Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2019

Bức điện tín đầu hàng vô điều kiện của Bắc Việt năm 1972.

Trong hình ảnh có thể có: Mai Nguyễn Huỳnh Trong hình ảnh có thể có: Mai Nguyễn Huỳnh, ngoài trời
Mai Nguyễn Huỳnh 
9 phút
YouTube
Cộng Sản Hà Nội đầu hàng Mỹ 1973.FLV
** VIỆT GIAN CỘNG SẢN BỊ MỸ CHO THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM 1954-1975. *** Vào năm 1972, Bắc Việt đã gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện. Đây là sự thực của cái mà Đảng CSVN huyênh hoang về chiến thắng đánh "Mỹ nguỵ". Bắc Việt đã đầu hàng, nhưng Kissinger có ý đồ riêng, không chấp nhận.
In 1972, North Vietnam sent a letter to surrender unconditionally HK. This is the reality of what huyenh Wild Party winning hit, "America at risk". North Vietnam had surrendered, but Kissinger own agendas, not acceptable.
--- Việt Gian Lê Duẩn Nói: --- "Ta Đánh Miền Nam là Đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc..."http://vnchdalat.com/viewtopic.php?f=...
--- HỒ CHÍ MINH: --- MỘT HUYỀN THỌAI BẬY BẠ
http://vnchdalat.com/viewtopic.php?f=...
Lần Gặp Bác Hồ Tôi Bị Mất Trinh - Huỳnh Thị Thanh Xuân - 2/9/2005
http://www.youtube.com/watch?v=8hmRO0...
--- Nguyễn Phú Trọng vừa tuyên bố...trong buổi tiếp tân... Nay, Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu đề xuất và tham gia Liên Bang XHCN Trung Cộng (United States of Socialist China -- USSC)
http://vnchdalat.com/viewtopic.php?f=...
--- Nga: Trung Quốc sẽ tự sát nếu chống lại Hoa Kỳ
http://vnchdalat.com/viewtopic.php?f=...
--- TRUNG CỘNG sẽ đại bại nếu đụng độ sức mạnh Nhật Bản -- Mỹ
http://vnchdalat.com/viewtopic.php?f=...
** VIỆT GIAN CỘNG SẢN BỊ MỸ CHO THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM 1954-1975. *** Vào năm 1972, Bắc Việt đã gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện. Đây là sự thực củ...
Giới thiệu về trang web này
YOUTUBE.COM
** VIỆT GIAN CỘNG SẢN BỊ MỸ CHO THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM 1954-1975. *** Vào năm 1972, Bắc Việt đã gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện. Đây là sự thực củ...
** VIỆT GIAN CỘNG SẢN BỊ MỸ CHO THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM 1954-1975. *** Vào năm 1972, Bắc Việt đã gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện. Đây là sự thực củ...
Vào năm 1972, Bắc Việt đã gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện
Đây là sự thực của cái mà Đảng CSVN huênh hoang về chiến thắng đánh “Mỹ nguỵ”. Bắc Việt đã đầu hàng, nhưng Kissinger có ý đồ riêng, không chấp nhận.
Ðoạn video tài liệu được giải mật, dài 3:50, có 2 phần. Phần 1 dài 1:50 là bản dịch tiếng Việt không có âm thanh. Phần 2 còn lại nói Tiếng Anh và có âm thanh. Xem để biết CS Hà Nội đã gởi điện thư đầu hàng vô điều kiện nhưng bản văn đã bị ém nhẹm…
Những tài liệu bất ngờ cùng nhân chứng cao cấp của chính quyền Hoa Kỳ cho biết sau năm 1968, CSVN đã bị kiệt quệ nhân sự vì hầu hết các lực lượng chính quy chủ lực quân cộng sản bắc Việt đã bị Mỹ và VNCH tiêu diệt . Vào năm 1972 máy bay B52 đã san bằng Bắc Việt đưa tới sự việc lãnh đạo đảng CSVN gửi điện thư Đầu Hàng Vô Điều Kiện tới phòng truyền tin Hoa Kỳ. Bức điện thư đầu hàng của CSVN đã được phòng truyền tin gửi về NGŨ GIÁC ĐÀI .
Thay vì tuyên bố cho thế giới biết về sự việc cộng sản bắc Việt đầu hàng.Nhưng ngược lại, CIA đã đưa về nước 79 nhân viên phòng truyền tin Hoa Kỳ và thay đổi hoàn toàn nhân viên mới.
Điện thư đầu hàng của CS bắc Việt đã được ém lại.
Trên 80% quân đội nhân dân Trung cộng đã đánh chiếm cao nguyên miền Nam VNCH, Lính Trung cộng đã ngụy trang cộng sản bắc Việt xâm chiếm miền Nam Việt Nam.!!! Tại Sao ???
Chúng tôi phỏng vấn anh Nguyễn Hoàng Việt về sự kiện nầy.
Thu Hiền: Xin anh cho biết những sự kiện bất ngờ về việc CSVN đã đầu hàng VNCH từ năm 1973, thêm sự việc quân Trung Quốc ngụy trang lính Bắc Việt đánh chiếm Miền Nam VN vào năm 1975, anh nghĩ sao về vấn đề nầy?
Hoàng Việt: Tôi nghĩ tất cả là sự thật nhưng nguyên do tại sao chính quyền Hòa Kỳ lúc bấy giờ không tuyên bố bức điện thư đầu hàng từ của CSVN mà lại tìm cách ém chuyện nầy đó là điều mình phải cần phân tích.
Ông Ted Gunderson là nhân viên đặc nhiệm ở Los Angeles và Washington DC (Special Agent in Charge, Los Angeles, Special Agent in Charge, Washington,D.C. offices) Trong thời gian cuộc chiến tranh VN ông ta là Trưởng Phòng điều tra, làm việc với những hồ sơ thuộc loại bảo mật quốc phòng (high-profile cases) . Trong thời gian gần đây, ông đã tiết lộ cho biết là CSVN đã có điện thư đầu hàng Đồng Minh vào đầu năm 1973 trong một cuộc nói chuyện tại Washinton DC, ông cho biết như vậy . Trong cuộc nói chuyện nầy được nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ hỏi về chiến dịch “Operation Linebacker” là chiến dịch dùng B52 để san bằng, tiêu diệt quân đội Bắc Việt đã đưa tới kết quả nào thì ông cho biết là CSVN đã đầu hàng sau đó . Chiến dịch “Operation Linebacker” bắt đầu từ mùa Xuân 1972.
Thu Hiền: Như vậy anh cho biết tại sao tin CSVN đầu hàng không được phổ biến để rồi kết quả cuộc chiến ngược lại ?
Hoàng Việt: Ông Ted Gunderson cho biết là trong thời gian làm việc tại VN, ông đã tiếp xúc nhiều sĩ quan cao cấp Quân Đội Hoa Kỳ nhất là nhân viên thuộc phòng Truyền Tin bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại VN, họ đã cho ông biết về bức điện thư CSVN tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh vào đầu năm 1973 . Bức điện thư đó cho tới nay vẫn chưa được giải mã, Ông Ted Gunderson còn cho biết thêm là tất cả các nhân viên thuộc phòng truyền tin sau đó đã được CIA thay thế toàn bộ ! Tôi tìm ra được một đoạn Video Ông Ted Gunderson có nói về vấn đề nầy.

TÀI LIỆU

Bức điện tín đầu hàng vô điều kiện của Bắc Việt năm 1972.

Bức điện tín đầu hàng vô điều kiện của Bắc Việt năm 1972 trong cuộc chiến Quốc-Cộng.
1. Vài nét về Ted Gunderson, chủ tài liệu liên quan đến bức điện tín.
– Cựu Đặc vụ hành sự FBI và cựu Giám đốc FBI Los Angeles,
– Từng điều tra vụ Marilyn Monroe và John F. Kennedy,
– Từng phanh phui những tội ác của FBI và những thế lực Do Thái đứng phía sau như Bilderberg và Illuminati,
– Từng bị tin tặc tấn công vào các máy tính cá nhân, từng bị sách nhiễu, đe dọa, bức hại và toan tính sát hại,
– Cuối cùng bị hạ độc bằng Arsenic và qua đời ngày July 31, 2011
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh mà Đỉnh Sóng ghi ra từ YouTube liên quan cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế.
“I also received some information recently in my tours and lectures, and what have you. I did a TV show in Long Beach, California. One of the gentlemen involved in the show was in the U.S. army at one time. He told me that in the spring of 1973 we had bombed all the North Vietnamese supply lines, we had mined their harbors, they were cut off; and one of his associates was in the communication room in Saigon, and this is, of course, a classified job. And when he was in this room he received this message from the North Vietnamese, “We surrender unconditionally.” He passed it on to his superiors; and all army personnel were immediately ushered out and replaced by state department personnel. It’s shortly thereafter that Kissinger met with the north Vietnamese officials in Paris, France. Why do these things happen?”
(Tôi cũng đã nhận được một số thông tin gần đây trong những chuyến đi và thuyết trình, v.v.. của tôi. Tôi đã thực hiện một chương trình truyền hình ở Long Beach, California. Một trong những người liên quan trong chương tình có thời đã phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ. Ông ta nói với tôi rằng chúng ta đã dội bom tất cả những đường tiếp tế của cộng sản Bắc Việt, chúng ta đã gài mìn những bến cảng của họ, chúng đã bị cắt đứt; và một trong những cộng sự viên của ông lúc bấy giờ đang làm việc tại trung tâm truyền tin ở Sài gòn, và đương nhiên đó là một công tác tối mật. Khi đang ở trong phòng, ông ta nhận được điện tín nầy của Bắc Việt: “Chúng tôi đầu hàng vô điều kiện.” Ông ta chuyển điện tín đó lên cho thượng cấp; và tất cả nhân viên quân sự lập tức bị thuyên chuyển hết, và được thay thế bởi nhân viên của Bộ Ngoại Giao.
Chẳng bao lâu sau Kissinger đã họp với các viên chức Bắc Việt ở Paris. Tại sao lại xảy ra những chuyện như thế?)
2. Sự thật về Chiến Tranh VN. Đánh nhưng không được thắng – Bruce Herschensohn, Prager University
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh do Đỉnh Sóng chép ra từ YouTube cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế:
“Decades back, in late 1972, South Vietnam and the United States were winning the Vietnam War decisively by every conceivable measure. That’s not just my view. That was the view of our enemy, the North Vietnamese government officials. Victory was apparent when President Nixon ordered the U.S. Air Force to bomb industrial and military targets in Hanoi, North Viet Nam’s capital city, and in Haiphong, its major port city, and we would stop the bombing if the North Vietnamese would attend the Paris Peace Talks that they had left earlier. The North Vietnamese did go back to the Paris Peace talks, and we did stop the bombing as promised.
On January the 23rd, 1973, President Nixon gave a speech to the nation on primetime television announcing that the Paris Peace Accords had been initialed by the United States, South Vietnam, North Vietnam, the Viet Cong, and the Accords would be signed on the 27th. What the United States and South Vietnam received in those accords was victory. At the White House, it was called “VV Day,” “Victory in Vietnam Day.”
The U.S. backed up that victory with a simple pledge within the Paris Peace Accords saying: should the South require any military hardware to defend itself against any North Vietnam aggression we would provide replacement aid to the South on a piece-by-piece, one-to-one replacement, meaning a bullet for a bullet; a helicopter for a helicopter, for all things lost – replacement. The advance of communist tyranny had been halted by those accords.
Then it all came apart. And It happened this way: In August of the following year, 1974, President Nixon resigned his office as a result of what became known as “Watergate.” Three months after his resignation came the November congressional elections and within them the Democrats won a landslide victory for the new Congress and many of the members used their new majority to de-fund the military aid the U.S. had promised, piece for piece, breaking the commitment that we made to the South Vietnamese in Paris to provide whatever military hardware the South Vietnamese needed in case of aggression from the North. Put simply and accurately, a majority of Democrats of the 94th Congress did not keep the word of the United States.
On April the 10th of 1975, President Gerald Ford appealed directly to those members of the congress in an evening Joint Session, televised to the nation. In that speech he literally begged the Congress to keep the word of the United States. But as President Ford delivered his speech, many of the members of the Congress walked out of the chamber. Many of them had an investment in America’s failure in Vietnam. They had participated in demonstrations against the war for many years. They wouldn’t give the aid.
On April the 30th South Vietnam surrendered and Re-education Camps were constructed, and the phenomenon of the Boat People began. If the South Vietnamese had received the arms that the United States promised them would the result have been different? It already had been different. The North Vietnamese leaders admitted that they were testing the new President, Gerald Ford, and they took one village after another, then cities, then provinces and our only response was to go back on our word. The U.S. did not re-supply the South Vietnamese as we had promised. It was then that the North Vietnamese knew they were on the road to South Vietnam’s capital city, Saigon, that would soon be renamed Ho Chi Minh City.
Former Arkansas Senator William Fulbright, who had been the Chairman of the Senate Foreign Relations Committee made a public statement about the surrender of South Vietnam. He said this, “I am no more distressed than I would be about Arkansas losing a football game to Texas.” The U.S. knew that North Vietnam would violate the accords and so we planned for it. What we did not know was that our own Congress would violate the accords. And violate them, of all things, on behalf of the North Vietnamese. That’s what happened.
I’m Bruce Herschensohn.”
Phần chuyển ngữ: Sự thật về Chiến Tranh VN
Nhìn lại những thập niên trước, vào cuối năm 1972, Miền Nam VN và Hoa Kỳ rõ ràng đang thắng Chiến Tranh VN, hiển nhiên là thế. Đó không chỉ là quan điểm của riêng tôi. Đó là quan điểm của kẻ thù của chúng ta, những viên chức của chính phủ Bắc Việt. Chiến thắng rõ ràng khi Tổng Thống Nixon ra lệnh cho không lực Hoa Kỳ dội bom những mục tiêu kỹ nghệ và quân sự ở Hà Nội, thủ đô Bắc Việt và ở Hải Phòng, hải cảng chính của họ, và chúng ta sẽ ngưng dội bom nếu Bắc Việt tham dự Hội Đàm Paris mà họ đã rời trước đó. Bắc Việt không trở lại bàn hội nghị, và chúng ta không ngưng dội bom như đã hứa.
Vào ngày 23 tháng Giêng năm 1973, Tổng Thống Nixon đọc một bài diễn văn toàn quốc trên truyền hình vào giờ cao điểm, cho biết Hội Đàm Paris đã được ký tắt bởi Hoa Kỳ, Nam VN, Bắc Việt, Việt Cộng, và Hiệp Định sẽ được chính thức ký vào ngày 27. Những gì mà Hoa Kỳ và Nam VN nhận được trong hiệp định đó là một thắng lợi. Tại Tòa Bạch Ốc, người ta đã gọi đó là ngày “VV Day – Victory in Vietnam Day.”
Hoa Kỳ đã hậu thuẫn chiến thắng đó với một bảo đảm đơn giản bên trong Hiệp Định Paris, theo đó: nếu Miền Nam yêu cầu chiến cụ để tự vệ chống lại bất kỳ cuộc xâm lăng nào của Bắc Việt thì chúng tôi sẽ cung cấp viện trợ thay thế (replacement aid) cho Miền Nam trên căn bản từng cái một và một đổi một (piece-by-piece, one-to-one replacement), nghĩa là, một viên đạn đổi một viên đạn, một trực thăng đổi một trực thăng, đối với tất cả những thứ bị mất. Bước tiến của chế độ độc tài cộng sản đã bị chặn đứng bởi hiệp định đó.
Thế rồi tất cả đều tan vỡ. Và sự thể như thế nầy: Vào tháng Tám của năm tiếp theo, 1974, Tổng Thống Nixon từ chức do hậu quả của vụ Watergate. Ba tháng sau khi ông từ chức là những cuộc bầu cử quốc hội tháng mười một và trong đó những thành viên của Đảng Dân Chủ thắng lợi vẻ vang trong Quốc Hội mới và nhiều thành viên đã lợi dụng đa số mới của họ để chấm dứt tài trợ cho chương trình viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đã hứa, một đổi một, bội ước lời cam kết của chúng ta đối với Miền Nam VN ở Paris là sẽ cung cấp bất kỳ chiến cụ nào mà Miền nam cần trong trường hợp bị Bắc Việt xâm lăng. Nói một cách đơn giản và chính xác, đa số những đảng viên Đảng Dân Chủ của Quốc Hội khóa 94 không giữ lời hứa của Hoa Kỳ.
Vào ngày 10 tháng Tư, 1975, Tổng Thống Gerald Ford đã trực tiếp nói chuyện với những thành viên Quốc Hội đó trong một buổi họp hỗn hợp buổi tối, được truyền hình trên toàn quốc. Trong bài diễn văn đó, ông tha thiết kêu gọi Quốc Hội hãy giữ lời hứa của Hoa Kỳ. Nhưng trong khi Tổng Thống Ford đọc diễn văn, nhiều thành viên Quốc Hội bước ra khỏi phòng họp. Nhiều người trong số họ đã đầu tư vào sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Họ đã tham gia các cuộc biểu tình phản chiến trong nhiều năm. Họ sẽ không cho viện trợ. Vào ngày 30 tháng Tư, Miền Nam đã đầu hàng và những trại cải tạo được dựng lên, và hiện tượng người vượt biển bắt đầu. Nếu Miền Nam nhận được vũ khí mà Hoa Kỳ đã hứa với họ thì kết quả đã khác đi? Sự khác biệt đó đã được chứng minh. Giới lãnh đạo Bắc Việt đã thú nhận rằng lúc bấy giờ họ đang trắc nghiệm Tổng Thống mới Gerald Ford, và họ đã chiếm từ làng nầy đến làng khác, rồi đến những thành phố, tỉnh lỵ; và phản ứng duy nhất của chúng ta là bội ước. Hoa Kỳ không tái viện trợ Miền Nam như chúng ta đã hứa. Chính lúc đó Bắc Việt nhận thức được rằng họ đang trên đường tiến đến Saigon, thủ đô của Miền Nam, sau đó được đổi tên thành TP Hồ Chí Minh.
Cựu TNS William Fulbright, nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thương Viện, đã đưa ra một công bố chính thức về sự đầu hàng của Miền Nam. Ông nói,
“I am no more distressed than I would be about Arkansas losing a football game to Texas.”
(Tôi không thấy đau khổ gì mấy, chẳng khác nào khi thấy Arkansas thua Texas một trận đá bóng.)
Hoa Kỳ biết rằng Bắc Việt sẽ vi phạm hiệp định Paris và chúng ta đã chuẩn bị cho chuyện đó. Điều mà chúng ta không biết là chính Quốc Hội của chúng ta sẽ vi phạm hiệp định đó. Và vi phạm, về mọi mặt, thay cho Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra. Tôi là Bruce Herschensohn.
**
Sau khi Saigon thất thủ, hơn một triệu người Miền nam bị đưa vào các trại cải tạo ở miền quê. 250 ngàn người đã chết ở đó, do bị hành quyết không xét xử, tra tấn, bệnh tật, và suy dinh dưỡng. Giữa năm 1975 và 1995, hai triệu người Việt đã trốn chạy khỏi nước, vượt Biển Đông bằng những chiếc thuyền thiếu trang bị để đi tìm tự do. Ước tính có khoảng 200 ngàn người vượt biển nầy đã chết – do bị chết chìm và bị hải tặc giết. Ngày nay Việt Nam vẫn có một chính phủ cộng sản, nhưng họ đã bỏ hết những lý thuyết kinh tế cộng sản, những lý thuyết mà họ đã hy sinh bao nhiêu sinh mạng của đồng bào của họ để theo đuổi.
3. Nhận định bên lề
Trong khi hơn 96% hệ thống truyền thông nằm trong tay Tập đoàn Do Thái quốc tế và Mỹ Cộng thì công việc truy tìm thông tin, tài liệu, nhận định, và phán xét trung thực về Chiến Tranh VN chẳng khác nào mò kim đáy biển, vì hầu hết các hảng thông tấn, các trang mạng, đài truyền thanh truyền hình, những tờ báo hàng đầu đều nói một thứ tiếng của Do Thái được chuyển ngữ sang tiếng Anh, cùng phục vụ một chủ nghĩa độc tài mềm, cùng bị kiểm soát bởi một chính sách ngân hàng trị và Do Thái trị, cùng gián tiếp hay trực tiếp cỗ xúy một loại trật tự được mệnh danh New World Order hay One-government World – thực chất là một loại thế giới đại đồng hoang tưởng do tập đoàn Do Thái thống trị.
Hiện cảnh đen tối của một chính quyền Mỹ thân cộng Do Thái trị ngày nay là nhìn đâu cũng thấy Do Thái và sờ đâu cũng chạm phải bàn tay lông lá của Do Thái từ CIA, FBI, truyền thông, Internet, đại học, Hollywood đến hành pháp, tư pháp, lập pháp, v.v…; và đâu có Do Thái ở đó có Mỹ Cộng.
Những kẻ đi tìm sự thực như Ted Gunderson luôn bị chúng khủng bố và truy sát bằng mọi cách; những kẻ khác thì co đầu rụt cổ vì sợ bị ghép tội bài Do Thái, cùng lắm chỉ vòng vo đập quanh bụi rậm. Hậu quả là Do Thái và Mỹ cộng xem phần còn lại của thế giới như một bầy trẻ con, ngây thơ về chính trị và nhút nhát như bầy gấu trúc.
Hầu hết các bài viết, nhất là những bài của những tay viết blog cho VOA, BBC, RFA, RFI, v.v…, đều viết theo đơn đặt hàng của Do Thái, Mỹ Cộng, và Việt Cộng, dưới môt hình thức nào đó và theo một kênh tuyên vận nào đó. Chín mươi phần trăm của những bài viết nầy là vỏ bọc đường nghe rất bùi tai và nhìn rất mát mắt, nhưng chỉ để phục vụ 10 phần trăm còn lại dùng chứa thuốc độc nhằm đánh bóng Mỹ Cộng hay Việt Cộng hay cả hai.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào toàn cục vấn đề và căn cứ trên những tài liệu, dù là hiếm hoi, được chính phủ Hoa Kỳ bạch hóa về những cuộc đi đêm mà Washington đã tiến hành với Bắc Kinh nhằm bán đứng Miền Nam hay thậm chí cả Việt Nam cho Trung Quốc dưới sức ép và đồng lõa của tập đoàn Do Thái và cộng sản quốc tế để đổi lấy quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, về chủ trương đánh Cộng Sản nhưng không được thắng, v.v… thì bức điện tín đầu hàng vô điều kiện nói trên không hẳn là bịa đặt.
Nhưng tại sao Bắc Việt đầu hàng mà Mỹ vẫn tiếp tục đánh? Theo thiển ý của chúng tôi, đầu hàng với Mỹ không thành vấn đề; đầu hàng với Trung Quốc mới là mục tiêu tối hậu của cả Mỹ lẫn Tàu. Ở điểm nầy, vì muốn có được những quyền lợi với Trung Cộng, Mỹ ra sức phục vụ quyền lợi của Bắc Kinh trước đã, nghĩa là giúp Bắc kinh thôn tính Việt Nam thông qua Đảng Cộng Sản VN và trên xương máu dân tộc VN ở cả hai miền.
Cũng ở điểm nầy người ta mới thấy Chiến Tranh VN là cơ hội bằng vàng để đế quốc Tàu tiếp tục giấc mộng thôn tính Việt Nam sau hơn ngàn năm không thực hiện được. Cả Mỹ lẫn Tàu đã đạt được mục tiêu chung sau những cuộc không tập B52 kéo dài; và sau đó, vì muốn bảo vệ đảng, Bắc Việt đã quỳ gối đầu hàng Bắc Kinh và ký những mật ước nhượng đất nhượng biển và nhượng cả chủ quyền cho Trung Cộng.
Việc Mỹ làm ngơ cho Trung Cộng chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam có lẽ cũng nằm trong khuôn khổ những mật ước như thế nhưng đã có trước khi chiến tranh chấm dứt. Như thế kẻ thắng chiến tranh VN là Trung Cộng chứ không phải Bắc Việt; Bắc Việt chỉ là một thây ma được Mỹ, Tàu, Do Thái vớt lên từ địa ngục để thi hành sứ mạng Thái Thú cho Thiên Triều.
Những người sinh ra và lớn lên trong hệ thống tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ của cộng sản và ngay cả những người cộng sản được xem là “mở mắt” như Bùi Tín, Phạm Chí Dũng, Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, chẳng hạn, có lẽ không bao giờ chấp nhận sự thực đó, vì, đối với những người nầy, làm thế chẳng khác nào chối bỏ “ảo ảnh đời mình,” chối bỏ một huyền thoại giúp họ tiếp tục ngẩng mặt lên tiếng với đời. Những đám người nầy có thể “trái dạ” với đảng cộng sản nhưng dứt khoát không tự phản bội chính mình. Nếu không có huyền thoại đó thì cách nay bốn mươi năm họ chỉ là nhưng kẻ mù quáng đi trong doàn quân ma được Mỹ, Tàu và Do Thái tha chết và vớt xác lên từ địa ngục đồng thời trao cho chiếc bánh vẻ “đại thắng mùa xuân” để sau đó đạo quân ma nầy tràn vào Miền Nam cướp của giết người.
Nếu không tin các ông các bà cứ hỏi Trần Đăng Thanh, một đại tá VC thuộc Học Viện Quốc Phòng của chế độ Hà Nội thì biết ngay. Cũng có thể các ông các bà đều biết sự thực nhưng không dám công khai thú nhận; các ông các bà vờ mở mắt nhưng chỉ mở một mắt để khỏi thẹn với lương tâm và tiếp tục đi trong mộng du. Ngày nay các ông các bà được giải quyết sang Mỹ chẳng khác nào lá rơi về cội, gặp lại ân nhân ngày trước, thế thôi.
Một số người cộng sản vẫn thường bóng gió so sánh cộng sản VN với giới lãnh đạo Tây Đức, Bỉ, với Bắc Quân Hoa Kỳ trong cuộc Nội Chiến, thậm chí với cả chính quyền Hoa Kỳ trong Đệ Nhi Thế Chiến đã thắng Nhật. Làm như thế là hiếp dâm lịch sử vì cố tình đặt một thây ma được vớt lên từ địa ngục ngang hàng với những kẻ chiến thắng đích thực, đặt đạo quân đồ tể ngang hàng với loài người có lương tri, liêm sỉ, và trí tuệ, đặt một đám gia nô thái thú ngang hàng với những con người thực sự làm chủ đời mình và giúp dân tộc làm chủ vận mệnh của đất nước.
Hãy nhìn kỹ những gì đám đồ tể đã làm trong suốt bốn mươi năm qua trên đất nước Việt Nam để đặt tên đám thái thú thời đại nầy cho đúng. .
Nguồn: http://tuongvang.org/2019/04/26/dong-phuong/tai-lieu/buc-dien-tin-dau-hang-vo-dieu-kien-cua-bac-viet-nam-1972/

CIA Giữ Bí Mật Bắc Việt Đầu Hàng Vô Điều Kiện năm 1973

18nokj99z
CIA ém nhẹm Bắc Việt tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” năm 1973 . Chiến dịch Nixon cho ném bom 12 ngày đêm tại Bắc Việt  năm 1972 . Được gọi là chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong Chiến tranh Việt Nam, từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972. 
– Ted Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ, Bắc Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận điện tín này, nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên chuyển tất cả các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Do đó, “Việt Nam Cộng Hòa” không hề kiểm chứng nguồn tin này.
 – USA President Ronald Reagan (Tổng Thống Mỹ) :
Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau.

Bức điện tín đầu hàng vô điều kiện của Bắc Việt

1. Vài nét về Ted Gunderson, chủ tài liệu liên quan đến bức điện tín
– Cựu Đặc vụ hành sự FBI và cựu Giám đốc FBI Los Angeles,
– Từng điều tra vụ Marilyn Monroe và John F. Kennedy,
– Từng phanh phui những tội các của FBI và những thế lực Do Thái đứng phía sau như Bilderberg và Illuminati,
– Từng bị tin tặc tấn công vào các máy tính cá nhân, từng bị sách nhiễu, đe dọa, bức hại và toan tính sát hại,
– Cuối cùng bị hạ độc bằng Arsenic và qua đời ngày July 31, 2011
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh mà Đỉnh Sóng ghi ra từ YouTube liên quan cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế.
“I also received some information recently in my tours and lectures, and what have you. I did a TV show in Long Beach, California. One of the gentlemen involved in the show was in the U.S. army at one time. He told me that in the spring of 1973 we had bombed all the North Vietnamese supply lines, we had mined their harbors, they were cut off; and one of his associates was in the communication room in Saigon, and this is, of course, a classified job. And when he was in this room he received this message from the North Vietnamese, “We surrender unconditionally.” He passed it on to his superiors; and all army personnel were immediately ushered out and replaced by state department personnel. It’s shortly thereafter that Kissinger met with the north Vietnamese officials in Paris, France. Why do these things happen?”
(Tôi cũng đã nhận được một số thông tin gần đây trong những chuyến đi và thuyết trình, v.v.. của tôi. Tôi đã thực hiện một chương trình truyền hình ở Long Beach, California. Một trong những người liên quan trong chương tình có thời đã phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ. Ông ta nói với tôi rằng chúng ta đã dội bom tất cả những đường tiếp tế của cộng sản Bắc Việt, chúng ta đã gài mìn những bến cảng của họ, chúng đã bị cắt đứt; và một trong những cộng sự viên của ông lúc bấy giờ đang làm việc tại trung tâm truyền tin ở Sài gòn, và đương nhiên đó là một công tác tối mật. Khi đang ở trong phòng, ông ta nhận được điện tín nầy của Bắc Việt, “Chúng tôi đầu hàng vô điều kiện.” Ông ta chuyển điện tín đó lên cho thượng cấp; và tất cả nhân viên quân sự lập tức bị thuyên chuyển hết và được thay thế bởi nhân viên của Bộ Ngoại Giao. Chẳng bao lâu sau Kissinger đã họp với các viên chức Bắc Việt ở Paris. Tại sao lại xảy ra những chuyện như thế?)
2. Sự thật về Chiến Tranh VN : Đánh nhưng không được thắng – Bruce Herschensohn, Prager University
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh do Đỉnh Sóng chép ra từ YouTube cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế:
“Decades back, in late 1972, South Vietnam and the United States were winning the Vietnam War decisively by every conceivable measure. That’s not just my view. That was the view of our enemy, the North Vietnamese government officials. Victory was apparent when President Nixon ordered the U.S. Air Force to bomb industrial and military targets in Hanoi, North Viet Nam’s capital city, and in Haiphong, its major port city, and we would stop the bombing if the North Vietnamese would attend the Paris Peace Talks that they had left earlier. The North Vietnamese did go back to the Paris Peace talks, and we did stop the bombing as promised.
On January the 23rd, 1973, President Nixon gave a speech to the nation on primetime television announcing that the Paris Peace Accords had been initialed by the United States, South Vietnam, North Vietnam, the Viet Cong, and the Accords would be signed on the 27th. What the United States and South Vietnam received in those accords was victory. At the White House, it was called “VV Day,” “Victory in Vietnam Day.” The U.S. backed up that victory with a simple pledge within the Paris Peace Accords saying: should the South require any military hardware to defend itself against any North Vietnam aggression we would provide replacement aid to the South on a piece-by-piece, one-to-one replacement, meaning a bullet for a bullet; a helicopter for a helicopter, for all things lost – replacement. The advance of communist tyranny had been halted by those accords.
Then it all came apart. And It happened this way: In August of the following year, 1974, President Nixon resigned his office as a result of what became known as “Watergate.” Three months after his resignation came the November congressional elections and within them the Democrats won a landslide victory for the new Congress and many of the members used their new majority to de-fund the military aid the U.S. had promised, piece for piece, breaking the commitment that we made to the South Vietnamese in Paris to provide whatever military hardware the South Vietnamese needed in case of aggression from the North. Put simply and accurately, a majority of Democrats of the 94th Congress did not keep the word of the United States.
On April the 10th of 1975, President Gerald Ford appealed directly to those members of the congress in an evening Joint Session, televised to the nation. In that speech he literally begged the Congress to keep the word of the United States. But as President Ford delivered his speech, many of the members of the Congress walked out of the chamber. Many of them had an investment in America’s failure in Vietnam. They had participated in demonstrations against the war for many years. They wouldn’t give the aid.
On April the 30th South Vietnam surrendered and Re-education Camps were constructed, and the phenomenon of the Boat People began. If the South Vietnamese had received the arms that the United States promised them would the result have been different? It already had been different. The North Vietnamese leaders admitted that they were testing the new President, Gerald Ford, and they took one village after another, then cities, then provinces and our only response was to go back on our word. The U.S. did not re-supply the South Vietnamese as we had promised. It was then that the North Vietnamese knew they were on the road to South Vietnam’s capital city, Saigon, that would soon be renamed Ho Chi Minh City.
Former Arkansas Senator William Fulbright, who had been the Chairman of the Senate Foreign Relations Committee made a public statement about the surrender of South Vietnam. He said this, “I am no more distressed than I would be about Arkansas losing a football game to Texas.” The U.S. knew that North Vietnam would violate the accords and so we planned for it. What we did not know was that our own Congress would violate the accords. And violate them, of all things, on behalf of the North Vietnamese. That’s what happened.
I’m Bruce Herschensohn.”
Phần chuyển ngữ : Sự thật về Chiến Tranh VN
Nhìn lại những thập niên trước, vào cuối năm 1972, Miền Nam VN và Hoa Kỳ rõ ràng đang thắng Chiến Tranh VN, hiển nhiên là thế. Đó không chỉ là quan điểm của riêng tôi. Đó là quan điểm của kẻ thù của chúng ta, những viên chức của chính phủ Bắc Việt. Chiến thắng rõ ràng khi Tổng Thống Nixon ra lệnh cho không lực Hoa Kỳ dội bom những mục tiêu kỹ nghệ và quân sự ở Hà Nội, thủ đô Bắc Việt và ở Hải Phòng, hải cảng chính của họ, và chúng ta sẽ ngưng dội bom nếu Bắc Việt tham dự Hội Đàm Paris mà họ đã rời trước đó. Bắc Việt không trở lại bàn hội nghị, và chúng ta không ngưng dội bom như đã hứa.
Vào ngày 23 tháng Giêng năm 1973, Tổng Thống Nixon đọc một bài diễn văn toàn quốc trên truyền hình vào giờ cao điểm, cho biết Hội Đàm Paris đã được ký tắt bởi Hoa Kỳ, Nam VN, Bắc Việt, Việt Cộng, và Hiệp Định sẽ được chính thức ký vào ngày 27. Những gì mà Hoa Kỳ và Nam VN nhận được trong hiệp định đó là một thắng lợi. Tại Tòa Bạch Ốc, người ta đã gọi đó là ngày “VV Day – Victory in Vietnam Day.”
Hoa Kỳ đã hậu thuẫn chiến thắng đó với một bảo đảm đơn giản bên trong Hiệp Định Paris, theo đó: nếu Miền Nam yêu cầu chiến cụ để tự vệ chống lại bất kỳ cuộc xâm lăng nào của Bắc Việt thì chúng tôi sẽ cung cấp viện trợ thay thế (replacement aid) cho Miền Nam trên căn bản từng cái một và một đổi một (piece-by-piece, one-to-one replacement), nghĩa là, một viên đạn đổi một viên đạn, một trực thăng đổi một trực thăng, đối với tất cả những thứ bị mất. Bước tiến của chế độ độc tài cộng sản đã bị chặn đứng bởi hiệp định đó.
Thế rồi tất cả đều tan vỡ. Và sự thể như thế nầy: Vào tháng Tám của năm tiếp theo, 1974, Tổng Thống Nixon từ chức do hậu quả của vụ Watergate. Ba tháng sau khi ông từ chức là những cuộc bầu cử quốc hội tháng mười một và trong đó những thành viên của Đảng Dân Chủ thắng lợi vẻ vang trong Quốc Hội mới và nhiều thành viên đã lợi dụng đa số mới của họ để chấm dứt tài trợ cho chương trình viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đã hứa, một đổi một, bội ước lời cam kết của chúng ta đối với Miền Nam VN ở Paris là sẽ cung cấp bất kỳ chiến cụ nào mà Miền nam cần trong trường hợp bị Bắc Việt xâm lăng. Nói một cách đơn giản và chính xác, đa số những đảng viên Đảng Dân Chủ của Quốc Hội khóa 94 không giữ lời hứa của Hoa Kỳ.
Vào ngày 10 tháng Tư, 1975, Tổng Thống Gerald Ford đã trực tiếp nói chuyện với những thành viên Quốc Hội đó trong một buổi họp hỗn hợp buổi tối, được truyền hình trên toàn quốc. Trong bài diễn văn đó, ông tha thiết kêu gọi Quốc Hội hãy giữ lời hứa của Hoa Kỳ. Nhưng trong khi Tổng Thống Ford đọc diễn văn, nhiều thành viên Quốc Hội bước ra khỏi phòng họp. Nhiều người trong số họ đã đầu tư vào sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Họ đã tham gia các cuộc biểu tình phản chiến trong nhiều năm. Họ sẽ không cho viện trợ. Vào ngày 30 tháng Tư, Miền Nam đã đầu hàng và những trại cải tạo được dựng lên, và hiện tượng người vượt biển bắt đầu. Nếu Miền Nam nhận được vũ khí mà Hoa Kỳ đã hứa với họ thì kết quả đã khác đi? Sự khác biệt đó đã được chứng minh. Giới lãnh đạo Bắc Việt đã thú nhận rằng lúc bấy giờ họ đang trắc nghiệm Tổng Thống mới Gerald Ford, và họ đã chiếm từ làng nầy đến làng khác, rồi đến những thành phố, tỉnh lỵ; và phản ứng duy nhất của chúng ta là bội ước. Hoa Kỳ không tái viện trợ Miền Nam như chúng ta đã hứa. Chính lúc đó Bắc Việt nhận thức được rằng họ đang trên đường tiến đến Saigon, thủ đô của Miền Nam, sau đó được đổi tên thành TP Hồ Chí Minh.
Cựu TNS William Fulbright, nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thương Viện, đã đưa ra một công bố chính thức về sự đầu hàng của Miền Nam. Ông nói, “I am no more distressed than I would be about Arkansas losing a football game to Texas.”
(Tôi không thấy đau khổ gì mấy, chẳng khác nào khi thấy Arkansas thua Texas một trận đá bóng.)
Hoa Kỳ biết rằng Bắc Việt sẽ vi phạm hiệp định Paris và chúng ta đã chuẩn bị cho chuyện đó. Điều mà chúng ta không biết là chính Quốc Hội của chúng ta sẽ vi phạm hiệp định đó. Và vi phạm, về mọi mặt, thay cho Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra. Tôi là Bruce Herschensohn.
** Sau khi Saigon thất thủ, hơn một triệu người Miền nam bị đưa vào các trại cải tạo ở miền quê. 250 ngàn người đã chết ở đó, do bị hành quyết không xét xử, tra tấn, bệnh tật, và suy dinh dưỡng. Giữa năm 1975 và 1995, hai triệu người Việt đã trốn chạy khỏi nước, vượt Biển Đông bằng những chiếc thuyền thiếu trang bị để đi tìm tự do. Ước tính có khoảng 200 ngàn người vượt biển nầy đã chết – do bị chết chìm và bị hải tặc giết. Ngày nay Việt Nam vẫn có một chính phủ cộng sản, nhưng họ đã bỏ hết những lý thuyết kinh tế cộng sản, những lý thuyết mà họ đã hy sinh bao nhiêu sinh mạng của đồng bào của họ để theo đuổi.
3. Nhận định bên lề
Trong khi hơn 96% hệ thống truyền thông nằm trong tay Tập đoàn Do Thái quốc tế và Mỹ Cộng thì công việc truy tìm thông tin, tài liệu, nhận định, và phán xét trung thực về Chiến Tranh VN chẳng khác nào mò kim đáy biển, vì hầu hết các hảng thông tấn, các trang mạng, đài truyền thanh truyền hình, những tờ báo hàng đầu đều nói một thứ tiếng của Do Thái được chuyển ngữ sang tiếng Anh, cùng phục vụ một chủ nghĩa độc tài mềm, cùng bị kiểm soát bởi một chính sách ngân hàng trị và Do Thái trị, cùng gián tiếp hay trực tiếp cỗ xúy một loại trật tự được mệnh danh New World Order hayOne-government World – thực chất là một loại thế giới đại đồng hoang tưởng do tập đoàn Do Thái thống trị. Hiện cảnh đen tối của một chính quyền Mỹ thân cộng Do Thái trị ngày nay là nhìn đâu cũng thấy Do Thái và sờ đâu cũng chạm phải bàn tay lông lá của Do Thái từ CIA, FBI, truyền thông, Internet, đại học, Hollywood đến hành pháp, tư pháp, lập pháp, v.v…; và đâu có Do Thái ở đó có Mỹ Cộng. Những kẻ đi tìm sự thực như Ted Gunderson luôn bị chúng khủng bố và truy sát bằng mọi cách; những kẻ khác thì co đầu rụt cổ vì sợ bị ghép tội bài Do Thái, cùng lắm chỉ vòng vo đập quanh bụi rậm. Hậu quả là Do Thái và Mỹ cộng xem phần còn lại của thế giới như một bầy trẻ con, ngây thơ về chính trị và nhút nhát như bầy gấu trúc. Hầu hết các bài viết, nhất là những bài của những tay viết blog cho VOA, BBC, RFA, RFI, v.v…, đều viết theo đơn đặt hàng của Do Thái, Mỹ Cộng, và Việt Cộng, dưới môt hình thức nào đó và theo một kênh tuyên vận nào đó. Chín mươi phần trăm của những bài viết nầy là vỏ bọc đường nghe rất bùi tai và nhìn rất mát mắt, nhưng chỉ để phục vụ 10 phần trăm còn lại dùng chứa thuốc độc nhằm đánh bóng Mỹ Cộng hay Việt Cộng hay cả hai.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào toàn cục vấn đề và căn cứ trên những tài liệu, dù là hiếm hoi, được chính phủ Hoa Kỳ bạch hóa về những cuộc đi đêm mà Washington đã tiến hành với Bắc Kinh nhằm bán đứng Miền Nam hay thậm chí cả Việt Nam cho Trung Quốc dưới sức ép và đồng lõa của tập đoàn Do Thái và cộng sản quốc tế để đổi lấy quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, về chủ trương đánh Cộng Sản nhưng không được thắng, v.v… thì bức điện tín đầu hàng vô điều kiện nói trên không hẳn là bịa đặt. Nhưng tại sao Bắc Việt đầu hàng mà Mỹ vẫn tiếp tục đánh? Theo thiển ý của chúng tôi, đầu hàng với Mỹ không thành vấn đề; đầu hàng với Trung Quốc mới là mục tiêu tối hậu của cả Mỹ lẫn Tàu. Ở điểm nầy, vì muốn có được những quyền lợi với Trung Cộng, Mỹ ra sức phục vụ quyền lợi của Bắc Kinh trước đã, nghĩa là giúp Bắc kinh thôn tính Việt Nam thông qua Đảng Cộng Sản VN và trên xương máu dân tộc VN ở cả hai miền. Cũng ở điểm nầy người ta mới thấy Chiến Tranh VN là cơ hội bằng vàng để đế quốc Tàu tiếp tục giấc mộng thôn tính Việt Nam sau hơn ngàn năm không thực hiện được. Cả Mỹ lẫn Tàu đã đạt được mục tiêu chung sau những cuộc không tập B52 kéo dài; và sau đó, vì muốn bảo vệ đảng, Bắc Việt đã quỳ gối đầu hàng Bắc Kinh và ký những mật ước nhượng đất nhượng biển và nhượng cả chủ quyền cho Trung Cộng. Việc Mỹ làm ngơ cho Trung Cộng chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam có lẽ cũng nằm trong khuôn khổ những mật ước như thế nhưng đã có trước khi chiến tranh chấm dứt. Như thế kẻ thắng chiến tranh VN là Trung Cộng chứ không phải Bắc Việt; Bắc Việt chỉ là một thây ma được Mỹ, Tàu, Do Thái vớt lên từ địa ngục để thi hành sứ mạng Thái Thú cho Thiên Triều.
Những người sinh ra và lớn lên trong hệ thống tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ của cộng sản và ngay cả những người cộng sản được xem là “mở mắt” như Bùi Tín, Phạm Chí Dũng, Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, chẳng hạn, có lẽ không bao giờ chấp nhận sự thực đó, vì, đối với những người nầy, làm thế chẳng khác nào chối bỏ “ảo ảnh đời mình,” chối bỏ một huyền thoại giúp họ tiếp tục ngẩng mặt lên tiếng với đời. Những đám người nầy có thể “trái dạ” với đảng cộng sản nhưng dứt khoát không tự phản bội chính mình. Nếu không có huyền thoại đó thì cách nay bốn mươi năm họ chỉ là nhưng kẻ mù quáng đi trong doàn quân ma được Mỹ, Tàu và Do Thái tha chết và vớt xác lên từ địa ngục đồng thời trao cho chiếc bánh vẻ “đại thắng mùa xuân” để sau đó đạo quân ma nầy tràn vào Miền Nam cướp của giết người. Nếu không tin các ông các bà cứ hỏi Trần Đăng Thanh, một đại tá VC thuộc Học Viện Quốc Phòng của chế độ Hà Nội thì biết ngay. Cũng có thể các ông các bà đều biết sự thực nhưng không dám công khai thú nhận; các ông các bà vờ mở mắt nhưng chỉ mở một mắt để khỏi thẹn với lương tâm và tiếp tục đi trong mộng du. Ngày nay các ông các bà được giải quyết sang Mỹ chẳng khác nào lá rơi về cội, gặp lại ân nhân ngày trước, thế thôi. Một số người cộng sản vẫn thường bóng gió so sánh cộng sản VN với giới lãnh đạo Tây Đức, Bỉ, với Bắc Quân Hoa Kỳ trong cuộc Nội Chiến, thậm chí với cả chính quyền Hoa Kỳ trong Đệ Nhi Thế Chiến đã thắng Nhật. Làm như thế là hiếp dâm lịch sử vì cố tình đặt một thây ma được vớt lên từ địa ngục ngang hàng với những kẻ chiến thắng đích thực, đặt đạo quân đồ tể ngang hàng với loài người có lương tri, liêm sỉ, và trí tuệ, đặt một đám gia nô thái thú ngang hàng với những con người thực sự làm chủ đời mình và giúp dân tộc làm chủ vận mệnh của đất nước. Hãy nhìn kỹ những gì đám đồ tể đã làm trong suốt bốn mươi năm qua trên đất nước Việt Nam để đặt tên đám thái thú thời đại nầy cho đúng. .
Đỉnh Sóng
Nguồn: Đỉnh Sóng

__________________***  ***_______________

Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975
để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước.

Đỗ Kim Thêm
06-05-2015
Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam. Chúng ta có các lý do chính đáng để không tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hoà giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.
Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.
Mọi vấn đề hiện nay của Việt Nam có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưng cầu toàn để canh tân đất nước hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.
***
Ký ức thay ngụy sử?
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày quan trọng trong lịch sử của Việt Nam, vì là ngày kỷ niệm 40 năm chiến tranh kết thúc. Hiện nay, các thế hệ tham chiến hầu như đã lần lượt ra đi hay đang quên đi những hậu quả của chiến cuộc. Thời gian dài này cũng đủ để làm một thế hệ hậu chiến trưởng thành mà không vướng bận với ký ức thuộc về lịch sử.
Tuy thế, có một sự khác biệt giữa ký ức và lịch sử. Ký ức là một điều kiện thiết yếu tự tại và có một giá trị đặc biệt cho lịch sử. Ký ức riêng tư tạo nên bản sắc cá nhân và ký ức tập thể tạo nên bản sắc xã hội. Cả hai đặc thù văn hoá này nếu kết hợp nhau được sẽ làm thành một lịch sử chung cho dân tộc. Để phác thảo lịch sử, sử gia cần có ký ức văn hoá, một sự thật của lịch sử và đây là một trong những điều kiện khách quan làm khởi điểm cho chính sử.
Nhưng trong hiện tại vấn đề soi sáng lịch sử ít được quan tâm, bởi vì chúng ta đang có những nhu cầu bức thiết, đó là hiểm hoạ Bắc thuộc và bất lực của chính quyền trước những khát vọng của toàn dân về toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng dân chủ, phát triển kinh tế, nâng cao công bình và tôn trọng nhân quyền.
Nhìn lại sau 40 năm dài thì thực tế cho thấy dù là ký ức của các chứng nhân lịch sử đang nhạt nhoà và bản sắc của đất nước đang tàn phai, nhưng người Việt vẫn còn bị ám ảnh bởi những chiến tuyến trong quá khứ, đề cao thành quả chiến thắng mãi làm cho việc hoà giải giữa người Việt còn khó khăn và những giá trị phổ quát trong xu thế thời đại như tự do, dân chủ, nhân quyền và trọng pháp lại chưa áp dụng. Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia sẻ một quá khứ chung của lịch sử cận đại.
Nếu chúng ta muốn xây dựng một chính sử Việt Nam cho hôm nay và mai sau, thì giải ảo ngụy sử là một nhu cầu tất yếu. Vậy vấn đề là liệu có nên khơi động lại ký ức cá nhân hay tập thể hoàn toàn độc lập với mọi dị biệt và đối kháng với ngụy sử để làm cơ sở được không?
Thế hệ tham chiến và quá khứ
Thế hệ tham chiến nghĩ gì về quá khứ và để làm gì trong hiện tình? Chiến tranh Việt Nam nằm trong bối cảnh quốc tế của Chiến tranh Lạnh và lại là một thí dụ điển hình trong khu vực về Chiến tranh Ủy nhiệm. Không riêng Việt Nam mà hầu như nhiều quốc gia đều hình thành bằng bạo lực. Trong cả một thời kỳ dài, tranh đấu bằng bạo lực là một phương tiện hiển nhiên, nó tạo nên một loại văn hoá chung và trở thành một sự thực khách quan của lịch sử. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước và là một sản phẩm của lịch sử.
Công việc chọn lọc quá khứ để giải ảo lịch sử cũng có nghĩa là làm sống lại quá khứ, một phần hay toàn bộ ký ức của cá nhân hay tập thể. Phủ nhận hay quên đi quá khứ, cả hai nỗ lực này là bất khả. Không ai muốn quên lãng quá khứ oai hùng, vì mục đích kéo dài hạnh phúc đã hết là để làm quên đi thực tế bất hạnh. Quên lãng quá khứ thương đau thì không thể dễ dàng vì là một ám ảnh còn vang động trong hồn như một loại bịnh tâm thần kinh niên không trị được. Khép lại quá khứ và cảm nhận nó trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai, cả hai việc đòi hỏi chúng ta có một ý thức phản tỉnh mà không bị dồn ép cực đoan bằng một ý thức hệ đã lỗi thời hay xí xoá dễ dãi bằng những thành tựu kinh tế nay đang sa sút.
Để trả lời các vấn đề này, thế hệ tham chiến lập luận là ký ức của các chứng nhân lịch sử sẽ mai một và ký ức của tập thể chỉ có tính địa phương. Đoàn kết dân tộc là một vấn đề trọng đại của lịch sử đất nước, chúng ta hãy để cho sử gia làm việc, vì họ có khả năng gạn đục khơi trong các tồn đọng cuả quá khứ để trình bày khách quan hơn và có tác động hữu hiệu hơn. Bất hạnh cho chúng ta là sử Việt bị ngụy tạo quá nhiều, nên không thể lý giải và thuyết phục các sự thật lịch sử cận đại.
Ngụy tạo chính sử
Có một sự khác biệt giữa quan điểm về lịch sử của người phương Tây và Việt Nam. Khi người Mỹ nói đó là chuyện lịch sử, mọi người cùng yên tâm nghĩ là toàn bộ vấn đề xảy ra được ghi chép cẩn thận và nghiên cứu nghiêm túc (That is history; it is totally a record). Khi người Việt nói đó là chuyện lịch sử, chúng ta phải dè dặt hơn, vì đó là một biến cố quan trọng đã xảy ra (It is a most importat thing); sự kiện còn ngờ vực, đúng sai hay hay dở còn cần xét lạ, vì tùy theo thời điểm và quan điểm chính trị. Đây không phải là một khám phá mới lạ, vì đã có vô số các bằng chứng về các sai lầm trong sử Việt, mà những ví dụ chính cho thấy các tầm mức tác hại nghiêm trọng của vấn đề ngụy tạo.
Thứ nhất, theo sử thì Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) giải tán ngày 11 tháng 11 năm 1945, nhưng thc tế thì Đảng tiếp tục hoạt động trong bí mật, sau đó lại công khai cho đến ngày hôm nay. Không có sử gia nào bỏ công cải chính sự kiện này của ĐCSVN và Đảng Lao Động, dù là hình thức.
Thứ hai, vai trò của ĐCSVN trong việc giành độc lập. Thực ra, Việt Nam chưa độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn, vì Đảng không cướp được chính quyền từ tay Nhật và Pháp, mà của chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 19 tháng 8 năm 1945 và về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám.
Việt Nam thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3 năm 1949 theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc biệt của Hiệp định là Việt Nam thống nhất và độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm 1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 về ngoại giao và chính trị.
Không ai bỏ công phân biệt ý nghĩa cao cả của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc do ngoại xâm và phương cách bất chánh để cướp chính quyền trong nội chính. Xác minh thời điểm chính xác cho sự độc lập cũng bị quên lãng.
Thứ ba, cuộc đời của Hồ Chí Minh là một chuyện dài không đoạn kết. Bao nhiêu sách vở khác nhau viết về xuất xứ, hành tung, khả năng, quá trình hoạt động và tư cách đạo đức của ông. Mỗi lúc lại có một khám phá mới làm cho sự thật về cuộc đời của ông càng huyền bí hơn.
Nhu cầu tuyên truyền chính trị nhất thời là lời giải thích quen thuộc. Các nhà nghiên cứu đã (phải) suy tôn ông lên làm thần thánh, rồi một thời gian sau, vì lý do chính trị khác, lại hạ bệ. Nhiều tác phẩm viết về ông, nhưng ông không có một chỗ đứng vững chắc trong lịch sử. Vì ông là một nạn nhân của lịch sử quái ác nên các vấn đề tiểu sử, công nghiệp, đời tư của ông còn cần phải tiếp tục soi sáng.
Thứ tư, đấu tranh quân sự có phải là một giải pháp tối ưu duy nhất hay kết hợp với các giải pháp nghị trường và ngoại giao cũng là điều kiện khả thi?
Trước trào lưu đấu tranh giành độc lập tại các nước Á Phi đang dâng cao nên Pháp đã ý thức vấn đề này. Từ năm 1947 Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa và tôn trọng nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam bằng cách đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp tại Liên Hiệp Quốc. Đó là một thắng lợi ngoại giao và pháp lý mà Đảng Cộng Sản đã phủ nhận và về sau giải thích là Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa.
Do đó, khi nhân danh giành lại độc lập dân tộc, họ chiến đấu vũ trang chống Pháp, nhưng bằng cách độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. Trái lại, các nước châu Á khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Cộng sản Quốc tế, mà thành công của Ấn Độ (1947) là một thí dụ, dù bối cảnh phức tạp hơn Việt Nam nhiều.
Thứ năm, ĐCSVN sử dụng chiêu bài đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ như một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là cướp chính quyền. Họ đã chống đối bất cứ giải pháp chính trị và ngoại giao nào không cho họ độc quyền đấu tranh và lãnh đạo quốc gia, mà Hiệp định Genève và Paris là hai cơ hội lịch sử.
Dù Hiệp định Genève chỉ là để định ranh giới ngưng bắn và không áp đặt những giải pháp chính trị, nhưng thống nhất Nam Bắc thuộc quyền dân tộc tự quyết, một cơ hội mới về tổng tuyển cử mở ra và sẽ do hai miền ấn định. Lãnh đạo cả hai miền đã không đủ nỗ lực để thực thi biện pháp tổng tuyển cử, một cơ hội không tốn xương máu. Đó là một quan điểm sai lầm của cả hai và trở thành một bất hạnh cho dân tộc hiếu hoà.
Hiệp định Paris là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị, nhưng là một cơ hội khác mở ra nếu các bên đồng ý “thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào.” (Điều 15).
Phát động chiến dịch Hồ Chí Minh để thôn tính miền Nam không phải là phương pháp hòa bình như đã ký kết. Vi phạm Hiệp định Paris lại là một thành tích tự hào về sự phản bội của chính mình và chấp nhận hy sinh xương máu của thế hệ thanh niên cuối cùng của miền Bắc.
Thứ sáuĐại Thắng Mùa Xuân là đỉnh cao chói lọi trong trang sử đấu tranh của ĐCSVN, nhưng Ted Gunderson (1928 – 2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ, Bắc Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận điện tín này nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên chuyển tất cả các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Dĩ nhiên, Việt Nam không hề kiểm chứng nguồn tin này.
Tóm lại, các vấn đề quan trọng trong chính sử cận đại như ý nghiã đích thực của chiến tranh, kết hợp các phương tiện khả thi để giải quyết xung đột, những hy sinh và thành tích cần được giải ảo trong một phương cách mới hơn, khi mà có vô số các nguồn tài liệu được liên tục giải mật. Quan trọng nhất là chúng ta phải có can đảm nhìn vào sư thật của lịch sử trong một nhãn quan mới.
Cho dù ngày nay ngụy sử đã không thể phản ảnh được toàn bộ quá khứ và chính sử cũng không hẳn là mất đi hết trong những gì còn sót lại nơi lòng người, nhưng điều may mắn hơn cho chúng ta là lịch sử vẫn còn được truyền tụng, mà ký ức cá nhân và tập thể cần hồi tưởng là thí dụ điển hình.
Những người Việt đang ở vào lớp tuổi bốn mươi hay trẻ hơn không có ký ức về chiến cuộc, vì họ chưa sinh ra. Dĩ nhiên, họ có quyền đặt câu hỏi vì sao Việt Nam chưa thể canh tân đất nước và hưởng độc lập dân tộc và họ phải gánh chịu một di sản tồi tệ như ngày hôm nay. Khi ngụy sử không thuyết phục được họ, thì ký ức của các bậc cha ông còn sống sót sẽ đóng vai trò gì?
Ký ức chiến cuộc nhạt nhoà
Tình yêu về dĩ vãng vốn bẩm sinh trong tâm hồn người Việt; họ thích ôm ấp kỷ niệm trong mơ hồ và không muốn dùng ngôn ngữ để diễn đạt những cảm xúc trân qúy. Ký ức là nhớ lại; một người không có trí nhớ là một người không còn bản sắc riêng. Nhưng ngược lại với ký ức là quên lãng; ai phải dồn ép quá khứ, thường là người không bình thường và hoặc sẽ mang bịnh ức chế. Một người trưởng thành không có ký ức sẽ mãi là một trẻ con.
Ký ức tập thể theo Maurice Halbwach quan trọng hơn. Nó vượt qua khuôn khổ kinh nghiệm sống của một cá nhân, hằn sâu, tiêm nhiễm vào một tầng lớp xã hội, một thế hệ trong một giai đoạn của dân tộc và tạo thành bản sắc chung. Một dân tộc không có ký ức lịch sử cũng là một dân tộc chưa trưởng thành.
Khi xưa, Tản Đà có than thở “Dân hai lăm triệu, ai người lớn?, Nước bốn nghìn măm vẫn trẻ con.” Lời thơ ai oán được truyền tụng như một lời cảnh tỉnh về tình trạng dân trí trong thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh, Trịnh Công Sơn cũng đã nhắc nhiều đến thân phận đất nước, nhưng thê thiết nhất là “Ôi, đất nước u mê ngàn năm“. Điều ngạc nhiên là cả hai danh tài này sống trong hai thế hệ cách biệt nhau, nhưng lại cùng một tâm trạng, dù không hề quan tâm đến chính sử và ký ức.
Nhưng làm sống lại ký ức không dễ, vì có một cái gì đó thiếu bình thường mà có quá nhiều thí dụ làm cho chúng ta ngạc nhiên.
Thứ nhất, nhân ngày 30 tháng 4 mà nhân dân thủ đô Hà Nội kéo băng và biểu ngữ với nội dung “Hân Hoan Chào Mừng Ngày Giải Phóng Thủ Đô”. Vô ý hay là trớ trêu trong một ký ức nhạt nhoà? Không ai biết.
Thứ hai, ngược lại, nhân ngày này mà một số người Việt hải ngoại cũng có tổ chức“Ngày Diễn Hành Cho Tự Do”. Vì là buổi diễn hành nên ít có thuyết trình về ý nghĩa trọng đại về một ngày lịch sử của đất nước để người tham dự cảm thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này. Vì tự do hoài niệm mà đôi khi cũng có nhiều nơi còn có kết hợp với lễ Lao Động với dạ tiệc và khiêu vũ thâu đêm là chính. Đó là sáng kiến giải trí cuối tuần kéo dài trong hoàn cảnh mới, nên không đem lại một âm vang tưởng niệm nào trong đau buồn, nhớ những nguời nằm xuống và người trốn chạy.
Thứ ba là chuyện không có quyền công khai tưởng niệm những người nằm xuống trong chiến tranh biên giới Trung – Việt. Khơi động ký ức lại cần có ý kiến chỉ đạo? Hồi sinh ký ức càng thêm chua chát khi lãnh đạo hân hoan đón tiếp lãnh đạo bạn để cùng “Thành Kính Tưởng Niệm Các Liệt sĩ Trung Quốc Hy Sinh Vì Chính Nghĩa”trong Tiết Thanh Minh, một việc làm đúng theo chính sách đề ra.
Còn nhớ về Ngày Hoàng Sa và Trường Sa lại càng khó hơn, cụ thể nhất là vụ thảm sát Gạc Ma. Trước đây binh sĩ không được phép chống trả với Trung Quốc nên đem lại một cái chết tập thể; chính quyền luôn che dấu sự thật và nay lại không cho phép tưởng niệm và ghi công và không nêu tên kẻ thù, đó là một hành vi xoá bỏ ký ức có định hướng.
Những người chiến đấu còn sống không được tri ân, đãi ngộ và chỉ còn âm thầm xót thương cho đời nhau. Họ cũng bất hạnh giống như các cựu chiến binh Mỹ, làm điều vô ích cho kẻ vô ơn và cuối cùng lại chứng kiến trớ trêu của lịch sử mà đó lại là định mệnh của mình.
Thứ tư là chuyện những người di tản buồn lại càng buồn hơn, khi phải nhớ tới những thuyền nhân qua cơn phong ba bảo táp, chưa hưởng được tự do và cuối cùng phải yên nghỉ nơi đảo vắng xứ người. Trùng tu mộ phần đã khó, sơn tặng cho họ một lá cờ trên mộ phần và lập đài tưởng niệm trên các đảo cũng bị nhà nước CSVN tìm cách áp lực ngoại giao nên không được phép. Thân nhân cũng đành khép lại quá khứ theo chính sách.
Thứ năm là vấn đề gọi tên ký ức. Thảm sát hay chiến thắng Mậu Thân? Định danh ký ức cũng cần thảo luận như gọi tên cho cuộc chiến. “Chống Mỹ xâm lược“ mà hơn 5000 ngàn thường dân Việt và vài ân nhân người Đức phải chết oan uổng, thì không thể nào gọi là thắng lợi huy hoàng và có thể giải thích thuần lý.
Những hung thủ còn sống sót cũng không đủ can đảm đính chánh về cáo giác của các nhân chứng trong “Giải Khăn Sô Cho Huế“. Dù tai họ còn nghe và mắt họ còn thấy phản ứng của nạn nhân khác còn sống, nhưng khác với Hitler đã tự xử, hung thủ yên tâm hơn để nghiên cứu về Huế học, mà họ quên đi đối tượng nghiên cứu khẩn thiết nhất của Huế học là làm sáng tỏ việc tàn sát. Tên tuổi và hành vi của họ vẫn bị ràng buộc với lương tâm và lịch sử.
Chúng ta là có vô số ký ức cá nhân có giá trị lịch sử: Giải Khăn Sô Cho Huế, Muà Hè Đỏ Lửa, Dấu Binh Lửa, Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Thiên Đường Mù, Nổi Buồn Chiến Tranh và Đèn Cù là những thi dụ chính. Vì là tự truyện cá nhân nên có sự đãi lọc nhất định theo ý nghĩ cảm nhận và tùy theo cái gọi làlieux de mémoire của tác giả (các địa điểm liên hệ tới biến cố xãy ra để trở thành ký ức, một khái niệm của Pierre Nora). Thực ra, nhân chứng lưu giữ ký ức, họ chỉ là một người sống trong những biến cố kinh hoàng trong lịch sử, mà họ không hiểu tại sao, không lường đoán được hậu quả và giải thích các tầm mức phức tạp của diễn biến.
Do đó, chúng ta cần có sử gia, vì ký ức cần khách quan hoá theo phương pháp sử học, một tiến trình đến sau và có chọn lọc. Sử gia đối thoại với nhân chứng, vì nhân chứng biết rõ hơn các biến cố. Họ diễn dịch, sưu tầm và biên tập theo một hệ thống nhất định thành một loại đề tài chung.
Dù ký ức về chiến cuộc nhạt nhoà, nhân chứng lần lượt ra đi, quá ít sử gia chân chính, nhưng lịch sử không thể nguy tạo ký ức. Chính ký ức làm nên lịch sử. Ký ức không phải là vấn đề riêng của sử gia. Lịch sử không thuộc về sử gia, mà cho tất cả những người có liên quan và có tinh thần trách nhiệm. Những người đứng ra tổ chức các lễ tưởng niệm với các phương tiện truyền thông hiện đại cũng là một thí dụ.
Các buổi lễ truy điệu, báo chí, sách vở sẽ làm sống lại các ký ức tập thể. Những hình thức nghi lễ “hoành tráng“ của phe thắng cuộc không mang nhiều ý nghĩa đích thực để tìm ra bản chất của tưởng niệm. Những đề tài thảo luận nghiêm chỉnh về ý nghĩa của tưởng niệm là quan trọng hơn.
Nhờ thế, chúng ta viết lại lịch sử bằng cách khám phá những sự dị biệt trong ký ức với tinh thần trách nhiệm. Ký ức dị biệt của cá nhân là một phương tiện thông đạt dùng trong sinh hoạt hằng ngày khi thảo luận về những biến cố lịch sử. Ngược lại, ký ức tập thể là một sản phẩm xã hội, đẩy mạnh cho việc hình thành một bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng biết tìm đâu bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Việt?
Bản sắc dân tộc tàn phai
Dù là gọi là đất nước hay dân tộc cũng chỉ là một. Dân tộc là một ngôi nhà chung chứa đựng một linh hồn chung. Hồn thiêng này có hai phần: phần một nằm trong quá khứ, là một di sản thuộc toàn dân và ký ức lịch sử là một thành phần. Phần hai nằm trong hiện tại. Đó là tinh thần đồng thuận, cùng ước mơ chung sống để phát triển và lưu truyền giá trị của một di sản không thể phân chia. Khái niệm dân tộc này của ErnesRenan không phải là chủ nghiã dân tộc đã bị lạm dụng quá nhiều trong quá khứ.
Bản sắc văn hóa dân tộc gồm các đặc tính được duy trì trong quá trình của lịch sử và được kết tinh thành những biểu tượng để phân biệt với các dân tộc khác. Nó tạo thành những chuẩn mực giá trị cho xã hội và thể hiện tâm lý dân tộc mà các ký ức văn hoá là thí dụ.
Ký ức văn hoá theo Jan Assman gồm có việc sử dụng chính sử, tự truyện, hình ảnh và nghi lễ đặc biệt cho một xã hội trong một thời kỳ; mọi sự vun bồi này sẽ tạo nên một hình ảnh chung cho bản sắc dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có thể hiểu được giá trị truyền thống.
Chúng ta có thói quen ca ngợi bản sắc dân tộc và đơn giản hoá vấn đề, nhưng kỳ thực, bản sắc cá nhân phức tạp, vì dựa vào hoàn cảnh và điều kiện xã hội địa phương, thuộc về một thế hệ nhất định, một tôn giáo, một đoàn thể nghề nghiệp và trình độ giáo dục nào đó. Bản sắc thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời qua những biến cố của riêng mình.
Mô tả về bản sắc đất nước càng khó hơn vì theo dòng lịch sử, có quá nhiều biến chuyển sẽ thay thế cho các ký ức cũ phai mờ, tạo thành những bản sắc mới. Tùy theo thời điểm hay địa điểm mà bản sắc đất nước có thể tiến hay thoái hoá. Các thay đổi về giá trị qua từng thế hệ kết hợp nhau trong liên tục và tái tạo.
Trong một thời kỳ dài đấu tranh, Đảng đã bao nhiêu lần nói là “thống nhất đất nước ta sẽ xây dựng lại ngàn lần tươi đẹp hơn”. Nhưng chiến thắng năm 1975 cho phép Đảng có lý do tự phong một bản sắc mới là “trung tâm phẩm giá của loài người và lương tâm của thời đại”. Bản sắc cường điệu này không thuộc truyền thống chân thành của dân tộc. Đảng đã không thể trau dồi bản sắc, và chiến thắng không đem lại tự do và cơm áo cho toàn thể dân chúng trong thời bình.
Dù thành tựu đổi mới kinh tế có đem lại cho sung túc cho một thiểu số, nhưng Đảng không thể nâng cao bản sắc văn hoá vì giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi, thờ ơ của dân chúng và gương xấu của chính quyền là trở lực. Tìm lại bản sắc dân tộc đã đánh mất là điều không thể thực hiện được trước mắt, vì thành tựu của các biện pháp cải cách giáo dục và nâng cao đạo đức không thể là kết quả dễ được tìm thấy trong một sớm một chiều.
Đã đến lúc đất nước cần có bản sắc mới như là một vai trò kết nối, một khái niệm và một thành tố để xây dựng lịch sử. Nhưng làm sao nối kết những ký ức văn hoá dị biệt trong bối cảnh hiện nay. Thực ra, không ai có đủ viễn kiến để tiên đoán chuyện lý thuyết.
Nhưng sử gia không còn đi tìm những giá trị biểu tượng xa xưa, vì các biến động mới có những giá trị làm cho lịch sử độc đáo hơn. Họ dùng ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm một phương tiện nhằm tạo ra huyền thoại chính trị duy nhất cho khởi điểm mới về ký ức lịch sử cận đại. Với 40 năm trôi qua, thời gian lắng đọng để họ cùng tìm hiểu về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4. Do đó, giải ảo về nội dung ngày này cần được đặt ra.
Phản tỉnh về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975        
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 là một ngày để chúng ta nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và tìm hiểu những gì mà dân tộc đã sống trong 40 năm qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ, với các sử liệu mới, lý trí khách quan và tự do phê phán giúp cho chúng ta nhận ra sự thật. Sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biểu tượng khởi đầu cho một tiến trình tương phản phức tạp. Giá trị biểu tượng của ngày này là một nghịch lý bi đát. Chiến tranh kết thúc giải phóng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhưng không phải chỉ là vinh quang mà còn là tủi nhục; ngày miền Nam thoát khỏi chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc hiểu rõ hơn thế nào là giải phóng và hy sinh cho chính nghĩa. Cả nước vừa được giải phóng lại vừa bị hủy diệt trong một hoàn cảnh mới, không phải chỉ là thiệt hại vật chất mà còn là tinh thần, một vấn đề bản sắc.
Dĩ nhiên, chúng ta phải chấp nhận những gì đã xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì không thể thay đổi được, dù còn bị ảnh hưởng hậu quả cho đến hiện nay. Chúng ta không thể tách rời ngày 30 tháng 4 năm 1975 với ngày 3 tháng 2 năm 1930, ngày thành lập ĐCSVN, đó là một nguyên nhân khởi đầu mọi thay đổi trong các trang sử Việt.
Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một ngày toàn thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một ngày đại bại của toàn dân tộc Việt. Vì sao?
Vì nhìn lại quá khứ của công cuộc tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN chúng ta chỉ thấy một bóng tối kinh hoàng. Đó là các biện pháp truất hữu ruộng đất, ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, bài trừ văn hoá đồi trụy, thanh niên xung phong, kinh tế mới và học tập cải tạo. Theo sau là thảm kịch thuyền nhân, chiến tranh Tây Nam và phiá Bắc. Cuối cùng là kinh tế kiệt quệ để rồi ĐCSVN phải chịu có biện pháp xé rào và đối mới để nuôi dưỡng chế độ.
Với một cơ hội mới và tiềm năng cao để tái thiết hậu chiến và hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng đến năm 2015 mà Việt Nam còn tụt hậu thua Lào về canh tân công nghiệp, trình độ phát triển dân chủ kém hơn Campuchia, cạnh tranh kinh tế suy yếu hơn Hàn quốc, phát minh khoa học thua xa Thái Lan, năng lực lao động thấp nhất trong khu vực, nhưng tình trạng vi phạm nhân quyền và bất công xã hội lại là trầm trọng nhất.
Vì nhìn về tương lai chúng ta càng lo sợ hơn vì không biết đất nước và con người sẽ đi về đâu. Chủ nghĩa tư bản thân tộc tạo ra một xã hội thị trường hỗn loạn trong một nhà nước sơ khai là nguyên nhân, mà tham nhũng lên ngôi thượng đỉnh, đạo đức suy sụp tận đáy, giáo dục băng hoại và môi sinh cạn kiệt là hậu qủa. Trong khi hiểm hoạ Bắc thuộc là hiện thực, thì bất ổn cá nhân, bất trắc kinh tế và bất công xã hội vẫn còn kéo dài.
Tóm lại, chúng ta có các lý do chính đáng để không hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hoà giải và tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4. Nhờ thế, chúng ta sẽ thấy có trách nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này trong tương lai.
Ngày tưởng niệm
Hồi tưởng thuộc về một phần trong đời sống tâm linh của chúng ta. Ai đã sống trong ngày 30 tháng 4 với đầy đủ ý thức và nhận xét, thì cũng tự hỏi là ngày này mình làm gì và ở đâu và sự ràng buộc của mình trong biến cố này.
Ngày 30 tháng 4 là một ngày để chúng ta tưởng niệm về tất cả những người quá cố của hai miền, những người đã tin là mình chiến đấu cho chính nghĩa của đất nước. Chúng ta không thể quên họ và cầu mong họ siêu thoát. Đau đớn nhất là các chiến sĩ giải phóng quân; bây giờ họ không còn cơ hội để nhận ra rằng họ đã bị phản bội; tất cả công lao của họ là vô ích và vô nghĩa; cái chết của họ chỉ là phục vụ cho các mục tiêu cướp chính quyền của giới lãnh đạo vô nhân đạo.
Chúng ta sống trong gọng kềm của lịch sử dân tộc và là nạn nhân phải hy sinh cho quyền lợi của giới lãnh đạo. Cả một dân tộc không ai có tội cá nhân; không ai có tội với lịch sử. Có tội ít hay nhiều chỉ có thể quy kết cho tập thể lãnh đạo, vì họ thiếu trí tuệ và thiếu bản lãnh; họ chỉ phục vụ cho ngoại bang, chủ nghĩa phi dân tộc và không tìm cách tiết kiệm máu xương.
Chúng ta cũng hoài niệm về những nổi đau khổ của thân nhân còn sống; đặc biệt là nữ giới, đau khổ vì sự mất mát về tất cả những gì không thể giữ được từ vật chất cho đến tinh thần. Đó là đau khổ qua bị thương tổn và tật nguyền, đau khổ vì buộc phải chịu mất tài sàn, mất người thân yêu, mất nhân phẩm, cảm xúc bị tổn thương, cưỡng bức lao động, bất công nghiêm trọng và tra tấn dã man, đói khổ, giam cầm và trốn chạy.
Ngày hoà giải
Ngày 30 tháng 4 là ngày mà chúng ta không những tưởng niệm cho những người nằm xuống mà còn muốn hòa giải giữa người Việt còn sống với nhau. Chúng ta tìm kiếm hòa giải, nhưng không thể hòa giải với những người đã nằm xuống và những người không còn ký ức. Số phận chung của dân tộc liên kết chúng ta với nhau thành một định mệnh chung trong ước muốn chung sống trong hòa bình và thịnh vượng.
Trong đời sống hằng ngày, người Việt chỉ muốn sống an vui trong hiện tại và không muốn nhớ những chuyện vô nhân đạo trong quá khứ. Chúng ta chấp nhận và chịu đựng sự khắc nghiệt do số phận an bài, đó là chuyện tinh thần được đặt ra bên cạnh các nhiệm vụ khác.
Nhưng ngày 30 tháng 4 là một vết rạch hằn sâu trong lịch sử cho toàn thể, nên có một nghịch lý xảy ra, người Việt có tinh thần hồi tưởng và sẽ luôn hồi tưởng khi có cơ hội. Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Chúng ta cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì chúng ta đã sống và nghĩ không cùng trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó là một gánh nặng trong lịch sử mà chúng ta vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.
Làm sao chúng ta có thể xoá bỏ vết hằn khôn nguôi nếu không có hoà giải? Thực ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hoà giải không chỉ là tha thứ của nạn nhân về sai trái của thủ phạm, mà còn là một đồng thuận giá trị về chính trị. Đầu hàng là một thay đổi thái độ của phe thua cuộc trước phe thắng cuộc, một quyết định hợp lý của lý trí của phe thua cuộc và cần được thể chế chính trị của phe thắng cuộc bảo vệ. Vai trò luật pháp là điều kiện thể chế tiên quyết để bảo vệ họ. Khuôn khổ cho hoà giải là bình đẳng trước pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của phe thắng cuộc. Sự đồng tình của cả hai phe sẽ đem lại ý nghiã chung sống. Đó là một khuôn khổ xây dựng lại mối quan hệ và niềm tin cho xã hội và tạo lập một cộng đồng cho tương lai.
Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, các nước Nam Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El Salvador, Guatemala và Rwanda đã tìm ra một căn bản đồng thuận cho tiến trình hoà giải, mà đạo đức là mục tiêu và luật pháp là phương tiện. Vì say men chiến thắng mà kinh nghiệm hoà giải chính trị hậu xung đột không là vấn đề quan trọng để Việt Nam quan tâm học tập, cải tạo tập trung là trường hợp minh chứng ngược lại.
Sau ngày Đổi Mới, Việt Nam khởi đầu tiến trình hoà giải chính trị bằng Nghị Quyết để nhằm thu hút tài năng trí tuệ và đóng góp tài chánh. Nghị Quyết không đề ra sư tương thuận của phe thua cuộc; khuôn khổ pháp luật làm nền tảng và tinh thần đạo đức dân tộc làm nội dung cho hoà giải cũng không có. Việt Nam chỉ đo thành tựu Nghị Quyết bằng lượng kiều hối, du lịch và giao lưu văn nghệ trong ngoài. Hoà giải loại này không đem lại một niềm tin chung hướng về tương lai.
Trong nỗ lực hoà giải có một thử thách chung cho hai phía. Sẵn lòng hòa giải phải phát sinh từ trong nội tâm và do ngoại cảnh, không phải là vấn đề mà phe thắng cuộc đòi hỏi nơi phe thua cuộc theo tinh thần Nghị Quyết, nhưng là tự nội tâm của mỗi phe đòi hỏi nơi chính mình, đó là khởi điểm quan trọng nhất.
Cụ thể là liệu phe thắng cuộc có thể thực sự tự đặt mình trong hoàn cảnh của phe thua cuộc đựợc không hay phe thua cuộc có tin tưởng vào thành tâm hoà giải của phe thắng cuộc được không? Liệu Nghị Quyết một chiều có phải là một cơ sở ràng buộc nhau không? Cả hai phải nhận ra những gánh nặng của nhau, xem có chịu đựng nhau không và có quên quá khứ được không?
Cả hai phe làm gì trong tiến trình này? Chủ yếu là phe thắng cuộc cần có ý thức hơn để tìm lại nguyện vọng trung thực của phe thua cuộc; thay vì diễn binh mừng chiến thắng chỉ khơi động lại lòng thù nghịch, phe thắng cuộc nên can đảm hơn là đem tàu ngầm hiện đại ra biển Đông để bày tỏ quyết tâm trước Trung Quốc, phô trương này sẽ gây tác động hoà giải dân tộc cao hơn. Thay vì ngăn cản tưởng niệm, nên thành tâm bày tỏ thương tiếc những người của hai phiá đã hy sinh bằng cách xây một tượng đài chung, một hình thức tỉnh ngộ về sự lầm lạc chung của cả dân tộc trong cả một giai đoạn lịch sử. Họ nên đãi ngộ người đóng góp còn sống, một hình thức xoa dịu thương đau xã hội; nỗ lực hoà giải với người đối kháng và trực tiếp đối thoại trong tinh thần dân chủ là thực tế hơn, vì không phải ai có quan điểm đối lập chính trị với chính quyền cũng đều là những phần tử suy thoái đạo đức và phản động.
Phe thua cuộc cũng cần có nhận định nghiêm chỉnh hơn về ý nghĩa cao cả của tha thứ. Tha thứ là tìm hiểu và mến yêu người sai phạm. Hiểu nhau là vì đã tìm thấy lại nhau trong một quá khứ chung lầm lạc. Yêu mến nhau là vì cùng có một số phận và ý chí chung sống để xây dựng tương lai đất nước.Thực tế ngược lại. Một số không nhỏ của phe thua cuộc tự nguyện tìm đến phe thắng cuộc vì những bả lợi danh cuối đời, những lạc thú do những chênh lệch giá cả tại quê nhà, ngay cả những hạnh phúc thoáng qua như tiếng còi hụ đưa đón. Đó là một sự sĩ nhục mà một số trong phe thua cuộc tự tạo ra, vì trong khi cho đến ngày hôm nay, vẫn còn có rất nhiều người khả kính, can trường và liêm chính trong chiến bại.
Tương lai của hoà giải không ai biết được, nhưng khởi động một trào lưu nhận thức mới về tinh thần hoả giải là khẩn thiết, vì các thế hệ tham chiến sẽ lần lượt ra đi và các thế hệ nối tiếp sẽ không đủ quan tâm để giải quyết.
Ngày tỉnh thức
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 bắt đầu một chương mới trong lịch sử Việt Nam và một thế hệ mới đang trưởng thành. Giới trẻ không có các ký ức dị biệt và không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng họ đang và sẽ có trách nhiệm đối với những gì sẽ trở thành lịch sử. Họ sẽ đóng một vai trò chính về số phận của con người, đất nước và dân tộc trong khoảng thời gian bốn mươi năm tới. Nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại có ý nghĩa tỉnh thức vì ký ức cá nhân kéo dài chỉ trong bốn mươi năm. Nếu ký ức phai nhạt thì những gì quan trọng khác còn lại cũng không còn ý nghĩa. Thế hệ tham chiến cần giúp cho giới trẻ hậu chiến tìm hiểu về sự thật của lịch sử, không thiên vị theo ý thức hệ, trốn chạy trách nhiệm và nhân danh đạo đức. Đâu là giá trị tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4?
Chúng ta cần can đảm để nói cho thế hệ hôm nay biết là hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính; nay lại hy vọng là Hoa Kỳ đoái thương dân Việt. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ sẽ không có phép lạ nào để biến đổi nội tình Việt Nam hôm nay và sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam mai sau. Mỹ đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc cho đến xương máu của người Mỹ cuối cùng thay cho Việt Nam, như miền Bắc Việt Nam đã hãnh diện chống Mỹ thay cho Trung Quốc trong quá khứ.
Do đó, giới trẻ nên tỉnh thức để tránh lầm lạc của bậc cha ông. Đó là do khuấy động các ý thức hệ đối nghịch, hận thù lầm lạc và gian dối lẫn nhau mà Việt Nam đã có chiến tranh. Do bất tài, bất xứng và bội tình mà thế hệ cha ông đã không để lại được một non sông gấm vóc cho con cháu thừa hưởng; “Gia tài của mẹ, mộtnuớc Việt buồn“, nếu nói theo nhạc của Trịnh Công Sơn.
Từ tỉnh thức này mà giới trẻ sẽ lưu truyền các ký ức lịch sử và không để bị lôi cuốn vào những hận thù và chống đối nhau, mà cố gắng liên tục học hỏi để tìm cách chung sống với nhau trong tình hiếu hoà và nhất là sẽ có ý thức trách nhiệm nhiều hơn cho tương lai đất nước.
Thế hệ hậu chiến và tương lai 
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho thế hệ hậu chiến trưởng thành. Họ có trách nhiệm chính trị cho đất nước trong thời kỳ mới. Nhưng họ phải nghĩ gì và làm gì để canh tân đất nước và tìm lại độc lập cho dân tộc?
Nghĩ gì? Thách thức vô cùng to lớn khi thế hệ hậu chiến cần có nhiều ý thức và kinh nghiệm hơn để đảm nhiệm trọng trách này. Đó là vấn đề còn mở rộng để tranh luận, nhưng họ có bốn khó khăn chính.
Một là, họ không kế thừa một phương sách khả thi nào. Đảng đã không thể lý giải được cơ chế Kinh tế Thị trường và Nhà nước Pháp quyền theo định hướng XHCH là gì. Đảng cũng tự nhận là đã theo một đường lối không có cho đất nước. Vì nhận hư thành thực cho nên Đảng cũng không thể hoàn thiện đường lối này cho đến cuối thế kỷ XXI. Nhưng Đảng sẽ vượt qua các chống đối bằng cách dùng bạo lực đàn áp để duy trì chế độ, một bất hạnh cho toàn dân.
Hai là, họ không thể phát huy các kinh nghiệm cuả bậc cha ông. Các kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng Tám và Đại Thắng Mùa Xuân không còn phù hợp với trào lưu đấu tranh bất bạo động cho Việt Nam, mà đó là một giải pháp tương ứng khả thi. Thành quả cuả Cách Mạng Đông Âu, Đông Đức, Miến Điện và Muà Xuân Á Rập là những bài học mới thích hợp hơn, nhưng họ chưa thể huy động được dân chúng vì thái độ vô cảm chính trị của đa số.
Ba là, họ không thể hy vọng là được Đảng chuyển giao quyền lực cho dù họ có khả năng và tâm huyết, vì thân tộc của lãnh đạo còn vây quanh. Trong một xã hội thị trường đang thay đổi hỗn loạn, họ không thể tiên đoán được là đổi mới chính trị sẽ hình thành như thế nào. Tất cả đều tuỳ thuộc vào một số quan niệm về tương lai, những cách đánh giá khác nhau về ý nghĩa của xu hướng hiện nay và về các chuẩn mực để giải quyết các khác biệt, thí dụ như vi phạm nhân quyền và tự do báo chí.
Bốn là điều kiện ý thức về truyền thống lịch sử và chuyển hoá chính trị. Từ thắng lợi của việc cướp chính quyền mà Đảng tự hào về thành tích làm nên “Ý nghĩa Lịch sử” cho dân tộc. Nhưng ý nghĩa lịch sử này không phải là những gì đã được Đảng tuyên bố, mà giới trẻ cần khám phá lại. Nhu cầu giải ảo ngụy sử và niềm tin về tương lai dân chủ cần đến các điều kiện trí thức. Đó là kiến thức và ý thức về chính sử và dân chủ, để từ đó làm cơ sở cho tinh thần xây dựng. Kiến thức là khởi điểm cho ý thức và có kiến thức thì mới có ý thức để xây dựng một ý chí chung sống.
Tuy nhiên, thực tế bi quan hơn, vì sử học và kinh tế chính trị học không còn thu hút giới trẻ, một môn mà người học không muốn học và người dạy không muốn dạy. Sự tụt hậu là do một hệ thống giáo dục gian dối và ngụy sử làm mất niềm tin về giá trị cuả toàn xã hội qua nhiều thế hệ.
Ý thức về lịch sử và dân chủ do đào tạo mà ra, có tính thuần lý vì do lý trí hướng dẫn và được đãi lọc qua thời gian. Học chính sử giúp giới trẻ lý luận và phán đoán về sự thật của lịch sử. Ý thức về lịch sử sẽ tạo nên một thái độ chung đối với lịch sử, một khả năng để giải ảo, một loại trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và có tình cảm dân tộc.
Do đó, hy vọng còn lại là giới trẻ sẽ phát huy tinh thần tìm hiểu và mến yêu lịch sử và giá trị của dân chủ. Sự thật lịch sử sẽ là bước khởi đầu và giới trẻ phải tìm kiếm sự thật giữa dòng lịch sử. Giới trẻ có thể so sánh lịch sử tương lai như một dòng sông, nhưng các dòng nước sẽ luôn biến đổi mà họ đang khởi đầu bơi lội và cũng không biết đi về đâu, như một câu nói quen thuộc là “Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông“. Nhưng có ý thức lịch sử và dám dấn thân làm lại lịch sử cho dân tộc là một hy vọng khởi đầu.
Làm gì? Giới trẻ cần thảo luận để nhận ra điều kiện đem lại hoà bình và thịnh vượng cho đất nước. Mọi vấn đề hiện nay có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên. Nhưng sự hợp tác về một chính sách ngoại giao Trung-Việt ổn định và tương kính là khả thi, khi Việt Nam đủ khả năng chứng tỏ là một người bạn đối tác đích thực bình đẳng và không phải chỉ bằng ngôn ngữ bóng bẩy như hiện nay. Với nỗ lực của nhiều thế hệ, chúng ta hy vọng là Việt Nam sẽ đạt được một phần nào những mục tiêu này.
Việt Nam sẽ đi về đâu? Không ai biết rõ, nhưng chắc một điều là đất nước dù năng động đến đâu đi nữa, thì Đảng cũng sẽ không còn phép lạ khi Đảng không tự chuyển hoá. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưng cầu toàn đ canh tân đất nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hoá hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.

______________

Bài Đọc Quan Tâm

– 30.4.1975 – Ngày Tự Thú của csVN
– 30.4.1975 – Ngày Hận Thù của csVN
– VNCH – Sau 30 năm tị nạn csVN
– Danh Ngôn Chủ Nghĩa Cộng Sản
– 30 câu nói về Cộng Sản
– Chiến tranh nam bắc Mỹ
– Ngô Đình – Hiểm Họa Xâm Lăng
– Ngày Quốc Hận – 30.4.1975
– Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng
– Hồ Chí Minh – Tên Diệt Chủng thế kỷ 20
– TT Thiệu – Hòa bình của nấm mồ
– Quốc Ca – Cờ Vàng – Cờ Đỏ
– Quốc Hận – 30.4.75 Tại Sao ?
– Hòa Giải – Hòa Hợp – Dân Tộc
– Thanh Trừng – Nội Bộ Đảng csVN 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét