Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

Gạc Ma - Trường Sa : Một Trang Sử Nhục Nhã


Gạc Ma - Trường Sa : Một Trang Sử Nhục Nhã

https://youtu.be/AXTTJAL52Pw
Trận "hải chiến" Trường sa  14/3/1988
Dịch thuật nội dung lời bình trong video clip theo Nhà Văn Trang Hạ
Tường thuật trận chiến của hải quân trung quốc đánh trả lại những lính Việt Nam sang chiếm đảo, nhổ cờ, đái trước mặt họ, chửi tục, la ó làm nhục người Trung quốc. 
Lý do là lúc 5h sáng phát hiện lính việt nam hạ cờ Trung Quốc ở đảo đó, còn khiêu khích khi bị tàu TQ nhắc nhở bằng loa 3 lần, sau đó 1 lính TQ xung phong rời thuyền ra đảo đó, cầm theo dao, để hạ cờ Việt Nam xuống, đánh nhau với 1 lính Việt Nam giữ cờ, bị lính VN bên cạnh bắn.
Lính TQ bèn nắm lấy nòng súng giơ cao lên trời nhưng vẫn bị thương vào tay trái, và đó là duy nhất 1 lính TQ bị thương. 
Còn phía TQ đã giết 200 lính VN và bắn 3 tàu, bắn hạ tàu lớn nhất của Hải quân VN, bắn chìm thuyền 605 trong 1 cơn mưa đạn kéo dài 22 phút, bắt sống 9 người gì đó. 
Trận này đánh dấu lần đầu tiên TQ chuyển từ chỉ dùng lời để tuyên bố chủ quyền trên đảo sang dùng vũ lực để giữ đảo, và được coi là cuộc phản công vệ quốc. 
Trong clips có những câu như: 
Trung quốc không bao giờ là người nổ phát súng đầu tiên, nhưng TQ cũng không bao giờ chịu nhẫn nhục trước mũi súng kẻ thù chĩa vào mình. 
Và nói: Việc bắn trả là chúng ta bị họ buộc phải làm thế, và sự phản kháng của chúng ta là có mức độ thôi. 
Thành viên các mạng TQ cho rằng ở biển Đông họ tốt nhất là nên thỉnh thoảng đánh một trận nhỏ nhưng ác liệt, là giải pháp tốt nhất.

Một Trang Sử Anh Hùng - Một Thời Kỳ Nhục Nhã  (Phạm Trung Trực)
(Phạm Trung Trực là bút danh của một sĩ quan hải quân quân đội nhân dân đã tham dự trận hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.)

Ngay từ cuối năm 1986, tình hình vùng biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam có những diễn biến phức tạp do các hoạt động do thám, khiêu khích của lực lượng Hải quân Trung Quốc.
Đặc biệt, từ ngày 24 đến 30-12–1986, máy bay và tàu chiến của Trung Quốc tăng cường hoạt động từ đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài. Đến đầu năm 1987 Trung Quốc vừa đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao bịp bợm, vừa tăng cường đưa tàu chiến vào gần các đảo của Quần đảo Trường Sa, trong đó có những đảo bộ đội ta đang chiếm giữ. Chúng trắng trợn đặt bia kỷ niệm ở đảo Ma-i-xi-Ti, cho tàu qua lại các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa, Trường Sa đông, Song Tử Tây… có lúc chỉ cách quân ta có một vài hải lý.Trắng trợn hơn chúng còn đưa lực lượng chiếm giữ hai đảo Kỳ Vân và Kiệu Ngựa ở phía nam Quần đảo Trường Sa.
Trước tình hình đó, ngày 24-10-1987 Tư lệnh Hải quân ra mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đồng thời chỉ đạo cho các lữ đoàn 125, lữ đoàn 172, trung đoàn công binh 83 chuẩn bị lực lượng phương tiện sẵn sàng cơ động đến xây dựng công sự trên các đảo.
Theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến trên biển Đông và khu vực quần đảo Trường Sa, ngày mồng 9 tháng Giêng năm 1988, Bộ Tư lệnh Hải quân đề ra chủ trương: Tranh thủ thời gian, khẩn trương triển khai lực lượng,đóng giữ trên các đảo. Kiên quyết không để bọn bành trướng Bắc Kinh thực hiện ý đồ đưa lực lượng đóng xen kẽ với ta.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân, ngày 23 tháng Giêng nắm 1988, tàu HQ-611 và tàu HQ – 712 do đồng chí Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 làm biên đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thế Dân,Phó tham mưu trưởng vùng 4 Hải quân làm biên đội phó, đưa 1 đại đội công binh đến đóng giữ đảo Chữ Thập. Sáng ngày 30 tháng Giêng, khi cách đảo 5 hải lý thì ta phát hiện 4 tàu của Trung Quốc ra ngăn cản, không cho tàu ta tiếp cận đảo,tàu ta đành phải quay về Trường Sa đông, không thực hiện được việc đóng giữ đảo Chữ Thập như kế hoạch đề ra.
Ngày 4 tháng 2 năm 1988, thường vụ đảng ủy Quân chủng Hải quân họp nhận định “bọn Trung Quốc đã cho quân chiếm đóng đảo Chữ Thập. Trước mắt ta chưa thực hiện đóng xem kẽ được vì chúng ngăn chặn ta từ xa.Sắp tới chúng sẽ mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các đảo Châu Viên, Đá Đông,Đá Nam, Tốc Tan và đóng xen kẽ những bãi đá ta đang đóng giữ. Do đó ta phải nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ các đảo: Đá Lát, Đá Lớn, Châu Viên. Thực hiện nghị quyết của Thường vụ đảng ủy quân chủng, tư lệnh Hải quân điện cho biên đội tàu 611 và 712 đang neo đậu ở đảo Trường Sa đông, đưa bộ đội khẩn trương đến đóng giữ đảo Đá Lớn trước 3 giờ sáng. ngày 5 tháng 2 năm 1988.
Tình hình đang diễn ra hết sức cấp bách.Cấp trên vẫn chưa có chỉ đạo cụ thể.
Trước tình hình ấy Quân chủng Hải quân quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương tại Cam Ranh do đồng chí Giáp văn Cương làm Tư lệnh kiêm tư lệnh vùng 4. Các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần,Kỹ thuật đều tổ chức các bộ phận tiền phương của mình để kịp thời giải quyết mọi tình huống cấp bách.
Chấp hành mệnh lệnh của Tư lệnh quân chủng, tàu HQ- 611và tàu HQ-712 đưa lực lượng công binh và bộ đội của Lữ đoàn 146 đến đảo Đá lát. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Công Phán, bộ đội chia lực lượng thành 3 tổ vừa xây dựng vừa canh gác vừa sẵn sàng chiến đấu. Đến ngày 20-2-1988 lực lượng công binh được sự hỗ trợ của lực hượng đóng giữ đảo đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng công sự và nhà ở và bàn giao cho đơn vị.
Cùng thời gian đó ở hướng Đá Lớn, ngày 13-2-1988 thực hiện mệnh lệnh của Quân chủng, Lữ đoàn 125, đơn vị hai lần được tuyên dương anh hùng, cho tàu HQ-505 kéo tàu LCU-556 cùng bộ phận công binh đến đóng giữ đảo Đá Lớn. Trong khi tàu ta đang tiến về phía đảo thì phát hiện tàu khu trục và hai tàu hộ vệ tên lửa của hải quân Trung Quốc cũng tiến về phía đảo Đá Lớn. Khi tàu ta cách Đá Lớn khoảng 4 hải lý thì tàu Trung Quốc thả tủy lôi ngăn cản.
Trước tình hình đó ban chỉ huy tàu HQ-505 nhận định: Bọn Trung Quốc chưa biết ý đồ của ta đưa lực lượng ra đóng giữ đảo,vì vậy ta cứ cho tàu chạy theo hướng đã định. Do sự mưu trí và bình tĩnh, cán bộ chiến sỹ tàu HQ-505 đã khôn khéo đưa tàu LCU- 556 tiếp cận được phía bắc đảo Đá Lớn.
Ngày 20-2-1988, sau khi khảo sát thăm dò luồng, tàu 556 đã an toàn tiếp cận phía nam đảo Đá Lớn khẩn trương triển khai thế trận phòng thủ.
Cuối tháng 2-1988 Hải quân Trung Quốc tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa.
************************************************************************************************************
Tình hình trở nên hết sức căng thẳng. Bộ Tư Lệnh hải quân liên tục báo cáo lên trên xin ý kiến chỉ đạo. 
Một trong những nội dung đề nghị cấp trên giải đáp ngay: 

1) Trung Quốc là bạn hay thù. 

2) Chúng đánh ta, ta có đánh trả không?

Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời KHÔNG rõ ràng.

************************************************************************************************************
Đau đớn thay cho Tổ Quốc ta, chính vào thời điểm đó, trong lúc bọn bành trướng Bắc Kinh đã lộ rõ dã tâm xâm lược thì lãnh đạo đất nước với sự thao túng của Lê đức Anh, Ủy viên BCT, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đang tìm cách bắt tay với lãnh đạo Trung Quốc để âm mưu thực hiện cái gọi là “Giải pháp đỏ.” ở Căm pu Chia với ý đồ đưa cả bọn Khơ-me đỏ vào chính phủ liên hiệp mặc dù bị Nhà nước hợp pháp Căm pu Chia phản đối quyết liệt. Hun Sen nói thẳng với đại diện của ta: “Tại sao các anh lại có ý đồ vô lương tâm đến như thế. Bọn Pôn Pốt không những là kẻ thù của nhân dân Căm pu Chia mà cũng là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Hàng vạn chiến sỹ Việt Nam đã hy sinh xương máu giúp nhân dân Căm pu Chia đánh đuổi bọn Pôn Pốt để Căm pu Chia được độc lập như ngày nay tránh được họa diệt chủng dã man nhất trong lịch sử. Thế mà nay các anh lại bảo chúng tôi ngồi chung bàn với bọn chúng hay sao? Các anh có quyền gì làm việc đó?”
Bị mắng đến thế, không biết nhục, không biết hổ thẹn, Lê đức Anh còn trâng tráo nói: “Pôn Pốt là bạn tôi”. Đó chính cũng là câu nói mà Lê đức Anh nói với Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Trương Đức Duy trong cuộc gặp vô nguyên tắc, hay nói thẳng ra là đi đêm với nhau bằng một cuộc mời cơm tại Bộ quốc phòng.
Cũng chính trong cuộc gặp riêng bí mật (mà BCT không hề hay biết) với Đại sứ Trương Đức Huy, không có phiên dịch, vì tên đại sứ này nói tiếng Việt rất giỏi, Lê đức Anh đã tiết lộ toàn bộ bí mật nội bộ của Đảng và Nhà Nước Việt Nam.
Không phải bây giờ chúng ta mới thấy cuộc gặp riêng của Lê đức Anh với Trương Đức Duy là sai lầm, là vô nguyên tắc, mà ngay từ hồi đó Lê đức Anh đã bị một số người có trách nhiệm phê phán. Ông Phạm văn Đồng nói thẳng: “Trong các cuộc họp BCT bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã ba lần nói là không được hớ mà phải rất thận trọng. Đằng này anh lại ngửa bài trước thì họ biết hết và kết quả là cái gì đã xảy ra?”. Trung Quốc họ theo kiểu Đại hán của họ và kết quả là họ ép mình. Khi nghe ông Phạm văn Đồng phê phán, Lê đức Anh đứng lên chống chế là mình nói “Giải pháp đỏ.” chỉ là để nhằm thăm dò. 
Và y dựng đứng lên chuyện chuyện là bạn Căm pu Chia nhờ thăm dò thái độ của Trung Quốc. Nhưng Lê đức Anh không ngờ lại bị Võ văn Kiệt, Võ chí Công, Đồng sỹ Nguyên, Nguyễn cơ Thạch, đập cho tới tấp. Thậm chí Lê đức Thọ, người đỡ đầu thân tín Lê Đức Anh đang nằm trên giường bệnh cũng lên tiếng chỉ trích cuộc gặp vô nguyên tắc của Lê Đức Anh.
Thật kỳ lạ đúng 20 năm sau, lịch sử lại lập lại một trang bi thảm trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Vào năm 2008 khi nhân dân ta đặc biệt là tầng lớp thanh niên, sinh viên biểu tình tỏ thái độ phản đối bọn Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa - Trường Sa, thì ban lãnh đạo Đảng vẫn như vô cảm, thậm chí còn cho công an đàn áp dã man, bắt bỏ tù nhiều thanh niên,yêu nước dám hy sinh vì Tổ quốc thân yêu.
Cách đây 20 năm, mặc cho sự chần chừ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, cán bộ chiến sỹ Quân chủng Hải quân vẫn kiên quyết tỏ rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc.
Lúc này nhiệm vụ đóng giữ đảo của cán bộ chiến sỹ các Lữ đoàn 146, 125 và Trung đoàn công binh 83 ngày càng trở nên quyết liệt. Trung tuần tháng 2-1988, Lữ đoàn 125 anh hùng đưa Pông – Tông O7 ra giữ đảo Tốc Tan.
Tại đảo Đá Đông, một đảo chìm có diện tích khá rộng, giữ vị trí quan trọng trong quần đảo, Tư lệnh Quân chủng lệnh cho tàu HQ- 661 đưa lực lượng ra cắm cờ, canh gác, đồng thời lệnh cho tàu HQ-605 đưa bộ đội ra chốt giữ đảo. Trong bối cảnh hải quân Trung Quốc có thể khiêu khích,ngăn chặn, song các tàu của ta đã bình tĩnh vượt qua sóng gió đưa bộ đội và vật liệu đến đảo an toàn. Ta khẩn trương triển khai lực lượng bảo vệ đảo trong hoàn cảnh cập rập, bị động do không được trên chỉ đạo kịp thời.
Các tàu HQ-605, HQ-604 được lệnh ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ Đá Đông ở vòng ngoài.Như vậy đến đầu tháng 3-1988 lực lượng hải quân mới triển khai xong thế trận phòng thủ trên các đảo Đá Lát, Đá Đông,Tốc Tan, Tiên Nữ và Đá Lớn, đưa tổng số đảo đóng giữ của ta lên số 16, gồm 9 đảo nổi, 7 đảo chìm.
Trong những tháng đầu năm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số đảo và bãi đá thuộc khu vực quần đảo Trường Sa: Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Huy Gơ, …Ta xây dựng thế trận phòng thủ ở các đảo Tiên Nữ, Đá Lất, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, bước đầu ngăn chặn được âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng của kẻ thù ra các đảo lân cận. Song bọn chúng vẫn có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông Kinh Tuyến 115 độ.
Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Bộ tư lệnh Hải quân ta xác định: “Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để bọn Trung Quốc chiếm được sẽ khống chế đường qua lại của ta trong việc tiếp tế và bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa“. Vì vậy không chờ ý kiến của trên Bộ tư lệnh Quân chủng hạ quyết tâm triển khai đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn phức tạp, bởi trong cùng một lúc ta phải triển khai đóng giữ cả 3 đảo trong điều kiện phương tiện, trang bị hạn chế, lực lượng lại có hạn. Không còn cách nào khác Bộ tư lệnh Quân chủng lại quyết định giao cho Lữ đoàn 125 phát huy truyền thống đơn vị anh hùng huy động lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ này.

Trong khi đó, hải quân Trung Quốc sau khi chiếm giữ trái phép các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ và Xu Bi cũng đang có ý đồ chiếm giữ ba đảo Gạc Ma, CôLin, Len Đao nhằm gây thanh thế ở khu vực Trường Sa và cả vùng biển Đông. Đầu tháng 3-1988 chúng huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên lên tới từ 9 đến 12 tàu chiến gồm: Khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, hai tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ. Tàu hỗ trợ gồm ba chiếc LSM, ngoài ra còn có tàu đo đạc, tàu kéo và một Pông-Tông lớn.
Trước tình hình đó, Tư lệnh Hải quân lệnh cho vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146,các Hải đội 131, 132, 134, của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sãn sàng chiến đấu cao. Ngày 12-3-0988 tàu HQ-605 (thuộc Lữ đoàn 123) do đồng chí Lê lệnh Sơn làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 5 giờ sáng ngày 14-3-1988. Sau 29 giờ hành quân bí mật vượt qua sóng to gió lớn, tàu HQ-605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14-3-1988 và cắm cờ Tổ quốc trên đảo, khẳng định chủ quyền của Tổ quốc Vệt Nam.
Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, 9 giờ sáng ngày 13-3-1988, tàu HQ-604 do đồng chí Vũ phi Trừ làm Thuyền trưởng và tàu HQ-505 do đồng chí Vũ huy Lễ làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về đảo Gạc Ma, CôLin. Phối hợp với hai tàu HQ-604 và HQ-505, có hai phân đội công binh (70 người) thuộc trung đoàn 83, 4 tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do đồng chí Trần đức Thông, phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy. 
Sau khi hai tàu của ta thả neo được 30 phút thì tàu hộ vệ của Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma có lúc cách tàu quân ta chỉ khoảng 500 mét. 17 giờ ngày 13-3-1988, tàu Trung Quốc áp sát tàu HQ-604 của ta và dùng loa gọi sang khiêu khích. Bị địch uy hiếp, chiến sỹ hai tàu HQ-604, HQ-505 động viên nhau giữ vững quyết tâm không để mắc mưu khiêu khích của địch, kiên trì tuần giữ quanh đảo.Trong lúc đó tàu chiến đấu của địch cùng một tàu hộ vệ, hai tàu vận tải thay nhau cơ động chạy quanh đảo Gạc Ma, nhằm uy hiếp tinh thần quân ta.

Trước tình hình căng thẳng ngày một tăng do bọn Trung Quốc gây ra, vào hồi 21 giờ ngày 13-3-1988, Bộ tư lệnh Hải quân chỉ thị cho các đồng chí Trần đức Thông, Vũ huy Lễ, Vũ phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma, Cô Lin. Bộ tư lệnh chỉ thị khẩn trương thả xuồng máy,xuồng nhôm, chuyển vật liệu làm nhà trên đảo ngay trong đêm 13-3-1988. Cùng lúc đó, lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ cắm cờ Tổ quốc và triển khai 4 tổ bảo vệ đảo Gạc Ma.
Lúc này bọn Trung Quốc điều thêm hai tàu hộ vệ trang bị pháo 100 mm đến hỗ trợ, đe dọa ta rút khỏi đảo Gạc Ma.6 giờ ngày 14-3-1988, bọn Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo. Bọn Trung Quốc dựa vào thế quân đông tiến đến giật cờ ta. Lập tức thiếu úy Trần văn Phương, hạ sỹ Nguyễn văn Lanh cùng đồng đội anh dũng xông lên giành lại cờ.
Bọn lính Trung Quốc láo xược, hung hãn đã dùng lưỡi lê đâm và bắn Nguyễn văn Lanh bị thương. Thiếu úy Trần văn Phương xông vào cứu bạn lập tức bị bọn lính Đại hán bắn chết. Trần văn Phương đã anh dũng hy sinh.
Đây là liệt sỹ đầu tiên của bộ đội hải quân Việt Nam hy sinh trên vùng biển Đông của Tổ Quốc, bảo vệ quần đảo Trường Sa. Trước lúc hy sinh, Trần văn Phương đã hô to: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo. Hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng hải quân anh hùng. Tổ quốc Việt Nam muôn năm.”
Tiếng hô của anh vang vọng trên sóng biển Đông xa xôi. Những người lãnh đạo ở Hà Nội có nghe được tiếng hô thống thiết này không? Tiếng hô mà lẽ ra bằng tâm linh của những con người có lương tri phải nghe được, cảm được. Vì chính họ là những người phải chịu trách nhiệm về sự hy sinh này.
Không uy hiếp được bộ đội ta rút khỏi đảo,bọn Trung Quốc dùng hai tàu bắn pháo 100 mm vào tàu HQ-604, làm tàu ta bị hỏng nặng. Tiếp đó bọn chúng cho quân xông về phía tàu ta. Thuyền trưởng Vũ phi Trừ vừa chỉ huy bộ đội chiến đấu, vừa tổ chức băng bó cứu chữa thương binh, và hỗ trợ các chiến sỹ bảo vệ cờ. Đối phương tiếp tục nã đạn, làm tàu ta bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Đồng chí Vũ phi Trừ, thuyền trưởng ; đồng chí Trần đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 cùng một số cán bộ chiến sỹ đã anh dũng hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đảo Gạc Ma.
Tại đảo Cô Lin, 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-505 đã cắm hai lá cờ trên đảo. Khi tàu 604 của ta bị chìm, đồng chí Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng tàu HQ-505 ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 của ta đang cơ động lên bãi, hai tàu của đối phương quay sang tiến công tàu 505. Bất chấp hiểm nguy, tàu HQ-505 chạy hết tốc độ, trườn lên được hai phần ba thân tàu thì bốc cháy. 8 giờ 15 phút ngày 14 tháng 3, bộ đội tàu HQ-505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đảo, vừa đưa xuồng đến cứu vớt cán bộ, chiến sĩ tàu HQ-604 bị chìm. Tàu HQ – 505 bị bốc cháy. Cán bộ chiến sĩ của tàu, dưới sự chỉ huy dũng cảm của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, bảo vệ chủ quyền đảo Cô Lin.
Ở hướng đảo Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, tàu của bọn Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của ta. Tàu 605 bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15 tháng 3. Cán bộ, chiến sĩ của tàu dìu nhau bơi về đảo Sinh Tồn an toàn.Như vậy, trong trận chiến đấu ngày 14 tháng 3 năm 1988, ba tàu của hải quân ta bị bắn cháy và chìm, ba đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương, 70 đồng chí bị mất tích. Sau này đối phương trao trả ta 9 đồng chí, còn 61 người mất tích.
Mặc dù so sánh lực lượng chênh lệch,phương tiện, vũ khí hạn chế, cán bộ và chiến sĩ hải quân ta đã chiến đấu dũng cảm nêu cao quyết tâm bảo vệ chủ quyền hải đảo của Tổ quốc.
Với chiến công oanh liệt đó, tàu HQ-505 được Nhà nước tuyên dương đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Các đồng chí Vũ Phi Trừ, Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh, Trần Văn Phương được truy tặng và phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hàng chục tập thể và cá nhân được tặng thưởng huân chương Quân công, huân chương Chiến công các loại.

Năm 2008 này vừa tròn hai mươi năm trận hải chiến Trường Sa lịch sử. Cách đây hai mươi năm, trên vùng biển Trường Sa,hơn 70 cán bộ chiến sĩ quân đội nhân dân Việt nam đã anh dũng hi sinh khi làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc. Họ đã bị kẻ thù Trung Quốc dã man, tham lam giết hại. Tưởng chừng như sự hi sinh mất mát của họ sẽ bị chìm vào lãng quên nhưng nhân dân cả nước cũng như đồng bào hải ngoại, nhân dịp kỷ niệm này giành cho các chiến sĩ lòng thương cảm vô hạn. Hàng triệu người dân nước Việt thương xót nghĩ đến các anh. Thương xót vì biết các anh hi sinh anh dũng nhưng vẫn không thể yên nghỉ bởi kẻ thù năm ấy vẫn đang còn chiếm giữ một phần đất ruột thịt của tổ quốc, mở đầu một thời kì nhục nhã do tập đoàn lãnh đạo đứng đầu là Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, xúc phạm đến sự hi sinh cao cả và thiêng liêng của các anh. Nhân dân Việt nam ở trong nước cũng như ngoài nước thì sẽ mãi mãi nhớ tới các anh, những anh hùng của trận chiến Trường Sa tháng 3 năm 1988, và cả những người lính Việt nam cộng hòa đã anh dũng hi sinh trong trận chiến Hoàng Sa năm 1974.
Thực ra trận chiến Hoàng Sa năm 1974 oanh liệt hơn trận Trường Sa năm 1988. Năm 1974, mặc dù lực lượng ít hơn, lại bị bất ngờ trước âm mưu xâm lược của bọn Tàu (Vì nghĩ rằng, hạm đội 7 Mỹ còn đấy bọn Tàu không dám làm), các chiến sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, đánh chìm ba tàu của chúng, trong đó có soái hạm chỉ huy, khiến toàn bộ Bộ Tư lệnh trận đánh gồm 2 đô đốc, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá bị tử thương.
Phía Hải quân Việt Nam Cộng Hòa có nhiều tấm gương hy sinh dũng cảm, tiêu biểu là trung tá Ngụy văn Thà, Hạm trưởng Hộ Tống Hạm Nhật Tảo. Khi tàu bị trúng đạn, đang chìm dần giữa biển Đông, Ngụy văn Thà đã lệnh cho Hạm phó, thiếu tá Nguyễn thành Trí, dùng bè cao su đưa số chiến sỹ còn sống sót, bị thương về đất liền, còn mình quyết ở lại với chiến hạm cho đến hơi thở cuối cùng.Tất cả họ đã ngã xuống vì chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt nam.Tổ Quốc đời đời ghi nhớ tấm gương anh hùng của các anh.các chiến sĩ Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng như các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Gạc Ma - Trường Sa : Một Trang Sử Nhục Nhã

Trận "hải chiến" Trường sa  14/3/1988
Dịch thuật nội dung lời bình trong video clip theo Nhà Văn Trang Hạ
Tường thuật trận chiến của hải quân trung quốc đánh trả lại những lính Việt Nam sang chiếm đảo, nhổ cờ, đái trước mặt họ, chửi tục, la ó làm nhục người Trung quốc. 
Lý do là lúc 5h sáng phát hiện lính việt nam hạ cờ Trung Quốc ở đảo đó, còn khiêu khích khi bị tàu TQ nhắc nhở bằng loa 3 lần, sau đó 1 lính TQ xung phong rời thuyền ra đảo đó, cầm theo dao, để hạ cờ Việt Nam xuống, đánh nhau với 1 lính Việt Nam giữ cờ, bị lính VN bên cạnh bắn.
Lính TQ bèn nắm lấy nòng súng giơ cao lên trời nhưng vẫn bị thương vào tay trái, và đó là duy nhất 1 lính TQ bị thương. 
Còn phía TQ đã giết 200 lính VN và bắn 3 tàu, bắn hạ tàu lớn nhất của Hải quân VN, bắn chìm thuyền 605 trong 1 cơn mưa đạn kéo dài 22 phút, bắt sống 9 người gì đó. 
Trận này đánh dấu lần đầu tiên TQ chuyển từ chỉ dùng lời để tuyên bố chủ quyền trên đảo sang dùng vũ lực để giữ đảo, và được coi là cuộc phản công vệ quốc. 
Trong clips có những câu như: 
Trung quốc không bao giờ là người nổ phát súng đầu tiên, nhưng TQ cũng không bao giờ chịu nhẫn nhục trước mũi súng kẻ thù chĩa vào mình. 
Và nói: Việc bắn trả là chúng ta bị họ buộc phải làm thế, và sự phản kháng của chúng ta là có mức độ thôi. 
Thành viên các mạng TQ cho rằng ở biển Đông họ tốt nhất là nên thỉnh thoảng đánh một trận nhỏ nhưng ác liệt, là giải pháp tốt nhất.

Một Trang Sử Anh Hùng - Một Thời Kỳ Nhục Nhã  (Phạm Trung Trực)
(Phạm Trung Trực là bút danh của một sĩ quan hải quân quân đội nhân dân đã tham dự trận hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.)

Ngay từ cuối năm 1986, tình hình vùng biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam có những diễn biến phức tạp do các hoạt động do thám, khiêu khích của lực lượng Hải quân Trung Quốc.
Đặc biệt, từ ngày 24 đến 30-12–1986, máy bay và tàu chiến của Trung Quốc tăng cường hoạt động từ đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài. Đến đầu năm 1987 Trung Quốc vừa đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao bịp bợm, vừa tăng cường đưa tàu chiến vào gần các đảo của Quần đảo Trường Sa, trong đó có những đảo bộ đội ta đang chiếm giữ. Chúng trắng trợn đặt bia kỷ niệm ở đảo Ma-i-xi-Ti, cho tàu qua lại các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa, Trường Sa đông, Song Tử Tây… có lúc chỉ cách quân ta có một vài hải lý.Trắng trợn hơn chúng còn đưa lực lượng chiếm giữ hai đảo Kỳ Vân và Kiệu Ngựa ở phía nam Quần đảo Trường Sa.
Trước tình hình đó, ngày 24-10-1987 Tư lệnh Hải quân ra mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đồng thời chỉ đạo cho các lữ đoàn 125, lữ đoàn 172, trung đoàn công binh 83 chuẩn bị lực lượng phương tiện sẵn sàng cơ động đến xây dựng công sự trên các đảo.
Theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến trên biển Đông và khu vực quần đảo Trường Sa, ngày mồng 9 tháng Giêng năm 1988, Bộ Tư lệnh Hải quân đề ra chủ trương: Tranh thủ thời gian, khẩn trương triển khai lực lượng,đóng giữ trên các đảo. Kiên quyết không để bọn bành trướng Bắc Kinh thực hiện ý đồ đưa lực lượng đóng xen kẽ với ta.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân, ngày 23 tháng Giêng nắm 1988, tàu HQ-611 và tàu HQ – 712 do đồng chí Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 làm biên đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thế Dân,Phó tham mưu trưởng vùng 4 Hải quân làm biên đội phó, đưa 1 đại đội công binh đến đóng giữ đảo Chữ Thập. Sáng ngày 30 tháng Giêng, khi cách đảo 5 hải lý thì ta phát hiện 4 tàu của Trung Quốc ra ngăn cản, không cho tàu ta tiếp cận đảo,tàu ta đành phải quay về Trường Sa đông, không thực hiện được việc đóng giữ đảo Chữ Thập như kế hoạch đề ra.
Ngày 4 tháng 2 năm 1988, thường vụ đảng ủy Quân chủng Hải quân họp nhận định “bọn Trung Quốc đã cho quân chiếm đóng đảo Chữ Thập. Trước mắt ta chưa thực hiện đóng xem kẽ được vì chúng ngăn chặn ta từ xa.Sắp tới chúng sẽ mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các đảo Châu Viên, Đá Đông,Đá Nam, Tốc Tan và đóng xen kẽ những bãi đá ta đang đóng giữ. Do đó ta phải nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ các đảo: Đá Lát, Đá Lớn, Châu Viên. Thực hiện nghị quyết của Thường vụ đảng ủy quân chủng, tư lệnh Hải quân điện cho biên đội tàu 611 và 712 đang neo đậu ở đảo Trường Sa đông, đưa bộ đội khẩn trương đến đóng giữ đảo Đá Lớn trước 3 giờ sáng. ngày 5 tháng 2 năm 1988.
Tình hình đang diễn ra hết sức cấp bách.Cấp trên vẫn chưa có chỉ đạo cụ thể.
Trước tình hình ấy Quân chủng Hải quân quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương tại Cam Ranh do đồng chí Giáp văn Cương làm Tư lệnh kiêm tư lệnh vùng 4. Các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần,Kỹ thuật đều tổ chức các bộ phận tiền phương của mình để kịp thời giải quyết mọi tình huống cấp bách.
Chấp hành mệnh lệnh của Tư lệnh quân chủng, tàu HQ- 611và tàu HQ-712 đưa lực lượng công binh và bộ đội của Lữ đoàn 146 đến đảo Đá lát. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Công Phán, bộ đội chia lực lượng thành 3 tổ vừa xây dựng vừa canh gác vừa sẵn sàng chiến đấu. Đến ngày 20-2-1988 lực lượng công binh được sự hỗ trợ của lực hượng đóng giữ đảo đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng công sự và nhà ở và bàn giao cho đơn vị.
Cùng thời gian đó ở hướng Đá Lớn, ngày 13-2-1988 thực hiện mệnh lệnh của Quân chủng, Lữ đoàn 125, đơn vị hai lần được tuyên dương anh hùng, cho tàu HQ-505 kéo tàu LCU-556 cùng bộ phận công binh đến đóng giữ đảo Đá Lớn. Trong khi tàu ta đang tiến về phía đảo thì phát hiện tàu khu trục và hai tàu hộ vệ tên lửa của hải quân Trung Quốc cũng tiến về phía đảo Đá Lớn. Khi tàu ta cách Đá Lớn khoảng 4 hải lý thì tàu Trung Quốc thả tủy lôi ngăn cản.
Trước tình hình đó ban chỉ huy tàu HQ-505 nhận định: Bọn Trung Quốc chưa biết ý đồ của ta đưa lực lượng ra đóng giữ đảo,vì vậy ta cứ cho tàu chạy theo hướng đã định. Do sự mưu trí và bình tĩnh, cán bộ chiến sỹ tàu HQ-505 đã khôn khéo đưa tàu LCU- 556 tiếp cận được phía bắc đảo Đá Lớn.
Ngày 20-2-1988, sau khi khảo sát thăm dò luồng, tàu 556 đã an toàn tiếp cận phía nam đảo Đá Lớn khẩn trương triển khai thế trận phòng thủ.
Cuối tháng 2-1988 Hải quân Trung Quốc tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa.
************************************************************************************************************
Tình hình trở nên hết sức căng thẳng. Bộ Tư Lệnh hải quân liên tục báo cáo lên trên xin ý kiến chỉ đạo. 
Một trong những nội dung đề nghị cấp trên giải đáp ngay: 

1) Trung Quốc là bạn hay thù. 

2) Chúng đánh ta, ta có đánh trả không?

Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời KHÔNG rõ ràng.

************************************************************************************************************
Đau đớn thay cho Tổ Quốc ta, chính vào thời điểm đó, trong lúc bọn bành trướng Bắc Kinh đã lộ rõ dã tâm xâm lược thì lãnh đạo đất nước với sự thao túng của Lê đức Anh, Ủy viên BCT, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đang tìm cách bắt tay với lãnh đạo Trung Quốc để âm mưu thực hiện cái gọi là “Giải pháp đỏ.” ở Căm pu Chia với ý đồ đưa cả bọn Khơ-me đỏ vào chính phủ liên hiệp mặc dù bị Nhà nước hợp pháp Căm pu Chia phản đối quyết liệt. Hun Sen nói thẳng với đại diện của ta: “Tại sao các anh lại có ý đồ vô lương tâm đến như thế. Bọn Pôn Pốt không những là kẻ thù của nhân dân Căm pu Chia mà cũng là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Hàng vạn chiến sỹ Việt Nam đã hy sinh xương máu giúp nhân dân Căm pu Chia đánh đuổi bọn Pôn Pốt để Căm pu Chia được độc lập như ngày nay tránh được họa diệt chủng dã man nhất trong lịch sử. Thế mà nay các anh lại bảo chúng tôi ngồi chung bàn với bọn chúng hay sao? Các anh có quyền gì làm việc đó?”
Bị mắng đến thế, không biết nhục, không biết hổ thẹn, Lê đức Anh còn trâng tráo nói: “Pôn Pốt là bạn tôi”. Đó chính cũng là câu nói mà Lê đức Anh nói với Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Trương Đức Duy trong cuộc gặp vô nguyên tắc, hay nói thẳng ra là đi đêm với nhau bằng một cuộc mời cơm tại Bộ quốc phòng.
Cũng chính trong cuộc gặp riêng bí mật (mà BCT không hề hay biết) với Đại sứ Trương Đức Huy, không có phiên dịch, vì tên đại sứ này nói tiếng Việt rất giỏi, Lê đức Anh đã tiết lộ toàn bộ bí mật nội bộ của Đảng và Nhà Nước Việt Nam.
Không phải bây giờ chúng ta mới thấy cuộc gặp riêng của Lê đức Anh với Trương Đức Duy là sai lầm, là vô nguyên tắc, mà ngay từ hồi đó Lê đức Anh đã bị một số người có trách nhiệm phê phán. Ông Phạm văn Đồng nói thẳng: “Trong các cuộc họp BCT bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã ba lần nói là không được hớ mà phải rất thận trọng. Đằng này anh lại ngửa bài trước thì họ biết hết và kết quả là cái gì đã xảy ra?”. Trung Quốc họ theo kiểu Đại hán của họ và kết quả là họ ép mình. Khi nghe ông Phạm văn Đồng phê phán, Lê đức Anh đứng lên chống chế là mình nói “Giải pháp đỏ.” chỉ là để nhằm thăm dò. 
Và y dựng đứng lên chuyện chuyện là bạn Căm pu Chia nhờ thăm dò thái độ của Trung Quốc. Nhưng Lê đức Anh không ngờ lại bị Võ văn Kiệt, Võ chí Công, Đồng sỹ Nguyên, Nguyễn cơ Thạch, đập cho tới tấp. Thậm chí Lê đức Thọ, người đỡ đầu thân tín Lê Đức Anh đang nằm trên giường bệnh cũng lên tiếng chỉ trích cuộc gặp vô nguyên tắc của Lê Đức Anh.
Thật kỳ lạ đúng 20 năm sau, lịch sử lại lập lại một trang bi thảm trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Vào năm 2008 khi nhân dân ta đặc biệt là tầng lớp thanh niên, sinh viên biểu tình tỏ thái độ phản đối bọn Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa - Trường Sa, thì ban lãnh đạo Đảng vẫn như vô cảm, thậm chí còn cho công an đàn áp dã man, bắt bỏ tù nhiều thanh niên,yêu nước dám hy sinh vì Tổ quốc thân yêu.
Cách đây 20 năm, mặc cho sự chần chừ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, cán bộ chiến sỹ Quân chủng Hải quân vẫn kiên quyết tỏ rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc.
Lúc này nhiệm vụ đóng giữ đảo của cán bộ chiến sỹ các Lữ đoàn 146, 125 và Trung đoàn công binh 83 ngày càng trở nên quyết liệt. Trung tuần tháng 2-1988, Lữ đoàn 125 anh hùng đưa Pông – Tông O7 ra giữ đảo Tốc Tan.
Tại đảo Đá Đông, một đảo chìm có diện tích khá rộng, giữ vị trí quan trọng trong quần đảo, Tư lệnh Quân chủng lệnh cho tàu HQ- 661 đưa lực lượng ra cắm cờ, canh gác, đồng thời lệnh cho tàu HQ-605 đưa bộ đội ra chốt giữ đảo. Trong bối cảnh hải quân Trung Quốc có thể khiêu khích,ngăn chặn, song các tàu của ta đã bình tĩnh vượt qua sóng gió đưa bộ đội và vật liệu đến đảo an toàn. Ta khẩn trương triển khai lực lượng bảo vệ đảo trong hoàn cảnh cập rập, bị động do không được trên chỉ đạo kịp thời.
Các tàu HQ-605, HQ-604 được lệnh ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ Đá Đông ở vòng ngoài.Như vậy đến đầu tháng 3-1988 lực lượng hải quân mới triển khai xong thế trận phòng thủ trên các đảo Đá Lát, Đá Đông,Tốc Tan, Tiên Nữ và Đá Lớn, đưa tổng số đảo đóng giữ của ta lên số 16, gồm 9 đảo nổi, 7 đảo chìm.
Trong những tháng đầu năm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số đảo và bãi đá thuộc khu vực quần đảo Trường Sa: Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Huy Gơ, …Ta xây dựng thế trận phòng thủ ở các đảo Tiên Nữ, Đá Lất, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, bước đầu ngăn chặn được âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng của kẻ thù ra các đảo lân cận. Song bọn chúng vẫn có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông Kinh Tuyến 115 độ.
Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Bộ tư lệnh Hải quân ta xác định: “Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để bọn Trung Quốc chiếm được sẽ khống chế đường qua lại của ta trong việc tiếp tế và bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa“. Vì vậy không chờ ý kiến của trên Bộ tư lệnh Quân chủng hạ quyết tâm triển khai đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn phức tạp, bởi trong cùng một lúc ta phải triển khai đóng giữ cả 3 đảo trong điều kiện phương tiện, trang bị hạn chế, lực lượng lại có hạn. Không còn cách nào khác Bộ tư lệnh Quân chủng lại quyết định giao cho Lữ đoàn 125 phát huy truyền thống đơn vị anh hùng huy động lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ này.

Trong khi đó, hải quân Trung Quốc sau khi chiếm giữ trái phép các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ và Xu Bi cũng đang có ý đồ chiếm giữ ba đảo Gạc Ma, CôLin, Len Đao nhằm gây thanh thế ở khu vực Trường Sa và cả vùng biển Đông. Đầu tháng 3-1988 chúng huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên lên tới từ 9 đến 12 tàu chiến gồm: Khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, hai tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ. Tàu hỗ trợ gồm ba chiếc LSM, ngoài ra còn có tàu đo đạc, tàu kéo và một Pông-Tông lớn.
Trước tình hình đó, Tư lệnh Hải quân lệnh cho vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146,các Hải đội 131, 132, 134, của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sãn sàng chiến đấu cao. Ngày 12-3-0988 tàu HQ-605 (thuộc Lữ đoàn 123) do đồng chí Lê lệnh Sơn làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 5 giờ sáng ngày 14-3-1988. Sau 29 giờ hành quân bí mật vượt qua sóng to gió lớn, tàu HQ-605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14-3-1988 và cắm cờ Tổ quốc trên đảo, khẳng định chủ quyền của Tổ quốc Vệt Nam.
Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, 9 giờ sáng ngày 13-3-1988, tàu HQ-604 do đồng chí Vũ phi Trừ làm Thuyền trưởng và tàu HQ-505 do đồng chí Vũ huy Lễ làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về đảo Gạc Ma, CôLin. Phối hợp với hai tàu HQ-604 và HQ-505, có hai phân đội công binh (70 người) thuộc trung đoàn 83, 4 tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do đồng chí Trần đức Thông, phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy. 
Sau khi hai tàu của ta thả neo được 30 phút thì tàu hộ vệ của Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma có lúc cách tàu quân ta chỉ khoảng 500 mét. 17 giờ ngày 13-3-1988, tàu Trung Quốc áp sát tàu HQ-604 của ta và dùng loa gọi sang khiêu khích. Bị địch uy hiếp, chiến sỹ hai tàu HQ-604, HQ-505 động viên nhau giữ vững quyết tâm không để mắc mưu khiêu khích của địch, kiên trì tuần giữ quanh đảo.Trong lúc đó tàu chiến đấu của địch cùng một tàu hộ vệ, hai tàu vận tải thay nhau cơ động chạy quanh đảo Gạc Ma, nhằm uy hiếp tinh thần quân ta.

Trước tình hình căng thẳng ngày một tăng do bọn Trung Quốc gây ra, vào hồi 21 giờ ngày 13-3-1988, Bộ tư lệnh Hải quân chỉ thị cho các đồng chí Trần đức Thông, Vũ huy Lễ, Vũ phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma, Cô Lin. Bộ tư lệnh chỉ thị khẩn trương thả xuồng máy,xuồng nhôm, chuyển vật liệu làm nhà trên đảo ngay trong đêm 13-3-1988. Cùng lúc đó, lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ cắm cờ Tổ quốc và triển khai 4 tổ bảo vệ đảo Gạc Ma.
Lúc này bọn Trung Quốc điều thêm hai tàu hộ vệ trang bị pháo 100 mm đến hỗ trợ, đe dọa ta rút khỏi đảo Gạc Ma.6 giờ ngày 14-3-1988, bọn Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo. Bọn Trung Quốc dựa vào thế quân đông tiến đến giật cờ ta. Lập tức thiếu úy Trần văn Phương, hạ sỹ Nguyễn văn Lanh cùng đồng đội anh dũng xông lên giành lại cờ.
Bọn lính Trung Quốc láo xược, hung hãn đã dùng lưỡi lê đâm và bắn Nguyễn văn Lanh bị thương. Thiếu úy Trần văn Phương xông vào cứu bạn lập tức bị bọn lính Đại hán bắn chết. Trần văn Phương đã anh dũng hy sinh.
Đây là liệt sỹ đầu tiên của bộ đội hải quân Việt Nam hy sinh trên vùng biển Đông của Tổ Quốc, bảo vệ quần đảo Trường Sa. Trước lúc hy sinh, Trần văn Phương đã hô to: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo. Hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng hải quân anh hùng. Tổ quốc Việt Nam muôn năm.”
Tiếng hô của anh vang vọng trên sóng biển Đông xa xôi. Những người lãnh đạo ở Hà Nội có nghe được tiếng hô thống thiết này không? Tiếng hô mà lẽ ra bằng tâm linh của những con người có lương tri phải nghe được, cảm được. Vì chính họ là những người phải chịu trách nhiệm về sự hy sinh này.
Không uy hiếp được bộ đội ta rút khỏi đảo,bọn Trung Quốc dùng hai tàu bắn pháo 100 mm vào tàu HQ-604, làm tàu ta bị hỏng nặng. Tiếp đó bọn chúng cho quân xông về phía tàu ta. Thuyền trưởng Vũ phi Trừ vừa chỉ huy bộ đội chiến đấu, vừa tổ chức băng bó cứu chữa thương binh, và hỗ trợ các chiến sỹ bảo vệ cờ. Đối phương tiếp tục nã đạn, làm tàu ta bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Đồng chí Vũ phi Trừ, thuyền trưởng ; đồng chí Trần đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 cùng một số cán bộ chiến sỹ đã anh dũng hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đảo Gạc Ma.
Tại đảo Cô Lin, 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-505 đã cắm hai lá cờ trên đảo. Khi tàu 604 của ta bị chìm, đồng chí Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng tàu HQ-505 ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 của ta đang cơ động lên bãi, hai tàu của đối phương quay sang tiến công tàu 505. Bất chấp hiểm nguy, tàu HQ-505 chạy hết tốc độ, trườn lên được hai phần ba thân tàu thì bốc cháy. 8 giờ 15 phút ngày 14 tháng 3, bộ đội tàu HQ-505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đảo, vừa đưa xuồng đến cứu vớt cán bộ, chiến sĩ tàu HQ-604 bị chìm. Tàu HQ – 505 bị bốc cháy. Cán bộ chiến sĩ của tàu, dưới sự chỉ huy dũng cảm của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, bảo vệ chủ quyền đảo Cô Lin.
Ở hướng đảo Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, tàu của bọn Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của ta. Tàu 605 bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15 tháng 3. Cán bộ, chiến sĩ của tàu dìu nhau bơi về đảo Sinh Tồn an toàn.Như vậy, trong trận chiến đấu ngày 14 tháng 3 năm 1988, ba tàu của hải quân ta bị bắn cháy và chìm, ba đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương, 70 đồng chí bị mất tích. Sau này đối phương trao trả ta 9 đồng chí, còn 61 người mất tích.
Mặc dù so sánh lực lượng chênh lệch,phương tiện, vũ khí hạn chế, cán bộ và chiến sĩ hải quân ta đã chiến đấu dũng cảm nêu cao quyết tâm bảo vệ chủ quyền hải đảo của Tổ quốc.
Với chiến công oanh liệt đó, tàu HQ-505 được Nhà nước tuyên dương đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Các đồng chí Vũ Phi Trừ, Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh, Trần Văn Phương được truy tặng và phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hàng chục tập thể và cá nhân được tặng thưởng huân chương Quân công, huân chương Chiến công các loại.

Năm 2008 này vừa tròn hai mươi năm trận hải chiến Trường Sa lịch sử. Cách đây hai mươi năm, trên vùng biển Trường Sa,hơn 70 cán bộ chiến sĩ quân đội nhân dân Việt nam đã anh dũng hi sinh khi làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc. Họ đã bị kẻ thù Trung Quốc dã man, tham lam giết hại. Tưởng chừng như sự hi sinh mất mát của họ sẽ bị chìm vào lãng quên nhưng nhân dân cả nước cũng như đồng bào hải ngoại, nhân dịp kỷ niệm này giành cho các chiến sĩ lòng thương cảm vô hạn. Hàng triệu người dân nước Việt thương xót nghĩ đến các anh. Thương xót vì biết các anh hi sinh anh dũng nhưng vẫn không thể yên nghỉ bởi kẻ thù năm ấy vẫn đang còn chiếm giữ một phần đất ruột thịt của tổ quốc, mở đầu một thời kì nhục nhã do tập đoàn lãnh đạo đứng đầu là Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, xúc phạm đến sự hi sinh cao cả và thiêng liêng của các anh. Nhân dân Việt nam ở trong nước cũng như ngoài nước thì sẽ mãi mãi nhớ tới các anh, những anh hùng của trận chiến Trường Sa tháng 3 năm 1988, và cả những người lính Việt nam cộng hòa đã anh dũng hi sinh trong trận chiến Hoàng Sa năm 1974.
Thực ra trận chiến Hoàng Sa năm 1974 oanh liệt hơn trận Trường Sa năm 1988. Năm 1974, mặc dù lực lượng ít hơn, lại bị bất ngờ trước âm mưu xâm lược của bọn Tàu (Vì nghĩ rằng, hạm đội 7 Mỹ còn đấy bọn Tàu không dám làm), các chiến sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, đánh chìm ba tàu của chúng, trong đó có soái hạm chỉ huy, khiến toàn bộ Bộ Tư lệnh trận đánh gồm 2 đô đốc, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá bị tử thương.
Phía Hải quân Việt Nam Cộng Hòa có nhiều tấm gương hy sinh dũng cảm, tiêu biểu là trung tá Ngụy văn Thà, Hạm trưởng Hộ Tống Hạm Nhật Tảo. Khi tàu bị trúng đạn, đang chìm dần giữa biển Đông, Ngụy văn Thà đã lệnh cho Hạm phó, thiếu tá Nguyễn thành Trí, dùng bè cao su đưa số chiến sỹ còn sống sót, bị thương về đất liền, còn mình quyết ở lại với chiến hạm cho đến hơi thở cuối cùng.Tất cả họ đã ngã xuống vì chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt nam.Tổ Quốc đời đời ghi nhớ tấm gương anh hùng của các anh.các chiến sĩ Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng như các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam.
















Trận chiến đẫm máu tại Gạc Ma 1988
2011-10-19
Ngày 14 tháng 3 năm 1988 đã xảy ra trận chiến đẫm máu giữa hải quân Việt Nam và Trung Quốc tại Gạc Ma, Trường Sa.

Photo courtesy of daidoanket.vn
Bức tranh miêu tả cuộc chiến đấu bảo vệ đảo Gạc Ma của Hải quân Việt Nam ngày 14-3-1988 được treo tại Phòng Truyền thống của Vùng 4 Hải quân.
Trận chiến kết thúc, hải quân Việt Nam chỉ có chín người sống sót. Từ đó, Gạc Ma được cho là đã thuộc về Trung Quốc. Bối cảnh và diễn biến cuộc chiến tại Gạc Ma như thế nào? Mời quý vị nghe chính người lính năm xưa kể chuyện của họ.

Tay không bảo vệ tổ quốc

Từ đầu năm 1988, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng tại một số bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, cũng như đưa lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực này. Nhận thấy tình hình có thể diễn biến phức tạp, Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam ra lệnh cho xây dựng và bảo vệ đảo tại Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao bởi vì các đảo này có vị trí quan trọng trong tuyến đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ khác tại Trường Sa. Chiến dịch này còn được biết đến với tên gọi CQ-88, tức Chủ quyền 88.
Bắt đầu ngày 12 tháng 3 năm 1988, ba chiếc tàu vận tải của Lữ đoàn 125 mang số hiệu HQ-604, HQ-605 và HQ-505 mang theo một số phân đội của Trung đoàn công binh 83 và Lữ đoàn 146 đến các đảo này. Ba con tàu neo tại 3 đảo, với nhiệm vụ “Xây dựng và bảo vệ đảo”.  Tuy nhiên, giao tranh chủ yếu diễn ra ở Gạc Ma. Đó cũng là một cuộc chiến đẫm máu nhất trong chiến dịch CQ-88. 
Con tàu HQ-604 chở khoảng 74 chiến sĩ, đa phần là công binh có nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đảo Gạc Ma. Trước khi đi, tất cả các chiến sĩ đều được quán triệt là bảo vệ tổ quốc nhưng không nổ súng. Anh Nguyễn Văn Thống cho biết “Bên mình lúc ra đi là quán triệt không được nổ súng bằng bất cứ giá nào”.
Chính vì được quán triệt là không được nổ súng, trên các con tàu trong chiến dịch CQ-88 đều chỉ mang lương thực, xi măng, cốt thép và các cột bê tông đúc sẵn mà không mang theo bất cứ một loại vũ khí nào, chỉ trừ vài khẩu súng AK. Các chiến sĩ trên tàu, chủ yếu chỉ là công binh, chưa một lần cầm súng chiến đấu, để rồi cho đến bây giờ, tim họ vẫn còn nhói khi nghĩ lại. Theo lời kể của 8 nhân vật còn sống cho đến hôm nay, họ không hề có một khẩu súng trong tay và chỉ thấy khoảng 3¬-4 người lính Việt Nam có cầm súng AK. Anh Trần Thiện Phung chua xót nhớ lại:
“Đơn vị tôi là đơn vị công binh mà, ra đảo chỉ biết là để xây dựng chứ đâu biết để chiến đấu. Nhưng ra đó, tàu chiến của Trung Quốc đánh mình”.
Chiều 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-604 vừa đến Gạc Ma và bị quân Trung Quốc dùng loa cảnh báo. Theo lời những người tham gia trận đánh, Trung Quốc lúc ấy triển khai 3 tàu chiến, đứng vị trí hình tam giác bao vây con tàu vận tải HQ-604, chỉ cách nhau chừng vài trăm mét. Anh Dương Văn Dũng nhớ lại:
“Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.”
Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.
Anh Dương Văn Dũng
Đến sáng sớm ngày 14 tháng 3, khi hải quân Việt Nam đổ bộ, bốc vật liệu xây dựng từ tàu xuống đảo, đó là lúc phát súng đầu tiên vang lên, để rồi tiếp sau đó là một tràn tiếng súng dài và máu văng tung tóe. Hiện tại, Trung Quốc cho sản xuất một phim tư liệu ghi lại trận chiến tại Gạc Ma với hình ảnh một vòng người bị bắn tan tành trên nước. Đó chính là đoạn nghi lại hình ảnh này. Anh Thống nói:
"Bởi vì chúng tôi nhận được lệnh là chuyển cột bê tông từ tàu xuống đảo để xây dựng đảo cho nên các anh em đổ bộ vào đảo. Khi mình đổ bộ như thế thì họ từ trên tàu bắn xuống một hàng dài. Khi mình đưa cờ vào thì trong vòng 30 phút sau là bị bắn.”

Trung Quốc tấn công và chiếm đảo

Lúc đó cũng là lúc tàu Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và khoảng 40 lính có trang bị vũ khí đổ bộ lên đảo giật cờ Việt Nam. Dưới nước, lúc giáp lá cà, 2 bên chỉ cách nhau khoảng 100 mét. Phía trên, tàu Trung Quốc bao vây. Anh Dũng cho biết:
HQ-604-250-youtube.jpg
Tàu vận tải HQ-604 bị tàu chiến Trung Quốc nã pháo, bắn cháy, đang chìm xuống biển ngày 14-3-1988. Ảnh lấy từ youtube do TQ quay lại
“Khi họ tràn qua như thế thì mình cử một người bảo vệ cây cờ của mình trên đảo. Khi họ bắn một phát súng thì một hàng lính của họ bắn tới tấp. Mình vẫn đứng ôm cây cờ Việt Nam chịu chết. Một đồng chí khác cũng đứng gần đó bảo vệ cây cờ cũng bị thương nặng.
Tất cả các anh em hô to giữ chặt cây cờ, không bao giờ để mất cây cờ cũng như không bao giờ để mất tổ quốc. Mình hô to “Bảo vệ! bảo vệ! bảo vệ”. Khi họ tràn qua đánh mình là mình chống trả ngay lập tức. Mình chấp nhận tay không bảo vệ cây cờ tổ quốc”.
Thiếu úy Trần Văn Phương là người giữ lá cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma, cũng là người nhận phát đạn đầu tiên và tử thương đầu tiên. Nhiều người kể rằng, trước khi chết, anh Phương còn hô to “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để máu chúng ta nhuộm đỏ Biển Đông”.
Theo anh Trần Thiện Phụng, lúc tình hình bắt đầu căng thẳng, lữ đoàn phó lữ đoàn 146 Trần Đức Thông ra lệnh “Đây là lãnh thổ của Việt Nam, các đồng chí hãy bảo vệ lãnh thổ”. Lúc ấy cũng là lúc nhiều người dù không có vũ khí trong tay cũng nhảy xuống tàu bơi vào bám trụ trên đảo, để rồi tất cả đều phải hi sinh nhanh chóng sau đó. Anh Dũng nói tiếp:
“Chúng tôi biết rằng đã bị thua thế và mắc mưu Trung Quốc, cho nên chỉ làm bia đỡ đạn cho địch thôi chứ không biết nói sao. Họ là phía hành động tất cả. Khi họ tràn qua đánh thì chúng tôi biết rằng chỉ có chết thôi chứ làm sao sống được? Ở đó chỉ có nước và trời, không phải rừng rú, trốn vào đâu được? Khi hành động là họ vây mình hết rồi, nên mình chỉ có chết thôi.  Tất cả các anh em đều bị bắn xối xả hết. Tôi vẫn nhớ kỹ mà. Tôi nhìn rõ hết mà. Dễ sợ lắm.”
Lúc ấy, phía Trung Quốc có 1 hộ vệ hạm và 2 hải vận hạm, được trang bị hỏa lực 100mm với hơn 200 binh sĩ (tài liệu từ Trung Quốc). Theo tài liệu từ phía Bắc Kinh, quân Trung Quốc luôn sẵn sàng chiến đấu. Thậm chí, trước đêm trận chiến xảy ra, quân lính nước này còn được xem phim tuyên truyền nói rằng Việt Nam ăn cắp tài nguyên của Trung Quốc. 
Sau khi bắn xối xả vào vòng người trên đảo, Trung Quốc bắt đầu nả pháo liên tiếp vào con tàu HQ-604. Anh Lê Minh Thoa bồi hồi nhớ lại:
“Tôi lo về máy móc của tàu không có súng ống gì cả. Lúc bắt đầu giao chiến thì tôi còn ở trên boong tàu. Nhưng khi thuyền thưởng ra lệnh sẵn sàng chiến đấu thì ngành nào theo ngành nấy và tôi xuống hầm máy. Khi tôi đang ở hầm máy thì tàu bị bắn và xăng dầu trong hầm máy cũng bùng cháy. Tôi bị cháy sau lưng và bỏ chạy lên boong tàu rồi nhảy xuống nước. Khi ấy, nước đã bắt đầu tràn vào tàu và chìm dần”.
Khi quả những khẩu đạn pháo nhắm vào thân con tàu HQ-604 già nua, cũng là lúc quân Việt Nam chết nhiều nhất, người thì chết vì ngạt khi co cụm dưới khoang tàu, người thì chết vì đạn pháo, người thì chết vì ngạt nước - hỗn loạn, tan tác và kinh hãi. Anh Thoa chua xót nói tiếp:
“Khi lính của mình chết gần hết rồi, xác họ trôi lơ lửng, máu tràn lan trên biển, máu của lính từ mạn tàu chảy xuống. Tôi thấy ghê gớm thật. Lúc đó chẳng biết suy nghĩ gì, chạy loạn xạ hết. Nhìn thấy cảnh tượng ấy tôi rất buồn bởi vì anh em mới đêm trước còn nói chuyện với nhau, bây giờ người sống kẻ chết. Tôi thấy rất buồn. Sau này tôi có xem lại đoạn phim về trận hải chiến này do Trung Quốc quay. Mỗi lần nhìn thấy đoạn phim ấy là hai hàng nước mắt chảy ra.”
Sau khi nhận quả đạn pháo đầu tiên, con tàu HQ-604 bắt đầu bùng cháy và chìm hẳn chỉ 30 phút sau đó. Cùng với xác con tàu, là xác của hàng chục chiến sĩ hải quân Việt Nam với vũng máu lớn loan cả một vùng biển Đông. Khi đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc hoan hô reo rò chiến thắng. Họ bắt tay, ôm nhau, nói cười vui vẻ. Anh Dũng uất ức kể lại:
“Tôi tức chứ, tức vô cùng. Tôi tức vì mình không đủ khả năng đánh lại họ vì mình không chuẩn bị. Họ đã được chuẩn bị và họ đánh mình. Họ đánh nát tan thuyền của mình. Họ đánh xong, họ hoan hô. Tôi nằm dưới nước thấy cảnh ấy mà tức vô cùng”.

Tàn sát lính Việt Nam

Tuy nhiên, đó còn chưa phải là kết thúc của những đau thương và mất mát. Anh Thoa nói tiếp:
tusi-305.jpg
Buổi gặp gỡ các cựu chiến binh trận hải chiến Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988 diễn ra tại khu Du Lịch Suối Lương – Đà Nẵng hôm 03/9/2011. RFA files
“Khi tôi nhảy khỏi tàu thì thật tình tôi thấy hiện trường có rất nhiều lính Trung Quốc. Tôi chứng kiến thấy rằng Trung Quốc ác quá. Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên”.
Cứ như thế, hải quân trên con tàu HQ-604 tại đảo Gạc Ma gần như tử thương tất cả chỉ sau hơn một giờ đồng hồ giao tranh. Trong số 74 chiến sĩ trên con tàu ấy, chỉ có 9 người còn sống sót. Cho đến bây giờ, họ cũng không giải thích được lý do vì sao họ có được cái may mắn còn sống để kể về câu chuyện của chính họ ngày hôm nay. Anh Thoa cho biết vì sao mình không chết trong trận chiến ấy:
“Chín người chúng tôi còn sống sót là do có những người nổi lên nhưng nhìn cũng như chết rồi. May mắn cho tôi là tôi có được hai quả bí. Khi nghe tiếng xuồng của địch chạy đến thì tôi lặn xuống biển, hết tiếng xuồng là tôi ngoi lên”.
Sau khi nghĩ rằng đã tiêu diệt hết tất cả hải quân Việt Nam cùng con tàu HQ-604, ba chiếc tàu chiến cùng hải quân Trung Quốc bỏ đi. Lúc này thủy triều đang lên, đảo Gạc Ma lại chìm trong biển nước mênh mông (đảo Gạc Ma còn gọi là đảo chìm; nổi lên và lặn xuống theo con nước). Không còn tiếng súng nổ, không còn tiếng động cơ, cũng chẳng còn tiếng la hét, trả lại cho Gạc Ma sự yên ắng đến rợn người. 
Biển không gợn chút sóng, mà lòng những người sống sót đau đến lạ. Chín người còn sống sót nằm trên đảo, bên cạnh những xác chết nghiêng ngửa của những người bạn mà chỉ mới hôm qua thôi, còn chúc nhau sống lâu trăm tuổi. Họ nhìn đồng đội, nhìn Gạc Ma mà nhòe đi vì nước mắt. Có lẽ không một lời nào có thể diễn tả tâm trạng của họ lúc này; nó trống rỗng như cái khoảng không trên bầu trời cao vợi, sâu thắt như đáy biển Đông và mênh mông như Trường Sa lúc này.
Tất cả chín người sống sót đều bị thương nặng, như những xác chết nằm cùng vô vàng các xác chết khác. Có lẽ ngay chính họ cũng không biết là mình còn sống. Trong cơn đau đến nỗi tưởng như có thể chết đi, các anh vẫn ý thức rằng, lá cờ Việt Nam trên tay đồng chí Phương cũng không còn nữa. Anh Thống buồn rầu nói:
Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên. 
Anh Lê Minh Thoa
“Đá trên đảo là đá san hô cho nên không thể cắm cờ trên đảo được. Chỉ có thể cho người cầm cờ mà thôi. Tuy nhiên, khi người cầm cờ ấy mất thì lá cờ cũng mất theo”.
Trận chiến trên đảo Gạc Ma kết thúc, phía Trung Quốc chỉ có một người bị thương. Họ vinh danh một đặc nhiệm hải quân tên Du Xiang Hou, là người đã xé bỏ lá cờ Việt Nam trên đảo. Họ làm phim giáo dục con cháu về trận chiến mà đối với họ là một sự vẻ vang kiêu hùng. Và họ xem đó là bằng chứng không thể chối cãi đối với chủ quyền tại đảo Gạc Ma. Vậy mà đã 23 năm tại Việt Nam, cuộc chiến này bị né tránh không nói đến, như thể nó là một phần lịch sử cần được giấu đi. Có lẽ trận chiến trên đảo Gạc Ma không phải là một vết son trong lịch sử như những chiến thắng của đội quân Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn hay vua Quang Trung. Tuy nhiên, người ta vẫn cần một lịch sử thật hơn một lịch sử đẹp. Huống chi, các chiến sĩ CQ-88 tay không đánh giặc, há chẳng phải đẹp lắm sao? 
Cuộc chiến tại Gạc Ma kết thúc, nhưng trận chiến của những người còn sống sót còn chưa đến hồi kết. Số phận chín người còn sống sót như thế nào? Mời quý vị đón nghe vào kỳ tới.





Thiếu tướng Lê Mã Lương gián tiếp tiết lộ: 

Lãnh đạo cấp cao (Lê Đức Anh) là thủ phạm đã tiếp tay cho Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam.


Thiếu tướng quân đội Lê Mã Lương gián tiếp tiết lộ thủ phạm đã tiếp tay cho Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam chính là một ‘đồng chí lãnh đạo cấp cao’.

Theo tướng Lương, trước khi xảy ra trận Hải chiến Trường Sa năm 1988, quân đội Việt Nam đã phải phải nhận lệnh ‘không được nổ súng’ trong trường hợp Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa. 



Hậu quả là ngày 14/3/1988, hải quân Trung Quốc dễ dàng đánh chiếm đảo Gạc Ma và ra tay thảm sát 64 người lính hải quân Việt Nam chỉ sau một trận chiến ngắn.

Hiện nay, Trung Quốc đang ráo riết xây sân bay quân sự trên đảo Gạc Ma, biến nơi này thành một tiền đồn uy hiếp toàn bộ khu vực miền Nam của Việt Nam. 


Ai ra lệnh không được nổ súng?
Mặc dù tướng Lương không nêu tên đích danh, nhưng ai cũng hiểu ‘đồng chí lãnh đạo cấp cao’ là để ám chỉ ông Lê Đức Anh, khi ấy đang giữ chức bộ trưởng bộ quốc phòng. (Nhiệm kỳ: Từ ngày 16 tháng 2, 1987 – Ngày 10 tháng 8, 1991)
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_%C4%90%E1%BB%A9c_Anh

Đại tướng Lê Đức Anh là người duy nhất trong bộ chính trị CS vào năm 1988 có đủ quyền lực để ra lệnh cho quân đội Việt Nam không được nổ súng. 

Theo tướng Lương, trong một cuộc họp của bộ chính trị diễn ra sau đó, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã đập bàn chất vấn: Ai ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng?

Theo các tài liệu đã được tiết lộ một phần, sau trận Hải chiến Trường Sa năm 1988, đại tướng Lê Đức Anh đã ‘đi đêm’ với Trung Quốc, dẫn tới kết quả là Hội Nghị Thành Đô diễn ra vào năm 1990.

Phía Trung Cộng áp lực CSVN phải loại bỏ bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch vì quan điểm chống Trung Quốc của ông này. 

Bộ chính trị CSVN đã chấp nhận các yêu cầu của Trung Cộng ‘để bình thường hóa quan hệ’. Vài tháng sau, ông Nguyễn Cơ Thạch bị gạt bỏ mọi quyền lực. Còn đại tướng Lê Đức Anh chỉ 2 năm sau lên làm chủ tịch nước.

Hiện nay, dù đã về hưu nhưng đại tướng Lê Đức Anh vẫn là một thế lực đáng sợ trong giới chóp bu Ba Đình. Nhân vật này là người đỡ đầu quyền lực cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, còn con trai ông Anh là Lê Mạnh Hà đang giữ chức phó chủ tịch ủy ban nhân dân TP.HCM. 

Nỗi đau người lính

Thiếu tướng Lê Mã Lương là cựu giám đốc bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Từng tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chiến tranh biên giới Việt - Trung. 

Ông được phong làm anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ở tuổi 21. Theo sách vở cộng sản, tướng Lương là người nổi tiếng với câu nói: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”.

Phát biểu của tướng Lê Mã Lương được đưa ra hôm 14/6/2014 tại hội thảo Minh Triết Biển Đông. Video phần phát biểu đã được báo Pháp Luật Việt Nam ghi lại.

Theo tướng Lương, lệnh không được nổ súng cộng với sự chênh lệch lực lượng và khí giới đã khiến cho Trung Quốc dễ dàng đánh chiếm đảo Gạc Ma, 64 người lính hải quân Việt Nam hy sinh trên biển. 

Trong phát biểu của tướng Lương, có một phần mà đoạn video đã không ghi lại. 

Đó là câu chuyện dưới thời TBT Nông Đức Mạnh, một quan chức ngoại giao đã đề nghị nhà nước nên yêu cầu Trung Quốc để phía Việt Nam được đến Gạc Ma trục vớt 3 chiếc tàu bị bắn chìm cùng 61 thi thể các chiến sỹ hy sinh trên biển. 

TBT Nông Đức Mạnh nghe xong liền nói: “Có nên làm việc đó không? Cứ để họ nằm đó cũng đã làm sao"


...lực lượng tàu chiến "HẢI QUÂN NƯỚC NGOÀI" ...
http://vov.vn/Home/Tuong-niem-cac-chien-sy-hy-sinh-tai-quan-dao-Truong-Sa/20105/143339.vov











Hiện nay với "chủ trương lớn" của Đảng CSVN có đến 40 nghĩa trang: 
ĐỜI ĐỜI GHI ƠN CÁC LIỆT SỸ TRUNG CỘNG xâm lược 
như thế này trên đất nước CHXHCN Việt Nam
Từ năm 1984 đến năm 1989, nhiều trận giao tranh đã diễn ra giữa quận đội Trung Cộng và CSVN, và có lần lên đến cả cấp sư đoàn. Trận giao tranh lớn nhất xảy ra là vào ngày 12 tháng 07, 1984 tại ngọn núi Lão Sơn. Đến ngày 28 tháng 04, 1984, Trung Cộng chiếm được núi Lão Sơn. Những cuộc phản công sau đó của quân đội cộng sản VN nhằm chiếm lại Lão Sơn hoàn toàn thất bại. Những trận đánh lớn xãy ra tại Lão Sơn và những ngọn núi lân cận được ghi nhận vào các ngày:

12 tháng 7, 1984 ,20, 21 tháng 12, 1984 ,15 tháng 1, 1985 ,8 tháng 03, 1985 ,19-20 tháng 07, 1985 
23 tháng 09, 1985 ,28 tháng 01, 1986 ,19 tháng 10, 1986 ,6 tháng 01, 1987 ,23 tháng 04, 1987

Tất cả những sự hy sinh của người lính Việt Nam đều bị lãng quên và dấu nhẹm. Trong tất cả các bài báo sau này của Đảng CSVN tường thuật lại các xâm lăng của TC ở TS, đều chỉ nói là "kẻ địch" chứ không dám gọi đích danh Trung Quốc. 
Trong lịch sử của nhân loại chưa có một nhà nước nào hèn hạ như thế!!!
4000 người lính Việt Nam đã nằm xuống để bảo vệ Núi Lão Sơn cho tới bây giờ cũng chưa được nhắc đến.

Đài Chiến Thắng của Trung cộng trên núi Lão Sơn cao điểm 1509, từng là của Việt Nam
Bia tưởng niệm QĐND Việt Nam bị đục bỏ...
(SƯ ĐOÀN 33 ĐÃ ĐÁNH BẠI VÀ CHẶN ĐỨNG TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC)
Gạc Ma - Trường Sa : Một Trang Sử Nhục Nhã :      http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=1451767828011685728#editor/target=post;postID=854473784026028438
Post a Comment


























Trận chiến đẫm máu tại Gạc Ma 1988
2011-10-19
Ngày 14 tháng 3 năm 1988 đã xảy ra trận chiến đẫm máu giữa hải quân Việt Nam và Trung Quốc tại Gạc Ma, Trường Sa.

Photo courtesy of daidoanket.vn
Bức tranh miêu tả cuộc chiến đấu bảo vệ đảo Gạc Ma của Hải quân Việt Nam ngày 14-3-1988 được treo tại Phòng Truyền thống của Vùng 4 Hải quân.
Trận chiến kết thúc, hải quân Việt Nam chỉ có chín người sống sót. Từ đó, Gạc Ma được cho là đã thuộc về Trung Quốc. Bối cảnh và diễn biến cuộc chiến tại Gạc Ma như thế nào? Mời quý vị nghe chính người lính năm xưa kể chuyện của họ.

Tay không bảo vệ tổ quốc

Từ đầu năm 1988, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng tại một số bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, cũng như đưa lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực này. Nhận thấy tình hình có thể diễn biến phức tạp, Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam ra lệnh cho xây dựng và bảo vệ đảo tại Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao bởi vì các đảo này có vị trí quan trọng trong tuyến đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ khác tại Trường Sa. Chiến dịch này còn được biết đến với tên gọi CQ-88, tức Chủ quyền 88.
Bắt đầu ngày 12 tháng 3 năm 1988, ba chiếc tàu vận tải của Lữ đoàn 125 mang số hiệu HQ-604, HQ-605 và HQ-505 mang theo một số phân đội của Trung đoàn công binh 83 và Lữ đoàn 146 đến các đảo này. Ba con tàu neo tại 3 đảo, với nhiệm vụ “Xây dựng và bảo vệ đảo”.  Tuy nhiên, giao tranh chủ yếu diễn ra ở Gạc Ma. Đó cũng là một cuộc chiến đẫm máu nhất trong chiến dịch CQ-88. 
Con tàu HQ-604 chở khoảng 74 chiến sĩ, đa phần là công binh có nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đảo Gạc Ma. Trước khi đi, tất cả các chiến sĩ đều được quán triệt là bảo vệ tổ quốc nhưng không nổ súng. Anh Nguyễn Văn Thống cho biết “Bên mình lúc ra đi là quán triệt không được nổ súng bằng bất cứ giá nào”.
Chính vì được quán triệt là không được nổ súng, trên các con tàu trong chiến dịch CQ-88 đều chỉ mang lương thực, xi măng, cốt thép và các cột bê tông đúc sẵn mà không mang theo bất cứ một loại vũ khí nào, chỉ trừ vài khẩu súng AK. Các chiến sĩ trên tàu, chủ yếu chỉ là công binh, chưa một lần cầm súng chiến đấu, để rồi cho đến bây giờ, tim họ vẫn còn nhói khi nghĩ lại. Theo lời kể của 8 nhân vật còn sống cho đến hôm nay, họ không hề có một khẩu súng trong tay và chỉ thấy khoảng 3¬-4 người lính Việt Nam có cầm súng AK. Anh Trần Thiện Phung chua xót nhớ lại:
“Đơn vị tôi là đơn vị công binh mà, ra đảo chỉ biết là để xây dựng chứ đâu biết để chiến đấu. Nhưng ra đó, tàu chiến của Trung Quốc đánh mình”.
Chiều 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-604 vừa đến Gạc Ma và bị quân Trung Quốc dùng loa cảnh báo. Theo lời những người tham gia trận đánh, Trung Quốc lúc ấy triển khai 3 tàu chiến, đứng vị trí hình tam giác bao vây con tàu vận tải HQ-604, chỉ cách nhau chừng vài trăm mét. Anh Dương Văn Dũng nhớ lại:
“Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.”
Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.
Anh Dương Văn Dũng
Đến sáng sớm ngày 14 tháng 3, khi hải quân Việt Nam đổ bộ, bốc vật liệu xây dựng từ tàu xuống đảo, đó là lúc phát súng đầu tiên vang lên, để rồi tiếp sau đó là một tràn tiếng súng dài và máu văng tung tóe. Hiện tại, Trung Quốc cho sản xuất một phim tư liệu ghi lại trận chiến tại Gạc Ma với hình ảnh một vòng người bị bắn tan tành trên nước. Đó chính là đoạn nghi lại hình ảnh này. Anh Thống nói:
"Bởi vì chúng tôi nhận được lệnh là chuyển cột bê tông từ tàu xuống đảo để xây dựng đảo cho nên các anh em đổ bộ vào đảo. Khi mình đổ bộ như thế thì họ từ trên tàu bắn xuống một hàng dài. Khi mình đưa cờ vào thì trong vòng 30 phút sau là bị bắn.”

Trung Quốc tấn công và chiếm đảo

Lúc đó cũng là lúc tàu Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và khoảng 40 lính có trang bị vũ khí đổ bộ lên đảo giật cờ Việt Nam. Dưới nước, lúc giáp lá cà, 2 bên chỉ cách nhau khoảng 100 mét. Phía trên, tàu Trung Quốc bao vây. Anh Dũng cho biết:
HQ-604-250-youtube.jpg
Tàu vận tải HQ-604 bị tàu chiến Trung Quốc nã pháo, bắn cháy, đang chìm xuống biển ngày 14-3-1988. Ảnh lấy từ youtube do TQ quay lại
“Khi họ tràn qua như thế thì mình cử một người bảo vệ cây cờ của mình trên đảo. Khi họ bắn một phát súng thì một hàng lính của họ bắn tới tấp. Mình vẫn đứng ôm cây cờ Việt Nam chịu chết. Một đồng chí khác cũng đứng gần đó bảo vệ cây cờ cũng bị thương nặng.
Tất cả các anh em hô to giữ chặt cây cờ, không bao giờ để mất cây cờ cũng như không bao giờ để mất tổ quốc. Mình hô to “Bảo vệ! bảo vệ! bảo vệ”. Khi họ tràn qua đánh mình là mình chống trả ngay lập tức. Mình chấp nhận tay không bảo vệ cây cờ tổ quốc”.
Thiếu úy Trần Văn Phương là người giữ lá cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma, cũng là người nhận phát đạn đầu tiên và tử thương đầu tiên. Nhiều người kể rằng, trước khi chết, anh Phương còn hô to “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để máu chúng ta nhuộm đỏ Biển Đông”.
Theo anh Trần Thiện Phụng, lúc tình hình bắt đầu căng thẳng, lữ đoàn phó lữ đoàn 146 Trần Đức Thông ra lệnh “Đây là lãnh thổ của Việt Nam, các đồng chí hãy bảo vệ lãnh thổ”. Lúc ấy cũng là lúc nhiều người dù không có vũ khí trong tay cũng nhảy xuống tàu bơi vào bám trụ trên đảo, để rồi tất cả đều phải hi sinh nhanh chóng sau đó. Anh Dũng nói tiếp:
“Chúng tôi biết rằng đã bị thua thế và mắc mưu Trung Quốc, cho nên chỉ làm bia đỡ đạn cho địch thôi chứ không biết nói sao. Họ là phía hành động tất cả. Khi họ tràn qua đánh thì chúng tôi biết rằng chỉ có chết thôi chứ làm sao sống được? Ở đó chỉ có nước và trời, không phải rừng rú, trốn vào đâu được? Khi hành động là họ vây mình hết rồi, nên mình chỉ có chết thôi.  Tất cả các anh em đều bị bắn xối xả hết. Tôi vẫn nhớ kỹ mà. Tôi nhìn rõ hết mà. Dễ sợ lắm.”
Lúc ấy, phía Trung Quốc có 1 hộ vệ hạm và 2 hải vận hạm, được trang bị hỏa lực 100mm với hơn 200 binh sĩ (tài liệu từ Trung Quốc). Theo tài liệu từ phía Bắc Kinh, quân Trung Quốc luôn sẵn sàng chiến đấu. Thậm chí, trước đêm trận chiến xảy ra, quân lính nước này còn được xem phim tuyên truyền nói rằng Việt Nam ăn cắp tài nguyên của Trung Quốc. 
Sau khi bắn xối xả vào vòng người trên đảo, Trung Quốc bắt đầu nả pháo liên tiếp vào con tàu HQ-604. Anh Lê Minh Thoa bồi hồi nhớ lại:
“Tôi lo về máy móc của tàu không có súng ống gì cả. Lúc bắt đầu giao chiến thì tôi còn ở trên boong tàu. Nhưng khi thuyền thưởng ra lệnh sẵn sàng chiến đấu thì ngành nào theo ngành nấy và tôi xuống hầm máy. Khi tôi đang ở hầm máy thì tàu bị bắn và xăng dầu trong hầm máy cũng bùng cháy. Tôi bị cháy sau lưng và bỏ chạy lên boong tàu rồi nhảy xuống nước. Khi ấy, nước đã bắt đầu tràn vào tàu và chìm dần”.
Khi quả những khẩu đạn pháo nhắm vào thân con tàu HQ-604 già nua, cũng là lúc quân Việt Nam chết nhiều nhất, người thì chết vì ngạt khi co cụm dưới khoang tàu, người thì chết vì đạn pháo, người thì chết vì ngạt nước - hỗn loạn, tan tác và kinh hãi. Anh Thoa chua xót nói tiếp:
“Khi lính của mình chết gần hết rồi, xác họ trôi lơ lửng, máu tràn lan trên biển, máu của lính từ mạn tàu chảy xuống. Tôi thấy ghê gớm thật. Lúc đó chẳng biết suy nghĩ gì, chạy loạn xạ hết. Nhìn thấy cảnh tượng ấy tôi rất buồn bởi vì anh em mới đêm trước còn nói chuyện với nhau, bây giờ người sống kẻ chết. Tôi thấy rất buồn. Sau này tôi có xem lại đoạn phim về trận hải chiến này do Trung Quốc quay. Mỗi lần nhìn thấy đoạn phim ấy là hai hàng nước mắt chảy ra.”
Sau khi nhận quả đạn pháo đầu tiên, con tàu HQ-604 bắt đầu bùng cháy và chìm hẳn chỉ 30 phút sau đó. Cùng với xác con tàu, là xác của hàng chục chiến sĩ hải quân Việt Nam với vũng máu lớn loan cả một vùng biển Đông. Khi đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc hoan hô reo rò chiến thắng. Họ bắt tay, ôm nhau, nói cười vui vẻ. Anh Dũng uất ức kể lại:
“Tôi tức chứ, tức vô cùng. Tôi tức vì mình không đủ khả năng đánh lại họ vì mình không chuẩn bị. Họ đã được chuẩn bị và họ đánh mình. Họ đánh nát tan thuyền của mình. Họ đánh xong, họ hoan hô. Tôi nằm dưới nước thấy cảnh ấy mà tức vô cùng”.

Tàn sát lính Việt Nam

Tuy nhiên, đó còn chưa phải là kết thúc của những đau thương và mất mát. Anh Thoa nói tiếp:
tusi-305.jpg
Buổi gặp gỡ các cựu chiến binh trận hải chiến Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988 diễn ra tại khu Du Lịch Suối Lương – Đà Nẵng hôm 03/9/2011. RFA files
“Khi tôi nhảy khỏi tàu thì thật tình tôi thấy hiện trường có rất nhiều lính Trung Quốc. Tôi chứng kiến thấy rằng Trung Quốc ác quá. Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên”.
Cứ như thế, hải quân trên con tàu HQ-604 tại đảo Gạc Ma gần như tử thương tất cả chỉ sau hơn một giờ đồng hồ giao tranh. Trong số 74 chiến sĩ trên con tàu ấy, chỉ có 9 người còn sống sót. Cho đến bây giờ, họ cũng không giải thích được lý do vì sao họ có được cái may mắn còn sống để kể về câu chuyện của chính họ ngày hôm nay. Anh Thoa cho biết vì sao mình không chết trong trận chiến ấy:
“Chín người chúng tôi còn sống sót là do có những người nổi lên nhưng nhìn cũng như chết rồi. May mắn cho tôi là tôi có được hai quả bí. Khi nghe tiếng xuồng của địch chạy đến thì tôi lặn xuống biển, hết tiếng xuồng là tôi ngoi lên”.
Sau khi nghĩ rằng đã tiêu diệt hết tất cả hải quân Việt Nam cùng con tàu HQ-604, ba chiếc tàu chiến cùng hải quân Trung Quốc bỏ đi. Lúc này thủy triều đang lên, đảo Gạc Ma lại chìm trong biển nước mênh mông (đảo Gạc Ma còn gọi là đảo chìm; nổi lên và lặn xuống theo con nước). Không còn tiếng súng nổ, không còn tiếng động cơ, cũng chẳng còn tiếng la hét, trả lại cho Gạc Ma sự yên ắng đến rợn người. 
Biển không gợn chút sóng, mà lòng những người sống sót đau đến lạ. Chín người còn sống sót nằm trên đảo, bên cạnh những xác chết nghiêng ngửa của những người bạn mà chỉ mới hôm qua thôi, còn chúc nhau sống lâu trăm tuổi. Họ nhìn đồng đội, nhìn Gạc Ma mà nhòe đi vì nước mắt. Có lẽ không một lời nào có thể diễn tả tâm trạng của họ lúc này; nó trống rỗng như cái khoảng không trên bầu trời cao vợi, sâu thắt như đáy biển Đông và mênh mông như Trường Sa lúc này.
Tất cả chín người sống sót đều bị thương nặng, như những xác chết nằm cùng vô vàng các xác chết khác. Có lẽ ngay chính họ cũng không biết là mình còn sống. Trong cơn đau đến nỗi tưởng như có thể chết đi, các anh vẫn ý thức rằng, lá cờ Việt Nam trên tay đồng chí Phương cũng không còn nữa. Anh Thống buồn rầu nói:
Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên. 
Anh Lê Minh Thoa
“Đá trên đảo là đá san hô cho nên không thể cắm cờ trên đảo được. Chỉ có thể cho người cầm cờ mà thôi. Tuy nhiên, khi người cầm cờ ấy mất thì lá cờ cũng mất theo”.
Trận chiến trên đảo Gạc Ma kết thúc, phía Trung Quốc chỉ có một người bị thương. Họ vinh danh một đặc nhiệm hải quân tên Du Xiang Hou, là người đã xé bỏ lá cờ Việt Nam trên đảo. Họ làm phim giáo dục con cháu về trận chiến mà đối với họ là một sự vẻ vang kiêu hùng. Và họ xem đó là bằng chứng không thể chối cãi đối với chủ quyền tại đảo Gạc Ma. Vậy mà đã 23 năm tại Việt Nam, cuộc chiến này bị né tránh không nói đến, như thể nó là một phần lịch sử cần được giấu đi. Có lẽ trận chiến trên đảo Gạc Ma không phải là một vết son trong lịch sử như những chiến thắng của đội quân Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn hay vua Quang Trung. Tuy nhiên, người ta vẫn cần một lịch sử thật hơn một lịch sử đẹp. Huống chi, các chiến sĩ CQ-88 tay không đánh giặc, há chẳng phải đẹp lắm sao? 
Cuộc chiến tại Gạc Ma kết thúc, nhưng trận chiến của những người còn sống sót còn chưa đến hồi kết. Số phận chín người còn sống sót như thế nào? Mời quý vị đón nghe vào kỳ tới.





Thiếu tướng Lê Mã Lương gián tiếp tiết lộ: 

Lãnh đạo cấp cao (Lê Đức Anh) là thủ phạm đã tiếp tay cho Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam.


Thiếu tướng quân đội Lê Mã Lương gián tiếp tiết lộ thủ phạm đã tiếp tay cho Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam chính là một ‘đồng chí lãnh đạo cấp cao’.

Theo tướng Lương, trước khi xảy ra trận Hải chiến Trường Sa năm 1988, quân đội Việt Nam đã phải phải nhận lệnh ‘không được nổ súng’ trong trường hợp Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa. 



Hậu quả là ngày 14/3/1988, hải quân Trung Quốc dễ dàng đánh chiếm đảo Gạc Ma và ra tay thảm sát 64 người lính hải quân Việt Nam chỉ sau một trận chiến ngắn.

Hiện nay, Trung Quốc đang ráo riết xây sân bay quân sự trên đảo Gạc Ma, biến nơi này thành một tiền đồn uy hiếp toàn bộ khu vực miền Nam của Việt Nam. 


Ai ra lệnh không được nổ súng?
Mặc dù tướng Lương không nêu tên đích danh, nhưng ai cũng hiểu ‘đồng chí lãnh đạo cấp cao’ là để ám chỉ ông Lê Đức Anh, khi ấy đang giữ chức bộ trưởng bộ quốc phòng. (Nhiệm kỳ: Từ ngày 16 tháng 2, 1987 – Ngày 10 tháng 8, 1991)
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_%C4%90%E1%BB%A9c_Anh

Đại tướng Lê Đức Anh là người duy nhất trong bộ chính trị CS vào năm 1988 có đủ quyền lực để ra lệnh cho quân đội Việt Nam không được nổ súng. 

Theo tướng Lương, trong một cuộc họp của bộ chính trị diễn ra sau đó, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã đập bàn chất vấn: Ai ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng?

Theo các tài liệu đã được tiết lộ một phần, sau trận Hải chiến Trường Sa năm 1988, đại tướng Lê Đức Anh đã ‘đi đêm’ với Trung Quốc, dẫn tới kết quả là Hội Nghị Thành Đô diễn ra vào năm 1990.

Phía Trung Cộng áp lực CSVN phải loại bỏ bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch vì quan điểm chống Trung Quốc của ông này. 

Bộ chính trị CSVN đã chấp nhận các yêu cầu của Trung Cộng ‘để bình thường hóa quan hệ’. Vài tháng sau, ông Nguyễn Cơ Thạch bị gạt bỏ mọi quyền lực. Còn đại tướng Lê Đức Anh chỉ 2 năm sau lên làm chủ tịch nước.

Hiện nay, dù đã về hưu nhưng đại tướng Lê Đức Anh vẫn là một thế lực đáng sợ trong giới chóp bu Ba Đình. Nhân vật này là người đỡ đầu quyền lực cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, còn con trai ông Anh là Lê Mạnh Hà đang giữ chức phó chủ tịch ủy ban nhân dân TP.HCM. 

Nỗi đau người lính

Thiếu tướng Lê Mã Lương là cựu giám đốc bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Từng tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chiến tranh biên giới Việt - Trung. 

Ông được phong làm anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ở tuổi 21. Theo sách vở cộng sản, tướng Lương là người nổi tiếng với câu nói: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”.

Phát biểu của tướng Lê Mã Lương được đưa ra hôm 14/6/2014 tại hội thảo Minh Triết Biển Đông. Video phần phát biểu đã được báo Pháp Luật Việt Nam ghi lại.

Theo tướng Lương, lệnh không được nổ súng cộng với sự chênh lệch lực lượng và khí giới đã khiến cho Trung Quốc dễ dàng đánh chiếm đảo Gạc Ma, 64 người lính hải quân Việt Nam hy sinh trên biển. 

Trong phát biểu của tướng Lương, có một phần mà đoạn video đã không ghi lại. 

Đó là câu chuyện dưới thời TBT Nông Đức Mạnh, một quan chức ngoại giao đã đề nghị nhà nước nên yêu cầu Trung Quốc để phía Việt Nam được đến Gạc Ma trục vớt 3 chiếc tàu bị bắn chìm cùng 61 thi thể các chiến sỹ hy sinh trên biển. 

TBT Nông Đức Mạnh nghe xong liền nói: “Có nên làm việc đó không? Cứ để họ nằm đó cũng đã làm sao"


...lực lượng tàu chiến "HẢI QUÂN NƯỚC NGOÀI" ...
http://vov.vn/Home/Tuong-niem-cac-chien-sy-hy-sinh-tai-quan-dao-Truong-Sa/20105/143339.vov











Hiện nay với "chủ trương lớn" của Đảng CSVN có đến 40 nghĩa trang: 
ĐỜI ĐỜI GHI ƠN CÁC LIỆT SỸ TRUNG CỘNG xâm lược 
như thế này trên đất nước CHXHCN Việt Nam
Từ năm 1984 đến năm 1989, nhiều trận giao tranh đã diễn ra giữa quận đội Trung Cộng và CSVN, và có lần lên đến cả cấp sư đoàn. Trận giao tranh lớn nhất xảy ra là vào ngày 12 tháng 07, 1984 tại ngọn núi Lão Sơn. Đến ngày 28 tháng 04, 1984, Trung Cộng chiếm được núi Lão Sơn. Những cuộc phản công sau đó của quân đội cộng sản VN nhằm chiếm lại Lão Sơn hoàn toàn thất bại. Những trận đánh lớn xãy ra tại Lão Sơn và những ngọn núi lân cận được ghi nhận vào các ngày:

12 tháng 7, 1984 ,20, 21 tháng 12, 1984 ,15 tháng 1, 1985 ,8 tháng 03, 1985 ,19-20 tháng 07, 1985 
23 tháng 09, 1985 ,28 tháng 01, 1986 ,19 tháng 10, 1986 ,6 tháng 01, 1987 ,23 tháng 04, 1987

Tất cả những sự hy sinh của người lính Việt Nam đều bị lãng quên và dấu nhẹm. Trong tất cả các bài báo sau này của Đảng CSVN tường thuật lại các xâm lăng của TC ở TS, đều chỉ nói là "kẻ địch" chứ không dám gọi đích danh Trung Quốc. 
Trong lịch sử của nhân loại chưa có một nhà nước nào hèn hạ như thế!!!
4000 người lính Việt Nam đã nằm xuống để bảo vệ Núi Lão Sơn cho tới bây giờ cũng chưa được nhắc đến.

Đài Chiến Thắng của Trung cộng trên núi Lão Sơn cao điểm 1509, từng là của Việt Nam
Bia tưởng niệm QĐND Việt Nam bị đục bỏ...
(SƯ ĐOÀN 33 ĐÃ ĐÁNH BẠI VÀ CHẶN ĐỨNG TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC)
https://youtu.be/6cTLfBJ-wP8
Gạc Ma - Trường Sa : Một Trang Sử Nhục Nhã :      http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=1451767828011685728#editor/target=post;postID=854473784026028438
Post a Comment










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét