Bí Mật Về "Hải Chiến Hoàng Sa 1974" và Những Điều Chưa Biết
Thanh Niên Đất Việt
LTS: Trong khi những bài khác nhấn mạnh về cảm giác trong sự
kiện Hoàng Sa, bài sau đây khảo sát thực tế, đo đạc và so sánh những gì
VNCH có thể làm nhưng không "dám" làm để giữ gìn biển đảo. Ban chủ
trương trang nhà xin phép tác giả để dùng tên chính thức VNCH thay vì từ
"ngụy" trong nội dung bài viết này. (SH)
Khi rút quân khỏi VN thì Mỹ đã bán toàn bộ biển Đông cho Trung Quốc
Đã 39 năm qua, Quần đảo Hoàng Sa thân
yêu của chúng ta nằm trong tay bọn bành trướng Bắc Kinh. Từ đó đến
nay, “nỗi nhớ” Hoàng Sa vẫn rực cháy trong tim mỗi người VN. Và cũng
từng thời gian đó nhà nước VN vẫn đang tìm mọi cách đấu tranh đòi lại
những gì của tổ tiên chúng ta bao đời dựng xây để lại cho con cháu hôm
nay. Vì thời gian và thông tin không nhiều do đó mình sẽ sử dụng tài
liệu của bạn “Huy Phúc_1981nb” về trận chiến Hoàng Sa.Chủ đề này không mới nhưng để hiểu về nó thì không ai cũng biết cả. VNCH đã dâng quần đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc năm 1974. Nhưng từ đó đến nay các "chiến binh hèn nhát" vẫn ngày đêm ra rả chửi “Việt Cộng”.
Có một sự thật mà chính các sỹ quan của VNCH Lê Văn Thự chỉ huy chiến hạm, tàu HQ-16 đã xác nhận: "May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ! Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn." (xem link)
Một loạt các câu hỏi tại sao lại có sự “kỳ quặc” như vậy?
1. Tại sao tầu HQ-5 lại bắn vào tầu quân mình?
2. Tại sao con tầu ngắm bắn điện tử HQ-4 không tham chiến?
3. Tại sao HQ-4/5 chạy sang Philippines chứ không chạy về Nam để vòng về Sài Gòn?.
4. Tại sao HQ-4 và HQ-5 không trúng đạn?
5. Vũ khí của Trung Quốc và VNCH ai hơn ai, hơn mấy lần?
6. Số tầu VNCH đã tham chiến thật sự, tức là bắn giặc Tầu chứ không bắn quân mình, là bao nhiêu, chiếm bao nhiêu trên tổng số vũ khí của 4 tầu.
7. Khi chỉ còn một mình HQ-16 chiến đấu, thì tương quan lực lượng thế nào giữa HQ-16 và các tầu chiến Trung Quốc?
8. Khi HQ-5 đứng về phía Trung Quốc, thì HQ-16 với liên quân VNCH - Tầu sẽ tương quan lực lượng thế nào?
9. Tại sao có nhiều máy bay F-5 trong phi đội lớn thứ 3 thế giới lúc đó, toàn bộ phía Tây quần đảo nằm trong vùng chiến đấu tích cực của F-5 và A-37 cũng như những máy bay khác, toàn bộ quần đảo nằm trong tầm chiến đấu tối đa của các máy bay VNCH, kể cả trực thăng như Chinook, nhưng toàn bộ các máy bay thúc thủ?
10. Trung Quốc có thật sự đem lực lượng lớn đến đánh "Hải chiến Hoàng Sa 1974" không, hay chỉ vài tầu cá, tầu rà mìn, tầu chống ngầm... thăm dò?
11. Trận chiến tử thủ Hoàng Sa năm 1974 diễn ra ở đâu, những ai, những đơn vị nào đã tử thủ?
12. Có phải Trung Quốc ban đầu chỉ dám thăm dò? Sau đó, khi nó nhìn rõ HQ-4 và HQ-4 đã đứng về phiá Trung Quốc, nó mới đanh mạnh và chiếm đảo, có phải vậy không?
Những câu hỏi Tại sao này chắc phải để lại cho các “chiến binh cờ vàng” đang đêm ngày “thăng cấp” vì chưa “giải ngũ” bên Cali hay Bolsa trả lời.
Tuy nhiên, để mở rộng đường để tìm hiểu về trận “hải chiến” này mà các sỹ quan VNCH vẫn nổ banh salon suốt 39 năm nay. Chúng ta cùng tìm hiểu đôi chút “bí mật” về trận chiến này.
I. KẾT LUẬN VỀ SỰ THẬT CỦA "HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974".
Tường
Thuật Trận Hải Chiến Lịch Sử Hoàng Sa. Hà Văn Ngạc, C/N 2012/10. Ðại Tá
Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH, người chỉ
huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974.Ông ta chép hồi ký thanh minh, rằng ông ta phải chạy vì Tầu Khựa kéo đến ồ ạt loại chiếm hạm diệt hạm Komar-class(mã NATO của Project 183R class, Liên Xô).
Thực chất, đó là nhảm nhí huyễn hoặc. Dù có huyễn hoặc thì những cái huyễn hoặc của ông ta cũng chỉ có thể có lợn liệt não mới dám hốc mà không oẹ. Gạt đi những cái huyễn hoặc đó, thì ông ta cũng phải căn cứ vào các báo cáo lưu trữ và nói lên một phần sự thật. Đó là, quân ta (VNCH) mạnh hơn tuyệt đối so với địch (Trung Quốc), nhưng ta thua vì ta hoặc là ngồi nhìn, hoặc là cùng với định bắn chìm ta. Và toàn bộ không quân ném bom lớn thứ 3 thế giới ngồi nhìn, trong khi địch gần như là số không về phòng không so với trình độ máy bay lúc đó.
SỰ THẬT VỀ TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA. HQ-16 do tôi, Trung tá Lê văn Thự (khoá 10) chỉ huy. HQ-16 bị soái hạm HQ-05 loại khỏi vòng chiến bằng một phát đạn 127mm. May là tầu không chìm chết mất xác vì đạn lởm.
HQ-16 cùng HQ-10 lập thành cánh Bắc đánh vào trong quần đảo. HQ-4 cùng HQ-5 lập thành cánh Nam đánh vào trong quần đảo. Cánh Bắc hoàn toàn bất ngờ vì cánh Nam theo Tầu Khựa phục kích họ. HQ-10 đắm, HQ-16 bị thương không thể chiến được. Bên cánh Nam, HQ-5 chịu trách nhiệm phục kích tiêu diệt đồng đội, còn HQ-4 đực mặt ra không tham chiến. Sau trận đánh thì HQ-4 và HQ-5 dông sang Phillipines, đến mức vô lý quá, VNCH phải gọi về cho đỡ thối.
Toàn bộ đoàn máy bay cường kích đứng thứ 3 thế giới lúc đó thúc thủ. Trung Quốc trong trận này gần như là số không về đối không. Vì thế, Trung Quốc không dám đánh ngay, họ dứ dần. Đến khi Trung Quốc xác định chính xác VNCH và Mỹ thật lòng dâng cho họ quần đảo Hoàng Sa, họ mới ra lấy đảo.
II. DIỄN BIẾN KỊCH HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974: MỸ VNCH BẮN CHÌM TẦU VNCH YỂM TRỢ HẢI QUÂN TRUNG QUỐC, BÁN ĐỨNG QUẦN ĐẢO.
Những bịa đặt nhục nhã của các sỹ quan VNCH bấy lâu nay cũng chỉ để che đi sự thật trận đánh hèn nhát điên khùng vụng về.Sự thật là Mỹ - VNCH diễn kịch bán đứng Hoàng Sa cho Trung Quốc.
Sự thật là lúc đó hải quân Trung Quốc rất yếu, đa phần các tầu Trung Quốc tham chiến năm 1974 là tầu cá. Phòng không trên các tầu Trung Quốc lúc đó gần như là số không, trong khi VNCH có phi đội máy bay ném bom lớn thứ 3 thế giới.
Như thế, không có lý do nào để Trung Quốc có thể chiếm được Hoàng Sa. Trung Quốc ban đầu cũng chỉ thử, họ không tin ngay nổi là họ có thể dễ dàng lấy được quần đảo.
VNCH cử 4 tầu ra đánh 4 tầu Trung Quốc, 4 tầu VNCH này vượt trội cả về hoả lực và mức độ tiên tiến. Trong đó có tầu bắn bằng pháo điều khiển qua radar-máy tính. 4 tầu đó chia làm 2 đội. Quân ta (VNCH) dồn sức vào diệt một tầu quân ta (VNCH, HQ-16). Trung Quốc dồn sức diệt một tầu quân ta (VNCH, HQ-10 chìm), HQ-4/5 tê liệt hoả lực. Ta (VNCH) và địch (Trung Quốc loại khỏi vòng chiến 3 trong số 4 tầu của ta (VNCH), thì hỏi làm sao không thua? HQ-4 và HQ-5 co cẳng định chạy sang Philipines không dám về nhà, cho đến khi thấy yên yên mới dám quay đầu lộn về Tây Bắc.
Sau đó về “tự sướng” bằng nhưng tin thức như quân Tầu dùng tầu ngầm bắn tên lửa, báo cáo về đạn tự hành diệt hạm: Nhật Tảo trúng đạn tự hành diệt hạm; không quân lớn thứ 3 thế giới của VNCH thúc thủ vì khựa bay được ra ném bom. Với số lượng các tầu nổi khá ngang nhau, tầu ngầm khựa tệ hại, thì yếu tố quyết định trận đánh chóng vánh là HQ-16 bị đồng đội loại khỏi vòng chiến. HQ-4 và HQ-5 không tấn công địch mà bắn đồng đội, loại khỏi vòng chiến 3 trong số 4 tầu.
1. Tham số và ảnh vũ khí hai bên.
Nếu như trừ đi các máy bay không hề tham chiến, chỉ tính tầu
biển. Thì VNCH đem ra 4 tầu phờ-rai-ghết Frigate Trần Bình Trọng (HQ-5),
Lý Thường Kiệt (HQ-16), and Trần Khánh Dư (HQ-4), one corvette, Nhật
Tảo (HQ-10).Trung quốc có 4 tầu rà mìn nhỏ Kronstadt, mỗi tầu dài 49 mét rộng 6 mét 271, 274, 389, 396; 2 tầu rà mìn 281, 282; (wiki gọi là tầu chống tầu ngầm, thực chất đây là các tầu rà mìn, choáng nước 390 tấn, mẫu SO-1 Liên Xô và kiểu 037 Trung Quốc).
Vũ khí của các "siêu chiến hạm" Kronstad-Class lớn nhất có 2x2=4 nòng 57mm liên thanh, phòng không, đầu đạn 2,8kg. Còn lại là 4 nòng 25mm phòng không, súng cối bắn bom chìm (BMB-2 ASW mortars), bom chìm, giàn phóng bom chìm (ASW rocket launchers), thuỷ lôi.... hoàn toàn không có tác dụng trong cuộc đấu pháo tầu - tầu.
Còn đây là vũ khí chính của VNCH, không tính cái phi đội lớn thứ 3 thế giới giương mắt lên nhìn. Cũng không tính ở đây các súng 40mm trở xuống vẫn thừa sức bắn các tầu cá Trung Quốc rất hiệu quả vì bắn liên thanh. Hay các ngư lôi.
+ RVNS Trần Bình Trọng HQ-05. Choáng nước 2.800 tấn. Pháo mũi 127mm nòng trung bình. Súng cối đa năng.Tầu có 10 nòng 40mm liên thanh phòng không, gồm 4 khẩu 2 nòng quanh đài chỉ huy và 2 khẩu hai bên sau.
+ RVNS Trần Khánh Dư HQ-04. Tầu khu trục Mỹ lớp Edsall. Choáng nước 1.590 tấn. Tầu có 3 tháp pháo, 1 nòng 76mm bắn nhanh 20 phát phút, là 3 nòng bắn nhanh điều khiển radar - máy tính, 2 nòng 40mm phòng không, 8 nòng 20mm phòng không.
+ RVNS Lý Thường Kiệt HQ-16. Như HQ-05.
+ RVNS Nhật Tảo HQ-10. Choáng nước 650 tấn, 1 pháo 76mm. 4 nòng 40mm. 6 nòng 20mm.
HQ-10 đắm, HQ-16 hỏng nặng. HQ-4 và HQ-5 hỏng nhưng vẫn chạy được, dông sang Philipines .
Tầu Khựa có 4 tầu nhỏ, mỗi tầu có 1 nòng 85mm săn tăng, 3 nòng 37mm phòng không cổ. 2 tầu to mỗi tầu 4 nòng 57mm và 4 nòng 25mm.
Số pháo chỉ so sơ sơ
• VNCH
- 2 nòng 127mm
- 4 nòng 76mm, trong đó có 3 nòng bắn nhanh ("hải pháo 76 ly tự động"), đặc biệt có ngắm bắn máy tính - radar
- 16 nòng 40mm liên thanh.
- 14 nòng 20mm liên thanh.
- Các súng nhỏ hơn không tính.
• Tầu Khựa
- 4 nòng 85mm phát một nạp đạn tay (Đ-44 bản 85mm cho hải quân).
- 8 nòng 57mm liên thanh (súng phòng không đầu đạn 2,8kg, liên thanh nhưng liên thanh ww2 bắn bằng kẹp đạn 4 viên nạp thủ công).
- 12 nòng 37mm
- 8 nòng 25mm
- Nếu chỉ tính pháo chống tầu, thì VNCH có 2 nòng 127mm và 4 nòng 76mm. Tầu Khựa có 4 nòng 85mm.
Trung Quốc năm 1974, ảnh chụp trước khi đánh nhau. Project 122bis , mã tên NATO Kronshtadt class. Choáng nước lớn nhất 340 tấn.
Project 122bis, mã tên NATO Kronshtadt class. Tầu dài toàn bộ 52,24 mét, rộng 6,55 mét. Choáng nước lớn nhất 340 tấn. Vũ khí có 1 nòng 85mm kiểu săn tăng (phiên bản dùng trên biển của D-44 WW2), 3 nòng 37mm phòng không bắn kẹp đạn cũng thế hệ WW2. Ngoài ra là những vũ khí như bom chìm hay thuỷ lôi không có tác dụng trong trận đấu pháo. Xem quân VNCH nổ tung trời đất: "Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 li và nhiều đại bác 37 li".
Vũ khí lớn nhất là 2 pháo phòng không 2 nòng 57mm thời WW2, đạn 2,8 kg (mỗi kẹp đạn - băng có 4 viên nặng 6,6kg). Phía trước mũi tầu là giàn phóng bom chìm. Tầu không có phương tiện đấu pháo tầu - diệt - tầu. Khi lâm trận, mà tầu địch còn tự vệ được, thì Type 037 chỉ có mỗi nước hạ cái nòng phòng không này xuống đấu với đạn xuyên phá diệt hạm. Loại đạn này bắn vào các tầu VNCH lúc này chỉ gãi ghẻ. Tổng cộng, loại tầu này có 4 nòng 57mm, 4 nòng 25mm, đều là súng phòng không. Ngoài sornar và rardar chống ngầm thì tầu có các giàn phóng bom chìm kiểu tên lửa, bom chìm kiểu đạn cối, thuỷ lôi... đều là các vũ khí chống ngầm, phá mìn, rải mìn....
Đây là một lớp tầu của quân VNCH. Chúng khá cổ, từ WW2 (chiến tranh thế giới thứ 2), nhưng đó là các tầu to lớn gấp 7-9 lần tầu Trung Quốc, mang pháo lớn. Vì tầu Trung Quốc không có vũ khí hiện đại đáng kể, nên các tầu này của VNCH rất uy lực. Như chúng ta đã thấy trên, Trần Quang Khải Frigate Class, có 2 Tá To Thà, chỉ huy trận đánh, đã chọn HQ-05 làm soái hạm, và từ đó bắn hỏng cái còn lại HQ-16.
Đây là lớp tầu lớn nhất của hải quân VNCH và số lượng tầu trong lớp cũng không nhỏ. Khi chuyển cho hải quân VNCH, các tầu pháo phần lớn trang bị chống ngầm, như các giàn phóng bom chìm, nhưng vẫn để lại sornar. Các tầu này phần lớn được đóng cuối WW2, phục vụ Hải Quân Mỹ năm 1944, năm 1949 chuyển vào Biên Phòng Mỹ, năm 1971 chuyển cho VNCH sau khi tháo bớt vũ khí chống ngầm không cần thiết và cũng đã quá lạc hậu.
Phờ-rai-ghết Frigate được hiểu là các tầu chiến cỡ trung bình có nhiệm vụ đối kháng tầu - diệt -tầu. Chúng nhỏ hơn các tuần dương hạm Cruiser (kiểm soát vùng đại dương), chiến đấu hạm BattleShip (đối kháng tầu-diệt-tầu với các tầu chiến mạnh nhất. Các Frigate làm nhiệm vụ ven bờ và trên các biển nhỏ như biển Đông nhà ta. Có thể hiểu, Frigate là "tiểu Cruiser", cùng nhiệm vụ nhưng nhỏ hơn tuần dương hạm. Như vậy, dùng tầu trong trận đánh này là hợp lý và nó quá mạnh so với Trung Quốc.
Các tầu này trước là lớp tầu Barnegat-class seaplane tender của Mỹ WW2, đặt hàng 41 tầu, đóng xong 35 tầu. Seaplane tender còn có tên là seaplane carrier, là một loại tầu sân bay. Chúng không có đường băng, mà chở theo các máy bay đậu nước. Nhiệm vụ của chúng là bảo vệ và cung cấp dịch vụ cho các máy bay đó, chính vì thế mà các tầu này khá lớn và rất mạnh về vũ khí.
Khi chuyển cho VNCH thì tầu đã có một số thay đỏi so với ban đầu. Ngoài cấu hình vũ khí, thì tầu choáng nước nhiều hơn chút, tăng lên 2800 tấn, gấp 8-9 lần tầu Trung Quốc tham chiến. Dài cả tầu 94,72 mét. Rộng nhất 12,52 mét. Tầu có 2 trục đẩy, máy 6.000 ngựa. Tốc độ 18. Tầm xa tối đa 6 ngàn hải lý. Vũ khí chính của tầu là pháo đa năng 127mm, vừa bắn thẳng đạn xuyên vừa câu cầu vồng bắn đạn phá, vừa đối kháng tầu - diệt - tầu, vừa bắn phá trên bờ. Trước đây tầu có tối đa 4 pháo như thế, sang Việt Nam có 1 nòng và thay bằng tháp pháo mang súng cối 81mm.
Lớp tầu này của VNCH có những tầu sau (mình chưa kiểm lại đã đủ chưa).
- RVNS Trần Quang Khải (HQ-02), USS Bering Strait (AVP-34)
- RVNS Trần Nhật Duật (HQ-03), USS Yakutat (AVP-32)
- RVNS Trần Bình Trọng (HQ-05), USS Castle Rock (AVP-35). USCGC Castle Rock (WAVP-383)
- RVNS Trần Quốc Toản (HQ-06), USS Cook Inlet (AVP-36)
- RVNS Phạm Ngũ Lão (HQ-15), USS Absecon (AVP-23)
- RVNS Lý Thường Kiệt (HQ-16). USS Chincoteague (AVP-24) 1944-1946 . 1948-1971 tầu thuộc biên phòng Mỹ ( United States Coast Guard)USCGC Chincoteague (WAVP-375).
- RVNS Ngô Quyền (HQ-17). USS Wachapreague (AGP-8)
RVNS Nhật Tảo HQ-10. USS Serene (AM-300). Admirable-class minesweeper.
Tầu rà mìn được đóng trong WW2. Sau WW2 tầu nghỉ, năm 1964 tầu được hiện đại hoá và chuyển cho VNCH, vũ khí khi chuyển cho VNCH thay đổi chút để phục vụ như tầu khu trục.
- Tầu choáng nước 650 tấn. Dài : 184 ft 6 in 56.24 m ; rộng nhất : Beam: 33 ft (10 m);
- Máy đẩy 2 × ALCO 539 diesel engines, 1.710 shp (1,3 MW). 2 trục đẩy. Tốc độ 14,8.
- Biên chế 104 người.
- Vũ khí chính: 1 pháo 76mm nòng dài. 6 pháo phòng không 20mm; 4 nòng pháo liên thanh 40mm. Tầu có trang bị vũ khí chống ngầm như giàn phóng bom chìm, ray phóng bom chìm, thuỷ lôi.
Tầu khu trục, destroyer. Ban đầu có tên là Torpedo destroyer. Đây là các tầu ban đầu dùng để chặn các tầu phóng ngư lôi Torpedo, thường là tầu nhỏ chạy nhanh. Về sau này các tầu khu trục được hiểu là các tầu đánh đuổi các mục tiêu phức tạp, không ngầm nổi.... Các tầu này đắc dụng khi đánh đuổi các tầu nhỏ, đông, chạy nhanh....
Tuy là tầu yếu nhất hạm đội, nhưng cũng to gấp đôi tầu lớn nhất bên Trung Quốc. Về bắn pháo đối kháng tầu - diệt - tầu, thì Nhật Tảo hầm hố chẳng kém gì các tầu mạnh nhất của Trung Quốc, đương nhiên là ăn gỏi lớp Project 122bis - mã tên NATO Kronshtadt class. Chỉ riêng đám pháo liên thanh 40mm của nó đã là khủng khiếp so với đám tầu rà mìn và tầu cá Trung Quốc.
Nhật Tảo đi cùng HQ-16, bị quân Tầu và cánh Nam liên quân phục kích, tầu HQ-10 bị đắm. HQ-16 bị thương, may là đạn không nổ, thuyền trưởng tỉnh táo đi về được không chìm, mới điều tra ra được là HQ-16 trúng đạn 127mm của HQ-05.
Mô hình đồ chơi một chiến hạm cùng lớp:
Pháo đối kháng tầu-tầu 127mm. Trong trận chiến, HQ-16 đi cùng HQ-10 ở cánh bắc. HQ-10 bị bắn đắm. HQ-16 bị thương vinh quang trở về. Nhưng khi mổ ra thì viên đạn là 127mm USA do Trần Bình Trọng HQ-05. Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH, người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, đích thân ngồi trên HQ-05 chỉ huy trận đánh: "May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ! Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn".
1 Pháo mũi 127mm nòng trung bình. 2 Súng cối đa năng.
Ban đầu, trong WW2 tầu được đóng với nhiệm vụ đầu tiên là khu trục - hộ tống Destroyer Escort. Sau khi chuyển cho VNCH, tầu vẫn giữ nhiệm vụ này nhưng hiện đại hoá. Choáng nước tối đa 1.590 tấn. lắp máy 6 ngàn ngựa. Tốc độ 22. Tầu dài 306 ft - 93,3 m. Tầu rộng nhất 36 ft 7 in - 11,2 m. VNCH được Mỹ chuyển giao 2 chiếc là. DE-251 USS Camp - Trần Hưng Đạo. Năm 1975 chạy sang Philippines đổi tên là Rajah Lakandula. DE-334 USS Forster Trần Khánh Dư HQ-04, bị bắt năm 1975 đổi tên là HQ-03, quân ta dùng huấn luyện.
http://www.edsallclassveterans.org/EDSALL_CLASS_SHIPS.DOC.htm
http://www.ussslater.org/history/dehistory/history_classes.html
http://uboat.net/allies/warships/class/81.html
http://destroyerhistory.org/de/edsallclass/
http://www.destroyersonline.com/usndd/classedsa.html
Tầu có 3 tháp pháo, mỗi tháp 1 nòng 76mm bắn nhanh 20 phát phút, là 3 nòng bắn nhanh 60 phát/phút ("hải pháo 76 ly tự động"), điều khiển radar - máy tính. Đây là các pháo đa năng vừa bắn thẳng đạn xuyên vừa câu cầu vồng đạn phá. Ngoài ra, tầu có 2 pháo liên thanh 40mm, 8 pháo liên thanh 20mm, 3 ống lôi 533, 8 nòng phóng tên lửa mang bom chìm chống ngầm, và 3 giàn phóng bom chìm khác.
Đáng ra chỉ 1 tầu này cũng làm gỏi quân Tầu. Lúc đó, bắn bằng máy tính - radar là cực lỳ ưu thế so với quân Tầu, càng ưu thế hơn khi tầu có tốc độ cao. Cỡ những tầu cá nhỏ mà liều thân thì pháo liên thanh 40mm làm gỏi.
Ðại Tá Hà Văn Ngạc , Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH , người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974: "Khu Trục Hạm HQ4 nằm về phía tây nam của Tuần Dương Hạm HQ5 đặt mục tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía Bắc tức là tả hạm của chiến hạm . Nhưng chẳng may , HQ4 báo cáo bị trở ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên và phải chờ sửa chữa . Việc này đã làm đảo lộn các dự tính của tôi và làm tôi bối rối . Sau vài phút thì chiến hạm này xin bắn thử và kết quả là vẫn bị trở ngại và cần tiếp tục sửa chữa thêm , nhưng tôi vẫn còn chút hy vọng . Khu Trục Hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết quả". Như vậy. HQ-05 cùng với quân Tầu Khựa tiêu diệt HQ-10. HQ-16 bị quân Tầu vây. HQ-4 trợ chiến với HQ-5 bắn đắm HQ-10 xong thì ngồi nhìn. Ðại Tá Hà Văn Ngạc chép trong hồi ký là sau đó Tầu kéo ồ ạt đến, nhưng thực chất điều đó đã được phản bác.
Trung tá Lê văn Thự: "Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy 4, 5 cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã nhảy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả".
2. Ảnh sơ đồ trận đánh:
Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH,
người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974: "vào
khoảng ngày 11/01/1974 , chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại Trưởng Hoa
Kỳ Kissinger rời Trung Cộng, thì đột nhiên Ngoại Trưởng Trung Cộng lại
một lần nữa tuyên bố về chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng và
Trường Sa."
Ban đầu, Trung Quốc chỉ có các tầu cá ra thăm dò. VNCH đổ quân
lên chiếm đảo, bị Trung Quốc chĩa AK vào tầu chiến mang pháo 127mm, thế
là VNCH chạy. Sau đó đánh ta. VNCH chia làm hai mũi. Phía Bắc là các
HQ-10 và HQ-16. Phía Nam là HQ-4 và HQ-5. Trong đó, mũi Nam là chủ lực
có tầu chiến hiện đại, pháo lớn và điều khiển radar. Thế nhưng cả cánh
Nam, VNCH và Tầu chung sức nhau tấn công tiêu diệt cánh Bắc của quân
VNCH, HQ-10 chìm, HQ-16 hỏng nặng hoàn toàn mất tác dụng. Sau đó HQ-4
và HQ-5 chạy sang Phillipines không dám về nhà. Chạy được một đoạn thì
nhà gọi bắt về không nhục quá.
3. Không quân VNCH lớn thứ 3 thế giới ngồi nhìn mất quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Lúc đó, VNCH có đội máy bay cường kích lớn thứ 3 thế giới, chỉ
sau Mỹ và Liên Xô. Các tầu chiến Trung Quốc thì như trên, chỉ toàn pháo
phòng không bắn máy bay cánh quạt WW2, ngắm bắn thủ công, tốc độ chậm.
Không hề có các thiết bị phòng không hiện đại như radar-máy tính ngắm
bắn đối không, không hề các pháo bắn nhanh thế hệ mới 23mm và 30mm (như
ZSU-23-4 của Việt Cộng hay A-213-Vympel-A, dùng AK-630 Liên Xô), càng
không hề có các đạn được lái-đạn tự hành-tên lửa có điều khiển đối không
SAM, như SAM-2 hay SAM-7 lúc đó đã là lạc hậu, mà Việt Cộng có. Thậm
chí là những súng máy của các phiên bản phòng không đó, không tính phần
điều khiển tự động, thì Trung Quốc cũng không có, như Gryazev-Shipunov
GSh-6-30 (6 nòng quay, không dùng motor như Gattling, tốc độ bắn
4000-6000), Gryazev-Shipunov GSh-23, Gryazev-Shipunov GSh-6-23 (6 nòng
tốc độ bắn 10 ngàn phát / phút), Gryazev-Shipunov GSh-301 (1 nòng,1500
phát/phút), Gryazev-Shipunov GSh-30-2 (2 nòng, 3000).Như trên, loại tháp pháo phòng không mạnh nhất của Trung Quốc là tháp pháo 2 nòng 57mm dùng trên tầu, nó đơn giản hơn nhiều tháp pháo thời WW2 của ZSU-57-2, ngắm bắn thủ công, mỗi đầu đạn nặng 2,8kg, bắn từng kẹp đạn (băng) 4 viên. Các pháo cổ này có tốc độ bắn rất chậm, tốc độ đầu đạn thấp... so với các pháo băng dây nói trên. Khi bắn các máy bay phản lực thế hệ mới thì chúng đã quá lạc hậu. Vả lại, tổng cộng thì toàn bộ hạm đội Trung Quốc chỉ có vài nòng pháo phòng không 37 và 57 cổ lỗ này là đáng kể, nên coi toàn bộ phòng không hạm đội Tầu Khựa là con số không.
Nếu như không quân VNCH xuất kích thì Trung Quốc bó tay. Chính vì thế Trung Quốc cũng không dám đánh mạnh từ đầu, mà dò ý dần, thấy VNCH quyết chí dâng đảo, thì Trung Quốc mới ra lấy.
Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH, người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974. "Vào giờ này thì tin tức từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân tại Sài Gòn do chính Tham mưu phó hành quân cho hay là một phi đội khu trục cơ F5 đã cất cánh để yểm trợ cho Hải Đoàn Đặc Nhiệm. Do sự liên lạc từ trước với Bộ Tư Lệnh SưĐoàn I Không Quân tại Ðà Nẵng , tôi hiểu là phi cơ F5 chỉ có thể yểm trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì khoảng cách từ Ðà Nẵng tới Hoàng Sa quá xa so với nhiên liệu dự trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi cơ cất cánh , Bô Tư Lệnh Hải Quân đã cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững tâm chiến đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao dượt hỗn hợp nào giữa Không Quân và Hải Quân nên tôi rất lo âu về sự nhận dạng của phi công để phân biệt giữa chiến hạm của Hải Quân Việt Nam và chiến hạm Trung Cộng , nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi cơ có thể gây tác xạ nhầm mục tiêu. Máy VRC 46 trong Trung tâm chiến báo phải chuyển sang tần số không hải và đích thân tôi dùng danh hiệu để bắt liên lạc với phi cơ. Một viên đạn xuyên nổ trúng ngay Trung tâm chiến báo từ hữu hạm , sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung tâm bị phát hoả. Các nhân viên trong trung tâm còn mải núp sau bàn hải đồ thì tôi nhanh tay với một bình cứu hoả gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngã vì vấp chân vào bàn hải đồ , bàn chân trái bị đau mất vài ngày . Tôi vẫn vẫn tiếp tục liên lạc với phi cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần số về liên lạc với các chiến hạm khác vì cuộc giao tranh đã đến độ khốc liệt hơn."(xem link)
Bản đồ khoảng cách gần nhất, xa nhất từ các căn cứ không quân chính đến các đảo chiến sự, và so sánh với tầm các máy bay ném bom VNCH.
Máy bay A-37. Đây là máy bay ban đầu được thiết kế - sản xuất để huấn luyện. Nhưng vì nó thích hợp nên sau này dùng rất nhiều vào việc cường kích. Cấu hình trọng lượng-khí động của máy bay này rất giống Su-25, nên nó rất linh hoạt khi bổ nhào, ném bom rất chính xác. Tuy nhiên, nó không được thiết kế giáp trụ và điện tử như Su-25, vì máy bay khá nhỏ so với Su-25. Sau này Việt Cộng cũng nhai lại rất nhiều A-37 vì đặc tính này, dùng cả khi đánh VNCH và đánh Campuchia.
VNCH Sài Gòn có 254 máy bay Cessna A-37 Dragonfly chủ yếu là kiểu A-37B dùng máy đẩy J-85-GE-17A. Kiểu này là máy bay lưỡng dụng, vừa huấn luyện vừa cường kích. Kiểu này cũng là kiểu chủ yếu được sản xuất. So với các kiểu A-37 khác thì kiểu này có thêm khả năng mang dầu, bay xa, tiếp dầu trên không. Sau này Việt Cộng mót rác nhai lại được 95 chú. A-37 như là máy bay sản xuất riêng cho Việt Nam, rẻ tiền và hiệu quả với địch không có, hoặc có rất yếu đối không.
Cessna A-37 Dragonfly có:
-Khối lượng rỗng 6.211 lb = 2.817 kg. Khối lượng tối đa 14.000 lb = 6.350 kg.
-Tầm bay điển hình.
-Tầm tối đa: 800 nm = 920 mi = 1.480 km;
-Bán kính chiến đấu: 400 nm = 460 mi = 740 km; con số này là mang 4.100 lb = 1.860 kg bom.
Xem ra, chỉ cần độ 10-20 con này tham chiến thì các bác VNCH đỡ chút vì nhổ được cái gai Hoàng Sa.
VNCH được các đồng minh cấp 158 máy bay F-5A Freedom Fighters, 10 RF-5A 8 F-5B huấn luyện, USA cung thêm bản mới nhất của dòng F-5 là F-5E Tiger II. Theo các bác VNCH già thì máy bay ấy tốt lắm nên Việt Cộng sau 1975 có những 40 cái nâng như nâng trứng, còn đem dâng lên Liên Xô nữa.
F-5 là các máy bay phản lực hiện đại, tốc độ khoảng 2 lần âm thanh, cân nặng cỡ MiG-21. So với MiG-21, thì MiG ưu thế ở độ cao trên 6km, khi đó MiG có lực đẩy vượt trội cho không chiến. Nhưng MiG-21 yếu hơn F-5 xa ở khả năng ném bom, độ cao thấp, không khí đặc, tốc độ chậm, mang nặng... F-5 ném bom bổ nhào tốt, bổ nào chính xác, dễ bám sát mặt đất né đạn.
- Khối lượng rỗng: 9.558 lb =4.349 kg
- Khối lượng cất cánh điển hình: 15.745 lb =7.157 kg
- Khối lượng cất cánh tối đa: 24.722 lb =11.214 kg
- Tầm thông thường: 760 nmi = 870 mi = 1,405 km
- Tầm tối đa: 2.010 nmi = 2.310 mi = 3.700 km
Cụ thể
Đời đầu F-5A Freedom Figher
- Tầm tối đa 1387 miles = 2232 km.
- Bán kính chiến đấu với vũ khí tối đa: 195 miles = 313 km
- Bán kính chiến đấu với 2 bom 530-pound: 558 miles = 898.
Đời sau F-5E Tiger II
- Tầm bay tối đa : 1543 miles = 2483 km
- Bán kính chiến đấu với 2 đạn AAM không chiến: 656 miles = 1055.
Xem ra, vùng xa nhất của chiến sự 1974 chỉ bằng nửa tầm của các máy bay F-5, cả tầm ném bom lẫn tầm không chiến.
Căn cứ không quân lớn nhất là Đà Nẵng và hàng loạt căn cứ Miền trung. Vị trí gần trận đánh nhất là Quảng Ngãi , trận đánh xảy ra giới hạn tại khu vực Đá Bông bay, quân Tầu đã chọn vị trí này và không thể đi thêm vì lo chính cái máy bay VNCH, họ sẵn sàng nướng các tầu tiền tiêu này nếu VNCH xuất quân, thành thế giằng co mỗi bên giữ một nửa hoặc bỏ mồi quay về, còn nếu VNCH không xuất quân thì họ lấy trọn quần đảo như đã xảy ra.
Khoảng cách từ Cù Lao Ré là 121 hải lý.
Năm 1974, ngoài F5 chủ lực (tầm bay tối đa 1400/3700 km), VNCH còn có Cessna T-37 Tweet (1500km), và có thể có B57. Trong đó, phòng không của Trung Quốc gần như là con số không, với các súng phòng không từ thời Đại Chiến Thế Giới Lần Thứ Hai.
Tầu Trung Quốc không dám vào phía Tây và Nam, càng vào gần, khả năng chiến đấu của 300-400 F-5, A-37 càng tăng lên. Nếu như VNCH muốn giữ, họ không tốn nhiều công để chí ít chia đôi quần đảo chờ cãi cọ, hoàn toàn có sức làm hạm quân Tầu phải bỏ cuộc giữ được toàn vẹn quần đảo.
Nhưng chỉ sau loạt đạn chóng vánh, tầu VNCH bỏ cả đồng đội chạy té về Đông Nam rồi vòng về bờ. Thậm chí là các tầu VNCH còn không dám chạy vào bờ ngay, định sang Philipine, sau thấy yên yên mới dàm mò về phía Tây.
Khoảng cách từ căn cứ Chu-lai ra quần đảo và vùng chiến sự nằm trong tầm tác chiến của A-37 và F-5
Xem ra quân đội VNCH chê thịt quân Tàu, chỉ thích thịt đồng bào, máu đỏ da vàng của mình thôi.
4. Phi công Nguyễn Thành Trung nói về kế
hoạch dùng máy bay phản công. "Đã quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận,
còn điều gì ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?" (xem link)
Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng
Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa,
phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên
đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng
quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa
về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng
sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là
sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì Hoàng Sa”.
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không.
Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích.Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác.
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!
Tham khảo link tổng hợp
Nguồn http://my.opera.com/thanhniendatviet/blog/show.dml/62466952
Những bài về Trường Sa & Hoàng Sa đăng trong sachhiem.net --- >
http://sachhiem.net/LICHSU/H/HoangSa_list.phpCIA theo dõi sát trận Hoàng Sa 1974
Cập nhật: 10:30 GMT - thứ hai, 30 tháng 12, 2013
Bốn mươi năm trước,
Trung Quốc tấn công Hoàng Sa, đánh bật lực lượng hải quân Việt Nam Cộng
Hòa đồn trú tại đó và chiếm đóng quần đảo này từ đó.
Trận hải chiến kéo dài chưa tới hai ngày dẫn đến việc Trung Quốc chiếm trọn quyền kiểm soát quần đảo này.Không phải tới năm 1973 Mỹ mới theo dõi tình hình Hoàng Sa.
Hầu hết những động thái trước đó của Trung Quốc liên quan đến quần đảo này đều được CIA ghi nhận, kể cả lời tuyên bố đường lưỡi bò 12 hải lý năm 1958.
Những thông tin này được tóm tắt trong bản Central Intelligence Bulletin (“CIB”), một bản tin tình báo hàng ngày của CIA nộp cho Tổng thống và các viên chức cao cấp.
Gia tăng hoạt động
Ngày 16 tháng 6 năm 1971, một bản CIB báo tin Bắc Kinh gia tăng hoạt động trong vùng quần đảo Hoàng Sa:“Những đoàn công voa hải quân từ Yu-lin (Du Lâm) trên đảo Hải Nam hiện tới Hoàng Sa thường xuyên, nhất là Woody Island (đảo Phú Lâm), một trong những đảo lớn nhất trong nhóm. Bảo vệ đoàn tàu chủ yếu là tàu khu trục, là tàu chiến lớn nhất trong hạm đội Nam Hải của Trung Quốc.”
Bản CIB này cho biết Trung Quốc “đang xây một bến đậu, vét một con kênh, xây một cây cầu, và dựng nhiều tòa nhà mới trên đảo.”
Hồ sơ CIA cũng nhận xét rằng Trung Quốc từ nhiều năm đã giữ một đài truyền thông và quan sát trên đảo Phú Lâm và ngư dân Trung Quốc dùng Hoàng Sa làm nơi trú ẩn và lấy tổ yến.
Tới tháng 1/1974, giao tranh xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam Cộng Hòa tại Hoàng Sa.
Bản tin CIB đề ngày 18/1 (giờ Washington, tức 17/1 giờ Việt Nam) báo động là “Trung Quốc và Nam Việt Nam có thể đã giao tranh hôm 16/1 vì Trung Quốc chiếm đảo Robert Island (đảo Hữu Nhật).
Sài Gòn (ý nói CIA tại Sài Gòn) báo cáo là binh sĩ Nam Việt Nam bắn vào phía Trung Quốc khi những người này dựng lều và cắm cờ trên đảo. Phía Nam Việt Nam cũng cho rằng quân Trung Quốc đã đổ bộ xuống hai đảo nữa trong nhóm đảo Lưỡi Liềm (còn gọi là Nguyệt Thiềm).”
Bản tin CIB nhận xét rằng trước trận giao tranh này, vụ đụng độ duy nhất trước đó là năm 1959 khi phía VNCH bắt một số ngư dân Trung Quốc trong nhóm đảo Lưỡi Liềm và vài ngày sau thả họ ra.
Đến hôm sau, bản tin CIB ngày 19/1 báo tin “lực lượng Trung Quốc và Nam Việt Nam giao tranh trên một hòn đảo của Hoàng Sa, đươc cho biết là Duncan Island (đảo Quang Hòa). Bản tin này, với nhiều đoạn còn chưa được bạch hóa, đưa tin rằng có 74 thủy quân lục chiến Việt Nam đổ bộ lên đảo và “bị khoảng hai đại đội Trung Quốc bao vây.”
“Phía Nam Việt Nam báo tin có 3 thủy quân lục chiến bị giết và 2 bị thương, và hiện đã rút lực lượng ra khỏi đảo.”
Bản tin ngày 21/1, tóm tắt trận hải chiến, ghi nhận “quân đội Trung Quốc và Nam Việt Nam giao tranh hôm qua (tính ra là ngày 19/1) trong ngày thứ nhì, với phía Trung Quốc chiếm trọn phần kiểm soát quần đảo Hoàng Sa.”
Bản tin này, đi kèm một trang bản đồ Hoàng Sa, trích lời “phát ngôn viên Nam Việt Nam” cho biết:
"Một bức điện tín khác đề ngày 21/1 cho rằng Bắc Việt Nam 'lúng túng' trước trận chiến Hoàng Sa"
Một số tài liệu khác cho thấy viên sĩ quan này khi đó đã giải ngũ, và trở thành một nhân viên dân sự của DAO tên là Gerald Kosh, sau đó có viết báo cáo chi tiết về trận chiến nộp cho Bộ binh Hoa Kỳ.
“Cho tới gần đây,” bản tin viết tiếp, “phía Nam Việt Nam chỉ duy trì sự hiện diện trên đảo Hoàng Sa. Sự xuất hiện của binh sĩ Sài Gòn trên các đảo lân cận có thể đã kích thích cho hoạt động quân sự của Bắc Kinh.”
Tới ngày 29/1, bản tin CIB cho biết Trung Quốc bắt đầu trả tù binh, khởi đầu với Gerald Kosh và năm quân nhân VNCH bị thương, sẽ được chuyển cho Hồng thập tự tại biên giới Hong Kong ngày 31/1.
CIA cũng quan tâm đến một chi tiết do một sĩ quan Việt Nam nói với phóng viên Washington Post, cho rằng vài ngày trước trận hải chiến, VNCH quan sát tàu chiến Liên Xô đi qua vùng biển này.
Bài báo này khiến CIA phải kiểm chứng lại, và trả lời trong một bức điện gửi từ trung tâm điều hành Operation Center của CIA đến phòng Situation Room của Nhà Trắng.
Bức điện tín đề ngày 23/1 bác bỏ chi tiết này và viết, “Không một chiếc tàu chiến Xô-viết nào đến gần quần đảo Hoàng Sa từ sau tháng 11 năm ngoái, dù có một tàu tuần dương, một tàu khu trục, và ba tàu ngầm đi băng qua biển Nam Hải (biển Đông) trên đường đến Ấn Độ Dương.
Liên Xô lo Trung Quốc
Hải quân Xô-viết tỏ ra đặc biệt không quan tâm đến vụ Hoàng Sa: Tàu Xô Viết neo ở biển Nam Hải để thu thập tình báo vẫn theo dõi căn cứ hải quân Hoa Kỳ ở Subic Bay, Philippines, thay vì sự việc ở Hoàng Sa.”Bức điện tín trích báo chí Pháp cho hay “nguồn tin được phép nói” (authorized sources) của Hà Nội phát biểu rằng giữ gìn chủ quyền lãnh thổ là một “nghĩa vụ thiêng liêng” của mọi quốc gia, nhưng ngược lại cũng cho rằng “những tranh chấp nhiều khi phức tạp đối với lãnh thổ và ranh giới giữa hai nước láng giềng cần được xem xét kỹ lưỡng và thận trọng.”
Liên Xô, ngược lại, không ngại ngần dùng trận chiến này để bêu xấu Trung Quốc.
Bản tin CIB ngày 21/3/1974 cho rằng: “Bộ máy tuyên truyền của Moscow đã dùng sự kiện Hoàng Sa và việc Trung Quốc ủng hộ phiến quân ở Miến Điện để lợi dụng sự nghi ngại truyền thống của Nam và Đông Nam Á đối với Trung Quốc.”
Bản tin này cũng cho rằng “Moscow có thể cũng lo ngại rằng việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa là bằng chứng của một sự hiểu ngầm giữa Bắc Kinh và Washington về khu vực.”
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà báo Vũ Quý Hạo Nhiên ở California, Hoa Kỳ. BBC sẽ tiếp tục đăng tải các bài về chủ đề hải chiến Trường Sa và tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Xem thêm: 'Bấm Thái độ của Mỹ sau trận Hoàng Sa 1974', và 'Bấm Hà Nội im lặng nhưng không đồng tình'
Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/12/131230_cia_hoang_sa_1974.shtml
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2013/12/cia-theo-doi-sat-tran-hoang-sa-1974.html?spref=fb
Trích: HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974
Phỏng vấn cựu Thiếu tá Không quân QLVNCH HỒ KIM GIÀU - quyền Phi đoàn Trưởng Phi đoàn Nghênh cản 538 Sư đoàn 1 KQ
(Trích: HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974* do Ủy Ban Nghiên Cứu Trận Hải Chiến Hoàng Sa – UBHS- soạn thảo, ấn hành tháng Mười năm 2010 )
Thiếu Tá HỒ KIM GIÀU gia nhập Không Quân Việt Nam Cộng Hòa năm 1961, và du học Hoa Kỳ đầu năm 1962, tốt nghiệp Trường Huấn luyện Phi công Hải Quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida, tháng 3 năm 1964. Khi trận hải chiến Hoàng Sa xảy ra giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Quốc ngày 19 tháng 1 năm 1974, ông đang đảm nhận chức vụ quyền Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn Nghênh Cản 538 tại Ðà Nẵng. Cuộc phỏng vấn được thực hiện qua điện thoại lúc 9:30 AM ngày 21 tháng 4 năm 2010, và được bổ túc thêm trong cuộc trao đổi điện thoại lúc 11AM ngày 27 tháng 4 năm 2010.
1. UBHS:
Xin Thiếu Tá cho biết chức vụ và trách nhiệm của mình vào thời điểm xảy ra trận Hải Chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974?
Th/T Giàu:
Tháng 6 năm 1973, tôi được đề cử đi học một khóa tu nghiệp về F-5E tại Arizona và sau đó được chuyển qua học tại Trường Không Chiến ở căn cứ Không Quân Hoa Kỳ Nellis, Las Vegas. Sau khi tốt nghiệp trở về nước ngày 23 tháng 12 năm 1973, tôi được BTL/KQVNCH chỉ định làm quyền Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn Nghênh Cản 538 tại Ðà Nẵng. Từ Sài Gòn, tôi bay ra Đà Nẵng nhận nhiệm vụ ngay ngày 24 tháng 12 năm 1973. Trận Hải Chiến Hoàng Sa xảy ra giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Quốc ngày 19 tháng 1 năm 1974 trong lúc tôi đang chỉ huy Phi Ðoàn này. Nhiệm vụ của Phi đoàn là bảo vệ không phận VNCH, ngăn chận phi cơ Bắc Việt từ bên kia vĩ tuyến 17 tấn công lãnh thổ Vùng I Chiến Thuật.
2. UBHS:
Xin Thiếu Tá nói rõ thêm về Phi Ðoàn 538.
Th/T Giàu:
Phi Ðoàn Nghênh Cản 538 được thành lập năm 1972, mang tên "Hồng Tiễn", trực thuộc Không Đoàn 61 Sư Đoàn 1 Không Quân Đà Năng. Phi Đoàn được trang bị phi cơ F-5E là loại phi cơ phản lực tối tân nhất của Không Quân VNCH. Theo bảng cấp số, phi đoàn được trang bị 24 phi cơ F-5E và 36 phi công; nhưng vào thời điểm lúc xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa, phi đoàn 538 chỉ có khoảng gần 20 phi công và 17 phi cơ, gồm 1 chiếc F-5B dùng để huấn luyện, 4 chiếc F-5A, và 12 chiếc F-5E. Công tác thường nhật của chúng tôi là trực không chiến, các phi công phải ăn, ngủ ngay bên cạnh phi cơ; khi có lệnh, chúng tôi phải cất cánh ngay, trong vòng chỉ từ 1 phút 30 giây đến 2 phút 30 giây. Mỗi ngày có 2 phi tuần ứng trực nghênh cản, mỗi phi tuần 2 chiếc máy bay. Những phi công không ứng trực thì phải thao dợt không chiến và huấn luyện duy trì khả năng.
3. UBHS:
Trước khi trận Hải Chiến giữa HQ/VNCH và HQ/TQ xảy ra, BTL/HQ/V1DH có triệu tập một buổi họp để thảo luận kế hoạch bảo vệ Hoàng Sa. Buổi họp do Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại, là Tư Lệnh BTL/HQ/V1DH chủ tọa, về phía Không Quân có Chuẩn Tướng Nguyễn Ðức Khánh là Tư lệnh SÐ1KQ tham dự. Thiếu tá có biết việc này không? và Thiếu Tá có nhận được lệnh gì liên quan đến buổi họp này không?
Th/T Giàu:
Tôi không biết có buổi họp này. Sáng ngày hôm 19 tháng 1 năm 1974, là lúc xảy ra trận Hải Chiến Hoàng Sa, chúng tôi cũng không nhận được lệnh gì cả. Phi đoàn chúng tôi vẫn làm nhiệm vụ thường lệ là trực không chiến, bảo vệ không phận VNCH, ngăn chận phi cơ Bắc Việt từ bên kia vĩ tuyến 17 xâm nhập vào các thành phố phía Bắc Vùng I Chiến Thuật.
4. UBHS:
Xin Thiếu Tá cho biết diễn tiến sau đó như thế nào?
Th/T Giàu:
Khoảng 12 giờ trưa ngày 19 tháng 1 năm 1974, tôi được Tư Lệnh SÐ1KQ là Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh kêu lên gặp ông tại văn phòng. Ông cho biết trận chiến Hoàng Sa đã diễn ra, hai bên đều bị thiệt hại; một chiến hạm của Hải Quân, HQ10 bị chìm. KQ/VNCH nhận được lệnh từ Phủ Tổng Thống qua BTL/QÐ1-QK1, thiết lập mốt kế hoạch hành quân tấn công bằng bom chiến hạm TQ tại Hoàng Sa. Chuẩn Tướng Khánh ra lệnh cho tôi chuẩn bị ngay một lệnh hành quân, xử dụng các phản lực cơ F-5E tấn công các chiến hạm TQ tại Hoàng Sa trong thời gian sớm nhất. Trở về phi đoàn, tôi tức tốc chuẩn bị kế hoạch hành quân. Đến sáng sớm hôm sau, tức là sáng ngày 20 tháng 1, 1974, kế hoạch tấn công ném bom chiến hạm TQ ở Hoàng Sa đã hoàn tất với các chuẩn bị như sau:
- Lực lượng tấn công gồm:
- 2 phi tuần ném bom đi đầu, mỗi phi tuần có 3 phi cơ F-5E. Mỗi phi cơ mang thêm 2 bình xăng phụ dưới cánh, 1 bình xăng phụ dưới bụng, và 2 trái bom MK 82, mỗi trái nặng 500 pounds. Hai phi tuần này có nhiệm vụ tấn công bất cứ chiến hạm nào của TQ có mặt tại Hoàng Sa. Ngoài bom, các phi cơ này còn trang bị 2 hỏa tiễn không-không AIM-9J và đại bác 20 ly M39.
- 2 phi tuần hộ tống cho hai phi tuần ném bom, mỗi phi tuần có 2 chiếc, mỗi phi cơ mang 3 bình xăng phụ như trên. Khi lâm chiến với phi cơ địch thì các bình săng phụ được ném bỏ để dễ bề xoay trở.
- Chiến thuật:
- Các phi tuần mang bom cất cánh trước và bay lên đến 20,000 bộ, bình phi và bay thẳng ra Hoàng Sa. Chọn cao độ 20,000 bộ vì vừa tiết kiệm được săng và thuận lợi cho việc tấn công tàu địch. Các phi tuần hộ tống cất cánh liền sau đó.
- Nhiệm vụ 2 phi tuần ném bom là khi đến mục tiêu, mỗi phi cơ chỉ thả 1 "pass" và giải tỏa về hướng Chu Lai – Phù Cát. Hướng này thuận lợi vì xa Hải Nam, căn cứ nhà của máy bay TQ, nếu chúng truy kích ta thì sẽ không đủ săng quay về.
- Nhiệm vụ của 2 phi tuần hộ tống và nghênh cản là bay sau và bay cao hơn. khoảng 3000 bộ để quan sát vòm trời, tìm địch và đánh cản để bảo vệ các phi tuần ném bom.
- Lực lượng yểm trợ:
- Về kỹ thuật, Không Đoàn 10 Kỹ Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa phối hợp cùng Không Đoàn Kỹ Thuật Tân Sơn Nhất đã chuyên chở ra Đà Nẵng ngay trong đêm 19/1 các vật dụng và vũ khí cần thiết tăng cường thêm cho cuộc hành quân để dự phòng cuộc chiến kéo dài.
- Trung Tâm Kiểm Soát Không Lưu Panama theo dõi để phát hiện các phi cơ địch.
- Tôi cũng đề nghị tăng cường:
1. 2 trực thăng để cấp cứu khi cần.
2. 1 máy bay vận tải C-130 bay ở độ cao 20,000 bộ trên không phận Chu Lai để làm trạm chuyển tiếp truyền tin.
3. Sử dụng mạng lưới phòng không diện địa của Quân Ðoàn I để yểm trợ trường hợp có phi cơ địch truy kích vào nội địa.
4. o1 chiến hạm Hải Quân VNCH để yểm trợ trên biển khi cần.
Về chỉ huy, tôi sẽ bay dẫn đầu phi tuần ném bom và chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân này. Rất tiếc, vì đã qúa lâu nên tôi không thể nhớ hết tên các phi công của từng phi tuần tham dự cuộc hành quân này.
5. UBHS:
Xin Thiếu Tá cho biết điều gì xẩy ra sau đó?
Th/T Giàu:
Khoảng 6 giờ sáng ngày 20 tháng 1, 1974, tôi trình kế hoạch hành quân vừa hoàn tất lên Chuẩn Tướng Khánh, và cho biết mọi thứ đã sẵn sàng. Chúng tôi được lệnh chờ. Trong thời gian chờ đợi, tôi và anh em phi công rất nóng lòng. Tôi nhớ đã 3 lần điện thoại hỏi Tướng Khánh nhưng đều được trả lời tiếp tục chờ. Trong lúc chờ đợi, chúng tôi có tham dự 2 buổi thuyết trình quân báo để biết diễn biến tình hình. Nguyên ngày 20 tháng 1, chúng tôi chờ đợi vẫn không có lệnh xuất quân. Mãi đến gần trưa hôm sau, tức ngày 21 tháng 1, 1974, tôi được Tướng Khánh thông báo, và tôi còn nhớ rất rõ nguyên văn câu nói của Tướng Khánh, là "Phủ Đầu Rồng ra lệnh hủy bỏ cuộc hành quân Hoàng Sa".
6. UBHS:
Nếu lệnh hành quân tấn công chiến hạm TQ của KQ/VNCH không bị hủy bỏ, với kinh nghiệm tác chiến và kiến thức chuyên môn, Thiếu Tá có thể phỏng đoán được kết quả cuộc hành quân này sẽ như thế nào?
Th/T Giàu:
Khó có thể đánh giá kết quả của một cuộc hành quân khi mà cuộc hành quân đó không xảy ra, và lại là một cuộc không chiến đầu tiên của anh em phi công KQ/VNCH. Tuy nhiên, trong tình huống lúc bấy giờ, tôi nghĩ chúng ta có một số yếu tố thuận lợi. Một là tinh thần các phi công rất cao, rất hăng hái vì đây là hành động bảo vệ đất nước chống xâm lăng, lại thêm tâm lý nóng lòng trả thù cho đồng đội vì nghe tin một chiến hạm HQVN bị chìm. Hai là chúng ta đã chuẩn bị kỹ lưỡng, và trận chiến diễn ra trên đất nhà. Mặc dù F-5E có một vài bất lợi so với MIG-21 như tốc độ hơi chậm hơn và xoay trở tương đối khó khăn hơn ở độ cao trên 20,000 bộ, nhưng điều đó không phải là yếu tố quyết định sự thắng lợi khi giao chiến trên không. Các phi công TQ cũng như phi công VNCH đều chưa từng có kinh nghiệm không chiến, nhưng chúng ta có điểm lợi hơn là đã được huấn luyện kỹ thuật chiến đấu trên không của các phi công đày kinh nghiệm của Không Quân Hoa Kỳ. Thêm nữa, về vũ khí, chúng ta có hỏa tiễn không-không AIM-9J tối tân hơn (1)!
Điểm quan trọng nhất mà tôi muốn nhấn mạnh là tinh thần hăng say của anh em phi công F5E lúc bấy giờ. Cho đến nay, khi tôi tham khảo với một số anh em phi công tham dự cuộc chuẩn bị hành quân hiện đang tỵ nạn tại Hoa Kỳ, tất cả đều lấy làm tiếc rằng đã không có cơ hội để đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Hoàng Sa. Nhân đây tôi xin cám ơn Đại Úy Nguyễn Văn Vạn và Trung Úy Lưu Chinh đã nhắc tôi một số chi tiết về cuộc hành quân này mà vì thời gian qúa lâu nên tôi không còn nhớ đày đủ.
7. UBHS:
Xin Thiếu Tá cho biết, trong suốt thời gian diễn ra các sự kiện trên, tức là từ trưa 19 tháng 1 khi Thiếu Tá nhận được lệnh chuẩn bị cuộc hành quân, đến trưa 21 tháng 1, khi có lệnh hủy bỏ, Thiếu Tá có nhận được tin tức hay sự giúp đỡ gì từ phía Hoa Kỳ không?
Th/T Giàu:
Hoàn toàn không! Tôi chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư Lịnh Sư Đoàn 1 Không Quân Đà Nẵng. Cần biết là từ sau khi có Hiệp Định Paris đầu năm 1973, các đơn vị quân đội đều không còn cố vấn Hoa Kỳ nữa./.
* HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974 do Ủy Ban Nghiên Cứu Trận Hải Chiến Hoàng Sa soạn thảo, ấn hành tháng Mười năm 2010. Liên lạc: Ủy Ban Hoàng Sa, PO Box 6005, Torrance, CA 90504, USA.
*Xem thêm - đối chứng: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140109/hai-chien-hoang-sa-40-nam-nhin-lai-ky-6-khong-quan-viet-nam-cong-hoa-len-ke-hoach-gianh-lai-hoang-sa.aspx
(Trích: HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974* do Ủy Ban Nghiên Cứu Trận Hải Chiến Hoàng Sa – UBHS- soạn thảo, ấn hành tháng Mười năm 2010 )
Thiếu Tá HỒ KIM GIÀU gia nhập Không Quân Việt Nam Cộng Hòa năm 1961, và du học Hoa Kỳ đầu năm 1962, tốt nghiệp Trường Huấn luyện Phi công Hải Quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida, tháng 3 năm 1964. Khi trận hải chiến Hoàng Sa xảy ra giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Quốc ngày 19 tháng 1 năm 1974, ông đang đảm nhận chức vụ quyền Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn Nghênh Cản 538 tại Ðà Nẵng. Cuộc phỏng vấn được thực hiện qua điện thoại lúc 9:30 AM ngày 21 tháng 4 năm 2010, và được bổ túc thêm trong cuộc trao đổi điện thoại lúc 11AM ngày 27 tháng 4 năm 2010.
1. UBHS:
Xin Thiếu Tá cho biết chức vụ và trách nhiệm của mình vào thời điểm xảy ra trận Hải Chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974?
Th/T Giàu:
Tháng 6 năm 1973, tôi được đề cử đi học một khóa tu nghiệp về F-5E tại Arizona và sau đó được chuyển qua học tại Trường Không Chiến ở căn cứ Không Quân Hoa Kỳ Nellis, Las Vegas. Sau khi tốt nghiệp trở về nước ngày 23 tháng 12 năm 1973, tôi được BTL/KQVNCH chỉ định làm quyền Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn Nghênh Cản 538 tại Ðà Nẵng. Từ Sài Gòn, tôi bay ra Đà Nẵng nhận nhiệm vụ ngay ngày 24 tháng 12 năm 1973. Trận Hải Chiến Hoàng Sa xảy ra giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải Quân Trung Quốc ngày 19 tháng 1 năm 1974 trong lúc tôi đang chỉ huy Phi Ðoàn này. Nhiệm vụ của Phi đoàn là bảo vệ không phận VNCH, ngăn chận phi cơ Bắc Việt từ bên kia vĩ tuyến 17 tấn công lãnh thổ Vùng I Chiến Thuật.
2. UBHS:
Xin Thiếu Tá nói rõ thêm về Phi Ðoàn 538.
Th/T Giàu:
Phi Ðoàn Nghênh Cản 538 được thành lập năm 1972, mang tên "Hồng Tiễn", trực thuộc Không Đoàn 61 Sư Đoàn 1 Không Quân Đà Năng. Phi Đoàn được trang bị phi cơ F-5E là loại phi cơ phản lực tối tân nhất của Không Quân VNCH. Theo bảng cấp số, phi đoàn được trang bị 24 phi cơ F-5E và 36 phi công; nhưng vào thời điểm lúc xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa, phi đoàn 538 chỉ có khoảng gần 20 phi công và 17 phi cơ, gồm 1 chiếc F-5B dùng để huấn luyện, 4 chiếc F-5A, và 12 chiếc F-5E. Công tác thường nhật của chúng tôi là trực không chiến, các phi công phải ăn, ngủ ngay bên cạnh phi cơ; khi có lệnh, chúng tôi phải cất cánh ngay, trong vòng chỉ từ 1 phút 30 giây đến 2 phút 30 giây. Mỗi ngày có 2 phi tuần ứng trực nghênh cản, mỗi phi tuần 2 chiếc máy bay. Những phi công không ứng trực thì phải thao dợt không chiến và huấn luyện duy trì khả năng.
3. UBHS:
Trước khi trận Hải Chiến giữa HQ/VNCH và HQ/TQ xảy ra, BTL/HQ/V1DH có triệu tập một buổi họp để thảo luận kế hoạch bảo vệ Hoàng Sa. Buổi họp do Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại, là Tư Lệnh BTL/HQ/V1DH chủ tọa, về phía Không Quân có Chuẩn Tướng Nguyễn Ðức Khánh là Tư lệnh SÐ1KQ tham dự. Thiếu tá có biết việc này không? và Thiếu Tá có nhận được lệnh gì liên quan đến buổi họp này không?
Th/T Giàu:
Tôi không biết có buổi họp này. Sáng ngày hôm 19 tháng 1 năm 1974, là lúc xảy ra trận Hải Chiến Hoàng Sa, chúng tôi cũng không nhận được lệnh gì cả. Phi đoàn chúng tôi vẫn làm nhiệm vụ thường lệ là trực không chiến, bảo vệ không phận VNCH, ngăn chận phi cơ Bắc Việt từ bên kia vĩ tuyến 17 xâm nhập vào các thành phố phía Bắc Vùng I Chiến Thuật.
4. UBHS:
Xin Thiếu Tá cho biết diễn tiến sau đó như thế nào?
Th/T Giàu:
Khoảng 12 giờ trưa ngày 19 tháng 1 năm 1974, tôi được Tư Lệnh SÐ1KQ là Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh kêu lên gặp ông tại văn phòng. Ông cho biết trận chiến Hoàng Sa đã diễn ra, hai bên đều bị thiệt hại; một chiến hạm của Hải Quân, HQ10 bị chìm. KQ/VNCH nhận được lệnh từ Phủ Tổng Thống qua BTL/QÐ1-QK1, thiết lập mốt kế hoạch hành quân tấn công bằng bom chiến hạm TQ tại Hoàng Sa. Chuẩn Tướng Khánh ra lệnh cho tôi chuẩn bị ngay một lệnh hành quân, xử dụng các phản lực cơ F-5E tấn công các chiến hạm TQ tại Hoàng Sa trong thời gian sớm nhất. Trở về phi đoàn, tôi tức tốc chuẩn bị kế hoạch hành quân. Đến sáng sớm hôm sau, tức là sáng ngày 20 tháng 1, 1974, kế hoạch tấn công ném bom chiến hạm TQ ở Hoàng Sa đã hoàn tất với các chuẩn bị như sau:
- Lực lượng tấn công gồm:
- 2 phi tuần ném bom đi đầu, mỗi phi tuần có 3 phi cơ F-5E. Mỗi phi cơ mang thêm 2 bình xăng phụ dưới cánh, 1 bình xăng phụ dưới bụng, và 2 trái bom MK 82, mỗi trái nặng 500 pounds. Hai phi tuần này có nhiệm vụ tấn công bất cứ chiến hạm nào của TQ có mặt tại Hoàng Sa. Ngoài bom, các phi cơ này còn trang bị 2 hỏa tiễn không-không AIM-9J và đại bác 20 ly M39.
- 2 phi tuần hộ tống cho hai phi tuần ném bom, mỗi phi tuần có 2 chiếc, mỗi phi cơ mang 3 bình xăng phụ như trên. Khi lâm chiến với phi cơ địch thì các bình săng phụ được ném bỏ để dễ bề xoay trở.
- Chiến thuật:
- Các phi tuần mang bom cất cánh trước và bay lên đến 20,000 bộ, bình phi và bay thẳng ra Hoàng Sa. Chọn cao độ 20,000 bộ vì vừa tiết kiệm được săng và thuận lợi cho việc tấn công tàu địch. Các phi tuần hộ tống cất cánh liền sau đó.
- Nhiệm vụ 2 phi tuần ném bom là khi đến mục tiêu, mỗi phi cơ chỉ thả 1 "pass" và giải tỏa về hướng Chu Lai – Phù Cát. Hướng này thuận lợi vì xa Hải Nam, căn cứ nhà của máy bay TQ, nếu chúng truy kích ta thì sẽ không đủ săng quay về.
- Nhiệm vụ của 2 phi tuần hộ tống và nghênh cản là bay sau và bay cao hơn. khoảng 3000 bộ để quan sát vòm trời, tìm địch và đánh cản để bảo vệ các phi tuần ném bom.
- Lực lượng yểm trợ:
- Về kỹ thuật, Không Đoàn 10 Kỹ Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa phối hợp cùng Không Đoàn Kỹ Thuật Tân Sơn Nhất đã chuyên chở ra Đà Nẵng ngay trong đêm 19/1 các vật dụng và vũ khí cần thiết tăng cường thêm cho cuộc hành quân để dự phòng cuộc chiến kéo dài.
- Trung Tâm Kiểm Soát Không Lưu Panama theo dõi để phát hiện các phi cơ địch.
- Tôi cũng đề nghị tăng cường:
1. 2 trực thăng để cấp cứu khi cần.
2. 1 máy bay vận tải C-130 bay ở độ cao 20,000 bộ trên không phận Chu Lai để làm trạm chuyển tiếp truyền tin.
3. Sử dụng mạng lưới phòng không diện địa của Quân Ðoàn I để yểm trợ trường hợp có phi cơ địch truy kích vào nội địa.
4. o1 chiến hạm Hải Quân VNCH để yểm trợ trên biển khi cần.
Về chỉ huy, tôi sẽ bay dẫn đầu phi tuần ném bom và chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân này. Rất tiếc, vì đã qúa lâu nên tôi không thể nhớ hết tên các phi công của từng phi tuần tham dự cuộc hành quân này.
5. UBHS:
Xin Thiếu Tá cho biết điều gì xẩy ra sau đó?
Th/T Giàu:
Khoảng 6 giờ sáng ngày 20 tháng 1, 1974, tôi trình kế hoạch hành quân vừa hoàn tất lên Chuẩn Tướng Khánh, và cho biết mọi thứ đã sẵn sàng. Chúng tôi được lệnh chờ. Trong thời gian chờ đợi, tôi và anh em phi công rất nóng lòng. Tôi nhớ đã 3 lần điện thoại hỏi Tướng Khánh nhưng đều được trả lời tiếp tục chờ. Trong lúc chờ đợi, chúng tôi có tham dự 2 buổi thuyết trình quân báo để biết diễn biến tình hình. Nguyên ngày 20 tháng 1, chúng tôi chờ đợi vẫn không có lệnh xuất quân. Mãi đến gần trưa hôm sau, tức ngày 21 tháng 1, 1974, tôi được Tướng Khánh thông báo, và tôi còn nhớ rất rõ nguyên văn câu nói của Tướng Khánh, là "Phủ Đầu Rồng ra lệnh hủy bỏ cuộc hành quân Hoàng Sa".
6. UBHS:
Nếu lệnh hành quân tấn công chiến hạm TQ của KQ/VNCH không bị hủy bỏ, với kinh nghiệm tác chiến và kiến thức chuyên môn, Thiếu Tá có thể phỏng đoán được kết quả cuộc hành quân này sẽ như thế nào?
Th/T Giàu:
Khó có thể đánh giá kết quả của một cuộc hành quân khi mà cuộc hành quân đó không xảy ra, và lại là một cuộc không chiến đầu tiên của anh em phi công KQ/VNCH. Tuy nhiên, trong tình huống lúc bấy giờ, tôi nghĩ chúng ta có một số yếu tố thuận lợi. Một là tinh thần các phi công rất cao, rất hăng hái vì đây là hành động bảo vệ đất nước chống xâm lăng, lại thêm tâm lý nóng lòng trả thù cho đồng đội vì nghe tin một chiến hạm HQVN bị chìm. Hai là chúng ta đã chuẩn bị kỹ lưỡng, và trận chiến diễn ra trên đất nhà. Mặc dù F-5E có một vài bất lợi so với MIG-21 như tốc độ hơi chậm hơn và xoay trở tương đối khó khăn hơn ở độ cao trên 20,000 bộ, nhưng điều đó không phải là yếu tố quyết định sự thắng lợi khi giao chiến trên không. Các phi công TQ cũng như phi công VNCH đều chưa từng có kinh nghiệm không chiến, nhưng chúng ta có điểm lợi hơn là đã được huấn luyện kỹ thuật chiến đấu trên không của các phi công đày kinh nghiệm của Không Quân Hoa Kỳ. Thêm nữa, về vũ khí, chúng ta có hỏa tiễn không-không AIM-9J tối tân hơn (1)!
Điểm quan trọng nhất mà tôi muốn nhấn mạnh là tinh thần hăng say của anh em phi công F5E lúc bấy giờ. Cho đến nay, khi tôi tham khảo với một số anh em phi công tham dự cuộc chuẩn bị hành quân hiện đang tỵ nạn tại Hoa Kỳ, tất cả đều lấy làm tiếc rằng đã không có cơ hội để đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Hoàng Sa. Nhân đây tôi xin cám ơn Đại Úy Nguyễn Văn Vạn và Trung Úy Lưu Chinh đã nhắc tôi một số chi tiết về cuộc hành quân này mà vì thời gian qúa lâu nên tôi không còn nhớ đày đủ.
7. UBHS:
Xin Thiếu Tá cho biết, trong suốt thời gian diễn ra các sự kiện trên, tức là từ trưa 19 tháng 1 khi Thiếu Tá nhận được lệnh chuẩn bị cuộc hành quân, đến trưa 21 tháng 1, khi có lệnh hủy bỏ, Thiếu Tá có nhận được tin tức hay sự giúp đỡ gì từ phía Hoa Kỳ không?
Th/T Giàu:
Hoàn toàn không! Tôi chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư Lịnh Sư Đoàn 1 Không Quân Đà Nẵng. Cần biết là từ sau khi có Hiệp Định Paris đầu năm 1973, các đơn vị quân đội đều không còn cố vấn Hoa Kỳ nữa./.
* HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974 do Ủy Ban Nghiên Cứu Trận Hải Chiến Hoàng Sa soạn thảo, ấn hành tháng Mười năm 2010. Liên lạc: Ủy Ban Hoàng Sa, PO Box 6005, Torrance, CA 90504, USA.
*Xem thêm - đối chứng: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140109/hai-chien-hoang-sa-40-nam-nhin-lai-ky-6-khong-quan-viet-nam-cong-hoa-len-ke-hoach-gianh-lai-hoang-sa.aspx
Nguồn:https://plus.google.com/u/0/+MaiNguy%E1%BB%85nHu%E1%BB%B3nh/posts
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2014/01/trich-hai-chien-hoang-sa-19-1-1974.html?spref=fb
Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
Trong
lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại
xâm. Phần lớn thư tịch cổ quốc gia trong các giai đoạn đó đã bị quân
xâm lược tiêu hủy với mục tiêu xóa sạch văn hóa Việt để dễ bề đồng hóa.
Tuy nhiên, chỉ với những tài liệu chính sử còn lại đến nay cũng đủ để
chứng minh người Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ rất lâu đời trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoàn toàn phù hợp với tập quán cũng
như luật pháp quốc tế về việc xác lập và khẳng định chủ quyền lãnh
thổ.
Đại tướng Lê Đức Anh (lúc này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng)
ở quần đảo Trường Sa, Việt Nam năm 1988
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt
Nam gồm nhiều đảo đá san hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện hai quần đảo
đang là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Về
việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc
tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu
thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và
hòa bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc
tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên
thế giới.
Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào
trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử
và căn cứ pháp lý đều cho thấy rằng các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu
thật sự hai quần đảo này hàng trăm năm qua. Nói chính xác là các Nhà
nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã thực thi chủ quyền ở đây
ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ
nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên
tục và hòa bình.
Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được
rất phong phú, mặc dù như đã nói, do hoàn cảnh chiến tranh liên tục
nên nhiều thư tịch cổ của Việt Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên,
những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một là, các
bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát
Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Hai là, nhiều
tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế
kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính
Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản
nhà Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội
Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này. Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ
của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm
1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt
Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là trong một thời gian khá
dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là Vạn Lý
Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng... Trên thực tế, các chúa
Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động liên tục cử
người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa,
Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo. Các thể
lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều
được Nhà nước quy định rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động
liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và
nhà Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm
1815), Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834,
1835, 1836) ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ,
xây miếu, dựng bia.
Các chiến sỹ Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam
trên đảo Phan Vinh thuộc quần đảo Trường Sa tháng 5-1988
Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam
tiếp tục quản lý hai quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo
an ninh, ngăn chặn buôn lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim
trên đảo, cử tàu De Lanessan ra nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh
vật... Từ năm 1930 đến 1932, các tàu chiến Inconstant, Alerte, La
Malicieuse và De Lanessan của hải quân Pháp liên tiếp ra quần đảo Hoàng
Sa. Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp cho quân trú đóng ở các đảo
chính thuộc quần đảo Trường Sa. Các hoạt động này đã được công bố trong
Công báo của Cộng hòa Pháp ngày 26-7-1933. Năm 1933, Toàn quyền Đông
Dương ra Nghị định quy thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp
cũng tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa
Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở đó. Sau khi trở lại Đông Dương,
Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm
đóng trái phép năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế quân Trung Quốc,
xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.
Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ) có một
đề nghị bổ sung bản dự thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này
với số phiếu áp đảo là 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng.
Tại Hội nghị, Ngoại trưởng Trần Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn Chính phủ
Quốc gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của người
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự
phản đối hay bảo lưu của nước nào.
Năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam
cho Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chính quyền này đã cho quân
ra tiếp quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần
đảo một xã thuộc một huyện ở đất liền), xây các bia chủ quyền, duy trì
các trạm khí tượng. Từ những năm 50 của thế kỷ 20 tình hình hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên phức tạp hơn. Lợi dụng tình hình rối
ren khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Genève năm 1954, Trung
Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía đông của quần đảo
Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền VNCH đã kịch liệt phản đối. Năm 1959
quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía tây quần đảo
Hoàng Sa. Quân đội VNCH đã phát hiện ngăn chặn và bắt giữ 82 "ngư dân”
Trung Quốc.
Đối với nhóm đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa,
chính quyền VNCH tiếp tục quản lý cho đến năm 1974. Năm 1974, Trung Quốc
dùng không quân, hải quân chiếm luôn phần phía tây của quần đảo Hoàng
Sa. Chính quyền VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam
Việt Nam đã kịch liệt phản đối hành động xâm lược này của Trung Quốc.
Năm 1975, chính quyền VNCH sụp đổ, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam
tiếp quản đầy đủ các đảo do quân đội VNCH cai quản trên Biển Đông. Nhà
nước Việt Nam thống nhất sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của người
Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn
bản hành chính nhà nước thành lập các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo
Trường Sa cũng như hoàn thiện việc quản lý hành chính trên các quần đảo
này. Một sự thật hiển nhiên là cho đến năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự
hiện diện nào của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Ngày 14-3-1988, Trung
Quân bắt đầu dùng vũ lực chiếm đóng trái phép một số đảo thuộc quần
đảo Trường Sa của Việt Nam. Dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, Việt
Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền
lâu đời và liên tục của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Trẻ em đảo Trường Sa Lớn ngày nay
đang trên đường đến lớp học
Công ước Luật Biển năm 1982 cho phép các quốc gia ven
biển được hưởng quy chế thềm lục địa để thăm dò và khai thác tài
nguyên. Đây là chủ quyền chuyên biệt, không tùy thuộc vào điều kiện phải
có sự chiếm hữu, khai phá hay tuyên bố minh thị. Mọi sự tùy tiện chiếm
cứ của nước ngoài dù có bằng vũ lực hay không đều bất hợp pháp và vô
hiệu lực. Về mặt địa lý, đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa chỉ cách Quảng
Ngãi 135 hải lý và đảo Hoàng Sa (Pattle) chỉ cách lục địa Việt Nam 160
hải lý. Vì vậy, quần đảo Hoàng Sa nằm trong thềm lục địa của Việt Nam
được quy định bởi Công ước về Luật Biển năm 1982. Về mặt địa chất, các
nghiên cứu khoa học đều cho thấy quần đảo Hoàng Sa là một thành phần của
Việt Nam. Về địa hình, đáy biển vùng quần đảo Hoàng Sa là một cao
nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp liên tục lục địa Việt Nam. Tại quần
đảo Trường Sa cũng vậy, về mặt địa chất và địa hình đáy biển các đảo
Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra
ngoài biển. Hơn nữa, bãi Tư Chính và đảo Trường Sa (Spratly) chỉ cách
đất liền Việt Nam từ 150 đến 200 hải lý, nằm trong thềm lục địa của Việt
Nam.
Một yêu cầu hết sức khách quan đặt ra cho tất cả các
nước có hoạt động liên quan tới Biển Đông là phải tuân thủ pháp luật
chung mà cộng đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia ven Biển Đông, đã
dày công xây dựng - Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 của.
Khi vận dụng Công ước để thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền đối với
nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, các
quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền và quyền chủ
quyền của các nước khác ven Biển Đông đối với lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của họ. Trong thời đại văn minh, sử dụng vũ lực,
đe dọa sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm lãnh thổ nước khác đã bị pháp
luật quốc tế nghiêm cấm. Vũ lực cũng sẽ không phải là cách thức đúng
đắn để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Tôn trọng các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế, tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, tôn
trọng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, giải quyết tranh
chấp bằng các biện pháp hòa bình, thực hiện đầy đủ các cam kết trong
DOC, tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), cùng chung
sức theo hướng biến Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp
tác là thể hiện sự hành xử của những quốc gia văn minh, tôn trọng sự
thật lịch sử cũng như thượng tôn pháp luật quốc tế mà chính mình đã
công nhận và ký kết.
Nhóm PV Biển Đông
Nhiệm
vụ cảnh báo sớm của Việt Nam hiện tại đang được trao cho một mạng lưới
giám sát điện tử cố định lắp đặt dọc bờ biển Việt Nam và trên những thực
thể ở Biển Đông thuộc sở hữu của nước này, và chỉ những năm gần đây máy
bay tuần dương mới được tăng cường bổ sung cho lực lượng hải quân và
cảnh sát biển Việt Nam. Những máy bay này có nhiệm vụ chủ yếu là do thám
trên bề mặt biển, nhưng lại chịu hạn chế về thời gian hoạt động cũng
như thiếu khả năng chiến đấu chống tàu ngầm phù hợp, đặc biệt là trong
bối cảnh thách thức trong lòng biển của PLA càng tăng cao. Một lực lượng
không quân tuần dương với khả năng hoạt động kéo dài và được lắp đặt
cảm biến tầm xa chính là phương tiện thích hợp cho thời điểm hiện tại,
và có lẽ sẽ bám trụ tốt hơn những thiết bị lắp đặt cố định.
Thủy quân
lục chiến của Việt Nam – lực lượng chuyên trách tiến công đổ bộ, sau
nhiều lần cải tổ trong những thập niên qua đã trở nên gọn nhẹ nhưng cũng
tinh nhuệ hơn, sở hữu trang thiết bị tiên tiến hơn. Mặc dù vậy, lực
lượng này vẫn còn yếu về mặt chuyển quân, trong khi các tàu đổ bộ thời
Liên Xô và tàu cổ của Mỹ đã quá cũ và gần như không thể hoạt động. Các
công ty đóng tàu hải quân non kém của Hà Nội đến nay đã cho xuất xưởng
một vài phương tiện vận chuyển tấn công mới, có vẻ như để lấp đầy lỗ
hổng này. Tuy nhiên, Thủy quân lục chiến của Việt Nam cần phải bổ sung
thêm một số lượng tàu lớn hơn thế nếu muốn triển khai các lực lượng vững
mạnh hơn, hoạt động với tốc độ cao hơn để có thể củng cố những căn cứ
đóng quân trên Biển Đông hoặc tái chiếm chúng từ đối thủ.
Những suy nghĩ cuối cùng
Hải chiến Hoàng
Sa đã qua đi bốn mươi năm. Tuy vậy, dù Biển Đông đến nay tương đối tĩnh
lặng, đây vẫn là bài học nhắc nhở Hà Nội tiếp tục thận trọng qua việc
duy trì nhịp độ đẩy nhanh hiện đại hóa hải quân. Trong khi ngoại giao
vẫn đang là phương sách được ưa chuộng và các cường quốc ngoài khu vực
ngày càng phụ thuộc mạnh mẽ vào khu vực, sức mạnh quân sự tương xứng
theo chính sách phòng vệ tự lực vẫn còn rất cần thiết, nhất là khi khu
vực tiếp tục còn ẩn chứa nhiều bất ổn. Để duy trì nguyên trạng trên Biển
Đông, so với quân lực VNCH, lực lượng Không quân và Hải quân của Việt
Nam hiện tại và trong tương lai đang và sẽ phải đối mặt với một thách
thức còn lớn hơn gấp nhiều lần.
Nguồn: The Diplomat
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2014/06/21/bai-hoc-tu-hai-chien-hoang-sa-1974/#sthash.aBRABZSN.dpufVì sao Trung Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974?
08/01/2014 02:00 GMT+7
Dù đã chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không nhận được
sự công nhận của cộng đồng quốc tế về chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa.
Và như vậy, thực sự Hoàng Sa vẫn đang là một vùng lãnh thổ tranh chấp.
>>Sau 40 năm nhìn lại hải chiến Hoàng Sa
Năm 2014 là thời điểm đánh dấu tròn 40 năm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, một quần đảo có vị trí quan trọng trên biển Đông đang trong tầm kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa đã bị mất vào tay Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Từ đó cho đến nay, biển Đông chưa được yên tĩnh, những sự kiện nối tiếp nhau kéo dài từ biển Đông cho tới biển Hoa Đông đã khiến nhiều người ví von khu vực Đông Á hiện nay như đang nằm trên một thùng thuốc súng.
Vì sao Trung Quốc dùng vũ lực để tấn chiếm Hoàng Sa vào thời điểm năm 1974 vẫn là một câu hỏi có nhiều câu trả lời khác nhau. Và việc tìm hiểu và lý giải quá khứ luôn là một phương cách để dự báo cho tương lai. Bài viết này nhằm đưa ra một cách lý giải về lý do và mục đích mà Trung Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974.
Vì sao các quốc gia sử dụng sức mạnh quân sự trong các tranh chấp lãnh thổ?
Khi phân tích về lý do cũng như thời điểm mà một quốc gia sử dụng sức mạnh quân sự để giải quyết tranh chấp lãnh thổ nào đó, nhiều học giả cho rằng đó là do vị thế của quốc gia đó trong tranh chấp bị yếu đi. Sự yếu đi về vị thế này làm cho quốc gia cảm thấy mình sẽ không còn lợi thế khi "mặc cả lợi ích" trong việc giải quyết tranh chấp (bargaining power).
Lợi thế trong cuộc "mặc cả lợi ích" được M. Taylor Fravel, Phó giáo sư về Khoa học chính trị, Đại học MIT, định nghĩa bao gồm: i) Diện tích lãnh thổ tranh chấp mà quốc gia thực sự chiếm giữ; ii) Sức mạnh quân sự của quốc gia trong đối sánh với sức mạnh quân sự của đối phương trên vùng tranh chấp.
Khi một quốc gia thấy rằng vị thế của đối phương trong tranh chấp ngày càng tăng lên, đồng nghĩa với việc vị thế của họ ngày càng suy giảm, thì rất có khả năng quốc gia đó sẽ tiến hành biện pháp quân sự để khôi phục vị thế của họ. Thậm chí, để gia tăng vị thế của mình, họ còn có thể sử dụng biện pháp quân sự để có thể kiểm soát toàn bộ khu vực tranh chấp.
Mục đích Trung Quốc chiếm Hoàng Sa
Khi thành lập 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát rất ít trong số 4 quần đảo, bãi ngầm tại biển Đông, cũng như không kiểm soát được khu vực đảo Đài Loan. Trung Quốc lúc này đã phải đối đầu với các thách thức, chẳng hạn từ chính quyền Quốc Dân Đảng với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, cũng như trên các đảo ngoài khơi khác tại khu vực biển Đông và biển Hoa Đông.
Năm 1951, Trung Quốc đã chính thức đưa ra yêu sách về chủ quyền của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng bị nhiều quốc gia khác phản đối. Tuy nhiên, sau này, Trung Quốc đã quyết định dùng sức mạnh để chiếm đoạt hoàn toàn Hoàng Sa năm 1974.
Trung Quốc đã thực hiện việc sử dụng vũ lực vào một bối cảnh khiến vị trí của họ trong tranh chấp đã bị suy giảm khi: i) Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tích cực mở rộng sự có mặt trên Hoàng Sa; ii) và các lợi ích ngày càng thấy rõ của biển khơi, đặc biệt là tài nguyên dầu mỏ, khi thế giới đang bước vào cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970.
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo chính, nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) nằm ở phía Tây Nam quần đảo, nhóm An Vĩnh (Amphitrite) nằm ở phía Đông Bắc. Năm 1956 quân đội Trung Quốc đã chiếm đảo Phú Lâm (Woody) thuộc nhóm An Vĩnh (Amphitrite). Trước đó, quân đội Pháp đã chiếm đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen), rồi đến năm 1956, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã thay chân Pháp kiểm soát đảo này.
Trung Quốc, khi nhìn thấy những lợi ích của các vùng biển này, đã quyết định phải kiểm soát được tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa, vì trước đó, khoảng giữa những năm 1950, các đoàn tàu thương mại của Trung Quốc đã buộc phải đi qua vùng biển cạnh khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen). Năm 1959, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tăng cường kiểm soát chặt chẽ các đảo này, buộc các ngư dân Trung Quốc phải tránh xa khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen) này.
Tuy Việt Nam Cộng hòa không tỏ ra có hành động đe dọa nào đối với Trung Quốc tại nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite), với ý định mỗi bên sẽ kiểm soát các khu vực biển thuộc xung quanh nhóm đảo mà họ đang kiểm soát, nhưng các hành động này của Việt Nam Cộng hòa đã làm suy giảm lợi thế của Trung Quốc. Và, vì thế, Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự như một biện pháp để phục hồi lại vị thế lợi ích của mình tại đây.
Vào đầu những năm 1970, các lợi ích từ tài nguyên biển trên biển Đông trở nên rất quan trọng, đặc biệt tại các khu vực mà các bên tranh chấp.
>>Sau 40 năm nhìn lại hải chiến Hoàng Sa
Năm 2014 là thời điểm đánh dấu tròn 40 năm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, một quần đảo có vị trí quan trọng trên biển Đông đang trong tầm kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa đã bị mất vào tay Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Từ đó cho đến nay, biển Đông chưa được yên tĩnh, những sự kiện nối tiếp nhau kéo dài từ biển Đông cho tới biển Hoa Đông đã khiến nhiều người ví von khu vực Đông Á hiện nay như đang nằm trên một thùng thuốc súng.
Vì sao Trung Quốc dùng vũ lực để tấn chiếm Hoàng Sa vào thời điểm năm 1974 vẫn là một câu hỏi có nhiều câu trả lời khác nhau. Và việc tìm hiểu và lý giải quá khứ luôn là một phương cách để dự báo cho tương lai. Bài viết này nhằm đưa ra một cách lý giải về lý do và mục đích mà Trung Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974.
Hải chiến Hoàng Sa 1974 khai hỏa |
Khi phân tích về lý do cũng như thời điểm mà một quốc gia sử dụng sức mạnh quân sự để giải quyết tranh chấp lãnh thổ nào đó, nhiều học giả cho rằng đó là do vị thế của quốc gia đó trong tranh chấp bị yếu đi. Sự yếu đi về vị thế này làm cho quốc gia cảm thấy mình sẽ không còn lợi thế khi "mặc cả lợi ích" trong việc giải quyết tranh chấp (bargaining power).
Lợi thế trong cuộc "mặc cả lợi ích" được M. Taylor Fravel, Phó giáo sư về Khoa học chính trị, Đại học MIT, định nghĩa bao gồm: i) Diện tích lãnh thổ tranh chấp mà quốc gia thực sự chiếm giữ; ii) Sức mạnh quân sự của quốc gia trong đối sánh với sức mạnh quân sự của đối phương trên vùng tranh chấp.
Khi một quốc gia thấy rằng vị thế của đối phương trong tranh chấp ngày càng tăng lên, đồng nghĩa với việc vị thế của họ ngày càng suy giảm, thì rất có khả năng quốc gia đó sẽ tiến hành biện pháp quân sự để khôi phục vị thế của họ. Thậm chí, để gia tăng vị thế của mình, họ còn có thể sử dụng biện pháp quân sự để có thể kiểm soát toàn bộ khu vực tranh chấp.
Mục đích Trung Quốc chiếm Hoàng Sa
Khi thành lập 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát rất ít trong số 4 quần đảo, bãi ngầm tại biển Đông, cũng như không kiểm soát được khu vực đảo Đài Loan. Trung Quốc lúc này đã phải đối đầu với các thách thức, chẳng hạn từ chính quyền Quốc Dân Đảng với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, cũng như trên các đảo ngoài khơi khác tại khu vực biển Đông và biển Hoa Đông.
Năm 1951, Trung Quốc đã chính thức đưa ra yêu sách về chủ quyền của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng bị nhiều quốc gia khác phản đối. Tuy nhiên, sau này, Trung Quốc đã quyết định dùng sức mạnh để chiếm đoạt hoàn toàn Hoàng Sa năm 1974.
Trung Quốc đã thực hiện việc sử dụng vũ lực vào một bối cảnh khiến vị trí của họ trong tranh chấp đã bị suy giảm khi: i) Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tích cực mở rộng sự có mặt trên Hoàng Sa; ii) và các lợi ích ngày càng thấy rõ của biển khơi, đặc biệt là tài nguyên dầu mỏ, khi thế giới đang bước vào cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970.
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo chính, nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) nằm ở phía Tây Nam quần đảo, nhóm An Vĩnh (Amphitrite) nằm ở phía Đông Bắc. Năm 1956 quân đội Trung Quốc đã chiếm đảo Phú Lâm (Woody) thuộc nhóm An Vĩnh (Amphitrite). Trước đó, quân đội Pháp đã chiếm đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen), rồi đến năm 1956, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã thay chân Pháp kiểm soát đảo này.
Trung Quốc, khi nhìn thấy những lợi ích của các vùng biển này, đã quyết định phải kiểm soát được tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa, vì trước đó, khoảng giữa những năm 1950, các đoàn tàu thương mại của Trung Quốc đã buộc phải đi qua vùng biển cạnh khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen). Năm 1959, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tăng cường kiểm soát chặt chẽ các đảo này, buộc các ngư dân Trung Quốc phải tránh xa khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen) này.
Tuy Việt Nam Cộng hòa không tỏ ra có hành động đe dọa nào đối với Trung Quốc tại nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite), với ý định mỗi bên sẽ kiểm soát các khu vực biển thuộc xung quanh nhóm đảo mà họ đang kiểm soát, nhưng các hành động này của Việt Nam Cộng hòa đã làm suy giảm lợi thế của Trung Quốc. Và, vì thế, Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự như một biện pháp để phục hồi lại vị thế lợi ích của mình tại đây.
Vào đầu những năm 1970, các lợi ích từ tài nguyên biển trên biển Đông trở nên rất quan trọng, đặc biệt tại các khu vực mà các bên tranh chấp.
Năm 1970, Philippines hoàn thành việc khảo sát địa chấn tại các vùng
nước xung quanh Trường Sa, và năm 1971 bắt đầu tiến hành khoan thăm dò.
Trong khi đó, Việt Nam Cộng hòa cũng bắt đầu việc khai thác nguồn dầu
khí ngoài khơi, và tháng 7/1973 Sài Gòn đã ký kết 8 hợp đồng khoan thăm
dò tại những nơi được cho là có nhiều dầu mỏ trên biển Đông. Tháng 1 và
tháng 3/1973, Việt Nam Cộng hòa cũng đã cho tiến hành khảo sát địa chấn
tại khu vực xung quanh nhóm đảo Nguyệt Thiềm.
Còn tháng 12/1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng công bố cho thấy triển vọng của các giếng dầu ở ngoài khơi Vịnh bắc Bộ, phía bắc của quần đảo Hoàng Sa.
Với những giá trị kinh tế của các nhóm đảo ngoài khơi ngày càng gia tăng, các quốc gia khác cũng bắt đầu giành lấy những cấu trúc tại Hoàng Sa, Trường Sa, ở những nơi mà Trung Quốc hoàn toàn không có sự hiện diện nào. Để củng cố cho các yêu sách của mình, Philippines đã chiếm 5 đảo và đá tại Trường Sa trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 1971. Đây là lần đầu tiên Philippines có sự hiện diện tại vùng lãnh thổ tranh chấp này.
Tháng 9/1973, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường Sa vào địa bàn tỉnh Phước Tuy. Các hành động của các quốc gia này chỉ trong chưa đầy 3 năm đã đẩy Trung Quốc vào thế bất lợi trong tranh chấp này.
Để đáp lại những hành động đó, Trung Quốc quyết định mở rộng sự hiện diện của mình trên những hòn đảo ngoài khơi biển Đông, nơi có ít sự trợ giúp của các lực lượng hải quân của các quốc gia khác.
Đặc biệt, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông với Nixon vào đầu năm 1972, và sự kiện Mỹ rút ra khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris đầu năm 1973, Bắc Kinh đã thấy trước một khả năng mới: Họ có thể loại trừ khả năng can thiệp của Hải quân Mỹ nếu cưỡng chiếm các hòn đảo thuộc do Việt Nam Cộng hòa quản lý.
Trung Quốc đã sử dụng các ngư dân để gia tăng sự hiện diện của họ trên vùng biển nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) từ năm 1973. Ngày 9/1/1974, các ngư dân Trung Quốc từ đảo Hữu Nhật (Robert) áp sát tới gần đảo Hoàng Sa (Pattle) - nơi mà Việt Nam Cộng hòa đang đóng quân trên đó. Ngày 11/1, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc công khai thách thức Tuyên bố tháng 9/1973 của Việt Nam Cộng hòa.
Giữa tháng 1/1974, các tình huống đối đầu trở nên căng thẳng hơn. Tiếp theo các tuyên bố của Bắc Kinh, Sài Gòn gửi thêm một số tàu chiến tới khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen), trục xuất các ngư dân Trung Quốc ra khỏi khu vực này. Từ đó đã dẫn tới sự kiện ngày 19-20/1/1974, mà sau đó Trung Quốc đã giành được quyền kiểm soát trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bằng sức mạnh quân sự của mình.
Kết luận
Mục đích làm gia tăng vị thế lợi ích là mô tả rõ nhất lý do vì sao và khi nào Trung Quốc sử dụng vũ lực trong các tranh chấp lãnh thổ của họ với các quốc gia khác. Hoàng Sa là một ví dụ cụ thể, Trung Quốc đã cho thấy sự quyết đoán của họ khi vị thế của họ trong tranh chấp bị sụt giảm, đặc biệt khi gặp một đối thủ không mạnh hoặc khi Trung Quốc kiểm soát rất ít, hoặc gần như chưa kiểm soát phần lãnh thổ đang tranh chấp đó, Trung Quốc sẽ tìm cách ra tay.
Tuy nhiên cho dù đã chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không nhận được sự công nhận của cộng đồng quốc tế về chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa. Và như vậy, thực sự Hoàng Sa vẫn đang là một vùng lãnh thổ tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp như vậy cần phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế về tranh chấp lãnh thổ.
Thế nhưng, những sự kiện đã xảy ra đối với Hoàng Sa năm 1974 luôn là bài học kinh nghiệm xương máu cho không chỉ Việt Nam, mà còn cho tất cả những quốc gia có những tranh chấp lãnh thổ biển với một Trung Quốc hiện tại đầy tham vọng.
Hoàng Việt
>> Mời độc giả ghé thăm và đóng góp ý kiến cho trang Fanpage của Tuần Việt Nam
Còn tháng 12/1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng công bố cho thấy triển vọng của các giếng dầu ở ngoài khơi Vịnh bắc Bộ, phía bắc của quần đảo Hoàng Sa.
Với những giá trị kinh tế của các nhóm đảo ngoài khơi ngày càng gia tăng, các quốc gia khác cũng bắt đầu giành lấy những cấu trúc tại Hoàng Sa, Trường Sa, ở những nơi mà Trung Quốc hoàn toàn không có sự hiện diện nào. Để củng cố cho các yêu sách của mình, Philippines đã chiếm 5 đảo và đá tại Trường Sa trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 1971. Đây là lần đầu tiên Philippines có sự hiện diện tại vùng lãnh thổ tranh chấp này.
Tháng 9/1973, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường Sa vào địa bàn tỉnh Phước Tuy. Các hành động của các quốc gia này chỉ trong chưa đầy 3 năm đã đẩy Trung Quốc vào thế bất lợi trong tranh chấp này.
Để đáp lại những hành động đó, Trung Quốc quyết định mở rộng sự hiện diện của mình trên những hòn đảo ngoài khơi biển Đông, nơi có ít sự trợ giúp của các lực lượng hải quân của các quốc gia khác.
Đặc biệt, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông với Nixon vào đầu năm 1972, và sự kiện Mỹ rút ra khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris đầu năm 1973, Bắc Kinh đã thấy trước một khả năng mới: Họ có thể loại trừ khả năng can thiệp của Hải quân Mỹ nếu cưỡng chiếm các hòn đảo thuộc do Việt Nam Cộng hòa quản lý.
Trung Quốc đã sử dụng các ngư dân để gia tăng sự hiện diện của họ trên vùng biển nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) từ năm 1973. Ngày 9/1/1974, các ngư dân Trung Quốc từ đảo Hữu Nhật (Robert) áp sát tới gần đảo Hoàng Sa (Pattle) - nơi mà Việt Nam Cộng hòa đang đóng quân trên đó. Ngày 11/1, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc công khai thách thức Tuyên bố tháng 9/1973 của Việt Nam Cộng hòa.
Giữa tháng 1/1974, các tình huống đối đầu trở nên căng thẳng hơn. Tiếp theo các tuyên bố của Bắc Kinh, Sài Gòn gửi thêm một số tàu chiến tới khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen), trục xuất các ngư dân Trung Quốc ra khỏi khu vực này. Từ đó đã dẫn tới sự kiện ngày 19-20/1/1974, mà sau đó Trung Quốc đã giành được quyền kiểm soát trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bằng sức mạnh quân sự của mình.
Kết luận
Mục đích làm gia tăng vị thế lợi ích là mô tả rõ nhất lý do vì sao và khi nào Trung Quốc sử dụng vũ lực trong các tranh chấp lãnh thổ của họ với các quốc gia khác. Hoàng Sa là một ví dụ cụ thể, Trung Quốc đã cho thấy sự quyết đoán của họ khi vị thế của họ trong tranh chấp bị sụt giảm, đặc biệt khi gặp một đối thủ không mạnh hoặc khi Trung Quốc kiểm soát rất ít, hoặc gần như chưa kiểm soát phần lãnh thổ đang tranh chấp đó, Trung Quốc sẽ tìm cách ra tay.
Tuy nhiên cho dù đã chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không nhận được sự công nhận của cộng đồng quốc tế về chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa. Và như vậy, thực sự Hoàng Sa vẫn đang là một vùng lãnh thổ tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp như vậy cần phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế về tranh chấp lãnh thổ.
Thế nhưng, những sự kiện đã xảy ra đối với Hoàng Sa năm 1974 luôn là bài học kinh nghiệm xương máu cho không chỉ Việt Nam, mà còn cho tất cả những quốc gia có những tranh chấp lãnh thổ biển với một Trung Quốc hiện tại đầy tham vọng.
Hoàng Việt
>> Mời độc giả ghé thăm và đóng góp ý kiến cho trang Fanpage của Tuần Việt Nam
Xem thêm:
Sau 40 năm nhìn lại hải chiến Hoàng Sa
Nhân kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc
cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, 19.1.1974, có một băn
khoăn của nhiều người là tại sao lúc đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại
không lên tiếng.
Có phải chăng như sử gia Nguyễn Đình Đầu đã nghĩ rằng tình đồng chí giữa những người Cộng sản lúc đó còn lớn hơn lãnh thổ?Tuanvietnam có cuộc phỏng vấn với nhà nghiên cứu Trung Quốc lão thành Dương Danh Dy - người có may mắn biết được nội tình câu chuyện. Xem thêm: TỔNG TUYỂN CỬ- THI HÀNH HIỆP ĐỊNH HÒA BÌNH- PARIS/73/VNCH http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2016/07/tong-tuyen-cu-thi-hanh-hiep-inh-hoa.html |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét