Ngay trước khi ký hiệp định Genève (20-7-1954), đảng Lao Động (LĐ) đã chủ trương tiếp tục chiến tranh để bành trướng thế lực.
Vì chủ trương nầy, đảng LĐ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) hay Bắc Việt Nam đã cầu viện Trung Quốc, Liên Xô và các nước cộng sản khác, nhằm bảo vệ hậu cứ Bắc Việt Nam và cung cấp võ khí tối tân để Bắc Việt Nam tấn công Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam. Ở thế yếu và để tự bảo vệ, Nam Việt Nam đành phải nhờ Hoa Kỳ và các nước đồng minh giúp đỡ nhằm chống lại cuộc xâm lăng của Bắc Việt Nam. Đó là lý do ở cả hai phía sự hiện diện của quân đội nước ngoài tại Việt Nam.
1.- Lực lượng Hoa Kỳ
Ngày 4-2-1950, Hoa Kỳ thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu. Military Assistance and Advisory Group-Indochina (MAAG-I) tức Đoàn Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ chính thức thành lập ngày 17-9-1950, nhằm mục đích cố vấn và huấn luyện quân đội Việt Miên Lào.
Trong chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai,(1) trước sự bành trướng của cộng sản, đại diện ba nước Australia, New Zealand, United States of Anmerica họp tại San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 1-9-1951, ký hiệp ước thành lập khối quân sự ANZUS, nhằm hợp tác phòng thủ nếu xảy ra các cuộc tấn công trên Thái Bình Dương được xem là ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh của mỗi nước và các nước khác trong khu vực. Khối ANZUS không lập lực lượng riêng, chỉ họp hằng năm cấp bộ trưởng ngoại giao để duyệt xét tình hình và họp bất thường khi một trong ba nước thành viên yêu cầu vì an ninh bị đe dọa.
Sau hiệp định Genève (20-7-1954), lo ngại sự bành trướng của cộng sản tại vùng Đông Nam Á, Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization viết tắt là SEATO), gồm các nước (theo thứ tự ABC) Australia (Úc), France (Pháp), New Zealand (Tân Tây Lan) Pakistan (Hồi Quốc), Philippines (Phi Luật Tân), Thailand (Thái Lan), United Kingdom (Anh), và United States of America (Hoa Kỳ).
Trong phụ bản của hiệp ước nầy, ba nước Cambodia (Cao Miên), Laos (Lào) và Việt Nam được liệt kê trong vùng lãnh thổ được bảo vệ. Hoa Kỳ dựa vào văn bản hiệp ước nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á.
Quân đội Mỹ trên chiến trường VN. Ảnh photo.com
Sau khi Pháp rút lui, Hoa Kỳ thiết lập đoàn MAAG-Việt Nam tháng 10-1955, để trực tiếp cố vấn và huấn luyện quân đội Việt Nam, nhằm xây dựng cho miền Nam Việt Nam một đội quân có thể tự bảo vệ an ninh lãnh thổ. Theo đà phát triển của quân đội VNCH, đoàn MAAG-Việt Nam được chuyển thành Military Assistance Command, Vietnam (MACV) tức Bộ Tư lệnh Quân viện Việt Nam ngày 8-2-1962. Nhân số MACV lúc đó khoảng 3,000 người.
Bộ Tư lệnh Quân viện Việt Nam (MACV) là bộ chỉ huy liên quân Mỹ tại Việt Nam, nằm dưới sự chỉ huy của Pacific Command (PACCOM) tức Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. Dưới quyền MACV là tất cả các lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, gồm có: Bộ chỉ huy Lục quân (United States Army Vietnam – USARV), Bộ tư lệnh Hải quân (Naval Forces Vietnam -NAVFORV), Không lực 7 (Seventh Air Force – 7AF), Lực lượng Thủy bộ số 3 (III Marine Amphibious Force – IIIMAF), Lực lượng Dã chiến số 1 (I Field Force, Vietnam – I FFV), Lực lượng Dã chiến số 2 (II Field Force, Vietnam – II FFV), Quân đoàn 24 (XXIV Corps), Lực lượng Đặc biệt số 5 (5th. Special Forces Group), Cơ quan Điều phối Dân sự vụ và Phát triển Nông thôn (Civil Operations and Rural Development Support – CORDS), Nhóm Nghiên cứu và Quan sát (Studies and Observations Group – SOG).(2)
Các Tư lệnh MACV là đại tướng Paul D. Harkins (từ tháng 2-1962), William C. Westmoreland (từ tháng 6-1964), Creighton W. Abrams (từ tháng 7-1968) và Frederick C. Weyand (từ tháng 6-1972). Vai trò của MACV càng ngày càng quan trọng khi Hoa Kỳ tung quân vào Việt Nam từ năm 1965.
Tháng 8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Nguyên vào ngày 2-8-1964, khu trục hạm Maddox (Hoa Kỳ) đang tuần tra trong hải phận quốc tế trong vịnh Bắc Việt ở ngoài khơi Thanh Hóa, thì bị ba ngư lôi đĩnh Bắc Việt tấn công. Theo các tài liệu cũ của Hoa Kỳ, hai ngày sau, chiều tối 4-8-1964 hai chiến hạm Maddox và Turney Joy bị tấn công lần nữa, trong khi thi hành nhiệm vụ trong hải phận quốc tế. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều tài liệu cho thấy lần tấn công thứ hai vào tối 4-8-1964 không có thật. (Đỗ Cẩm, <
http://www.vietnamnavy.com/vbviet1.html>) Ngày 7-8, theo yêu cầu của tổng thống Hoa Kỳ, Quốc hội Hoa Kỳ cho phép ông được sử dụng mọi biện pháp cần thiết để đánh trả, nghĩa là cho phép ông có thể đưa quân qua Việt Nam và mở rộng chiến tranh.
Trong thời gian thủ tướng Phan Huy Quát cầm quyền (từ 16-2-1965 đến 19-6-1965), những báo cáo của các giới chức Hoa Kỳ cho thấy tình hình quân sự VNCH càng ngày càng bi đát, nhất là báo cáo ngày 24-2-1965 của Cơ quan Trung ương tình báo (CIA), báo cáo vào đầu tháng 3 của tướng Westmoreland và báo cáo của cố vấn McGeorge Bundy sau khi từ Việt Nam trở về.(3) Bundy đề nghị thực hiện ngay kế hoạch “trả đũa liên tục” chống lại miền Bắc. Tổng thống Johnson liền quyết định mở chiến dịch oanh tạc thường xuyên Bắc Việt, đặt tên là Rolling Thunder, chính thức bắt đầu vào ngày 2-3-1965.
Do hoạt động của không quân Hoa Kỳ càng ngày càng gia tăng, phi trường Đà Nẵng được dùng làm nơi xuất phát các phản lực cơ bay đi oanh tạc Bắc Việt. Ngày 22-2-1965, tướng Westmoreland, tư lệnh MACV, yêu cầu tổng thống Johnson cho đổ bộ hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến (TQLC) Hoa Kỳ, nhằm bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Johnson đồng ý đề nghị nầy với điều kiện phải có sự ưng thuận của chính phủ Việt Nam.
Được lệnh của bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ngày 1-3-1965, đại sứ Taylor và phó đại sứ Alexis Johnson gặp thủ tướng Phan Huy Quát, đưa đề nghị về việc Hoa Kỳ gởi hai tiểu đoàn TQLC đến Đà Nẵng. Thủ tướng Quát chấp thuận. Ngày hôm sau, 2-3-1965, tướng Westmoreland gặp và thông báo cho các tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng trưởng Quân lực và Trần Văn Minh, tổng tư lệnh quân đội. Người Mỹ còn ra Đà Nẵng, gặp thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Quân đoàn I để thảo luận kế hoạch đổ bộ. Cần nhấn mạnh là quyết định tối quan trọng nầy chỉ được thỏa thuận bằng lời chứ không bằng văn bản, giữa các giới chức Hoa Kỳ với thủ tướng Phan Huy Quát và một số tướng lãnh Việt Nam chứ, không có ý kiến của Hội đồng chính phủ hay của HĐQL.
Cuối cùng, ngày 8-3-1965, tiểu đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ là đơn vị chiến đấu Mỹ đầu tiên đổ bộ vào bãi biển Nam Ô, phía bắc Đà Nẵng khoảng 10 cây số.(4) Các đơn vị còn lại đến Đà Nẵng bằng không vận. Việc người Mỹ bắt đầu đổ quân chiến đấu vào Việt Nam là một biến cố quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ tình hình Việt Nam.
Quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam từ tháng 4-1965 là 32,000 người. Cuối năm 1965, số quân nầy tăng thành 186,000. Cuối năm 1966 là 376,800 quân. Cuối năm 1967 lại tăng nữa: 486,000 quân.(5). Sau biến cố Mậu Thân vào đầu năm 1968, quân số Hoa Kỳ lên cao điểm là 536,100 người.(6) Sau đó, từ giữa năm 1969, tổng thống Richard Nixon thay đổi sách lược, rút quân dần dần theo kế hoạch mà người Mỹ gọi là “Việt Nam hóa” và dự tính sẽ còn 405,000 vào 1972.
Sau hiệp định Paris (27-1-1973), toàn bộ quân Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam, MACV bị giải thể ngày 29-3-1973. Cơ quan Defense Attach Office (DAO) tức Phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ được thành lập do thiếu tướng John Murray chỉ huy và trong năm sau (1974), thiếu tướng Homer Smith thay thế, cho đến tháng 4-1975. Số quân nhân Hoa Kỳ hy sinh tại chiến trường Việt Nam lên khoảng 58, 217 người và 19 dân sự; 153,452 bị thương và 1,740 người mất tích.(7)
Cần chú ý, chính phủ các nước trên thế giới đều chỉ lo phục vụ quyền lợi nước họ, nên khi quyết định giúp đỡ một nước khác, cũng chỉ vì quyền lợi gần hay xa của nước họ. Người Hoa Kỳ rất thực dụng. Do đó, chính phủ Hoa Kỳ quyết định can thiệp vào Việt Nam vì chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ chứ không phải chỉ vì giúp đỡ VNCH. Khi đến vì quyền lợi, thì cũng vì quyền lợi người Hoa Kỳ ra đi, sẵn sàng bỏ rơi VNCH khi cần.
2.- Lực lượng các nước trong khối tự do tham chiến
Hoa Kỳ là thành viên của khối ANZUS và tổ chức SEATO, nên Hoa Kỳ kêu gọi, thúc đẩy các nước đồng minh Đông Á giúp đỡ Việt Nam. Lúc đầu là những toán chuyên viên dân sự. Dần dần nhiều nước gởi quân chiến đấu đến giúp VNCH.
Năm 1962, Australia (Úc) gởi qua Việt Nam một biệt đội cố vấn chiến tranh rừng rậm khoảng 30 người. Số quân Úc tăng dần lên đến 7,672 năm 1969 và từ năm 1970 giảm xuống trở lại (6,763 quân).(8) Khi rút hết quân về nước tháng 12-1972, Úc chỉ để lại một trung đội bảo vệ sứ quán Úc tại Sài Gòn. Số quân Úc tử trận tại Việt Nam là 521 người. (9)
New Zealand (Tân Tây Lan) gởi quân giúp Việt Nam từ tháng 6-1964 đến tháng 12-1972. Đầu tiên là một toán cố vấn 30 người năm 1964 tăng dần theo từng năm. Số quân New Zealand cao nhất vào năm 1970 là 441 người.(10) Tổng số quân tử trận tại Việt Nam là 36 người.(11)
Năm 1964, Republic of Korea (South Korea) tức Cộng Hòa Đại Hàn (hay Nam Hàn) gởi sang Việt Nam 200 quân, nhưng ngay từ năm sau (1965), quân Đại Hàn tăng lên 20,620 người, rồi lại tăng thành 45,566 quân năm 1966. Cao điểm vào năm 1969, quân Đại Hàn hiện diện ở Việt Nam là 48, 869 người. Sau đó quân số giảm dần cho đến khi rút lui đầu năm 1973. Quân Đại Hàn đóng giữ các tỉnh duyên hải từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận. Các dơn vị nổi tiếng là Sư đoàn Mãnh Hổ (bản doanh ở Bình Định), Lữ đoàn Thủy quân lục chiến Thanh Long (bản doanh ở Cam Ranh) và sư đoàn Bạch Mã (bản doanh ở Tuy Hòa). Số quân tử trận khoảng 5,099, bị thương 11,232 và mất tích 4.(12)
Ngày 29-9-1964, 16 quân nhân viên Không lực Thái Lan đến Sài Gòn để giúp Không quân Việt Nam. Dần dần quân Thái Lan lên đến 6 tiểu đoàn với 11,586 quân năm 1970, đóng bản doanh trong vùng tỉnh Biên Hòa. Thái Lan bắt đầu rút quân từ tháng 3-1971 và chấm dứt giữa năm 1972.(13a) Thái Lan mất 351 quân nhân và bị thương 1,358 người.
Nước Philippines gởi Đoàn Công tác Dân vụ (Civic Action Group) qua giúp VNCH từ năm 1964. Cao điểm năm 1967, quân Philippines lên đến 534 người. Sau đó giảm xuống dần dần và chỉ còn 74 người năm 1970. Quân Philippines đảm trách các công tác dân vụ như y tế, làm đường sá, xây cầu cống, dựng nhà giúp dân tái định cư tại các tỉnh Hậu Nghĩa, Bình Dương và Tây Ninh.(13b) Số thiệt hại quân nhân Phi Luật Tân không đáng kể, 7 người chết, 2 người bị thương.
Ngoài ra, còn hai nước chỉ gởi chuyên viên kỹ thuật và y tế sang giúp VNCH là Trung Hoa Dân Quốc (Republic of China) và Tây Ban Nha (Spain). Trung Hoa Dân Quốc tức Đài Loan (Taiwan) gởi 20 người năm 1964 và 31 người năm 1970. Tây Ban Nha gởi 13 chuyên viên năm 1966 và chỉ còn 7 người năm 1970.(14)
Diễn biến quân số đồng minh tự do (14)
QUỐC GIA 1964 1965 1966 1967 1968 1969 1970
Australia 200 1,557 4,525 6,818 7,661 7,672 6,763
New Zealand 30 119 155 534 516 552 441
Republic of Korea 200 20,620 45,566 47,829 50,003 48,869 48,537
Thái Lan 16 244 2,205 6,005 1 1,568 11,586
Philippines 17 72 2,061 2,020 1,576 189 74
Republic of China 20 20 23 31 29 29 31
Tây Ban Nha 13 13 12 10 07
3.-Lực lượng các nước Cộng sản tham chiến
Quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh trong khối Tự do đến giúp VNCH (Nam Việt Nam) có tính cách công khai, nên chẳng những người Việt Nam biết, mà cả thế giới đều biết. Ngược lại, lực lượng các nước trong khối Cộng sản đến giúp VNDCCH (Bắc Việt Nam) hết sức bí mật và được giấu kín trong thời gian chiến tranh. Sau năm 1975, tin tức dần dần mới được tiết lộ.
Để chuẩn bị chiến tranh, đầu tháng 7-1959 Hồ Chí Minh qua Moscow đề nghị Liên Xô yểm trợ Bắc Việt Nam trong cuộc chiến mà đảng LĐ đang sửa soạn tấn công miền Nam Việt Nam, nhưng Liên Xô khuyên Hồ Chí Minh nên tiếp tục mưu tìm sự thống nhất trong hòa bình.(15)
Vào lúc nầy, Nikita Khrushchev đang cầm quyền ở Liên Xô từ năm 1953. Năm 1956, trong Đại hội đảng lần thứ 20 đảng Cộng Sản Liên Xô (CSLX) tháng 2-1956, ông đưa ra chủ trương “chung sống hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị.
Một thành tựu quân sự quan trọng của LX dưới thời Khrushchev là Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh Sputnik lên quỹ đạo ngày 4-10-1957, mở đầu kỷ nguyên chinh phục không gian. Sau những cuộc thương lượng kéo dài, ngày 5-8-1963, ngoại trưởng Liên Xô (Andrei Gromyko), ngoại trưởng Anh Quốc (Alec Douglas Home) và ngoại trưởng Hoa Kỳ (Dean Rusk) ký thỏa hiệp giới hạn thử nghiệm bom nguyên tử trên khí quyển và ngoài biển khơi, chỉ được thử nghiệm trên đất liền. Thỏa hiệp nầy chính thức có hiêu lực từ ngày 10-10-1963.
Khi Leonid Brezhnev lên làm thư ký thứ nhất đảng CSLX thay Nikita Khrushchev vào tháng 10-1964, thì LX thay đổi thái đô, viện trợ và gởi người sang giúp Bắc Việt Nam. Quân đội Liên Xô đến Bắc Việt khoảng 3,000 người, thuộc Phòng Tùy viên Quân sự Tòa đại sứ Liên Xô tại Hà Nội, đều là những chuyên viên không quân, kỹ thuật phòng không và hỏa tiễn (Bắc Việt gọi là tên lửa). Nhiệm vụ của chuyên viên LX là huấn luyện lắp ráp tại chỗ các loại máy bay chiến đấu MIG-21 và SU, huấn luyện phi công Bắc Việt lái máy bay, lắp ráp các bệ phóng hỏa tiễn và điều khiển hỏa tiễn. Ngoài ra còn có một số chuyên gia về hải quân và các binh chủng khác.
Khi phục vụ tại Bắc Việt, các quân nhân LX đều dùng thường phục, chỉ trong những buổi lễ mới dùng quân phục, sinh sống tập trung nhiều nhất ở trong một số khu vực ở Hà Nội và ở các phi trường lớn có trang bị hỏa tiễn phòng không tại Bắc Việt.(16)
Nước cộng sản lớn thứ hai đưa quân vào Bắc Việt Nam là Trung Quốc (TQ). Bắc Việt Nam nằm sát phía nam TQ. Ngày 4-9-1958, Quốc Vụ Viện TQ ra nghị quyết về ranh giới biển của TQ là 12 hải lý kể từ bờ biển, áp dụng cho toàn thể lãnh thổ TQ, bao gồm các hải đảo, trong đó có cả Hoàng Sa và Trường Sa. Để lấy lòng TQ, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng LĐ, ký quốc thư ngày 14-9-1958, tán thành quyết định trên của TQ ngày 4-9-1958, nghĩa là mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Cần chú ý thêm TQ đã thử nghiệm thành công quả bom nguyên tử đầu tiên ngày 16-10-1964, phóng hỏa tiễn nguyên tử đầu tiên ngày 25-10-1966 và thử nghiệm quả bom khinh khí đầu tiên ngày 14-6-1967.(17) Sự thành công nầy làm tăng giá trị vị thế của TQ trong bang giao quốc tế.
Trước đây, chỉ có Liên Xô là nước cộng sản duy nhất thủ đắc bom nguyên tử, có thể đối trọng với Hoa Kỳ. Nay Trung Quốc cũng có bom nguyên tử nên càng làm cho Bắc Việt tin tưởng thêm hơn trong cuộc đối đầu với Hoa Kỳ. Mối bang giao Liên Xô-Trung Quốc rạn nứt từ khi Nikita Khrushchev chủ trương “sống chung hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị. Nay có bom nguyên tử, TQ càng tỏ ra khiêu khích đối với Liên Xô. Riêng Hoa Kỳ, sau khi TQ nắm được bom nguyên tử, Hoa Kỳ cũng phải tính toán lại sách lược bang giao đối với Trung Quốc, tạo nhiều hệ lụy trong chiến tranh Việt Nam.
Trong khi đó, vào đầu tháng 8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Quốc hội Hoa Kỳ liền đưa ra “Quyết nghị vịnh Bắc Việt” (Gulf of Tonkin Resolution) ngày 7-8-1964, cho phép tổng thống Hoa Kỳ thi hành các biện pháp cần thiết, kể cả việc dùng võ lực, để đối phó với tình hình tại Đông Nam Á. Trung Quốc tỏ ra quan ngại, cho rằng chẳng những Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt mà Hoa Kỳ sẽ có thể giúp Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đổ bộ lục địa Trung Quốc. Một mặt, Trung Quốc tái bố trí lực lượng nội địa để phòng thủ, một mặt Trung Quốc tăng cường giúp đỡ VNDCCH nhằm chống lại Hoa Kỳ. (18)
Các lãnh tụ Bắc Việt là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng liên tục qua Trung Quốc hội họp và thương lượng với các lãnh tụ Trung Quốc. Ngoài việc gởi quân viện, từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt Nam 320,000 quân, trú đóng ở các tỉnh và thành phố phía bắc Hà Nội, điều khiển các súng phòng không, sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, xây dựng các hãng xưởng, bảo vệ các tỉnh phía bắc nhằm giúp Bắc Việt kéo hết quân xuống tấn công miền Nam. Khi Trung Quốc rút quân về nước vào tháng 8-1973 (7 tháng sau hiệp định Paris), tổng số lính Trung Quốc thiệt mạng tại Việt Nam là 1,100 người và bị thương là 4,200 người.(19)
Cuối năm 1966, Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên (Bắc Hàn) gởi hai trung đoàn pháo binh phòng không và hai phi đội sang Bắc Việt Nam giúp bảo vệ Hà Nội. Kim Nhật Thành đã nói với các phi công Bắc Hàn là hãy chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt giống như tại Triều Tiên. Khi rút về vào 1972, Bắc Hàn để lại khoảng vài chục quân nhân bị giết trong các cuộc dội bom của phi cơ Hoa Kỳ.(20)
Ngoài ra, Cuba, một nước ở Trung Mỹ theo cộng sản, cũng gởi người đến giúp Bắc Việt, qua hình thức dân sự thuộc Tòa đại sứ Cuba ở Hà Nội. Đó là những chuyên viên phụ trách khai thác tù binh Hoa Kỳ bị Bắc Việt bắt được. Đa số quân nhân Hoa Kỳ bị bắt là phi công. Theo lời kể của những tù binh Hoa Kỳ còn sống sót và trở về Hoa Kỳ sau hiệp định Paris năm 1973, các chuyên viên Cuba tra tấn một cách tàn nhẫn và có khi đánh đập đến chết một số tù binh Hoa Kỳ.(21)
Kết luận
Sau khi đất nước bị chia hai, miền Nam Việt Nam muốn sống yên ổn, hòa bình để phát triển kinh tế, nhưng lại bị Bắc Việt Nam khiêu khích và tấn công vì cho rằng miền Nam Việt Nam không thi hành việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo hiệp định Genève (20-7-1954). Lý do nầy hoàn toàn không hợp lý vì hiệp định Genève chỉ là một hiệp ước đình chỉ chiến sự, không nói gì đến giải pháp chính trị. Việc dự tính tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước chỉ được đề cập đến trong điều 7 bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của các nước tham dự hội nghị nên không có giá trị cưỡng hành.
Quân đội các nước cộng sản kín đáo đến giúp Bắc Việt Nam, được ngụy trang dưới hình thức chuyên viên kỹ thuật dân sự. Truyền thông Bắc Việt hoàn toàn do nhà nước kiểm soát, nên không đưa tin về việc nầy. Bắc Việt bưng bít tin tức rất kỹ, thế giới hoàn toàn không hay biết về sự hiện diện của quân đội các nước cộng sản tại Bắc Việt.
Trong khi đó, Hoa Kỳ cùng đồng minh công khai đổ quân ồ ạt vào Nam Việt Nam. Cộng sản Bắc Việt lợi dụng sự hiện diện công khai của quân nhân nước ngoài tại miền Nam Việt Nam để tuyên truyền chống VNCH và chống “đế quốc xâm lược Mỹ”, chẳng những trong dân chúng Việt Nam ở cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam, mà cả trưóc dư luận thế giới.
Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh vào miền Nam Việt Nam khá nhanh từ năm 1965 và cũng rút nhanh vào đầu thập niên 70. Tuy vậy, quân đội VNCH vẫn một mình chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam, và chỉ phải buông súng vì thiếu đạn dược do Hoa Kỳ cắt quân viện, trong khi Bắc Việt Nam được toàn khối cộng sản yểm trợ mạnh mẽ cho đến khi thành công năm 1975. (Trích Việt sử đại cương tập 6.)
© Trần Gia Phụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét