Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước

Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước

Đỗ Kim Thêm
 
Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam. Chúng ta có các lý do chính đáng đ không tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa ởng niệm, hoà giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.

Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.

Mọi vấn đ hiện nay của Việt Nam có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưng cầu toàn để canh tân đất nước hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.


***

Ký ức thay ngụy sử?

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày quan trọng trong lịch sử của Việt Nam, vì là ngày kỷ niệm 40 năm chiến tranh kết thúc. Hiện nay, các thế hệ tham chiến hầu như đã lần lượt ra đi hay đang quên đi những hậu quả của chiến cuộc. Thời gian dài này cũng đủ để làm một thế hệ hậu chiến trưởng thành mà không vướng bận với ký ức thuộc về lịch sử.

Tuy thế, có một sự khác biệt giữa ký ức và lịch sử. Ký ức là một điều kiện thiết yếu tự tại và có một giá trị đặc biệt cho lịch sử. Ký ức riêng tư tạo nên bản sắc cá nhân và ký ức tập thể tạo nên bản sắc xã hội. Cả hai đặc thù văn hoá này nếu kết hợp nhau được sẽ làm thành một lịch sử chung cho dân tộc. Để phác thảo lịch sử, sử gia cần có ký ức văn hoá, một sự thật của lịch sử và đây là một trong những điều kiện khách quan làm khởi điểm cho chính sử.

Nhưng trong hiện tại vấn đề soi sáng lịch sử ít được quan tâm, bởi vì chúng ta đang có những nhu cầu bức thiết, đó là hiểm hoạ Bắc thuộc và bất lực của chính quyền trước những khát vọng của toàn dân về toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng dân chủ, phát triển kinh tế, nâng cao công bình và tôn trọng nhân quyền.

Nhìn lại sau 40 năm dài thì thực tế cho thấy dù là ký ức của các chứng nhân lịch sử đang nhạt nhoà và bản sắc của đất nước đang tàn phai, nhưng người Việt vẫn còn bị ám ảnh bởi những chiến tuyến trong quá khứ, đề cao thành quả chiến thắng mãi làm cho việc hoà giải giữa người Việt còn khó khăn và những giá trị phổ quát trong xu thế thời đại như tự do, dân chủ, nhân quyền và trọng pháp lại chưa áp dụng. Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia sẻ một quá khứ chung của lịch sử cận đại.

Nếu chúng ta muốn xây dựng một chính sử Việt Nam cho hôm nay và mai sau, thì giải ảo ngụy sử là một nhu cầu tất yếu. Vậy vấn đề là liệu có nên khơi động lại ký ức cá nhân hay tập thể hoàn toàn độc lập với mọi dị biệt và đối kháng với ngụy sử để làm cơ sở được không?

Thế hệ tham chiến và quá khứ

Thế hệ tham chiến nghĩ gì về quá khứ và để làm gì trong hiện tình? Chiến tranh Việt Nam nằm trong bối cảnh quốc tế của Chiến tranh Lạnh và lại là một thí dụ điển hình trong khu vực về Chiến tranh Ủy nhiệm. Không riêng Việt Nam mà hầu như nhiều quốc gia đều hình thành bằng bạo lực. Trong cả một thời kỳ dài, tranh đấu bằng bạo lực là một phương tiện hiển nhiên, nó tạo nên một loại văn hoá chung và trở thành một sự thực khách quan của lịch sử. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước và là một sản phẩm của lịch sử.

Công việc chọn lọc quá khứ để giải ảo lịch sử cũng có nghĩa là làm sống lại quá khứ, một phần hay toàn bộ ký ức của cá nhân hay tập thể. Phủ nhận hay quên đi quá khứ, cả hai nỗ lực này là bất khả. Không ai muốn quên lãng quá khứ oai hùng, vì mục đích kéo dài hạnh phúc đã hết là để làm quên đi thực tế bất hạnh. Quên lãng quá khứ thương đau thì không thể dễ dàng vì là một ám ảnh còn vang động trong hồn như một loại bịnh tâm thần kinh niên không trị được. Khép lại quá khứ và cảm nhận nó trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai, cả hai việc đòi hỏi chúng ta có một ý thức phản tỉnh mà không bị dồn ép cực đoan bằng một ý thức hệ đã lỗi thời hay xí xoá dễ dãi bằng những thành tựu kinh tế nay đang sa sút.

Để trả lời các vấn đề này, thế hệ tham chiến lập luận là ký ức của các chứng nhân lịch sử sẽ mai một và ký ức của tập thể chỉ có tính địa phương. Đoàn kết dân tộc là một vấn đề trọng đại của lịch sử đất nước, chúng ta hãy để cho sử gia làm việc, vì họ có khả năng gạn đục khơi trong các tồn đọng cuả quá khứ để trình bày khách quan hơn và có tác động hữu hiệu hơn. Bất hạnh cho chúng ta là sử Việt bị ngụy tạo quá nhiều, nên không thể lý giải và thuyết phục các sự thật lịch sử cận đại.

Ngụy tạo chính sử

Có một sự khác biệt giữa quan điểm về lịch sử của người phương Tây và Việt Nam. Khi người Mỹ nói đó là chuyện lịch sử, mọi người cùng yên tâm nghĩ là toàn bộ vấn đề xảy ra được ghi chép cẩn thận và nghiên cứu nghiêm túc (That is history; it is totally a record). Khi người Việt nói đó là chuyện lịch sử, chúng ta phải dè dặt hơn, vì đó là một biến cố quan trọng đã xảy ra (It is a most importat thing); sự kiện còn ngờ vực, đúng sai hay hay dở còn cần xét lạ, vì tùy theo thời điểm và quan điểm chính trị. Đây không phải là một khám phá mới lạ, vì đã có vô số các bằng chứng về các sai lầm trong sử Việt, mà những ví dụ chính cho thấy các tầm mức tác hại nghiêm trọng của vấn đề ngụy tạo.

Thứ nhất, theo sử thì Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) giải tán ngày 11 tháng 11 năm 1945, nhưng thc tế thì Đảng tiếp tục hoạt động trong bí mật, sau đó lại công khai cho đến ngày hôm nay. Không có sử gia nào bỏ công cải chính sự kiện này của ĐCSVN và Đảng Lao Động, dù là hình thức.

Thứ hai, vai trò của ĐCSVN trong việc giành độc lập. Thực ra, Việt Nam chưa độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn, vì Đảng không cướp được chính quyền từ tay Nhật và Pháp, mà của chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 19 tháng 8 năm 1945 và về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám.

Việt Nam thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3 năm 1949 theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc biệt của Hiệp định là Việt Nam thống nhất và độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm 1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 về ngoại giao và chính trị.

Không ai bỏ công phân biệt ý nghĩa cao cả của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc do ngoại xâm và phương cách bất chánh để cướp chính quyền trong nội chính. Xác minh thời điểm chính xác cho sự độc lập cũng bị quên lãng.

Thứ ba, cuộc đời của Hồ Chí Minh là một chuyện dài không đoạn kết. Bao nhiêu sách vở khác nhau viết về xuất xứ, hành tung, khả năng, quá trình hoạt động và tư cách đạo đức của ông. Mỗi lúc lại có một khám phá mới làm cho sự thật về cuộc đời của ông càng huyền bí hơn.

Nhu cầu tuyên truyền chính trị nhất thời là lời giải thích quen thuộc. Các nhà nghiên cứu đã (phải) suy tôn ông lên làm thần thánh, rồi một thời gian sau, vì lý do chính trị khác, lại hạ bệ. Nhiều tác phẩm viết về ông, nhưng ông không có một chỗ đứng vững chắc trong lịch sử. Vì ông là một nạn nhân của lịch sử quái ác nên các vấn đề tiểu sử, công nghiệp, đời tư của ông còn cần phải tiếp tục soi sáng.

Thứ tư, đấu tranh quân sự có phải là một giải pháp tối ưu duy nhất hay kết hợp với các giải pháp nghị trường và ngoại giao  cũng là điều kiện khả thi?

Trước trào lưu đấu tranh giành độc lập tại các nước Á Phi đang dâng cao nên Pháp đã ý thức vấn đề này. Từ năm 1947 Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa và tôn trọng nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam bằng cách đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp tại Liên Hiệp Quốc. Đó là một thắng lợi ngoại giao và pháp lý mà Đảng Cộng Sản đã phủ nhận và về sau giải thích là Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa.

Do đó, khi nhân danh giành lại độc lập dân tộc, họ chiến đấu vũ trang chống Pháp, nhưng bằng cách độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. Trái lại, các nước châu Á khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Cộng sản Quốc tế, mà thành công của Ấn Độ (1947) là một thí dụ, dù bối cảnh phức tạp hơn Việt Nam nhiều.

Thứ năm, ĐCSVN sử dụng chiêu bài đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ như một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là cướp chính quyền. Họ đã chống đối bất cứ giải pháp chính trị và ngoại giao nào không cho họ độc quyền đấu tranh và lãnh đạo quốc gia, mà Hiệp định Genève và Paris là hai cơ hội lịch sử.

Dù Hiệp định Genève chỉ là để định ranh giới ngưng bắn và không áp đặt những giải pháp chính trị, nhưng thống nhất Nam Bắc thuộc quyền dân tộc tự quyết, một cơ hội mới về tổng tuyển cử mở ra và sẽ do hai miền ấn định. Lãnh đạo cả hai miền đã không đủ nỗ lực để thực thi biện pháp tổng tuyển cử, một cơ hội không tốn xương máu. Đó là một quan điểm sai lầm của cả hai và trở thành một bất hạnh cho dân tộc hiếu hoà.
Hiệp định Paris là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị, nhưng là một cơ hội khác mở ra nếu các bên đồng ý “thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào.” (Điều 15).

Phát động chiến dịch Hồ Chí Minh để thôn tính miền Nam không phải là phương pháp hòa bình như đã ký kết. Vi phạm Hiệp định Paris lại là một thành tích tự hào về sự phản bội của chính mình và chấp nhận hy sinh xương máu của thế hệ thanh niên cuối cùng của miền Bắc.

Thứ sáu, Đại Thắng Mùa Xuân là đỉnh cao chói lọi trong trang sử đấu tranh của ĐCSVN, nhưng Ted Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ, Bắc Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận điện tín này nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên chuyển tất cả các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Dĩ nhiên, Việt Nam không hề kiểm chứng nguồn tin này.

Tóm lại, các vấn đề quan trọng trong chính sử cận đại như ý nghiã đích thực của chiến tranh, kết hợp các phương tiện khả thi để giải quyết xung đột, những hy sinh và thành tích cần được giải ảo trong một phương cách mới hơn, khi mà có vô số các nguồn tài liệu được liên tục giải mật. Quan trọng nhất là chúng ta phải có can đảm nhìn vào sư thật của lịch sử trong một nhãn quan mới.

Cho dù ngày nay ngụy sử đã không thể phản ảnh được toàn bộ quá khứ và chính sử cũng không hẳn là mất đi hết trong những gì còn sót lại nơi lòng người, nhưng điều may mắn hơn cho chúng ta là lịch sử vẫn còn được truyền tụng, mà ký ức cá nhân và tập thể cần hồi tưởng là thí dụ điển hình.

Những người Việt đang ở vào lớp tuổi bốn mươi hay trẻ hơn không có ký ức về chiến cuộc, vì họ chưa sinh ra. Dĩ nhiên, họ có quyền đặt câu hỏi vì sao Việt Nam chưa thể canh tân đất nước và hưởng độc lập dân tộc và họ phải gánh chịu một di sản tồi tệ như ngày hôm nay. Khi ngụy sử không thuyết phục được họ, thì ký ức của các bậc cha ông còn sống sót sẽ đóng vai trò gì?

Ký ức chiến cuộc nhạt nhoà

Tình yêu về dĩ vãng vốn bẩm sinh trong tâm hồn người Việt; họ thích ôm ấp kỷ niệm trong mơ hồ và không muốn dùng ngôn ngữ để diễn đạt những cảm xúc trân qúy. Ký ức là nhớ lại; một người không có trí nhớ là một người không còn bản sắc riêng. Nhưng ngược lại với ký ức là quên lãng; ai phải dồn ép quá khứ, thường là người không bình thường và hoặc sẽ mang bịnh ức chế. Một người trưởng thành không có ký ức sẽ mãi là một trẻ con.

Ký ức tập thể theo Maurice Halbwach quan trọng hơn. Nó vượt qua khuôn khổ kinh nghiệm sống của một cá nhân, hằn sâu, tiêm nhiễm vào một tầng lớp xã hội, một thế hệ trong một giai đoạn của dân tộc và tạo thành bản sắc chung. Một dân tộc không có ký ức lịch sử cũng là một dân tộc chưa trưởng thành.

Khi xưa, Tản Đà có than thở "Dân hai lăm triệu, ai người lớn?, Nước bốn nghìn măm vẫn trẻ con." Lời thơ ai oán được truyền tụng như một lời cảnh tỉnh về tình trạng dân trí trong thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh, Trịnh Công Sơn cũng đã nhắc nhiều đến thân phận đất nước, nhưng thê thiết nhất là “Ôi, đất nước u mê ngàn năm“. Điều ngạc nhiên là cả hai danh tài này sống trong hai thế hệ cách biệt nhau, nhưng lại cùng một tâm trạng, dù không hề quan tâm đến chính sử và ký ức.

Nhưng làm sống lại ký ức không dễ, vì có một cái gì đó thiếu bình thường mà có quá nhiều thí dụ làm cho chúng ta ngạc nhiên.

Thứ nhất, nhân ngày 30 tháng 4 mà nhân dân thủ đô Hà Nội kéo băng và biểu ngữ với nội dung "Hân Hoan Chào Mừng Ngày Giải Phóng Thủ Đô". Vô ý hay là trớ trêu trong một ký ức nhạt nhoà? Không ai biết.

Thứ hai, ngược lại, nhân ngày này mà một số người Việt hải ngoại cũng có tổ chức "Ngày Diễn Hành Cho Tự Do". Vì là buổi diễn hành nên ít có thuyết trình về ý nghĩa trọng đại về một ngày lịch sử của đất nước để người tham dự cảm thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này. Vì tự do hoài niệm mà đôi khi cũng có nhiều nơi còn có kết hợp với lễ Lao Động với dạ tiệc và khiêu vũ thâu đêm là chính. Đó là sáng kiến giải trí cuối tuần kéo dài trong hoàn cảnh mới, nên không đem lại một âm vang tưởng niệm nào trong đau buồn, nhớ những nguời nằm xuống và người trốn chạy.

Thứ ba là chuyện không có quyền công khai tưởng niệm những người nằm xuống trong chiến tranh biên giới Trung - Việt. Khơi động ký ức lại cần có ý kiến chỉ đạo? Hồi sinh ký ức càng thêm chua chát khi lãnh đạo hân hoan đón tiếp lãnh đạo bạn để cùng "Thành Kính Tưởng Niệm Các Liệt sĩ Trung Quốc Hy Sinh Vì Chính Nghĩa" trong Tiết Thanh Minh, một việc làm đúng theo chính sách đề ra.

Còn nhớ về Ngày Hoàng Sa và Trường Sa lại càng khó hơn, cụ thể nhất là vụ thảm sát Gạc Ma. Trước đây binh sĩ không được phép chống trả với Trung Quốc nên đem lại một cái chết tập thể; chính quyền luôn che dấu sự thật và nay lại không cho phép tưởng niệm và ghi công và không nêu tên kẻ thù, đó là một hành vi xoá bỏ ký ức có định hướng.

Những người chiến đấu còn sống không được tri ân, đãi ngộ và chỉ còn âm thầm xót thương cho đời nhau. Họ cũng bất hạnh giống như các cựu chiến binh Mỹ, làm điều vô ích cho kẻ vô ơn và cuối cùng lại chứng kiến trớ trêu của lịch sử mà đó lại là định mệnh của mình.
                                                    
Th là chuyện những người di tản buồn lại càng buồn hơn, khi phải nhớ tới những thuyền nhân qua cơn phong ba bảo táp, chưa hưởng được tự do và cuối cùng phải yên nghỉ nơi đảo vắng xứ người. Trùng tu mộ phần đã khó, sơn tặng cho họ một lá cờ trên mộ phần và lập đài tưởng niệm trên các đảo cũng bị nhà nước CSVN tìm cách áp lực ngoại giao nên không được phép. Thân nhân cũng đành khép lại quá khứ theo chính sách.

Thứ năm là vấn đề gọi tên ký ức. Thảm sát hay chiến thắng Mậu Thân? Định danh ký ức cũng cần thảo luận như gọi tên cho cuộc chiến. “Chống Mỹ xâm lược“ mà hơn 5000 ngàn thường dân Việt và vài ân nhân người Đức phải chết oan uổng, thì không thể nào gọi là thắng lợi huy hoàng và có thể giải thích thuần lý.

Những hung thủ còn sống sót cũng không đủ can đảm đính chánh về cáo giác của các nhân chứng trong “Giải Khăn Sô Cho Huế“. Dù tai họ còn nghe và mắt họ còn thấy phản ứng của nạn nhân khác còn sống, nhưng khác với Hitler đã tự xử, hung thủ yên tâm hơn để nghiên cứu về Huế học, mà họ quên đi đối tượng nghiên cứu khẩn thiết nhất của Huế học là làm sáng tỏ việc tàn sát. Tên tuổi và hành vi của họ vẫn bị ràng buộc với lương tâm và lịch sử.

Chúng ta là có vô số ký ức cá nhân có giá trị lịch sử: Giải Khăn Sô Cho Huế, Muà Hè Đỏ Lửa, Dấu Binh Lửa, Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Thiên Đường Mù, Nổi Buồn Chiến TranhĐèn Cù là những thi dụ chính. Vì là tự truyện cá nhân nên có sự đãi lọc nhất định theo ý nghĩ cảm nhận và tùy theo cái gọi là lieux de mémoire của tác giả (các địa điểm liên hệ tới biến cố xãy ra để trở thành ký ức, một khái niệm của Pierre Nora). Thực ra, nhân chứng lưu giữ ký ức, họ chỉ là một người sống trong những biến cố kinh hoàng trong lịch sử, mà họ không hiểu tại sao, không lường đoán được hậu quả và giải thích các tầm mức phức tạp của diễn biến.

Do đó, chúng ta cần có sử gia, vì ký ức cần khách quan hoá theo phương pháp sử học, một tiến trình đến sau và có chọn lọc. Sử gia đối thoại với nhân chứng, vì nhân chứng biết rõ hơn các biến cố. Họ diễn dịch, sưu tầm và biên tập theo một hệ thống nhất định thành một loại đề tài chung.

Dù ký ức về chiến cuộc nhạt nhoà, nhân chứng lần lượt ra đi, quá ít sử gia chân chính, nhưng lịch sử không thể nguy tạo ký ức. Chính ký ức làm nên lịch sử. Ký ức không phải là vấn đề riêng của sử gia. Lịch sử không thuộc về sử gia, mà cho tất cả những người có liên quan và có tinh thần trách nhiệm. Những người đứng ra tổ chức các lễ tưởng niệm với các phương tiện truyền thông hiện đại cũng là một thí dụ.

Các buổi lễ truy điệu, báo chí, sách vở sẽ làm sống lại các ký ức tập thể. Những hình thức nghi lễ “hoành tráng“ của phe thắng cuộc không mang nhiều ý nghĩa đích thực để tìm ra bản chất của tưởng niệm. Những đề tài thảo luận nghiêm chỉnh về ý nghĩa của tưởng niệm là quan trọng hơn.

Nhờ thế, chúng ta viết lại lịch sử bằng cách khám phá những sự dị biệt trong ký ức với tinh thần trách nhiệm. Ký ức dị biệt của cá nhân là một phương tiện thông đạt dùng trong sinh hoạt hằng ngày khi thảo luận về những biến cố lịch sử. Ngược lại, ký ức tập thể là một sản phẩm xã hội, đẩy mạnh cho việc hình thành một bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng biết tìm đâu bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Việt?

Bản sắc dân tộc tàn phai

Dù là gọi là đất nước hay dân tộc cũng chỉ là một. Dân tộc là một ngôi nhà chung chứa đựng một linh hồn chung. Hồn thiêng này có hai phần: phần một nằm trong quá khứ, là một di sản thuộc toàn dân và ký ức lịch sử là một thành phần. Phần hai nằm trong hiện tại. Đó là tinh thần đồng thuận, cùng ước mơ chung sống để phát triển và lưu truyền giá trị của một di sản không thể phân chia. Khái niệm dân tộc này của Ernest Renan không phải là chủ nghiã dân tộc đã bị lạm dụng quá nhiều trong quá khứ.

Bản sắc văn hóa dân tộc gồm các đặc tính được duy trì trong quá trình của lịch sử và được kết tinh thành những biểu tượng để phân biệt với các dân tộc khác. Nó tạo thành những chuẩn mực giá trị cho xã hội và thể hiện tâm lý dân tộc mà các ký ức văn hoá là thí dụ.

Ký ức văn hoá theo Jan Assman gồm có việc sử dụng chính sử, tự truyện, hình ảnh và nghi lễ đặc biệt cho một xã hội trong một thời kỳ; mọi sự vun bồi này sẽ tạo nên một hình ảnh chung cho bản sắc dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có thể hiểu được giá trị truyền thống.

Chúng ta có thói quen ca ngợi bản sắc dân tộc và đơn giản hoá vấn đề, nhưng kỳ thực, bản sắc cá nhân phức tạp, vì dựa vào hoàn cảnh và điều kiện xã hội địa phương, thuộc về một thế hệ nhất định, một tôn giáo, một đoàn thể nghề nghiệp và trình độ giáo dục nào đó. Bản sắc thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời qua những biến cố của riêng mình. 
Mô tả về bản sắc đất nước càng khó hơn vì theo dòng lịch sử,  có quá nhiều biến chuyển sẽ thay thế cho các ký ức cũ phai mờ, tạo thành những bản sắc mới. Tùy theo thời điểm hay địa điểm mà bản sắc đất nước có thể tiến hay thoái hoá. Các thay đổi về giá trị qua từng thế hệ kết hợp nhau trong liên tục và tái tạo. 

Trong một thời kỳ dài đấu tranh, Đảng đã bao nhiêu lần nói là "thống nhất đất nước ta sẽ xây dựng lại ngàn lần tươi đẹp hơn". Nhưng chiến thắng năm 1975 cho phép Đảng có lý do tự phong một bản sắc mới là "trung tâm phm giá của loài người và lương tâm của thời đại". Bản sắc cường điệu này không thuộc truyền thống chân thành của dân tộc. Đảng đã không thể trau dồi bản sắc, và chiến thắng không đem lại tự do và cơm áo cho toàn thể dân chúng trong thời bình.
                                                             
Dù thành tựu đổi mới kinh tế có đem lại cho sung túc cho một thiểu số, nhưng Đảng không thể nâng cao bản sắc văn hoá vì giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi, thờ ơ của dân chúng và gương xấu của chính quyền là trở lực. Tìm lại bản sắc dân tộc đã đánh mất là điều không thể thực hiện được trước mắt, vì thành tựu của các biện pháp cải cách giáo dục và nâng cao đạo đức không thể là kết quả dễ được tìm thấy trong một sớm một chiều.

Đã đến lúc đất nước cần có bản sắc mới như là một vai trò kết nối, một khái niệm và một thành tố để xây dựng lịch sử. Nhưng làm sao nối kết những ký ức văn hoá dị biệt trong bối cảnh hiện nay. Thực ra, không ai có đủ viễn kiến để tiên đoán chuyện lý thuyết.

Nhưng sử gia không còn đi tìm những giá trị biểu tượng xa xưa, vì các biến động mới có những giá trị làm cho lịch sử độc đáo hơn. Họ dùng ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm một phương tiện nhằm tạo ra huyền thoại chính trị duy nhất cho khởi điểm mới về ký ức lịch sử cận đại. Với 40 năm trôi qua, thời gian lắng đọng để họ cùng tìm hiểu về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4. Do đó, giải ảo về nội dung ngày này cần được đặt ra.

Phản tỉnh về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975      

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 là một ngày để chúng ta nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và tìm hiểu những gì mà dân tộc đã sống trong 40 năm qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ, với các sử liệu mới, lý trí khách quan và tự do phê phán giúp cho chúng ta nhận ra sự thật. Sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biểu tượng khởi đầu cho một tiến trình tương phản phức tạp. Giá trị biểu tượng của ngày này là một nghịch lý bi đát. Chiến tranh kết thúc giải phóng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhưng không phải chỉ là vinh quang mà còn là tủi nhục; ngày miền Nam thoát khỏi chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc hiểu rõ hơn thế nào là giải phóng và hy sinh cho chính nghĩa. Cả nước vừa được giải phóng lại vừa bị hủy diệt trong một hoàn cảnh mới, không phải chỉ là thiệt hại vật chất mà còn là tinh thần, một vấn đề bản sắc.

Dĩ nhiên, chúng ta phải chấp nhận những gì đã xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì không thể thay đổi được, dù còn bị ảnh hưởng hậu quả cho đến hiện nay. Chúng ta không thể tách rời ngày 30 tháng 4 năm 1975 với ngày 3 tháng 2 năm 1930, ngày thành lập ĐCSVN, đó là một nguyên nhân khởi đầu mọi thay đổi trong các trang sử Việt.

Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một ngày toàn thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một ngày đại bại của toàn dân tộc Việt. Vì sao?

Vì nhìn lại quá khứ của công cuộc tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN chúng ta chỉ thấy một bóng tối kinh hoàng. Đó là các biện pháp truất hữu ruộng đất, ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, bài trừ văn hoá đồi trụy, thanh niên xung phong, kinh tế mới và học tập cải tạo. Theo sau là thảm kịch thuyền nhân, chiến tranh Tây Nam và phiá Bắc. Cuối cùng là kinh tế kiệt quệ để rồi ĐCSVN phải chịu có biện pháp xé rào và đối mới để nuôi dưỡng chế độ.

Với một cơ hội mới và tiềm năng cao để tái thiết hậu chiến và hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng đến năm 2015 mà Việt Nam còn tụt hậu thua Lào về canh tân công nghiệp, trình độ phát triển dân chủ kém hơn Campuchia, cạnh tranh kinh tế suy yếu hơn Hàn quốc, phát minh khoa học thua xa Thái Lan, năng lực lao động thấp nhất trong khu vực, nhưng tình trạng vi phạm nhân quyền và bất công xã hội lại là trầm trọng nhất.

Vì nhìn về tương lai chúng ta càng lo sợ hơn vì không biết đất nước và con người sẽ đi về đâu. Chủ nghĩa tư bản thân tộc tạo ra một xã hội thị trường hỗn loạn trong một nhà nước sơ khai là nguyên nhân, mà tham nhũng lên ngôi thượng đỉnh, đạo đức suy sụp tận đáy, giáo dục băng hoại và môi sinh cạn kiệt là hậu qủa. Trong khi hiểm hoạ Bắc thuộc là hiện thực, thì bất ổn cá nhân, bất trắc kinh tế và bất công xã hội vẫn còn kéo dài.

Tóm lại, chúng ta có các lý do chính đáng đ không hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa ởng niệm, hoà giải và tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4. Nhờ thế, chúng ta sẽ thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này trong tương lai. 

Ngày tưởng niệm

Hồi tưởng thuộc về một phần trong đời sống tâm linh của chúng ta. Ai đã sống trong ngày 30 tháng 4 với đầy đủ ý thức và nhận xét, thì cũng tự hỏi là ngày này mình làm gì và ở đâu và sự ràng buộc của mình trong biến cố này.

Ngày 30 tháng 4 là một ngày để chúng ta tưởng niệm về tất cả những người quá cố của hai miền, những người đã tin là mình chiến đấu cho chính nghĩa của đất nước. Chúng ta không thể quên họ và cầu mong họ siêu thoát. Đau đớn nhất là các chiến sĩ giải phóng quân; bây giờ họ không còn cơ hội để nhận ra rằng họ đã bị phản bội; tất cả công lao của họ là vô ích và vô nghĩa; cái chết của họ chỉ là phục vụ cho các mục tiêu cướp chính quyền của giới lãnh đạo vô nhân đạo.

Chúng ta sống trong gọng kềm của lịch sử dân tộc và là nạn nhân phải hy sinh cho quyền lợi của giới lãnh đạo. Cả một dân tộc không ai có tội cá nhân; không ai có tội với lịch sử. Có tội ít hay nhiều chỉ có thể quy kết cho tập thể lãnh đạo, vì họ thiếu trí tuệ và thiếu bản lãnh; họ chỉ phục vụ cho ngoại bang, chủ nghĩa phi dân tộc và không tìm cách tiết kiệm máu xương.
Chúng ta cũng hoài niệm về những nổi đau khổ của thân nhân còn sống; đặc biệt là nữ giới, đau khổ vì sự mất mát về tất cả những gì không thể giữ được từ vật chất cho đến tinh thần. Đó là đau khổ qua bị thương tổn và tật nguyền, đau khổ vì buộc phải chịu mất tài sàn, mất người thân yêu, mất nhân phẩm, cảm xúc bị tổn thương, cưỡng bức lao động, bất công nghiêm trọng và tra tấn dã man, đói khổ, giam cầm và trốn chạy.

Ngày hoà giải

Ngày 30 tháng 4 là ngày mà chúng ta không những tưởng niệm cho những người nằm xuống mà còn muốn hòa giải giữa người Việt còn sống với nhau. Chúng ta tìm kiếm hòa giải, nhưng không thể hòa giải với những người đã nằm xuống và những người không còn ký ức. Số phận chung của dân tộc liên kết chúng ta với nhau thành một định mệnh chung trong ước muốn chung sống trong hòa bình và thịnh vượng.

Trong đời sống hằng ngày, người Việt chỉ muốn sống an vui trong hiện tại và không muốn nhớ những chuyện vô nhân đạo trong quá khứ. Chúng ta chấp nhận và chịu đựng sự khắc nghiệt do số phận an bài, đó là chuyện tinh thần được đặt ra bên cạnh các nhiệm vụ khác.

Nhưng ngày 30 tháng 4 là một vết rạch hằn sâu trong lịch sử cho toàn thể, nên có một nghịch lý xảy ra, người Việt có tinh thần hồi tưởng và sẽ luôn hồi tưởng khi có cơ hội. Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Chúng ta cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì chúng ta đã sống và nghĩ không cùng trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó là một gánh nặng trong lịch sử mà chúng ta vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.

Làm sao chúng ta có thể xoá bỏ vết hằn khôn nguôi nếu không có hoà giải? Thực ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hoà giải không chỉ là tha thứ của nạn nhân về sai trái của thủ phạm, mà còn là một đồng thuận giá trị về chính trị. Đầu hàng là một thay đổi thái độ của phe thua cuộc trước phe thắng cuộc, một quyết định hợp lý của lý trí của phe thua cuộc và cần được thể chế chính trị của phe thắng cuộc bảo vệ. Vai trò luật pháp là điều kiện thể chế tiên quyết để bảo vệ họ. Khuôn khổ cho hoà giải là bình đẳng trước pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của phe thắng cuộc. Sự đồng tình của cả hai phe sẽ đem lại ý nghiã chung sống. Đó là một khuôn khổ xây dựng lại mối quan hệ và niềm tin cho xã hội và tạo lập một cộng đồng cho tương lai.

Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, các nước Nam Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El Salvador, Guatemala và Rwanda đã tìm ra một căn bản đồng thuận cho tiến trình hoà giải, mà đạo đức là mục tiêu và luật pháp là phương tiện. Vì say men chiến thắng mà kinh nghiệm hoà giải chính trị hậu xung đột không là vấn đề quan trọng để Việt Nam quan tâm học tập, cải tạo tập trung là trường hợp minh chứng ngược lại.

Sau ngày Đổi Mới, Việt Nam khởi đầu tiến trình hoà giải chính trị bằng Nghị Quyết để nhằm thu hút tài năng trí tuệ và đóng góp tài chánh. Nghị Quyết không đề ra sư tương thuận của phe thua cuộc; khuôn khổ pháp luật làm nền tảng và tinh thần đạo đức dân tộc làm nội dung cho hoà giải cũng không có. Việt Nam chỉ đo thành tựu Nghị Quyết bằng lượng kiều hối, du lịch và giao lưu văn nghệ trong ngoài. Hoà giải loại này không đem lại một niềm tin chung hướng về tương lai.

Trong nỗ lực hoà giải có một thử thách chung cho hai phía. Sẵn lòng hòa giải phải phát sinh từ trong nội tâm và do ngoại cảnh, không phải là vấn đề mà phe thắng cuộc đòi hỏi nơi phe thua cuộc theo tinh thần Nghị Quyết, nhưng là tự nội tâm của mỗi phe đòi hỏi nơi chính mình, đó là khởi điểm quan trọng nhất.

Cụ thể là liệu phe thắng cuộc có thể thực sự tự đặt mình trong hoàn cảnh của phe thua cuộc đựợc không hay phe thua cuộc có tin tưởng vào thành tâm hoà giải của phe thắng cuộc được không? Liệu Nghị Quyết một chiều có phải là một cơ sở ràng buộc nhau không? Cả hai phải nhận ra những gánh nặng của nhau, xem có chịu đựng nhau không và có quên quá khứ được không?

Cả hai phe làm gì trong tiến trình này? Chủ yếu là phe thắng cuộc cần có ý thức hơn để tìm lại nguyện vọng trung thực của phe thua cuộc; thay vì diễn binh mừng chiến thắng chỉ khơi động lại lòng thù nghịch, phe thắng cuộc nên can đảm hơn là đem tàu ngầm hiện đại ra biển Đông để bày tỏ quyết tâm trước Trung Quốc, phô trương này sẽ gây tác động hoà giải dân tộc cao hơn. Thay vì ngăn cản tưởng niệm, nên thành tâm bày tỏ thương tiếc những người của hai phiá đã hy sinh bằng cách xây một tượng đài chung, một hình thức tỉnh ngộ về sự lầm lạc chung của cả dân tộc trong cả một giai đoạn lịch sử. Họ nên đãi ngộ người đóng góp còn sống, một hình thức xoa dịu thương đau xã hội; nỗ lực hoà giải với người đối kháng và trực tiếp đối thoại trong tinh thần dân chủ là thực tế hơn, vì không phải ai có quan điểm đối lập chính trị với chính quyền cũng đều là những phần tử suy thoái đạo đức và phản động.
  
Phe thua cuộc cũng cần có nhận định nghiêm chỉnh hơn về ý nghĩa cao cả của tha thứ. Tha thứ là tìm hiểu và mến yêu người sai phạm. Hiểu nhau là vì đã tìm thấy lại nhau trong một quá khứ chung lầm lạc. Yêu mến nhau là vì cùng có một số phận và ý chí chung sống để xây dựng tương lai đất nước.Thực tế ngược lại. Một số không nhỏ của phe thua cuộc tự nguyện tìm đến phe thắng cuộc vì những bả lợi danh cuối đời, những lạc thú do những chênh lệch giá cả tại quê nhà, ngay cả những hạnh phúc thoáng qua như tiếng còi hụ đưa đón. Đó là một sự sĩ nhục mà một số trong phe thua cuộc tự tạo ra, vì trong khi cho đến ngày hôm nay, vẫn còn có rất nhiều người khả kính, can trường và liêm chính trong chiến bại.

Tương lai của hoà giải không ai biết được, nhưng khởi động một trào lưu nhận thức mới về tinh thần hoả giải là khẩn thiết, vì các thế hệ tham chiến sẽ lần lượt ra đi và các thế hệ nối tiếp sẽ không đủ quan tâm để giải quyết.

Ngày tỉnh thức

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 bắt đầu một chương mới trong lịch sử Việt Nam và một thế hệ mới đang trưởng thành. Giới trẻ không có các ký ức dị biệt và không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng họ đang và sẽ có trách nhiệm đối với những gì sẽ trở thành lịch sử. Họ sẽ đóng một vai trò chính về số phận của con người, đất nước và dân tộc trong khoảng thời gian bốn mươi năm tới. Nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại có ý nghĩa tỉnh thức vì ký ức cá nhân kéo dài chỉ trong bốn mươi năm. Nếu ký ức phai nhạt thì những gì quan trọng khác còn lại cũng không còn ý nghĩa. Thế hệ tham chiến cần giúp cho giới trẻ hậu chiến tìm hiểu về sự thật của lịch sử, không thiên vị theo ý thức hệ, trốn chạy trách nhiệm và nhân danh đạo đức. Đâu là giá trị tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4?

Chúng ta cần can đảm đnói cho thế hệ hôm nay biết là hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính; nay lại hy vọng là Hoa Kỳ đoái thương dân Việt. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ sẽ không có phép lạ nào để biến đổi nội tình Việt Nam hôm nay và sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam mai sau. Mỹ đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc cho đến xương máu của người Mỹ cuối cùng thay cho Việt Nam, như miền Bắc Việt Nam đã hãnh diện chống Mỹ thay cho Trung Quốc trong quá khứ.

Do đó, giới trẻ nên tỉnh thức để tránh lầm lạc của bậc cha ông. Đó là do khuấy động các ý thức hệ đối nghịch, hận thù lầm lạc và gian dối lẫn nhau mà Việt Nam đã có chiến tranh. Do bất tài, bất xứng và bội tình mà thế hệ cha ông đã không để lại được một non sông gấm vóc cho con cháu thừa hưởng; “Gia tài của mẹ, một nuớc Việt buồn“, nếu nói theo nhạc của Trịnh Công Sơn.

Từ tỉnh thức này mà giới trẻ sẽ lưu truyền các ký ức lịch sử và không để bị lôi cuốn vào những hận thù và chống đối nhau, mà cố gắng liên tục học hỏi để tìm cách chung sống với nhau trong tình hiếu hoà và nhất là sẽ có ý thức trách nhiệm nhiều hơn cho tương lai đất nước.  
Thế hệ hậu chiến và tương lai

Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho thế hệ hậu chiến trưởng thành. Họ có trách nhiệm chính trị cho đất nước trong thời kỳ mới. Nhưng họ phải nghĩ gì và làm gì để canh tân đất nước và tìm lại độc lập cho dân tộc?

Nghĩ gì? Thách thức vô cùng to lớn khi thế hệ hậu chiến cần có nhiều ý thức và kinh nghiệm hơn để đảm nhiệm trọng trách này. Đó là vấn đề còn mở rộng để tranh luận, nhưng họ có bốn khó khăn chính.

Một là, họ không kế thừa một phương sách khả thi nào. Đảng đã không thể lý giải được cơ chế Kinh tế Thị trường và Nhà nước Pháp quyền theo định hướng XHCH là gì. Đảng cũng tự nhận là đã theo một đường lối không có cho đất nước. Vì nhận hư thành thực cho nên Đảng cũng không thể hoàn thiện đường lối này cho đến cuối thế kỷ XXI. Nhưng Đảng sẽ vượt qua các chống đối bằng cách dùng bạo lực đàn áp để duy trì chế độ, một bất hạnh cho toàn dân.

Hai là, họ không thể phát huy các kinh nghiệm cuả bậc cha ông. Các kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng Tám và Đại Thắng Mùa Xuân không còn phù hợp với trào lưu đấu tranh bất bạo động cho Việt Nam, mà đó là một giải pháp tương ứng khả thi. Thành quả cuả Cách Mạng Đông Âu, Đông Đức, Miến Điện và Muà Xuân Á Rập là những bài học mới thích hợp hơn, nhưng họ chưa thể huy động được dân chúng vì thái độ vô cảm chính trị của đa số.

Ba là, họ không thể hy vọng là được Đảng chuyển giao quyền lực cho dù họ có khả năng và tâm huyết, vì thân tộc của lãnh đạo còn vây quanh. Trong một xã hội thị trường đang thay đổi hỗn loạn, họ không thể tiên đoán được là đổi mới chính trị sẽ hình thành như thế nào. Tất cả đều tuỳ thuộc vào một số quan niệm về tương lai, những cách đánh giá khác nhau về ý nghĩa của xu hướng hiện nay và về các chuẩn mực để giải quyết các khác biệt, thí dụ như vi phạm nhân quyền và tự do báo chí.

Bốn là điều kiện ý thức về truyền thống lịch sử và chuyển hoá chính trị. Từ thắng lợi của việc cướp chính quyền mà Đảng tự hào về thành tích làm nên "Ý nghĩa Lịch sử" cho dân tộc. Nhưng ý nghĩa lịch sử này không phải là những gì đã được Đảng tuyên bố, mà giới trẻ cần khám phá lại. Nhu cầu giải ảo ngụy sử và niềm tin về tương lai dân chủ cần đến các điều kiện trí thức. Đó là kiến thức và ý thức về chính sử và dân chủ, để từ đó làm cơ sở cho tinh thần xây dựng. Kiến thức là khởi điểm cho ý thức và có kiến thức thì mới có ý thức để xây dựng một ý chí chung sống.

Tuy nhiên, thực tế bi quan hơn, vì sử học và kinh tế chính trị học không còn thu hút giới trẻ, một môn mà người học không muốn học và người dạy không muốn dạy. Sự tụt hậu là do một hệ thống giáo dục gian dối và ngụy sử làm mất niềm tin về giá trị cuả toàn xã hội qua nhiều thế hệ.

Ý thức về lịch sử và dân chủ do đào tạo mà ra, có tính thuần lý vì do lý trí hướng dẫn và được đãi lọc qua thời gian. Học chính sử giúp giới trẻ lý luận và phán đoán về sự thật của lịch sử. Ý thức về lịch sử sẽ tạo nên một thái độ chung đối với lịch sử, một khả năng để giải ảo, một loại trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và có tình cảm dân tộc.

Do đó, hy vọng còn lại là giới trẻ sẽ phát huy tinh thần tìm hiểu và mến yêu lịch sử và giá trị của dân chủ. Sự thật lịch sử sẽ là bước khởi đầu và giới trẻ phải tìm kiếm sự thật giữa dòng lịch sử. Giới trẻ có thể so sánh lịch sử tương lai như một dòng sông, nhưng các dòng nước sẽ luôn biến đổi mà họ đang khởi đầu bơi lội và cũng không biết đi về đâu, như một câu nói quen thuộc là "Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông".  Nhưng có ý thức lịch sử và dám dấn thân làm lại lịch sử cho dân tộc là một hy vọng khởi đầu.

Làm gì? Giới trẻ cần thảo luận để nhận ra điều kiện đem lại hoà bình và thịnh vượng cho đất nước. Mọi vấn đề hiện nay có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên. Nhưng sự hợp tác về một chính sách ngoại giao Trung-Việt ổn định và tương kính là khả thi, khi Việt Nam đủ khả  năng chứng tỏ là một người bạn đối tác đích thực bình đẳng và không phải chỉ bằng ngôn ngữ bóng bẩy như hiện nay. Với nỗ lực của nhiều thế hệ, chúng ta hy vọng là Việt Nam sẽ đạt được một phần nào những mục tiêu này.

Việt Nam sẽ đi về đâu? Không ai biết rõ, nhưng chắc một điều là đất nước dù năng động đến đâu đi nữa, thì Đảng cũng sẽ không còn phép lạ khi Đảng không tự chuyển hoá. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưng cầu toàn đ canh tân đất nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hoá  hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.


  1. Tàu Cộng, Vc: Kẻ Thù Chung

    https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiUCYDDQO8scE06SGzksDeDYdf50n68KMyuRrHP6hW3755BEg7PXu79n2xN7P1LcZ_DZX15nkixp_TlbOwpnwWO04P9gwzrjxbPZ5ag_LsHrV_TKepRp1AwG9ubzy-vFHhUs1NUOQtYX28W/s1600/Tam+Hinh+Rat+La.jpg


    Vi Anh

     
    Tàu Cộng, Việt Cộng là kẻ thù chung của quốc gia dân tộc Việt Nam trong thời CSVN. Kẻ thù chung là phải cùng chống, không để mất thì giờ tranh luận chẻ sợi tóc ra làm đôi, làm ba, vô ích. 

    Cả hai TC và VC là chánh phạm, là đồng chánh phạm, là đòng loã với nhau, vừa giặc ngoại xâm, vừa  giặc nội thù của người Việt, chung làm nội tuyến cho TC. Cả hai kẻ thù chung ấy đã, đang hai mặt giáp công, ngoài đánh vô, trong đánh ra để cướp chủ quyền quốc gia dân tộc VN. Chúng  vừa cướp dân quyền của người dân VN, vừa cướp giang sơn gấm vóc biển đảo của dân tộc VN. Đó là sự thật toán học, như hai với hai là bốn, sự thật lịch sử Ông Trời cũng không thay đổi được.

    Bàn luận, tranh luận, tham luận đề tài rất vô ích, là đánh Tàu Cộng trước hay Việt Công trước chỉ làm chệch hướng tranh đấu, chiến đấu của dân chúng và đoàn thể Quốc gia, và làm chia rẽ mục tiêu chánh, mẫu số chung của người chống CS.

    Như  vụ cái người  tự xưng tiến sĩ, thoái sĩ, Bùi Hiền hay Buồi Dữ nào đó đưa mấy chữ gọi là cải cách quốc ngữ làm cho quốc ngữ thành dị hợm, như Hồ chí Minh thay chữ k cho chữ c, chữ ê cho chữ a, tào lao đến mức ngay đám đảng viên CS đa số i tờ cũng không theo, không xài nên bị cho vào sọt rác. Bùi Hiền còn cắt ké hơn Hồ chí Minh nhiều thì cải cách của y sẽ vào sọt rác sớm hơn.. Nếu dư giờ thì nói chuyện với đầu gối còn có lý hơn bàn về vụ Bùi Hiền cải cách quốc ngữ mà đằng sau là một mưu kế do CS dàn dựng để chia rẽ người Việt Quốc gia với người Việt Cộng sản, để làm chệch hướng đấu tranh chống Cộng của dân chúng VN trong ngoài nước.

    Trái lại cứ kiên trì, quyết tâm chống CS như chí sĩ Phan bội Châu khuyên kiên trì, trường kỳ chống Thực dân Pháp thì có ich và có lý hơn hơn. “Đời ta không thành, thì có con ta;  con ta không thành thì có cháu ta”.

    Cứ chống đa dạng, đa diện.  Bằng biểu tình bất bạo động. Bằng bám thắc lưng địch đấu lý. Bằng bất tuân hành dân sự như anh chị em xe hơi chống trạm thu tiền mãi lộ của CS ở Cai Lậy bằng tiền lẻ để gây cản trở lưu thông trên quốc lộ khiến Thủ Tướng CS phải ra lịnh xả trạm cả tháng. Bằng biểu tình đem cá chết vì ô nhiễm ra ngăn cản lưu thông quốc lộ. Bằng biểu tình ngồi cầu nguyện đòi trả đất cho Dân Oan, cho tôn giáo Bằng quốc tế vận, đưa nạn nhân CS vào uỷ ban quốc hội Mỹ tố cáo công an CS vi phạm nhân quyền, cắt cổ người dân trong đồn. Bằng gởi kiến nghị đến cơ quan chánh quyền ngoại quốc và tổ chức Liên hiệp quốc chánh trực đòi thả tù nhân chánh trị.

    Chống liên tục, nhiều nơi, xa luân chiến, trương kỳ kháng chiế, v.v. và v.v.,  người dân Việt có hàng ngàn sáng kiến chống đối. Người dân Việt ‘giặc đến nhà đàn bà cũng đánh’, tinh thần chiến đấu ấy đã thành ca dao, tục ngữ. TT Trump  trong hội nghị APEC ở Đà nẵng đã nhắc lại gương sáng Hai Bà Trưng đứng lên chống quân Tàu giành lại quyền độc lập cho VN. Bây giờ cần và phải chống kẻ thù chung là CSTQ và CSVN là tốt.

    Cái không tốt, cái hại trong công cuộc chống CS là không làm, không dự, không giúp, đứng ngoài, ngồi trong phòng lạnh, bóng mát mà phê bình, chỉ trích, bình luận bình loạn lên, học đòi tác phong, hành động giả đạo đức của CS, thiên tả, phản chiến Mỹ dạy đời, ‘giáo dục quần chúng’ nên “để dĩ vãng ra sau, hướng về tương lai phía trước”, nên ‘hoà giải hòa hợp’ với CS, CSVN bây giờ có chánh quyền có ngoại giao với Mỹ, mà còn chống làm gì - là những lời bị phong trào chống CS  và dân Việt ty nạn CS phản đối và tẩy chay quyết liệt.

    Nhờ người dân Việt trong ngoài nước xa luân chiến và trường kỳ đấu tranh chánh trị chống CSTQ và CSVN mà cả Hành Pháp lẫn Lập Pháp Mỹ đã bày tỏ thiết tha đến Biển Đông và gián tiếp binh vực Phi luật tân và Việt Nam là hai nước bị TC xâm lấn biển đảo nhiều nhứt. Thượng Viện Mỹ thông qua và công bố Nghị Quyết S.Res.524 cam kết Mỹ sẽ  hỗ trợ các nước trong khu vực đảm bảo cường thịnh và độc lập, vì hoà bình và ổn định của khu vực.

    Người dân Việt trong ngoài nước đấu tranh chống kẻ thù chung Tàu Cộng lẫn Việt Cộng đã thành lực lượng càng ngày càng lớn mạnh.

    Nhờ người dân Việt trong ngoài nước đấu tranh mà Đảng Nhà Nước CSVN chia rẽ, rất lợi cho cuộc đấu tranh của người dân. Phe chủ trương đi với Mỹ để thoát Trung, bớt lệ thuộc kinh tế chánh trị TC. Đó là những người CS cấp tiến, do đa số người Nam trong đó có Nguyễn tấn Dũng. Con phe bảo thủ, giáo điều thần phục TC nắm đảng quyền do TBT Nguyễn phú Trọng cầm đầu bị dân thù ghét. 74% dân số VN muốn nhà cầm quyền đi với Mỹ, theo thăm dò của PEW.

    Thế nước lòng dân VN cho thấy phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN, đấu tranh cho vẹn toàn lãnh thố, chống quân Tàu Cộng lẫn Việt Cộng trong lẫn ngoài nước càng ngày càng phát triển số lượng cĩng như qui mô đấu tranh, tỏ ra cần thiết hơn bao giờ hết cho quyền lợi chân chính của dân và nước VN.

    Bất mãn, nản lòng, thụ động, buông xuôi, hay chạy theo chánh trị gia thực dụng ở Washington hay Bắc kinh muốn  làm thay nghĩ thế hoặc hòa giải hòa hợp với CS để họ tự tung tự tác, giải quyết vấn đề VN trên đầu trên cổ người dân VN trong ngoài nước - là giải pháp dễ, nhưng dở, và di hại lâu dài, bị chống đối manh mẽ.

    Trái lại quyết tâm đẩy mạnh, mở rộng thế cuộc đấu tranh trong nước và quốc tế vận cho phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN song song với chống TC xâm lược và VC thông đồng với TC là một tác động hướng thiện, trở thành liên minh bền vững, một qui trình không thể đảo ngược./.(VA)

  2. Câu chuyện Bùi Hiền
    Nguyễn Quang

    Đây quả là gáo nước lạnh tạc vào mặt mỗi người dân Việt Nam, nước mất đến nơi rồi mà không hay biết vì có tiếng nói của Tiền nhân “Tiếng ta còn, nước ta còn”, mất tiếng nói xem như đã mất nước![1]
    Hiện tượng Bùi Hiền, ở đây, không bàn chuyện về ngữ học, nhưng xét về trách nhiệm của người lãnh đạo trong cơ cấu Nhà nước đang lụi tàn.
    Trưởng ban tư tưởng, tuyên huấn, Bộ trưởng Văn Hóa, Giáo dục… Thủ tướng đi đâu vắng nhà?
    Hàng ngày người thân chúng ta tại Việt Nam phải dùng toàn thực phẩm chế biến từ hóa chất độc hại đến không khí ô nhiễm, dọc duyên hải miền Trung với rừng vàng biển bạc nay trở thành Biển chết. Cả dân tộc bị diệt vong, Hán hóa từng ngày. Việt Nam đang là một bãi rác khổng lồ của Trung Quốc. Đó là về vật chất.
    Công việc trị nước cốt ở yên dân, nhưng đối với người dân dưới chế độ cộng sản thời không bao giờ được bình an, vì điều dễ hiểu chính quyền chuyên chính vô sản, đó là biết gây mâu thuẫn để triệt hạ con người, một quy tắc nền tảng của biện chứng pháp duy vật.
    Sự ném đá tối đa trên mạng xã hội đủ nói lên giới cầm quyền đã quăng được miếng mồi cho quần chúng để thực hiện các âm mưu đen tối của Bộ chính trị như bán biển đảo, tham nhũng, tao sự phân hóa sâu xa trong xã hội ngõ hầu dễ dàng trị người.
    Chúng ta dần quên đi Mẹ Nấm và hàng trăm tù nhân lương tâm đang bị giam cầm vì tự do, dân chủ cho Việt Nam. Các thế hệ tương lai sẽ không biết được lịch sử của nước Việt Nam, và thảm họa tại Việt Nam hiện nay, học sinh rất ghét môn lịch sử, không phải các em chối bỏ cội nguồn nhưng tất cả đều biết rằng đó là một môn học tuyên truyền, dạy nói láo. Do đó nay với loại chữ “Záo Zụk”, sẽ khiến các thế hệ sau này mất nguồn gốc ở ngay trên quê hương của mình. Rồi Tàu Cộng sẽ đồng hoá người Việt Nam rất dễ dàng.
    Tập đoàn cộng sản Hà Nội đang làm trò xiếc bán nước gì nữa đây? Khi chúng ta chỉ quanh quẩn những chuyện thứ yếu mà quên mất non sông bờ cõi không còn nữa. Một đảo Phú Lâm thuộc Trường Sa với sự xuất hiện của máy bay vũ khí tối tân của Trung Quốc, một trong những mũi tấn công chớp nhoáng vào Sài Gòn nhanh chóng khi có biến động.
    Chúng ta quên đi các Hiệp ước Genève 1954 và Paris 1973 vẫn còn giá trị về mặt công pháp quốc tế cho việc thừa nhận mặc nhiên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
    Nhân cách lãnh tụ định hình nhân cách quốc gia, đề tài “ngáo đá” này được đưa ra không chỉ từ một cá nhân nhưng có sự toa rập của cả hệ thống chính trị cộng sản. Nó xuất hiện trong một cuộc hội thảo tầm cỡ Đại Học do Đại học Qui Nhơn tổ chức và sau đó là các báo lề phải. Những con người không đủ tầm vóc quốc gia đang điểu khiển đất nước.
    Trong khi tiếng Việt đã là một hệ thống chữ viết ký âm cố gắng biểu đạt được chính xác cách nói, cách viết của người Việt trong cả nước. Như vậy có thể khẳng định rằng tiếng Việt là một hệ thống ngôn ngữ hoàn chỉnh đã trải qua hơn 400 năm từng được tu chỉnh, và hệ thống hoá. Tiếng Việt sẽ có cơ hội tốt để trở thành một ngôn ngữ quốc tế. “Chữ Nôm hay Chữ Quốc Ngữ đều là hệ thống chữ viết ghi âm, tức là dạng chữ viết ở mức phát triển cao nhất trong lịch sử chữ viết loài người.”[2] 
    Nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh đã tin tưởng: "Nước Nam ta mai sau này, hay dở cũng ở chữ quốc ngữ."[3]
    Thế giới đang biến đổi nhanh đi vào thời siêu điện tử, bên sau lỗ đen hãy còn nhiều hố đen, và từ ngoài vũ trụ có những kết quả không cùng nguyên nhân. Ở đây và bây giờ, sự vững mạnh về quyền lực kinh tế và ảnh hưởng tiếp tục thay đổi từ tây sang đông một cách mạnh mẽ mà vai trò của Việt Nam hiện đang ở đâu, trong khi con dân cứ chạy được là cứ đào thoát khỏi quê hương hay sao?
    Chúng ta suy nghĩ gì khi “Kiến vi tri trứ”, biết chuyện nhỏ để biết cái lớn lao, nhân loại chuyển trực tiếp từ tiền mặt sang thanh toán trực tuyến di động - bỏ qua giai đoạn trả bằng chi phiếu và thẻ tín dụng. Trong khi chúng ta đang nợ trần đã vượt ngưỡng cửa và khi một cháu bé ra đời đã gánh nợ từ cha ông chúng để lại. Rồi còn phải đi học đánh vần xóa mù chữ “ngáo đá”.
    Chúng ta người Việt Nam dù trong hay ngoài nước, hãy nhớ rằng cả xã hội Trung Cộng ngày nay từ đảng đến dân chỉ biết chạy theo đồng tiền và câu nói của Tôn Dật Tiên về Trung cộng hãy còn đó “Trung Hoa là một thau cát”. Nên chúng ta đừng sợ! Đừng bao giờ sợ!
    Sự phá hoại tiếng Việt, làm cho các thế hệ tương lai không đọc được chữ Việt, không hiểu được tư tưởng và đạo đức của người Việt Nam mà chúng ta đã dày công xây dựng trong hơn 400 năm qua.
     Đó là âm mưu cực kỳ thâm độc của công cuộc Hán hóa mà nay qua lòng tham vô đáy của họ Tập. Trong thế chiến lược hiện nay, cho dù Hoa Kỳ tấn công Cộng Sản Bắc Hàn thì bất luận là Trung Cộng cứu hay không cứu Bắc Hàn, các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam vẫn có thể bị ảnh hưởng, rất có thể bị tấn công. Vì một điều dễ hiểu Trung quốc cũng phải chứng tỏ siêu cường, khi Hoa Kỳ tấn công Bắc Hàn, một sân sau của Trung quốc, Hoa Kỳ cũng phải nhường cho họ để cùng tồn tại. Thế giới hôm nay không có kẻ thắng, người thua mà là “win - win”, đó là lối chơi rất song phẳng “Fair Play”.
    Các số liệu mới nhất tràn ngập người ở cửa biên giới phía Bắc mỗi ngày với hơn cả vạn người Trung Quốc sang Việt Nam qua chương trình du lịch 0 đồng, do nhà nước Trung quốc tài trợ. Tàu đến Việt Nam và có bao nhiêu du khách trở về, đố ai kiểm soát ?!
    Những chuyện cải tiến ‘Tiếq Việt’ đến rầm rang BOT Cai Lậy ..v.v.. thật sự chỉ là âm mưu đánh lừa dư luận ‘giương Đông kích Tây’ của bọn tay sai Trung Nam Hải ở Hà Nội trong âm mưu thôn tính toàn diện Việt Nam.
    Những chuyện “ngáo đá” đòi sửa tiếng Việt đã có từ lâu, không phải bây giờ mới xuất hiện. Bậc thầy “ngáo đá” này phải kể đến Hồ Chí Minh, khi ông muốn hủy diệt tiếng Việt từ lâu, kể cả xuyên tạc và vô ơn đối với các ân nhân đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, Hồ viết trong một văn bản "Tuyệt đối bí mật" hết sức quan trọng là di chúc, ông đã dùng chữ "z" thay cho chữ "d" hoặc thay chữ "ph thành chữ "f", bỏ âm "h" trong từ "nghị" thành "ngị", và trong các văn bản khác trước đó như "Đường Kách mệnh"…
    Không thể dùng “k” thay chữ “c”, “q”, “k”; vì qui tắc viết chính tả và phát âm chuẩn của “cuốc” khác với “quốc”; hơn nữa “k” khi ghép với “h” để thành chữ cái phụ âm kép “kh” ở đầu một chữ thì phải phát âm rất khác với “k”; như trong các chữ “kê” và “khê”, “cô” và “khô”, “ki” và “qui” và “khi”. Cách phát âm chuẩn và qui tắc viết chính tả của những chữ này hoàn toàn khác nhau, nếu gọp chung lại để thay thế bằng một mẫu tự “k” đúng là một chuyện phá bỏ qui tắc chính tả một cách có quy luật của chữ Quốc ngữ.
    Không thể dùng chữ cái “q” thay chữ cái phụ âm kép “ng”, “ngh”; vì mẫu tự “q” không có ở đầu và  cuối của một chữ trong tiếng Việt. Nếu dùng một chữ cái “q” để thay thế “ng” và “ngh” trong chữ “nghe ngóng”để trở thành “qe qóq” thì đúng là quái đản. Qui tắc viết chính tả tiếng Việt chữ “ng” ở đầu chữ được viết với các nguyên âm “a, o, ô, u, ư” thành những chữ “nga”, “ngo”, “ngô”, “ngu”, “ngư”. Chữ “ngh” ở đầu chữ được viết với “i, y, e, ê” thành những chữ “nghi”, “nghy”, “nghe”, “nghê”. Như vậy theo đề xuất của họ Bùi thay chữ “ng”, “ngh” bằng một chữ “q” thì phải bỏ qui tắc viết chính tả rất hoàn chỉnh của tiếng Việt! Đúng là một đề nghị rất sai trái không thể chấp nhận được!
    Quả thật, người dân Việt Nam có một loại chữ viết riêng, rất đặc thù, rất chính xác tương đồng với tiếng  nói; điểm quan trọng nhất là để dứt khoát tách ra khỏi bị ảnh hưởng nặng nề của hệ thống chữ Hán truyền thống của Trung Quốc. Cho đến nay người Việt chắc chắn đã có được một kho tàng văn học đồ sộ và phong phú với rất nhiều bộ sách quý, bộ tài liệu giá trị, bộ sách lịch sử, địa lý, khoa học, tác phẩm văn chương, thi ca, triết học, luận lý, đạo đức, tu từ học, ca dao tục ngữ và truyện cổ tích. Có cả tác phẩm Chiến Tranh & Hòa Bình Việt Nam được đề cử cho Giải Nobel Văn Học.
    Cái quan trọng và thiết yếu nhất là nước Việt Nam cần phải cách mạng chính trị, kinh tế toàn diện xã hội  “Con người là nạn nhân của cơ chế nhà nước toàn trị và chỉ có thể được giải thoát bởi một cơ chế Dân chủ qua đường lối mới nhân bản”. Một triết lý sống an vi cho người Việt.
    Vấn đề Bùi Hiền, nó là một trong những chuyện rất bát nháo tại quê hương Việt Nam hôm nay, một đề xuất không mang tính khoa học, cẩu thả, làm nghèo tiếng Việt, hà tất sẽ bị đào thải theo thời gian, vì nếu đó là thứ ngôn ngữ đáng trân trọng, người dân đã làm theo cách mà Thiếu tá Hồ Quang đã đề ra như tên tiêu đề một tác phẩm theo cách viết “Đườq Kách mệnh”. Nghĩa là như luật cổ La Mã có câu “Ni affirmative, ni negative”. Những gì không xác định không cần phải phủ định.
    Giải bài toán Việt Nam hiện nay, đó là thực hiện quyền dân tộc tự quyết của người Việt Nam tiến đến một chính thể mới ra đời: Dân Chủ Pháp trị để dẫn đưa xã hội từ hỗn mang đến trật tự văn minh –Ordo Ab Chaos
    Nguyễn Quang
    [1] Trong tạp chí Nam Phong, số 86 (năm 1924), Phạm Quỳnh viết:
        Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; 
          Tiếng ta còn, nước ta còn.
           Có gì mà lo, có gì mà sợ, còn điều chi nữa mà ngờ
    [2] Chữ Quốc Ngữ qua những biển dâu. Tác giả Đoàn Xuân Kiên
     [3]. Nguyễn Văn Vĩnh viết câu nầy trong bài tựa bản dịch bộ Tam quốc chí diễn nghĩa do Phan Kế Bính dịch, xuất bản ở Hà Nội năm 1909. (Dương Quảng Hàm, sđd. tr. 398.)
       

  3. PEW: Dân VN Chán Chê CS

    image


    Trung tâm nghiên cứu quốc tế PEW trụ sở ở Mỹ vừa mới khảo sát, công bố kết quả như sau. 87% người dân Việt ủng hộ hình thức dân chủ đại diện, tức hình thức người dân bầu dân biểu đại diện cho dân ở Quốc hội và các dân biểu này thay mặt dân quyết định việc nước, chuyện dân. Và 73%  ủng hộ hình thức dân chủ trực tiếp. Với hai hình thức dân chủ này, mọi công dân trực tiếp tham gia vào việc quyết định các chính sách của quốc gia thông qua bỏ phiếu hoặc trưng cầu dân ý. 70% người được hỏi trả lời là chán chê chế độ CS độc tài đảng trị toàn diện hiện hành, và “ủng hộ chế độ do quân đội lãnh đạo”, vẫn tốt  hơn CS. 67% người Việt Nam ủng hộ một hệ thống cai trị trong đó các chuyên gia, chứ không phải các những người dân cử là người đưa ra các quyết sách mà theo họ là tốt nhất cho đất nước.

    PEW là một trung tâm nghiên cứu phi đảng phái, trụ sở tại Mỹ. Pew chuyên nghiên cứu về các vấn đề, thái độ và xu hướng có tính định hình thế giới, thông qua các cuộc thăm dò ý kiến công chúng và phân tích, nghiên cứu về nhân khẩu học, xã hội học. Trung tâm này khẳng định không dựa trên bất cứ lập trường chính trị nào.

    Dĩ nhiên về kỹ thuật đây là một thăm dò dân ý khá chuẩn và trung thực nhờ các dụng cụ truyền thông như điện thoại di động, và các loại trang mạng xã hội khác, nhà cầm quyền độc tài như CSVN khó ngăn chận.

    PEW có phân loại theo tuổi tác nhưng không thấy phân vùng, CS Bắc Việt và VN Cộng hoà. Nhưng cũng không quan hệ lắm vì ý thức hệ của người hai vùng sau 42 năm, lớp trẻ sanh sau 30-4-75 bây giờ nhiều, không còn gay gắt như trong thời Chiến tranh VN, đất nước chia đôi mấy chục năm trời.  Khảo sát của PEW có ghi chú trong số những người ủng hộ quân đội cầm quyền, người trên 50 tuổi đông gấp đôi số người ở độ tuổi 18 – 29 (46% so với 23%).

    PEW đưa ra kết quả thăm dò khảo sát trước thời gian TT Trump đến VNCS tham dự hội nghị APEC và ra thăm Hà nội, gặp Chủ Tịch Nước Trần đại Quang của VNCS. Nên không khỏi có nhiều tranh cãi giữa các cựu quân nhân của VNCS và cựu quân nhân VN Cộng Hòa. Tranh cãi có gay cấn hơn giữa những đảng viên CSVN và những nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền và sự vẹn toàn lãnh thổ VN trong nước.

    Trên Đài VOA có ghi nhận môt số ý kiến của người trong chế độ CSVN. Người thì nói 70% ủng hộ quân đội cầm quyền tại Việt Nam có thể là do sự “hoài niệm quá khứ”, là do truyền thống quân đội, do quân đội cũng sạch sẽ hơn công an, ít tham nhũng hơn công an”. Nhưng cũng có người nói không phải vậy. Hiện nay quân đội CSVN mất uy tín rất lớn”. Quân đội hiện tại “bạc nhược” và “chịu sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “quân đội hoàn toàn không bảo vệ được chủ quyền đất nước”; tham nhũng trong quân đội quá lớn. Ý tưởng quân đội cầm quyền khá xa lạ với người dân Việt Nam. Ý tưởng này chưa từng xuất hiện trên bất cứ diễn đàn hay cuộc thảo luận về chính trị nào, kể cả “lề phải” lẫn “lề trái.”

    PEW cho biết trong số 5 hình thức quản trị được đưa ra trong cuộc khảo sát tại Việt Nam, chỉ có hình thức “cai trị bởi một lãnh đạo mạnh mẽ” mà không có sự can thiệp của tòa án hoặc nghị viện là có số lượng người phản đối nhiều hơn (47%) so với số người ủng hộ (42%).

    Cũng có người nói Đảng Cộng sản độc tài đảng trị toàn diện lâu nay,  bây giờ “yếu kém, đuối lắm rồi. Nhưng nếu không có nó thì vô chính phủ là cái chắc. Mà vô chính phủ thì chết”.

    Với kết quả khảo sát dân ý như thế, chế độ CS đang bị coi là một chế độ độc tài đảng trị toàn diện quá tệ. Kết quả PEW lại công bố trước khi TT Trump và phái đoàn liên bộ qua VNCS để hội nghị APEC tai Đà Nẵng, Việt Nam, và sau đó TT Trump ra Hà nội viếng thăm nước chủ nhà theo nghi thức. Có tin TT Trump chỉ gặp Chủ Tịch Nước mà không gặp Tổng bí thư.

    Được biết Đài RFA của Mỹ hồi năm 2016, cũng có đi một tin liên quan đến kết quả thăm dò của PEW cho biết [xin phép ghi lại nguyên văn cho trung thực] Rằng “Trung bình có 66% người được hỏi trên toàn thế giới cho rằng dân chủ trực tiếp (theo đó chính công dân hơn là những viên chức được bầu ra, bỏ phiếu cho những vấn đề lớn) sẽ là cách tốt để quản trị đất nước.

    “Việt Nam cũng nằm trong số 38 quốc gia mà PEW tiến hành cuộc thăm dò vừa nêu. Kết quả thăm dò cho thấy có đến gần 80% người Việt Nam được hỏi cho rằng dân chủ đại diện là tốt nhưng cũng đồng thời ủng hộ ít nhất một hình thức chính phủ không dân chủ.

    “Thăm dò ở Việt Nam cũng cho thấy có 31% những người được hỏi ý kiến cho rằng họ tin chính quyền đang làm điều đúng cho đất nước.

    “Khi được hỏi ‘một hệ thống dân chủ nơi mà công dân, chứ không phải những viên chức, bỏ phiếu trực tiếp cho những vấn đề lớn của đất nước nhằm đưa ra luật lệ sẽ tốt hay xấu cho quốc gia của bạn’, có 16% cho rằng rất xấu.

    Có 47% người được hỏi ý kiến tại Việt Nam trả lời rằng ‘hoàn toàn xấu’; khi được nêu câu hỏi ‘Một hệ thống mà theo đó một nhà lãnh đạo cứng rắn có thể đưa ra quyết định không cần sự can thiệp của quốc hội hay tòa án là cách tốt hay xấu trong quản trị đất nước?’

    “Báo cáo của PEW về dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện như vừa nêu được tiến hành từ ngày 16 tháng 2 đến ngày 8 tháng 5 vừa qua dựa trên trả lời của gần 42 ngàn người tại 38 nước.”

    Hai sưu khảo này của PEW làm trong hai năm đều cho thấy thế nước lòng dân VN mong muốn một chế độ dân chủ cho quốc gia dân tộc VN của mình. Chế độ độc tài đảng trị của CS bị dân chán chê. Người dân Việt từ già đến trẻ, từ Bắc, qua Trung, vô Nam đều muốn có một thể chế tự do, dân chủ, một chánh quyền của dân, do dân, vì dân.

    Vi Anh

    source: Vietbao



  4. Gương hiếu hạnh của tôn giả Xá Lợi Phất

    Bài THÍCH QUẢNG TÁNH

    Nói đến hiếu hạnh, chúng ta thường nghĩ đến tôn giả Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) với hạnh nguyện cứu mẹ thoát khỏi địa ngục, duyên khởi cho thắng hội Vu Lan. Tuy nhiên, bên cạnh ánh dương hiếu hạnh của tôn giả Mục Kiền Liên, trong hàng đại đệ tử Phật còn có nhiều tấm gương hiếu đạo sáng ngời khác, tiêu biểu nhất là tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta), bậc trí tuệ và hiếu thảo vẹn toàn.


    Ngài Xá Lợi Phất đang thuyết phát cho mẹ trong lần về thăm bà lần cuối trước khi mất. (Hình vẽ của Shekhaverma)

    Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà La Môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi, vốn thông minh và có biệt tài hùng biện hằng mong con trai của mình sẽ trở thành một đại luận sư lỗi lạc bậc nhất đương thời. 

    Ấy thế mà lớn lên, Xá Lợi Phất lại rủ bỏ tất cả để đi theo Sa môn Cù Đàm (Phật Thích Ca), trở thành trợ thủ đắc lực của Thế Tôn, lại dùng tài trí của mình quy thuận rất nhiều Bà La môn theo Phật giáo. Mặc dù rất thương và tôn trọng quyết định của con nhưng sự kiện Xá Lợi Phất xuất gia đầu Phật đã khiến bà Xá Lợi thất vọng, đau buồn và không hề có thiện cảm với Tăng đoàn.

    Khi xuất gia chứng quả A La Hán rồi, tôn giả Xá Lợi Phất biết rất rõ điều ấy. Ngài muốn trở về để thức tỉnh và chuyển hóa mẹ lắm, nhưng vì nhân duyên chưa chín muồi nên đành phải chờ, chờ mãi cho đến khi ngài sắp Niết bàn và mẹ ngài, bà Xá Lợi lúc ấy đã gần 100 tuổi.

    Khi được tin Xá Lợi Phất cùng tùy tùng hơn 500 vị tỳ kheo sắp trở về nhà, bà Xá Lợi vẫn hờ hững. Dù bấy giờ, danh tiếng và oai đức của Xá Lợi Phất đã lẫy lừng khắp thiên hạ nhưng trong lòng bà thì Xá Lợi Phất luôn bé nhỏ và ngay cả Thế Tôn cũng bình thường không thể sánh với đấng Phạm Thiên vĩ đại mà bấy lâu bà vẫn tôn thờ.

    Cuộc trùng phùng của tình mẫu tử sau hơn mấy mươi năm xa cách chưa được bao lâu thì Tôn giả Xá Lợi Phất ngã bệnh. Ngài đau thật hay thị hiện thì ta không thể biết nhưng bà Xá Lợi thì tỏ ra rất lo lắng, bồn chồn. Có bà mẹ nào mà không khỏi lo lắng cho con! Đêm ấy bà thao thức mãi, không thể nào chợp mắt được. 

    Bà Xá Lợi lò dò đến thăm con thì bỗng lóa mắt như lạc vào thế giới của thiên thần. Trong căn phòng của tôn giả Xá Lợi Phất ngập tràn ánh sáng vơi vô số chư thiên hào quang rực rỡ vây quanh. Không chỉ một mà nhiều đoàn thiên thần đến thăm tôn giả Xá Lợi Phất làm cho bà Xá Lợi ngạc nhiên và mừng rỡ vô cùng. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời bà được chứng kiến cảnh huy hoàng, tráng lệ ấy.

    Khi vị trời có hào quang và dung sắc sáng chói nhất cùng tùy tùng ra đi, bà Xá Lợi liền xin phép thị giả Thuần Đà vào thăm tôn giả Xá Lợi Phất. Bà ta ngạc nhiên đến cùng cực khi biết các phái đoàn thiên thần đến thăm con bà lần lượt là Tứ Đại Thiên Vương, Đế Thích và cả Đại Phạm Thiên, đấng toàn năng mà bà hằng quy kính, tôn thờ. 

    Một thoáng suy tư, bà Xá Lợi nghĩ rằng nếu con của ta mà có oai lực lớn đến trời người đều cung kính như vậy thì Đấng Thế Tôn oai lực vĩ đại đến dường nào. Nghĩ đến đây, bà Xá Lợi cảm nhận một niềm hỷ lạc tràn ngập châu thân, tinh thần thư thái vô cùng, niềm tịnh tín nơi Thế Tôn trong bà bừng phát. Nhân đó, tôn giả Xá Lợi Phất tuần tự giải thích và xưng tán công đức siêu tuyệt của Thế Tôn qua các phương diện giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Thật diệu kỳ, khi pháp thoại vừa chấm dứt thì bà Xá Lợi thành tựu Pháp nhãn thanh tịnh, tin tưởng bất động vào Thế Tôn, chứng đắc sơ quả Tu Đà Hoàn.

    Thế là tôn giả Xá Lợi Phất đã làm tròn bổn phận hiếu đạo của người xuất gia. Tuy không sớm thăm tối viếng, cung phụng ngon ngọt, nhưng đã giúp mẹ thoát được lưới mê, bước vào dòng Thánh, phúc lạc muôn đời.

    Không chỉ hóa độ người mẹ trong hiện tại, đối với các bậc sanh thành trong quá khứ, tôn giả Xá Lợi Phất cũng viên thành hiếu đạo. 

    Ngạ quỷ sự, Tiểu Bộ Kinh kể rằng: Lúc Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, bấy giờ các tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đang trú tại một nơi trong khu rừng không xa thành Vương Xá.

    Trong đời quá khứ có một phú gia ở thành Ba La Nại thường phát tâm cúng dường rộng lớn đến các Sa Môn, Bà La Môn và bố thí rộng rãi cho những người nghèo khó. Rồi một hôm, phú gia bận đi làm ăn xa, trước khi đi dặn dò vợ chu toàn công việc bố thí cúng dường. Ông đi rồi, người vợ không những chểnh mảng trách nhiệm cúng dường được chồng giao phó mà còn biểu lộ thái độ khinh khi, sỉ nhục những người nghèo khổ. 

    Vì tham lam bỏn sẻn, tạo ác nghiệp nặng nề nên khi từ trần bà tái sanh làm ngạ quỷ chịu nhiều khốn khổ. Nhớ lại những công đức lành mà bà đã làm trong quá khứ, bà mong muốn được gặp tôn giả Xá Lợi Phất liền tìm đến thành Vương Xá.

    Khi đến gần tịnh thất của tôn giả Xá Lợi Phất, nữ quỷ bị các hộ pháp thiện thần chặn lại, không cho vào. Nữ quỷ nói rằng trong năm kiếp về trước, ta là mẹ của tôn giả Xá Lợi Phất, hãy cho phép ta vào thăm ngài. 

    Khi thấy nữ quỷ, ngài Xá Lợi Phất liền hỏi: Vì sao hình dung người tiều tụy, còn da bọc xương, khổ não đến thế này? Nữ quỷ thưa rằng: Trong năm kiếp về trước tôi đã từng làm mẹ của tôn giả. Nhưng vì các ác nghiệp đã gây tạo nên giờ đây bị đọa vào cảnh khổ, không nhà cửa, không có đủ đồ ăn thức uống, luôn bị đói khát hanh hạ. Xin tôn giả rủ lòng thương, vì tôi mà phát tâm bố thí, cúng dường để thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ.

    Ngày hôm sau, tôn giả Xá Lợi Phất cùng các tỳ kheo đến gặp vua Tần Bà Sa La trình bày sự việc, nhờ trợ duyên và được đức vua chấp thuận. Khi lễ vật chuẩn bị xong, tôn giả Xá Lợi Phất thành tâm dâng cúng lên Đức Phật và chư Tăng khắp mười phương rồi hồi hướng công đức cho nữ quỷ.

    Nhờ phước báo ấy mà nữ quỷ mẹ tôn giả Xá Lợi Phất trong quá khứ được thoát kiếp ngạ quỷ, sanh lên cõi trời. Và vị thiên nữ với dung sắc thù thắng, xiêm y rực rỡ đã xuống trần gặp tôn giả Mục Kiền Liên, nói rõ nhân duyên thoát khỏi cảnh khổ đồng thời bày tỏ niềm tri ân vô hạn đến tôn giả Xá Lợi Phất.

    Nhờ sự nỗ lực tu học của mình, tôn giả Xá Lợi Phất đã hóa độ cha mẹ trong hiện tiền cũng như cứu thoát các bậc cha mẹ trong quá khứ, vượt ra khỏi cảnh khổ. Và đó là tấm gương sáng để cho hàng hậu thế chúng ta học tập, noi theo.
    source: viendongdaily

  5. Thiếu hụt năng lượng đe dọa tăng trưởng của Việt Nam

    Tàu hải giám của Trung Quốc, ngày 15 Tháng Năm, 2014, lao vào mấy tàu cảnh sát biển của Việt Nam để chặn không cho tiến tới giàn khoan HD981 đang khoan tìm dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam, phía nam quần đảo Hoàng Sa. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)
    HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Vì bị Trung Quốc ngăn cản không cho tìm kiếm và khai thác dầu khí trên thềm lục địa, Việt Nam nhiều phần phải tìm kiếm các nguồn năng lượng khác cho nhu cầu ngày một tăng cao.
    Theo một bài phân tích của tạp chí Asian Today, Việt Nam đã bắt đầu khai thác dầu khí trên thềm lục địa từ những năm cuối thập niên 1980. Nhiều mỏ dầu và mỏ khí đã được khám phá và khai thác êm xuôi cho đến những năm gần đây khi Trung Quốc lên giọng xác định chủ quyền lãnh thổ, chiếm hơn 80% Biển Đông, lấn sâu vào các vùng đặc quyền kinh tế của các nước trong khu vực.
    Bắc Kinh đã nhiều lần cho tàu ngăn cản các tàu dò tìm dầu khí của Việt Nam trên các vùng biển mà họ có cái vạch chủ quyền “Lưỡi Bò” vắt ngang. Lần mới đây nhất, Tháng Sáu vừa qua, tàu khoan dầu của công ty Rapsol mà Việt Nam thuê, đã phải hủy bỏ ngang cuộc trắc nghiệm tầm mức của trữ lượng dầu khí tại lô 136-3 Đông Nam Vũng Tàu 200 hải lý, khi Bắc Kinh đe dọa đánh chiếm các vị trí của Việt Nam.
    Năm 2014, lực lượng cảnh sát biển của Việt Nam, dù nhỏ bé về mọi mặt so với Trung Quốc, đã phải đối diện với đoàn tàu hải giám của Bắc Kinh suốt hai tháng rưỡi ở phía Nam quần đảo Hoàng Sa cho tới khi giàn khoan của họ rút đi.
    Vì nhu cầu năng lượng, tuy phải tạm đình hoãn bởi Trung Quốc cảnh trở, nhưng Việt Nam sẽ phải nỗ lực tìm kiếm các địa điểm khác để khoan tìm. Nền kinh tế của Việt Nam cần năng lượng để phát triển cũng như các nhà đầu tư quốc tế, và cả các công ty dầu khí quốc tế, nhìn thấy viễn ảnh không sáng sủa, trước sau sẽ theo nhau bỏ chạy.
    Trong sô các dự án, dự án khai thác khí đốt tại mỏ Cá Voi Xanh – lô 118 – ngoài khơi miền Trung đã có thỏa thuận tiến hành với hàng Exxon-Mobil của Mỹ đầu tư $10 tỷ để khai thác. Mỏ này cũng có cái vạch “Lưỡi Bò” vắt chéo qua. Người ta không rõ rệt lắm đối với các đe dọa của Bắc Kinh với lô này nhưng các công ty dò tìm và khai thác dầu khí đều bị Bắc Kinh cảnh cáo không được hoạt động trên vùng biển mà họ ngang ngược gọi là “chủ quyền” trên Biển Đông.
    Trữ lượng dầu của Việt Nam ước tính khoảng 600 triệu thùng, đứng hàng thứ nhì ở khu vực Đông Á Châu. Theo thống kê, nhà máy điện chạy than là nguồn năng lượng chính chiếm 34.4% nguồn lực năng lượng của Việt Nam năm 2015. Vì sử dụng than tương đối rẻ hơn nên Việt Nam dự tính gia tăng sản lượng từ các nhà máy chạy than lên 42.6%.
    Việt Nam là nước bán dầu thô rồi nhập các lại các sản phẩm tinh lọc từ dầu mỏ. Cho đến nay, dầu khí vẫn là nguồn cung cấp tài chính chính yếu cho tổng sản lượng quốc gia (GDP) của Việt Nam. Từ năm 2000 trở lại đây, sản lượng dầu thô của Việt Nam suy giảm dần vì một số mỏ lớn khai thác từ lâu đã và đang cạn dần. Việt Nam cần phải tìm kiếm dầu khí các nơi khác không bị cản trở.
    Mức tiêu thụ điện của Việt Nam, theo đầu người, năm 1995 chỉ có 156kw/giờ nhưng đã lên tới 1,415kw/giờ vào năm 2014. Nhu cầu tiêu thụ điện năng gia tăng trung bình mỗi năm khoảng 10.5% cho giai đoạn từ 2016-2020. Sau đó, dự báo gia tăng lối 8% cho giai đoạn từ 2020 đến 2030 với giả định là chương trình cung cấp điện năng đạt kế hoạch. Hiện một số khu vực vùng sâu vùng xa vẫn chưa được kết nối vào với lưới điện quốc gia.
    Việt Nam tùy thuộc nhiều vào than đá để có điện nên vấn đề cam kết giảm bớt 25% ô nhiễm môi sinh đã không đạt được. Ngay như tại thủ đô Hà Nội, ô nhiễm không khí cao hơn 2.5 chỉ số theo tiêu chuẩn của tổ chức Y Tế Thế Giới đề ra. Bệnh tật liên quan đến tim, phổi vì thế sẽ gia tăng nhiều hơn.
    Trước khi quá muộn, Việt Nam cần phải phát triển nhanh các nguồn năng lượng tái tạo để thỏa mãn cả nhu cầu điện năng và vấn đề sức khỏe. Tuy nhiên, cả khả năng tài chính cũng như kiến thức khoa học kỹ thuật để phát triển lãnh vực này đều thiếu.
    Trong số 50 dự án điện gió, mới chỉ có 4 dự án đã hoạt động với tổng công suất khiêm tốn 160MW. Nếu được phát triển, các hệ thống điện mặt trời có thể cung cấp đến 35% nhu cầu điện của Việt Nam và điện gió cung ứng được khoảng 13% , nhưng như ở trên trình bày, Việt Nam thiếu cả tài chính và kiến thức khoa học kỹ thuật.
    Năm ngoái, Việt Nam đã phải tạm gác dự án xây dựng hai lò điện nguyên tử tại tỉnh Ninh Thuận dù đã ký hợp đồng với Nga. Tốn phí đến $18 tỷ lại có nhiều nguy hiểm, chuyên viên chưa đào tạo được bao nhiêu.
    Đối diện với nhiều lực cản, đặc biệt là cái vạch “Lưỡi Bò,” trong khi nhu cầu điện năng mỗi ngày mỗi gia tăng, tìm các nguồn cung ứng điện năng cho Việt Nam là bài toán đầy thử thách. (TN)
    Source: nguoiviet

  6. Nhà văn Phan Nhật Nam trả lời thơ mời về Việt Nam họp của cộng sản Hà Nội

    Nhà văn Phan Nhật Nam trả lời thơ mời về Việt Nam họp của cộng sản Hà Nội

    Thư gửi : Nhà văn PHAN NHẬT NAM
    Thưa anh,
    1/ Để đỡ đường đột, xin giới thiệu. Tôi là Hữu Thỉnh, người từng đọc anh đã lâu, hiện nay đang làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi mới gặp Thụy Kha vừa ở bên ấy về, cho biết có gặp anh và hai người đã từng cùng nhau uống bia vui vẻ. Đấy quả là một sự kiện bất ngờ thú vị. Với dư âm của các cuộc gặp ấy, tôi viết thư này thăm anh và bày tỏ nguyện vọng “tái bản” cuộc gặp ấy, và di chuyển nó về quê nhà với quy mô rộng hơn, thời gian dài hơn trong khuôn khổ một cuộc gặp mặt của Hội Nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sống và làm việc tại nước ngoài. Đây là một cuộc hội ngộ mà chúng tôi mong mỏi từ lâu, nay mới có thể thực hiện được. Với ý nghĩa cao cả, góp phần làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc, xứng đáng để chúng ta vượt qua mọi xa cách và trở ngại, cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp. Tôi chờ đợi được anh chia sẻ điều đó và chân thành mời anh tham gia sự kiện nói trên.
    Anh Nam ơi, tôi muốn nói thêm rằng, chúng ta đều không còn trẻ nữa. Tôi hình dung cuộc gặp này là rất có ý nghĩa cho những năm tháng còn lại của mỗi chúng ta. Tôi cũng dự đoán rằng, có thể có những khó khăn. Nhưng từ trong sâu thẳm thiên chức nhà văn, chúng ta cùng chọn Dân Tộc làm mẫu số chung để vượt qua tất cả.
    1. Cuộc gặp mặt dự kiến sẽ diễn ra từ 20 đến 25 tháng 10 năm 2017 tại Hà Nội và một số địa phương ở phía Bắc. Trường hợp anh Nam, Ban tổ chức sẽ lo chi phí toàn bộ đi về và thời gian tham gia Cuộc gặp mặt. Vì là lần đầu, còn nhiều bỡ ngỡ, xin anh vui lòng lấy vé giúp và cho biết thời gian chuyến bay để chúng tôi ra đón anh tại sân bay Nội Bài. Quá trình chuẩn bị có gì cần trao đổi, xin anh cho chúng tôi biết sớm.
    1. Ngay sau khi được hồi âm của anh, tôi sẽ gửi giấy mời chính thức cùng chương trình của Cuộc gặp mặt. Mùa Thu Hà Nội cùng những giá trị bền vững của tâm hồn Việt đang chờ đón Cuộc gặp mặt của chúng ta.
    Chúc anh sức khỏe, may mắn, gia đìnhh hạnh phúc và mong sớm nhận tin tốt lành.
    Hà Nội 1/9/2017
    Thư gủi Ông Hữu Thỉnh,
    Hội Nhà Văn Hà Nội

    Qua địa chĩ điện thư Cô Đào Kim Hoa
    Phụ Tá Ngoại Vụ Hội Nhà Văn
    Tôi, Phan Nhật Nam nguyên là một sĩ quan cấp Đại Úy Hiện Dịch Thực Thụ thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù/Quân Lực VNCH gởi đến Ông Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội để trả lời thư đề ngày 1 tháng 9, 2017 qua điện thư của Cô Đào Kim Hoa
    #1-Từ vị thế một quân nhân thuộc đơn vị tác chiến của Quân Lực Miền Nam như trên vừa kể ra, với tính khách quan, độc lập của người không liên hệ đối với sinh hoạt của giới văn hóa, học thuật trong nước, ở Hà Nội trước, sau 1975.. Tôi có thư nầy để trả lời mời gọi mà ông Hữu Thỉnh đã trực tiếp gởi đến cá nhân tôi nhằm thực hiện tiến trình gọi là “Hòa Hợp Hòa Giải”. Câu trả lời trước tiên, dứt khoát là: Tôi xin được hoàn toàn từ chối sự mời gọi vì những lẻ..
    #2- Là một người sinh trưởng từ thập niên 1940, tiếp sống qua hai cuộc chiến 1945-1954; 1960-1975, thực tế lịch sử, chiến tranh, xã hội Việt Nam trước, sau 1975 đã cho người lính chúng tôi xác chứng: KHÔNG HỀ CÓ CHỦ TRƯƠNG HÒA HỢP HÒA GIẢI từ người/chủ nghĩa/chế độ cộng sản trong lý thuyết cũng như qua sách lược hành động.
    #3-Từ thực tiễn của #2 thêm kinh nghiệm mà bản thân cá nhân là một đối tượng thụ nạn của thành phần gọi là “Ngụy Quân-Ngụy Quyền” thuộc chế độ Quốc Gia Việt Nam (1948-1954); Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) đến hôm nay vẫn tiếp tục bị miệt thị, xuyên tạc, và triệt hạ dẫu chiến tranh đã chấm dứt từ 1975.
    #4- Trong tình thế chung nhất của #2;#3, chắc chắn rằng không thể nào thực hiện được “Hòa Hợp Hòa Giải” như thư ông Hữu Thỉnh đề nghị! Cũng bởi, giới Nhà Văn chính là đối tượng hàng đầu bị bách hại đối với tất cả chế độ cộng sản Đông-Tây. Lịch sử đẫm máu 100 năm của chế độ cộng sản từ 1917 đến nay như một vũng tối ghê rợn phủ chụp lên lương tri nhân loại.. Hỏi thử buổi gặp mặt Tháng 10 tại Hà Nội (cho dẫu thực lòng đi nữa) sẽ gây được tác dụng gì? Nhà Văn? Nhà Văn Việt Nam đích thực là những ai? Nhưng đây không phải là vấn đề của cá nhân tôi – Trước sau chỉ là một Người Lính-Viết Văn. Cũng bởi, tôi chưa hề nhận Chứng Chỉ Giải Ngũ của Bộ Quốc Phòng/VNCH cho dù đã không mặc quân phục từ 1975 
    #5- Cuối cùng, với bản chất đơn giản, chân thật của một Người Lính, tôi có một đề nghị như sau: Để thực hiện tinh thần và nội dung “Hòa Hợp, Hòa Giải Dân Tộc” như lá thư mời của ông Hữu Thỉnh đã đề cao.. Hệ thống cầm quyền, cụ thể thành phần cán bộ làm công tác văn hóa, học thuật, truyền thông, báo chí.. dưới chỉ đạo của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng nơi Hà Nội chấm dứt, điều chỉnh MỘT CÁCH THÀNH THỰC danh xưng miệt thị “Ngụy Quân/Ngụy Quyền” trong tất cả sử liệu, văn khố, tài liệu giáo khoa, văn thư hành chánh, sinh hoạt xã hội.. Cụ thể hơn hãy chấm dứt cách biểu tình với lời hô “Đả đảo Thương Phế Binh VNCH!!” như đã xẩy ra nơi Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn! Hãy nhìn lại.. Thương phế binhVNCH là những lão nhân phế binh, thương trận đã không được sống với dạng Con Người từ 30 Tháng 4, 1975. Hãy để cho Người Lính QLVNCH còn sống sót và gia đình được trở lại Miền Nam sửa sang phần mộ Chiến Hữu nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi giới cầm quyền Hà Nội chủ trương phá bỏ một cách có hệ thống, dẫu người chết gần nửa thế kỷ qua không thể nào đe dọa đối với Chế độ XHCN! Xin hãy “Hòa Hợp Hòa Giải” với những người đã chết. Với người đang cố sống sau thảm họa Formosa, Nghệ An. Hãy hoà hợp, hòa giải với “Khúc ruột ở trong nước” trước. Khi ấy không cần mời, chúng tôi “Khúc ruột ngàn dặm” sẽ về. Về rất đông. Người Viết Văn – Lương Tri và Chứng Nhân của Thời Đại sẽ VỀ. TẤT CẢ CÙNG VỀ VIỆT NAM .
    Kính thư,
    Người Lính-Viết Văn,
    Công Dân Mỹ gốc Việt,
    Phan Nhật Nam
    Washington DC, 9 Tháng 9, 2017

    source: thoibao

  7. Chính Sử Và Ngụy Sử
     
    Có lẽ ai cũng biết “Chính Sử” là sử biên soạn đúng sự thật còn “Ngụy Sử” là sử biên soạn nhằm mục đích tuyên truyền cho chế độ của mình và miệt thị đối phương. Truyền thông gần đây xôn xao về “Bộ sách Lịch sử Việt Nam” vừa phát hành tại Việt Nam gồm 15 tập, dày cả 10.000 trang, biên soạn từ khi lập quốc đến năm 2000. Bộ sử này đã gây ra hiện tượng xôn xao, xôn xao không hẳn do công phu biên soạn hoặc chiều dày của bộ sử mà do nhóm biên soạn sử đã ghi trong đấy: “Chính thể Việt Nam Cộng hòa” (VNCH). Từ đấy, dấy lên làn sóng bàn tán xôn xao, có kẻ còn hoan nghênh nhóm biên soạn sử hay nhà nước (CSVN) đã đang cởi mở để hòa hợp hòa giải dân tộc?. Người viết thật sự sửng sốt, không muốn bàn về bộ sử này mất thì giờ nhưng không thể làm ngơ vì ngại ngần những ngộ nhận đáng tiếc có thể xảy ra. 
    Xin hỏi, nhóm biên soạn sử hay nhà nước (CSVN) lấy tư cách gì để công nhận “Chính thể Việt Nam Cộng hòa”?. Thật ra, nhóm biên soạn sử chép vào bộ sử có chữ “Việt Nam Cộng hòa” là trả lại phần nào sự thật của lịch sử mà thôi và nhóm biên soạn sử đã được nhà nước CSVN cho phép, vì biên đúng sự thật “Việt Nam Cộng hòa” sẽ có lợi thế về chủ quyền ở biển Đông trong đấy có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo hiệp định Genève năm 1954.
    Liệu rằng bộ sử này có dám chép sự thật của lịch sử hay không, như:
     - Công hàm ngày 14-9-1958 của thủ tướng miền Bắc là Phạm Văn Đồng với sự đồng lõa của chủ nước là Hồ Chí Minh đã dâng cho Trung cộng cả Biển Đông bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đài phát thanh Trung Cộng đã nói: “Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam nhưng công hàm Phạm Văn Đồng đã đồng ý Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng” nếu ai muốn nghe thì vào link video clip (tiếng Việt): www.youtube.com/watch?v=IDjm7lwnl14

     - Ngày 30-12-1999, gọi là phân định lại biên giới Việt-Hoa, nhà cầm quyền CSVN đã cắt nhượng khoảng 700 km2 vùng đất biên giới Bắc Việt. Ngày 25-12-2000, CSVN cắt nhượng khoảng 11,000 km2 vùng vịnh Bắc Bộ Việt Nam cho Tàu cộng.
     - Ngày 4-12-1953, cái gọi là quốc hội nhất trí thông qua luật “Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở miền Bắc”, chính Hồ Chí Minh là chủ tịch miền Bắc đã ký sắc lệnh ban hành luật. Việc CCRĐ đã gây ra khoảng 172.000 người bị quy chụp là thành phần địa chủ và phú nông, họ bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” bị hạ sát tại chỗ hoặc bị án tù để chết dần trong ngục. 
     - “Thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế” đã làm chấn động cả thế giới, người Anh, Mỹ gọi sự kiện này là “Hue massacre” tức là “Sự tàn sát ở Huế”. Trong 28 ngày Việt cộng chiếm đóng tại thành phố Huế đã sát hại nhiều người rất dã man. Riêng thường dân bị hại khoảng 7.000 người, trong đó có 844 tử thương và khoảng 1.900 bị thương vì bom đạn và số người mất tích đã tìm được khoảng 2.800 tử thi từ các hầm chôn tập thể ở tản mát khắp nơi tại thành phố Huế. 
    Ngoài ra, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của  chế độ CSVN, tòa án là nơi thể hiện công lý thế mà chánh án của chế độ như kẻ “Ngồi đồng” mọi phán xét đều do Bộ chính trị của Đảng CSVN quyết định, thế thì nhóm biên soạn sử có khỏi sự dám sát của Đảng CSVN không?.
    Những sự thật thượng dẫn, liệu nhóm biên soạn sử hoặc nhà nước CSVN có dám biên đúng các sự thật vào “Bộ sách Lịch sử Việt Nam” không? Người viết nghĩ là không hoặc những kẻ biên sử ấy lại ngụy biện quanh co, thế thì bộ sử này là “Ngụy Sử” vậy.  
    CSVN đã cố tình xuyên tạc sự thật, gọi chính quyền VNCH là ngụy quyền, gọi quân đội VNCH là ngụy quân. Ngụy quyền là chính quyền tay sai, ngụy quân là quân đội của chính quyền tay sai hay quân đội do nước ngoài thành lập để phản lại nhân dân. Thế nhưng, thử so sánh chính quyền và quân đội miền Bắc Việt Nam với chính quyền và quân đội miền Nam Việt Nam, ai thật tâm bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đồng bào? Rõ ràng vào ngày 19-1-1974, hải quân Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa, QLVNCH đã chống trả quyết liệt, hải quân VNCH đã hy sinh 74 người, trong đấy có hạm trưởng thiếu tá Ngụy Văn Thà. Ngày 14-3-1988, quân Trung cộng xâm chiếm đảo Gạc Ma, khi ấy Đại hèn tướng Lê Đức Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thiếu tướng Lê Mã Lương đã tiết lộ: “Kẻ thủ phạm tiếp tay cho quân Tàu cộng đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam, chính là đồng chí lãnh đạo cấp cao”. Trước khi xảy ra trận Hải chiến Trường Sa, quân đội Việt Nam đã nhận lệnh oái oăm: “Không được nổ súng trong trường hợp Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa”. Than ôi, 64 quân nhân Việt Nam bị tử thương rất oan uổng?!. 
    Có lẽ sự thật của lịch sử cận đại như vậy nên hầu hết người Việt lại mến mộ quân đội VNCH dù bị xuyên tạc là “ngụy quân”. Điều này đã thể hiện vào khoảng tháng 2 năm 1976, tại trại tù 53 Ngân Điền thuộc tỉnh Phú Yên. Một hôm, cán bộ quản giáo Việt cộng tuyên bố với tù binh: “Tội ác các anh to nớn nắm (lớn lắm) nên chúng tôi phải giam giữ các anh ở đây và khi các anh ra ngoài nao (lao) động, chúng tôi phải cho vệ binh theo bảo vệ các anh, nếu không dân chúng sẽ đánh đập hay giết các anh chết”. Thế nhưng, hôm sau khoảng 20 tù binh đi đào mì (sắn) để đem về nấu cơm độn cho tù binh ăn, do một vệ binh đi trước dẫn đường, nhóm tù binh di chuyển trên liên tỉnh lộ 7, có một bà cụ khoảng 70 tuổi, mặc áo vá nhiều chỗ đi ngược chiều nhóm tù binh đang đi, bà cụ lén đưa cho mỗi tù binh một gói thuốc lá hiệu Điện Biên, khi hết thuốc lá, cụ lấy tiền cho các tù binh khác tương đương bằng giá trị gói thuốc lá. Dù số tiền ít oi và có tù binh không hút thuốc lá nhưng nghĩa cử “bát cơm Phiếu Mẫu” cảm kích khó quên (Ai ở tù trại 53 Ngân Điền vào thời gian này đều biết)!. Thật vậy, dù từ “ngụy quyền, ngụy quân” không đẹp mà khi đồng bào nghe lại lưu luyến, còn chữ “cách mạng, giải phóng” vốn có ý nghĩa tốt đẹp nhưng khi đồng bào nghe thì ái ngại là do đâu vậy?.
    Dùng từ ngữ xuyên tạc không thể thay đổi sự thật, lịch sử đã chứng minh rằng sau khi vua Gia Long lên ngôi, gọi La Sơn Phu Tử (Nguyễn Thiếp) đến hỏi: Ngụy Tây Sơn mời Tiên sinh làm thầy, vậy Tiên sinh dạy nó ra sao?”. Ông thản nhiên trả lời: “Có tám điều trong sách Đại Học, có chín điều trong sách Trung Dung, người giỏi thì làm được, người không giỏi thì không làm được”. Ông lấy cớ đã già yếu không giúp Gia Long, trở về vùng núi Thiên Nhẫn làm một ẩn sĩ (1). Việt Sử Toàn Thư viết: “Chính sách nhân hậu của triều đại vua Quang Trung được nhiều người ngoại quốc tìm hiểu và ca ngợi, trong đó có nhà du hành người Anh là ông Crawford đến viếng nước ta vào năm 1822, là năm vua Gia Long đã mất và Minh Mạng đang trị vì. Ông phản bác những lời phê bình bất công của một số sử gia Tây phương đối với nhà Tây Sơn”. Ông Crawford viết: “Bảo rằng nhân dân khao khát dòng vua chính thống, được khôi phục như một số người Tây phương chỉ biết có tán tụng vua Gia Long, chưa chắc đã đúng và triều Tây Sơn đâu có thất nhân tâm như thế. Tôi được một số nhà buôn Trung Hoa đã sinh sống lâu năm tại xứ này, dưới quyền vua chúa nhà Nguyễn và cả dưới quyền nhà Tây Sơn, đoan chắc với tôi rằng các nhà cầm quyền Tây Sơn cai trị dân chúng còn công bằng và khoan hòa hơn nhà vua hiện tại (vua Gia Long và vua Minh Mạng)...” Đáng tiếc, kẻ chiến thắng viết lịch sử nên nhà Tây Sơn: Vua Quang Trung và các tướng lãnh đã chống ngoại xâm và lo nước thương dân, vẫn bị các sử gia triều Nguyễn xuyên tạc?!. Cũng vậy, “Chính thể Việt Nam Cộng hòa” bị nhà nước CSVN xuyên tạc là điều khó tránh!. 
            Kết thúc bài này, người viết xin mượn lời của nhà triết học Trần Đức Thảo (1917-1993) đã trối trăn vào cuối đời như kim chỉ nam: “Nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ” (HCM), không dám đưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra được tình trạng bế tắc chính trị độc hại như hiện nay ở nước ta”.
    Ngày 28-8-2017
    Nguyễn Lộc Yên 
    __________________
    Tài liệu tham khảo:
    source: vietbao

  8. Đảng CSVN Đã Lỡ Một Chuyến Tầu


    Image result for csvn ban nuoc hai dan


    Nếu Lịch sử biết nói thì thời gian 43 năm lặng lẽ trôi qua sẽ bảo các Nhà viết sử Cộng sản Việt Nam rằng: “Vì kiêu ngạo và nhát gan mà đảng cầm quyền đã lỡ một chuyến tầu.”

    Tại sao?

    Vì rằng đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam đã để mất chính nghĩa chủ quyền quốc gia ở Biển Đông ngay khi quần Hoàng Sa bị quân Trung Cộng đánh chiếm từ tay Hải quân của Việt Nam Cộng hòa ngày 19/01/1974.

    Thời đó, chính quyền miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không dám hé răng phản đối Bắc Kinh vì sợ mất viện trợ và bị cắt đường tiếp vận vũ khí của Nga và các nước Đông Âu Cộng sản cho miền Bắc xâm lăng Việt Nam Cộng hòa đi qua lãnh thổ Trung Cộng.

    Bây giờ, 43 năm sau, bộ sách “Lịch sử Việt Nam" từ khởi thủy đến năm 2000, gồm 15 tập có tổng số gần 10,000 trang đã không còn dùng từ “ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn” để chỉ chính thể Việt Nam cộng hòa trước 1975. Và khi làm việc này, đảng CSVN nhắm đạt được 2 điều:

    Thứ nhất, việc công nhận Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam là một thực thể chính trị, song song với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975 “có lợi trong việc tranh biện pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc”, theo quan điểm của giới nghiên cứu Việt Nam.

    Image result for csvn ban nuoc hai dan

    Thứ hai, mở ra một cánh cửa mới trong nỗ lực hòa giải, hòa hợp dân tộc giữa hai miền Nam-Bắc nói chung và giữa đảng cầm quyền CSVN với ngót 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, nói riêng.

    Phó Giáo sư, Tiến sỹ (PGS.TS) Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, tổng chủ biên bộ sách nói với báo chí trong nước rằng: “Đây là tâm huyết của nhiều thế hệ cán bộ sử học. Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học mất 9 năm để biên soạn bộ sử.”

    PGS Cường cho rằng: “Vấn đề Việt Nam Cộng hoà trong các bộ sử tới sẽ phải nêu rõ hơn, khi đây là một thực thể tồn tại ở miền Nam Việt Nam gần 21 năm. Có một sự gối nhau khi năm 1954 có thể chế nữa gọi là Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Ngô Đình Diệm truất Bảo Đại để làm quốc trưởng, rồi trưng cầu dân ý, bầu Tổng thống...

    Thời gian trước, nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hoà, nhiều người vẫn quen gọi là nguỵ quân, nguỵ quyền. Nhưng trong bộ sách gọi trung tính hơn là "quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn". Theo ông Cường, lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận.” (VNExPRESS 19/8/017)

    Vẫn theo VNEXPRESS, ông Cường nói thêm: “Khi viết tập 12, giai đoạn 1954 đến 1965, chúng tôi cũng có những tranh luận rằng có nên dùng "nguỵ quân, nguỵ quyền" như trước đây không? Từ lâu, giới nghiên cứu đã cho rằng không nên dùng, nói hay viết cũng đều không sai, nhưng mang hơi hướng miệt thị. Trong bối cảnh hoà hợp dân tộc thì có những cách gọi cần thay đổi. Khái niệm dùng trong văn bản khoa học nên có sự khách quan, trung tính nên cuối cùng qua vài buổi tranh luận, tổ biên soạn quyết định dùng từ quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn.”

    Trên lãnh thổ Việt Nam từng tồn tại những thực thể chính quyền. Thời chống Pháp (1945 - 1954) ngoài chính thể là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì ở các đô thị lớn thuộc vùng tạm chiếm, Pháp đã thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Sau Hiệp định Giơnevơ (Geneve), ở miền Nam cũng có chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Dĩ nhiên, thực thể này không chính danh, không hợp pháp.

    Ngoài nói thẳng tính chất phụ thuộc về mặt chính trị của chính quyền ấy, bộ sử cũng không né tránh khi viết về những thay đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội ở những vùng chiếm đóng. Thậm chí, thừa nhận nền kinh tế hàng hoá miền Nam khi ấy phát triển hơn ở miền Bắc kế hoạch hoá tập trung; hay chính quyền ấy cũng có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, khi Trung Quốc ra tay đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974...”

    Trong câu nói này, ông Giáo sư Cường đã “tiền hậu bất nhất”. Một mặt ông bảo “lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận” nhưng ông lại cho rằng nói hay viết (nguỵ quân, nguỵ quyền) cũng đều không sai.

    Tại sao nó “đúng” và như vậy là không “mang hơi hướng miệt thị” hay sao?

    Ông còn “nửa tỉnh nửa say” khi nói “chính quyền Việt Nam Cộng hoà” được thành lập ở miền Nam sau Hiệp định Giơnevơ (Geneve) 1954, không chính danh, không hợp pháp.

    Tại sao “không chính danh” và “không hợp pháp” khi VNCH (1955-1975) là một thực thể chính trị độc lập, có một chính quyền do dân bầu, có Hiến pháp và được 78 Quốc gia công nhận?

    Trong khi, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) của đảng CSVN, từ năm 1954 đến năm 1976 cũng là nhà nước độc lập nhưng không do dân bầu và chỉ quản lý thực tế miền Bắc Việt Nam.

    Nhưng trong đầu lãnh đạo đảng và các nhà khoa bảng Cộng sản Việt Nam thì chỉ có nhà nước VNDCCH mới “chính danh” và “hợp pháp” trên tòan lãnh thổ.

    Bằng chứng như cái loa tuyên truyền của Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) từng xuyên tạc: “Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…).

    Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.

    Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó!”

    (VOV, ngày 23/04/2015)

    Lu loa như thế chỉ đúng nửa sự thật. Bởi vì từ sau Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hay liên hiệp Quốc-Cộng 1946, và Quốc hội có dân bầu đầu tiên 1946, dù nhiệm kỳ cho đến 1960 mới chấm dứt, nhưng lực lượng phá hoại của đảng CSVN do hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hòan chỉ huy đã tìm mọi cách để đánh phá hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội để chiếm độc quyền cai trị.

    Bằng chứng đã được ghi trong Bách khoa Tòan thư mở: “Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này.”

    Như vậy, dù có “chính danh” trên giấy tờ nhưng chính phủ liên hiệp ban đầu đã thay hình đổi dạng bằng một Chính phủ và Quốc hội đảng cử dân bầu của riêng đảng CSVN. Từ đó cho đến ngày được gọi là “thống nhất đất nước chính thức”, sau cuộc tổng tuyển cử ngày 25 tháng 4 năm 1976 và sau 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng CSVN chủ động xâm lược VNCH từ 1955 đến tháng 4/1975, cái “chính danh” của Quốc hội đảng cử dân bầu và nhà nước do đảng độc quyền lãnh đạo chưa bao giờ là “của dân, do dân và vì dân” như nhà nước tuyên truyền.

    LỜI NGUYỄN CƠ THẠCH

    Nhưng tại sao Chính phủ VNDCCH ở miền Bắc đã không dám phản đối Trung Cộng khi Bắc Kinh xua quân đánh chiếm Quần dảo Hòang Sa tháng 1/1974?

    Ông Dương Danh Dy, một chuyện gia về Trung Hoa của Việt Nam đã trích lời Thứ trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch vào thời điểm xẩy ra vụ Hoàng Sa để trả lời cho thắc mắc này.

    Báo Tuần Việt Nam của Bộ Thông tin và Truyền thông CSVN, trong số ra ngày 6/1/2014 viết: “Nhân kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, 19.1.1974, có một băn khoăn của nhiều người là tại sao lúc đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại không lên tiếng.

    Có phải chăng như sử gia Nguyễn Đình Đầu đã nghĩ rằng tình đồng chí giữa những người Cộng sản lúc đó còn lớn hơn lãnh thổ?

    Tuanvietnam có cuộc phỏng vấn với nhà nghiên cứu Trung Quốc lão thành Dương Danh Dy - người có may mắn biết được nội tình câu chuyện.

    Phóng viên: Có một câu hỏi mà nhiều người thắc mắc là, hồi Trung Quốc đánh Hoàng Sa đầu năm 1974, tại sao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại không lên tiếng phản đối?

    Và, đối với một số người, thậm chí còn đặt vấn đề nặng hơn là Việt Nam lúc đó đã nể, sợ Trung Quốc. Thậm chí không ít người còn chỉ trích Ban Lãnh đạo Việt Nam lúc đó còn đặt tình đồng chí cao hơn lãnh thổ quốc gia?

    Dương Danh Dy: “Tôi xin nói rằng đó chính là câu hỏi mà tôi cũng thắc mắc cách đây 40 năm, khi còn là một tổ trưởng theo dõi quan hệ Việt - Trung. Tất nhiên, tôi phàn nàn với mấy anh bạn đồng nghiệp thôi. Nhưng không hiểu sao, ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao, nghe được, và cho gọi tôi lên gặp ông.

    Ông Thạch, vốn rất quý tôi vì biết rõ tính ngay thẳng của tôi, đã nói luôn:

    "Dy ơi, sao cậu dại thế! Đất nước đã thống nhất chưa? Thống nhất đất nước so với việc Trung Quốc chiếm nửa Hoàng Sa thì cái nào lớn hơn?

    Cậu có biết rằng viện trợ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu dành cho chúng ta chủ yếu đi qua đường nào? Rồi cậu chắc biết hơn những người khác rằng Trung Quốc viện trợ cho chúng ta như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ...

    Thế mà bây giờ, vì cái chuyện Hoàng Sa, mà đằng nào họ cũng chiếm của Việt Nam rồi, chúng ta lên tiếng, đã không làm được gì còn ảnh hưởng tới sự nghiệp lớn hơn."

    Lúc đó, ông Thạch chỉ nói cho tôi đến thế thôi, và tôi cũng thông.”

    Ông Dy “thông” nhưng lịch sử thì không vì vào năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Trung Hoa Chu Ân Lai nhìn nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa.

    Trong một dịp khác, lời nói của ông Dương Danh Dy còn được phổ biến trên Internet nhận định rằng: “Việc không nói để không ảnh hưởng tới sự nghiệp thống nhất đất nước thì rõ rồi. Nhưng việc không nói còn làm cho Ban Lãnh đạo Trung Quốc chủ quan, nghĩ rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi nhẹ vấn đề biển đảo mà không tìm cách đánh chiếm luôn quần đảo Trường Sa nữa.".

    Rất tiếc dự đoán về ý đồ của Trung Cộng ở Trường Sa của chuyên gia Dương Danh Dy không hòan toàn đúng. Thay vì “đánh chiếm hết”, Trung Cộng đã làm chủ 7 đảo quân sự được tân tạo từ các bãi đá có vị trí chiến lược ở Trường Sa để đe dọa trực tiếp Việt Nam.

    Đó là: đá Châu Viên, đá Chữ Thập, cụm đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Tư Nghĩa, đá Vành Khăn và đá Xu Bi.

    Không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Cộng sẽ chỉ dừng chân ở 7 vị trí này.

    Như vậy, qua lời ông Nguyễn Cơ Thạch, ai cũng thấy rõ việc bảo vệ sự tòan vẹn chủ quyền lãnh thổ đối với đảng và chính phủ miền Bắc khi Hòang Sa bị Trung Cộng đánh chiếm năm 1974 không quan trọng bẳng việc phải đánh phá để chiếm Việt Nam Cộng hòa!

    Bây giờ, có sáng mắt ra cũng đã qúa muộn vì dù sách sử mới có nhìn nhận VNCH thì Hòang Sa và một phần Trường Sa cũng đã nằm trong tay Trung Cộng.

    Cho nên nếu Tiến Sỹ sử học Nguyễn Nhã (thời VNCH ở lại) cho rằng “Việc thừa nhận này (VNCH) có lợi trước nhất cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam” (Tuổi Trẻ online, ngày 20/08/017) thì cũng chi là mong ước mà thôi.

    Bởi vì khi Phi Luật Tân mời Việt Nam tham gia vụ kiện Trung Cộng ra tòa án Quốc tế năm 2013 để bác bỏ chủ quyền tự nhận của Bắc Kinh trong hình Lưỡi Bò (hay đường 9 đọan), chiếm ¾ diện tích trên 3 triệu cây số vuông biển đảo ở Trường Sa thì Việt Nam không dám làm.

    Tiến sỹ Nguyễn Nhã cũng nói với báo Tuổi Trẻ rằng: “Từ năm 1954 - 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam cộng hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục.”

    Nhưng tại sao phải mất tới 43 năm, kể từ khi Trung Cộng dùng võ lực đánh chiếm quấn đảo Hòang Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, từ tay Hải quân VNCH, sách sử của nhà nước CSVN mới biết nhìn nhận có một Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam để có lợi về mặt chủ quyền biển đảo ở Biển Đông nói chung và Hòang Sa nói riêng?

    TS Nguyễn Nhã còn lạc quan, theo tường thuật của Tuổi Trẻ: “Trong cái nhìn triển vọng về việc thừa nhận chính thể Việt Nam cộng hòa, ông Nhã cũng lưu ý rằng “Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam cộng hòa sẽ tạo sự đoàn kết, hòa hợp hòa giải dân tộc, như ý nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt”.

    Không chỉ thế, theo ông Nhã, “... Thừa nhận Việt Nam cộng hòa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đã phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển”.

    Qủa là nhiêu khê đấy. Nếu chỉ cần tập sách sử biết nhìn nhận có một Chính quyền VNCH ở miền Nam từng kiểm soát chủ quyền ở Hòang Sa và Trường Sa mà đảng CSVN lấy lại được chính nghĩa để vận động tòan dân hy sinh bảo vệ lãnh thổ thì rẻ qúa.

    Nhưng cái gía mà nhà nước CSVN phải trả cho hòa hợp, hòa giải dân tộc với người Việt Nam Cộng hòa trong và ngoài nước còn cao gấp vạn lần hơn.

    Còn cao hơn, nếu cụm từ “ngụy quân ngụy quyền” chỉ có gía trị trên trang sách mà trong đầu thì không.

    Chỉ lỡ một chuyến tầu thôi mà khổ thế đấy. -/-

    Phạm Trần
    (07/017)


    source: vietbao

    http://danlambaovn.blogspot.com/2014/01/csvn-thua-nhan-tuyen-bo-ban-nuoc-cua.html


  9. CSVN viết lại lịch sử, Việt Nam Cộng Hòa không còn là ‘ngụy quyền’

    Dù nhà cầm quyền CSVN chưa chính thức công nhận, nhưng với người dân Việt Nam, các tử sĩ VNCH bỏ mình trong trận hải chiến Hoàng Sa với Trung Quốc, đã nằm trong tim họ. (Hình: Getty Images)
    HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Bộ sách lịch sử Việt Nam (15 cuốn) vừa được tái bản lần thứ nhất. Bộ sách này đã được “chỉnh sửa, bổ sung” và khác hẳn ấn bản đầu tiên. Lịch sử Việt Nam đã được viết lại.
    Trò chuyện với báo giới nhân dịp tái bản bộ sách lịch sử Việt Nam, ông Trần Đức Cường, chủ biên bộ sách này bảo rằng, công việc “chỉnh sửa, bổ sung” kéo dài chín năm với sự tham gia của hơn 30 chuyên gia sử học. So với ấn bản đầu tiên, bộ sách lịch sử Việt Nam vừa được tái bản lần thứ nhất có nhiều điểm mới, chẳng hạn xác định vương triều nhà Mạc, vương triều nhà Nguyễn đã có nhiều đóng góp đáng kể cho quốc gia, dân tộc chứ không “phiến diện như trước…”
    Theo tường thuật của tờ Tuổi Trẻ về cuộc trò chuyện vừa kể thì trong lần tái bản đầu tiên, hai điểm mới, đáng chú ý nhất của bộ lịch sử Việt Nam là quan điểm của các sử gia CSVN về Việt Nam Cộng hòa và Trung Quốc.
    Ông Cường giải thích, các sử gia CSVN vứt bỏ không sử dụng “ngụy quyền” khi đề cập đến chính thể Việt Nam Cộng Hòa và “ngụy quân” khi đề cập đến quân lực Việt Nam Cộng hòa, bởi Việt Nam Cộng hòa là một thực thể ở miền Nam Việt Nam. Trong bộ Lịch sử Việt Nam, tái bản lần thứ nhất, chỉ có chính quyền Sài Gòn, quân đội Sài Gòn.
    Cũng theo lời ông Cường thì lần đầu tiên, trong một bộ thông sử Việt Nam, các sử gia CSVN ghi nhận sự kiện Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam năm 1979. Ông Cường nhấn mạnh, đó là “xâm lược” và người Việt đã đổ rất nhiều xương máu để kháng cự cho đến năm 1988.
    Người Việt chưa được đọc bộ lịch sử Việt Nam tái bản lần thứ nhất, tuy nhiên qua truyền thống Việt Nam, dẫu bộ sách vừa kể có nhiều điểm mới song dường như chưa đầy đủ.
    Sau sự kiện ra mắt bộ lịch sử Việt Nam tái bản lần thứ nhất, qua tờ Tuổi Trẻ, một số sử gia CSVN đã nêu thêm ý kiến về bộ sách này, với mong muốn “nội dung của nó sẽ toàn diện hơn.”
    Ông Nguyễn Mạnh Hà, cựu viện trưởng Viện Lịch Sử đảng CSVN, thừa nhận, trước đây, các sử gia CSVN “viết sử theo định hướng, không phản ánh hết sự thật lịch sử nên lịch sử còn rất nhiều khoảng trống.” Theo ông Hà, từ lâu ông đã ủng hộ quan điểm bỏ lối gọi “ngụy quân, ngụy quyền.” Việt Nam Cộng hòa là một thành viên Liên Hiệp Quốc, tham gia các cuộc đàm phán Paris, phải thừa nhận có một thực thể như vậy. Việt Nam Cộng Hòa cũng tỏ ra rất có trách nhiệm trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã chết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, phải thừa nhận chứ không thể né tránh.
    Để xiển dương “tinh thần 4 tốt” và “16 chữ vàng,” Việt Nam đục bỏ cả bia ghi công Sư Đoàn 337 của quân đội CSVN đã chặn đứng quân xâm lược Trung Quốc, ở đầu cầu Khánh Khê, tỉnh Lạng Sơn năm 1979. Lịch sử Việt Nam đã từng được các sử gia CSVN trình bày theo mục tiêu “phục vụ chính trị” như thế. (Hình: Thanh Niên)
    Ông Hà nói thêm rằng, thông sử Việt Nam phải đề cập cả tới những sai lầm của chính quyền CSVN như: Cải cách ruộng đất, nhân văn-giai phẩm, xét lại chống đảng… Nếu cứ tránh những vấn đề thường được gọi là “nhạy cảm,” sai lầm thì lịch sử sẽ không hoàn chỉnh. Ông Hà đòi phải tôn vinh những người lính đã chiến đấu, hy sinh trong cuộc chiến tranh chống xâm lược Trung Quốc. Phải như thế thì mới công bằng.
    Nhận định của ông Vũ Dương Ninh, giảng viên Đại Học Quốc Gia Hà Nội, có rất nhiều điểm tương đồng với ông Hà. Ông Ninh đòi lấp những “khoảng trống trong lịch sử” về Việt Nam Cộng hòa, về các sai lầm của chính quyền CSVN (Cải cách ruộng đất, nhân văn-giai phẩm, xét lại chống đảng…) bằng cách thu thập sử liệu khách quan, tôn trọng tính khách quan của lịch sử và phải hiểu cho đúng thế nào là sử học phục vụ chính trị, để phục vụ chính trị mà cắt xén lịch sử thì sử không còn là sử nữa. Theo ông Ninh, phải rạch ròi giữa nói xấu lịch sử và nói ra cái xấu trong lịch sử. Ông Ninh nhắc thêm, sau việc tái bản bộ lịch sử Việt Nam, phải tính tới sách giáo khoa môn Sử.
    Hồi Tháng Hai vừa qua, Ban Tuyên Giáo của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN từng tổ chức một cuộc thảo luận về sử học. Lúc đó, nhiều sử gia CSVN từng công khai than phiền, dưới chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, việc trình bày lịch sử Việt Nam tạo ra nhiều khoảng trống vì có quá nhiều “vùng cấm” như: Cải cách ruộng đất, nhân văn-giai phẩm, xét lại chống đảng, Việt Nam Cộng Hòa, thuyền nhân Việt Nam, cuộc chiến chống Trung Quốc bảo vệ biên giới phía Bắc… Do đó phải xác lập một quan điểm mới trong việc trình bày lịch sử. Không nhìn rõ những sai lầm trong quá khứ thì khó tránh cho xe đổ ở tương lai. Không nghiên cứu toàn diện về chính quyền Việt Nam Cộng hòa khó rút ra được bài học nào cho sự nghiệp xây dựng đất nước, cũng như thúc đẩy hòa hợp, hòa giải dân tộc. (G.Đ)
    Source: nguoiviet

    Nguồn:

    Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước
     
    Đỗ Kim Thêm
     
    Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam. Chúng ta có các lý do chính đáng đ không tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa ởng niệm, hoà giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.

    Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.

    Mọi vấn đ hiện nay của Việt Nam có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.

    Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưng cầu toàn để canh tân đất nước hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.


    ***

    Ký ức thay ngụy sử?

    Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày quan trọng trong lịch sử của Việt Nam, vì là ngày kỷ niệm 40 năm chiến tranh kết thúc. Hiện nay, các thế hệ tham chiến hầu như đã lần lượt ra đi hay đang quên đi những hậu quả của chiến cuộc. Thời gian dài này cũng đủ để làm một thế hệ hậu chiến trưởng thành mà không vướng bận với ký ức thuộc về lịch sử.

    Tuy thế, có một sự khác biệt giữa ký ức và lịch sử. Ký ức là một điều kiện thiết yếu tự tại và có một giá trị đặc biệt cho lịch sử. Ký ức riêng tư tạo nên bản sắc cá nhân và ký ức tập thể tạo nên bản sắc xã hội. Cả hai đặc thù văn hoá này nếu kết hợp nhau được sẽ làm thành một lịch sử chung cho dân tộc. Để phác thảo lịch sử, sử gia cần có ký ức văn hoá, một sự thật của lịch sử và đây là một trong những điều kiện khách quan làm khởi điểm cho chính sử.

    Nhưng trong hiện tại vấn đề soi sáng lịch sử ít được quan tâm, bởi vì chúng ta đang có những nhu cầu bức thiết, đó là hiểm hoạ Bắc thuộc và bất lực của chính quyền trước những khát vọng của toàn dân về toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng dân chủ, phát triển kinh tế, nâng cao công bình và tôn trọng nhân quyền.

    Nhìn lại sau 40 năm dài thì thực tế cho thấy dù là ký ức của các chứng nhân lịch sử đang nhạt nhoà và bản sắc của đất nước đang tàn phai, nhưng người Việt vẫn còn bị ám ảnh bởi những chiến tuyến trong quá khứ, đề cao thành quả chiến thắng mãi làm cho việc hoà giải giữa người Việt còn khó khăn và những giá trị phổ quát trong xu thế thời đại như tự do, dân chủ, nhân quyền và trọng pháp lại chưa áp dụng. Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia sẻ một quá khứ chung của lịch sử cận đại.

    Nếu chúng ta muốn xây dựng một chính sử Việt Nam cho hôm nay và mai sau, thì giải ảo ngụy sử là một nhu cầu tất yếu. Vậy vấn đề là liệu có nên khơi động lại ký ức cá nhân hay tập thể hoàn toàn độc lập với mọi dị biệt và đối kháng với ngụy sử để làm cơ sở được không?

    Thế hệ tham chiến và quá khứ

    Thế hệ tham chiến nghĩ gì về quá khứ và để làm gì trong hiện tình? Chiến tranh Việt Nam nằm trong bối cảnh quốc tế của Chiến tranh Lạnh và lại là một thí dụ điển hình trong khu vực về Chiến tranh Ủy nhiệm. Không riêng Việt Nam mà hầu như nhiều quốc gia đều hình thành bằng bạo lực. Trong cả một thời kỳ dài, tranh đấu bằng bạo lực là một phương tiện hiển nhiên, nó tạo nên một loại văn hoá chung và trở thành một sự thực khách quan của lịch sử. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước và là một sản phẩm của lịch sử.

    Công việc chọn lọc quá khứ để giải ảo lịch sử cũng có nghĩa là làm sống lại quá khứ, một phần hay toàn bộ ký ức của cá nhân hay tập thể. Phủ nhận hay quên đi quá khứ, cả hai nỗ lực này là bất khả. Không ai muốn quên lãng quá khứ oai hùng, vì mục đích kéo dài hạnh phúc đã hết là để làm quên đi thực tế bất hạnh. Quên lãng quá khứ thương đau thì không thể dễ dàng vì là một ám ảnh còn vang động trong hồn như một loại bịnh tâm thần kinh niên không trị được. Khép lại quá khứ và cảm nhận nó trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai, cả hai việc đòi hỏi chúng ta có một ý thức phản tỉnh mà không bị dồn ép cực đoan bằng một ý thức hệ đã lỗi thời hay xí xoá dễ dãi bằng những thành tựu kinh tế nay đang sa sút.

    Để trả lời các vấn đề này, thế hệ tham chiến lập luận là ký ức của các chứng nhân lịch sử sẽ mai một và ký ức của tập thể chỉ có tính địa phương. Đoàn kết dân tộc là một vấn đề trọng đại của lịch sử đất nước, chúng ta hãy để cho sử gia làm việc, vì họ có khả năng gạn đục khơi trong các tồn đọng cuả quá khứ để trình bày khách quan hơn và có tác động hữu hiệu hơn. Bất hạnh cho chúng ta là sử Việt bị ngụy tạo quá nhiều, nên không thể lý giải và thuyết phục các sự thật lịch sử cận đại.

    Ngụy tạo chính sử

    Có một sự khác biệt giữa quan điểm về lịch sử của người phương Tây và Việt Nam. Khi người Mỹ nói đó là chuyện lịch sử, mọi người cùng yên tâm nghĩ là toàn bộ vấn đề xảy ra được ghi chép cẩn thận và nghiên cứu nghiêm túc (That is history; it is totally a record). Khi người Việt nói đó là chuyện lịch sử, chúng ta phải dè dặt hơn, vì đó là một biến cố quan trọng đã xảy ra (It is a most importat thing); sự kiện còn ngờ vực, đúng sai hay hay dở còn cần xét lạ, vì tùy theo thời điểm và quan điểm chính trị. Đây không phải là một khám phá mới lạ, vì đã có vô số các bằng chứng về các sai lầm trong sử Việt, mà những ví dụ chính cho thấy các tầm mức tác hại nghiêm trọng của vấn đề ngụy tạo.

    Thứ nhất, theo sử thì Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) giải tán ngày 11 tháng 11 năm 1945, nhưng thc tế thì Đảng tiếp tục hoạt động trong bí mật, sau đó lại công khai cho đến ngày hôm nay. Không có sử gia nào bỏ công cải chính sự kiện này của ĐCSVN và Đảng Lao Động, dù là hình thức.

    Thứ hai, vai trò của ĐCSVN trong việc giành độc lập. Thực ra, Việt Nam chưa độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn, vì Đảng không cướp được chính quyền từ tay Nhật và Pháp, mà của chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 19 tháng 8 năm 1945 và về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám.

    Việt Nam thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3 năm 1949 theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc biệt của Hiệp định là Việt Nam thống nhất và độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm 1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 về ngoại giao và chính trị.

    Không ai bỏ công phân biệt ý nghĩa cao cả của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc do ngoại xâm và phương cách bất chánh để cướp chính quyền trong nội chính. Xác minh thời điểm chính xác cho sự độc lập cũng bị quên lãng.

    Thứ ba, cuộc đời của Hồ Chí Minh là một chuyện dài không đoạn kết. Bao nhiêu sách vở khác nhau viết về xuất xứ, hành tung, khả năng, quá trình hoạt động và tư cách đạo đức của ông. Mỗi lúc lại có một khám phá mới làm cho sự thật về cuộc đời của ông càng huyền bí hơn.

    Nhu cầu tuyên truyền chính trị nhất thời là lời giải thích quen thuộc. Các nhà nghiên cứu đã (phải) suy tôn ông lên làm thần thánh, rồi một thời gian sau, vì lý do chính trị khác, lại hạ bệ. Nhiều tác phẩm viết về ông, nhưng ông không có một chỗ đứng vững chắc trong lịch sử. Vì ông là một nạn nhân của lịch sử quái ác nên các vấn đề tiểu sử, công nghiệp, đời tư của ông còn cần phải tiếp tục soi sáng.

    Thứ tư, đấu tranh quân sự có phải là một giải pháp tối ưu duy nhất hay kết hợp với các giải pháp nghị trường và ngoại giao  cũng là điều kiện khả thi?

    Trước trào lưu đấu tranh giành độc lập tại các nước Á Phi đang dâng cao nên Pháp đã ý thức vấn đề này. Từ năm 1947 Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa và tôn trọng nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam bằng cách đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp tại Liên Hiệp Quốc. Đó là một thắng lợi ngoại giao và pháp lý mà Đảng Cộng Sản đã phủ nhận và về sau giải thích là Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa.

    Do đó, khi nhân danh giành lại độc lập dân tộc, họ chiến đấu vũ trang chống Pháp, nhưng bằng cách độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. Trái lại, các nước châu Á khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Cộng sản Quốc tế, mà thành công của Ấn Độ (1947) là một thí dụ, dù bối cảnh phức tạp hơn Việt Nam nhiều.

    Thứ năm, ĐCSVN sử dụng chiêu bài đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ như một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là cướp chính quyền. Họ đã chống đối bất cứ giải pháp chính trị và ngoại giao nào không cho họ độc quyền đấu tranh và lãnh đạo quốc gia, mà Hiệp định Genève và Paris là hai cơ hội lịch sử.

    Dù Hiệp định Genève chỉ là để định ranh giới ngưng bắn và không áp đặt những giải pháp chính trị, nhưng thống nhất Nam Bắc thuộc quyền dân tộc tự quyết, một cơ hội mới về tổng tuyển cử mở ra và sẽ do hai miền ấn định. Lãnh đạo cả hai miền đã không đủ nỗ lực để thực thi biện pháp tổng tuyển cử, một cơ hội không tốn xương máu. Đó là một quan điểm sai lầm của cả hai và trở thành một bất hạnh cho dân tộc hiếu hoà.
    Hiệp định Paris là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị, nhưng là một cơ hội khác mở ra nếu các bên đồng ý “thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào.” (Điều 15).

    Phát động chiến dịch Hồ Chí Minh để thôn tính miền Nam không phải là phương pháp hòa bình như đã ký kết. Vi phạm Hiệp định Paris lại là một thành tích tự hào về sự phản bội của chính mình và chấp nhận hy sinh xương máu của thế hệ thanh niên cuối cùng của miền Bắc.

    Thứ sáu, Đại Thắng Mùa Xuân là đỉnh cao chói lọi trong trang sử đấu tranh của ĐCSVN, nhưng Ted Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ, Bắc Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận điện tín này nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên chuyển tất cả các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Dĩ nhiên, Việt Nam không hề kiểm chứng nguồn tin này.

    Tóm lại, các vấn đề quan trọng trong chính sử cận đại như ý nghiã đích thực của chiến tranh, kết hợp các phương tiện khả thi để giải quyết xung đột, những hy sinh và thành tích cần được giải ảo trong một phương cách mới hơn, khi mà có vô số các nguồn tài liệu được liên tục giải mật. Quan trọng nhất là chúng ta phải có can đảm nhìn vào sư thật của lịch sử trong một nhãn quan mới.

    Cho dù ngày nay ngụy sử đã không thể phản ảnh được toàn bộ quá khứ và chính sử cũng không hẳn là mất đi hết trong những gì còn sót lại nơi lòng người, nhưng điều may mắn hơn cho chúng ta là lịch sử vẫn còn được truyền tụng, mà ký ức cá nhân và tập thể cần hồi tưởng là thí dụ điển hình.

    Những người Việt đang ở vào lớp tuổi bốn mươi hay trẻ hơn không có ký ức về chiến cuộc, vì họ chưa sinh ra. Dĩ nhiên, họ có quyền đặt câu hỏi vì sao Việt Nam chưa thể canh tân đất nước và hưởng độc lập dân tộc và họ phải gánh chịu một di sản tồi tệ như ngày hôm nay. Khi ngụy sử không thuyết phục được họ, thì ký ức của các bậc cha ông còn sống sót sẽ đóng vai trò gì?

    Ký ức chiến cuộc nhạt nhoà

    Tình yêu về dĩ vãng vốn bẩm sinh trong tâm hồn người Việt; họ thích ôm ấp kỷ niệm trong mơ hồ và không muốn dùng ngôn ngữ để diễn đạt những cảm xúc trân qúy. Ký ức là nhớ lại; một người không có trí nhớ là một người không còn bản sắc riêng. Nhưng ngược lại với ký ức là quên lãng; ai phải dồn ép quá khứ, thường là người không bình thường và hoặc sẽ mang bịnh ức chế. Một người trưởng thành không có ký ức sẽ mãi là một trẻ con.

    Ký ức tập thể theo Maurice Halbwach quan trọng hơn. Nó vượt qua khuôn khổ kinh nghiệm sống của một cá nhân, hằn sâu, tiêm nhiễm vào một tầng lớp xã hội, một thế hệ trong một giai đoạn của dân tộc và tạo thành bản sắc chung. Một dân tộc không có ký ức lịch sử cũng là một dân tộc chưa trưởng thành.

    Khi xưa, Tản Đà có than thở "Dân hai lăm triệu, ai người lớn?, Nước bốn nghìn măm vẫn trẻ con." Lời thơ ai oán được truyền tụng như một lời cảnh tỉnh về tình trạng dân trí trong thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh, Trịnh Công Sơn cũng đã nhắc nhiều đến thân phận đất nước, nhưng thê thiết nhất là “Ôi, đất nước u mê ngàn năm“. Điều ngạc nhiên là cả hai danh tài này sống trong hai thế hệ cách biệt nhau, nhưng lại cùng một tâm trạng, dù không hề quan tâm đến chính sử và ký ức.

    Nhưng làm sống lại ký ức không dễ, vì có một cái gì đó thiếu bình thường mà có quá nhiều thí dụ làm cho chúng ta ngạc nhiên.

    Thứ nhất, nhân ngày 30 tháng 4 mà nhân dân thủ đô Hà Nội kéo băng và biểu ngữ với nội dung "Hân Hoan Chào Mừng Ngày Giải Phóng Thủ Đô". Vô ý hay là trớ trêu trong một ký ức nhạt nhoà? Không ai biết.

    Thứ hai, ngược lại, nhân ngày này mà một số người Việt hải ngoại cũng có tổ chức "Ngày Diễn Hành Cho Tự Do". Vì là buổi diễn hành nên ít có thuyết trình về ý nghĩa trọng đại về một ngày lịch sử của đất nước để người tham dự cảm thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này. Vì tự do hoài niệm mà đôi khi cũng có nhiều nơi còn có kết hợp với lễ Lao Động với dạ tiệc và khiêu vũ thâu đêm là chính. Đó là sáng kiến giải trí cuối tuần kéo dài trong hoàn cảnh mới, nên không đem lại một âm vang tưởng niệm nào trong đau buồn, nhớ những nguời nằm xuống và người trốn chạy.

    Thứ ba là chuyện không có quyền công khai tưởng niệm những người nằm xuống trong chiến tranh biên giới Trung - Việt. Khơi động ký ức lại cần có ý kiến chỉ đạo? Hồi sinh ký ức càng thêm chua chát khi lãnh đạo hân hoan đón tiếp lãnh đạo bạn để cùng "Thành Kính Tưởng Niệm Các Liệt sĩ Trung Quốc Hy Sinh Vì Chính Nghĩa" trong Tiết Thanh Minh, một việc làm đúng theo chính sách đề ra.

    Còn nhớ về Ngày Hoàng Sa và Trường Sa lại càng khó hơn, cụ thể nhất là vụ thảm sát Gạc Ma. Trước đây binh sĩ không được phép chống trả với Trung Quốc nên đem lại một cái chết tập thể; chính quyền luôn che dấu sự thật và nay lại không cho phép tưởng niệm và ghi công và không nêu tên kẻ thù, đó là một hành vi xoá bỏ ký ức có định hướng.

    Những người chiến đấu còn sống không được tri ân, đãi ngộ và chỉ còn âm thầm xót thương cho đời nhau. Họ cũng bất hạnh giống như các cựu chiến binh Mỹ, làm điều vô ích cho kẻ vô ơn và cuối cùng lại chứng kiến trớ trêu của lịch sử mà đó lại là định mệnh của mình.
                                                        
    Th là chuyện những người di tản buồn lại càng buồn hơn, khi phải nhớ tới những thuyền nhân qua cơn phong ba bảo táp, chưa hưởng được tự do và cuối cùng phải yên nghỉ nơi đảo vắng xứ người. Trùng tu mộ phần đã khó, sơn tặng cho họ một lá cờ trên mộ phần và lập đài tưởng niệm trên các đảo cũng bị nhà nước CSVN tìm cách áp lực ngoại giao nên không được phép. Thân nhân cũng đành khép lại quá khứ theo chính sách.

    Thứ năm là vấn đề gọi tên ký ức. Thảm sát hay chiến thắng Mậu Thân? Định danh ký ức cũng cần thảo luận như gọi tên cho cuộc chiến. “Chống Mỹ xâm lược“ mà hơn 5000 ngàn thường dân Việt và vài ân nhân người Đức phải chết oan uổng, thì không thể nào gọi là thắng lợi huy hoàng và có thể giải thích thuần lý.

    Những hung thủ còn sống sót cũng không đủ can đảm đính chánh về cáo giác của các nhân chứng trong “Giải Khăn Sô Cho Huế“. Dù tai họ còn nghe và mắt họ còn thấy phản ứng của nạn nhân khác còn sống, nhưng khác với Hitler đã tự xử, hung thủ yên tâm hơn để nghiên cứu về Huế học, mà họ quên đi đối tượng nghiên cứu khẩn thiết nhất của Huế học là làm sáng tỏ việc tàn sát. Tên tuổi và hành vi của họ vẫn bị ràng buộc với lương tâm và lịch sử.

    Chúng ta là có vô số ký ức cá nhân có giá trị lịch sử: Giải Khăn Sô Cho Huế, Muà Hè Đỏ Lửa, Dấu Binh Lửa, Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Thiên Đường Mù, Nổi Buồn Chiến TranhĐèn Cù là những thi dụ chính. Vì là tự truyện cá nhân nên có sự đãi lọc nhất định theo ý nghĩ cảm nhận và tùy theo cái gọi là lieux de mémoire của tác giả (các địa điểm liên hệ tới biến cố xãy ra để trở thành ký ức, một khái niệm của Pierre Nora). Thực ra, nhân chứng lưu giữ ký ức, họ chỉ là một người sống trong những biến cố kinh hoàng trong lịch sử, mà họ không hiểu tại sao, không lường đoán được hậu quả và giải thích các tầm mức phức tạp của diễn biến.

    Do đó, chúng ta cần có sử gia, vì ký ức cần khách quan hoá theo phương pháp sử học, một tiến trình đến sau và có chọn lọc. Sử gia đối thoại với nhân chứng, vì nhân chứng biết rõ hơn các biến cố. Họ diễn dịch, sưu tầm và biên tập theo một hệ thống nhất định thành một loại đề tài chung.

    Dù ký ức về chiến cuộc nhạt nhoà, nhân chứng lần lượt ra đi, quá ít sử gia chân chính, nhưng lịch sử không thể nguy tạo ký ức. Chính ký ức làm nên lịch sử. Ký ức không phải là vấn đề riêng của sử gia. Lịch sử không thuộc về sử gia, mà cho tất cả những người có liên quan và có tinh thần trách nhiệm. Những người đứng ra tổ chức các lễ tưởng niệm với các phương tiện truyền thông hiện đại cũng là một thí dụ.

    Các buổi lễ truy điệu, báo chí, sách vở sẽ làm sống lại các ký ức tập thể. Những hình thức nghi lễ “hoành tráng“ của phe thắng cuộc không mang nhiều ý nghĩa đích thực để tìm ra bản chất của tưởng niệm. Những đề tài thảo luận nghiêm chỉnh về ý nghĩa của tưởng niệm là quan trọng hơn.

    Nhờ thế, chúng ta viết lại lịch sử bằng cách khám phá những sự dị biệt trong ký ức với tinh thần trách nhiệm. Ký ức dị biệt của cá nhân là một phương tiện thông đạt dùng trong sinh hoạt hằng ngày khi thảo luận về những biến cố lịch sử. Ngược lại, ký ức tập thể là một sản phẩm xã hội, đẩy mạnh cho việc hình thành một bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng biết tìm đâu bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Việt?

    Bản sắc dân tộc tàn phai

    Dù là gọi là đất nước hay dân tộc cũng chỉ là một. Dân tộc là một ngôi nhà chung chứa đựng một linh hồn chung. Hồn thiêng này có hai phần: phần một nằm trong quá khứ, là một di sản thuộc toàn dân và ký ức lịch sử là một thành phần. Phần hai nằm trong hiện tại. Đó là tinh thần đồng thuận, cùng ước mơ chung sống để phát triển và lưu truyền giá trị của một di sản không thể phân chia. Khái niệm dân tộc này của Ernest Renan không phải là chủ nghiã dân tộc đã bị lạm dụng quá nhiều trong quá khứ.

    Bản sắc văn hóa dân tộc gồm các đặc tính được duy trì trong quá trình của lịch sử và được kết tinh thành những biểu tượng để phân biệt với các dân tộc khác. Nó tạo thành những chuẩn mực giá trị cho xã hội và thể hiện tâm lý dân tộc mà các ký ức văn hoá là thí dụ.

    Ký ức văn hoá theo Jan Assman gồm có việc sử dụng chính sử, tự truyện, hình ảnh và nghi lễ đặc biệt cho một xã hội trong một thời kỳ; mọi sự vun bồi này sẽ tạo nên một hình ảnh chung cho bản sắc dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có thể hiểu được giá trị truyền thống.

    Chúng ta có thói quen ca ngợi bản sắc dân tộc và đơn giản hoá vấn đề, nhưng kỳ thực, bản sắc cá nhân phức tạp, vì dựa vào hoàn cảnh và điều kiện xã hội địa phương, thuộc về một thế hệ nhất định, một tôn giáo, một đoàn thể nghề nghiệp và trình độ giáo dục nào đó. Bản sắc thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời qua những biến cố của riêng mình. 
    Mô tả về bản sắc đất nước càng khó hơn vì theo dòng lịch sử,  có quá nhiều biến chuyển sẽ thay thế cho các ký ức cũ phai mờ, tạo thành những bản sắc mới. Tùy theo thời điểm hay địa điểm mà bản sắc đất nước có thể tiến hay thoái hoá. Các thay đổi về giá trị qua từng thế hệ kết hợp nhau trong liên tục và tái tạo. 

    Trong một thời kỳ dài đấu tranh, Đảng đã bao nhiêu lần nói là "thống nhất đất nước ta sẽ xây dựng lại ngàn lần tươi đẹp hơn". Nhưng chiến thắng năm 1975 cho phép Đảng có lý do tự phong một bản sắc mới là "trung tâm phm giá của loài người và lương tâm của thời đại". Bản sắc cường điệu này không thuộc truyền thống chân thành của dân tộc. Đảng đã không thể trau dồi bản sắc, và chiến thắng không đem lại tự do và cơm áo cho toàn thể dân chúng trong thời bình.
                                                                 
    Dù thành tựu đổi mới kinh tế có đem lại cho sung túc cho một thiểu số, nhưng Đảng không thể nâng cao bản sắc văn hoá vì giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi, thờ ơ của dân chúng và gương xấu của chính quyền là trở lực. Tìm lại bản sắc dân tộc đã đánh mất là điều không thể thực hiện được trước mắt, vì thành tựu của các biện pháp cải cách giáo dục và nâng cao đạo đức không thể là kết quả dễ được tìm thấy trong một sớm một chiều.

    Đã đến lúc đất nước cần có bản sắc mới như là một vai trò kết nối, một khái niệm và một thành tố để xây dựng lịch sử. Nhưng làm sao nối kết những ký ức văn hoá dị biệt trong bối cảnh hiện nay. Thực ra, không ai có đủ viễn kiến để tiên đoán chuyện lý thuyết.

    Nhưng sử gia không còn đi tìm những giá trị biểu tượng xa xưa, vì các biến động mới có những giá trị làm cho lịch sử độc đáo hơn. Họ dùng ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm một phương tiện nhằm tạo ra huyền thoại chính trị duy nhất cho khởi điểm mới về ký ức lịch sử cận đại. Với 40 năm trôi qua, thời gian lắng đọng để họ cùng tìm hiểu về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4. Do đó, giải ảo về nội dung ngày này cần được đặt ra.

    Phản tỉnh về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975      

    Ngày 30 tháng 4 năm 2015 là một ngày để chúng ta nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và tìm hiểu những gì mà dân tộc đã sống trong 40 năm qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ, với các sử liệu mới, lý trí khách quan và tự do phê phán giúp cho chúng ta nhận ra sự thật. Sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.

    Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biểu tượng khởi đầu cho một tiến trình tương phản phức tạp. Giá trị biểu tượng của ngày này là một nghịch lý bi đát. Chiến tranh kết thúc giải phóng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhưng không phải chỉ là vinh quang mà còn là tủi nhục; ngày miền Nam thoát khỏi chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc hiểu rõ hơn thế nào là giải phóng và hy sinh cho chính nghĩa. Cả nước vừa được giải phóng lại vừa bị hủy diệt trong một hoàn cảnh mới, không phải chỉ là thiệt hại vật chất mà còn là tinh thần, một vấn đề bản sắc.

    Dĩ nhiên, chúng ta phải chấp nhận những gì đã xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì không thể thay đổi được, dù còn bị ảnh hưởng hậu quả cho đến hiện nay. Chúng ta không thể tách rời ngày 30 tháng 4 năm 1975 với ngày 3 tháng 2 năm 1930, ngày thành lập ĐCSVN, đó là một nguyên nhân khởi đầu mọi thay đổi trong các trang sử Việt.

    Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một ngày toàn thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một ngày đại bại của toàn dân tộc Việt. Vì sao?

    Vì nhìn lại quá khứ của công cuộc tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN chúng ta chỉ thấy một bóng tối kinh hoàng. Đó là các biện pháp truất hữu ruộng đất, ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, bài trừ văn hoá đồi trụy, thanh niên xung phong, kinh tế mới và học tập cải tạo. Theo sau là thảm kịch thuyền nhân, chiến tranh Tây Nam và phiá Bắc. Cuối cùng là kinh tế kiệt quệ để rồi ĐCSVN phải chịu có biện pháp xé rào và đối mới để nuôi dưỡng chế độ.

    Với một cơ hội mới và tiềm năng cao để tái thiết hậu chiến và hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng đến năm 2015 mà Việt Nam còn tụt hậu thua Lào về canh tân công nghiệp, trình độ phát triển dân chủ kém hơn Campuchia, cạnh tranh kinh tế suy yếu hơn Hàn quốc, phát minh khoa học thua xa Thái Lan, năng lực lao động thấp nhất trong khu vực, nhưng tình trạng vi phạm nhân quyền và bất công xã hội lại là trầm trọng nhất.

    Vì nhìn về tương lai chúng ta càng lo sợ hơn vì không biết đất nước và con người sẽ đi về đâu. Chủ nghĩa tư bản thân tộc tạo ra một xã hội thị trường hỗn loạn trong một nhà nước sơ khai là nguyên nhân, mà tham nhũng lên ngôi thượng đỉnh, đạo đức suy sụp tận đáy, giáo dục băng hoại và môi sinh cạn kiệt là hậu qủa. Trong khi hiểm hoạ Bắc thuộc là hiện thực, thì bất ổn cá nhân, bất trắc kinh tế và bất công xã hội vẫn còn kéo dài.

    Tóm lại, chúng ta có các lý do chính đáng đ không hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa ởng niệm, hoà giải và tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4. Nhờ thế, chúng ta sẽ thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này trong tương lai. 

    Ngày tưởng niệm

    Hồi tưởng thuộc về một phần trong đời sống tâm linh của chúng ta. Ai đã sống trong ngày 30 tháng 4 với đầy đủ ý thức và nhận xét, thì cũng tự hỏi là ngày này mình làm gì và ở đâu và sự ràng buộc của mình trong biến cố này.

    Ngày 30 tháng 4 là một ngày để chúng ta tưởng niệm về tất cả những người quá cố của hai miền, những người đã tin là mình chiến đấu cho chính nghĩa của đất nước. Chúng ta không thể quên họ và cầu mong họ siêu thoát. Đau đớn nhất là các chiến sĩ giải phóng quân; bây giờ họ không còn cơ hội để nhận ra rằng họ đã bị phản bội; tất cả công lao của họ là vô ích và vô nghĩa; cái chết của họ chỉ là phục vụ cho các mục tiêu cướp chính quyền của giới lãnh đạo vô nhân đạo.

    Chúng ta sống trong gọng kềm của lịch sử dân tộc và là nạn nhân phải hy sinh cho quyền lợi của giới lãnh đạo. Cả một dân tộc không ai có tội cá nhân; không ai có tội với lịch sử. Có tội ít hay nhiều chỉ có thể quy kết cho tập thể lãnh đạo, vì họ thiếu trí tuệ và thiếu bản lãnh; họ chỉ phục vụ cho ngoại bang, chủ nghĩa phi dân tộc và không tìm cách tiết kiệm máu xương.
    Chúng ta cũng hoài niệm về những nổi đau khổ của thân nhân còn sống; đặc biệt là nữ giới, đau khổ vì sự mất mát về tất cả những gì không thể giữ được từ vật chất cho đến tinh thần. Đó là đau khổ qua bị thương tổn và tật nguyền, đau khổ vì buộc phải chịu mất tài sàn, mất người thân yêu, mất nhân phẩm, cảm xúc bị tổn thương, cưỡng bức lao động, bất công nghiêm trọng và tra tấn dã man, đói khổ, giam cầm và trốn chạy.

    Ngày hoà giải

    Ngày 30 tháng 4 là ngày mà chúng ta không những tưởng niệm cho những người nằm xuống mà còn muốn hòa giải giữa người Việt còn sống với nhau. Chúng ta tìm kiếm hòa giải, nhưng không thể hòa giải với những người đã nằm xuống và những người không còn ký ức. Số phận chung của dân tộc liên kết chúng ta với nhau thành một định mệnh chung trong ước muốn chung sống trong hòa bình và thịnh vượng.

    Trong đời sống hằng ngày, người Việt chỉ muốn sống an vui trong hiện tại và không muốn nhớ những chuyện vô nhân đạo trong quá khứ. Chúng ta chấp nhận và chịu đựng sự khắc nghiệt do số phận an bài, đó là chuyện tinh thần được đặt ra bên cạnh các nhiệm vụ khác.

    Nhưng ngày 30 tháng 4 là một vết rạch hằn sâu trong lịch sử cho toàn thể, nên có một nghịch lý xảy ra, người Việt có tinh thần hồi tưởng và sẽ luôn hồi tưởng khi có cơ hội. Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Chúng ta cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì chúng ta đã sống và nghĩ không cùng trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó là một gánh nặng trong lịch sử mà chúng ta vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.

    Làm sao chúng ta có thể xoá bỏ vết hằn khôn nguôi nếu không có hoà giải? Thực ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hoà giải không chỉ là tha thứ của nạn nhân về sai trái của thủ phạm, mà còn là một đồng thuận giá trị về chính trị. Đầu hàng là một thay đổi thái độ của phe thua cuộc trước phe thắng cuộc, một quyết định hợp lý của lý trí của phe thua cuộc và cần được thể chế chính trị của phe thắng cuộc bảo vệ. Vai trò luật pháp là điều kiện thể chế tiên quyết để bảo vệ họ. Khuôn khổ cho hoà giải là bình đẳng trước pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của phe thắng cuộc. Sự đồng tình của cả hai phe sẽ đem lại ý nghiã chung sống. Đó là một khuôn khổ xây dựng lại mối quan hệ và niềm tin cho xã hội và tạo lập một cộng đồng cho tương lai.

    Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, các nước Nam Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El Salvador, Guatemala và Rwanda đã tìm ra một căn bản đồng thuận cho tiến trình hoà giải, mà đạo đức là mục tiêu và luật pháp là phương tiện. Vì say men chiến thắng mà kinh nghiệm hoà giải chính trị hậu xung đột không là vấn đề quan trọng để Việt Nam quan tâm học tập, cải tạo tập trung là trường hợp minh chứng ngược lại.

    Sau ngày Đổi Mới, Việt Nam khởi đầu tiến trình hoà giải chính trị bằng Nghị Quyết để nhằm thu hút tài năng trí tuệ và đóng góp tài chánh. Nghị Quyết không đề ra sư tương thuận của phe thua cuộc; khuôn khổ pháp luật làm nền tảng và tinh thần đạo đức dân tộc làm nội dung cho hoà giải cũng không có. Việt Nam chỉ đo thành tựu Nghị Quyết bằng lượng kiều hối, du lịch và giao lưu văn nghệ trong ngoài. Hoà giải loại này không đem lại một niềm tin chung hướng về tương lai.

    Trong nỗ lực hoà giải có một thử thách chung cho hai phía. Sẵn lòng hòa giải phải phát sinh từ trong nội tâm và do ngoại cảnh, không phải là vấn đề mà phe thắng cuộc đòi hỏi nơi phe thua cuộc theo tinh thần Nghị Quyết, nhưng là tự nội tâm của mỗi phe đòi hỏi nơi chính mình, đó là khởi điểm quan trọng nhất.

    Cụ thể là liệu phe thắng cuộc có thể thực sự tự đặt mình trong hoàn cảnh của phe thua cuộc đựợc không hay phe thua cuộc có tin tưởng vào thành tâm hoà giải của phe thắng cuộc được không? Liệu Nghị Quyết một chiều có phải là một cơ sở ràng buộc nhau không? Cả hai phải nhận ra những gánh nặng của nhau, xem có chịu đựng nhau không và có quên quá khứ được không?

    Cả hai phe làm gì trong tiến trình này? Chủ yếu là phe thắng cuộc cần có ý thức hơn để tìm lại nguyện vọng trung thực của phe thua cuộc; thay vì diễn binh mừng chiến thắng chỉ khơi động lại lòng thù nghịch, phe thắng cuộc nên can đảm hơn là đem tàu ngầm hiện đại ra biển Đông để bày tỏ quyết tâm trước Trung Quốc, phô trương này sẽ gây tác động hoà giải dân tộc cao hơn. Thay vì ngăn cản tưởng niệm, nên thành tâm bày tỏ thương tiếc những người của hai phiá đã hy sinh bằng cách xây một tượng đài chung, một hình thức tỉnh ngộ về sự lầm lạc chung của cả dân tộc trong cả một giai đoạn lịch sử. Họ nên đãi ngộ người đóng góp còn sống, một hình thức xoa dịu thương đau xã hội; nỗ lực hoà giải với người đối kháng và trực tiếp đối thoại trong tinh thần dân chủ là thực tế hơn, vì không phải ai có quan điểm đối lập chính trị với chính quyền cũng đều là những phần tử suy thoái đạo đức và phản động.
      
    Phe thua cuộc cũng cần có nhận định nghiêm chỉnh hơn về ý nghĩa cao cả của tha thứ. Tha thứ là tìm hiểu và mến yêu người sai phạm. Hiểu nhau là vì đã tìm thấy lại nhau trong một quá khứ chung lầm lạc. Yêu mến nhau là vì cùng có một số phận và ý chí chung sống để xây dựng tương lai đất nước.Thực tế ngược lại. Một số không nhỏ của phe thua cuộc tự nguyện tìm đến phe thắng cuộc vì những bả lợi danh cuối đời, những lạc thú do những chênh lệch giá cả tại quê nhà, ngay cả những hạnh phúc thoáng qua như tiếng còi hụ đưa đón. Đó là một sự sĩ nhục mà một số trong phe thua cuộc tự tạo ra, vì trong khi cho đến ngày hôm nay, vẫn còn có rất nhiều người khả kính, can trường và liêm chính trong chiến bại.

    Tương lai của hoà giải không ai biết được, nhưng khởi động một trào lưu nhận thức mới về tinh thần hoả giải là khẩn thiết, vì các thế hệ tham chiến sẽ lần lượt ra đi và các thế hệ nối tiếp sẽ không đủ quan tâm để giải quyết.

    Ngày tỉnh thức

    Ngày 30 tháng 4 năm 2015 bắt đầu một chương mới trong lịch sử Việt Nam và một thế hệ mới đang trưởng thành. Giới trẻ không có các ký ức dị biệt và không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng họ đang và sẽ có trách nhiệm đối với những gì sẽ trở thành lịch sử. Họ sẽ đóng một vai trò chính về số phận của con người, đất nước và dân tộc trong khoảng thời gian bốn mươi năm tới. Nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại có ý nghĩa tỉnh thức vì ký ức cá nhân kéo dài chỉ trong bốn mươi năm. Nếu ký ức phai nhạt thì những gì quan trọng khác còn lại cũng không còn ý nghĩa. Thế hệ tham chiến cần giúp cho giới trẻ hậu chiến tìm hiểu về sự thật của lịch sử, không thiên vị theo ý thức hệ, trốn chạy trách nhiệm và nhân danh đạo đức. Đâu là giá trị tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4?

    Chúng ta cần can đảm đnói cho thế hệ hôm nay biết là hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính; nay lại hy vọng là Hoa Kỳ đoái thương dân Việt. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ sẽ không có phép lạ nào để biến đổi nội tình Việt Nam hôm nay và sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam mai sau. Mỹ đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc cho đến xương máu của người Mỹ cuối cùng thay cho Việt Nam, như miền Bắc Việt Nam đã hãnh diện chống Mỹ thay cho Trung Quốc trong quá khứ.

    Do đó, giới trẻ nên tỉnh thức để tránh lầm lạc của bậc cha ông. Đó là do khuấy động các ý thức hệ đối nghịch, hận thù lầm lạc và gian dối lẫn nhau mà Việt Nam đã có chiến tranh. Do bất tài, bất xứng và bội tình mà thế hệ cha ông đã không để lại được một non sông gấm vóc cho con cháu thừa hưởng; “Gia tài của mẹ, một nuớc Việt buồn“, nếu nói theo nhạc của Trịnh Công Sơn.

    Từ tỉnh thức này mà giới trẻ sẽ lưu truyền các ký ức lịch sử và không để bị lôi cuốn vào những hận thù và chống đối nhau, mà cố gắng liên tục học hỏi để tìm cách chung sống với nhau trong tình hiếu hoà và nhất là sẽ có ý thức trách nhiệm nhiều hơn cho tương lai đất nước.  
    Thế hệ hậu chiến và tương lai

    Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho thế hệ hậu chiến trưởng thành. Họ có trách nhiệm chính trị cho đất nước trong thời kỳ mới. Nhưng họ phải nghĩ gì và làm gì để canh tân đất nước và tìm lại độc lập cho dân tộc?

    Nghĩ gì? Thách thức vô cùng to lớn khi thế hệ hậu chiến cần có nhiều ý thức và kinh nghiệm hơn để đảm nhiệm trọng trách này. Đó là vấn đề còn mở rộng để tranh luận, nhưng họ có bốn khó khăn chính.

    Một là, họ không kế thừa một phương sách khả thi nào. Đảng đã không thể lý giải được cơ chế Kinh tế Thị trường và Nhà nước Pháp quyền theo định hướng XHCH là gì. Đảng cũng tự nhận là đã theo một đường lối không có cho đất nước. Vì nhận hư thành thực cho nên Đảng cũng không thể hoàn thiện đường lối này cho đến cuối thế kỷ XXI. Nhưng Đảng sẽ vượt qua các chống đối bằng cách dùng bạo lực đàn áp để duy trì chế độ, một bất hạnh cho toàn dân.

    Hai là, họ không thể phát huy các kinh nghiệm cuả bậc cha ông. Các kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng Tám và Đại Thắng Mùa Xuân không còn phù hợp với trào lưu đấu tranh bất bạo động cho Việt Nam, mà đó là một giải pháp tương ứng khả thi. Thành quả cuả Cách Mạng Đông Âu, Đông Đức, Miến Điện và Muà Xuân Á Rập là những bài học mới thích hợp hơn, nhưng họ chưa thể huy động được dân chúng vì thái độ vô cảm chính trị của đa số.

    Ba là, họ không thể hy vọng là được Đảng chuyển giao quyền lực cho dù họ có khả năng và tâm huyết, vì thân tộc của lãnh đạo còn vây quanh. Trong một xã hội thị trường đang thay đổi hỗn loạn, họ không thể tiên đoán được là đổi mới chính trị sẽ hình thành như thế nào. Tất cả đều tuỳ thuộc vào một số quan niệm về tương lai, những cách đánh giá khác nhau về ý nghĩa của xu hướng hiện nay và về các chuẩn mực để giải quyết các khác biệt, thí dụ như vi phạm nhân quyền và tự do báo chí.

    Bốn là điều kiện ý thức về truyền thống lịch sử và chuyển hoá chính trị. Từ thắng lợi của việc cướp chính quyền mà Đảng tự hào về thành tích làm nên "Ý nghĩa Lịch sử" cho dân tộc. Nhưng ý nghĩa lịch sử này không phải là những gì đã được Đảng tuyên bố, mà giới trẻ cần khám phá lại. Nhu cầu giải ảo ngụy sử và niềm tin về tương lai dân chủ cần đến các điều kiện trí thức. Đó là kiến thức và ý thức về chính sử và dân chủ, để từ đó làm cơ sở cho tinh thần xây dựng. Kiến thức là khởi điểm cho ý thức và có kiến thức thì mới có ý thức để xây dựng một ý chí chung sống.

    Tuy nhiên, thực tế bi quan hơn, vì sử học và kinh tế chính trị học không còn thu hút giới trẻ, một môn mà người học không muốn học và người dạy không muốn dạy. Sự tụt hậu là do một hệ thống giáo dục gian dối và ngụy sử làm mất niềm tin về giá trị cuả toàn xã hội qua nhiều thế hệ.

    Ý thức về lịch sử và dân chủ do đào tạo mà ra, có tính thuần lý vì do lý trí hướng dẫn và được đãi lọc qua thời gian. Học chính sử giúp giới trẻ lý luận và phán đoán về sự thật của lịch sử. Ý thức về lịch sử sẽ tạo nên một thái độ chung đối với lịch sử, một khả năng để giải ảo, một loại trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và có tình cảm dân tộc.

    Do đó, hy vọng còn lại là giới trẻ sẽ phát huy tinh thần tìm hiểu và mến yêu lịch sử và giá trị của dân chủ. Sự thật lịch sử sẽ là bước khởi đầu và giới trẻ phải tìm kiếm sự thật giữa dòng lịch sử. Giới trẻ có thể so sánh lịch sử tương lai như một dòng sông, nhưng các dòng nước sẽ luôn biến đổi mà họ đang khởi đầu bơi lội và cũng không biết đi về đâu, như một câu nói quen thuộc là "Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông".  Nhưng có ý thức lịch sử và dám dấn thân làm lại lịch sử cho dân tộc là một hy vọng khởi đầu.

    Làm gì? Giới trẻ cần thảo luận để nhận ra điều kiện đem lại hoà bình và thịnh vượng cho đất nước. Mọi vấn đề hiện nay có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên. Nhưng sự hợp tác về một chính sách ngoại giao Trung-Việt ổn định và tương kính là khả thi, khi Việt Nam đủ khả  năng chứng tỏ là một người bạn đối tác đích thực bình đẳng và không phải chỉ bằng ngôn ngữ bóng bẩy như hiện nay. Với nỗ lực của nhiều thế hệ, chúng ta hy vọng là Việt Nam sẽ đạt được một phần nào những mục tiêu này.

    Việt Nam sẽ đi về đâu? Không ai biết rõ, nhưng chắc một điều là đất nước dù năng động đến đâu đi nữa, thì Đảng cũng sẽ không còn phép lạ khi Đảng không tự chuyển hoá. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưng cầu toàn đ canh tân đất nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hoá  hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.


    ***
    Bài liên quan:

    Luật Pháp Và Hoà Giải Chính Trị - Các Kinh Nghiệm Quốc Tế
    https://www.danluan.org/tin-tuc/20131217/neil-j-kritz-luat-phap-va-hoa-giai-chinh-tri-cac-kinh-nghiem-quoc-te-1

     Lý Thuyết Đạo Đức Cho Hoà Giải Chính Trị

    https://www.danluan.org/tin-tuc/20120430/do-kim-them-ly-thuyet-dao-duc-cho-hoa-giai-chinh-tri
     Sự thịnh vượng của đất nuớc: Lý thuyết của Adam Smith và thực tế tại Việt Nam
    https://www.danluan.org/tin-tuc/20130103/su-thinh-vuong-cua-dat-nuoc-ly-thuyet-adam-smith-va-thuc-te-viet-nam-1

     Việt Nam Sẽ Đi Về Đâu Với Kinh Tế Trọng Thương, Tư Bản Nhà Nước và Xã hội Thị Trường

    https://www.danluan.org/tin-tuc/20131014/do-kim-them-viet-nam-se-di-ve-dau-voi-kinh-te-trong-thuong-tu-ban-nha-nuoc-va-xa

    source: vietbao.com
    0

    Add a comment

    1. Tàu Cộng, Vc: Kẻ Thù Chung

      https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiUCYDDQO8scE06SGzksDeDYdf50n68KMyuRrHP6hW3755BEg7PXu79n2xN7P1LcZ_DZX15nkixp_TlbOwpnwWO04P9gwzrjxbPZ5ag_LsHrV_TKepRp1AwG9ubzy-vFHhUs1NUOQtYX28W/s1600/Tam+Hinh+Rat+La.jpg


      Vi Anh

       
      Tàu Cộng, Việt Cộng là kẻ thù chung của quốc gia dân tộc Việt Nam trong thời CSVN. Kẻ thù chung là phải cùng chống, không để mất thì giờ tranh luận chẻ sợi tóc ra làm đôi, làm ba, vô ích. 

      Cả hai TC và VC là chánh phạm, là đồng chánh phạm, là đòng loã với nhau, vừa giặc ngoại xâm, vừa  giặc nội thù của người Việt, chung làm nội tuyến cho TC. Cả hai kẻ thù chung ấy đã, đang hai mặt giáp công, ngoài đánh vô, trong đánh ra để cướp chủ quyền quốc gia dân tộc VN. Chúng  vừa cướp dân quyền của người dân VN, vừa cướp giang sơn gấm vóc biển đảo của dân tộc VN. Đó là sự thật toán học, như hai với hai là bốn, sự thật lịch sử Ông Trời cũng không thay đổi được.

      Bàn luận, tranh luận, tham luận đề tài rất vô ích, là đánh Tàu Cộng trước hay Việt Công trước chỉ làm chệch hướng tranh đấu, chiến đấu của dân chúng và đoàn thể Quốc gia, và làm chia rẽ mục tiêu chánh, mẫu số chung của người chống CS.

      Như  vụ cái người  tự xưng tiến sĩ, thoái sĩ, Bùi Hiền hay Buồi Dữ nào đó đưa mấy chữ gọi là cải cách quốc ngữ làm cho quốc ngữ thành dị hợm, như Hồ chí Minh thay chữ k cho chữ c, chữ ê cho chữ a, tào lao đến mức ngay đám đảng viên CS đa số i tờ cũng không theo, không xài nên bị cho vào sọt rác. Bùi Hiền còn cắt ké hơn Hồ chí Minh nhiều thì cải cách của y sẽ vào sọt rác sớm hơn.. Nếu dư giờ thì nói chuyện với đầu gối còn có lý hơn bàn về vụ Bùi Hiền cải cách quốc ngữ mà đằng sau là một mưu kế do CS dàn dựng để chia rẽ người Việt Quốc gia với người Việt Cộng sản, để làm chệch hướng đấu tranh chống Cộng của dân chúng VN trong ngoài nước.

      Trái lại cứ kiên trì, quyết tâm chống CS như chí sĩ Phan bội Châu khuyên kiên trì, trường kỳ chống Thực dân Pháp thì có ich và có lý hơn hơn. “Đời ta không thành, thì có con ta;  con ta không thành thì có cháu ta”.

      Cứ chống đa dạng, đa diện.  Bằng biểu tình bất bạo động. Bằng bám thắc lưng địch đấu lý. Bằng bất tuân hành dân sự như anh chị em xe hơi chống trạm thu tiền mãi lộ của CS ở Cai Lậy bằng tiền lẻ để gây cản trở lưu thông trên quốc lộ khiến Thủ Tướng CS phải ra lịnh xả trạm cả tháng. Bằng biểu tình đem cá chết vì ô nhiễm ra ngăn cản lưu thông quốc lộ. Bằng biểu tình ngồi cầu nguyện đòi trả đất cho Dân Oan, cho tôn giáo Bằng quốc tế vận, đưa nạn nhân CS vào uỷ ban quốc hội Mỹ tố cáo công an CS vi phạm nhân quyền, cắt cổ người dân trong đồn. Bằng gởi kiến nghị đến cơ quan chánh quyền ngoại quốc và tổ chức Liên hiệp quốc chánh trực đòi thả tù nhân chánh trị.

      Chống liên tục, nhiều nơi, xa luân chiến, trương kỳ kháng chiế, v.v. và v.v.,  người dân Việt có hàng ngàn sáng kiến chống đối. Người dân Việt ‘giặc đến nhà đàn bà cũng đánh’, tinh thần chiến đấu ấy đã thành ca dao, tục ngữ. TT Trump  trong hội nghị APEC ở Đà nẵng đã nhắc lại gương sáng Hai Bà Trưng đứng lên chống quân Tàu giành lại quyền độc lập cho VN. Bây giờ cần và phải chống kẻ thù chung là CSTQ và CSVN là tốt.

      Cái không tốt, cái hại trong công cuộc chống CS là không làm, không dự, không giúp, đứng ngoài, ngồi trong phòng lạnh, bóng mát mà phê bình, chỉ trích, bình luận bình loạn lên, học đòi tác phong, hành động giả đạo đức của CS, thiên tả, phản chiến Mỹ dạy đời, ‘giáo dục quần chúng’ nên “để dĩ vãng ra sau, hướng về tương lai phía trước”, nên ‘hoà giải hòa hợp’ với CS, CSVN bây giờ có chánh quyền có ngoại giao với Mỹ, mà còn chống làm gì - là những lời bị phong trào chống CS  và dân Việt ty nạn CS phản đối và tẩy chay quyết liệt.

      Nhờ người dân Việt trong ngoài nước xa luân chiến và trường kỳ đấu tranh chánh trị chống CSTQ và CSVN mà cả Hành Pháp lẫn Lập Pháp Mỹ đã bày tỏ thiết tha đến Biển Đông và gián tiếp binh vực Phi luật tân và Việt Nam là hai nước bị TC xâm lấn biển đảo nhiều nhứt. Thượng Viện Mỹ thông qua và công bố Nghị Quyết S.Res.524 cam kết Mỹ sẽ  hỗ trợ các nước trong khu vực đảm bảo cường thịnh và độc lập, vì hoà bình và ổn định của khu vực.

      Người dân Việt trong ngoài nước đấu tranh chống kẻ thù chung Tàu Cộng lẫn Việt Cộng đã thành lực lượng càng ngày càng lớn mạnh.

      Nhờ người dân Việt trong ngoài nước đấu tranh mà Đảng Nhà Nước CSVN chia rẽ, rất lợi cho cuộc đấu tranh của người dân. Phe chủ trương đi với Mỹ để thoát Trung, bớt lệ thuộc kinh tế chánh trị TC. Đó là những người CS cấp tiến, do đa số người Nam trong đó có Nguyễn tấn Dũng. Con phe bảo thủ, giáo điều thần phục TC nắm đảng quyền do TBT Nguyễn phú Trọng cầm đầu bị dân thù ghét. 74% dân số VN muốn nhà cầm quyền đi với Mỹ, theo thăm dò của PEW.

      Thế nước lòng dân VN cho thấy phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN, đấu tranh cho vẹn toàn lãnh thố, chống quân Tàu Cộng lẫn Việt Cộng trong lẫn ngoài nước càng ngày càng phát triển số lượng cĩng như qui mô đấu tranh, tỏ ra cần thiết hơn bao giờ hết cho quyền lợi chân chính của dân và nước VN.

      Bất mãn, nản lòng, thụ động, buông xuôi, hay chạy theo chánh trị gia thực dụng ở Washington hay Bắc kinh muốn  làm thay nghĩ thế hoặc hòa giải hòa hợp với CS để họ tự tung tự tác, giải quyết vấn đề VN trên đầu trên cổ người dân VN trong ngoài nước - là giải pháp dễ, nhưng dở, và di hại lâu dài, bị chống đối manh mẽ.

      Trái lại quyết tâm đẩy mạnh, mở rộng thế cuộc đấu tranh trong nước và quốc tế vận cho phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN song song với chống TC xâm lược và VC thông đồng với TC là một tác động hướng thiện, trở thành liên minh bền vững, một qui trình không thể đảo ngược./.(VA)


      source: vietbao
      0

      Add a comment

    2. Câu chuyện Bùi Hiền
      Nguyễn Quang


      Đề xuất sửa đổi ngôn ngữ Tiếng Việt: người trong cuộc nói gì 1
      Đây quả là gáo nước lạnh tạc vào mặt mỗi người dân Việt Nam, nước mất đến nơi rồi mà không hay biết vì có tiếng nói của Tiền nhân “Tiếng ta còn, nước ta còn”, mất tiếng nói xem như đã mất nước![1]
      Hiện tượng Bùi Hiền, ở đây, không bàn chuyện về ngữ học, nhưng xét về trách nhiệm của người lãnh đạo trong cơ cấu Nhà nước đang lụi tàn.
      Trưởng ban tư tưởng, tuyên huấn, Bộ trưởng Văn Hóa, Giáo dục… Thủ tướng đi đâu vắng nhà?
      Hàng ngày người thân chúng ta tại Việt Nam phải dùng toàn thực phẩm chế biến từ hóa chất độc hại đến không khí ô nhiễm, dọc duyên hải miền Trung với rừng vàng biển bạc nay trở thành Biển chết. Cả dân tộc bị diệt vong, Hán hóa từng ngày. Việt Nam đang là một bãi rác khổng lồ của Trung Quốc. Đó là về vật chất.
      Công việc trị nước cốt ở yên dân, nhưng đối với người dân dưới chế độ cộng sản thời không bao giờ được bình an, vì điều dễ hiểu chính quyền chuyên chính vô sản, đó là biết gây mâu thuẫn để triệt hạ con người, một quy tắc nền tảng của biện chứng pháp duy vật.
      Sự ném đá tối đa trên mạng xã hội đủ nói lên giới cầm quyền đã quăng được miếng mồi cho quần chúng để thực hiện các âm mưu đen tối của Bộ chính trị như bán biển đảo, tham nhũng, tao sự phân hóa sâu xa trong xã hội ngõ hầu dễ dàng trị người.
      Chúng ta dần quên đi Mẹ Nấm và hàng trăm tù nhân lương tâm đang bị giam cầm vì tự do, dân chủ cho Việt Nam. Các thế hệ tương lai sẽ không biết được lịch sử của nước Việt Nam, và thảm họa tại Việt Nam hiện nay, học sinh rất ghét môn lịch sử, không phải các em chối bỏ cội nguồn nhưng tất cả đều biết rằng đó là một môn học tuyên truyền, dạy nói láo. Do đó nay với loại chữ “Záo Zụk”, sẽ khiến các thế hệ sau này mất nguồn gốc ở ngay trên quê hương của mình. Rồi Tàu Cộng sẽ đồng hoá người Việt Nam rất dễ dàng.
      Tập đoàn cộng sản Hà Nội đang làm trò xiếc bán nước gì nữa đây? Khi chúng ta chỉ quanh quẩn những chuyện thứ yếu mà quên mất non sông bờ cõi không còn nữa. Một đảo Phú Lâm thuộc Trường Sa với sự xuất hiện của máy bay vũ khí tối tân của Trung Quốc, một trong những mũi tấn công chớp nhoáng vào Sài Gòn nhanh chóng khi có biến động.
      Chúng ta quên đi các Hiệp ước Genève 1954 và Paris 1973 vẫn còn giá trị về mặt công pháp quốc tế cho việc thừa nhận mặc nhiên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
      Nhân cách lãnh tụ định hình nhân cách quốc gia, đề tài “ngáo đá” này được đưa ra không chỉ từ một cá nhân nhưng có sự toa rập của cả hệ thống chính trị cộng sản. Nó xuất hiện trong một cuộc hội thảo tầm cỡ Đại Học do Đại học Qui Nhơn tổ chức và sau đó là các báo lề phải. Những con người không đủ tầm vóc quốc gia đang điểu khiển đất nước.
      Trong khi tiếng Việt đã là một hệ thống chữ viết ký âm cố gắng biểu đạt được chính xác cách nói, cách viết của người Việt trong cả nước. Như vậy có thể khẳng định rằng tiếng Việt là một hệ thống ngôn ngữ hoàn chỉnh đã trải qua hơn 400 năm từng được tu chỉnh, và hệ thống hoá. Tiếng Việt sẽ có cơ hội tốt để trở thành một ngôn ngữ quốc tế. “Chữ Nôm hay Chữ Quốc Ngữ đều là hệ thống chữ viết ghi âm, tức là dạng chữ viết ở mức phát triển cao nhất trong lịch sử chữ viết loài người.”[2] 
      Nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh đã tin tưởng: "Nước Nam ta mai sau này, hay dở cũng ở chữ quốc ngữ."[3]
      Thế giới đang biến đổi nhanh đi vào thời siêu điện tử, bên sau lỗ đen hãy còn nhiều hố đen, và từ ngoài vũ trụ có những kết quả không cùng nguyên nhân. Ở đây và bây giờ, sự vững mạnh về quyền lực kinh tế và ảnh hưởng tiếp tục thay đổi từ tây sang đông một cách mạnh mẽ mà vai trò của Việt Nam hiện đang ở đâu, trong khi con dân cứ chạy được là cứ đào thoát khỏi quê hương hay sao?
      Chúng ta suy nghĩ gì khi “Kiến vi tri trứ”, biết chuyện nhỏ để biết cái lớn lao, nhân loại chuyển trực tiếp từ tiền mặt sang thanh toán trực tuyến di động - bỏ qua giai đoạn trả bằng chi phiếu và thẻ tín dụng. Trong khi chúng ta đang nợ trần đã vượt ngưỡng cửa và khi một cháu bé ra đời đã gánh nợ từ cha ông chúng để lại. Rồi còn phải đi học đánh vần xóa mù chữ “ngáo đá”.
      Chúng ta người Việt Nam dù trong hay ngoài nước, hãy nhớ rằng cả xã hội Trung Cộng ngày nay từ đảng đến dân chỉ biết chạy theo đồng tiền và câu nói của Tôn Dật Tiên về Trung cộng hãy còn đó “Trung Hoa là một thau cát”. Nên chúng ta đừng sợ! Đừng bao giờ sợ!
      Sự phá hoại tiếng Việt, làm cho các thế hệ tương lai không đọc được chữ Việt, không hiểu được tư tưởng và đạo đức của người Việt Nam mà chúng ta đã dày công xây dựng trong hơn 400 năm qua.
       Đó là âm mưu cực kỳ thâm độc của công cuộc Hán hóa mà nay qua lòng tham vô đáy của họ Tập. Trong thế chiến lược hiện nay, cho dù Hoa Kỳ tấn công Cộng Sản Bắc Hàn thì bất luận là Trung Cộng cứu hay không cứu Bắc Hàn, các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam vẫn có thể bị ảnh hưởng, rất có thể bị tấn công. Vì một điều dễ hiểu Trung quốc cũng phải chứng tỏ siêu cường, khi Hoa Kỳ tấn công Bắc Hàn, một sân sau của Trung quốc, Hoa Kỳ cũng phải nhường cho họ để cùng tồn tại. Thế giới hôm nay không có kẻ thắng, người thua mà là “win - win”, đó là lối chơi rất song phẳng “Fair Play”.
      Các số liệu mới nhất tràn ngập người ở cửa biên giới phía Bắc mỗi ngày với hơn cả vạn người Trung Quốc sang Việt Nam qua chương trình du lịch 0 đồng, do nhà nước Trung quốc tài trợ. Tàu đến Việt Nam và có bao nhiêu du khách trở về, đố ai kiểm soát ?!
      Những chuyện cải tiến ‘Tiếq Việt’ đến rầm rang BOT Cai Lậy ..v.v.. thật sự chỉ là âm mưu đánh lừa dư luận ‘giương Đông kích Tây’ của bọn tay sai Trung Nam Hải ở Hà Nội trong âm mưu thôn tính toàn diện Việt Nam.
      Những chuyện “ngáo đá” đòi sửa tiếng Việt đã có từ lâu, không phải bây giờ mới xuất hiện. Bậc thầy “ngáo đá” này phải kể đến Hồ Chí Minh, khi ông muốn hủy diệt tiếng Việt từ lâu, kể cả xuyên tạc và vô ơn đối với các ân nhân đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, Hồ viết trong một văn bản "Tuyệt đối bí mật" hết sức quan trọng là di chúc, ông đã dùng chữ "z" thay cho chữ "d" hoặc thay chữ "ph thành chữ "f", bỏ âm "h" trong từ "nghị" thành "ngị", và trong các văn bản khác trước đó như "Đường Kách mệnh"…
      Không thể dùng “k” thay chữ “c”, “q”, “k”; vì qui tắc viết chính tả và phát âm chuẩn của “cuốc” khác với “quốc”; hơn nữa “k” khi ghép với “h” để thành chữ cái phụ âm kép “kh” ở đầu một chữ thì phải phát âm rất khác với “k”; như trong các chữ “kê” và “khê”, “cô” và “khô”, “ki” và “qui” và “khi”. Cách phát âm chuẩn và qui tắc viết chính tả của những chữ này hoàn toàn khác nhau, nếu gọp chung lại để thay thế bằng một mẫu tự “k” đúng là một chuyện phá bỏ qui tắc chính tả một cách có quy luật của chữ Quốc ngữ.
      Không thể dùng chữ cái “q” thay chữ cái phụ âm kép “ng”, “ngh”; vì mẫu tự “q” không có ở đầu và  cuối của một chữ trong tiếng Việt. Nếu dùng một chữ cái “q” để thay thế “ng” và “ngh” trong chữ “nghe ngóng”để trở thành “qe qóq” thì đúng là quái đản. Qui tắc viết chính tả tiếng Việt chữ “ng” ở đầu chữ được viết với các nguyên âm “a, o, ô, u, ư” thành những chữ “nga”, “ngo”, “ngô”, “ngu”, “ngư”. Chữ “ngh” ở đầu chữ được viết với “i, y, e, ê” thành những chữ “nghi”, “nghy”, “nghe”, “nghê”. Như vậy theo đề xuất của họ Bùi thay chữ “ng”, “ngh” bằng một chữ “q” thì phải bỏ qui tắc viết chính tả rất hoàn chỉnh của tiếng Việt! Đúng là một đề nghị rất sai trái không thể chấp nhận được!
      Quả thật, người dân Việt Nam có một loại chữ viết riêng, rất đặc thù, rất chính xác tương đồng với tiếng  nói; điểm quan trọng nhất là để dứt khoát tách ra khỏi bị ảnh hưởng nặng nề của hệ thống chữ Hán truyền thống của Trung Quốc. Cho đến nay người Việt chắc chắn đã có được một kho tàng văn học đồ sộ và phong phú với rất nhiều bộ sách quý, bộ tài liệu giá trị, bộ sách lịch sử, địa lý, khoa học, tác phẩm văn chương, thi ca, triết học, luận lý, đạo đức, tu từ học, ca dao tục ngữ và truyện cổ tích. Có cả tác phẩm Chiến Tranh & Hòa Bình Việt Nam được đề cử cho Giải Nobel Văn Học.
      Cái quan trọng và thiết yếu nhất là nước Việt Nam cần phải cách mạng chính trị, kinh tế toàn diện xã hội  “Con người là nạn nhân của cơ chế nhà nước toàn trị và chỉ có thể được giải thoát bởi một cơ chế Dân chủ qua đường lối mới nhân bản”. Một triết lý sống an vi cho người Việt.
      Vấn đề Bùi Hiền, nó là một trong những chuyện rất bát nháo tại quê hương Việt Nam hôm nay, một đề xuất không mang tính khoa học, cẩu thả, làm nghèo tiếng Việt, hà tất sẽ bị đào thải theo thời gian, vì nếu đó là thứ ngôn ngữ đáng trân trọng, người dân đã làm theo cách mà Thiếu tá Hồ Quang đã đề ra như tên tiêu đề một tác phẩm theo cách viết “Đườq Kách mệnh”. Nghĩa là như luật cổ La Mã có câu “Ni affirmative, ni negative”. Những gì không xác định không cần phải phủ định.
      Giải bài toán Việt Nam hiện nay, đó là thực hiện quyền dân tộc tự quyết của người Việt Nam tiến đến một chính thể mới ra đời: Dân Chủ Pháp trị để dẫn đưa xã hội từ hỗn mang đến trật tự văn minh –Ordo Ab Chaos
      Nguyễn Quang
      [1] Trong tạp chí Nam Phong, số 86 (năm 1924), Phạm Quỳnh viết:
          Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; 
            Tiếng ta còn, nước ta còn.
             Có gì mà lo, có gì mà sợ, còn điều chi nữa mà ngờ
      [2] Chữ Quốc Ngữ qua những biển dâu. Tác giả Đoàn Xuân Kiên
       [3]. Nguyễn Văn Vĩnh viết câu nầy trong bài tựa bản dịch bộ Tam quốc chí diễn nghĩa do Phan Kế Bính dịch, xuất bản ở Hà Nội năm 1909. (Dương Quảng Hàm, sđd. tr. 398.)
         
      0

      Add a comment

    3. PEW: Dân VN Chán Chê CS

      image


      Trung tâm nghiên cứu quốc tế PEW trụ sở ở Mỹ vừa mới khảo sát, công bố kết quả như sau. 87% người dân Việt ủng hộ hình thức dân chủ đại diện, tức hình thức người dân bầu dân biểu đại diện cho dân ở Quốc hội và các dân biểu này thay mặt dân quyết định việc nước, chuyện dân. Và 73%  ủng hộ hình thức dân chủ trực tiếp. Với hai hình thức dân chủ này, mọi công dân trực tiếp tham gia vào việc quyết định các chính sách của quốc gia thông qua bỏ phiếu hoặc trưng cầu dân ý. 70% người được hỏi trả lời là chán chê chế độ CS độc tài đảng trị toàn diện hiện hành, và “ủng hộ chế độ do quân đội lãnh đạo”, vẫn tốt  hơn CS. 67% người Việt Nam ủng hộ một hệ thống cai trị trong đó các chuyên gia, chứ không phải các những người dân cử là người đưa ra các quyết sách mà theo họ là tốt nhất cho đất nước.

      PEW là một trung tâm nghiên cứu phi đảng phái, trụ sở tại Mỹ. Pew chuyên nghiên cứu về các vấn đề, thái độ và xu hướng có tính định hình thế giới, thông qua các cuộc thăm dò ý kiến công chúng và phân tích, nghiên cứu về nhân khẩu học, xã hội học. Trung tâm này khẳng định không dựa trên bất cứ lập trường chính trị nào.

      Dĩ nhiên về kỹ thuật đây là một thăm dò dân ý khá chuẩn và trung thực nhờ các dụng cụ truyền thông như điện thoại di động, và các loại trang mạng xã hội khác, nhà cầm quyền độc tài như CSVN khó ngăn chận.

      PEW có phân loại theo tuổi tác nhưng không thấy phân vùng, CS Bắc Việt và VN Cộng hoà. Nhưng cũng không quan hệ lắm vì ý thức hệ của người hai vùng sau 42 năm, lớp trẻ sanh sau 30-4-75 bây giờ nhiều, không còn gay gắt như trong thời Chiến tranh VN, đất nước chia đôi mấy chục năm trời.  Khảo sát của PEW có ghi chú trong số những người ủng hộ quân đội cầm quyền, người trên 50 tuổi đông gấp đôi số người ở độ tuổi 18 – 29 (46% so với 23%).

      PEW đưa ra kết quả thăm dò khảo sát trước thời gian TT Trump đến VNCS tham dự hội nghị APEC và ra thăm Hà nội, gặp Chủ Tịch Nước Trần đại Quang của VNCS. Nên không khỏi có nhiều tranh cãi giữa các cựu quân nhân của VNCS và cựu quân nhân VN Cộng Hòa. Tranh cãi có gay cấn hơn giữa những đảng viên CSVN và những nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền và sự vẹn toàn lãnh thổ VN trong nước.

      Trên Đài VOA có ghi nhận môt số ý kiến của người trong chế độ CSVN. Người thì nói 70% ủng hộ quân đội cầm quyền tại Việt Nam có thể là do sự “hoài niệm quá khứ”, là do truyền thống quân đội, do quân đội cũng sạch sẽ hơn công an, ít tham nhũng hơn công an”. Nhưng cũng có người nói không phải vậy. Hiện nay quân đội CSVN mất uy tín rất lớn”. Quân đội hiện tại “bạc nhược” và “chịu sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “quân đội hoàn toàn không bảo vệ được chủ quyền đất nước”; tham nhũng trong quân đội quá lớn. Ý tưởng quân đội cầm quyền khá xa lạ với người dân Việt Nam. Ý tưởng này chưa từng xuất hiện trên bất cứ diễn đàn hay cuộc thảo luận về chính trị nào, kể cả “lề phải” lẫn “lề trái.”

      PEW cho biết trong số 5 hình thức quản trị được đưa ra trong cuộc khảo sát tại Việt Nam, chỉ có hình thức “cai trị bởi một lãnh đạo mạnh mẽ” mà không có sự can thiệp của tòa án hoặc nghị viện là có số lượng người phản đối nhiều hơn (47%) so với số người ủng hộ (42%).

      Cũng có người nói Đảng Cộng sản độc tài đảng trị toàn diện lâu nay,  bây giờ “yếu kém, đuối lắm rồi. Nhưng nếu không có nó thì vô chính phủ là cái chắc. Mà vô chính phủ thì chết”.

      Với kết quả khảo sát dân ý như thế, chế độ CS đang bị coi là một chế độ độc tài đảng trị toàn diện quá tệ. Kết quả PEW lại công bố trước khi TT Trump và phái đoàn liên bộ qua VNCS để hội nghị APEC tai Đà Nẵng, Việt Nam, và sau đó TT Trump ra Hà nội viếng thăm nước chủ nhà theo nghi thức. Có tin TT Trump chỉ gặp Chủ Tịch Nước mà không gặp Tổng bí thư.

      Được biết Đài RFA của Mỹ hồi năm 2016, cũng có đi một tin liên quan đến kết quả thăm dò của PEW cho biết [xin phép ghi lại nguyên văn cho trung thực] Rằng “Trung bình có 66% người được hỏi trên toàn thế giới cho rằng dân chủ trực tiếp (theo đó chính công dân hơn là những viên chức được bầu ra, bỏ phiếu cho những vấn đề lớn) sẽ là cách tốt để quản trị đất nước.

      “Việt Nam cũng nằm trong số 38 quốc gia mà PEW tiến hành cuộc thăm dò vừa nêu. Kết quả thăm dò cho thấy có đến gần 80% người Việt Nam được hỏi cho rằng dân chủ đại diện là tốt nhưng cũng đồng thời ủng hộ ít nhất một hình thức chính phủ không dân chủ.

      “Thăm dò ở Việt Nam cũng cho thấy có 31% những người được hỏi ý kiến cho rằng họ tin chính quyền đang làm điều đúng cho đất nước.

      “Khi được hỏi ‘một hệ thống dân chủ nơi mà công dân, chứ không phải những viên chức, bỏ phiếu trực tiếp cho những vấn đề lớn của đất nước nhằm đưa ra luật lệ sẽ tốt hay xấu cho quốc gia của bạn’, có 16% cho rằng rất xấu.

      Có 47% người được hỏi ý kiến tại Việt Nam trả lời rằng ‘hoàn toàn xấu’; khi được nêu câu hỏi ‘Một hệ thống mà theo đó một nhà lãnh đạo cứng rắn có thể đưa ra quyết định không cần sự can thiệp của quốc hội hay tòa án là cách tốt hay xấu trong quản trị đất nước?’

      “Báo cáo của PEW về dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện như vừa nêu được tiến hành từ ngày 16 tháng 2 đến ngày 8 tháng 5 vừa qua dựa trên trả lời của gần 42 ngàn người tại 38 nước.”

      Hai sưu khảo này của PEW làm trong hai năm đều cho thấy thế nước lòng dân VN mong muốn một chế độ dân chủ cho quốc gia dân tộc VN của mình. Chế độ độc tài đảng trị của CS bị dân chán chê. Người dân Việt từ già đến trẻ, từ Bắc, qua Trung, vô Nam đều muốn có một thể chế tự do, dân chủ, một chánh quyền của dân, do dân, vì dân.

      Vi Anh

      source: Vietbao


      0

      Add a comment

    4. Gương hiếu hạnh của tôn giả Xá Lợi Phất

      Bài THÍCH QUẢNG TÁNH

      Nói đến hiếu hạnh, chúng ta thường nghĩ đến tôn giả Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) với hạnh nguyện cứu mẹ thoát khỏi địa ngục, duyên khởi cho thắng hội Vu Lan. Tuy nhiên, bên cạnh ánh dương hiếu hạnh của tôn giả Mục Kiền Liên, trong hàng đại đệ tử Phật còn có nhiều tấm gương hiếu đạo sáng ngời khác, tiêu biểu nhất là tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta), bậc trí tuệ và hiếu thảo vẹn toàn.


      Ngài Xá Lợi Phất đang thuyết phát cho mẹ trong lần về thăm bà lần cuối trước khi mất. (Hình vẽ của Shekhaverma)

      Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà La Môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi, vốn thông minh và có biệt tài hùng biện hằng mong con trai của mình sẽ trở thành một đại luận sư lỗi lạc bậc nhất đương thời. 

      Ấy thế mà lớn lên, Xá Lợi Phất lại rủ bỏ tất cả để đi theo Sa môn Cù Đàm (Phật Thích Ca), trở thành trợ thủ đắc lực của Thế Tôn, lại dùng tài trí của mình quy thuận rất nhiều Bà La môn theo Phật giáo. Mặc dù rất thương và tôn trọng quyết định của con nhưng sự kiện Xá Lợi Phất xuất gia đầu Phật đã khiến bà Xá Lợi thất vọng, đau buồn và không hề có thiện cảm với Tăng đoàn.

      Khi xuất gia chứng quả A La Hán rồi, tôn giả Xá Lợi Phất biết rất rõ điều ấy. Ngài muốn trở về để thức tỉnh và chuyển hóa mẹ lắm, nhưng vì nhân duyên chưa chín muồi nên đành phải chờ, chờ mãi cho đến khi ngài sắp Niết bàn và mẹ ngài, bà Xá Lợi lúc ấy đã gần 100 tuổi.

      Khi được tin Xá Lợi Phất cùng tùy tùng hơn 500 vị tỳ kheo sắp trở về nhà, bà Xá Lợi vẫn hờ hững. Dù bấy giờ, danh tiếng và oai đức của Xá Lợi Phất đã lẫy lừng khắp thiên hạ nhưng trong lòng bà thì Xá Lợi Phất luôn bé nhỏ và ngay cả Thế Tôn cũng bình thường không thể sánh với đấng Phạm Thiên vĩ đại mà bấy lâu bà vẫn tôn thờ.

      Cuộc trùng phùng của tình mẫu tử sau hơn mấy mươi năm xa cách chưa được bao lâu thì Tôn giả Xá Lợi Phất ngã bệnh. Ngài đau thật hay thị hiện thì ta không thể biết nhưng bà Xá Lợi thì tỏ ra rất lo lắng, bồn chồn. Có bà mẹ nào mà không khỏi lo lắng cho con! Đêm ấy bà thao thức mãi, không thể nào chợp mắt được. 

      Bà Xá Lợi lò dò đến thăm con thì bỗng lóa mắt như lạc vào thế giới của thiên thần. Trong căn phòng của tôn giả Xá Lợi Phất ngập tràn ánh sáng vơi vô số chư thiên hào quang rực rỡ vây quanh. Không chỉ một mà nhiều đoàn thiên thần đến thăm tôn giả Xá Lợi Phất làm cho bà Xá Lợi ngạc nhiên và mừng rỡ vô cùng. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời bà được chứng kiến cảnh huy hoàng, tráng lệ ấy.

      Khi vị trời có hào quang và dung sắc sáng chói nhất cùng tùy tùng ra đi, bà Xá Lợi liền xin phép thị giả Thuần Đà vào thăm tôn giả Xá Lợi Phất. Bà ta ngạc nhiên đến cùng cực khi biết các phái đoàn thiên thần đến thăm con bà lần lượt là Tứ Đại Thiên Vương, Đế Thích và cả Đại Phạm Thiên, đấng toàn năng mà bà hằng quy kính, tôn thờ. 

      Một thoáng suy tư, bà Xá Lợi nghĩ rằng nếu con của ta mà có oai lực lớn đến trời người đều cung kính như vậy thì Đấng Thế Tôn oai lực vĩ đại đến dường nào. Nghĩ đến đây, bà Xá Lợi cảm nhận một niềm hỷ lạc tràn ngập châu thân, tinh thần thư thái vô cùng, niềm tịnh tín nơi Thế Tôn trong bà bừng phát. Nhân đó, tôn giả Xá Lợi Phất tuần tự giải thích và xưng tán công đức siêu tuyệt của Thế Tôn qua các phương diện giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Thật diệu kỳ, khi pháp thoại vừa chấm dứt thì bà Xá Lợi thành tựu Pháp nhãn thanh tịnh, tin tưởng bất động vào Thế Tôn, chứng đắc sơ quả Tu Đà Hoàn.

      Thế là tôn giả Xá Lợi Phất đã làm tròn bổn phận hiếu đạo của người xuất gia. Tuy không sớm thăm tối viếng, cung phụng ngon ngọt, nhưng đã giúp mẹ thoát được lưới mê, bước vào dòng Thánh, phúc lạc muôn đời.

      Không chỉ hóa độ người mẹ trong hiện tại, đối với các bậc sanh thành trong quá khứ, tôn giả Xá Lợi Phất cũng viên thành hiếu đạo. 

      Ngạ quỷ sự, Tiểu Bộ Kinh kể rằng: Lúc Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, bấy giờ các tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đang trú tại một nơi trong khu rừng không xa thành Vương Xá.

      Trong đời quá khứ có một phú gia ở thành Ba La Nại thường phát tâm cúng dường rộng lớn đến các Sa Môn, Bà La Môn và bố thí rộng rãi cho những người nghèo khó. Rồi một hôm, phú gia bận đi làm ăn xa, trước khi đi dặn dò vợ chu toàn công việc bố thí cúng dường. Ông đi rồi, người vợ không những chểnh mảng trách nhiệm cúng dường được chồng giao phó mà còn biểu lộ thái độ khinh khi, sỉ nhục những người nghèo khổ. 

      Vì tham lam bỏn sẻn, tạo ác nghiệp nặng nề nên khi từ trần bà tái sanh làm ngạ quỷ chịu nhiều khốn khổ. Nhớ lại những công đức lành mà bà đã làm trong quá khứ, bà mong muốn được gặp tôn giả Xá Lợi Phất liền tìm đến thành Vương Xá.

      Khi đến gần tịnh thất của tôn giả Xá Lợi Phất, nữ quỷ bị các hộ pháp thiện thần chặn lại, không cho vào. Nữ quỷ nói rằng trong năm kiếp về trước, ta là mẹ của tôn giả Xá Lợi Phất, hãy cho phép ta vào thăm ngài. 

      Khi thấy nữ quỷ, ngài Xá Lợi Phất liền hỏi: Vì sao hình dung người tiều tụy, còn da bọc xương, khổ não đến thế này? Nữ quỷ thưa rằng: Trong năm kiếp về trước tôi đã từng làm mẹ của tôn giả. Nhưng vì các ác nghiệp đã gây tạo nên giờ đây bị đọa vào cảnh khổ, không nhà cửa, không có đủ đồ ăn thức uống, luôn bị đói khát hanh hạ. Xin tôn giả rủ lòng thương, vì tôi mà phát tâm bố thí, cúng dường để thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ.

      Ngày hôm sau, tôn giả Xá Lợi Phất cùng các tỳ kheo đến gặp vua Tần Bà Sa La trình bày sự việc, nhờ trợ duyên và được đức vua chấp thuận. Khi lễ vật chuẩn bị xong, tôn giả Xá Lợi Phất thành tâm dâng cúng lên Đức Phật và chư Tăng khắp mười phương rồi hồi hướng công đức cho nữ quỷ.

      Nhờ phước báo ấy mà nữ quỷ mẹ tôn giả Xá Lợi Phất trong quá khứ được thoát kiếp ngạ quỷ, sanh lên cõi trời. Và vị thiên nữ với dung sắc thù thắng, xiêm y rực rỡ đã xuống trần gặp tôn giả Mục Kiền Liên, nói rõ nhân duyên thoát khỏi cảnh khổ đồng thời bày tỏ niềm tri ân vô hạn đến tôn giả Xá Lợi Phất.

      Nhờ sự nỗ lực tu học của mình, tôn giả Xá Lợi Phất đã hóa độ cha mẹ trong hiện tiền cũng như cứu thoát các bậc cha mẹ trong quá khứ, vượt ra khỏi cảnh khổ. Và đó là tấm gương sáng để cho hàng hậu thế chúng ta học tập, noi theo.
      source: viendongdaily
      0

      Add a comment

    5. Thiếu hụt năng lượng đe dọa tăng trưởng của Việt Nam

      Tàu hải giám của Trung Quốc, ngày 15 Tháng Năm, 2014, lao vào mấy tàu cảnh sát biển của Việt Nam để chặn không cho tiến tới giàn khoan HD981 đang khoan tìm dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam, phía nam quần đảo Hoàng Sa. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)
      HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Vì bị Trung Quốc ngăn cản không cho tìm kiếm và khai thác dầu khí trên thềm lục địa, Việt Nam nhiều phần phải tìm kiếm các nguồn năng lượng khác cho nhu cầu ngày một tăng cao.
      Theo một bài phân tích của tạp chí Asian Today, Việt Nam đã bắt đầu khai thác dầu khí trên thềm lục địa từ những năm cuối thập niên 1980. Nhiều mỏ dầu và mỏ khí đã được khám phá và khai thác êm xuôi cho đến những năm gần đây khi Trung Quốc lên giọng xác định chủ quyền lãnh thổ, chiếm hơn 80% Biển Đông, lấn sâu vào các vùng đặc quyền kinh tế của các nước trong khu vực.
      Bắc Kinh đã nhiều lần cho tàu ngăn cản các tàu dò tìm dầu khí của Việt Nam trên các vùng biển mà họ có cái vạch chủ quyền “Lưỡi Bò” vắt ngang. Lần mới đây nhất, Tháng Sáu vừa qua, tàu khoan dầu của công ty Rapsol mà Việt Nam thuê, đã phải hủy bỏ ngang cuộc trắc nghiệm tầm mức của trữ lượng dầu khí tại lô 136-3 Đông Nam Vũng Tàu 200 hải lý, khi Bắc Kinh đe dọa đánh chiếm các vị trí của Việt Nam.
      Năm 2014, lực lượng cảnh sát biển của Việt Nam, dù nhỏ bé về mọi mặt so với Trung Quốc, đã phải đối diện với đoàn tàu hải giám của Bắc Kinh suốt hai tháng rưỡi ở phía Nam quần đảo Hoàng Sa cho tới khi giàn khoan của họ rút đi.
      Vì nhu cầu năng lượng, tuy phải tạm đình hoãn bởi Trung Quốc cảnh trở, nhưng Việt Nam sẽ phải nỗ lực tìm kiếm các địa điểm khác để khoan tìm. Nền kinh tế của Việt Nam cần năng lượng để phát triển cũng như các nhà đầu tư quốc tế, và cả các công ty dầu khí quốc tế, nhìn thấy viễn ảnh không sáng sủa, trước sau sẽ theo nhau bỏ chạy.
      Trong sô các dự án, dự án khai thác khí đốt tại mỏ Cá Voi Xanh – lô 118 – ngoài khơi miền Trung đã có thỏa thuận tiến hành với hàng Exxon-Mobil của Mỹ đầu tư $10 tỷ để khai thác. Mỏ này cũng có cái vạch “Lưỡi Bò” vắt chéo qua. Người ta không rõ rệt lắm đối với các đe dọa của Bắc Kinh với lô này nhưng các công ty dò tìm và khai thác dầu khí đều bị Bắc Kinh cảnh cáo không được hoạt động trên vùng biển mà họ ngang ngược gọi là “chủ quyền” trên Biển Đông.
      Trữ lượng dầu của Việt Nam ước tính khoảng 600 triệu thùng, đứng hàng thứ nhì ở khu vực Đông Á Châu. Theo thống kê, nhà máy điện chạy than là nguồn năng lượng chính chiếm 34.4% nguồn lực năng lượng của Việt Nam năm 2015. Vì sử dụng than tương đối rẻ hơn nên Việt Nam dự tính gia tăng sản lượng từ các nhà máy chạy than lên 42.6%.
      Việt Nam là nước bán dầu thô rồi nhập các lại các sản phẩm tinh lọc từ dầu mỏ. Cho đến nay, dầu khí vẫn là nguồn cung cấp tài chính chính yếu cho tổng sản lượng quốc gia (GDP) của Việt Nam. Từ năm 2000 trở lại đây, sản lượng dầu thô của Việt Nam suy giảm dần vì một số mỏ lớn khai thác từ lâu đã và đang cạn dần. Việt Nam cần phải tìm kiếm dầu khí các nơi khác không bị cản trở.
      Mức tiêu thụ điện của Việt Nam, theo đầu người, năm 1995 chỉ có 156kw/giờ nhưng đã lên tới 1,415kw/giờ vào năm 2014. Nhu cầu tiêu thụ điện năng gia tăng trung bình mỗi năm khoảng 10.5% cho giai đoạn từ 2016-2020. Sau đó, dự báo gia tăng lối 8% cho giai đoạn từ 2020 đến 2030 với giả định là chương trình cung cấp điện năng đạt kế hoạch. Hiện một số khu vực vùng sâu vùng xa vẫn chưa được kết nối vào với lưới điện quốc gia.
      Việt Nam tùy thuộc nhiều vào than đá để có điện nên vấn đề cam kết giảm bớt 25% ô nhiễm môi sinh đã không đạt được. Ngay như tại thủ đô Hà Nội, ô nhiễm không khí cao hơn 2.5 chỉ số theo tiêu chuẩn của tổ chức Y Tế Thế Giới đề ra. Bệnh tật liên quan đến tim, phổi vì thế sẽ gia tăng nhiều hơn.
      Trước khi quá muộn, Việt Nam cần phải phát triển nhanh các nguồn năng lượng tái tạo để thỏa mãn cả nhu cầu điện năng và vấn đề sức khỏe. Tuy nhiên, cả khả năng tài chính cũng như kiến thức khoa học kỹ thuật để phát triển lãnh vực này đều thiếu.
      Trong số 50 dự án điện gió, mới chỉ có 4 dự án đã hoạt động với tổng công suất khiêm tốn 160MW. Nếu được phát triển, các hệ thống điện mặt trời có thể cung cấp đến 35% nhu cầu điện của Việt Nam và điện gió cung ứng được khoảng 13% , nhưng như ở trên trình bày, Việt Nam thiếu cả tài chính và kiến thức khoa học kỹ thuật.
      Năm ngoái, Việt Nam đã phải tạm gác dự án xây dựng hai lò điện nguyên tử tại tỉnh Ninh Thuận dù đã ký hợp đồng với Nga. Tốn phí đến $18 tỷ lại có nhiều nguy hiểm, chuyên viên chưa đào tạo được bao nhiêu.
      Đối diện với nhiều lực cản, đặc biệt là cái vạch “Lưỡi Bò,” trong khi nhu cầu điện năng mỗi ngày mỗi gia tăng, tìm các nguồn cung ứng điện năng cho Việt Nam là bài toán đầy thử thách. (TN)
      Source: nguoiviet
      0

      Add a comment

    6. Nhà văn Phan Nhật Nam trả lời thơ mời về Việt Nam họp của cộng sản Hà Nội

      Nhà văn Phan Nhật Nam trả lời thơ mời về Việt Nam họp của cộng sản Hà Nội

      Thư gửi : Nhà văn PHAN NHẬT NAM
      Thưa anh,
      1/ Để đỡ đường đột, xin giới thiệu. Tôi là Hữu Thỉnh, người từng đọc anh đã lâu, hiện nay đang làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi mới gặp Thụy Kha vừa ở bên ấy về, cho biết có gặp anh và hai người đã từng cùng nhau uống bia vui vẻ. Đấy quả là một sự kiện bất ngờ thú vị. Với dư âm của các cuộc gặp ấy, tôi viết thư này thăm anh và bày tỏ nguyện vọng “tái bản” cuộc gặp ấy, và di chuyển nó về quê nhà với quy mô rộng hơn, thời gian dài hơn trong khuôn khổ một cuộc gặp mặt của Hội Nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sống và làm việc tại nước ngoài. Đây là một cuộc hội ngộ mà chúng tôi mong mỏi từ lâu, nay mới có thể thực hiện được. Với ý nghĩa cao cả, góp phần làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc, xứng đáng để chúng ta vượt qua mọi xa cách và trở ngại, cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp. Tôi chờ đợi được anh chia sẻ điều đó và chân thành mời anh tham gia sự kiện nói trên.
      Anh Nam ơi, tôi muốn nói thêm rằng, chúng ta đều không còn trẻ nữa. Tôi hình dung cuộc gặp này là rất có ý nghĩa cho những năm tháng còn lại của mỗi chúng ta. Tôi cũng dự đoán rằng, có thể có những khó khăn. Nhưng từ trong sâu thẳm thiên chức nhà văn, chúng ta cùng chọn Dân Tộc làm mẫu số chung để vượt qua tất cả.
      1. Cuộc gặp mặt dự kiến sẽ diễn ra từ 20 đến 25 tháng 10 năm 2017 tại Hà Nội và một số địa phương ở phía Bắc. Trường hợp anh Nam, Ban tổ chức sẽ lo chi phí toàn bộ đi về và thời gian tham gia Cuộc gặp mặt. Vì là lần đầu, còn nhiều bỡ ngỡ, xin anh vui lòng lấy vé giúp và cho biết thời gian chuyến bay để chúng tôi ra đón anh tại sân bay Nội Bài. Quá trình chuẩn bị có gì cần trao đổi, xin anh cho chúng tôi biết sớm.
      1. Ngay sau khi được hồi âm của anh, tôi sẽ gửi giấy mời chính thức cùng chương trình của Cuộc gặp mặt. Mùa Thu Hà Nội cùng những giá trị bền vững của tâm hồn Việt đang chờ đón Cuộc gặp mặt của chúng ta.
      Chúc anh sức khỏe, may mắn, gia đìnhh hạnh phúc và mong sớm nhận tin tốt lành.
      Hà Nội 1/9/2017
      Thư gủi Ông Hữu Thỉnh,
      Hội Nhà Văn Hà Nội

      Qua địa chĩ điện thư Cô Đào Kim Hoa
      Phụ Tá Ngoại Vụ Hội Nhà Văn
      Tôi, Phan Nhật Nam nguyên là một sĩ quan cấp Đại Úy Hiện Dịch Thực Thụ thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù/Quân Lực VNCH gởi đến Ông Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội để trả lời thư đề ngày 1 tháng 9, 2017 qua điện thư của Cô Đào Kim Hoa
      #1-Từ vị thế một quân nhân thuộc đơn vị tác chiến của Quân Lực Miền Nam như trên vừa kể ra, với tính khách quan, độc lập của người không liên hệ đối với sinh hoạt của giới văn hóa, học thuật trong nước, ở Hà Nội trước, sau 1975.. Tôi có thư nầy để trả lời mời gọi mà ông Hữu Thỉnh đã trực tiếp gởi đến cá nhân tôi nhằm thực hiện tiến trình gọi là “Hòa Hợp Hòa Giải”. Câu trả lời trước tiên, dứt khoát là: Tôi xin được hoàn toàn từ chối sự mời gọi vì những lẻ..
      #2- Là một người sinh trưởng từ thập niên 1940, tiếp sống qua hai cuộc chiến 1945-1954; 1960-1975, thực tế lịch sử, chiến tranh, xã hội Việt Nam trước, sau 1975 đã cho người lính chúng tôi xác chứng: KHÔNG HỀ CÓ CHỦ TRƯƠNG HÒA HỢP HÒA GIẢI từ người/chủ nghĩa/chế độ cộng sản trong lý thuyết cũng như qua sách lược hành động.
      #3-Từ thực tiễn của #2 thêm kinh nghiệm mà bản thân cá nhân là một đối tượng thụ nạn của thành phần gọi là “Ngụy Quân-Ngụy Quyền” thuộc chế độ Quốc Gia Việt Nam (1948-1954); Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) đến hôm nay vẫn tiếp tục bị miệt thị, xuyên tạc, và triệt hạ dẫu chiến tranh đã chấm dứt từ 1975.
      #4- Trong tình thế chung nhất của #2;#3, chắc chắn rằng không thể nào thực hiện được “Hòa Hợp Hòa Giải” như thư ông Hữu Thỉnh đề nghị! Cũng bởi, giới Nhà Văn chính là đối tượng hàng đầu bị bách hại đối với tất cả chế độ cộng sản Đông-Tây. Lịch sử đẫm máu 100 năm của chế độ cộng sản từ 1917 đến nay như một vũng tối ghê rợn phủ chụp lên lương tri nhân loại.. Hỏi thử buổi gặp mặt Tháng 10 tại Hà Nội (cho dẫu thực lòng đi nữa) sẽ gây được tác dụng gì? Nhà Văn? Nhà Văn Việt Nam đích thực là những ai? Nhưng đây không phải là vấn đề của cá nhân tôi – Trước sau chỉ là một Người Lính-Viết Văn. Cũng bởi, tôi chưa hề nhận Chứng Chỉ Giải Ngũ của Bộ Quốc Phòng/VNCH cho dù đã không mặc quân phục từ 1975 
      #5- Cuối cùng, với bản chất đơn giản, chân thật của một Người Lính, tôi có một đề nghị như sau: Để thực hiện tinh thần và nội dung “Hòa Hợp, Hòa Giải Dân Tộc” như lá thư mời của ông Hữu Thỉnh đã đề cao.. Hệ thống cầm quyền, cụ thể thành phần cán bộ làm công tác văn hóa, học thuật, truyền thông, báo chí.. dưới chỉ đạo của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng nơi Hà Nội chấm dứt, điều chỉnh MỘT CÁCH THÀNH THỰC danh xưng miệt thị “Ngụy Quân/Ngụy Quyền” trong tất cả sử liệu, văn khố, tài liệu giáo khoa, văn thư hành chánh, sinh hoạt xã hội.. Cụ thể hơn hãy chấm dứt cách biểu tình với lời hô “Đả đảo Thương Phế Binh VNCH!!” như đã xẩy ra nơi Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn! Hãy nhìn lại.. Thương phế binhVNCH là những lão nhân phế binh, thương trận đã không được sống với dạng Con Người từ 30 Tháng 4, 1975. Hãy để cho Người Lính QLVNCH còn sống sót và gia đình được trở lại Miền Nam sửa sang phần mộ Chiến Hữu nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi giới cầm quyền Hà Nội chủ trương phá bỏ một cách có hệ thống, dẫu người chết gần nửa thế kỷ qua không thể nào đe dọa đối với Chế độ XHCN! Xin hãy “Hòa Hợp Hòa Giải” với những người đã chết. Với người đang cố sống sau thảm họa Formosa, Nghệ An. Hãy hoà hợp, hòa giải với “Khúc ruột ở trong nước” trước. Khi ấy không cần mời, chúng tôi “Khúc ruột ngàn dặm” sẽ về. Về rất đông. Người Viết Văn – Lương Tri và Chứng Nhân của Thời Đại sẽ VỀ. TẤT CẢ CÙNG VỀ VIỆT NAM .
      Kính thư,
      Người Lính-Viết Văn,
      Công Dân Mỹ gốc Việt,
      Phan Nhật Nam
      Washington DC, 9 Tháng 9, 2017

      source: thoibao
      0

      Add a comment

    7. Chính Sử Và Ngụy Sử
       
      Có lẽ ai cũng biết “Chính Sử” là sử biên soạn đúng sự thật còn “Ngụy Sử” là sử biên soạn nhằm mục đích tuyên truyền cho chế độ của mình và miệt thị đối phương. Truyền thông gần đây xôn xao về “Bộ sách Lịch sử Việt Nam” vừa phát hành tại Việt Nam gồm 15 tập, dày cả 10.000 trang, biên soạn từ khi lập quốc đến năm 2000. Bộ sử này đã gây ra hiện tượng xôn xao, xôn xao không hẳn do công phu biên soạn hoặc chiều dày của bộ sử mà do nhóm biên soạn sử đã ghi trong đấy: “Chính thể Việt Nam Cộng hòa” (VNCH). Từ đấy, dấy lên làn sóng bàn tán xôn xao, có kẻ còn hoan nghênh nhóm biên soạn sử hay nhà nước (CSVN) đã đang cởi mở để hòa hợp hòa giải dân tộc?. Người viết thật sự sửng sốt, không muốn bàn về bộ sử này mất thì giờ nhưng không thể làm ngơ vì ngại ngần những ngộ nhận đáng tiếc có thể xảy ra. 
      Xin hỏi, nhóm biên soạn sử hay nhà nước (CSVN) lấy tư cách gì để công nhận “Chính thể Việt Nam Cộng hòa”?. Thật ra, nhóm biên soạn sử chép vào bộ sử có chữ “Việt Nam Cộng hòa” là trả lại phần nào sự thật của lịch sử mà thôi và nhóm biên soạn sử đã được nhà nước CSVN cho phép, vì biên đúng sự thật “Việt Nam Cộng hòa” sẽ có lợi thế về chủ quyền ở biển Đông trong đấy có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo hiệp định Genève năm 1954.
      Liệu rằng bộ sử này có dám chép sự thật của lịch sử hay không, như:
       - Công hàm ngày 14-9-1958 của thủ tướng miền Bắc là Phạm Văn Đồng với sự đồng lõa của chủ nước là Hồ Chí Minh đã dâng cho Trung cộng cả Biển Đông bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đài phát thanh Trung Cộng đã nói: “Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam nhưng công hàm Phạm Văn Đồng đã đồng ý Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng” nếu ai muốn nghe thì vào link video clip (tiếng Việt): www.youtube.com/watch?v=IDjm7lwnl14

       - Ngày 30-12-1999, gọi là phân định lại biên giới Việt-Hoa, nhà cầm quyền CSVN đã cắt nhượng khoảng 700 km2 vùng đất biên giới Bắc Việt. Ngày 25-12-2000, CSVN cắt nhượng khoảng 11,000 km2 vùng vịnh Bắc Bộ Việt Nam cho Tàu cộng.
       - Ngày 4-12-1953, cái gọi là quốc hội nhất trí thông qua luật “Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở miền Bắc”, chính Hồ Chí Minh là chủ tịch miền Bắc đã ký sắc lệnh ban hành luật. Việc CCRĐ đã gây ra khoảng 172.000 người bị quy chụp là thành phần địa chủ và phú nông, họ bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” bị hạ sát tại chỗ hoặc bị án tù để chết dần trong ngục. 
       - “Thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế” đã làm chấn động cả thế giới, người Anh, Mỹ gọi sự kiện này là “Hue massacre” tức là “Sự tàn sát ở Huế”. Trong 28 ngày Việt cộng chiếm đóng tại thành phố Huế đã sát hại nhiều người rất dã man. Riêng thường dân bị hại khoảng 7.000 người, trong đó có 844 tử thương và khoảng 1.900 bị thương vì bom đạn và số người mất tích đã tìm được khoảng 2.800 tử thi từ các hầm chôn tập thể ở tản mát khắp nơi tại thành phố Huế. 
      Ngoài ra, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của  chế độ CSVN, tòa án là nơi thể hiện công lý thế mà chánh án của chế độ như kẻ “Ngồi đồng” mọi phán xét đều do Bộ chính trị của Đảng CSVN quyết định, thế thì nhóm biên soạn sử có khỏi sự dám sát của Đảng CSVN không?.
      Những sự thật thượng dẫn, liệu nhóm biên soạn sử hoặc nhà nước CSVN có dám biên đúng các sự thật vào “Bộ sách Lịch sử Việt Nam” không? Người viết nghĩ là không hoặc những kẻ biên sử ấy lại ngụy biện quanh co, thế thì bộ sử này là “Ngụy Sử” vậy.  
      CSVN đã cố tình xuyên tạc sự thật, gọi chính quyền VNCH là ngụy quyền, gọi quân đội VNCH là ngụy quân. Ngụy quyền là chính quyền tay sai, ngụy quân là quân đội của chính quyền tay sai hay quân đội do nước ngoài thành lập để phản lại nhân dân. Thế nhưng, thử so sánh chính quyền và quân đội miền Bắc Việt Nam với chính quyền và quân đội miền Nam Việt Nam, ai thật tâm bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đồng bào? Rõ ràng vào ngày 19-1-1974, hải quân Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa, QLVNCH đã chống trả quyết liệt, hải quân VNCH đã hy sinh 74 người, trong đấy có hạm trưởng thiếu tá Ngụy Văn Thà. Ngày 14-3-1988, quân Trung cộng xâm chiếm đảo Gạc Ma, khi ấy Đại hèn tướng Lê Đức Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thiếu tướng Lê Mã Lương đã tiết lộ: “Kẻ thủ phạm tiếp tay cho quân Tàu cộng đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam, chính là đồng chí lãnh đạo cấp cao”. Trước khi xảy ra trận Hải chiến Trường Sa, quân đội Việt Nam đã nhận lệnh oái oăm: “Không được nổ súng trong trường hợp Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa”. Than ôi, 64 quân nhân Việt Nam bị tử thương rất oan uổng?!. 
      Có lẽ sự thật của lịch sử cận đại như vậy nên hầu hết người Việt lại mến mộ quân đội VNCH dù bị xuyên tạc là “ngụy quân”. Điều này đã thể hiện vào khoảng tháng 2 năm 1976, tại trại tù 53 Ngân Điền thuộc tỉnh Phú Yên. Một hôm, cán bộ quản giáo Việt cộng tuyên bố với tù binh: “Tội ác các anh to nớn nắm (lớn lắm) nên chúng tôi phải giam giữ các anh ở đây và khi các anh ra ngoài nao (lao) động, chúng tôi phải cho vệ binh theo bảo vệ các anh, nếu không dân chúng sẽ đánh đập hay giết các anh chết”. Thế nhưng, hôm sau khoảng 20 tù binh đi đào mì (sắn) để đem về nấu cơm độn cho tù binh ăn, do một vệ binh đi trước dẫn đường, nhóm tù binh di chuyển trên liên tỉnh lộ 7, có một bà cụ khoảng 70 tuổi, mặc áo vá nhiều chỗ đi ngược chiều nhóm tù binh đang đi, bà cụ lén đưa cho mỗi tù binh một gói thuốc lá hiệu Điện Biên, khi hết thuốc lá, cụ lấy tiền cho các tù binh khác tương đương bằng giá trị gói thuốc lá. Dù số tiền ít oi và có tù binh không hút thuốc lá nhưng nghĩa cử “bát cơm Phiếu Mẫu” cảm kích khó quên (Ai ở tù trại 53 Ngân Điền vào thời gian này đều biết)!. Thật vậy, dù từ “ngụy quyền, ngụy quân” không đẹp mà khi đồng bào nghe lại lưu luyến, còn chữ “cách mạng, giải phóng” vốn có ý nghĩa tốt đẹp nhưng khi đồng bào nghe thì ái ngại là do đâu vậy?.
      Dùng từ ngữ xuyên tạc không thể thay đổi sự thật, lịch sử đã chứng minh rằng sau khi vua Gia Long lên ngôi, gọi La Sơn Phu Tử (Nguyễn Thiếp) đến hỏi: Ngụy Tây Sơn mời Tiên sinh làm thầy, vậy Tiên sinh dạy nó ra sao?”. Ông thản nhiên trả lời: “Có tám điều trong sách Đại Học, có chín điều trong sách Trung Dung, người giỏi thì làm được, người không giỏi thì không làm được”. Ông lấy cớ đã già yếu không giúp Gia Long, trở về vùng núi Thiên Nhẫn làm một ẩn sĩ (1). Việt Sử Toàn Thư viết: “Chính sách nhân hậu của triều đại vua Quang Trung được nhiều người ngoại quốc tìm hiểu và ca ngợi, trong đó có nhà du hành người Anh là ông Crawford đến viếng nước ta vào năm 1822, là năm vua Gia Long đã mất và Minh Mạng đang trị vì. Ông phản bác những lời phê bình bất công của một số sử gia Tây phương đối với nhà Tây Sơn”. Ông Crawford viết: “Bảo rằng nhân dân khao khát dòng vua chính thống, được khôi phục như một số người Tây phương chỉ biết có tán tụng vua Gia Long, chưa chắc đã đúng và triều Tây Sơn đâu có thất nhân tâm như thế. Tôi được một số nhà buôn Trung Hoa đã sinh sống lâu năm tại xứ này, dưới quyền vua chúa nhà Nguyễn và cả dưới quyền nhà Tây Sơn, đoan chắc với tôi rằng các nhà cầm quyền Tây Sơn cai trị dân chúng còn công bằng và khoan hòa hơn nhà vua hiện tại (vua Gia Long và vua Minh Mạng)...” Đáng tiếc, kẻ chiến thắng viết lịch sử nên nhà Tây Sơn: Vua Quang Trung và các tướng lãnh đã chống ngoại xâm và lo nước thương dân, vẫn bị các sử gia triều Nguyễn xuyên tạc?!. Cũng vậy, “Chính thể Việt Nam Cộng hòa” bị nhà nước CSVN xuyên tạc là điều khó tránh!. 
              Kết thúc bài này, người viết xin mượn lời của nhà triết học Trần Đức Thảo (1917-1993) đã trối trăn vào cuối đời như kim chỉ nam: “Nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ” (HCM), không dám đưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra được tình trạng bế tắc chính trị độc hại như hiện nay ở nước ta”.
      Ngày 28-8-2017
      Nguyễn Lộc Yên 
      __________________
      Tài liệu tham khảo:
      source: vietbao
      0

      Add a comment

    8. fedCoin


      https://secure.caseyresearch.com/chain?cid=MKT336710&eid=MKT337276&encryptedSnaid=&snaid=&step=start#AST68792
      0

      Add a comment

    9. Đảng CSVN Đã Lỡ Một Chuyến Tầu


      Image result for csvn ban nuoc hai dan


      Nếu Lịch sử biết nói thì thời gian 43 năm lặng lẽ trôi qua sẽ bảo các Nhà viết sử Cộng sản Việt Nam rằng: “Vì kiêu ngạo và nhát gan mà đảng cầm quyền đã lỡ một chuyến tầu.”

      Tại sao?

      Vì rằng đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam đã để mất chính nghĩa chủ quyền quốc gia ở Biển Đông ngay khi quần Hoàng Sa bị quân Trung Cộng đánh chiếm từ tay Hải quân của Việt Nam Cộng hòa ngày 19/01/1974.

      Thời đó, chính quyền miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không dám hé răng phản đối Bắc Kinh vì sợ mất viện trợ và bị cắt đường tiếp vận vũ khí của Nga và các nước Đông Âu Cộng sản cho miền Bắc xâm lăng Việt Nam Cộng hòa đi qua lãnh thổ Trung Cộng.

      Bây giờ, 43 năm sau, bộ sách “Lịch sử Việt Nam" từ khởi thủy đến năm 2000, gồm 15 tập có tổng số gần 10,000 trang đã không còn dùng từ “ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn” để chỉ chính thể Việt Nam cộng hòa trước 1975. Và khi làm việc này, đảng CSVN nhắm đạt được 2 điều:

      Thứ nhất, việc công nhận Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam là một thực thể chính trị, song song với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975 “có lợi trong việc tranh biện pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc”, theo quan điểm của giới nghiên cứu Việt Nam.

      Image result for csvn ban nuoc hai dan

      Thứ hai, mở ra một cánh cửa mới trong nỗ lực hòa giải, hòa hợp dân tộc giữa hai miền Nam-Bắc nói chung và giữa đảng cầm quyền CSVN với ngót 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, nói riêng.

      Phó Giáo sư, Tiến sỹ (PGS.TS) Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, tổng chủ biên bộ sách nói với báo chí trong nước rằng: “Đây là tâm huyết của nhiều thế hệ cán bộ sử học. Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học mất 9 năm để biên soạn bộ sử.”

      PGS Cường cho rằng: “Vấn đề Việt Nam Cộng hoà trong các bộ sử tới sẽ phải nêu rõ hơn, khi đây là một thực thể tồn tại ở miền Nam Việt Nam gần 21 năm. Có một sự gối nhau khi năm 1954 có thể chế nữa gọi là Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Ngô Đình Diệm truất Bảo Đại để làm quốc trưởng, rồi trưng cầu dân ý, bầu Tổng thống...

      Thời gian trước, nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hoà, nhiều người vẫn quen gọi là nguỵ quân, nguỵ quyền. Nhưng trong bộ sách gọi trung tính hơn là "quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn". Theo ông Cường, lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận.” (VNExPRESS 19/8/017)

      Vẫn theo VNEXPRESS, ông Cường nói thêm: “Khi viết tập 12, giai đoạn 1954 đến 1965, chúng tôi cũng có những tranh luận rằng có nên dùng "nguỵ quân, nguỵ quyền" như trước đây không? Từ lâu, giới nghiên cứu đã cho rằng không nên dùng, nói hay viết cũng đều không sai, nhưng mang hơi hướng miệt thị. Trong bối cảnh hoà hợp dân tộc thì có những cách gọi cần thay đổi. Khái niệm dùng trong văn bản khoa học nên có sự khách quan, trung tính nên cuối cùng qua vài buổi tranh luận, tổ biên soạn quyết định dùng từ quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn.”

      Trên lãnh thổ Việt Nam từng tồn tại những thực thể chính quyền. Thời chống Pháp (1945 - 1954) ngoài chính thể là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì ở các đô thị lớn thuộc vùng tạm chiếm, Pháp đã thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Sau Hiệp định Giơnevơ (Geneve), ở miền Nam cũng có chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Dĩ nhiên, thực thể này không chính danh, không hợp pháp.

      Ngoài nói thẳng tính chất phụ thuộc về mặt chính trị của chính quyền ấy, bộ sử cũng không né tránh khi viết về những thay đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội ở những vùng chiếm đóng. Thậm chí, thừa nhận nền kinh tế hàng hoá miền Nam khi ấy phát triển hơn ở miền Bắc kế hoạch hoá tập trung; hay chính quyền ấy cũng có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, khi Trung Quốc ra tay đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974...”

      Trong câu nói này, ông Giáo sư Cường đã “tiền hậu bất nhất”. Một mặt ông bảo “lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận” nhưng ông lại cho rằng nói hay viết (nguỵ quân, nguỵ quyền) cũng đều không sai.

      Tại sao nó “đúng” và như vậy là không “mang hơi hướng miệt thị” hay sao?

      Ông còn “nửa tỉnh nửa say” khi nói “chính quyền Việt Nam Cộng hoà” được thành lập ở miền Nam sau Hiệp định Giơnevơ (Geneve) 1954, không chính danh, không hợp pháp.

      Tại sao “không chính danh” và “không hợp pháp” khi VNCH (1955-1975) là một thực thể chính trị độc lập, có một chính quyền do dân bầu, có Hiến pháp và được 78 Quốc gia công nhận?

      Trong khi, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) của đảng CSVN, từ năm 1954 đến năm 1976 cũng là nhà nước độc lập nhưng không do dân bầu và chỉ quản lý thực tế miền Bắc Việt Nam.

      Nhưng trong đầu lãnh đạo đảng và các nhà khoa bảng Cộng sản Việt Nam thì chỉ có nhà nước VNDCCH mới “chính danh” và “hợp pháp” trên tòan lãnh thổ.

      Bằng chứng như cái loa tuyên truyền của Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) từng xuyên tạc: “Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…).

      Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.

      Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó!”

      (VOV, ngày 23/04/2015)

      Lu loa như thế chỉ đúng nửa sự thật. Bởi vì từ sau Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hay liên hiệp Quốc-Cộng 1946, và Quốc hội có dân bầu đầu tiên 1946, dù nhiệm kỳ cho đến 1960 mới chấm dứt, nhưng lực lượng phá hoại của đảng CSVN do hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hòan chỉ huy đã tìm mọi cách để đánh phá hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội để chiếm độc quyền cai trị.

      Bằng chứng đã được ghi trong Bách khoa Tòan thư mở: “Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này.”

      Như vậy, dù có “chính danh” trên giấy tờ nhưng chính phủ liên hiệp ban đầu đã thay hình đổi dạng bằng một Chính phủ và Quốc hội đảng cử dân bầu của riêng đảng CSVN. Từ đó cho đến ngày được gọi là “thống nhất đất nước chính thức”, sau cuộc tổng tuyển cử ngày 25 tháng 4 năm 1976 và sau 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng CSVN chủ động xâm lược VNCH từ 1955 đến tháng 4/1975, cái “chính danh” của Quốc hội đảng cử dân bầu và nhà nước do đảng độc quyền lãnh đạo chưa bao giờ là “của dân, do dân và vì dân” như nhà nước tuyên truyền.

      LỜI NGUYỄN CƠ THẠCH

      Nhưng tại sao Chính phủ VNDCCH ở miền Bắc đã không dám phản đối Trung Cộng khi Bắc Kinh xua quân đánh chiếm Quần dảo Hòang Sa tháng 1/1974?

      Ông Dương Danh Dy, một chuyện gia về Trung Hoa của Việt Nam đã trích lời Thứ trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch vào thời điểm xẩy ra vụ Hoàng Sa để trả lời cho thắc mắc này.

      Báo Tuần Việt Nam của Bộ Thông tin và Truyền thông CSVN, trong số ra ngày 6/1/2014 viết: “Nhân kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, 19.1.1974, có một băn khoăn của nhiều người là tại sao lúc đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại không lên tiếng.

      Có phải chăng như sử gia Nguyễn Đình Đầu đã nghĩ rằng tình đồng chí giữa những người Cộng sản lúc đó còn lớn hơn lãnh thổ?

      Tuanvietnam có cuộc phỏng vấn với nhà nghiên cứu Trung Quốc lão thành Dương Danh Dy - người có may mắn biết được nội tình câu chuyện.

      Phóng viên: Có một câu hỏi mà nhiều người thắc mắc là, hồi Trung Quốc đánh Hoàng Sa đầu năm 1974, tại sao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại không lên tiếng phản đối?

      Và, đối với một số người, thậm chí còn đặt vấn đề nặng hơn là Việt Nam lúc đó đã nể, sợ Trung Quốc. Thậm chí không ít người còn chỉ trích Ban Lãnh đạo Việt Nam lúc đó còn đặt tình đồng chí cao hơn lãnh thổ quốc gia?

      Dương Danh Dy: “Tôi xin nói rằng đó chính là câu hỏi mà tôi cũng thắc mắc cách đây 40 năm, khi còn là một tổ trưởng theo dõi quan hệ Việt - Trung. Tất nhiên, tôi phàn nàn với mấy anh bạn đồng nghiệp thôi. Nhưng không hiểu sao, ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao, nghe được, và cho gọi tôi lên gặp ông.

      Ông Thạch, vốn rất quý tôi vì biết rõ tính ngay thẳng của tôi, đã nói luôn:

      "Dy ơi, sao cậu dại thế! Đất nước đã thống nhất chưa? Thống nhất đất nước so với việc Trung Quốc chiếm nửa Hoàng Sa thì cái nào lớn hơn?

      Cậu có biết rằng viện trợ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu dành cho chúng ta chủ yếu đi qua đường nào? Rồi cậu chắc biết hơn những người khác rằng Trung Quốc viện trợ cho chúng ta như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ...

      Thế mà bây giờ, vì cái chuyện Hoàng Sa, mà đằng nào họ cũng chiếm của Việt Nam rồi, chúng ta lên tiếng, đã không làm được gì còn ảnh hưởng tới sự nghiệp lớn hơn."

      Lúc đó, ông Thạch chỉ nói cho tôi đến thế thôi, và tôi cũng thông.”

      Ông Dy “thông” nhưng lịch sử thì không vì vào năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Trung Hoa Chu Ân Lai nhìn nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa.

      Trong một dịp khác, lời nói của ông Dương Danh Dy còn được phổ biến trên Internet nhận định rằng: “Việc không nói để không ảnh hưởng tới sự nghiệp thống nhất đất nước thì rõ rồi. Nhưng việc không nói còn làm cho Ban Lãnh đạo Trung Quốc chủ quan, nghĩ rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi nhẹ vấn đề biển đảo mà không tìm cách đánh chiếm luôn quần đảo Trường Sa nữa.".

      Rất tiếc dự đoán về ý đồ của Trung Cộng ở Trường Sa của chuyên gia Dương Danh Dy không hòan toàn đúng. Thay vì “đánh chiếm hết”, Trung Cộng đã làm chủ 7 đảo quân sự được tân tạo từ các bãi đá có vị trí chiến lược ở Trường Sa để đe dọa trực tiếp Việt Nam.

      Đó là: đá Châu Viên, đá Chữ Thập, cụm đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Tư Nghĩa, đá Vành Khăn và đá Xu Bi.

      Không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Cộng sẽ chỉ dừng chân ở 7 vị trí này.

      Như vậy, qua lời ông Nguyễn Cơ Thạch, ai cũng thấy rõ việc bảo vệ sự tòan vẹn chủ quyền lãnh thổ đối với đảng và chính phủ miền Bắc khi Hòang Sa bị Trung Cộng đánh chiếm năm 1974 không quan trọng bẳng việc phải đánh phá để chiếm Việt Nam Cộng hòa!

      Bây giờ, có sáng mắt ra cũng đã qúa muộn vì dù sách sử mới có nhìn nhận VNCH thì Hòang Sa và một phần Trường Sa cũng đã nằm trong tay Trung Cộng.

      Cho nên nếu Tiến Sỹ sử học Nguyễn Nhã (thời VNCH ở lại) cho rằng “Việc thừa nhận này (VNCH) có lợi trước nhất cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam” (Tuổi Trẻ online, ngày 20/08/017) thì cũng chi là mong ước mà thôi.

      Bởi vì khi Phi Luật Tân mời Việt Nam tham gia vụ kiện Trung Cộng ra tòa án Quốc tế năm 2013 để bác bỏ chủ quyền tự nhận của Bắc Kinh trong hình Lưỡi Bò (hay đường 9 đọan), chiếm ¾ diện tích trên 3 triệu cây số vuông biển đảo ở Trường Sa thì Việt Nam không dám làm.

      Tiến sỹ Nguyễn Nhã cũng nói với báo Tuổi Trẻ rằng: “Từ năm 1954 - 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam cộng hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục.”

      Nhưng tại sao phải mất tới 43 năm, kể từ khi Trung Cộng dùng võ lực đánh chiếm quấn đảo Hòang Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, từ tay Hải quân VNCH, sách sử của nhà nước CSVN mới biết nhìn nhận có một Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam để có lợi về mặt chủ quyền biển đảo ở Biển Đông nói chung và Hòang Sa nói riêng?

      TS Nguyễn Nhã còn lạc quan, theo tường thuật của Tuổi Trẻ: “Trong cái nhìn triển vọng về việc thừa nhận chính thể Việt Nam cộng hòa, ông Nhã cũng lưu ý rằng “Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam cộng hòa sẽ tạo sự đoàn kết, hòa hợp hòa giải dân tộc, như ý nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt”.

      Không chỉ thế, theo ông Nhã, “... Thừa nhận Việt Nam cộng hòa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đã phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển”.

      Qủa là nhiêu khê đấy. Nếu chỉ cần tập sách sử biết nhìn nhận có một Chính quyền VNCH ở miền Nam từng kiểm soát chủ quyền ở Hòang Sa và Trường Sa mà đảng CSVN lấy lại được chính nghĩa để vận động tòan dân hy sinh bảo vệ lãnh thổ thì rẻ qúa.

      Nhưng cái gía mà nhà nước CSVN phải trả cho hòa hợp, hòa giải dân tộc với người Việt Nam Cộng hòa trong và ngoài nước còn cao gấp vạn lần hơn.

      Còn cao hơn, nếu cụm từ “ngụy quân ngụy quyền” chỉ có gía trị trên trang sách mà trong đầu thì không.

      Chỉ lỡ một chuyến tầu thôi mà khổ thế đấy. -/-

      Phạm Trần
      (07/017)


      source: vietbao

      http://danlambaovn.blogspot.com/2014/01/csvn-thua-nhan-tuyen-bo-ban-nuoc-cua.html

      0

      Add a comment

    10. CSVN viết lại lịch sử, Việt Nam Cộng Hòa không còn là ‘ngụy quyền’

      Dù nhà cầm quyền CSVN chưa chính thức công nhận, nhưng với người dân Việt Nam, các tử sĩ VNCH bỏ mình trong trận hải chiến Hoàng Sa với Trung Quốc, đã nằm trong tim họ. (Hình: Getty Images)
      HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Bộ sách lịch sử Việt Nam (15 cuốn) vừa được tái bản lần thứ nhất. Bộ sách này đã được “chỉnh sửa, bổ sung” và khác hẳn ấn bản đầu tiên. Lịch sử Việt Nam đã được viết lại.
      Trò chuyện với báo giới nhân dịp tái bản bộ sách lịch sử Việt Nam, ông Trần Đức Cường, chủ biên bộ sách này bảo rằng, công việc “chỉnh sửa, bổ sung” kéo dài chín năm với sự tham gia của hơn 30 chuyên gia sử học. So với ấn bản đầu tiên, bộ sách lịch sử Việt Nam vừa được tái bản lần thứ nhất có nhiều điểm mới, chẳng hạn xác định vương triều nhà Mạc, vương triều nhà Nguyễn đã có nhiều đóng góp đáng kể cho quốc gia, dân tộc chứ không “phiến diện như trước…”
      Theo tường thuật của tờ Tuổi Trẻ về cuộc trò chuyện vừa kể thì trong lần tái bản đầu tiên, hai điểm mới, đáng chú ý nhất của bộ lịch sử Việt Nam là quan điểm của các sử gia CSVN về Việt Nam Cộng hòa và Trung Quốc.
      Ông Cường giải thích, các sử gia CSVN vứt bỏ không sử dụng “ngụy quyền” khi đề cập đến chính thể Việt Nam Cộng Hòa và “ngụy quân” khi đề cập đến quân lực Việt Nam Cộng hòa, bởi Việt Nam Cộng hòa là một thực thể ở miền Nam Việt Nam. Trong bộ Lịch sử Việt Nam, tái bản lần thứ nhất, chỉ có chính quyền Sài Gòn, quân đội Sài Gòn.
      Cũng theo lời ông Cường thì lần đầu tiên, trong một bộ thông sử Việt Nam, các sử gia CSVN ghi nhận sự kiện Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam năm 1979. Ông Cường nhấn mạnh, đó là “xâm lược” và người Việt đã đổ rất nhiều xương máu để kháng cự cho đến năm 1988.
      Người Việt chưa được đọc bộ lịch sử Việt Nam tái bản lần thứ nhất, tuy nhiên qua truyền thống Việt Nam, dẫu bộ sách vừa kể có nhiều điểm mới song dường như chưa đầy đủ.
      Sau sự kiện ra mắt bộ lịch sử Việt Nam tái bản lần thứ nhất, qua tờ Tuổi Trẻ, một số sử gia CSVN đã nêu thêm ý kiến về bộ sách này, với mong muốn “nội dung của nó sẽ toàn diện hơn.”
      Ông Nguyễn Mạnh Hà, cựu viện trưởng Viện Lịch Sử đảng CSVN, thừa nhận, trước đây, các sử gia CSVN “viết sử theo định hướng, không phản ánh hết sự thật lịch sử nên lịch sử còn rất nhiều khoảng trống.” Theo ông Hà, từ lâu ông đã ủng hộ quan điểm bỏ lối gọi “ngụy quân, ngụy quyền.” Việt Nam Cộng hòa là một thành viên Liên Hiệp Quốc, tham gia các cuộc đàm phán Paris, phải thừa nhận có một thực thể như vậy. Việt Nam Cộng Hòa cũng tỏ ra rất có trách nhiệm trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã chết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, phải thừa nhận chứ không thể né tránh.
      Để xiển dương “tinh thần 4 tốt” và “16 chữ vàng,” Việt Nam đục bỏ cả bia ghi công Sư Đoàn 337 của quân đội CSVN đã chặn đứng quân xâm lược Trung Quốc, ở đầu cầu Khánh Khê, tỉnh Lạng Sơn năm 1979. Lịch sử Việt Nam đã từng được các sử gia CSVN trình bày theo mục tiêu “phục vụ chính trị” như thế. (Hình: Thanh Niên)
      Ông Hà nói thêm rằng, thông sử Việt Nam phải đề cập cả tới những sai lầm của chính quyền CSVN như: Cải cách ruộng đất, nhân văn-giai phẩm, xét lại chống đảng… Nếu cứ tránh những vấn đề thường được gọi là “nhạy cảm,” sai lầm thì lịch sử sẽ không hoàn chỉnh. Ông Hà đòi phải tôn vinh những người lính đã chiến đấu, hy sinh trong cuộc chiến tranh chống xâm lược Trung Quốc. Phải như thế thì mới công bằng.
      Nhận định của ông Vũ Dương Ninh, giảng viên Đại Học Quốc Gia Hà Nội, có rất nhiều điểm tương đồng với ông Hà. Ông Ninh đòi lấp những “khoảng trống trong lịch sử” về Việt Nam Cộng hòa, về các sai lầm của chính quyền CSVN (Cải cách ruộng đất, nhân văn-giai phẩm, xét lại chống đảng…) bằng cách thu thập sử liệu khách quan, tôn trọng tính khách quan của lịch sử và phải hiểu cho đúng thế nào là sử học phục vụ chính trị, để phục vụ chính trị mà cắt xén lịch sử thì sử không còn là sử nữa. Theo ông Ninh, phải rạch ròi giữa nói xấu lịch sử và nói ra cái xấu trong lịch sử. Ông Ninh nhắc thêm, sau việc tái bản bộ lịch sử Việt Nam, phải tính tới sách giáo khoa môn Sử.
      Hồi Tháng Hai vừa qua, Ban Tuyên Giáo của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN từng tổ chức một cuộc thảo luận về sử học. Lúc đó, nhiều sử gia CSVN từng công khai than phiền, dưới chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, việc trình bày lịch sử Việt Nam tạo ra nhiều khoảng trống vì có quá nhiều “vùng cấm” như: Cải cách ruộng đất, nhân văn-giai phẩm, xét lại chống đảng, Việt Nam Cộng Hòa, thuyền nhân Việt Nam, cuộc chiến chống Trung Quốc bảo vệ biên giới phía Bắc… Do đó phải xác lập một quan điểm mới trong việc trình bày lịch sử. Không nhìn rõ những sai lầm trong quá khứ thì khó tránh cho xe đổ ở tương lai. Không nghiên cứu toàn diện về chính quyền Việt Nam Cộng hòa khó rút ra được bài học nào cho sự nghiệp xây dựng đất nước, cũng như thúc đẩy hòa hợp, hòa giải dân tộc. (G.Đ)
      Source: nguoiviet
      Nguồn:http://vietnamcuongthinh.blogspot.com/2015/04/hoai-niem-va-phan-tinh-ve-ngay-30-thang.html 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét