Thứ Tư, 28 tháng 8, 2019

TẬN THẾ VÀ HỘI LONG HOA



Thứ Tư, 28 tháng 8, 2019


TẬN THẾ VÀ HỘI LONG HOA


 Image result for www. Long Hoa Há»™i Image result for www. Long Hoa Há»™i
Định nghĩa chữ Long Hoa. Nhiều bậc tín tâm tu Phật đang trông đợi Đức Di Lạc ra đời, khai mở Long Hoa vậy Long Hoa là gì?

Tôi nghe Ngài khai thị như vầy:

– Long nghĩa là Rồng. Theo truyền thuyết cổ xưa dân tộc Việt Nam là con Rồng Cháu Tiên.
– Hoa nghĩa là Hoa Pháp Tánh.

Hoa Pháp Tánh chung gồm tất cả tánh tốt, tánh xấu, gọi là chủng tánh chúng sanh. Chủng tánh chúng sanh vốn lầm mê trong sanh tử luân hồi. Có hoa pháp tánh nên bậc tín tâm mới tự nguyện độ chúng sanh và Chư Phật ra đời cứu độ. Bậc tu không tự độ hoa pháp tánh dù Phật có ra đời chăng cũng không độ được.

Chư Tổ cho đắp tượng Phật, tướng Phật ngồi trên tòa sen, tiêu biểu ngự trị hoa pháp tánh. Tỷ như khi có hoàn cảnh, tánh sân hận nổi lên, bậc tu cần nhẫn nhục, nhẫn nhịn hay nhẫn nại có kết quả, điều ngự được tánh sân hận. Tất cả các tánh khác như lo âu, sầu khổ, ngang tàng... đều kềm giữ êm đẹp gọi là Điều Ngự Trượng Phu. Trượng phu là tầng số cao hơn con người.

Hoa Pháp Tánh diễn hành, biến hóa thành pháp giới cá nhân, ôm giữ pháp giới làm lẽ sống khiến cho tất cả đều mê lầm. Hoa pháp tánh lui tới nơi con người do phổ chiếu từ vũ trụ, nên con người chạy theo diễn cảnh đúng sai, sai đúng. Vũ trụ và con người chạy theo nhau như một vòng tròn gọi là bánh xe luân hồi.

Vì không rõ được đường đi của luân hồi nên tất cả bậc tu bị sai biệt, sinh ra thực hiện từ bi, bác ái nhưng trí tuệ chưa có, cuối cùng lãnh phước thiện. Còn con đường đi đến Tri Kiến Giải Thoát là thế nào lại không nắm vững.

Vậy Long Hoa có nghĩa là Đức Di Lạc ra đời tại Việt Nam, khai đạo cho tất cả chân tử tín tâm, giải sạch hoa pháp tánh, tu hành đoạt được tri kiến giải thoát, không còn sanh tử luân hồi.

Khoa học càng tiến bộ, xã hội càng văn minh, bậc tu hành không kiềm chế được sẽ trở thành bị nhiều mong muốn về dục vọng: gọi là sắc, thinh, hương, vị cứ thế mãi tu cầu. Thời này, khi nghe nói tu điều ngự, hóa giải hoa pháp tánh, lắm bậc không tin pháp môn mới lạ này, họ nổi giận, đánh đổ trở thành an trụ nơi hoa pháp. Đa phần chỉ thích nghiên cứu, học kinh, ăn chay, mặc y áo giống Phật thì cho là Chánh Đạo, còn ngồi nhắm mắt lim dim cho là chân tu.

Khó khăn lắm mới có bậc chịu tu theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà không nhiễm. Hoa pháp đáp ứng cho tất cả tứ loài như ý muốn, trở thành hoa pháp giới còn gọi là pháp giới. Hoa pháp giới linh động, vi tế đến nỗi Phật còn phải lầm mà bị trụ chứng nơi Phật Giới còn gọi là Bích Chi Phật, Độc Giác Phật. Bậc tu cầu giác ngộ phải thực hiện thường soi nơi tánh mình, thấy-biết rõ tánh mình thay đổi có tham vọng, thích vọng mà cải thiện gọi là sửa tánh. Bậc tu không chịu sửa tánh, ắt bị thọ nghiệp nơi hoa pháp phải chịu vướng trong sanh tử.

Đức Di Lạc khai mở Long Hoa hàng ngày cho chân tử tìm đến xin tu học, còn Bên ngoài pháp bảo, Ngài cho treo một cái bảng chiều rộng 1m và chiều dài 4m có ghi:

PHÁP TẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRUNG ƯƠNG HỘI THƯỢNG




Biết bao Tăng Ni qua lại trên đường Hồng Bàng ở thành phố Nha Trang này nhưng không có một vị nào hỏi hay tìm hiểu. Trung Ương hội tại sao còn chữ “Thượng” là gì? Nếu chú tâm tìm hiểu liền biết đó là dấu hiệu Đức Di Lạc đã ra đời!

Ý Ngài muốn nhắc nhở thế gian: Thượng có nghĩa Thượng Ngươn, Thượng Kiếp. Bảng được cho phép treo từ năm 1972 nhưng đến năm 1975 bị lao đao. Cho đến năm 1982 thì bị nhà nước Cộng Sản dẹp bỏ.

Năm 1972, khi treo bảng, Ngài cũng làm lễ treo lá cờ Pháp Tạng đầu tiên. Điều mầu nhiệm liền ngay sau đó, trên không trung hiện ra một lá cờ đủ màu sắc giống y như một lá cờ Pháp Tạng mà Ngài đang treo nhưng rất to lớn, bao trùm khắp bầu trời. Đó là dấu hiệu Chư Thiên, Thần hoan hỷ.

Lá cờ Pháp Tạng gồm ba phần: Phật–Tăng–Pháp, biện minh Đại diện Tam Thế, nếu bậc Trí nhìn lá cờ cũng biết Phật ra đời.

flag_r
  Phật ι Tăng ι Pháp









lotusbull Mục đích của Long Hoa. Chủ đích của Long Hoa chính là pháp môn giải thoát để cứu nhân loài thoát sanh tử luân hồi, y tôn chỉ Tam Thế Phật: Quá khứ, hiện tại, vị lai.
Pháp môn giải thoát là một pháp môn tu nơi Nghe Thấy Biết, tức là vạn pháp không vướng mắc. Từ hoàn cảnh trong Đạo tràng khúc mắc, cho đến ngoài thế gian: bà con gia đình, bạn thân hoặc sơ, người trên kẻ dưới, va chạm nhau trở thành diễn cảnh thuận và nghịch. Bậc tu nương nhờ hỷ xả tâm, có công năng kiến tạo không bị vướng mắc sẽ sống động hơn bậc nhắm mắt lim dim, ngồi chỗ vắng tránh né vạn pháp để tận diệt, đặng không va chạm vướng mắc.

Có trí tuệ hóa giải nghi chấp, hóa giải bờ ngăn bằng con đường nhẫn nhục, nhẫn nhịn, nhẫn nại, tiếp đến vận chuyển bờ ngăn gọi là trí tuệ cứu cánh mới mong giải thoát. Bậc tu không dùng trí tuệ hóa giải, chỉ an trụ từ bi, bác ái, ai giết mình cũng được gọi là Thánh Hiền nhưng không thực hiện tận độ chúng sinh được. Bậc tu chưa có trí tuệ cứu cánh, chỉ thực hiện từ bi, bác ái dù có thần thông vẫn còn kẹt nơi hoa pháp cố thủ không giải thoát được, cao nhất được về Cõi Trời chứ không thoát ra ngoài vũ trụ được. Bậc kiến tánh, không cần sắc tướng vẫn thấy biết, nhờ thường tánh sáng soi nơi không tướng vẫn thấy. Tư tưởng chứa nhóm sanh tánh, vọng đảo tham muốn sanh tánh. Có cảnh tánh liền sanh bởi tự ngã sanh tánh. Tánh đã sanh liền lại diệt nên chi có rất nhiều tánh sanh diệt, diệt sanh gọi là sanh tử luân hồi.

Bậc tín tâm cầu đạo cần lý kinh và sự hóa giải tánh phải đồng song. Đức và trí đồng song, bất tăng bất giảm mà triệt thấu, viên đạt giải giới hoa pháp. Rất nhiều bậc tu hành bị vướng vào không chấp, bị chấp không, vẫn là hoa Pháp Giới Không. Thật tai hại. Chỉ cần một sơ ý sai lạc phải chịu nằm trong ĐÀI HOA PHÁP GIỚI vô số kiếp. Do đó hàng hàng lớp lớp bậc tu an trụ nơi Đài Hoa Pháp Giới sinh ra Tam Thiên Đại Thiên Thế giới, cho đến ba cõi sáu đường. Bồ Tát nguyện là bậc nương vạn hạnh lìa hẳn chướng đối, hòa mình nương nơi thuận nghịch chứ đừng diệt nghịch pháp. Tâm không quái ngại nhiếp độ lục đạo pháp giới, thâm nhập pháp giới mới tỏ ngộ mà tận giác tướng, thoát khỏi đài hoa pháp giới, Đạt được Vô Thượng Đẳng Chánh Giác.

Thời Mạt Pháp, tất cả các pháp nơi nào cũng tận. Ngài biết rất khó đắp xây vì bậc tu Phật không quan tâm đến Hoa Pháp Giới. Khi nghe giải thích về Long Hoa như vậy, nhiều bậc tu không cầu giác ngộ, vốn thường trụ, thường chấp, thường bảo thủ cá nhân, thương ghét không chừng và tu theo chí hướng qui định, lòng vẫn tin Phật, nhưng tu chỉ trông chờ siêu hình cùng sự kỳ lạ, liền không thấy có gì hợp ý. Nó cũng không theo ý nghĩ lâu nay của các bậc tu này, với ảo tưởng kỳ lạ nơi cơ đàn ghi bút: như núi Thất Sơn nổ, trời đất tối đen bảy ngày bảy đêm. Sau đó Đức Di Lạc từ trong núi đi ra hào quang sáng chiếu...

Còn Tiên Thần Trí đức tánh suy tưởng, dụng Thiền, định tưởng, chọn lọc các pháp thanh cao, đẹp đẽ, bỏ và thanh lọc pháp thô, xấu, dơ. Sau đó nhiếp thu tu luyện nên chưa rõ Long Hoa ra đời, núi Thất Sơn nổ như thế nào.

Một hôm Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc khai thị, tôi nghe như vầy: Ví như thân Tôi, không từ bà mẹ sanh ra, lại do núi Thất Sơn nổ sanh ra, Tôi từ trong núi đi ra, hào quang sáng chói, thì chắc thiên hạ họ sẽ ùn ùn kéo nhau đi đến xem. Lúc đó, ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi, mỗi mỗi cử động, họ đều theo hiếu kỳ mà bám sát, chắc Tôi cũng chết sớm chớ sống sao nổi để khai mở Long Hoa. Ngài ghi bút nhắc nhở:

"Thượng Sanh Đâu Suất Môn,
Hạ Lai Vô Thượng Tôn.
" –T.V.

Qúi thay! Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khéo biết, khéo tường tận chốn Hạ Lai Đồng Độ. Ngài đã thọ ký Đức Di Lạc từ Cung Trời Đâu Suất, hạ sanh nơi thế giới Ta Bà này, hạnh nguyện tu hành nhiếp độ các hàng Tiên Thần, tận độ chúng sanh thành Phật Quả. Cho nên những bậc tín tâm có Đại Duyên Lành, không chướng đối, không chấp, được gặp Long Hoa ra đời tại tỉnh Khánh Hòa này. Còn những bậc quan niệm cho rằng Tu hành sao không ăn chay, sao không cạo đầu, sao lại có gia đình vợ chồng, con cái nặng nghiệp quá, lại vì họ không nhận Nghe-Thấy-Biết là vạn pháp nên chê trách, cho là tà đạo, bỏ đi không vào tu hành theo Long Hoa được.

Ngày nay, nói đến Phật Giáo, là một tôn giáo mà cả thế giới này đều biết, nó đã đi vào lịch sử của nhân loại, nhưng những ai thiết tha cầu con đường giác ngộ, thật khó tìm bậc đạo sư làm thỏa nguyện. Đức Tịnh Vương Nhất Tôn hóa thân Đức Di Lạc Hạ Lai lần này, đã lưu lại cho hiện tại và hậu thế một pháp môn tu hành, ngay trong gia đình, ngay chốn cơ quan làm việc mà vẫn được giác ngộ. Một Pháp môn giác ngộ hiện đại nó là niềm tin tự hào cho bất cứ chúng sinh nào muốn cầu Tri Kiến Giải Thoát trong hiện kiếp. Đường lối tu này tuy mới lạ nhưng thực sự đã y tôn chỉ thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức A Di Đà Phật, Đức Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cùng Chư Phật mười phương hộ trì.

Những hình thức nghi lễ rườm rà được Ngài bãi bỏ. Lễ nhập đạo, cùng những ngày Đại lễ khác cũng tổ chức đơn giản nhưng đầy tôn nghiêm, trịnh trọng, không có một giáo điều mê tín. Sự tu hành hàng ngày của chân tử được khai thị rõ ràng, minh bạch, cốt yếu cho bậc tu nhận lãnh được rồi thực hành, áp dụng tu thực tiễn trong đời sống thường ngày, hưởng kết quả không còn đau khổ trong hiện tại.

Một hôm, Ngài hỏi một Hòa Thượng tu ở chùa đến viếng thăm Ngài, Ngài hỏi:

- Hòa Thượng tu được bao lâu?

- Con tu được 47 năm.
 

- Hàng ngày Hòa Thượng tu gì?
 

- Sáng, tối con tụng kinh, ăn trường chay, học tất cả các loại kinh của Phật.
 

- Phải sửa tánh, giải đố tật xấu, hỷ xả để tạo Đạo Đức. Tụng kinh phải hiểu nghĩa kinh thuộc về giáo lý. Cần Thiền Định để Trực Giác. Nói chung ba môn 
Đạo Đức + Giáo lý + Tọa Thiền phát triển đồng đều vào đời sống thực tiễn của con người sẽ không còn là một mối nguy hiểm đối với bản thân, gia đình, tu như vậy được giác ngộ.

Hòa Thượng nhận lãnh được và công nhận pháp môn này tu được giác ngộ. Trên đường về lại chùa, Hòa Thượng sơ ý bước một chân sụp vào lỗ chân trâu trên đám ruộng bị trật chân, phải lết về đến chùa, cả tháng mới hết đau. Sau đó, cứ mỗi lần muốn đến viếng Đức Ngài, ở chùa Hòa Thượng đều có xảy ra chuyện bất ổn, ồn, cản trở không đi được.

Quan niệm của một chúng sinh trong tứ loài, qua tư tưởng, lời nói, hành động nhiều đời kiếp sẽ quyết định cuộc đời của chúng sinh đó trong hiện tại, tương lai và tái sinh. Quan niệm cố định Phật gọi là NGHIỆP, tất cả chúng sinh không thoát khỏi nghiệp lực này. Nó quyết định số phận của chúng sanh không chỉ ngay hiện tại mà còn hiện rõ trong những hoàn cảnh thích hợp về sau nữa. Nếu quyết tâm bền chí, chúng sinh nhờ công năng công đức trong hiện kiếp có thể tự hóa giải, thoát nghiệp được.

Thời Hạ Lai lạc pháp có lắm pháp đến tận cùng. Ví như có một thầy giáo quen nghề cầm bút và đứng trên bục giảng, nếu bị bắt đi làm ruộng thà chết chứ không chịu. Quan niệm sống thường ngày ăn sâu vào tư tưởng đến lời nói, cuối cùng là hành động quen dần, nếu bị đổi thay khác giới sẽ không chịu nổi. Bậc tu gặp phải hoàn cảnh dù tại gia hay xuất gia, nếu có chí dũng đều được giải thoát nghiệp lực. Hàng Bồ Tát Nguyện, gặp hoàn cảnh như vậy cũng vui lòng ghi nhận, tâm không hờn oán, lại chú tâm tìm cách hóa giải. Trái lại, chúng sinh chỉ than thở hoặc sầu khổ.

Ví như con cá quen sống ở ao tù nước đọng, nếu bắt đem nó ra mương nước rộng hơn, trong trẻo hơn, nó hoảng hốt chạy trốn và lủi dưới bùn. Dần dần nó quen lối sống, mới dám bơi lội tự nhiên. Nếu đem con cá ở mương nước ra sông rộng rãi hơn, nước chảy siết hơn, nó cũng hốt hoảng chạy trốn. Dần dần nó quen lối sống, mới dám bơi lội tự nhiên. Nếu đem con cá ở sông ra nước hai giòng ngọt và mặn ở cửa biển, nó cũng hoảng sợ và liền quay đầu tìm về chốn cũ, sau quen dần nó mới ra vào biển cả rộng mênh mông, tha hồ đi lại.

Bậc tu cũng vậy, quan niệm theo môi trường sống của mình bị thay đổi thì thà chết chớ không chịu nghe, hoặc không chịu tìm hiểu, sẽ không bao giờ gặp Phật hay Bồ Tát ra đời để được cứu độ. Dù chư vị Thiện Trí Thức này có ở ngay bên cạnh các cũng đành chịu. Đương thời, Đức Tịnh Vương ra đời thường nhắn nhủ cho chân tử ý thức câu: Phật bất hóa độ Vô Duyên, bất hóa độ Định Nghiệp.
Bậc tu quan niệm con đường mình đang đi là đúng, dù có Chư Phật cũng không giải cái định kiến này, chỉ trừ bậc đó họ tự hồi hướng, tự tìm hiểu và tự nhận định. Bậc cầu giác ngộ luôn nương tựa Chư Bồ Tát nếu không có đại duyên gặp Phật. Cần vào giới, ra giới, dung thông không dừng trụ, không chấp mới mong tu theo con đường Tri Kiến Giải Thoát được.

Nghiệp bao phủ chúng sinh trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Tu hành muốn tiến bộ hơn hiện tại, tức thì có sự cản ngăn của nghiệp chướng. Nó vô tướng nhưng đầy quyền lực. Phải tu trong Phổ Môn Phẩm và chí bền mới vượt khỏi nghiệp lực được. Bậc Thánh nó cản ngăn không cho đến Bồ Tát, Bậc Bồ Tát nó cản ngăn không cho đến Phật. Chính mình mới thắng được nghiệp lực của mình. Thời nào cũng vậy, do Nghiệp Lực mà chúng sinh không gặp được Phật.

Nếu tin rằng chúng sinh được sinh ra, do một Đấng Toàn Năng, có quyền quyết định cả số phận của tất cả mà không một chúng sinh nào thay đổi được nghiệp lực của mình, điều đó là trái ngược lời chỉ dạy của Chư Phật.

Chư Phật hướng đạo, còn chính chúng sinh quyết định đường tu hành của mình: Giác ngộ hay mê lầm, hạnh phúc hay đau khổ, do sự khác biệt giữa cái Nghiệp của mỗi chúng sinh nên mới có sự khác nhau: Chúng sanh gặp chúng sanh không gặp được Chư Phật là như thế.

Còn kinh sấm của Chư vị Tiên Thần ghi:

"Mở cuộc Long Hoa chiêu Thánh Đức
Hưng truyền chơn lý phước cao phong"


Kinh sấm này ghi đúng thời gian Đức Di Lạc đang khai đạo cho tứ chúng tìm đến tu theo Ngài. Vào khoảng năm 1990 dương lịch, tôi gởi cho một vị tu ở Tòa Thánh Tây Ninh quyển kinh “Biệt Tôn Vô Thượng Đẳng” tập I của Đức Tịnh Vương nhập Chánh Định viết ra. Sau ngày lễ mùng một hàng tháng, cơ đàn Tòa Thánh Tây Ninh biết được chính Đức Di Lạc Hạ Lai nhưng mang tên Tịnh Vương, hiện đang dạy đạo ở Nha Trang. Tòa Thánh liền xin Thỉnh Ngài, nhưng thời điểm này Ngài không đủ nhân duyên hiện thân, Ngài có hẹn một cơ hội khác, khi ra đời sẽ cho nhân sinh biết để viếng thăm Ngài.

Sau đó, cơ bút Tòa Thánh Tây Ninh bảo “Hàng Tiên Thần như các con chưa gặp được Ngài lúc này, chỉ hàng Bồ Tát, Tôn Giả mới gần bên Ngài lúc ẩn này thôi. Các con phải đợi gặp sau.” Tòa Thánh xin mời tôi, nhưng tôi cũng không đến được mà phải chờ lúc thuận tiện.

Kinh sấm còn ghi:

Rán tu gặp Hội Long Hoa
Trễ rồi một kiếp đọa sa muôn đời.
Dầu cho vật đổi sao dời
Tu hành cũng được Phật Trời chở che.


Chúng sanh gặp hoàn cảnh khổ, tu rất đông ở chùa khắp nơi, nhưng kinh sách của Ngài rất ít người đọc được dù Ngài đã viết và ấn hành nhiều. Có người gặp được kinh của Ngài, cầm lên đọc, tức thì buồn ngủ hoặc có việc này việc nọ đến, nên họ bỏ xuống, đem cất hay trả lại. Cứ trung bình một trăm người nhận được thì có chừng một người vào tu với Ngài mà thôi.

Kinh sấm cũng ghi chép:

Lập rồi cái Hội Long Hoa
Chọn lựa coi thử ít nhiều 
Người lành kẻ dữ còn tiêu kẻ nào


Kinh sấm cũng ghi đúng Long Hoa ra đời. chúng sinh cũng như Thánh Tăng nào có đủ công công năng, công đức đều được đăng vào bảng Phong Thần, thi chọn bậc Giác Ngộ, Đại Ngộ, Liễu Ngộ đến Chánh Giác, hầu mai sau các bậc này tiếp nối Đức Di Lạc, rộng mở chánh pháp lan rộng khắp, lập lại đời Thượng Kiếp như Di Chúc Đức Ngài đã lưu lại.

Phật thi Đức, trào quốc thi văn,
Nhơn tùng thi chánh, nhơn tăng thi lòng
.

Còn Ông Hồ Hữu Tường, một nhà học giả uyên thâm, nổi tiếng của miền Nam, xây dựng thuyết “Tân Xuân Thu”, một quan điểm để chỉ sau này thời Hạ Kiếp chấm dứt sẽ đến thời Thượng Kiếp. Ông thay đổi quan điểm một cách đột ngột. Tân Xuân Thu là một danh từ được thấy trong sấm kinh. Ông đã khám phá được một chân lý cao siêu sẽ ra đời ở Việt Nam. Ông còn kêu to lên “những tiếng gọi đàn”.

“Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thực to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin… để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt Nam”. 

Ông còn viết nhiều nữa và đúng lúc Đức Tịnh Vương Nhất Tôn hóa thân Đức Di Lạc đang chuyển mình hành đạo. Nhưng viết kêu gọi mà chính ông Tường cũng không có đại duyên gặp Đức Ngài. May mắn thay, giòng họ ông cũng có được một người cháu đã tu theo Đức Di lạc từ năm 1983, sau này đã được Ngài nuôi dưỡng Đạo và được tôi dìu dắt. Theo tôi được nghe Đức Ngài dạy, người cháu ông Tường sẽ được làm Tổ ở một kiếp nào của mai sau.

Cô Trúc Lâm Nương là Tiên Đạo cũng bảo rằng: Thời kỳ này là thời Mạt Pháp, chúng sanh quá đắm say vật chất, gây tạo không biết bao điều độc hại. Để cứu vớt chúng sinh Phật sẽ xuất hiện ở Việt Nam.

Là tri kỷ, đôi lời ta xin nhắn
Phật,Thánh,Tiên xuất hiện nước non nhà
Độ chúng sinh giữ vững khắp sơn hà 
Đời Mạt Pháp hoằng khai thành chánh pháp


Cô cũng quả quyết có Long Hoa ra đời và Việt Nam là một giống dân quý.

Rồng mây Phật hội Phong Thần mạng
Sen nở, Long Hoa vạn Quốc qui
Ớ hởi ! Lạc Hồng nền Bích Ngọc
Vững lòng chúa ẩn, hạnh duyên tùy


Tuy vậy cô cũng không gặp được Đức Di Lạc trong lúc cô đang viết những lời thơ này. Đúng là Thần Tiên cũng không gặp được Ngài, chỉ hàng Tổ của Tiên, Thần mới đến học đạo được.

Ông Tám (Lương Sĩ Hằng) cũng nói Phật đã hiện ở Việt Nam nhưng một hôm Đức Di Lạc bảo:

“Ông Tám tu mức Thần Đạo chớ chưa được Tiên Đạo”
 Do vậy mà Ông Tám cũng không gặp được Đức Ngài. Chỉ Tổ của Tiên, Thần mới đủ công đức gặp Đức Ngài.

Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai thị: “Người nào nhìn thấy giáo pháp là thấy Như Lai” Giáo pháp của Như Lai Là gì? Như đã trình bày ở phần trước:

 – Đạo đức: Sửa tánh xấu, đố tật xấu, hỷ xả...

 – Giáo lý: Kinh Phật, nghe thuyết giảng...

 – Toạ Thiền: Tu Như Lai Thiền.
 

Đạo Đức + Giáo Lý + Tọa Thiền Tri Kiến Giải Thoát

Tu như vậy, Chư Phật ra đời liền được đến diện kiến. Chư Phật dạy chân tử của Ngài, nên tu theo giáo pháp của Ngài như vậy để tìm chân lý. Kinh sấm giảng đúng lúc Đức Di Lạc ra đời mà bậc tu không biết giáo môn của Phật ra sao, lại mang nặng thành kiến sẵn cũng không gặp được Ngài.

Ngài dạy cho Chân tử tự giác, chứ không dụng thần thông để chân tử tìm đến theo học Ngài. Chỉ khi tối cần, Chư Phật mới hiện thần thông để cứu độ những bậc tu đáng được độ. Thử hỏi, khi núi Thất Sơn nổ, số đông đến hỗn loạn, liệu Ngài độ được mấy chúng sinh giác ngộ?

Không hề có cảnh đăng đàn thuyết pháp mà đắc đạo hết được. Trái lại, phải diệu dụng cho từng chân tử một trong muôn vạn pháp, khó lắm bậc tín tâm mới thọ lãnh được. Nếu chỉ nghe qua một câu kinh mà ngộ là ngộ kinh chứ không phải giác ngộ của Chư Phật, vì nó còn phần vận chuyển vạn pháp quá ư là khó nữa.

Thời hiền kiếp Đức Bổn Sư Khai Thị, có lắm bậc hữu hình và vô số bậc tu vô hình giác ngộ. Còn thời hạ kiếp này vật chất làm đảo lộn lòng người nên quá khó đắp xây nền chánh pháp, do đó hiếm bậc giác ngộ. Hai câu thơ ghi rõ tâm trạng của Đức Di Lạc:

“Gối mỏi gối, vai vùn vai

Chí còn vận chuyển Phật Đài còn xây” 
–T.V.

Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vậy, tự người chân tử phải kiên trì tu hành mới mong có kết quả: “Các con phải cố gắng, Chư Phật chỉ là những vị Thầy”

 ___________________

Một hôm tại Trung Ương Hội Thượng, Đức Di Lạc Tôn Phật khai thị cho bà Diệu Tuệ (Maria) như vầy: "Bà có người con trai phá của." Bà Diệu Tuệ không hiểu và hỏi tôi, tôi bảo: Đó là ý Ngài muốn nói sự tu chứng hàng Đại Thừa của Tôn giả La Hầu La tức Chúa Jésus. Chịu đựng đến mức tối đa đến KHÔNG, đạt được bác ái không oán trách, sở đắc thần thông thần kỳ.

Đây là đỉnh cao của Đại Thừa, sự nghiệp còn dang dở chưa thành công đã bị chết, đạt Tri Kiến Phật, nửa đoạn đường đến chân lý KHÔNG gọi là phá của. Hàng Tôn Giả ở vị trí Thánh Hiền được nhập thể vào Như Lai Phật hay Thượng Đế với chữ bác ái còn tương đối.

Phật Thừa không bỏ cũng chẳng lấy, không oán hận cũng chẳng chịu đựng. Có nghĩa phải vận chuyển pháp tránh chịu đựng những việc không cần thiết để hoàn thành lòng Đại Bi gọi là Phật Tri Kiến, nửa đường chân lý còn lại Hàng Bồ Tát ở vị trí tiến đến Phật Giác nhập thể sâu hơn vào Thượng Đế.

Tối Thượng Thừa viên dung vận chuyển Tam Muội ổn định theo ý muốn, đạt được Diệu Dụng Phẩm thuộc hàng Ma Ha Tát, tiến đến sát với Như Lai Phật gọi là Phật Thừa. Phẩm này không thể nghĩ bàn, nó tuy hai mà một, tuy một mà hai./-

TẬN THẾ VÀ HỘI LONG HOA

https://youtu.be/twW3COmBIPk

Diễn Biến Ngày Biến Thiên tận diệt bước qua Hội Long Hoa Thượng Ngươn Thánh Đức


https://youtu.be/4ZR-WPumhSs


TRÁI ĐẤT NGÀY TẬN THẾ: ĐỘNG ĐẤT, SÓNG THẦN, NÚI LỬA ...? KIẾN THỨC VÀ 

 https://youtu.be/UqfAfhk2syY 


Tận thế đi qua Hội Long Hoa đến Phật Pháp Vô Biên

https://youtu.be/EJ_Y6zWNNVw

ĐẶC SẮC RẤT HAY - CƠ TẬN DIỆT ĐẠI HỘI LONG HOA-DIÊU TRÌ KIM MẪU

https://youtu.be/jqq-cOvrTgw

Không có TẬN THẾ mà là CHUYỂN THẾ

Nếu Tận Thế là hủy diệt tất cả sinh vật trên địa cầu, Tín đố Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, khẳng định :KHÔNG BAO GIỜ CÓ. Vìtiến trình của Đạo Cao Đài là thất ức niên (700.000 năm).
Trong ngày Lễ Khai Đạo Cao Đài 15-10-Bính Dần (1926), tại chùa Gò Kén có trưng bày đôi liễn:



 Di Lạc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo, Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn.Nghĩa là:
 Đức Phật Di-Lạc rộng mở nền Đại Đạo trong bảy trăm ngàn năm, Đức Phật Thích Ca lập Phật giáo trong hai mươi lăm thế kỷ thì chấm dứt. (25 thế kỷ = 2500 năm).


TNHT:
Thanh đạo tam khai thất ức niên,
Thọ như địa quyển, thạnh hòa Thiên.
Nghĩa là:
Nền đạo trong sạch của Đức Chí Tôn mở lần thứ ba được 700 000 năm, lâu dài như trái đất, thạnh vượng cùng Trời.


Cơ Tận Diệt trên địa cầy 68 này hẳn có, nhưng phải sau 700.000 năm. Vì Đạo Cao Đài phải hiện hữu để thể hiện Cơ Chuyển Thế, đưa lương sanh vào Nguơn Thánh Đức.

Tiên tri Tận thế lần thứ ba:
Hiện nay, giống dân da trắng đang làn bá chủ nhơn loại trên mặt địa cầu nầy. Giống dân da trắng không đem sự khôn ngoan và sự văn minh tiến bộ giúp đỡ các giống dân khác kém văn minh hơn, lo tổ chức xã hội cho được thuần lương đạo đức, mà lại dùng sức mạnh bắt các giống dân khác làm nô lệ cho họ, đồng thời xúi giục các giống dân, các tôn giáo gây chiến với nhau, tương tàn tương sát để họ thủ lợi.
Mặt khác, thời kỳ nầy lại rơi đúng vào cuộc tuần hoàn giáp mối của thế giới, ở vào thời Mạt kiếp của Hạ nguơn Tam chuyển, bước qua Thượng nguơn Tứ chuyển. Đấng Thượng Đế cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mở ra một cuộc Đại Phán xét lần thứ ba gọi là Đại Hội Long Hoa, để kết thúc một khoảng thời gian tiến hóa dài.
Loài người hiện nay rất tội lỗi, nên cuộc Tận thế kỳ nầy rất dữ dội, nhơn vật 10 phần bị tiêu diệt hết 9 phần, chỉ còn lại một phần sống sót, gồm toàn là những người hiền lương, để lập đời Thượng nguơn Thánh đức.
TNHT:* Kỳ Hạ nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tan, mười phần còn lại một mà thôi. Than ôi! buồn thôi! Nghĩ vì Thiên cơ đã định vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện mà ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với cả quốc dân mà quị lụy khẩn cầu coi Trời có đoái tưởng đến chăng?
Bởi thế nên Đức Ngọc Đế và chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, mới lập Hội Tam Kỳ Phổ Độ đặng cứu vớt chúng sanh đương linh đinh nơi bể khổ. Nếu gặp Thuyền Bát Nhã mà không xuống không theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi nơi mé biển.
* Đời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhơn sanh, hội mười ngày nơi Bạch Ngọc Kinh, cãi cho qua nạn nhơn loại, nhưng luật Thiên điều chẳng dễ chi sửa đặng.
Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, tới buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu, chư Đạo hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ mất hồn, thấy càng thảm thiết.
Lão tưởng chẳng cần phải nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng danh Thánh địa là nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Huế, Hải Phòng, Hà Nội thay. Thảm! Thảm! Thảm!
* Họa Âu tai Á sẽ vì nơi Thiên thơ mà sát phạt, gieo sầu để thảm cho những giống dân nào đã vì hung bạo mà gây nên nhiều điều thán oán khắp cả Càn Khôn nầy.
* Ngày vui vẻ của sanh linh đã mòn, họa Thiên điều đã cận, CKTG còn đeo đuổi dụng thất đức vô nhân mà gieo thảm chất sầu trong nhơn loại.
Họa Âu tai Á sẽ lần lượt thay phiên nhau, dụng luật Thiên đình mà diệt phạt người vô đạo. Càn Khôn cũng vì đó mà phải điên đảo.
Thầy lấy đức háo sanh mở đạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt. Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị tà yêu cám dỗ.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Tận thế như sau:


"Cơ quan 
chuyển thế mà Đức Chí Tôn lập trước mắt sẽ dữ dội lắm! Tấn tuồng đó vẫn còn tiếp diễn chưa dứt.
Bần đạo quả quyết rằng, sẽ còn đại động dữ dội một phen nữa nơi mặt địa cầu nầy. Đặng chi? đặng giống dân da trắng giao quyền cho sắc dân mới nữa là giống dân Thần thông nhơn làm chủ, cầm giềng mối toàn mặt địa cầu nầy.
Hại thay! Luật thiên nhiên chiếu theo kinh luật thượng cổ để lại, quan sát hẳn hoi, dở sách ra coi thấy trước thế nào, sau thế ấy, bánh xe tiến hóa vẫn đi, xây một hướng một chiều.
Bần đạo e cho loài người mài miệt tội lỗi đó càng nguy hại cho loài người hơn nữa, nên Đức Chí Tôn lập Đạo Cao Đài là đền thờ cao trọng, đức tin to lớn, ngự trước Thiên lương loài người mới có thể thắng cơ quan Thiên điều định trước.
Chúng ta, Thánh thể của Ngài, giúp Ngài giải quyết được chăng? Nếu thoảng không được, cái hại nầy còn duy trì nữa.
Ngài muốn Việt Nam là Thánh địa, cho nhơn loại biết rằng nhờ đây mà giải quyết cứu thế, bảo tồn nhơn loại là do con cái của Ngài, do nơi chúng ta. Nếu bất lực, chúng ta có phần lỗi đó vậy." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp Q.I tr. 80)

"Kiếp số của địa cầu nầy còn vĩnh cửu, chỉ thay đổi hình thể, vạn loại mà thôi, nó vẫn còn tăng tiến mãi.
Chúng ta đã ngó thấy qua chừng 100 năm trước, văn minh của con người không đạt đến mức hiện tượng như bây giờ. Cơ tấn bộ tinh thần và vật chất dữ dội nhứt là trong vòng 50 năm sau. Theo đó mà tính toán lại coi, trong 500 năm nữa, nhơn loại sẽ ra sao?
Phật giáo nói, qua sắc dân da trắng, tinh thần vi chủ, tới sắc dân Thần thông nhơn, qua khỏi dân Thần thông nhơn thì có sắc dân Chí linh. Lúc đó người là Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế. Như vậy còn hai sắc dân nữa cho 500 năm sau." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp Q.I trang 132)

Từ nay đến 700.000 ngàn năm nữa KHÔNG CÓ TẬN THẾ mà là CHUYỂN THẾ. Chuyển Thế là gạn lọc những tánh hư, tật xấu của con người bằng thiên tai và bịnh chướng.

Tánh hư, tật xấu của con người, là tánh phản nghịch THƯỢNG ĐẾ, do sự cám dỗ củaQuỉ Vương tức Kim Quang Sứ và ma quái, ở khắp mọi nơi từ trên Trời, dưới đất.
Kim-Quang-Sứ là ai? Bên Thánh-Giáo Gia-Tô gọi là Quỉ-Vương đó vậy.

Kim-Quang-Sứ là một vị Đại-Tiên có quyền hành đem ánh sáng Thiêng-Liêng Đức Chí-Tôn chiếu diệu trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, vị Đại-Tiên ấy đã gấm-ghé bước vào Phật-Vị, cái quyền-năng của Ngài đã đoạt đặng tưởng không thua kém Đức Chí-Tôn là bao nhiêu, do cái tự-kiêu tự-trọng còn một bước đường nữa mà đoạt không đặng, nếu người nhường là nhường Đức Chí-Tôn mà thôi. Vì người hám vọng, tự-tôn, tự-đại, gọi cả quyền-năng Đức Chí-Tôn người không nhường, tức nhiên người đủ quyền-năng hơn Đức Chí-Tôn mà chớ, vì cớ cho nên Ngài dành quyền trọng đại muốn cầm quyền một quyền-lực để điều khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ, chưa đoạt đặng mà Ngọc-Hư-Cung đã biết tinh-thần Kim-Quang-Sứ muốn phản phúc.
Phản phúc dám đối diện cùng Đức Chí-Tôn mà Ngọc-Hư-Cung đã biết cho làm Thống-Đốc một thế-giới của chúng ta đương thời bây giờ.
Thế-giới địa hoàn này, nếu như người mà không có tự-kiêu, tự-đại, cái chức tước dù cho quả là làm Tổng-Thống của một Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng không phải là hèn gì. Người không vừa, phản lại mới bị đọa vào Quỉ-Vị.
Nếu chúng ta muốn biết cái tình trạng của Ngài đoạt quyền Thiên-Cung buổi nọ thì coi trong Chơn-Truyền Thánh-Giáo Gia-Tô buổi nọ thì chúng ta thấy rõ.
Ngày giờ này, Đại-Tiên Kim-Quang-Sứ đã đặng ân xá, cũng như các Đẳng Chơn-Linh được ân xá, bởi vì trong Quỉ-Vị cũng được hưởng Hồng-Ân Đức Chí-Tôn ân xá, cũng như toàn-thể các Chơn-Hồn trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Vì cớ cho nên, người Quỉ Chúa đàng ấy còn lãnh một phận-sự tối trọng, tối yếu là làm Giám-Khảo dượt Chư Tiên đoạt phẩm-vị Phật.
Vì cớ cho nên người có giáng-cơ buổi Đạo đương bình tịnh, cả Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn đương hòa ái với nhau, không có tâm-tánh gì phản động, chưa có một mảy may gì gọi là loạn, họ còn giữ theo nề-nếp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn mà thinh không Kim-Quang-Sứ giáng-cơ cho một bài thi chẳng khác nào như tìm đến Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn mà liệng một tối hậu thơ, bài thơ ấy như vầy:

"Cửu phẩm Thần-Tiên nễ mặt ta,
Thích-Ca dầu trọng khó giao hòa.
Cửa Kinh Bạch-Ngọc năng lui tới,
Đường Đạo Tây-Phương thử chánh tà".

Ngó thấy quyền của người ta như thế đó, hại thay! Đường đi từ Ngọc-Hư-Cung qua Cực-Lạc Thế-Giới buổi nọ bị Người ta ngăn đường không cho người ta đi qua, bằng không thì trở lại. Theo chúng ta lấy tình thật thì Đạo-Giáo sẽ chỉ điều ấy, cũng không có lạ gì với Đức Chí-Tôn.
Đấng mà dám đưa tay cho kẻ thù định phận, quyền năng đường ấy để khảo dượt toàn con cái của Ngài, tức nhiên là khảo-dượt Người, mà Người không có nao không có sợ. Chúng ta đủ biết quyền phép của Đức Chí-Tôn hơn quyền phép Kim-Quang-Sứ thế nào? Hơn nhiều lắm.
Đối với tinh-thần nhơn-loại đương nhiên bây giờ, đáng lẽ Đức Chí-Tôn gìn-giữ kỹ càng cho lắm, nhưng Ngài không cần để tâm giữ cho kỹ lưỡng điều đó mà chớ.

Bởi cớ cho nên khi mở Đạo, tại Từ-Lâm-Tự Ngài đến, Ngài cầm cơ viết tên Ngài, rồi Ngài liền thăng. Ngài cho Quỉ đến đặng phá, khảo-dượt, phá cho tiêu nền chơn giáo của Ngài. Ngài đã cho phép làm, nó vẫn thi hành chớ không có sợ sệt, e lệ gì không làm. Kim-Quang-Sứ đã thi hành trong hai mươi mấy năm, cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái của Ngài nam, nữ cũng thế, đang bị tay Người làm tàn hại, đủ mưu lược, đủ mưu chước đặng hại cho thất Đạo. Không một điều gì, không một mưu chước gì mà Người không dùng, không mưu chước gì Người không làm đặng tàn phá Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, nhưng.... không phải dễ dầu quyền lực Kim-Quang-Sứ bao nhiêu đi nữa cũng chưa qua khỏi cái mức của Đức Chí-Tôn đã gạch sẵn cho con cái của Ngài đi thì chúng ta ngó thấy đủ bằng cớ đoạt đặng.
Ngộ-nghĩnh thay, tuy biết hay là không biết mình không chịu cho Kim-Quang-Sứ biết, Đức Chí-Tôn cho thử con cái của Ngài đặng bỏ cái phàm lấy cái Thánh. ( trích CĐTLHS)

Đường về BẠCH NGỌC KINH, trải qua Thất Thập Nhị Địa – Tam Thiên Thế Giới - Tứ Đại Bộ Châu – TamThập Lục Thiên - rồi mới đến Bạch Ngọc Kinh, tức là Niết Bàn,

Ma quỉ chuyển kiếp ở lẫn lộn nhơn sanh trong Tam Thiên Thế Giới, chíếm trọn Bắc Cù Lưu Châu là một trong Tứ Đại Bộ Châu, để cám dỗ con cái Đức Chí Tôn. Muốn cám dỗ Quỉ Vương lập ra Quỉ vị, y như Thiên vị.

Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi: Các con chết rồi các con ra thể nào?
Các con đi đâu?
Chẳng một đứa hiểu đặng cơ màu nhiệm ấy. Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật -chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú-cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn, muôn muôn lần, mới đến Ðịa-vị nhơn-phẩm. Nhơn phẩm trên thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bậc Ðế-Vương nơi trái địa-cầu nầy, chưa đặng vào bực chót của Ðịa-cầu 67. Trong Ðịa-cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quý trọng cuả mỗi địa-cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Ðệ-nhứt-cầu, Tam-Thiên-Thế-Giái; qua khỏi Tam-Thiên-Thế-Giái mới đến Tứ-Ðại-Bộ-Châu, qua Tứ-Ðại-Bộ-Châu mới vào đặng Tam-Thập-Lục-Thiên; vào -Tam-Thập-Lục-Thiên rồi phải chuyển kiếp tu-hành nữa, mới đặng lên đến Bạch-Ngọc-Kinh, là nơi Ðạo Phật gọi là Niết-Bàn đó vậy.
Các con coi đó thì đủ hiểu các phẩm trật các con nó nhiều là dường nào; song ấy là phẩm trật Thiên-Vị.
Còn phẩm trật Quỉ-vị cũng như thế ấy; nó cũng noi chước Thiên- Cung mà lập thành Quỉ-vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm đặng đầy đọa các con, hành hài các con, xử trị cá con. Cái quyền hành lớn lao ấy , do Thầy ban cho nó nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chân bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
Thầy đã thường nói: hai đầu cân không song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Luật công bình Thiêng-Liêng buộc phải vậy. Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.
Thầy đã chỉ rõ hai nẽo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi khỏi lầm lạc. Các con hiểu rằng: trong Tam-Thiên-Thế-Giái còn có Quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là "Thất-Thập-Nhị-Ðịa" nầy, sao không có cho đặng?
Hại thay! Lũ quỉ là phần nhiều; nó bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc, mà dỗ dành các con.
Vì vậy, Thầy đã nói tiên tri rằng:
Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hàng ngày xúi biểu chúng nó cắn xé các con, song Thầy cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo-đức của các con.
Ấy vậy Ðạo-Ðức các con là phương pháp khử trừ quỉ mị lại cũng là phương pháp dìu dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không đạo, thì là tôi tớ quỉ mị. Thầy đã nói Ðạo-Ðức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao, tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.
Vậy Thầy lại dặn các con: nếu kẻ không tu, làm đủ phận người, công-bình, chánh-trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa thì biết chừng nào đặng hội-hiệp cùng Thầy? Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn-loại Càn-Khôn Thế- Giái, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng; mà... hại thay!... mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc, thấy đặng kẻ ấy.
Vậy Thầy dặn: Ðạo là nơi các con nên quý trọng đó vậy. [TNHT – 19-12-1926]
Cơ chuyển thế khó khăn lắm nổi
Mượn Thánh ân xây đổi cơ Đời
Thuận nhơn tân ắt thuận trời
Câu Kinh Vô tự độ người thiện duyên,
Thượng Đế trên hết và làm được tất cả.

Cơ chuyển thế khó khăn lắm nổi
Mượn Thánh ân xây đổi cơ Đời
Chuyển thế: Làm cho đời biến đổi từ xấu thành tốt.
Cơ Chuyển thế: Cơ quan có nhiệm vụ làm cho Ðời biến đổi từ xấu thành tốt. Ðức Chí Tôn lập Ðạo Cao Ðài là mở ra một Cơ quan Chuyển thế, với chủ trương NHO TÔNG CHUYỂN THẾ, nghĩa là dùng tinh hoa giáo lý Nho giáo để dạy dỗ nhơn sanh, làm cho cuộc đời hung bạo hiện nay sẽ trở nên thuần lương đạo đức. Thánh ân: Ơn huệ của Ðức Chí Tôn.
Xây đổi: Xoay chuyển làm cho thay đổi. Cơ đời: Bộ máy của đời. Bộ máy nầy đang hoạt động mạnh mẽ, đưa nhơn loại vào vòng tranh đấu khốc liệt, đi đến chỗ diệt vong.Hai câu này, Cơ quan Chuyển thế của Ðức Chí Tôn trong lúc nầy gặp rất nhiều nỗi khó khăn. Nhờ ơn huệ của Ðức Chí Tôn mà xoay chuyển được Cơ Ðời, cứu nhơn loại thoát khỏi nạn tiêu diệt.
.
Thuận nhơn tân ắt thuận trời
Câu Kinh Vô tự độ người thiện duyênNhơn tâm: Lòng người. Thiện duyên: Duyên lành.Thuận nhơn Tâm ắt thuận Trời, là bởi vì Ý dân là Ý Trời, thuận theo lòng dân thì hạp lòng Trời, cho nên Quyền Vạn Linh mới đối lại được với Quyền của Ðức Chí Tôn.Câu Kinh Vô tự: Câu Kinh không chữ. Trong trường hợp nầy, chúng ta có thể hiểu Câu Kinh Vô tự như sau:

Muốn cảm hóa người thì chúng ta phải nói Ðạo cho họ nghe mà biết Ðạo, biết lẽ chánh lẽ tà, biết con đường tốt đẹp nên theo. Muốn nói Ðạo cho hiệu quả thì chúng ta phải học thuộc Thánh Ngôn Thánh giáo, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, nghiên cữu kỹ lưỡng Giáo lý và Triết lý của Ðạo, học cho nhập tâm, rồi mới nói ra bằng lời Thuyết đạo.
Ðức Chí Tôn có nói: "Dầu cho sắt đá cỏ cây mà nghe Thánh ngôn của Thầy nơi con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người."

Vậy chúng ta có thể xem Lời Thuyết đạo như là những Câu Kinh Vô tự. Dầu cho người dốt nát, không biết chữ nghe cũng hiểu được.

Xưa kia, Ðức Lục Tổ Huệ Năng của Phật giáo Trung Hoa, là người hoàn toàn không biết chữ, nhưng khi nghe người ta tụng Kinh Kim Cang đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ Tâm." thì Ngài liền phát ngộ, rồi lập chí đi tìm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn mà thọ truyền Tâm pháp.
C.Thuận lòng người thì ắt thuận lẽ Trời.
Những lời thuyết đạo có thể làm giác ngộ những người có duyên lành.

Thượng Đế trên hết và làm được tất cả.
Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công bình thiêng-liêng chẳng phải nên vậy; ấy cũng là cơ mầu-nhiệm cho các con có thể lập thành công quả.[TNHT – 22-9-1926]
Buổi trước thì Thiên Điều buộc nhơn loại phải nâng cao phẩm hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình, còn nay thì các Đấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu cả chơn hồn lên tột phẩm vị Thiêng Liêng, đến ngang bực cùng Thầy. Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn trí ngày nay đã qua khỏiNgươn "Tấn Hóa"thì đã tăng tiến lên địa vị tối cao; chủ nghĩa cựu luật của các Tôn Giáo không đủ sức kềm chế đức tin, mà hễ nhơn loại đã mất đức tin về đạo đức rồi, thì cơ tự diệt vốn còn, mà cơ tự diệt còn thì nhơn loại khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Đời phải tùy Đạo mới còn, mà Đạo cũng phải tùy Đời mới vững, biết đâu Tân Luật ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành; trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí Đạo, Đời tương đắc. Mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp.
Thí dụ: Như có kẻ hỏi: "Sao Thầy không dùng Cựu Luật trong Tam Giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi Tân Luật nữa, mà buộc nhơn sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?"
Ta lại đáp: "Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu Luật và Cổ Pháp chẳng còn ý vị chi hết. Những bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu Luật hay là Cổ Pháp thì trái hẵn với Thiên  Điều của Đ.Đ.T.K.P.Đ. thể Thiên hành chánh.
Bởi cớ ấy nên CHÍ TÔN đã cấm ngũ chi phái Ngọc, dùng Cổ Luật mà mê hoặc nhơn sanh nữa.
Hễ tùng Cựu Luật tức phải tùng Thiên Điều, mà hễ tùng Thiên Điều thì khó lập vị cho mình đặng".[trích PCT, Phần Quyền Hành Chưởng Pháp]
 Cao Quỳnh Tuệ Lâm
Nguồn: http://www.trinhnu.net/van/86659

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét