật… ngay trong lòng thế giới phương Tây, đảng cs vn qua tay Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phần nào từng tạo ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch của một phần không nhỏ khối quần chúng tại Phương Tây về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua.
62.  Cũng như cụm từ „Kommunismus“ đã dẫn ở trên, „Đạo Bụt dấn thân“, sau này được „biến thoái“ thành „đạo Bụt nhập thế“ (!). “Engaged Buddhism“ hoặc „Engagierte Buddhismus, xuất phát bởi cụm từ gốc (ở tiếng Đức là „Engagement“ : „Trách nhiệm“, „nhiệt tình“ „dấn thân“, „hành động“…vì một „lý tưởng nào đó“). Cụm từ này đã được giọng lưỡi của Thích Nhất Hạnh và GHPGVNTN khai thác lợi dụng tối đa, từ đầu những năm 1960 cho đến tận ngày hôm nay.
Cũng như vô số các „phong trào“ trá hình khác của GHPGVNTN và „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“ vào những năm 1963 và những năm sau đó, cái gọi là „đạo Bụt dấn thân“ do tên Thích Nhất Hạnh tái chế (vào thời điểm này còn là „Đạo Phật dấn thân“) thực sự là một thứ khẩu hiệu tuyên truyền tẩy não lợi hại của đảng cs vn trên „mặt trận ngoại-giao – tôn-giáo“, một trong các „mặt trận“ của đảng cs vn trong cuộc chiến xâm lăng VNCH. Món bả độc này được pha trộn kỹ trong từng xuất cơm chay tươi sắc mầu „Phật giáo“ của các miền „gia đình Phật tử Việt Nam“, dùng làm động cơ để đoàn ngũ hóa, khiển dụng các tầng lớp thanh thiếu niên Phật tử háo hức nhẹ dạ, tập hợp lực lượng trù bị này cho những cuộc xuống đường biểu tình, gây rối phản loạn của những „lực lượng PG tranh thủ cách mạng“, „Phật giáo tranh đấu, bảo vệ Pháp nạn“,“chiến đoàn Phật tử Trần Đại Thức“ v.v., đánh phá chính quyền trung ương VNCH, do những tên cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ… xách động.

Theo hoạch định của „bộ chính trị“ đảng cs vn tại Hà nội, để có một lực lượng trù bị dồi dào theo sách lược „biển người“ (do các „cố vấn“ đảng cs Tầu „chỉ đạo“, gọi là „chiến tranh nhân dân“), hậu thuẫn cho „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ trong giai đoạn đó, thì sự cần thiết phải hình thành các hội đoàn, „đảng phái chính trị“ trá hình để có thêm nhiều lá phiếu „hợp pháp“, làm sao che đậy được dã tâm xâm lược của đảng cs vn, có ảnh hưởng càng mạnh càng tốt, để khống chế trực tiếp nghị trường thượng hạ viện Việt Nam Cộng Hòa là một thủ đoạn chước kế không thể thiếu. 

Nhưng do áp lực căm thù, khát vọng xâm lược dồn nén, „bộ chính trị“ đảng cộng sản vn đành phải tự tay cắt bớt giây thần kinh xấu hổ của chính mình và các đồng chí cs trá hình Phật giáo trước khi đẩy chúng vào „mặt trận“ này. Cho nên sự trơ trẽn bỉ ổi hết còn biết xấu hổ đã trở thành một dị chứng do khuyết tật giải phẫu, không thể và bất cần giấu diếm của đảng cs vn. Khi chúng muốn qua tay GHPGVNTN thể hiện mối „quan tâm Phật Pháp thế quyền“ tại chính trường Việt Nam Cộng Hòa, mà không quên nhấn mạnh „động cơ chính trị“ của một „đảng chính trị Phật giáo“ do chúng giàn dựng đề cử.  „Đảng chính trị Phật giáo“ này đã được giàn dựng để ra mắt, đại diện bởi Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh ở bề nổi, và do tên cs trá hình Phật giáo Thích Trí Quang „chỉ đạo“. Cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“ này, tất nhiên, chỉ là xảo kế che đậy dã tâm, nằm trong chương trình xâm lăng của đảng cộng sản Bắc- Việt tại Hà Nội.

Sau đây là một trong những bằng chứng cụ thể, nói về thời điểm manh nha hình thành của cái  gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“, một trong những phiên bản đầu tiên của cái gọi là „Đạo Bụt dấn thân“ hành động, vì một lý tưởng…cộng sản trá hình, do Thích Nhất Hạnh là „chế tác giả“ vào những năm 1966 – 1969:   

 Theo nguồn: Nguyên ngữ tiếng Anh: King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.

Thich Ho Giac, Thich Thien Minh und Thich Tri Quang, die KP Agenten im Mönchsgewand, bei der Bekanntmachung der Parteigründung ihrer „Buddhistischen Politischen Partei –Vietnamese Buddhist Force“
*
(Trong ành: Hàng trước, từ trái sang) Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh, và Thích Trí Quang, những tên cộng sản trá hình trong lớp áo tăng sỹ Phật giáo trong lễ ra mắt thành lập đảng: „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam – Vietnamese Buddhist Force“.
Bởi vậy, xét về thực chất, cũng như tất cả các tôn giáo và truyền thống tâm linh khác tại Việt Nam bị đảng cs vn lợi dụng, „đạo Bụt dấn thân“ chỉ là cái „mặt nạ mới“ của một trong vô số những thủ đoạn cũ được tân trang, hòng làm biến thoái „Đạo Phật“ để tiếp tục khiển dụng. Bất kể được che đậy bằng những mặt nạ tinh vi như thế nào, cũng không thể che giấu được một sự thật là: Chừng nào đảng cs vn còn chưa bị đập tan, thì chừng đó các tôn giáo (ở đây là „Đạo Phật“)  tại Việt Nam, hay những đại diện trá hình của nó tại nước ngoài, còn là một thứ công cụ ngụy trang hữu hiệu, che chắn bảo vệ quyền lực của đảng cộng sản vn.

 „Đạo“ có thể „làm“, có thể „chỉ“ chẳng phải „Đạo“ chân thật! Vậy „đạo Bụt“ („của tên Thích Nhất Hạnh“) là một thứ không những có thể „làm“, mà hơn thế, hắn và đảng cs vn cứ thả sức tùy tiện „làm mới“ được, là cái gì ? Vậy nên  những cái dù „được“ hay „bị làm mới“ kia, rõ ràng là một thứ „đạo đức cách mạng“ trá hình của đảng cộng sản vn! Vì đảng cs vn hiện nay vẫn đang từng ngày cưỡng bức „chỉ đạo“ toàn dân chui vào cũi „mặt trận tổ quốc“, trong đó có GHPGVN trong nước, và, qua „viện hóa đạo“ của GHPGVNTN trá hình tại hải ngoại. Vì thế, đảng csvn „chỉ đạo“ „viện hóa đạo“ GHPGVNTN bao nhiêu, càng chất chứa thêm nhiều tội ác bấy nhiêu. Trá hình tà đạo tội ác đã không thể rửa. Trá hình Phật giáo để gây tội ác thì dù vô lượng kiếp, trời, đất, thiên, nhân bất khả dung.

63.  Vì cưỡng lệnh đảng, tên Thích Thiện Minh đã bị các đồng chí của đảng cs trừng phạt loại bỏ, bị tra tấn đến chết trong tù năm 1978. Thích Hộ Giác và Thích Nhất Hạnh vẫn ngoan cố đeo đuổi sự nghiệp Việt gian của đảng cộng sản Việt Nam, là tiếp tục giăng bẫy phát triển „đường lối chính trị“ của „đảng chính trị Phật giáo“ này tại phương Tây. Cùng với người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, Thích Nhất Hạnh đã trở thành giới „lãnh đạo“ của đảng này tại phương Tây, nhưng dưới cái tên trá hình trái khoáy, khiên cưỡng: „Đạo Bụt nhập thế “. Nhưng với thế giới Phương Tây tự do thì bất kỳ thứ gì, một cơ hội để  trở thành „hợp thời“, kể cả những món bả độc cộng sản mầu mè trá hình Phật giáo trên đây, cũng chỉ là vấn đề thời gian.
  
Những toan tính thủ đoạn của đảng cộng sản vn không hề dừng lại; „Đạo Bụt nhập thế“ sẽ rất „thức thời“, và hợp với thế giới phương Tây tự do, hiện đại“. Nên đảng csvn vẫn có thể đỡ lưng Thích Nhất Hạnh tiếp tục lừa đảo rao bán Phật giáo, và đám quần chúng Phương Tây cầu vọng Phật giáo nhiệt thành nhưng mê muội kia, sẽ chẳng có thể biết được một thứ gì khác, chừng nào họ còn chưa biết, hoặc không muốn biết sự thật,  khác với những gì họ bị tẩy não về cuộc chiến tranh tại Việt Nam vừa qua. Trước hết cứ bị lừa vào tròng đã, còn lại bất cần là lý luận của những kẻ hết còn biết gì là trơ trẽn nói trên. Chỉ có đảng cs vn tin rằng các vệt máu tội ác tanh bẩn đã được lau chùi sạch sẽ.  Hiện nay Thích Hộ Giác vẫn thường diện thử chiếc mũ „tăng thống“ cho GHPGVNTN tại Mỹ, và Thích Nhất Hạnh lừa lái „đạo Bụt nhập thế“ của đảng csvn trồi lên thụt xuống, theo sát những dòng thời sự tại phương Tây, như „đạo Bụt và ý thức môi sinh“ hoặc „đạo Bụt và ý thức trách nhiệm chính trị“.

64.  Theo nghĩa này, một „cơ hội“ đặc biệt „hợp thời“ cho Thích Nhất Hạnh cũng đã đến, khiến y không thể không lợi dụng để thi thố công khai nơi công cộng cái „ý thức, trách nhiệm chính trị“ đểu giả có một không hai của đảng cs vn qua cách thể hiện trơ trẽn khả ố của „đạo Bụt nhập thế“, là thừa dịp vụ tấn công của "quân khủng bố" vào hai tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới ngày 11. 09. 2011 tại New York, USA.
   Nhân một thời nói chuyện trong một Thánh đường tại New York, hắn nêu ra một „sự kiện“ khác, cố tình gán ghép „sự kiện“ đó với cuộc tấn công "khủng bố "đặc biệt nghiêm trọng này. Đó là con số „300.000 (ba trăm nghìn) nạn nhân Việt Nam“ của một thị xã, nay là thành phố Bến Tre, „bị bom Mỹ sát hại“ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trích dẫn nguyên văn: …"I wrote this poem during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300.000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound". Trích dịch, theo nguồn “Google”: “… Tôi đã viết bài thơ này trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam sau khi được nghe thành phố Bến Tre bị bỏ bom hủy diệt. Thành phố 300,000 ngàn dân đã bị hủy diệt chỉ vì bẩy du kích bắn năm ba tràng đạn phòng không một cách không hiệu quả rồi bỏ đi. Lòng đau đớn của tôi thật tột cùng.“

Trong tháng 11. 2001 này, Thích Nhất Hạnh đầu tư hàng chục nghìn Dollar (45.000 Dollar) dành để đăng tải hai kỳ quảng cáo cho một thời diễn giảng của hắn vào tối 25. 09. 2001, tại Thánh đường Riverside, trên tờ Thời báo nổi tiếng là tờ „New York Times“, trong đó có đăng đoạn trích dẫn nói trên.  Vì chắc mẩm rằng cái giọng lưỡi rắn độc nói tiếng Anh bồi của hắn chỉ để dành cho những cái tai của người Anh, Mỹ và phương Tây nghe được, còn những người đang ở Việt Nam, một cái ngục tù không tường vách, đã bị đảng cộng sản vn “bịt tai rút lưỡi”, tẩy não sạch trơn rồi, thì làm sao mà nghe cho thấu những gì ở bên ngoài, nghe rồi, lấy gì mà hiểu mà nói cho được. Những người Tây phương kia ai biết được Bến Tre ở đâu? Ai hỏi lại làm gì? Nếu có thì y đã có thừa những thủ đoạn „á khẩu“ rành nghề lâu năm để đối phó. 

Dân số thị xã thành phố Bến Tre hôm nay (năm 2012) chưa vượt quá 143.639 người. Và tất cả người Việt Nam biết rằng cái „sự kiện“ nêu trên, do tên Thích Nhất Hạnh xúc xiểm tuyên truyền, hoàn toàn là một thứ bịa đặt trắng trợn. Ngoại trừ tập đoàn văn bút trí nô tay sai của đảng cộng sản vn và GHPGVNTN vẫn ngoan cố tìm cách bào chữa chạy tội cho tên Việt gian cộng sản Thích Nhất Hạnh trá hinh Phật giáo này. Cái lưỡi rắn nước đôi của Thích Nhất Hạnh, nhìn cách nào cũng không thể che giấu, chính là của con rắn độc đảng cộng sản vn, với nó, đồng bào Việt Nam trong nước và khắp nơi trên thế giới đã có thật nhiều kinh nghiệm cay đắng và đau thương. 

Cho nên, âm hưởng của người dân New York trong giờ phút kinh hoàng vì mất mát tổn thất sau vụ "khủng bố", đối lại những lời xúc xiểm đâm thọc và bịa đặt của Thích Nhất Hạnh thật rõ ràng: „Thích Nhất Hạnh, hãy cút đi! „ („Thich Nhat Hanh Go Home !“).
65.  Có một thực tại trâng tráo nhưng là sự thật, đó là Phật giáo nói chung, và đặc biệt là Thiền nói riêng đã từ lâu, chỉ được đảng cộng sản vn, GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh coi như một thứ gì đó để lợi dụng, bất kể gọi nó là thứ gì. Nhưng Thiền càng ngày được coi là một  thứ „thương phẩm tâm linh“ chiến lược béo bở, lợi hại, và giờ đây nhất thiết phải được „làm mới“, quảng bá rao bán theo những phương thức quản trị kinh doanh kinh tế thị trường hiện đại, tinh vi hơn, lại là một điều hoàn dễ hiểu và không có gì lạ. Vì điều này (lợi dụng Phật giáo tinh vi hơn) cũng vừa vặn nằm trong những nghị quyết, những thủ đoạn chiến lược bẩn thỉu của đảng cộng sản Việt Nam, gọi là „đảng đổi mới“ ( nói gọn là „Đổi mới“). Vi sau khi „Liên bang xô-viết“ sụp đổ, để duy trì quyền lực độc tài, đảng cs vn phải „đổi mới“,“ đổi mới“ để tiếp tục cai trị.
66.  Nhưng, cái gọi là „đảng cộng sản Việt Nam“ đã từng có biết bao nhiêu lần „đổi mới“? Mỗi lần biến tướng, thay mặt nạ, chỉ để „đổi mới“ cái bản mặt, còn bản chất Việt gian cố cựu thì bất khả thay đổi. Nên đảng cs vn đều có dự trữ sẵn những cái roi để „tự trừng phạt“, luôn cả dàn ca kịch „tự tố khổ“, „vạch sai lầm“, „sám hối“ để „sửa sai“ rất khả ố, giờ đây còn thêm màn xì xụp „lên đồng rước đám“ lưu manh, mịt mù khói hương, càng thêm buồn nôn ngẹn thở. Mỗi lần đảng csvn „đổi mới“ các „chùa tự“ do đảng cs vn „đầu tư gửi gắm“, tạo dựng kiến thiết càng mọc thêm nhiều hơn, thêm cao hơn và thêm tầm „vĩ đại“ hơn. Nhưng người dân Việt Nam bị trị thực sự càng trở nên nghèo hơn, vì các thùng „Ai bảo cúng dường“(?) này, cũng phải tương xứng nhân lên nhiều hơn, to hơn, đầy hơn và tất nhiên kiên cố hơn. Tại những nơi mịt mù hương khói đó chưa bao bao giờ là những thùng „Tam Bảo Cúng Dường“, vì trên thực tế nó là những cái két bạc có khóa („Tresoren“), kẻ giữ chìa khóa là đảng cộng sản vn, nên việc những két bạc đó phải thuê thêm người canh gác, thật không có gì là khó hiểu.

Đơn cử hai ví dụ: Một, là  „Chùa Bái Đính“ mới hoàn thành tại Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam, về thực chất, chỉ là một bản sao của sự tham vọng, được thể hiện qua phong cách kiến trúc kiểu… Tầu. Đảng cộng sản vn hiện tại là  kẻ „chủ đầu tư“ và „sở hữu“ nó, một khi đã học được cách „quản lý tôn giáo“ không thể chỉ dừng lại ở „khống chế“ mà phải „đầu tư tôn giáo“ để thủ lợi theo kiểu đảng cộng sản Tầu, dù „chậm lụt“, nhưng lòng tham lại vượt trội, tất nhiên cũng muốn đồng tiền đã cướp bóc được của nhân dân từ nhiều thập niên qua, bỗng chốc được nhân lên ấp bội. Cho nên  ngôi „chùa“ này thực sự đã „vĩ đại“ hơn nhiều những ngôi xếp vào hàng „Đại tự“, trong „Tử Cấm Thành“, tại Bắc Kinh.

Hai, là „chùa Hồ“, một trong vô số những chứng tích tội ác của đảng cộng sản vn qua những thủ đoạn „thần thánh hóa“ tên đại Việt gian Hồ Chí Minh. „Chùa Hồ“ tại tỉnh Bình Dương, miền Nam Việt Nam đã phá vỡ nhiều „cơn sốt kỷ lục Phật giáo“. „Thượng tọa“ ở hàng trước, trên bệ thờ của „chùa“ là bức tượng quá cỡ của Hồ ngồi ghế mây, tất cả đều mạ vàng ròng 24 Karat. Khách hành hương muốn tỏ lòng kính ngưỡng lễ lậy Đức Phật và các vị Thần,  Anh hùng Dân tộc, ngồi ở hàng sau, xin cứ tự nhiên! Lòng thành kính qua sự lễ lậy của những người dân đã bị tẩy não này trước hết, đã được đảng cộng sản vn lợi dụng dành cho hình tượng tên „bố già“ xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh và đám hậu sinh không thể từ bỏ được thói ăn trên ngồi trước kia, còn xác Hồ thì đang phải cười nham hiểm, loại nụ cười của những cái xác chết khô không được chôn cất, tại một nơi khác, nằm về phía Bắc Hà Nội. Vì trong „lăng Hồ“ tại Ba Đình, xác hắn đã được thay thế từ lâu bởi một hình nộm bằng sáp.

Phần nội thất của „Chùa Hồ“ được xây dựng đa phần bằng vật liệu quý hiếm, được bảo quản bằng máy điều hòa nhiệt độ và canh gác cẩn mật không kém cái „lăng Hồ“ nói trên tại Hà Nội. Những khách hành hương muốn giải trí và tiêu cho hết tiền sau khi lễ lậy Hồ thỏa thuê, còn muốn đi, để chiêm ngưỡng cho hết quần thể „chùa Hồ“, có loại hình „kiến trúc Disney Land“, thuộc loại kiến trúc ăn xổi ở thì của trào lưu „kiến trúc giả tạo“, nằm trong quần thể du lịch „Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến“, họ chỉ có thể dùng xe chạy điện do các công ty của đảng bao thầu, đang nhẫn nại mỉm cười, lừa lái đưa đón khách.

Cứ mỗi lần đảng cộng sản vn „đổi mới“, là con số những người bị bắt giam, cầm tù, quản chế vì thực sự lên tiếng vạch mặt tố cáo đảng cộng sản vn là một lũ Việt gian, lại tăng lên nhiều hơn. Cái thòng lọng tròng lên cổ đồng bào Việt Nam đang bị cai trị sẽ thắt chặt hơn, để quyền lực thống trị và cai trị của đảng cs vn bớt bị lung lay hơn. 
Ho ist überall KP-Vorsitzender, auch in der „Ho Pagode“ in Binh Duong, Vietnam. Mit hochkarätigem Gold überzogen, sitzt seine Statue vor der Buddha Statue. Daneben ist die KP Flagge gehisst.
*
Là chủ tịch muôn năm của đảng cộng sản vn, ăn trên ngồi trước đã là một cái đặc quyền của Hồ, cho nên, trong „chùa Hồ“tại Bình Dương, Việt Nam, đảng vẫn dành cho hắn cái đặc quyền ăn trên ngồi trước cả dân tộc và hơn thế nữa.  Bức tượng mạ vàng ròng 24 Karat của hắn „thượng tọa“ trước tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bên cạnh lá cờ đỏ máu của đảng cộng sản vn.  
67.  Theo như đã dẫn ở trên, một trong những câu để đời của tên tổ „cộng sản“ Karl Marx, được coi như những „nghị quyết“ của đảng cộng sản vn: „Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân“ (nguyên ngữ trong tiếng Đức :“Religion ist das Opium des Volkes“), và đã từng bị bài trừ loại bỏ. Nhưng thuốc phiện là một thứ thảo dược đặc biệt quý hiếm, nên trong hiện tại, theo những thủ đoạn „đổi mới“ kiểu „biến tướng“ có tên „nghị quyết này nọ“ nói trên, thứ „thuốc phiện tôn giáo“ này lại được đảng cs vn „gieo trồng“ một khối lượng lớn hơn bao giờ hết (bằng thủ đoạn „tôn giáo, lễ, hội“ triền miên, lòe loẹt, tốn kém và lố bịch). Qua bàn tay của GHPGVN, GHPGVNTN cùng Thích Nhất Hạnh và tay sai, là những tên cộng sản trá hình Phật giáo, một lũ con buôn hiện đại, dùng „thuốc phiện tôn giáo“ đầu độc nhân dân, nguồn thu lợi tức của đảng cộng sản vn từ thứ „thuốc phiện là tôn giáo của nhân dân“ này, càng ngày càng lớn hơn bao giờ hết. Thử hỏi rằng, liệu nhân dân Việt Nam đã bị „say thuốc quá liều“ cho đến có thể bị „ngộ độc“ bởi thứ „thần chết đỏ“ nói trên hay không, thì cũng nên hỏi,  ở đâu và có bao giờ, những kẻ buôn bán thuốc phiện lại quan tâm đến chuyện đó. 
Vì một trong những cái đích đã được nhắm tới của sự mê hoặc dân chúng bằng „tôn giáo đỏ“ theo nghĩa này, chính là: Làm sao để tất cả các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trẻ, có tri thức, bị đánh lạc hướng, sẽ trở nên nông cạn, mê muội, đồi trụy, bạc nhược, sợ hãi, cầu an…, mất sức đề kháng, dẫn đến vong bản, thui trột ý thức dân tộc, quên đi nỗi nhục mất nước…. Để rồi phải chấp nhận tất cả những gì là tội ác của đảng cộng sản vn: Đã và đang làm Việt gian, cai trị dân tộc trong ngôi vị chư hầu thái thú dài hạn cho đảng cs Tầu, đồng hóa bán đứng tổ quốc, dân tộc Việt Nam cho  Tầu Hán phương Bắc...

Tất cả những gì thuộc về ý chí, tri thức, lòng yêu nước, và sức mạnh phản kháng của đồng bào Việt Nam… chỉ để bị đảng cs vn lợi dụng cướp trắng, hoặc hướng vào hết những „trận địa giả“ này, đến những „lễ hội tôn giáo mê hồn“ khác. Chỉ nhắc lại những luận điệu do đảng cs cò mồi, tẩy não, không thể nhận ra cái đại họa to lớn nhất của dân tộc trước mắt, chính là: Đảng cộng sản Việt Nam đã là một tập đoàn Việt-gian từ trong trứng nước và trong hiện tại! Chúng chính là kẻ nội thù số một và là kẻ thù trước mắt của dân tộc Việt Nam! Chúng đang từng ngày đàn áp nhân dân, để có thể bán hết đất nước, tài nguyên, lãnh thổ cho Tầu Hán và các thế lực tài phiệt quốc tế, giúp đảng cs Tầu đồng hóa dân tộc Việt Nam, xáp nhập Việt nam vào nước Tầu đại Hán „Trung cộng“. Chúng chính là kẻ Việt gian nội thù đại phản tặc, đáng phải bị trừng trị đập tan ngay trước nhất !

Nhưng tất cả những gì nêu ở đây, chỉ là một phần nhỏ của cái gọi là „tự do tôn giáo“ dưới ách cai trị của đảng cộng sản tại đất nước Việt Nam hôm nay.

68.  Một trong những „nền tảng hạ tầng cơ sở“ của đảng cộng sản vn tại nước ngoài, dành  làm môi trường ẩn náu cho các hoạt động của đám cán bộ cộng sản trong và ngoài GHPGVNTN hiện tại, phần nhiều, chính là do sự hình thành và phát triển của những „chi hội Phật tử Việt Nam tỵ nạn“ sau ngày 30.Tháng Tư. 1975 tại các nước có người Việt Nam xin tỵ nạn. Phần lớn những chi hội Phật tử này, đều có những „gia đình Phật tử“ kèm theo. Ngay từ những ngày thành lập, đã có sự trà trộn lèo lái của đám cán bộ cộng sản nằm vùng, và những tên tay sai Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, sau này còn có thêm „Việt Tân“ trá hình. 

    Những „hạ tầng cơ sở“ này („Chùa, tự“, „niệm Phật đường“) đã được GHPGVNTN qua những vệ tinh của nó là các „Gia đình Phật Tử Việt Nam“ xây dựng, bài thiết một cách khang trang. Để sau đó mở cửa cho hàng loạt những tên cộng sản trá hình Phật giáo  khác từ trong nước sang dần dần thay thế chiếm giữ. Từ trên „bàn thờ Phật“, chúng cố giữ vẻ thâm trầm giả tạo, kìm giữ những nụ cười nhạt hơn nước cất, mục kích các tầng lớp „Phật Tử“ phủ phục, quỳ lậy lễ bái chúng sát đất. Sự cung kính của các Phật tử thuần thành nhẹ dạ này thật không thua kém sự cung kính ngưỡng mộ vừa nêu trên, của những người đi hành hương „chùa Hồ“, dành cho vị „thượng tọa trụ trì“ của nó. Nhưng, tất cả những gì lũ cộng sản trá hình này, từ dáng vẻ hình thức, theo thành ngữ tiếng Đức gọi là “aalglatt“, tức là đầu mắt đều tương tựa „trơn như lươn… đỏ“ này, còn thực sự quan tâm đến, lại chính là sự đầy vơi của những cái thùng „Cúng dường Tam Bảo“ vào lúc cuối ngày.
Tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“,hoặc „Tam Bảo Điền“, „Tam Bảo Nô“ là những thực trạng lịch sử không thể không nhắc đến trong dòng sử Việt. Nhưng, tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“ trá hình này thực sự đang ngày càng gia tăng một cách chóng mặt hơn trong chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại Việt Nam hôm nay. Hoặc những người Việt Nam trong nước đã bị tẩy não, hoặc những người tỵ nạn „nhẹ dạ chóng quên“ có tên „Phật tử thuần thành“ trên đây tại nước ngoài, thực sự đang là những con mồi béo bở cho những thủ đoạn tuyên truyền tẩy não, khống chế nhân dân làm nô lệ, qua chiêu bài „tôn giáo“ của đảng cộng sản Việt Nam.  Tại Việt Nam trong quá khứ, những lớp người này được gọi là „Tam Bảo Nô“, trong hiện tại chỉ thêm hai chữ „hiện đại“.

Theo dòng người tỵ nạn, trong những cái gọi là „Gia đình Phật tử“ và vô số các tổ chức vệ tinh tay sai của GHPGVNTN nói trên, chưa thấy phần đông những số người này có ý định muốn „từ bỏ giai cấp“ nô lệ nói trên. Vì không thể biết rằng, đảng cộng sản vn đã dầy công mang cái dịch vụ béo bở „xin được làm Tam Bảo Nô“  đó đến tận nơi nước sở tại, là nơi họ đang xin „tỵ nạn Việt gian cộng sản“. Để rồi, cũng đảng cộng sản Việt Nam, qua tay GHPGVNTN, Việt Tân và Thích Nhất Hạnh đã dùng chính công sức của những người tỵ nạn, dựng nên những ngôi „Chùa“ cho những đồng chí của đảng „trụ trì“, quảng bá khuyến khích người tỵ nạn đến „lậy lục xin xỏ“ và cứ „tùy tâm“ nộp „lệ phí“ cho cái „dịch vụ“ nêu trên qua hình thức „cúng dường tam bảo“. Thật đắt và cay đắng, cái giá của sự nô lệ tâm thức. 

Một trong những gợi ý nhỏ dưới đây có thể là một ví dụ góp phần nào soi sáng mối quan hệ „nhân quả nghiệp báo“ của  „hiện tượng nô lệ Tam Bảo“ nói trên. Ví dụ này có hai vế, nay chỉ nói một, đại ý như sau: „Tường ngục xây bằng đá, giam mãi cũng có ngày ra. Tường ngục xây bằng tâm thức thì bất khả“. Nói gần hơn: Một người tâm thức còn ở trong ngục, dù nói hay làm, vẫn thường tự trói mình, dù bản thân họ, từ lâu đã sống dưới trời tự do. „Tam Bảo Nô“ còn gọi là „Ba lần Nô lệ“. (Phần chi tiết, xin xem phần 2, nguyên ngữ tiếng Đức, sau bài viết này).
  
69.  Nhưng, các hội đoàn chân rết đủ loại, từ xã hội, văn hóa, từ thiện, đến tôn giáo…trá hình của đảng Việt gian cộng sản trong tay GHPGVNTN tại những quốc gia chủ nhà tại Tây phương, còn có thêm một vai trò quan trọng và nguy hiểm  hơn nhiều. Được sự điều khiển trực tiếp bởi đảng Việt gian cộng sản và cả đảng cộng sản… Tầu. Thông qua các chi bộ đảng, là cánh tay tội ác nối dài của chúng cài cắm tại hải ngoại, nhân sự, danh xưng và tiềm năng của các tổ chức hội đoàn nói trên đã được đảng cs khiển dụng và lợi dụng như những phương tiện ngụy trang hữu hiệu, để thâm nhập vào các tổ chức, hội đoàn, cơ quan công quyền nhà nước và chính phủ của các nước phương Tây sở tại. Tất cả những sự thâm nhập này được lợi dụng làm bình phong ngụy trang mục đích, những mục đích ẩn náu đằng sau tất cả các mục đích khác, đó là sự „quan tâm tò mò“ của giới tình báo công nghiệp/kinh tế và quân sự của đảng cộng sản… Tầu. 

    Để các hoạt động của đảng cộng sản Tầu, là kẻ giấu mặt, giật dây khống chế đảng Việt gian cs, không bị lộ tẩy hoặc thiệt hại, lũ cán bộ tay sai đảng cs vn đã bị đảng cs Tầu khiển dụng đẩy ra làm vật thí, trong vai trò tay sai, khi dùng các cơ sở hội đoàn người Việt đi „tiền thám“ thăm dò hộ chúng. Mặc dù là hai „đảng cộng sản anh em“ (Hán-gian, Việt-gian), nhưng lũ Việt-gian cs chỉ được học cách quỳ lậy và cầm dao đằng lưỡi. Dù có thế nào, vẫn như hai tên cướp, mỗi tên bị xích một tay bởi luật rừng của hai đảng cộng sản, nên vẫn cho phép chúng hoạt động „tay trong tay“.  (Ở đây sẽ không đi vào chi tiết).
Ein Bild – ersetzt tausend Worte:
 Die Schießübung und der Umgang mit den modernsten Tötungswaffen gehört zur „buddhistischen Ausbildung“ der  Kommunistischen Kader im Mönchsgewand, übernommen durch die Armee der Kommunistischen Partei.
*
Một bức ảnh thay thế nghìn lời nói:
Học bắn giết và xử dụng thành thạo các loại vũ khí sát thương hiện đại là „bài học căn bản“ trong chương  trình „đào tạo chuyên tu Phật Giáo“ của các tên cộng sản trá hình giả danh Phật giáo này. Bài học „thực hành tác xạ“ được hướng dẫn bởi những tên sỹ quan ngụy quân đảng cộng sản đảm nhiệm.
( Trong ảnh: trên trường bắn của một học viện quân sự Tầu)
70.  Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của đám an ninh Việt gian cộng sản đang hoạt động trá hình tại hải ngoại (ví dụ như đảng „Việt Tân“), là cộng tác chặt chẽ với những tên Việt gian cs trá hình như Thích Nhất Hạnh và GHPGVNTN, dùng tất cả mọi  phương tiện để tập hợp đoàn ngũ hóa đại khối người Việt Nam tại hải ngoại về một mối để khống chế và lợi dụng. Để thực thi thủ đoạn này, đảng Việt gian cộng sản đã cho ra nhiều „nghị quyết“, trong đó có „nghị quyết 36“. Nội dung của nó, cũng như tất cả những „văn kiện, nghị quyết„ do „bộ chính trị“ đảng Việt gian cộng sản đã từng đưa ra, là những bằng chứng tội ác cụ thể nhất của đảng Việt gian cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, và tự nó xác nhận những tội ác này đã được che đậy trâng tráo bằng những từ ngữ lừa dối xảo trá tinh vi như thế nào. Những tội ác  tầy trời này, nếu liệt kê ra sẽ dài ít nhất là bằng chiều dài sự tồn tại của đảng cs vn, nhưng, những hệ lụy hậu quả tàn phá của nó gây ra thì trong muôn thế hệ mai sau cũng không gì có thể tẩy rửa cho được.

71.  Đặc biệt là tại Mỹ, nơi có một số đông người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản cư ngụ, những tên cộng sản trá hình Phật giáo trong và ngoài GHPGVNTN đều biết rằng: Thật là một cơ hội có tính quyết định, nếu tất cả những „Phật tử thuần thành“ mê muội nhẹ dạ kia, được gom hết về một mối để chúng „chỉ đạo“, thì những „nghị quyết“ của đảng Việt gian cs cũng sẽ có một „cơ hội“ nào đó được thực hiện. Vì theo những toan tính thủ đoạn của đảng Việt gian cs được thể hiện ra cái „nghị quyết“ có đủ 36 mưu ma chước quỷ kia, thì bản thân con số những người kể trên thực sự đã là một khối „cử tri“ có khối lượng đầu phiếu đáng kể. Và trên chính trường dân chủ của Mỹ, đối với những vị dân biểu địa phương khi bắt đầu bước vào con đường „chính trị thực tiễn“ thì mỗi mỗi lá phiếu bầu, bất kể từ đâu đến, đều là những „cơ hội“ có sức hấp dẫn không thể bỏ qua.

Những vị dân biểu địa phương, là công dân và có quốc tịch Mỹ (đa phần gốc Á Châu) được sự mồi chài giàn dựng của giới điệp báo Việt gian cs nằm vùng tại địa phương, hoặc hoạt động trên bề nổi, có an ninh Việt gian cộng sản trá hình đảng „Việt Tân“ hứa hẹn, sẽ được sự ủng hộ bởi một số lượng (không có thực) của những đông đảo cử tri Phật tử do GHPGVNTN „chỉ đạo“, nên họ có thể yên tâm ra ứng cử tại các đơn vị bầu cử chính quyền địa phương Tiểu bang. Sau đó, dù họ có thành đạt hay không, để có thể „tái tranh cử“, sẽ là những màn kịch „đi lại“ với lũ Việt gian cs trá hình Phật giáo trong những vai trò „cao tăng“ hoặc  „tăng thống“ của GHPGVNTN.

Có những tên „dân biểu“ trá hình, là tay sai của Việt gian cộng sản đã bị lật tẩy, còn muốn lập hẳn một tuyến hàng không quốc tế từ Mỹ tới Việt Nam, để „đàm đạo“ trực tiếp với… đảng Việt gian cộng sản. Hoặc đảng Việt gian cộng sản có thể qua đó trực tiếp thông qua luật pháp Mỹ để „nhuộm đỏ“ cộng đồng người Việt Nam ty nạn tại hải ngoại. Bằng cách này, đại khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại hải ngoại, ít nhất là tại Mỹ cũng sẽ giống như ở Việt Nam quốc nội, bị đảng cs chặn họng bóp cổ mà chết.

Hàng loạt những sự móc nối câu kết giữa những tên Việt gian cộng sản trá hình và các vị tân dân biểu, nghị viên trong các cấp chính quyền địa phương tiểu bang và liên bang, tiêu biểu là tại Mỹ đều đã bị đồng bào Việt Nam tại hải ngoại tố giác và lật tẩy, cho thấy, những „nghị quyết“ trên từ xưa đến nay, chỉ là một trong vô số những thủ đoạn tội ác của đảng Việt gian cộng sản.
Và cũng ở đây, sự „ăn hại đái nát“ đã là một khuyết tật bất khả chữa trị của những tay cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN tại hải ngoại.
Thích Chánh Lạc tức (Lê Kim cương) bị Tòa án Mỹ phạt bồi thường 4.8 triệu  Dollar
 về tội vu khống và lạm dụng tình dục trẻ thành niên
72.  Những „hoạt động tôn giáo nổi bật“ tại các cơ sở của GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh tại hải ngoại, ví dụ như „Làng Mai“ tại Pháp, hoặc „chùa Điều Ngự“ của tên Thích Chánh Lạc, Thích Viên Lý tại Mỹ, hoặc „Viên Giác“, Phật Huệ“ .v.v. của tên Thích Như Điển, Thích Từ Trí, Thích Thiện Sơn... tại Đức, đã tập trung „chuyên tu hóa“ vào những lĩnh vực „dịch vụ xã hội“. Để có thể kiếm được thật nhiều và rửa được thật nhiều tiền cho đảng Việt gian cộng sản, tất cả các cơ sở nêu trên đều đã tập trung mọi nhân lực tiềm năng và thời gian cho „nghề làm từ thiện“. 
    Để  có thể móc thêm được nhiều tiền hơn nữa một cách „kín đáo“ từ hầu bao của người phương Tây hảo tâm nhẹ dạ, chúng đã không chừa một kế sách nào. Một trong những thủ đoạn quen thuộc mà kẻ hung thủ là đảng Việt gian cs thường khai thác tối đa, là đem các nạn nhân của nó: các trẻ em nghèo thương tật ra trình diễn sự thảm thương khốn khó, và lập lờ thêm vào sau danh từ „nạn nhân“ hai chữ „chiến tranh“ để đánh động lòng trắc ẩn. Theo những dữ liệu thống kê sơ bộ đặc biệt khiêm tốn vào năm 2010, thì mỗi năm người Việt Nam hải ngoại đã gửi về Việt Nam một số ngân khoản trên 2 tỷ Dollar. Đối với đảng Việt gian cộng sản và bộ máy nhà nước ngụy quyền bù nhìn, thì số ngân khoản trên thật như những quả sung rụng bằng vàng, vừa đủ để giữ cho nó khỏi bị chết chìm.



73.  Cái gọi là “Phòng thông tin Phật giáoquốc tế IBIB-InternationalBuddhist Information Bureau“ với trụ sở tại Paris là đại diện chính thức của cái gọi là „Văn phòng 2 - Viện hóa đạo GHPGVNTN“ tại nước ngoài. Chỉ một chi tiết thật nhỏ sau đây đã thừa đủ cho thấy đám tay sai của đảng cs vn là GHPGVNTN tại Đức, từ trên xuống dưới đã tự đấu tố vạch mặt cái „lý lịch“ Việt gian cs của nhau khi „dịch“ chữ „Viện Hóa Đạo“ sang tiếng Đức (trích dẫn nguyên văn) là „Propaganda Institut“.  Hai cơ sở „Lá bối“ và Quê Mẹ“ là một trong những nơi phát tán, thông tin độc hại của Thích Nhất Hạnh và người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, cùng hai tên Võ Văn Ái và  Penelope Faulkner. 


    Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái không phải là một cái tên mới lạ. Hắn và Walter Fabian, một tên cộng sản Đông-Đức cũ, cả hai là những tên đầu xỏ, thường tổ chức những cuộc biểu tình phá rối ủng hộ cộng sản với những khẩu hiệu xách động trá hình „chống chiến tranh Việt Nam„ và đã từng bị cảnh sát Tây-Đức bắt giữ vào đêm ngày 8 rạng ngày 09.05.1967 tại Munich-Bavaria (München-Bayern). 




74.  Đeo đuổi sự nghiệp Việt gian bán nước phản dân tộc của đảng cộng sản vn, tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái vẫn sát cánh cùng lũ Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ, Thích Chánh Lạc…, GHPGVNTN và „Việt Tân“, tiếp tục cuộc „đấu tranh trường kỳ“ của đảng cộng sản vn nhắm vào khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền VGCS tại hải ngoại. Nấp sau những khẩu hiệu  „đấu tranh“ trá hình, trước sau như một đầy tội ác mà như hắn đã từng gây ra từ đầu những năm 1960 đến nay, nhưng giờ đây thay vào đó là những „trận địa giả“ cùng những cái bánh vẽ cò mồi „Tự do, dân chủ, và nhân quyền cho Việt Nam“. Từ năm 2004 đến 2009 Võ Văn Ái đã nhận được một số tiền 548.000 Dollar, tài trợ cho những hoạt động phá hoại của hắn từ một tổ chức trá hình có tên: NED („The National Endowment for Democracy“).



75.  Một trong những địa điểm chính, thường là nơi xuất phát các hoạt động đánh phá cộng đồng người Việt Nam ty nạn của hai tên Việt gian tay sai Võ Văn Ái và Pelelope Faulkner hiện nay là „ chùa Điều Ngự“ tại California - 92683, USA. Từ đây chúng dùng „văn phòng 2 viện hóa đạo - GHPGVNTN“ làm phương tiện phun nọc độc tuyên truyền cho đảng cộng sản vn, tô vẽ tên tuổi, đánh bóng xóa tội ác cho những tên Việt gian cộng sản trá hình „tăng thống Phật giáo“. Thích Quảng Độ hoặc Thích Nhất Hạnh thường là những tên được tập đoàn văn bút trí nô, tay sai Việt gian cộng sản tâng bốc, để mồi chài đánh lừa dư luận „đề cử“ những tên tội đồ này ra làm ứng viên „giải  thưởng Nobel Hòa bình“. 
   
   Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái thường rêu rao lợi dụng vai trò „phát ngôn nhân“ „đại diện cho GHPGVNTN trong nước và hải ngoại“ để lừa lái dư luận tại phương Tây, hòng „hợp thức hóa“ tư cách trá hình „tỵ nạn“ cho hàng loạt lũ cán bộ do đảng Việt gian cộng sản từ Việt Nam gửi qua cài cắm, trong những vỏ bọc „nhà sư Phật giáo tỵ nạn“ đểu, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội…trá hình.


Nấp sau chiêu bài „tôn giáo“ và những cái „bẫy trận địa giả“ do đảng Việt gian cộng sản giàn dựng,  Võ Văn Ái cũng như Thích Nhất Hạnh, gài bẫy, bòn rút tiền bạc, lòng tin của những người Việt Nam tỵ nạn mắc chứng „hay quên“, cùng người phương Tây hảo tâm „nhẹ dạ“, gửi về nuôi đảng Việt gian cs tại Việt Nam, qua những tổ chức „từ thiện xã hội“ trá hình. (Một trong số đó, ví dụ như „Maitreya Fond“.v.v.).


76.  Tất cả những cái gọi là  phong trào „đấu tranh“ trá hình, đòi hỏi „dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam“ do đảng Việt gian cs giàn dựng cho tay sai của chúng là GHPGVNTN, Nhất Hạnh, Quảng Độ, Võ Văn Ái và Việt Tân… thực thi, đều bị đại khối cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền vgcs tại hải ngoại phát giác lật tẩy, lên án và tẩy chay. Đại đa phần những vụ việc này đều đã được đăng tải công khai trên liên mạng thông tin toàn cầu „internet“ (được cập nhật  từng ngày), cũng như bằng vô số những tác phẩm, ấn phẩm đủ mọi thể loại truyền thông văn hóa nghệ thuật… phong phú khác.  Tất cả lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo, Thiên Chúa giáo…, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội xảo trá đủ loại và vô số tay sai, không xót một tên nào, do đảng vgcs gửi ra cài cắm bất kể là công khai hay bí mật tại hải ngoại, đều đã và sẽ cùng phải chung một số phận.


Vì giọng điệu và hành tung (…) của chúng dù có ngụy trang biến tướng cách gì cũng không thể che giấu được dã tâm và tội ác Việt gian bán nước, phản dân tộc  của đảng cộng sản Việt Nam. Chúng câm lặng hoặc làm ngơ, hoặc cố tình lèo lái xuyên tạc bôi xóa, khỏa lấp một sự thật lịch sử là: Chính tập đoàn đcsvn và tay sai là những kẻ nội thù phản tặc, chính là hung thủ, là kẻ chủ phạm đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho đảng cộng sản „Trung quốc“, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng.


Đơn cử một ví dụ nhỏ trong hiện tại: Tất cả các phong trào, biểu tình và đòi hỏi chính đáng của đồng bào Việt Nam bị trị tại quốc nội, đặc biệt là giới trẻ vùng lên thể hiện ý chí yêu nước bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong các sự kiện biên giới, hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa do „Trung cộng“ xâm lược chiếm giữ, đều bị đảng csvn lợi dụng hoặc dùng tất cả mọi phương tiện, huy động lực lượng công an côn đồ và một số đông đảo lũ tội phạm hình sự bị khiển dụng,  đàn áp  khủng bố, bắt bớ, giam giữ và tra tấn một cách dã man. Không có lấy một tên Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo GHPGVNTN hoặc một tên „tăng thống“ nào có thể một lần tạm bỏ thói „á khẩu“ để nói, dù chỉ một câu cho trôi chẩy mà không biết mười mươi rằng: Những gì chúng nói ra, nếu không có đảng cs vn canh chừng bằng họng súng, thì chúng lấy chỗ nào để đứng mà nói. Nếu có thì phải „độn thổ“ ngay sau khi nói, nếu không muốn bị đồng bào Việt Nam khắp nơi trên thế giới đồng thời vả vào mồm chúng sau mỗi một câu chúng nói ra.

Vì lực lượng „bảo kê“ của đảng cs vn vẫn kè kè bên cạnh, nên Thích Quảng Độ chẳng những giám liều chết dại mồm xảo ngữ kinh niên, mà còn thi thoảng chế tác ra lời kêu gọi: „Bất tuân dân sự“, “Biểu tình tại gia“. Theo đó mỗi người Việt Nam muốn thể hiện sự chống đối xin hãy „ở nhà, đóng cửa và làm việc đó ở trong chăn cho kín đáo“. Bởi vậy, tên Thích Quảng Độ  vẫn thường phải khoa chân múa tay che miệng nhỡ ăn phải vả, khó toàn bộ răng tuổi già là vì thế, vì ngày „độn thổ“ của hắn đã hết hạn từ lâu.

Xem tiếp
http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/06/kpkader-und-ubcv-oberhaupt-patriarch.html


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét