Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.
Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.
Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam. Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.Tiếng mưa bom đạn réo bên mình.
Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.
Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả… cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do.
Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng.
Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.
Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi.
Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt.
Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương. Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.
Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác,ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân. Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.
Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng. Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do.
Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?
Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.
Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.
Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính? Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam. Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng
Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.
Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.
Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình.
Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cám ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi (Tô Thùy Yên)
Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ. Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia.
Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh.
Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào. Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương.
Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh. Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề “xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản”. Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà… Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai…
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Fri May 05, 2017 11:45 am
CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH VNCH
Bây giờ là thời đại của Internet, mình không thể nói những gì không đúng sự thật được. Tôi muốn nói về người lính VNCH, người lính Miền Nam Việt Nam. Thời gian thập niên 1950, cha anh của những người lính này đã biết và nói lại cho thế hệ sau về con người cộng sản, đặc biệt là những vùng xa thành phố thì họ càng biết rõ hơn về bộ mặt thật của chúng.
Vào đầu thập niên 1950, ba tôi vì công việc làm ăn nên ông đưa tất cả gia đình về sống tại một nơi cách thị xã Trà Vinh khoảng 2 cây số, vào thời kỳ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thời đó chỉ một mình ba tôi đi làm mà đủ nuôi cả gia đình 7 miệng ăn, sông rạch thì cá tôm rất nhiều, lúc đó còn nhỏ, tôi thường theo anh và chú tôi đi câu về, cá ăn không hết phải cho lối xóm. Nhà nào dù lớn, dù nhỏ cũng có vườn trồng rau. Tôi còn nhớ lúc đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm cấm không cho bắt cá lòng ròng, cá lóc con phải chờ chúng lớn rồi mới được bắt. Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một người sống đạm bạc, thương dân và sau khi ông chết thì không tìm thấy của cải gì đáng kể, ông là một vị Tổng Thống nghèo nhất thế giới.
Có lần, ông từ Sài Gòn xuống thăm đồng bào, ông đứng trên tàu Hải Quân có 2 lính cận vệ đứng 2 bên, dân chúng hai bên bờ sông tay cầm cờ, miệng la to Ngô Tổng Thống muôn năm ! Ông vào thị xã phát quà cây mùa Xuân. Tôi theo anh tôi tới thị xã xếp hàng để Tổng Thống phát quà cho các em nhi đồng và tôi được ông rờ đầu, một cái rờ khó quên ! Phần quà gồm bánh kẹo, tập vở và bút chì.
Ở Trà Vình có nhiều người Miên nên Tết của họ rất vui, họ đua thuyền dưới sông, thả vịt xuống sông cho mọi người cùng bắt. Mấy anh tôi lặn xuống bắt vịt và tôi đứng trên bờ trông vịt. Thời gian này là đất nước thật thanh bình, không nghe tiếng súng. Từ từ VC len lõi vào dân làm xáo trộn cuộc sống yên tinh và từ đó quê hương đầy bóng giặc. Hàng ngày chúng tôi thường ra tắm ở hai bên bờ song thường thấy những xác thả trôi sông, có xác mất đầu, có vài xác cột dính chùm, thỉnh thoảng có xác phụ nữ, bọn trẻ chúng tôi gọi là thằng chỏng. Đây là một sự trừng phạt, khủng bố cho những người không theo họ.
Bọn chúng bắt chú Bảy tôi đi theo chúng, chú tôi không chịu nên bị giết. Tôi nhớ hôm đó ba tôi uống rượu say la hét, chửi bới, mẹ tôi sợ chúng về giết luôn nên nhờ người Bác họ đưa vào Ty Công An ngủ nhờ. Ba tôi phải bỏ tất cả để trở về Sài Gòn sống vì mấy anh tôi cũng đã lớn sợ theo VC. Chú Bảy tôi có hai đứa con trai sau này đứa lớn đi lính TQLC, đứa em đi lính SĐ 1 BB và tử trận trong cuộc tái chiếm Quảng Trị. Lần lần tất cả anh em chúng tôi cũng vào lính.
Người lính miền Nam vào lính với một lý tưởng là giữ gìn bờ cõi vì giặc miền Bắc vượt vĩ tuyến 17 xâm lăng miền Nam. Những thanh niên phần nhiều đăng lính thứ dữ như BĐQ, TQLC, Nhảy dù còn Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan ra trường cũng chọn về Lôi Hổ, Nhảy Dù, TQLC…. Tôi nhớ lúc tôi và anh tôi ra trường thi thường những binh chủng này hết chỗ nên nhiều anh em đành phải qua Bộ Binh, Thiết Giáp hay Địa Phương Quân. Đặc biệt những Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan đỗ Thủ Khoa thường về những binh chủng Nhảy dù hay TQLC, BĐQ. Như Ông Bùi Quyền tốt nghiệp thủ khoa Khóa 16 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt và là một trong số những sĩ quan ưu tú của binh chủng Nhảy Dù. Cấp bậc cuối cùng của ông là trung tá và giữ chức vụ lữ đoàn phó Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù. Đặc biệt khoá 16 VBĐL được Tổng Thống Ngô Đình Diêm đặt tên là khoá Anh Hùng, Đúng như Tổng Thống đã đoán và nếu không có ngày 30/4 thì trong năm 1975 có người trong khoá này lên tướng. Và ở trường VBĐL có một hộp kính, trong đó có một bộ quân phục sĩ quan và một thanh kiếm của cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, trong đó có ghi một câu nói của phu nhân Đỗ Cao Trí là thanh kiếm này sẽ tặng lại cho anh em trong khoá 16 VBĐL người nào lên tướng đầu tiên. Tôi có người bạn là Bác Sĩ bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Huế, anh nói lúc tái chiếm Quảng Trị, nhiều xe GMC chất đầy xác nhưng những Binh Chủng TQLC, Nhảy Dù, BĐQ bổ xung quân số rất nhanh và đầy đủ.
Sau khi tái chiếm An Điền, tôi và người bạn cùng khoá ra chợ Bến Các uống cà phê, trong quán có hai chị em thật xinh, tôi hỏi: “Mấy cô thích lính VNCH hay VC?” Mấy cô nói: “ Mấy anh lính VNCH ăn uống trả tiền đàng hoàng và giữ yên thôn xóm, còn mấy ông VC tối về lấy thuế còn bắt đi dân công nữa!” Anh bạn nói với tôi: “Người dân ở đây khổ quá mà mình không đủ sức để bảo vệ họ!”
Thời gian ngưng bắn da beo 1973, đơn vị nằm tại chỗ, chúng tôi tồ chức những buổi sinh hoạt văn nghệ ở trong nhà lồng chợ để giúp vui bà con. Đồng bào ở đây rất mến chúng tôi, họ luộc những rổ khoai bắp đãi chúng tôi và từ những buổi văn nghệ giúp vui này cũng nẩy sinh những mối tình, có những mối tình đã đi đến hôn nhân, có những đám cưới nhà binh rất vui và cũng có những Biệt Ly của Doãn Mẫn, Nghìn Trùng Xa Cách của Phạm Duy!
Những địa danh đi qua là cả một vùng trời kỷ niệm, những kỷ niệm có cả vui buồn, nhớ thương. Hình ảnh đẹp trong tôi là khi còn học ở Trung Học, lúc tan trường có một anh lính Biệt Kích 81 Dù mặc bộ đổ huyết dù đến đón cô nữ sinh rất đẹp ở trường, từ đó tôi ước mơ đi binh chủng này. Tôi nhớ có một lần ca sĩ Thanh Tuyền nói: “Trước 1975 cô nào có người yêu là Thiếu Uý thôi thật hãnh diện vô cùng!” Còn bây giờ em gái thấy lính bộ đội là không thích đi chung !
Người Lính VNCH
Là người lính miền Nam tôi hãnh diện Nhiều người dân tiếc nuối chuyện đã qua Yêu quê hương họ đi lính Cộng Hoà Giữ bờ cõi giặc tràn qua vĩ tuyến
Là người lính miền Nam tôi xao xuyến Nhiều bạn bè vì cuộc chiến bị thương Bán lời ca, vé số khắp nẻo đường Sống lây lất nhiều năm trường nghiệt ngã
Là người lính miền Nam sao buồn quá! Nhìn Nghĩa Trang Quân Đội đã hoang vu Người hy sinh, kẻ ra Bắc đi tù Thuyền nhân chết vì phiêu lưu vượt biển
Là người lính miền Nam giờ lưu luyến Một phần đời trong cuộc chiến năm xưa Những chiến trường sự sống chết đong đưa Ôi kỷ niệm cả đời chưa quên được
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Thu May 11, 2017 4:00 pm
Cám Ơn Anh: Người Lính VNCH
Như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975) từng nói ‘Đất nước còn thì còn tất cả‘. Bởi vậy sau ngày 1-5-1975, đồng bào Miền Nam đã mất hết mọi thứ kể cả quyền làm dân, khi chính phủ và quân lực VNCH không tồn tại, để bảo vệ họ như hồi Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và trăm ngàn chiến cuộc, khắp mọi nẻo đường đất nước, cho tới ngày 30-4-1975 bị rã ngũ theo lệnh buông súng đầu hàng.
Tự ngàn xưa, quân đội Việt Nam luôn nổi tiếng kiêu hùng, nên đã đạt được nhiều chiến công hiển hách, trong suốt dòng lịch sử của dân tộc, qua các cuộc bình Chiêm, phá Tống-Nguyên-Minh-Thanh, khiến các nước lân bang Lào, Miên và cả Xiêm La phải kinh hồn bạt vía. Là con cháu của Tổ Tiên Hồng-Lac, chúng ta dù được sinh vào thế hệ nào chăng nữa, ra đời trong nước hay nơi hải ngoại, vẫn luôn ngưỡng mộ và hãnh diện, về công đức vĩ đại của tiền nhân, trong đó miên viễn quân đội bao đời.
Với ý nghĩa thiêng liêng và cao quý trên, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được hình thành trong giai đoạn đất nước tạm chia (1955-1975), chống lại cuộc xâm lăng bằng quân sự, của khối cộng sản đệ tam quốc tế, do Việt Cộng Bắc Việt đảm nhận. ĐÂY LÀ MỘT CUỘC CHIẾN SINH-TỬ, của quân đội MIỀN NAM, chống lại cuộc xâm lăng của bộ đội MIỀN BẮC, để giữ lại phân nửa gấm vóc giang sơn của Tiền-Nhân, không lọt vào gông cùm nô lệ của giặc đỏ. Cho nên, đây không phải là một cuộc chiến giữa cộng SẢN BẮC VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ, như giới truyền thông phương Tây, thời đó và ngay cả bây giờ, đã bóp méo sự thật, mục đích đầu độc dư luận thế giới, làm giảm uy tín của QLVNCH. Có như thế, Cộng Sản và phe ta trốn quân dịch, mới vừa chửi Mỹ, vừa tô son vẽ mặt cho đạo quân tiền phong cộng sản tại Đông Nam Á, tức Bắc Việt có một chính nghĩa lý tưởng, đánh đuổi Mỹ-Ngụy cứu nước.
Đây cũng chính là nỗi thảm thê chất ngất của người Lính Miền Nam, trong hai mươi năm khói lửa. Vì định kiến, vì buông xuôi, vì thủ đoạn con buôn quốc tế, tất cả đã dồn ép QLVNCH vào chân tường, trong cuộc chiến đấu đơn độc, không hậu phương, không một chút tình quân-dân, cá-nước. Hai mươi năm chiến đấu, đời lính buồn ơi là buồn, trước mặt phải trực diện với một kẻ thù gian xảo độc ác, mất hết thiên lương nhân tính vì đã bị chủ nghĩa nhồi sọ, cho nên chỉ biết có giết người để đạt mục đích được khắc sâu trong da thịt. Còn sau lưng bị thọc bởi hậu phương vô tình bạc bẽo và cuối cùng trên đầu là đồng minh với đại bàng, luôn rình rập để phản bội và bán đứng. Mới đây có Nguyễn Thùy và Vũ Ngọc Tiến, đã dùng bút vẽ lên bức tranh vân cẩu của cuộc chiến vừa qua, cho ta thấy chỉ có Bộ Đội Bắc Việt hay Việt Cộng, vì thèm khát đàn bà, nên chỉ có chúng mới hãm hiếp phụ nữ, chứ người lính VNCH đâu có lý do gì, để mà cuồng dâm cả xác chết của nữ cán bộ VC? Cảm nhận đựợc thân phận nhược tiểu của đất nước và sự bất hạnh của dân tộc, nên người lính chấp nhận hy sinh đời trai, để làm tròn bổn phận cùng trách nhiệm của một con người có tim óc, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi TT. Dương Văn Minh bắt buông súng đầu hàng.
Quân Lực VNCH diễn hành ngày Quân Lực 19 tháng 6.
Sau đó, cộng sản Hà Nội thẳng tay cướp bóc, chẳng những mọi chiến lợi phẩm của chính phủ VNCH từ công ốc, ngân khố, quân trang dụng, trong đó có mười sáu tấn vàng y, của quốc gia, được Nguyễn văn Hảo giữ lại để nạp dâng công cho Bắc Bộ Phủ. Tệ nhất là VC táng tận lương tâm, cướp luôn tài sản mồ hôi nước mắt của đồng bào, mà trong số này, có nhiều mẹ chiến sĩ, đã từng nuôi dấu cán binh bộ đội, ủng hộ vàng bạc lúa gạo cho chúng, trong suốt thời gian chiến tranh. Ngoài việc cầy mồ người chết để trả thù bị thua VNCH trên chiến trường, VC còn hành hạ những phế binh, cô nhi tử sĩ bị kẹt trong nước, với đủ thủ đoạn học được từ KGB, mà mới nhất là chiến dịch ‘đuổi tận, giết tuyệt‘ các thành phần trên, đang sống tại các chòi, dựng trong Nghĩa Địa Phước Bình, Sài Gòn.
Thì ra cách mạng bảy mươi năm, để giải phóng đất nước, mục đích cũng chỉ có thế thôi, nên từ đó theo thời gian, hằng ngàn huyền thoại về ‘Người Bộ Đội Miền Bắc, Vượt Trường Sơn Vào Nam Đánh Mỹ Cứu Nước‘, đã theo lớp son phấn đảng tham nhũng, tham tàn, tham địa vị, tan biến theo lớp sóng phế hưng của cuộc đổi đời mạt lộ. Ba mươi mốt năm tan hàng rã ngũ, quân-dân Miền Nam đã lần lượt đồng hành, qua hết chín tầng địa ngục trần gian nơi thiên đàng xã nghĩa. Nhưng người lính Miền Nam, sinh ra trong khói lửa, trưởng thành chốn chiến trường, nên thể xác dù đã bị bầm giập tan nát, tinh thần cuả người lính vẫn nguyên vẹn và không ai có thể thay đổi hay ngăn cản lý tưởng của họ.
‘dấu binh lửa nước non như cũ kẽ hành nhân qua đó chạnh thương phận trai già rủi chiến trường chàng Siêu, tóc đã điểm sương mới về .’ (Chinh Phụ Ngâm Khúc)
1- TỪ QUÂN ĐỘI QUỐC GIA TỚI QUÂN LỰC VNCH : Ngày 13-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, sau khi bị Hoa Kỳ, thả hai trái bom Nguyên Tử xuống hai thành phố Trường Kỳ và Quang Đảo. Lợi dụng thời cơ trên, quân viễn chinh Pháp theo quân Anh-Ấn xâm nhập VN, chiếm Sài Gòn và Nam Kỳ. Ngày 2-9-1945, nhờ lực lượng OSS (tiền thân của CIA) giúp súng đạn, nên chỉ có một nhóm rất ít cán bộ cộng sản, đã áp đảo khủng bố được đồng bào, để cướp chính quyền của quốc gia lúc đó, đang bị Pháp-Nhật và quan lại Nam Triều, quăng bỏ lăng lóc một cách tội nghiệp, thê thảm bên vệ đường tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh và đảng Việt-Cộng mới có cơ hội, cho quân viễn chinh Pháp từ trong Nam, đổ bộ lên đất Bắc, lúc đó đang do quân Trung Hoa đóng, theo lệnh của Liên Hiệp Quốc, để giải giới quân Nhật từ vỹ tuyến 16 trở ra. Theo mọi nguồn sử liệu còn lưu trữ, thì chính Hồ Chí Minh cùng Pháp, đã đồng thuận dựng lên một vở tuồng, trong đó Pháp đã mớm lời cho Hồ Chí Minh kêu gọi TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN chống Pháp vào năm 1946. Có kêu gọi, thì Hồ Chí Minh và đảng cộng sản mới nhập nhằng hợp thức hoá, vai trò lãnh đạo Mặt Trận Việt Minh và đất nước. Rồi vì toàn dân VN nổi lên kháng chiến, nên thực dân Pháp mới có đủ lý do đem quân từ Nam Kỳ ra Bắc Việt, cũng như biện minh với thế giới về chính sách thực dân của mình, trong khi nhân loại đang tìm đủ mọi cách xóa bỏ.
Pháo Binh QL/VNCH.
Cũng từ đó, người VN khắp mọi miền đất nước, thay vì đoàn kết chống thực dân, lại chia rẽ thành các khuynh hướng chính trị khác nhau, khiến cho máu dân Việt lại tiếp tục đổ, để cho màu cờ của đảng cộng sản thêm rực rỡ màu máu. Trong giai đoạn lịch sử này, hai Lực Lượng Quân Sự của Người Việt đã thành hình. Đó là Mặt Trận Việt Minh, một phong trào kkáng chiến chống Pháp, của Tập Thể Người Việt yêu nước, bị Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đệ tam núp bóng, khống chế bằng chủ thuyết Mác-LêNin. Lực lượng thứ hai gọi là ‘Quân đội Quốc-Gia‘, thực chất cũng chỉ là mượn màu da thay xác chết, bị thực dân Pháp và các lãnh tụ chính trị áp đảo, lợi dụng.Tóm lại người Việt lúc đó, cho dù có chiến đấu trong hàng ngũ nào chăng nữa, cũng chỉ tốn xương máu vô ích mà thôi, vì chỉ để phục vụ cho các chủ thuyết chính tri quốc tế mà thôi. Về sự thành hình của Quân Đội Quốc Gia cũng vô cùng phức tạp nhưng cũng có thể tóm tắt qua bốn lý do chính sau đây :
+ PHÁP LỢi DUNG THÀNH PHẦN HỢP TÁC CŨ : Ngay khi đặt được chân vào Sài Gòn sau tháng 9-1945, nhờ sự giúp đỡ của quân Anh-Ấn, tới VN giải giới quân Nhật. Thực dân đã sử dụng ngay các thành phần cộng tác cũ như công chúc, hương chức, quan lại, kỳ hào, lính khố xanh khố đỏ, các dân tộc thiểu số Thái, Mường, Nùng, Thổ, người Thượng cao nguyên Trung Phần, người Chàm, Khmer… để hình thành một Lực Lượng Thân Binh. Chính những người này, mới là lực lượng quân sự đầu tiên chống lại cộng sản đệ tam quốc tế, qua bình phong Việt Minh, vì họ bị kết tội là Việt Gian, luôn bị Việt Cộng đuổi giết tận tuyệt., dồn sát vào chân tường, nên phải chống lại vì không còn con đường nào lựa chọn.
+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY NGƯỜI QUỐC GIA THEO PHÁP : Ngay khi Pháp được Hồ Chí Minh cho đổ bộ lên đất Bắc, thế chân quân Lư Hán của Trung Hoa. Lúc đó, cộng sản đang núp bóng Mặt Trận Kháng Chiến Việt Minh, để được độc quyền lèo lái toàn dân và đất nước VN vào quỹ đạo của chủ nghĩa Lê-Mác. Ai cũng biết Việt Minh là tố chức chống Pháp của cả nước, bao gồm mọi đảng phái chính trị, chứ không phải của riêng đảng cộng sản đệ tam quốc tế. Ngoài ra,các lực lượng quốc gia cũng đang cùng VC hợp tác chung trong Chính Phủ Liên Hợp, để chống ngoại xâm. Do đó, để độc quyền, độc đảng, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã thẳng tay tiêu diệt các đảng phái và những ai đối lập. Do sự khủng bố trên, lực lượng quân sự thuộc các đảng phái quốc gia trong mặt trận Việt Minh, phải tách rời đề sống còn. Đây là một trong những thành phần chống lại cộng sản quyết liệt, trong Chính Phủ Bảo Đại từ sau năm 1946-19
+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY MỌI TÔN GIÁO VN THÀNH THÙ ĐỊCH : Với chủ trương hủy diệt mọi tôn giáo, Việt Minh qua cộng sản Hà Nội, đã xô đẩy các tín đồ Phật, Thiên Chúa giáo nhất là hai giao phái Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài, trở thành những lực lượng đối nghịch chống lại cộng sản.
+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY MỌI THÀNH PHẦN XÃ HỘI VÀO HÀNG NGŨ QG : Việt Minh qua sự khống chế của Đệ tam cộng sản quốc tế, đã dùng bạo lực để tiêu diệt mọi thành phần đối tượng xã hội như trí thức, địa chủ, tiểu tư sản, thợ thuyền… qua các chiến dịch gọi là Diệt Tề và Phản Động, khiến cho một số lớn thanh niên nam nữ, đang chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh, đã bỏ về vùng Pháp chiếm đóng. Như vậy tất cả bốn lực lượng trên, đều chung chủ trương chống lại cộng sản đệ tam, bắt đầu tư năm 1957. Thực tế lực lượng quân sự của Quốc Gia VN, được chính thức thành lập ngày 11-5-1950, cho tới khi ký kết Hiệp Định ngưng bắn Genève năm 1954, vẫn trực thuộc Pháp. Tháng 7-1954 chia hai đất nước, cho tới 12 giờ trưa ngày 30-4-1975, VNCH được độc lập. Ngày 19-6-1965 được chính phủ Miền Nam, chọn làm ngày QUÂN LỰC, và được tổ chức kỷ niệm hằng năm, kể cả 31 năm sau ngày rã ngũ. Cũng từ đó, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lớn mạnh và trưởng thành, thoát khỏi ảnh hưởng của ngoại bang, Nhờ vậy trong suốt hai mươi năm lửa binh tàn khốc, người lính Miền Nam mới có đủ can trường, để chiến đấu và hy sinh, trong nhiệm vu bảo vệ đất nước và tài sản của đồng bào, trước sự xâm lăng của cộng sản.
Thiết Giáp Binh QL/VNCH.
Tóm lại nếu không bị Mỹ và bọn trí thức thiên tả của Miền Nam bán đứng, chắc chắn VNCH, cũng như Tây Đức, Nam Hàn và Đài Loan, không bị mất và sụp đổ vào tay Bắc Việt vào tháng 4-1975. Người VN sẽ không bị tủi nhục vì kiếp đầu đường xó chợ, qua thân phận tị nạn, lao động, ban dâm và làm dâu bất đắc dĩ khắp chân trời góc biển.
2 – QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA :
Lãnh thổ VNCH được chia thành bốn vùng chiến thuật và một biệt khu thủ đô. Tính tới ngày ký Hiệp Định ngưng bắn tháng 2-1973 tại Paris, QLVNCH có 220.000 Chủ-Lực quân, gồm Mười Một Sư Đoàn Bộ Binh, mang số 1,2,3,5,7,9,18,21,22 và 25. Ngoài ra còn có Hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị là SD.Nhảy Dù và SD.Thuỷ Quân Lục Chiến, mười lăm Liên Đoàn Biệt Động Quân (quân số tương đương với một Trung Đoàn Bộ Binh, gồm 3 Tiểu Đoàn và một Đại Đội Trinh sát) và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt.
+ CÁC QUÂN BINH CHỦNG YỂM TRỢ : * PHÁO BINH : Gồm 66 Tiểu Đoàn và 164 Trung Đội Pháo Biệt Lập, với 1.492 khẩu pháo đủ loại (105-155-175 ly) và bảy Tiểu Đoàn Pháo Binh Phòng Không. *THIÊT GIÁP : Gồm 22 Thiết Đoàn và 51 Chi Đoàn Thiết Giáp Biệt Lập, sử dụng 2074 Xe Bọc Sắt đủ loại như M113, 114 Thiết Vận Xa và Chiến Xa M41, 48.
*KHÔNG QUÂN : Có 6 Sư Đoàn Chiến Thuật với quân số cơ hữu trên 41.000 người, được phân phối như sau : Sư Đoàn 1 Không Quân ở Đà Nẳng, SD 2- Không Quân ở Nha Trang, Sư Đoàn 3 Không Quân ở Biên Hòa, Sư Đoàn 4 Không Quân tại Cần Thơ, Sư Đoàn 5 Không Quân ở Sài Gòn và Sư Đoàn 6 Không Quân-Pleiku. Không Quân có 66 Phi Đoàn gồm 22 Phi Đoàn Chiến Đấu với 510 Phi Cơ đủ loại, trong số này có 30 chiếc Phản Lực Cơ tối tân F.5E. Ngoài ra còn 25 Phi Đoàn Trực Thăng Võ Trang với 900 chiếc, năm Phi Đoàn Vận Tải với 80 phi cơ từ C47, Dakota, C123, C130 và Mười Bốn Phi Đoàn Trinh Sát với 360 Trinh Sát Cơ. Binh Chủng Không Quân có Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không Quân tại Nha Trang, rất nổi tiếng. Sau ngày 30-4-1975, chỉ có 172 phi cơ đủ loại của KQ.VNCH bay sang đươc Thái Lan và một số ít trực thăng, bay ra các chiến hạm Mỹ ơ Biển Đông.
Khu Trục Hạm Trần Hưng Đạo HQ.1
*HẢI QUÂN : Tính đến năm 1975, quân số lên tới 39.000 người, gồm 1611 tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5 Vùng Duyên Hải, Hai Vùng Sông Ngòi và Một Hạm Đội Tuần Duyên có 83 Chiến Hạm đủ loại. Hải quân có bốn Lực Lượng Đặc Nhiệm, thuộc Hành Quân Lưu Động Sông : Lực Lượng 211 Thủy Bộ, Lực Lượng 212 Tuần Thám, Lực lượng 214 Trung Ương và Lực Lượng 99 Đặc Nhiệm. Ngoài ra còn có Lực Lượng 213 Duyên Phòng, Liên Đoàn Tuần Giang, 28 Duyên Đoàn, 20 Giang Đoàn Xung Phong, 3 Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, trong đó Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang dành cho các Sĩ Quan Hải Quân
*CƠ CẤU TIẾP VẬN : Gồm năm Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận tại các Quân Khu, riêng Vùng II có 2 cơ cấu tiếp vận, BCH2 đóng tại Qui Nhơn và BCH5 đóng tại Nha Trang, sau đó dời về bán đảo Cam Ranh, khi Mỹ rút về nước. Tổng Cục Tiếp Vận đóng tại Sài Gòn, gồm các cơ cấu như Cục Quân Y, Quân Vận, Quân Cụ, Truyền Tin, Quân Bưu và Công binh. Tất cả có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho các quân binh chủng cũng như các Tiểu Khu, Quân Trường.
Ngoài các lực lượng chính quy trên, còn có thêm 140.000 Địa Phương Quân, được tổ chức thành 367 Tiểu Đoàn và 85 Đại Đội Biệt Lập. Tất cả cá đơn vị Địa Phương Quân được đặt dưới quyền sử dụng của Tiểu Khu Trưởng, Chi Khu Trưởng. Từ sau Tết Mậu Thân 1968, nhiều quân nhân Bộ Binh cũng như các đơn vị tổng trừ bị, được thuyên chuyển vì lý do gia cảnh về nguyên quán. Do đó, nhiều Tiểu Đoàn ĐPQ tại Quảng Nam, Bình Thuận, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An… đã chiến đấu kiêu dũng, hào hùng không thua kém bất cứ một đơn vị nào của QLVNCH.
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Fri May 12, 2017 5:05 pm
Cám Ơn Anh: Người Lính VNCH (Tiếp theo)
+ CÁC QUÂN TRƯỜNG VÀ ĐẠI ĐƠN VỊ NỔI TIẾNG CỦA QLVNCH:
* SƯ ĐOÀN NHẢY DÙ: Là một trong những đại đơn vị hàng đầu và kiêu hùng của QLVNCH. Binh chủng Nhảy Dù rất có kỷ luật, kỷ cương nên được sự mến mộ của đồng bao Miền Nam trong suốt cuộc chiến. Đơn vị này chính thức được thành lập ngày 29-9-1954, khi Pháp giao lại cho Quân Đội VNCH, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (6A-P3), gồm các Tiểu Đoàn 1, 3,4,5,6,7 do Thiếu Tá Đổ Cao Trí làm Chỉ Huy Trưởng. Ngay khi trở thành đơn vị chiến đấu nòng cốt của VNCH, Nhảy Dù đã nhập cuộc, đánh tan lực lượng phản loạn của Bình Xuyên tại Sài Gòn-Chợ Lớn, cuối cùng tiêu diệt chúng tại sào huyệt ở tận Rừng Sát (Phước Tuy). Ngày 26-10-1959, Nhảy Dù được nâng từ Liên Đoàn lên Lữ Đoàn và do Trung Tá Nguyễn Chánh Thi, làm Lữ Đoàn Trưởng. Do nhu cầu cuộc chiến càng lúc càng sôi động và leo thang, kể từ ngày 1-2-1965, lần nữa Nhảy Dù lại được nâng lên cấp Sư Đoàn, với đầy đủ các cơ cấu trực thuộc, từ đơn vị tác chiến tới yểm trợ. Sư Đoàn có ba Lữ Đoàn tác chiến, ba Tiểu Đoàn Pháo Binh Dù, Một Tiểu Đoàn Công Binh, Một Tiểu Đoàn Quân Y, Các Đại Đội Trinh Sát, Điện Tử, Kỹ Thuật. Từ năm 1965 tới 1972, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư Lệnh Nhảy Dù. 1972 tới cuối tháng 4-1975, Tư lệnh Nhảy Dù là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng. Vào những ngày tháng 4-1975, Sư Đoàn Dù thành lập thêm Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng. Chính Đơn Vị này, đã cùng với Chiến Đoàn 3, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đánh những trận cuối cùng tại vùng ven đô và ngay trong thành phố Sài Gòn, giống như các chiến sĩ của SD18BB tại Xuân Lộc, làm vỡ mật quân xâm lăng Bắc Việt, trước khi Miền Nam bị sụp đổ.
Chiến đấu cơ F-5A thuộc phi đoàn 522, SĐ3KQ.
* SƯ ĐOÀN THỦY QUÂN LỤC CHIẾN : Từ ngày thành lập cho tới khi rã ngủ, binh chủng TQLC đã cùng với Nhảy Dù, Biệt Cách và Biệt Động Quân, vẫy vùng khắp bốn vùng chiến thuật và mặt trận ngoại biên. Chính các điạ danh Đầm Dơi (An Xuyên), Thành phố Huế, quốc lộ 9 và nhất là Cổ Thành Đinh Công Tráng (Quảng Trị)… đã đưa tên tuổi người lính TQLC/VN vào quân sử, hãnh diện đứng ngang hàng với các quân binh chủng thiện chiến nhất trên thế giới. Binh chủng TQLC được chính thức thành lập vào tháng 10-1954, với quân số nồng cốt được tuyển chọn từ mọi binh chủng như Hải quân, Bộ binh và Biệt Kích. Với quân số ban đầu chừng 2400 người, TQLC thành lập Tiểu Đoàn 1 và các Đại Đội Biệt Lập. Chính Tiểu Đoàn 1/TQLC vào năm 1959, khi được Tổng Thống Ngô Đình Diệm, giao cho trọng trách, trấn giữ quần đảo Hoàng Sa. Nhờ vậy đơn vị này mới có cơ hội đánh đuổi Hải Quân Trung Cộng tới chiếm quần đảo trên, khi Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, ký bán lãnh thổ VN cho Tàu vào năm 1958. Từ đầu năm 1961, TQLC được tăng quân số lên 3321 người, chia thành bốn Tiểu Đoàn và các đơn vị yểm trợ, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Ngày 1-1-1962 được nâng thành Lữ Đoàn, có quân số 5483 người. Trong dịp Việt Nam hoá chiến tranh, TQLC được nâng thành Sư Đoàn hơn 11.000 người, từ năm 1969 tới khi tan hàng. Tư lệnh cuối cùng của binh chủng này là Thiếu tướng Bùi Thế Lân.
* BIỆT ĐỘNG QUÂN : Trong các đơn vị tổng trừ bị của QLVNCH, binh chủng Biệt Động Quân bị thiệt thòi nhất, từ cơ cấu tổ chức cho tới vấn đề biệt phái xử dụng. Nguyên do vì BDQ không có Bộ Tư Lệnh mà chỉ có Bộ Chỉ Huy, qua các vị Chỉ Huy Trưởng như Thiếu Tá Phan Trọng Chinh, Đại Tá Lam Sơn, Đại Tá Phan Xuân Nhuận, Đại Tá Trần Văn Hai, Đại Tá Trần Công Liễu và Thiếu Tướng Đổ Kế Giai. Những ngày cuối cùng tháng tư đen, BDQ được nâng thành Sư Đoàn. BDQ được thành lập năm 1960, là một binh chủng biệt động cảm tử, nên được sử dụng tối đa trong các cuộc hành quân trực thăng vận, nhảy vào tận sào huyệt của VC, tại căn cứ hậu cần và mật khu, khắp bốn vùng chiến thuật. Từ ngày thành lập tới khi rã ngủ, BDQ có 15 Liên Đoàn gồm 45 TD chiến đấu. BDQ có hai trung tâm huấn luyện tâi Trung Hòa (Củ Chi-Hậu Nghĩa) và Dục Mỹ (Khánh Hòa). Đây chính là lò luyện thép, huấn luyện tân binh cùng với các Khoá học về Rừng Nuí Sình Lầy-Biệt Động, cho các cấp Hạ Sĩ quan và Sỉ Quan/QLVNCH. Trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), dân chúng sống ở Vùng 4 Chiến Thuật, không ai là không biết tới uy danh lừng lẫy của những Con Cọp, thuộc các Tiểu Đoàn 41, 42, 43 và 44 BDQ. Năm 1967, Tiểu Đoàn 37 BDQ là đơn vị duy nhất của QLVNCH, được biệt phái cho Hoa Kỳ, để trấn giữ căn cứ Khe Sanh. Trong suốt thời gian chiến đấu, TD này đã giữ vững phòng tuyến, dù bị bắt làm tiền đồn và bị cộng sản tấn công biển người. Sự kiện trên, đã làm cho các quân nhân Hoa Kỳ thêm kính nể QLVNCH. Ngoài ra, hai Tiểu Đaòn 21 và 39 BDQ thuộc Liên Đoàn 1/BDQ cũng là những đơn vị thiện nhất của binh chủng, làm rạng rỡ màu mủ nâu, trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 và tại mặt trận Sa Huỳnh (Quảng Ngải) năm 1973. Riêng TD 43 BDQ là đơn vị cuối cùng, tử thủ tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, tới trưa 30-4-1975, mới buông súng rã ngũ khi có lệnh bắt đầu hàng. Từ năm 1966, binh chủng BDQ cải tổ và thành lập các Liên Đoàn, đặt trực thuộc Quân Đoàn. Ngày nay khi nhớ về binh chủng, những quân nhân các cấp của BDQ luôn hãnh diện vì đã làm xong trách nhiệm đời trai. Nhiều cấp chỉ huy của binh chủng, đã đi vào quân sử như Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Võ Vàng, Thiếu Tá Trần Đình Tự.
* LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT : Chính thức thành lập từ năm 1957 cho tới ngày 1-1-1963, binh chủng LLDB thuộc Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống, gồm ba cơ cấu : Sở Bắc (sau đổi thành Nha Kỹ Thuật), Sở Nam (sau đổi thành Sở Liên Lạc) và Các Toán Lực Lượng Đặc Biệt.
Binh chủng Nhảy Dù.
Sở Bắc đặc trách chiến lược tình báo ngoài lãnh thổ VNCH. Sở Nam trách nhiệm tình báo trong nước. Các Toán LLDB còn được gọi Biệt Kích hay Biệt Cách. Đây là những đơn vị cảm tử, chuyên hoạt động sâu trong vòng địch đóng, không được quân bạn yểm trợ, nên mọi trường hợp nguy cấp, người Biêt Kích Quân, phải tự mưu sinh để sống còn. Từ năm1966, Hoa Kỳ chuyển giao toàn bộ lực lượng Dân Sự Chiến Đấu (Mike Forces) cho Bộ Tư Lệnh LLDB/VN. Là một binh chủng đặc biệt trong chiến tranh qui ước, nên quân số LLDB đã có lúc lên tới 36.000 người, bao gồm 66 Trại Lực Lượng Đặc Biệt, nằm rải rác dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên. Đây chính là những chướng ngại vật của cộng sản Bắc Việt, trên đường xâm nhập vào lãnh thổ VNCH. Vì vậy từ năm 1965 về sau, nhiều trận đánh đẫm máu giữa bộ đội Hà Nội và LLDB tại Pleiku, Ben Het, Đức Cơ, Dakto, Đồng Xoài, Lộc Ninh, Tống Lê Chân, Kàtum, Bến Sỏi… Bắt đầu từ năm 1970, các trại LLDB tại vùng biên giới bị giải tán, nên Biệt Kích Quân tại đây được chuyển sang Biệt Động Quân Biên Phòng. Riêng quân số của Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta và Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được nhập chung thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, trực thuộc Phòng 3 Bộ TTM. Những ngày cuối tháng 4-75 của đất nước, Chiến Đoàn 3 của LD81 BCD về bảo vệ Bộ TTM, đã tiêu diệt nhiều tăng pháo của Bắc Việt tại Ngã Tư Bảy Hiền, Bệnh Viện Vì Dân, Lăng Cha Cả Sài Gòn. Hai câu thơ bất hủ của một cô giáo, bị kẹt lại trong Mặt Trận An Lộc vào năm 1972, đã nói lên tinh thần quyết chiến và sự hy sinh tột cùng của người chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt : ‘An Lộc Địa – Sử ghi chiến tích Biệt Cách Dù – Vị Quốc vong thân‘
*TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA ĐÀ LẠT : Chính thức được thành lập tại Huế năm 1948, với nhiệm vụ đào tạo các sĩ quan trung đội trưởng. Năm 1950, trường di chuyển lên cao nguyên Đà Lạt và đổi tên là Trường Võ Bị Liên Quân. Ngày 29-7-1959, Bộ Quốc Phòng ban hàng Nghị Định số 317, cải tổ cơ sở huấn luyện trên thành một Trường Cao Đẳng chuyên nghiệp. Theo đó các sĩ quan tốt nghiệp, ngoài căn bản quân sự vững chắc, còn có trình độ văn hóa tương đương với bậc đại học. Nhưng dù lý thuyết là thời gian thụ huấn phải đủ bốn năm và trình độ sinh viên được nhập khóa, phải có chứng chỉ Tú Tái Phần 2 -ban A-B, nhưng thực tế các khóa học, cũng không đồng nhất và hoàn toàn tuỳ theo hoàn cảnh. Do đó, từ khóa 1 tới khóa 11 phụ, thời gian học chỉ trên một năm. Từ khóa 12 tới khóa 22A năm 1965, thời gian thụ huấn từ 1 năm rưỡi – 3 năm. Bắt đầu khóa 22B (20-11-1965) cho tới khóa 27, thời gian thụ huấn đúng 4 năm. Khoá 28 chỉ học 3 năm rưỡi. Khóa 29 học 2 năm rưỡi. Khoá 30 cuối cùng, nhập học ngày 31-1-1974, tới đầu tháng 4-1975, di tản về học chung với Trường Bộ Binh Thủ Đức, được di chuyển tới Long Thành (Biên Hòa) và tan hàng. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trường Võ Bị là Trung Tá Chaix (1949) và cuối cùng là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ. Tọa lạc trên dãy đồi hùng vỷ của cao nguyên Lâm Viên, ngất ngưởng giữa trời xanh lộng gió, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt bề thế, với lối kiến trúc tân kỳ, gồm đủ các phòng ốc, thư viện và phòng thí nghiệm. Tất cả do nhà thầu Hoa Kỳ đảm trách, đưa ngôi trường lên địa vị ngang hàng với các quân trường nổi tiếng nhất vùng Đông Nam Á, cũng như trường Võ Bị West Point của Mỹ.
Binh Chủng Biệt Động Quân.
Những thanh niên thời đại của Miền Nam VN trong cơn ly loạn, ai nấy đều ao ước được trở thành Sĩ Quan Đà Lạt, nhưng một số không toại nguyện vì sau này, điều kiện nhập học rất khó khăn. Sinh viên ngoài việc phải có chứng chỉ Tú Tài Phần 2-AB, còn phải qua một kỳ thi tuyển. Với các thiếu nữ VN, thì rất hãnh diện khi được sóng đôi với người yêu, trong bộ lễ phục Gabardine mùa đông, có màu Jasper với huy hiệu của Trường, trên cầu vai đỏ và nón két. Từ năm 1948 cho tới khi Miền Nam bị sụp đổ, Trường Võ Bị đã đào tạo được 4600 sĩ quan. Nhiều người được thăng cấp tướng, giữ các chức vụ then chốt trong quân đội cũng như các cơ cấu của chính phủ.
* TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC : Từ tháng 10-1951, để đáp ứng nhu cầu chiến trường, hai trung tâm đào tạo sĩ quan trừ bị được thành lập tại Nam Định (Bắc Phần) và Thủ Đức (Nam Phần). Chính khóa 1 SQTB đã được khai giảng cả hai nơi kể trên. Để thống nhất việc giảng dạy, đầu năm 1952, trung tâm Nam Định được sáp nhập vào Thủ Đức . Ngôi trường tọa lạc trên dãy đồi thấp thuộc xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định. Từ đó trường liên tục được xây cất và chỉnh trang, trở thành một trong những trường Võ Bị, đẹp và lớn nhất vùng Đông Nam Á. Cuối năm 1955, trường Bộ Binh Thủ Đức trở thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, vừa đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị Bộ Binh, vừa huấn luyện chuyên môn cho các binh chủng như Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền Tin, Quân Nhu, Quân Cụ và Quân Vận. Từ sau tháng 10-1961, phần lớn các trường chuyên môn được dời tới các địa điểm mới nhưng danh xưng Liên Trường, vẫn còn được xử dụng, vì tại Trung vẫn có ba trường hiện diện : Trường Bộ Binh-Trường Thiết Giáp –Trường Võ Thuật Thể Dục Quân Sự. Chương trình huấn luyện cho sinh viên sĩ quan Thủ Đức gồm hai giai đoạn. Bắt đầu từ khóa 6 trở về sau, sinh viên tốt nghiệp mang cấp bậc Chuẩn uý trừ bị. Từ tháng 2-1969 cho tới ngày 30-4-1975, trung tâm trở lại danh xưng cũ ‘Trường Bộ Binh Thủ Đức‘. Sau 24 năm hoạt động, trường đã đào tạo được 69 khóa Sĩ Quan trừ Bị, với 80.000 Sĩ Quan. Trong số này nhiều người đã trở thành tướng lãnh rất có tên tuổi như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Tư Lệnh QĐ1), Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư Lệnh QĐ4), Thiếu Tướng Bùi Thế Lân (Tư Lệnh TQLC, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giam Đốc CSQG)… Ngày 27-4-1975, trường từ Long Thành dời về Thủ Đức, tại địa điểm cũ ở đồi Tăng Nhơn Phú. Sáng 30-4-1975, xe tăng T54 của cộng sản Bắc Việt tấn công trường nhưng cả 4 chiếc đều bị sinh viên sĩ quan tiêu diệt bằng đại bác 105 bắn trực xạ cũng như M72 và lựu đạn lân tinh.
* TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI QUÂN NHA TRANG : Tọa lạc tại đường Duy Tân Nha Trang, chính thức khai giảng từ tháng 8-1952 nhưng phải tới tháng 7-1955, trường mới thuộc chủ quyền hoàn toàn của VNCH. Muốn được theo học, các sinh viên Hải Quân phải có Chứng chỉ Tú Tài 2 - Ban B. Thời gian thụ huấn là 2 năm, về văn hóa sinh viên có trình độ tương đương bậc đại học. Ra trường, tốt nghiệp mang cấp bậc Thiếu Úy Hải Quân. Do nhu cầu chiến trường, từ năm 1962-1968, sinh viên HQ chỉ học 18 tháng. Bắt đầu khóa 18 cho tới khóa cuối cùng là 26, sinh viên học đủ 2 năm. Suốt thời gian hoạt động, trường đã đào tạo được 2538 Sĩ Quan Hải Quân và 15.050 Chuyên viên Ngành HQ. Chỉ Huy Trưởng cuối cùng của trường là Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu (16-1-1973 tới 1-4-1975).
Thuỷ Quân Lục Chiến tái chiếm lại cổ thành Quảng Trị năm 1972.
* LIÊN ĐOÀN NGƯỜI NHÁI : Nếu trên bộ có Biệt Kich-Biệt Cách, thì dưới nước có Người Nhái. Họ là những thanh niên thời đại, sống bằng lý tưởng nên xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, khi được giao phó những nhiệm vụ đặc biệt, vô cùng nguy hiểm như ngăn chống lại Đặc Công Thủy của Bắc Việt, vớt mìn, gở thủy lôi, cứu tù binh… Được thành lập từ năm 1961, với danh xưng là ‘Liên Đội Người Nhái’, được huấn luyện tại Đài Loan. Bắt đầu từ tháng 10-1962, Người Nhái Mỹ (Seal West Coast), phụ trách huấn luyện cho Người Nhái VNCH, tại các Trung Tâm Cát Lái, Nha Trang, Cam Ranh và Vũng Tàu. Muốn trở thành Biệt Hải, Người Nhái… các quân nhân phải trải qua nhiều khóa huấn luyện gian khổ, giống như sự đào tạo một Điệp Viên Ngoại Hạng, trong chiến tranh nhà nghề. Do đó Người Nhái biết sử dụng tất cả cac loại vũ khí của Tây Phương cũng như Khối cộng Sản, biết cách hoạt động, mưu sinh cũng như đào thoát, vì địa bàn hoạt động bao giờ cũng nằm sâu trong đất địch, không có quân bạn và yểm trợ. Thời gian huấn luyện của Người Nhái là 16 tuần, kể cả 10 tuần lễ Địa Ngục. Từ năm 1972 về sau, quân số Người Nhái tăng lên 600 người và trở thành Liên Đoàn Người Nhái, gồm các Toán Hải Kích, Biệt Hải, Tháo Gỡ Đạn Dược, Trục Vớt, Phòng Thủ Hải Cảng. Có tất cả 6 Khóa Huấn Luyện Người Nhái và Đơn Vị Trưởng cuối cùng của Người Nhái là Hải Quân Trung Tá Trịnh Hòa Hiệp.
3- CÁC VỊ TƯỚNG LÃNH CỦA QLVNCH : Từ ngày thành lập cho tới khi sụp đổ, QLVNCH có hơn 100 vị tướng lãnh. Người có cấp bậc cao nhất trong quân đội là Cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng QDVNCH. Nhiều tướng lãnh đã tử trận trước ngày 30-4-1975 như Cố Đại Tướng Đổ Cao Trí, tướng Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên, Trương Quang Ân, Lê Đức Đạt, Nguyễn Văn Hiếu. Ngày 30-4-1975, khi TT Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, các tướng lãnh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ … đã lần lượt tự sát để bảo toàn danh dự quân đội và khí tiết của kẻ sĩ. Các tướng Lý Tòng Bá, Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Văn Sang, Trần Văn Cẩm… bị sa cơ giữa trận, còn Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện, bị VC hành quyết tại Cần Thơ vào ngày 1-5-1975 vì không tuân lệnh đầu hàng. Sau đó hơn phân nửa các tướng lãnh không bỏ chạy, đều bị bắt đi tù tại các trại giam khổ sai từ Nam ra Bắc, tận biên giới Viêt-Lào-Hoa. Chịu cảnh tù tội gần 17 năm, lâu nhất là các tướng Lê Minh Đảo, Trần Quang Khôi, Đỗ Kế Giai, Lê Văn Thân và Trần Bá Di. Từ ngày thành lâp cho tới khi rã ngũ ngày 30-4-1975, QLVNCH có hơn 100 tướng lãnh. Nhiều vị đã anh dũng nằm xuống giữa chiến trường như Đỗ Cao Trí, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên… hoặc bỏ xác trong chốn lao tù cộng sản tận miền biên giới Hoa-Lào-Việt. Nói chung chỉ có một số rất ít, tham sống bỏ binh sĩ thuộc cấp, đeo máy bay Mỹ chạy ra ngoại quốc để chết già chết nhục trong sự quên lãng và cười khinh của miệng đời. Nhưng may thay, giữa những kẻ hèn hạ cúi mặt ra đi, trong hàng ngũ tướng lãnh Miền Nam, còn có rất nhiều khuôn mặt LỚN đầy UY VŨ HIÊN NGANG, chấp nhận cái chết liệt oanh làm banh mặt kẻ thù lúc đó, góp phần với đồng bào và các chiến sĩ vô danh anh hùng khác, nêu tấm gương bất khuất của người lính trận, cái tiết tháo ngàn đời của đấng sĩ phu trí thức Hồng-Lạc và trên hết là cái TRÁCH NHIỆM-DANH DỰ của Cấp Chỉ Huy, Lãnh Đạo : ‘Sinh vi Tướng, Tử Vi Thần – Nhất tướng công thành vạn cốt khô nên Thành Mất Phải Mất Theo Thành‘. Những danh tướng VN Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai… ngay khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh bắt QLVNCH buông súng, rã ngũ đầu hàng cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế lúc trưa ngày 30-4-1975, các vị trên đã tự tìm cái chết vinh, làm hãnh diện cho màu cờ và sắc áo của QLVNCH, mãi mãi trong dòng sử oai hùng Nước Việt.
* THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ : Xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, từng tham gia Mặt Trận Điện Biên Phủ năm 1954. Nguyên Tư Lệnh Quân Đàn II từ 1974-1975. Viết về Tướng Phú, hầu như các sử gia cận đại trong và ngoài nước, phần nào quy trách nhiệm cho ông, trong trận Ban Mê Thuộc thất thủ vào tháng 3-1975. Kế tiếp là cuộc lui quân từ Pleiku về Tuy Hòa, trên Liên Tỉnh Lộ 7-B hoàn toàn thất bại, làm tan vở gần hết lực lượng hùng hậu của Quân Đoàn II. Hậu quả làm hằng trăm ngàn đồng bào vô tội và binh sĩ các cấp đã chết thảm trong khi di tản, vì các cấp chỉ huy cuộc lui quân từ Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, cho tới ngoài mặt trận, chia rẽ đố kỵ, làm mất hết yếu tố thành công, khác xa với cuộc lui quân đêm 20-4-1975 của SD18BB + LD1ND + TK.Long Khánh + TD82BDQ do tướng Lê Minh Đảo đi bộ chỉ huy, trên Liên Tỉnh Lộ 2, lính và dân hầu hết đều được về tới Bà Rịa, kể cả TD2/43/SD18BB của Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế, đoạn hậu trong cuộc lui quân thần tốc này. Tự biết mình là vị tướng trấn giữ biên cương, không làm tròn trách nhiệm trước đồng bào và quân sĩ dưới quyền, tướng Phú đã khẳng khái kết thúc đời mình bằng độc dược ngày 1-5-1975, dù ông có phương tiện để chạy ra ngoại quốc như một vài tướng lãnh khác. Ông chết trước là để tạ tôi với quốc dân và trên hết là chứng tỏ với giặc Cộng, cái uy vũ của người làm tướng Miền Nam, không phải ai cũng hèn hạ như VC từ Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp… khi sa cơ đã tàn nhẩn bán rẻ đồng đội mình cho địch, để đổi lấy tiền bạc và mạng sống cá nhân. * THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM : Tư Lệnh quân đoàn IV tại Cần Thơ. Ông sinh trưởng trong một gia đình danh giá đạo đức tại Thừa Thiên và xuất thân từ Binh chủng Nhảy Dù. Trong cuộc đời binh nghiệp, Ông là một trong những tướng lãnh Miền Nam, cho tới ngày cuối cùng, luôn được tiếng là liêm chính, nghiêm minh và đạo đức. Ngày 30-4-1975, dù Sài Gòn bị VC tấn công tứ phía nhưng gần hết lãnh thổ Quân Khu IV, quân lực VNCH và các cấp chỉ huy tại các tiểu khu vẫn còn nguyên vẹn và giũ vững tinh thần. Khi Tổng Thống Minh nghe theo sự xúi giục của Nguyễn Hửu Hạnh và đám VC nằm vùng, bắt QLVNCH buông súng đầu hàng. Tướng Nam tuân hành theo lệnh thượng cấp và kỷ luật quân đội nhưng nhất quyết không bỏ chạy cũng chịu nhục trước giặc xâm lăng. Vì vậy ông đã dùng súng tự kết liểu đời mình, ngay trong văn phòng Tư Lệnh quân đoàn tại Cần Thơ, trong sự vô cùng thương tiếc của thuộc cấp và binh sĩ dưới quyền, trong đó có cố Đại Tá Tỉnh trưởng Chương Thiện là Hồ Ngọc Cẩn, cùng binh sĩ, không chịu buông súng đầu hàng. * THIẾU TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG : Ông sinh năm 1933 tại Hốc Môn, tỉnh Gia Định. Nguyên Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó quân đoàn IV. Là người hùng, khi còn là Tư Lệnh SD5BB, đã cùng với Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, lúc còn làm Tỉnh Trưởng Bình Long, đã giữ vửng An Lộc, trong suốt 68 ngày bị 4 SD Bắc Việt vây hảm, trong mùa hè đỏ lửa 1972. Từ năm 1973, Tướng Hưng về làm Tư Lệnh SD21BB, sau đó là Tư Lệnh Phó QDIV. Ngày 30-4-1975, sau khi Dương Van Minh đầu hàng giặc, Thiếu Tướng Nam tuẩn tiết tại văn phòng tư lệnh. Tướng Hưng về nhà, từ giả thân quyến, bạn bè và binh sĩ dưới quyền, rồi tự sát lúc 8 giờ 30 tối cùng ngày, để mãi mãi cùng với các anh hùng liệt nử, đi vào thanh sử VN muôn đời. * CHUẨN TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ : Nguyên Tư Lệnh SD5BB, một SD dã chiến từ Bắc Việt di cư vào Nam từ năm 1955, trải qua nhiều vị tư lệnh nổi tiếng như Woàng A Sáng, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Văn Hiếu, Lê Văn Hưng và cuối cùng là Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ từ 1974 cho tới khi tàn cuộc chiến. SD5BB đã trấn giữ nhiều năm vùng đất, tuy sát nách Sài Gòn nhưng hung hiểm, bao gồm các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Tướng Vỹ đả bảo toàn được lãnh thổ gần như nguyên vẹn, cho tới khi có lệnh đầu hàng. Noi gương tiền nhân bất khuất, trước toàn thể sĩ quan các cấp thuộc Bộ Tư Lệnh SD5BB tại căn cứ Lai Khê – Bình Dương, Tướng Vỹ đã dùng khẩu súng lục Beretta 6,35 ly, từng đeo bên mình nhiều năm, để bắn vào đầu tự sát. * CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI : Ông xuất thân khóa 7 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, sinh năm 1926 tại Cần Thơ (tài liệu của Nguyễn Thanh Vân). Ông xuất thân từ Binh chủng Biệt Động Quân và là một trong những người có công lớn, trong việc hoàn thành Trung tâm huấn luyện BDQ. Dục Mỹ năm 1961. Đây là lò luyện thép đúng nghĩa, trong việc đào tạo quân nhân các cấp của binh chủng biệt động, chuyên hành quân rừng núi sình lầy. Trước khi trở thành Tư lệnh SD7BB. Chuẩn tướng Hai, đã giữ chức Chỉ Huy Trưởng BDQ/QLVNCH, góp phần lớn trong việc đánh đuổi cộng sản đệ tam quốc tế, ra khỏi thủ đô Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, trong trận Tết Mậu Thân 1968. Theo bước các cấp chỉ huy tại quân đoàn IV anh hùng là Thiếu Tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng nên ông đã tự sát tại căn cứ Đồng Tâm của BTL.SD7BB vào trưa ngày 30-4-1975. Thi hài ông đã được thuộc cấp, nhân lúc cộng sản đang say men vơ vét chiến lợi phẩm, mang về tận Sài Gòn giao cho gia đình an táng.
Đúng như lời nhận xét thật vô cùng chí lý của Thiếu tướng Mỹ George Wear’ khi quân sĩ VNCH được chỉ huy bởi các cấp lãnh đạo cũng như tướng lãnh giỏi, đạo đức, thì Họ chiến đấu xuất sắc như bất kỳ một quân đội của các nước trên thế giới, mà điển hình nhất là trận đánh cuối cùng tháng 4-1975 tại Xuân Lộc-Long Khánh, đã làm cho tập đoàn lãnh đạo cộng sản, tại Bắc Bộ Phủ phải run sợ và la làng, vì bị thương vong và thiệt hại quá to lớn, hơn bất cứ một trận đánh nào đã xảy ra trong chiến cuộc Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975).’ Câu nói trên đã được chứng minh một cách trung thực về khả năng tác chiến thần thánh của QLVNCH, trong viêc ngăn chân và tiêu diệt giặc Bắc xâm lăng. Nhưng tiếc thay những bậc sĩ quan các cấp, đạo đức tài giỏi thì bạc mệnh, đa truân cũng như những cấp lãnh đạo anh minh, lại vô quyền bất lực. Tình trạng VNCH như thế làm sao không mất nước vào tạy đệ tam cộng sản quốc tế, y như nước Sở thời Chiến quốc, vua u mê, quần thần xu nịnh ngu dốt, nên cuối cùng bị Tần quốc thôn tính tiêu diệt.
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Sun May 14, 2017 10:52 am
Cám Ơn Anh: Người Lính VNCH (Tiếp theo - hết)
4- NHỚ ƠN ANH: NGƯỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH
Hai mươi năm chinh chiến, người Lính VNCH đã có 250.000 gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Hiện nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nửa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính, càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ, xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Đã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ. Thế chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg, chỉ kết tội những Đầu Sỏ trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Đức-Ý-Nhật.. Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi, là người đã ở lại pháp trường, để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó. Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu..đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu, bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự. Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia, nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Định Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội..mới biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho cảnh ba đồng, ba cộc, của kiếp lính Miền Nam.
Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục. Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bảo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bảo, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân, qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
Nữ quân nhân QL/VNCH diễn hành ngày Quân Lực 19 tháng 6.
+ NGƯỜI LÍNH VNCH BỊ TRÍ THỨC THIÊN TẢ ĐÂM SAU LƯNG : Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình, đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất và thời gian để đâm thọt, phá hoại. Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ. Chính bọn trí thức thiên tả này, đã lợi dụng tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tuyền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.
+ MỸ BÁN ĐỨNG VNCH CHO cộng SẢN : Bắt đầu từ ngày 13-5-1968, Mỹ và Bắc Việt đã lén lút đi đêm với nhau tại Paris, để tìm cách đổi chác trên thân xác của VNCH. Nhưng kẻ cắp gặp bà già, nên dù hằng tuần có gặp nhau, Kissinger và Lê Đức Thọ vẫn không đạt được một thỏa thuận nào. Theo tiết lộ mới đây của Kissinger, trong hồi ký ‘The Kissinger Transcripts‘, trong đó đã ghi chép đầy đủ về mọi mánh lới, thủ thuật của Mỹ để ve vãn Trung Cộng, chống lại Liên Xô vào tháng 1-1972. Cũng theo sách dẫn chứng trên, thì Kissinger đã làm đủ mọi thủ đoạn, để đạt cho được mục đích. Trong cuộc, VNCH là con vật tế thần, mà cặp Nixon và Kissinger đã xử dụng, nên cuối cùng dẫn tới sự chấp nhận những điều kiện phi lý, mà Hoa Kỳ dùng bùa viện trợ, ép buộc VNCH phải ký kết trong bản hiệp định ngưng bắn năm 1973. Riêng đối với Bắc Việt, mặt thật cũng đâu có hãnh diện gì hơn VNCH, trong cuơng vị làm đầy tớ Nga-Tàu. Bởi vậy, khi Liên Xô thấy Mỹ và Trung Cộng đã liên kết với nhau, chắc chắn Tàu Cộng sẽ theo Mỹ, bắt VC ngưng bắn có điều kiện. Bởi vậy, một mặt LX viện trợ tối đa cho Hà Nội, đồng thời ra lệnh cho VC mở hết mặt trận này tới chiến dịch khác, mà lần cuối cùng là ngày quốc hận 30-4-1975, đưa cả nước VN trong ba mươi năm đắm chìm trong cảnh nghèo đói, lầm than, hận thù vì vũng bùn ô uế của cái gọi là thiên đàng xã hội chủ nghĩa. Người Mỹ đã ký kết hiệp định ngưng bắn Ba Lê, chỉ với mục đích rút quân và đem tù binh về nước, để Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống Mỹ và Kissingertiếp tục giữ chức lớn trong chính quyền Hoa Kỳ. Ngoài mục đích trên, người Mỹ không cần đếm xỉa gì tới tương lai cũng như số phận của người Việt, nước Việt.
Sau này, khi VNCH đã sụp đổ, nhiều nhân vật quốc tế liên quan tới cuộc chiến VN, đều phê bình sự tắc trách của Hoa Kỳ, khi dựng lên cái quái thai hiệp định ngưng bắn, để bán đứng đồng minh của mình. Chính TT. Nixon cũng đã xác nhận lỗi lầm của mình trong tác phẩm ‘ No More VietNam’ rằng tôi đã thấy những vấn đề nan giải của hiệp định Ba Lê nhưng quan trọng nhất trong thỏa ứơc này là đã không bắt buộc Hà Nội rút hết bộ đội đã xâm nhập về Bắc. Còn M. Gauvin, đại sứ Canada tại Hy Lap, nguyên chủ tịch uỷ hội kiểm soát quốc tế (CICCS) tại VN, đã tuyên bố ‘VNCH bi sụp đổ hoàn toàn do quyết tâm bỏ rơi của Hoa Kỳ. Riêng cái hiệp định ngưng bắn ký kết tại Ba Lê năm 1973, đã không phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của người dân Miền Nam, là muốn sống hòa bình và không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, nên ngay từ năm 1954, họ đã phải bỏ miền bắc để vào Nam, chạy trốn VC’. Nhưng phê bình một cách thẳng thắn, là Sir R.Thompson ‘ Sự sống còn của Nam VN, đã bị người Mỹ tước đoạt hay nói thẳng là bán đứng. Có làm như vậy, Hoa Kỳ mới tránh cho nước mình bị khỏi bị sâu xé tan nát. Một điều nghịch lý khác là cộng sản Bắc Việt, bị bó buộc tới bàn hội nghị, không phải để cứu họ, mà là cứu nước Mỹ. Nên dĩ nhiên Mỹ phải đem đồng minh VNCH ra bán đứng, để đền ơn cứu mạng‘. Ngoài vấn đề phủi tay tại Nam VN sau khi đã đem được tù binh và hài cốt quân Mỹ về, quốc hội Hoa Kỳ còn bội ước, khi liên tục biểu quyết các đạo luật ngăn cấm can thiệp bằng quân sự của Mỹ tại Nam VN, cắt giảm dần quân viện, không chịu hoán đổi quân trang quân dụng, như các thỏa ước đã ký kết . Sự bất công vô lý, đến đổi Tuỳ Viên Quân Sự (DAO), tại Nam VN, đã phải viết ‘Người Lính VNCH do đó, đã phải chấp nhận sống với những nhu cầu, dưới mức bình thường, làm cho tinh thần người chiến sĩ xuống thấp,vì bị hạn chế các phương tiên ngăn chống giặc‘. Chỉ có Robert S McNamara, cựu bộ trưởng quốc phòng thời TT.John Kenedy, thì vẫn ngoan cố để chạy tội, quên hết trách nhiệm của mình, trong tác phẩm ‘In Retrospect: The Tragedy and Lessons Of VN‘, bêu xấu và đổ hết trách nhiệm làm mất nước cho QLVNCH.
Sự thật, khi viết về Quân Lực VNCH, hầu hết các nhà quân sử trên thế giới cũng như các Sử Gia hiện tại của VN như Nguyễn Khắc Ngữ, Chánh Đao, Phan Nhật Nam, Trần Đại Sỹ, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng, Nguyễn Lý Tưởng… đều đứng chung trên quan điểm ca tụng tinh thần hy sinh và trách nhiệm của người lính VNCH, đối với đất nước và đồng bào. Nhờ thiện chiến, có kỷ luật nghiêm minh, biết bổn phận, nên trong suốt cuộc chiến hai mươi năm, dù lúc nào VNCH cũng bị Bắc Việt tấn công lén như Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972… nhưng Họ đã can trường lật ngược hoàn cảnh, để chuyển thắng thành bại. Hầu hết lính và các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đã quyết tử trong giờ thứ 25, tới khi được lệnh bắt buông súng của Dương Văn Minh, mới chịu rã ngũ.
Mới đây có nhiều tác phẩm được công bố như The Pentagon Papers, Fires In The Lake của Frances Fitzgeral, The Best and The Brightest của Halberstam và nhất là các hồi ký của Kissinger đều cho thấy từ khởi đầu cuộc chiền, đến khi tàn cuộc, cho thấy người Mỹ luôn luôn là đạo diễn chính trong thảm kịch VN. Trong lúc cộng sản Bắc Việt, được Tập Đoàn cộng Sản Quốc Tế cả Liên Hiệp Quốc, viện trợ quân sự thả dàn, thì QLVNCH bị Hoo Kỳ qua Viện Trợ, chèn ép bắt bó tay, nên phải chiến đấu trong nghiệt ngã để sinh tồn. Theo Harry H Noyes, qua tác phẩm ‘ Herdic Allies’, với tư cach là một sĩ quan cao cấp của Mỹ, đã chiến đấu nhiều năm ngoài mặt trận, bên cạnh QLVNCH, nên đã có những nhận định rất thẳng thắn, trái ngược với mồm mép mệng lưỡi bọn nhà báo và chính trị con buôn Mỹ và tây phương. Theo tác giả trên, thì thái độ bêuxấu hay bóp méo sự thật, nhắm vào QLVNCH, chẳng qua chỉ là sự kỳ thị chủng tộc thường thấy của bọn da trắng, lúc nào cũng tự xem mình là văn minh, đứng trên các dân tộc khác. Một điều quan trọng khác, là suốt cuộc chiến đẫm máu tại Nam VN, đa số dân tây phương và Hoa Kỳ, đã bị điệp viên của khối cộng sản, củng như KGB của Liên Xô, mua chuộc hay tuyên truyền. Do đó lúc nào họ cũng có cảm tình với Bắc Việt, nên cứ bóp méo sự thật, để khinh bỉ VNCH.
Bảo rằng QLVNCH không chịu chiến đấu, trốn trách nhiệm, chỉ muốn khoán trắng cho quân đội Mỹ, kể cả sự oanh tạc Miền Bắc, là một ngang ngược và phi lý. Để trả lời, nhiều người đã hỏi ngược lại người Mỹ rằng ‘vậy thì từ năm 1955-1965 và cuối năm 1971-4/1975, khoảng thời gian đó, người Mỹ hoặc chưa tới hay đã rời VN, vậy ai đã chiến đấu với bộ đội Bắc Việt?’. Còn về vấn đề oanh tạc Miền Bắc, từ đầu tới cuối có khi nào Hoa Kỳ giao trách nhiệm cho Không Quân VNCH, cũng như chịu cung cấp cho họ các loại phi cơ chiến đấu tối tân, để chiến đấu cho có hiệu quả. Một bí mật khác, là người Mỹ dành độc quyền oanh tạc Miền Bắc, để thi hành lệnh của Hoa Thịnh Đốn, là đem gần hết số bom đổ xuống biển hay núi rừng không phải là mục tiêu quân sự cần tiêu diệt. Bởi vậy làm sao dám giao nhiệm cho KQ.VNCH?
Còn trong thời gian Mỹ tham chiến tại VN, mở các cuộc hành quân tiêu diệt cộng sản. Tất cả đều là HÀNH QUÂN HỖN HỢP, giữa quân Đồng Minh-Hoa Kỳ và VNCH, tiêu biểu như HQ Cedar Faces tại Vùng Tam Giác Sắt (Bình Dương-Hậu Nghĩa), đầu tháng 1-1967, tiếp theo là HQ Toledo, mục đích càn quét Chiến Khu C và Cục R, do Lực Lượng hỗn hợp, gồm Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù-Hoa Kỳ cùng 2 Tiểu Đoàn 33-35/Biệt Động Quân/VNCH đảm trách. Đặc biệt tại Điện Biên Phủ KHE SANH cuối năm 1967, vẫn có quân VNCH tham dư, đó là TD37- BDQ, thuộc Liên Đoàn 1/BDQ của Quân Đoàn I.
Sau cuộc chiến, để chạy tội bán đứng đồng minh, cũng như phản bội Tổ Quốc và đồng bào mình, Hoa Kỳ và bọn khoa bảng-trí thức thân cộng Miền Nam, những người muôn năm trong dòng sử Việt, được bia đời phong cho danh hiệu là ‘TRÍ THỨC CHỒN LÙI’, còn các lãnh tụ cộng sản như Stalin, Mao Trạch Đông, kể cả Hồ Chí Minh, coi rẻ hơn CỤC PHÂN NGƯỜI vì suốt kiếp chẳng làm được một điều gì tốt hay ích lợi, để giúp cho đất nước và đồng bào. Bọn trí thức này theo chân Người Việt tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại, vẫn sống cao sang quyền thế như lúc còn trà trộn trong các Đại Học, Chùa-Nhà Thờ, Tòa Báo, trên các trang sách-thơ, vẫn chứng nào tật nấy, không hề thay đổi lương tâm một chút gì, dù phong trần đã nếm, vinh nhục bề bề và trên hết là vẩn bám vào Người Việt Tị Nạn Cộng Sản để mà sinh tồn, dù rằng chúng đã nói là ĐÃ ĐI HẾt BIỂN nhưng lại không dám về sống với Việt Cộng, để hưởng Vinh Hoa Phú Quý, Tự Do Dân Chủ trong Xã Nghĩa Thiên Đàng, như chúng hằng ca tụng. Chính người Mỹ và bọn trí thức-khoa bảng thân cộng này, trước sau vẫn đổ trách nhiệm làm sụp đổ Miền Nam cho các cấp lãnh đạo của VNCH. Riêng sự bảo rằng VNCH không có lãnh đạo xứng đáng, ngang cơ để đối đầu với cáo già Hồ Chí Minh của Bắc Việt, sau khi TT Ngô Đình Diệm bị hạ sát vào ngày 1-11-1963, là điều suy nghĩ quá đáng và đâu có khác gì việc Mỹ nói QLVNCH không chiến đấu, mà chỉ giao hết cho quân đội Hoa Kỳ.
Nhưng mai mỉa nhất vẫn là lời xác nhận của Kissinger, khi cho bách hóa các tai liệu cũ liên 1uan tới chiến cuộc Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975 ) ‘Mỹ đã chơi với Trung Cộng từ năm 1972, vậy thì bán Miền Nam VNCH cho Cộng Sản Quốc Tế Bắc Việt, qua Hiệp Định Paris 1973, cũng đâu có gì lạ?‘ Sự thật, QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn. Họ được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Đông Nam Á thời đó như Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Trường Bộ Binh Thủ Đức, Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát..cũng như Trường Đại Học Quân Sự. Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa : ‘... xin vì chàng, xếp bào cỡi giáp xin vì chàng giũ lớp phong sương vì chàng tay chuốc chén vàng vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.’ (Chinh Phụ Ngâm – Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào. Thử hỏi trong cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH? Trong lúc đã có không biết bao nhiêu người hiện nay, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Trong số này có rất nhiều người đang dấn thân lo chuyện non nước. Không biết trong tâm tư của họ, có một giây phút nào, do lương tâm xao động, khiến họ chợt nghĩ tới những người xưa đã VỊ QUỐC VONG THÂN ? Cũng may hầu hết người Miền Nam, xưa nay vẫn biết ơn người lính năm nào, nhất là sau ba mươi năm qua, đã biết hết cảnh đổi đời oan nghiệt. Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
‘… tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí sa trường dung ruổi đã phơi thây đoàn quân hùng liệt nay về đất hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi mà khóc quê hương khuất bến bờ nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô.’
Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường lưu xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH đang kẹt ở địa ngục xã nghĩa. Người lính cũ giờ này không cần gì hết vì cái gì họ cũng đã có, kể cả tình thương yêu cuối đời mà đồng bào cả nước đã dành cho họ, như trong những truyện ngắn của nhà văn trong nước Vũ Ngọc Tiến vừa được phổ biến.
Xóm Cồn tháng 6-2006 HỒ ĐINH Nguồn: Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng Blog
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Thu May 25, 2017 9:05 pm
Sách mới: Câu chuyện người lính VNCH
29/04/2017 Bùi Văn Phú
Phó GS Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn (phải) trong buổi giới thiệu tác phẩm ở Đại học U.C. Davis, California, 10/2016, cùng tác phẩm Black April của George J. Veith và Nationalist in the Viet Nam Wars của Nguyễn Công Luận. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Người lính Việt Nam Cộng hòa đã chiến đấu như thế nào trong 20 năm bảo vệ miền Nam? Và sau ngày 30/4/1975, khi miền Nam đầu hàng miền Bắc thì số phận của họ và gia đình ra sao?
Câu trả lời có thể tìm thấy trong tác phẩm “South Vietnamese Soldiers: Memories of the Vietnam War and After” của Phó Giáo Sư Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn, Đại học Monash, Úc [Nxb Praeger 2016, 289 trang].
Đây là câu chuyện của khoảng 40 cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa qua sử ký truyền khẩu (oral history) mà tác giả đã ghi lại, biên soạn rồi tổng hợp và phân tích. Nhiều câu chuyện không chỉ được nghe kể mà đã được viết bằng tiếng Việt và dịch ra Anh ngữ. Tác giả cũng sử dụng nhiều tài liệu từ những đặc san tiếng Việt của các quân binh chủng.
Đó là những câu chuyện về đời lính, về lý tưởng phục vụ tổ quốc, về tình đồng đội, về hệ lụy phủ xuống cuộc đời những người lính miền Nam sau ngày 30/4/1975 và về tương lai của họ nơi đất Úc.
Tất cả từng là những chiến binh, người lớn tuổi nhất sinh năm 1917 đã tham dự ba cuộc chiến và trẻ nhất sinh năm 1955 mới vào quân ngũ đôi năm.
Họ phục vụ trong nhiều binh chủng từ Thủy quân Lục chiến, Nhảy dù, Biệt Động quân, Không quân, Hải quân, Quân y cho đến Thiết giáp, Tiếp vận, Địa Phương quân, Nữ Quân nhân. Họ không phải là những lãnh đạo hay chỉ huy cao cấp của mà là những sĩ quan cấp úy, cấp tá. Họ là phi công trực thăng, là tiểu đoàn trưởng, y sĩ tiền tuyến hay cao nhất là chỉ huy trưởng của Đại học Chiến tranh Chính trị.
Câu chuyện đã khơi nguồn cho tác giả tìm hiểu về người lính miền Nam là từ Trung úy Phạm Văn Chương, tốt nghiệp cử nhân luật, nhập ngũ năm 1969. Sau thời gian thụ huấn tại quân trường, ông giữ chức vụ sĩ quan hành chánh, tài chánh cho Tiểu đoàn 7 Biệt Động quân.
Cựu Trung úy Phạm Văn Chương trên bìa sách viết về người lính VNCH của Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Sau tháng Tư 1975 ông bị bắt đi học tập cải tạo cho đến năm 1979 thì được thả về. Sống không hộ khẩu, bị coi như công dân hạng hai trong một đất nước đã hòa bình, thống nhất, năm 1983 ông vượt biển cùng với một người con trai.
Cuộc đời binh nghiệp của Trung úy Chương, và những chiến sĩ khác, được nhắc đến với mục đích bổ sung cho khoảng trống trong các nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam mà đến nay còn thiếu vắng tiếng nói từ những người lính Việt Nam Cộng hòa.
Còn có hàng nghìn, có thể nói hàng chục nghìn, câu chuyện như của Trung úy Chương mà đến nay chưa được ghi lại nhiều bằng Anh ngữ, hay ngoại ngữ, dù trong mảng thông tin Việt ngữ ở hải ngoại đã có rất nhiều câu chuyện như thế được viết lại trên báo, trong các tạp chí, đặc san.
Viết về người lính Việt Nam Cộng hòa đến nay mới có một vài tác phẩm Anh ngữ như “Black April” của George J. Veith, “Nationalist in the Viet Nam Wars” của Nguyễn Công Luận.
Tiếng Việt có “Tháng Ba gãy súng” của Cao Xuân Huy, “Cơn uất Hạ Lào” của Bùi Đức Lạc, “Nhớ về người lính năm xưa” của Đoàn Phương Hải.
Trong thời chiến, làm trai phải đáp lời sông núi. Đó là câu chuyện của Nguyễn Viết Huy, được sinh ra trong một căn cứ quân sự vì có bố là sĩ quan phục vụ đất nước từ ngày Quân đội Quốc gia được khai sinh. Anh của Huy là lính Nhảy dù còn Huy là sĩ quan Địa Phương quân. Khi chiến tranh chấm dứt thì bố, dù đã giải ngũ với cấp bậc thiếu tá, vẫn phải đi học tập cải tạo cùng với con.
Với sứ mệnh bảo vệ tổ quốc, người lính Việt Nam Cộng hòa thường xuyên đối diện với cái chết. Thiếu úy Văn Tấn Thanh tham gia mặt trận Quảng Trị mùa hè 1972 và đã chứng kiến cảnh đồng đội cùng đơn vị Thủy quân Lục chiến chết vì đạn pháo trên Đại lộ Kinh hoàng.
Trung úy Phạm Văn Chương nhớ mãi cảnh đưa xác người bạn thân cùng đơn vị tử trận từ chiến trường về cho vợ và con thơ của bạn, trên một chuyến bay có cả trăm quan tài lính. Đó là một trải nghiệm rất đau buồn trong đời ông.
Qua chuyện kể của những sĩ quan, hầu hết là cấp úy, cho thấy đa số có học lực tú tài. Nhiều người đang đại học luật hay đại học khoa học thì tổng tấn công Mậu Thân 1968 hay Mùa hè Đỏ lửa 1972 xảy đến nên phải xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao.
Nguyễn Văn Luyện sinh năm 1952, cựu học sinh Pétrus Ký. Năm 1972 đang học luật năm thứ hai thì bị động viên vào Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức cùng với một người anh. Sau khóa huấn luyện người anh được biệt phái về dạy học còn Luyện gia nhập binh chủng Thiết giáp. Gia đình Luyện có bốn anh em là lính tác chiến.
Về đơn vị một thời gian, trong một lần đụng độ với địch quân, Luyện trúng đạn AK-47 làm thủng ruột, được đưa về Tổng y viện Cộng hòa điều trị trong nhiều tháng. Qua Luyện là hình ảnh và sinh hoạt trong một bệnh viện quân đội lớn nhất của miền Nam, nơi có tình đồng đội quí trọng nhau, có sự chăm sóc tận tình của những bác sĩ, y tá dành cho thương binh chiến trường.
Dù đang còn điều trị vết thương, sau tháng Tư 1975 Luyện cũng bị bắt đi học tập cải tạo 5 năm.
Một thương phế binh tên Lúa đang được điều trị cũng bị đuổi ra khỏi tổng y viện. Gia đình Lúa sau đó phải đi kinh tế mới, ở đó thiếu thuốc men nên người con gái 7 tuổi của ông đã chết sau một cơn sốt. Ít năm sau về lại thành phố, không có tiền mua thuốc nên đứa con trai cũng qua đời khi mới 9 tuổi sau một cơn bệnh.
Phó GS Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn (phải) trong buổi giới thiệu tác phẩm ở Đại học U.C. Davis, California, 10/2016, cùng tác phẩm Black April của George J. Veith và Nationalist in the Viet Nam Wars của Nguyễn Công Luận. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Hình ảnh y sĩ tiền tuyến cũng được ghi lại trong sách. Bác sĩ quân y Trần Xuân Dũng, sinh năm 1938, cựu học sinh Chu Văn An và Đại học Y khoa. Năm 1965 ông gia nhập quân đội và giữ chức y sĩ của Tiểu đoàn 4 Thủy quân Lục chiến là một đơn vị tác chiến thường xuyên đối đầu với địch trên chiến trường.
Phục vụ đồng đội cho đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến có bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến ở mặt trận Gò Dầu Hạ.
Nhiều người lính Việt Nam Cộng hòa đã chu toàn nhiệm vụ cho đến khi buộc phải chết. Tiếp tục chiến đấu và không tuân lệnh đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh là tiểu đoàn trưởng Trần Đình Tú của Tiểu đoàn 38 Biệt Động quân. Dù có lệnh đầu hàng, ông đã cùng một số binh lính chiến đấu với bộ đội cộng sản ở quận Củ Chi cho đến khi hết đạn, để rồi bị bắt và bị xử tử cùng với nhiều đồng đội.
Hành động anh dũng của những người lính Biệt Động quân đã được một người cùng binh chủng là Nguyễn Hữu An, là bạn thân của Trần Đình Tú từ nhỏ, tìm hiểu và viết lại.
Tập sách còn chuyện kể của nhiều binh sĩ thuộc các quân chủng, đơn vị khác. Vũ Văn Bảo là phi công trực thăng đưa quân và tiếp liệu vào các vùng chiến trận. Hải quân có Trần Văn Giáo, Trương Công Hải là những sĩ quan. Nữ quân nhân có Thanh, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, có Thúy.
Sau tháng Tư 1975 những người lính này đã phải trải qua nhiều tháng năm trong các trại học tập cải tạo từ nam ra bắc, ít thì vài tháng, nhiều thì cả chục năm. Ở những nơi đó họ phải lao động cực nhọc và đã thấy cảnh tù nhân qua đời.
Khi được thả cho về với gia đình họ vẫn bị coi là “ngụy”, bị quản chế, không được quyền công dân, bị đuổi đi kinh tế mới, con cái không được vào đại học chỉ vì lý lịch.
Con đường còn lại cho tương lai của chính họ và gia đình là vượt biên. Trong số thuyền nhân vượt biển nhiều người mất tích hoặc chết vì đói khát. Họ may mắn sống còn và được nước Úc nhận cho định cư.
Ở miền đất mới họ làm lại cuộc đời, hội nhập vào đời sống như hơn 230 nghìn người Việt đã định cư ở Úc trong hơn 40 năm qua.
Với chính sách dành cho những chiến binh đồng minh từng chiến đấu bên cạnh binh sĩ Úc nên có những cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa, trên 60 tuổi và đã định cư ở Úc trên 10 năm, được cứu xét cho hưởng quyền lợi cựu chiến binh Úc.
Năm 1994 có Trương Công Hải, sau có Nguyễn Việt Long và nhiều cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa khác đã được chính phủ Úc chấp thuận cho qui chế cựu chiến binh, sau khi hoàn tất thủ tục giấy tờ cùng với hai người làm chứng xác nhận về thời gian phục vụ trong quân ngũ.
Mỗi năm đến ngày ANZAC, nhiều cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa đã cùng với cựu chiến binh Úc tham gia diễn hành. Nhiều nơi trên đất Úc đã có tượng đài chiến sĩ Úc-Việt.
“South Vietnamese Soldiers” không chỉ cho người đọc nhìn thấy cuộc đời của những người lính đã phục vụ tổ quốc, và những hệ lụy, mà còn đem đến những kiến thức về lịch sử thành hình của quốc gia và của các đơn vị, các binh chủng Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Tác phẩm đã phản ánh tiếng nói và ước mơ của những người lính Việt Nam Cộng hòa, là những người “Việt tị nạn ở nước ngoài sau chiến tranh đã đem theo với họ những khát vọng của miền Nam là trở thành một quốc gia tự do dân chủ”, như tác giả ghi lại ở những trang cuối sách.
[Vì trong sách tên của người Việt không có dấu, người viết bài cố gắng bỏ dấu theo hiểu biết và có thể không đúng với tên thật ngoài đời. Mong được thứ lỗi nếu có sai sót]
Bùi Văn Phú - Tác giả dạy đại học cộng đồng và hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Fri Jun 02, 2017 12:28 pm
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Mường Giang
Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250.000 người gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Tuy nay chính phủ cũng như QLVNCH không còn nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế Chiến 2 kết thúc, Tòa Án Quốc Tế Nuremburg chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật… Năm 1920, lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ý bắt và tử hình, nhưng chính tổng tư lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 58.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị Cộng Sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có Cộng Sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội... mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “cảnh ba đồng, ba cọc” của kiếp lính Miền Nam. Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tị nạn” sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt “những tên tuổi lớn” một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố… kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội... cũng lợi dụng “danh nghĩa người lính” để được tị nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào... để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại. Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đày đoạ, rồi chết âm thầm trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khóac lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn,vì không thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngả ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Asams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.
Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tị nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có DB Elizabeth Holtzman (DC/New York) và DB Harold Sawyer (CH/Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại.
Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddic Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General, I’am so,so,so... sorry”. Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “sống nhờ người tị nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.
Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SD Dù, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BDQ có bị tổn thất nặng nề, nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại Úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng PDC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ & Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương binh về tới tấp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).
Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiến sự thật, nên chỉ đành “chôm chĩa tin từ báo Mỹ“ rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng không có đại bàng” rằng: “VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến để bảo vệ cho “đám này”, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống trước ngày 30-4-1975.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thánh, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, Kinh Thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù; giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để giày xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọt, phá hoại những người đang liều mạng xã thân bảo vệ mạng sống thừa thãi ký sinh của mình.
Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.
Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quãng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước Cộng Sản, trong đó có CSVN. Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải Tạo” để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nỗi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là không còn bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, trùn đất, cào cào... kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẵn bên cạnh:
“Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng, đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa bạn bè đến đây càng lúc càng thưa thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác thằng chống lại thì xác thân tan nát thằng bệnh đau thân xác cũng không còn đem xác người đi phá núi dời non đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn thay trời dẫn nước vào sông đã cạn thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông nửa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh tôi đã sống qua những ngày đói lạnh tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn để theo đảng biến người thành khỉ vượn.” (thơ Mường Giang)
Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết , CSQT cũng không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tử Sĩ của VNCH, lại càng bị đoạ đày thê thảm.Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật vẫn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích nghìn đời không phai mờ: Ðó là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát,Trường Ðại Học Quân Sự... chứ đâu phải chỉ có những tướng tá từ thời Pháp thuộc?!
Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa:
“...xin vì chàng, xếp bào cởi giáp xin vì chàng giũ lớp phong sương vì chàng tay chuốc chén vàng vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng...” (Chinh Phụ Ngâm Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc; khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN?
Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
“...tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí sa trường dun ruổi đã phơi thây đoàn quân hùng liệt nay về đất hồn vẫn quanh co dẫm lối gầy chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi mà khóc quê hương khuất bến bờ nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô” (thơ Mường Giang)
Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH đang kẹt ở quê nhà.
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Wed Jun 14, 2017 7:48 pm
Cám ơn người lính VNCH
Destiny Nguyễn - (Phát biểu thay mặt Hậu Duệ Biệt Động Quân nhân dịp Kỷ niệm tám năm thành lập Hội Biệt Động Quân vùng Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận tại nhà hàng Harvest Moon Virginia, 6/11/2017)
Kính thưa các bậc trưởng thượng.
Kính thưa quý vị quân nhân Việt Nam Cộng Hoà
Còn dịp nào quý hơn hôm nay để chúng con được bày tỏ cảm nghĩ của lớp trẻ về thế hệ các bậc chú bác đã phục vụ quốc gia dân tộc trong chính thể VNCH.
Lời nhạc Minh Kỳ còn thổn thức: “Có hay chăng người ơi, chốn xa xôi chàng trai, còn đem yêu thương rắc gieo lên muôn vàn oán hờn”. Tình nhà nợ nước hai vai, các chú bác hiên ngang sống đời trai thời loạn. Vận nước điêu linh, chí hùng dang dở, kẻ vùi thây nơi xa trường lửa đạn, người trở về trên chiếc băng ca, thành thương phế binh lê lết nẻo quê hương.
“Chiến tranh tàn những tưởng được đoàn viên Nào ngờ cuộc báo thù chùng chùng vây bủa Thân thất trận nhục vinh tràn máu lửa Nồi da nấu thịt, ý thức hệ giết anh em
Lệnh buông súng, mây nặng tháng Tư đen Rời đơn vị khi Sài-gòn bỏ ngỏ Hoảng loạn cuộc di tản Bảy-lăm còn đó “Sao anh đành bỏ em”, nghe thắt ruột cháy lòng”
Suốt chiều dài lịch sử hơn 4000 năm của dân tộc. Chúng ta có ba lần Bắc thuộc, một lần Pháp thuộc và một lần Trịnh Nguyễn phân tranh chia đôi đất nước nhưng chưa có thảm kịch nào kinh hoàng hơn thảm kịch của ngày 30 tháng 4 năm 1975. Và cũng chưa có cuộc chiến tranh nào trong lịch sử thế giới lại có sức tàn phá dai dẳng như cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lăng của chủ nghĩa Cộng Sản vào miền Nam Việt Nam. Một cuộc chiến mà Cộng Sản Bắc Việt cố tình ngụy tạo bằng một cái tên mỹ miều là "Giải phóng miền Nam, đánh Mỹ cứu nước"
Chua xót nào hơn khi những người trai hiên ngang, mang dòng máu Lạc Hồng ngàn đời kiêu hãnh, lãnh trách nhiệm bảo quốc an dân, bảo vệ giang sơn tổ quốc, những người lính VNCH khí hùng còn ngùn ngụt ngất trời mà thân lại thành thất trận. Ngậm ngùi thay chí lớn chưa thành.
Nếu con không sinh ra là con của một người lính, nếu con cũng có một tuổi thơ êm đềm với chăn êm nệm ấm thì có lẽ con không đủ tự tin để đặt bút viết những dòng chữ này. Chính ba con - một người lính VNCH. Chính các chú bác đây - những người lính VNCH đã truyền lại cho con những trăn trở mà con phải đi tìm. Để rồi con vỡ oà trong những dòng cảm xúc:
Tàu Xuôi Bắc đưa người lưu đày biệt xứ Mất quê hương khi đất nước hòa bình Cha nuốt lệ, mắt trừng, song cổ nghẹn Đồng đội tù nhân, buồn! cúi mặt lặng thinh
Một bước chia xa nỗi ngàn trùng cách biệt Ngoái lại nhìn hình bóng vợ nhạt nhòa Níu giữ làm sao giọt thời gian. Thao thiết! Gửi gió môi hôn lên mái tóc rối lòa xòa.
Dù thơ ca và văn học Việt ít nhắc về cha, nhưng những hy sinh cao cả của họ tạc vào lòng con cháu và đi vào bất diệt. Sau bao năm tháng nhục nhằn trong lao tù khổ sai, may mắn họ thoát được khỏi chế độ bán khai. Các chú các bác lại âm thầm lao tác cố gắng hội nhập vào xã hội mới, mong ước cháu con nên người. Những người Thương Phế Binh VNCH sau những mất mát hi sinh họ chỉ còn tấm thân tàn phế nhưng vẫn phải ngày đêm chiến đấu cho sự sống còn trên chính quê hương mình. Mà Cộng Sản luôn tuyên truyền đất nước đã thanh bình và miền Nam đã thống nhất. Để rồi các chú bác từng người lại âm thầm ra đi như cánh chim chao nghiêng triền núi.
Đã bao lần chúng con lãng quên hay không trân trọng những hy sinh cao cả ấy. Dù muộn màng, nhưng xin các bác các chú nhận nơi sâu thẳm trái tim chúng con niềm hãnh diện về nhân cách các vị, niềm tri ân sâu thẳm về công đức các bác các chú để lại, niềm hối hận muộn màng về sự vô ơn và lãnh đạm của chúng con về những hy sinh âm thầm mà cao trọng ấy.
Thế hệ hậu duệ VNCH ngày nay với đầy đủ trí tuệ và nhận thức, chúng con chọn màu cờ sắc áo không đơn thuần chỉ là sự kế thừa truyền thống gia đình. Mà thế hệ chúng con gồm nhiều bạn trẻ trong và ngoài nước với một lập trường "Không Cộng Sản" cùng chọn đứng dưới lá cờ vàng mang hồn thiêng sông núi và tiếp nối chính nghĩa quốc gia. Xin cho phép chúng con gọi bằng tất cả tấm lòng "Quốc Kỳ Quốc Gia Việt Nam". Chúng con tin rằng một ngày không xa lá cờ ấy không chỉ hiện hữu trong tim mỗi người dân Việt mà còn phất phới bay trên bầu trời quê mẹ thân yêu .
Ngày lễ Father’s Day con kính lời tri ân đến thân phụ con nói riêng và các chú bác cựu quân nhân quân lực VNCH nói chung được nhiều sức khỏe. Con cũng xin kính chúc Hội BĐQ DC ngày một vững mạnh và xin kính chúc toàn thể quí vị có mặt hôm nay một buổi tối tràn ngập niềm vui trong tình đồng hương xa xứ. Cũng không quên vinh danh những người mẹ, những người vợ lính VNCH đã âm thầm hi sinh thương chồng nuôi con. Xin thay mặt tất cả các anh chị em hậu duệ một lần nữa ngả mũ tri ân quý vị.
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Wed Oct 25, 2017 4:12 pm
Vinh danh người lính VNCH
Trần Hoài Thư (Danlambao) - Có lẽ đây là lần đầu qua văn chương Miền Nam thời chiến, hai nhà thơ Mỹ Việt gặp nhau ở cùng chung một màu áo binh chủng. Một người nguyên là cố vấn đại đội, và một người nguyên là một trung đội trưởng. Họ không hẹn mà gặp, không phải ở trên quả đất này, mà ở trên văn chương. Họ cùng những giọt lệ thổn thức khi nhớ về đồng đội, về những người bạn thám kích QLVNCH của họ – những người lính không bao giờ biết nón sắt, áo giáp. Họ đội mũ rừng, trang bị súng nhẹ, gan dạ, quả cảm, luôn luôn đi đầu trong các cuộc hành quân tìm dấu địch. Và dĩ nhiên là họ chết trước.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu bài thơ Cho những người bạn thám kích của tôi (For my Scouts) và Những bóng hình (Shapes) của nhà thơ Charles Schwiderski cùng bài thơ Trung Đội của Trần Hoài Thư.
* Nhà thơ Charles Schwiderski nguyên cố vấn cho Thám Kích Cao Nguyên, Biệt Khu 24 QLVNCH, Kontum từ 1967 đến 1968.
* Trần Hoài Thư nguyên là một trung đội trưởng thám kích trong thời gian gần 4 năm (từ 8/1966 đến 6/1970).
Cho những người bạn thám kích của tôi Charles Schwiderski
Tôi xây trong tim tôi ngôi nhà cho những người bạn thám kích Mỗi người một căn phòng cố định Dù tất cả cửa sổ Đều phủ màn đen Và chủ phòng không bao giờ trở lại Nỗi đau là của tôi… và tôi là một người ích kỷ Tôi say sưa gom góp kỷ niệm về các bạn Mỗi phòng chất chứa tinh hoa của chủ phòng … của những chuỗi ngày vui buồn hay may rủi của tất cả mọi điều từ trước đến nay Khi cô đơn tôi có thể vén màn và các bạn sống lại cười vui trở lại Nhiều bạn thám kích của tôi đã sống trong ngôi nhà nầy rất lâu… với hình con Báo Đen sơn trên cửa phòng của họ Bên trong tôi vẫn nghe giọng cười và nước mắt tôi sa xuống trên nền nhà.
(THT phỏng dịch)
Những Bóng Hình
LTS: Bài thơ này được trích từ hồi ký chiến trường Hi Ro Bu kể lại cuộc hành quân của hai đại đội thám kích QLVNCH ở vùng rừng núi Hi Ro Bu. Chúng tôi xin được cám ơn nhà văn Hà Kỳ Lam đã bỏ công giúp chúng tôi chuyển ngữ bài thơ này...
Chúa ơi, bọn chúng lại đến! Tôi hãi quá… tôi không muốn chết! Tôi nhìn qua miệng hố và thấy Những bóng hình xám xịt chơi vơi bên dưới Những bóng hình chạy từ gốc cây đến gốc cây Những bóng hình tiến lên dốc đồi Những bóng hình di động để giết tôi Những bóng hình di động để cướp đi mộng đẹp của đời tôi Tôi giương súng nhắm một bóng hình chơi vơi bên dưới Giờ gần hơn… giờ rõ hơn Tôi bóp cò và một hình hài ngã xuống Miệng há hốc như nói với chính mình Những bóng hình khác rõ hơn đang tiến đến tôi Bắn tôi Ném lựu đạn vào tôi Tiến đến tìm tôi Tôi thấy khói từ nóng súng của chúng Cảm được viên đạn lướt qua gần sát thân mình Cảm được chấn động của lựu đạn chúng nổ Nghe tiếng rít của hỏa tiễn bay qua Tiếng ré của kèn đồng chúng xung trận Âm thanh xé màn nhỉ của tiếng tu huýt Tôi hét lên và run vì sợ Nhưng cẩn thận ngắm súng vào những bóng hình bên dưới Siết cò súng hết phát nầy đến phát khác Không thể để trượt… gần hết đạn rồi Không thể để trượt… không được phí một viên Những bóng hình tràn ngập khắp nơi Những bóng hình sao nhiều đến thế Xin Chúa giúp con Tôi siết cò súng nhưng không gì xảy ra Chúa ơi, con hết đạn rồi!!! Tôi rút băng đạn ra khỏi súng và với lấy một băng khác Tôi sục sạo nhưng không còn gì… hốt hoảng, hốt hoảng, hốt hoảng Tôi tìm được một băng đạn… băng cuối, và lắp vào súng Ngắm và bắn, ngắm và bắn và bắn và bắn Thêm nhiều bóng hình ngã gục Xác thân nằm mọi nẻo Chết chóc đang vây quanh tôi
Những bóng hình đang xông tới Những bóng hình hiện diện khắp nơi Những bóng hình đang xáp đến bên tôi
Những bóng hình nhiều quá đi thôi Xin hãy giúp tôi!!
(Hà Kỳ Lam chuyển ngữ)
Trung đội Trần Hoài Thư
Băng đồng, băng đồng, đêm hành quân Người đi ngoi ngóp, nước mênh mông Về đây Bình Định ma thiên lãnh, Mỗi bước đi rờn rợn âm hồn
Trung đội những thằng trai tứ chiếng Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân Diều hâu bôi mặt hù ma quỷ Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương
Đêm của diều hâu về xứ khổ Poncho phơ phất gió hồn oan Trên vai cấp số hai lần đạn Không một vì sao để chỉ đường
Mưa lạnh thèm tu hơi rượu đế Để quên tim nhảy nhịp lo âu Giơ tay vuốt mặt lau tròng kính Giờ G, giờ G sao quá lâu
Thì đi, đột kích trong lòng địch Chụm tiếp nồi cơm hộ Bắc quân Cơm nóng thầy trò ăn đỡ đói Ha hả cười, cơm của nhân dân
Trung đội cả tuần đêm không ngủ Lương khô đã hết, chờ trực thăng Hành quân một tháng trên An Lão Một tháng trời mưa thúi chiến trường
Pháo chụp người gào khan cả họng Máy sôi tắt nghẹn chờ phi tuần Miểng thép đâm xiên, thằng bạn gục Hỏa châu vàng thoi thóp triền sơn
Địch vây xiết chặt bộ tiền phương Quân băng đường máu về Bồng Sơn Qua kênh, sương muối mờ tre bụi Thánh giá chơ vơ nóc giáo đường
Nước nguồn đổ xuống ngày binh lửa Những xác nào đã thúi hôm qua Ai bạn ai thù sao quá thảm Trên một dòng cuồn cuộn oan gia
Con sông chia cắt bờ bi hận Cột khói còn lưu luyến chiến trường Có ai chạy loạn bơi xuồng kể Một thước đi, xác ngập thước đường
Cây cầu sắt bắc qua tử địa Bên kia sông ta chiếm rừng dừa Đêm bỗng nghe quạ bầy động ổ Gọi ran trời kinh động sao khuya
Lũ quạ trốn đi từ dạo ấy Để giờ đây kêu động rừng phong Quạ gọi bầy tháng năm tháng bảy Sao ta gọi bầy thăm thẳm mù tăm
Trung đội ta những thằng giữ đất Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly Ra Tam Quan qua rừng An Lão Từ Kỳ Sơn, Phước Lý, An Khê
Đồng đội ta những người đã chết Những Vọng, Nga, Nai, Bình Lò Heo Những Chấn, Hảo, Sơn, Tài Xóc Dĩa Đàn diều hâu thảm thiết khóc òa
Lịch sử cũng vô tình thế đó Người qua sông không nhớ con đò Những người chết không còn nhắm mắt Người sống giờ như những hồn ma.
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Sun Nov 26, 2017 4:04 pm
Vinh danh người lính VNCH (Bài 2)
Về một đại đội cũ
Trần Hoài Thư (Danlambao)
Kính dâng hương hồn anh Hồ văn Hòa Riêng tặng Anh Hà Khôi (tức Hà Quế Linh) nguyên là đại đội phó 405 TK của tôi.
Trong đêm xứ người, nói gì về những người muôn năm cũ. Hai đứa chúng tôi như rưng rưng để nhớ về những đồng đội cũ của mình. Tôi hỏi anh Hòa về những gì anh biết về đại đội 405 thám kích. Bộ quân sử không nói về 405. (Nếu có, chỉ ba giòng trong trận đánh năm Mậu Thân). Quân đội miền Nam cũng chẳng bao giờ nhắc đến một 405. Nó vô danh.
Nó đánh giặc không phi pháo dọn đường, không được yểm trợ tối đa như những lực lượng tổng trừ bị. Nó là những tổ 3 người, những toán 4 người, mang trên vai những ba lô với mười mấy ngày lương khô xâm nhập trong lòng mật khu. Thế giới của nó là những cánh rừng thâm u, những ngôi làng sâu trong rừng, những con đường mòn xâm nhập của địch. Nó không cần ai biết. Nó buồn như thế đó. Lạc loài như thế đó. Nó lầm lì như thế đó. Bao nhiêu trách nhiệm nguy hiểm trong vùng địch kiểm soát, đột kích, thám kích, tiền thám hay viễn thám kể cả tăng viện và là mũi tấn công chính trong một trận đánh dữ dội, đều giao cho Đại đội Thám Kích 405. Vì vậy sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của đơn vị nầy phải là quân nhân tình nguyện hoặc được chọn lựa trong thành phần có kinh nghiệm trận mạc, gan lì và nhất là sự bền bĩ chịu đưng gian khổ ở các đơn vị tác chiến khác của Sư Đoàn. Mặc dù Đại Đội Thám Kích không có trong Bảng Cấp Số của Sư Đoàn, nhưng do tính chất cuả nhiệm vụ khi thành lập -vì nhu cầu chiến trường- nên tính mệnh của mọi cấp trong ĐĐ/TK như “chỉ mành treo chuông” mỗi một khi được sử dụng. Ai vào thám kích mà ra khỏi được, không chết, ít nhất cũng mang theo vài chiếc thẹo trên mình. (1)
Rõ ràng, chúng ta là những kẻ may mắn nhất. May mắn bởi vì thay vì nằm xuống như một số người lính thám kích, chúng ta mang trên người những vết sẹo. Những vết sẹo mà khi sờ lại, thấy lạnh cả người, mà mắt nhắm lại, để cảm tạ Đấng Quyền Năng đã phò trợ trong dòng binh lửa.
Nhưng tại sao, anh và tôi lại phải giữ gìn như giữ gìn những gì trân quí nhất?
Viên cựu đại đội trưởng 405 TK nhắc lại một Y Đao như một con sóc rừng. "...Y nhanh lẹ không thể tưởng. Người y, khi mang ba lô 17 ngày lương thực, không thấy người, chỉ thấy cái ba lô. Còn hạ sĩ Nùng Lương văn Tướng, ông ta nói tiếng Việt vẫn còn lắp bắp, mặt lúc nào cũng lầm lì.
Ông ta còn có biệt danh là ông Tướng giải phóng. Tại sao là giải phóng, Thư biết không?." "Thưa đại bàng, tôi không được biết". Tôi trả lời. "Số là hôm ấy, toán ông bị phát giác. Lính Bắc hỏi: Ai đấy? Ông Tướng lính quýnh trả lời: Biệt kích Giải phóng. Trời ơi, VC làm gì có biệt kích. Còn trung sĩ Tám, trung sĩ Khoái, trung sĩ Đặng, hạ sĩ Dự, hạ sĩ Lực, còn chuẩn úy Bùi Toàn Hảo, chuẩn úy Âu Hoàng Minh, chuẩn úy Phan Thái Gia, chuẩn úy Nguyễn Thái Lâm..."
Anh kể như thuộc lòng. Đó là điều hiếm hoi cho một người đã trải qua rất nhiều đơn vị. Nó chứng tỏ đại đội 405 là một dấu ấn đậm sâu vào tâm trí của một người lính cũ. Nó chứng tỏ, anh đã có một nơi để tự hào trong đời binh nghiệp của anh.
Rồi anh Hòa nhắc lại hạ sĩ Y Brep và hạ sĩ Ba. VC trồi lên đánh cận chiến. Thằng Y Brep quạt Thompson bảo vệ anh, thằng Ba xô anh xuống hố. Và kết quả, Hạ sĩ Ba chết, và Y Brep bị mù một con mắt.
Tôi lắng nghe tiếng anh nghẹn lại. Vâng, tôi cũng vậy. Anh nói rằng, những người lính 405 anh hùng quá, dũng cảm quá, anh chưa bao giờ thấy đơn vị nào mà tất cả đều cùng một lượt xung phong lên đồi cỏ tranh, đứng thẳng mà tiến lên. Anh chưa bao giờ thấy một đại đội lại đánh tan tành một tiểu đoàn... Vâng, anh kể lại thời của anh từ 1963 đến 1964, và tôi kể lại thời của tôi từ 1967 đến 1971. Anh làm tôi nhớ lại hạ sĩ Đông mang máy truyền tin. Đông cũng cõng tôi mà chạy dưới bao lằn đạn. Và ông Y Suk đã cứu tôi thế nào trên đỉnh Kỳ Sơn.
Tôi cũng muốn nói về cái uy danh của đơn vị, khiến lúc đơn vị bị vây khỗn, ngỡ chừng như tuyệt vọng, nhưng địch vẫn không dám ùa ra cận chiến...
Đêm nay, quê người, và hơn 30 năm xa cách cho hai cánh diều hâu bỏ đàn bỏ tổ. Những giọt lệ bỗng nhiên lại thêm một lần chảy lạnh cả tâm hồn. Người sống nhớ về người đã chết. Người may mắn nhớ về người không may mắn. Nguồn cội từ một mái nhà được phanh ra, để cùng nhau tự hào và cũng để cùng nhau mà khóc thầm. Những con người, không bao giờ nhìn lên, mà chỉ nhìn xuống, cam phận. Có ai còn nghĩ đến họ. Nghĩ đến một người như hạ sĩ Ba chịu hứng đạn thù để cứu một đại đội trưởng, để anh còn sống, để anh được cơ hội nhận hai lần thăng cấp tại mặt trận chỉ trong vòng hai tháng từ một ông tướng khó nhất là tướng Đỗ Cao Trí.
"Thư à, lon mình không phải do tướng Đỗ Cao Trí gắn mà là do hạ sĩ Y Brep, hạ sĩ Ba gắn..."
Cám ơn anh Hoà đã nhắc lại thời kỳ đầu tiên của một đại đội. Khi tôi hỏi anh một câu mà tôi nghĩ là quá thừa: Anh nghĩ thế nào về đại đội mình. Bên đầu dây xa, giọng anh ấy trở nên phấn khích: Đó là một đơn vị chỉ biết chiến thắng. Anh kể lại những địa danh rừng núi. Những mật khu, đặc khu. Những đồi tranh, và những trận đánh ác liệt. Anh lại kể lần tướng Đỗ Cao Trí, tướng Linh Quang Viên, đáp xuống ngọn đồi mà đại đội vừa chiếm lại giữa ầm ầm tiếng pháo, và la liệt xác phe bên kia. Tôi cũng kể lại những nồi cơm mà Bắc quân bỏ chạy còn nấu lỡ dở, trong những đêm chúng tôi đột kích mật khu ở Bình Định. Tôi nói suốt hơn bốn năm, đại dội không cho phép bất cứ một trái pháo nào lọt vào Bộ Tư Lệnh. Vì sao? Vì địch là ma, ta cũng là ma. Chúng tôi cùng nhau cười ha hả. Anh lại nhắc đến công trạng của thiếu úy Đặng đức Thành, người khai sinh ra đơn vị Biệt kích Sư đoàn, tiền thân của đại đội 405 thám kích. Anh còn nói nhiều nữa. Chính cái cái khăn quàng đen mà tiểu đoàn 35 Biệt Động Quân mang là biểu tượng truyền thống của đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 BB:
"Thư à, mình phải kể cho Thư nghe, ngày về nhận tiểu đoàn 35 BĐQ, mình đã mang theo chiếc khăn quàng cổ của đại đội cho đơn vị mới."
oOo
Từ 405, anh Hòa đã mang chiếc khăn quàng cổ màu đen về 35 BĐQ. Từ 405, tôi cũng đã mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả. Con số quá đủ cho một tấm lòng đối với bạn bè đồng đội của mình. Tôi hẹn với lòng, sau Mặc Niệm Chiến tranh là bỏ viết. Tôi đã gởi gấm những gì mà tôi cần gởi gấm. Nhưng bây giờ, tôi lại ngồi trước máy. Những lời của anh Hòa chẳng khác cơn bão xoáy lốc vào tâm não. Một đằng, tôi cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi đã có mặt tại một đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH. Khó có một ai trong bất cứ đơn vị nào được tướng Đỗ Cao Trí thăng cấp hai lần trong vòng hai tháng ngay tại mặt trận. Có người gọi tôi là điên khùng. Có kẻ cho tôi là ái quốc lãng mạn. Vâng, quả tôi điên khùng thật. Nhưng bây giờ tôi phải cám ơn về cái điên khùng này. Nhờ nó tôi mới hiểu cái tàn bạo của con người, của chiến tranh, của hận thù, và những tay chỉ biết xúi tuổi trẻ ra chiến trường để chết thế, và nhất là một khi tuổi trẻ muốn bày tỏ những ước mơ chân thật của mình thì bị gán cho những danh từ như phản chiến, hèn nhát, trong khi chính những kẻ ấy là co rúm hơn ai hết. Chính nhờ nó, tôi mới hiểu cái câm nín chịu đựng của những người lính bộ binh trong một thời chỉ con ông cháu cha mới được sống. Chính nhờ nó tôi mới cảm nhận được thế nào là tình đồng đội cũng như nỗi kiêu hãnh của những người lính tác chiến.
oOo
Phải. Không tự kiêu sao được khi đám lính khăn choàng đen huy hiệu diều hâu vồ mồi đã làm địch Bình Định kinh hồn bạt vía. Chúng tôi đã áp dụng tối đa chiến thuật dạ kích. Anh bạn, tôi xin nhắc lại, nếu địch là ma, thì ta cũng là ma, tại sao mấy ngài chỉ huy cao cấp chỉ biết cái chiến thuật nhà giàu, ngày đánh, đêm về phố nhảy đầm hay ngủ với vợ. Tại sao các ngài không thành lập những đội quân chuyên đánh đêm, hay đổi lại chiến thuật đánh ngày sang đánh đêm. Địch lợi dụng bóng tối tại sao ta lại không lợi dụng bóng tối để đột kích mật khu, phá nát hậu cần, gây cảm giác lo âu kinh sợ cho đối phương, bắt đối phương lúc nào cũng hoang mang giao động? Tại sao cứ chơi trò đóng đồn phòng thủ, chờ chuông báo tử.
Chuông báo tử. Những hồi chuông đã kéo hối hả khắp cả miền Nam, và bóng u minh đã òa chụp xuống từng người, từng thân phận. Không phải vì ta hèn. Chưa có một đội quân nào trên thế giới này, thua trận, nhưng lại tự hào cùng hàng ngũ, cùng màu cờ sắc áo như quân đội miền Nam này. Không phải một ngày, một tháng, mà cả đời. Chỉ có những kẻ trong cuộc mới hiểu và thấm thía được nỗi tự hào. Và đó là lý do cắt nghĩa tại sao tôi lại phải viết hoài, viết không mệt về màu áo cũ của mình.
oOo
Viết về một đơn vị, để mà tự hào, nhưng riêng tôi lúc này còn để hối hận. Bởi vì, ngòi viết của tôi chưa bao giờ có một nhân vật như Y Brep trên trang giấy. Và tôi cũng chưa bao giờ mời ông Tướng giải phóng, trung đội phó của tôi một cốc rượu, một lon bia. Ông ta anh hùng như thế, dẫn toán vào mật khu, hù lính Bắc quân, thế mà mỗi ngày vẫn chào tay tôi, trình diện tôi, giúp đỡ tôi, nâng bước chân tôi lên trên những bãi chiến trường sôi bỏng. Thế mà tôi không có cả một lời. Và dù có viết, thì đám kiểm duyệt ở Sài Gòn lại bôi đen chữ Tướng viện dẫn tôi chơi xỏ một ông tướng nào đó. Vâng, tôi đã vô tình quên họ, những người lính của trung đội tôi như Y Đao, Nay Lat,Y Suk, như Nha, Vọng, Tròn, Hường, Nai, Lợi, Ký, Mễ, Ưng Luông. Tôi chỉ bận tâm đến bản thân tôi. Tôi chỉ tìm mọi cơ hội để được thăng quan tiến chức, hay để được thoát khỏi địa ngục trong lúc họ vẫn tiếp tục cùng chiếc poncho, hay lon cơm gạo sấy, coi đơn vị là mái nhà vĩnh viễn của mình mà không một lời ta thán.
(1) Trích từ Định Mệnh - tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 46 của Văn Nguyên Dưỡng (bút danh của cựu trung tá Nguyễn văn Dưỡng, cựu trưởng phòng 2 SĐ 22 BB).
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Sun Dec 10, 2017 1:10 pm
Chiếc School bag và người lính già
Trần Hoài Thư (Danlambao) -
Viết cho tôi: người cựu chiến binh miền Nam,
nhân ngày Veteran của Hoa Kỳ
Ta trở lại trường khi tuổi vào trung niên Sách vở học trò đôi khi nỗi buồn phủ kín Lớp học người đông, mắt xanh da trắng Chỉ lẻ loi một gã tị nạn già
Chỉ lẻ loi một chiếc bóng mình ta Soi trên vách tường trong phòng trong lớp Trong những đêm khuya một mình phòng Lab Trong nhà ăn, giữa những bàn ghế trơ câm Chữ nghĩa mở ra sao nặng trĩu tâm hồn Tiếng nói là nhịp cầu sao miệng đành câm nín!
Đồng hành với ta là người tài xế già xe bus Đêm đưa ta về lại một chỗ gọi: slum Slum có nghĩa là khu xóm tối tăm Slum có nghĩa là nơi có nhiều tội ác
Chíêc xe chạy qua những ngôi lầu cửa đóng Tuyết bên ngoài, trắng xóa, tuyết trong ta Người sinh viên già, lòng lạnh lắm, bước ra Có khi tập vở cũng ướt nhòa bông tuyết trắng
Chiếc school bag giờ ngủ yên trên lưng người cựu lính Mà ngày xưa là chỗ của ba lô Mà ngày xưa bảy ngày gạo với lương khô Một tấm poncho thêm tấm hình đứa con chưa đầy 6 tháng Thay vào đó là những bó tràm bó tranh bó lác Trên lưng người thất trận “ngụy” quân
Ôi! Chiếc lưng ngày xưa thật tội quá chừng Mấy chục đốt xương mà phải gánh bao nhiêu tấn hàng lịch sử!
Bây giờ chiếc lưng của ta không còn oằn xuống nữa Bởi vì chiếc school bag thì quá nhẹ tênh Ta đi đến trường với chiếc lưng thẳng lên Để chứng tỏ người lính miền Nam vẫn còn đứng thẳng!
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Mon Apr 23, 2018 9:52 pm
TÂM TƯ NGƯỜI DÂN QUẢNG TRỊ Đoàn Kế Tường
15 năm sau vượt biên tôi trở về nhà. Gia đình không hiểu vì sao tôi nhất quyết ra Quảng Trị. Khi tôi trả lời vì là thị trấn của tuổi thơ, mẹ cau mày: Dòng họ di cư từ Bắc, chánh quán Sơn Tây-Phú Thọ, không liên quan gì đến đất Quảng. Mẹ không hiểu, những trang nhật trình Chính Luận, Sóng Thần, Công Luận, Độc Lập, Tiền Tuyến ngập đầy hình ảnh tang thương của xứ Quảng khi tôi lên mười. Lên trung học, tôi khám phá một Quảng Trị tan nát khói lửa. Mỗi chiều tivi phát hình Thủy quân Lục chiến cố gắng tái chiếm cổ thành và Nhảy dù tác chiến từng bước ở chi khu Mai Lĩnh. Chiến tranh rùng rợn như gương mặt thất thần của người cha cố xếp tay chân con cho ngay ngắn trong những thước phim đen trắng… Tôi nhớ cảnh tổng thống Thiệu quỳ trước sân nhà thờ La Vang…
Tôi về đến Quảng Trị tháng 7-1994. Chưa từng đến mà vẫn nghĩ mình về. Vì thương xứ này, vì thấy thân thuộc như sinh ra ở đây. Quảng Trị khi ấy chưa tái thiết, thị trấn đìu hiu thê lương, không một ngôi nhà nào không mang vết đạn. Không một bức tường nào không lỗ chỗ dấu đạn. Còn cổ thành? Nát bét. Chỉ còn duy nhất một khối đá không hình thù. Nhà cửa? Xiêu vẹo. Sau những ngã tư có những khoảng trống lụn vụn gạch ngói mà trước đây phải có những con người sinh sống dưới một mái nhà đã biến mất. Từ Hải Lăng lên đến Thạch Hãn trùng điệp nghĩa trang. Thuần nghĩa trang liệt sĩ. Còn nghĩa trang lính quốc gia? Không dấu vết. Không nhang khói. Không di ảnh thờ. Phía bại trận bị bôi xóa. Tôi mượn xe máy chạy ra La Vang. Tôi đã muốn đến đây chứng kiến tận mắt sức huyền nhiệm của Đức Bà. Vẫn y như lúc tổng thống Thiệu quỳ xuống. Nhà thờ sập mái không còn bức tường nào. Bên trong chỉ toàn gạch vụn. Một vài băng ghế gỗ nơi giáo dân cầu nguyện gẫy đôi. Sàn gỗ ca đoàn sụp nát. Duy nhất tượng Đức Mẹ nguyên vẹn.
Nhưng Đức Mẹ cũng bị thương. Ngón chân cái và đầu gối Đức Bà có vết đạn. Phải đến La Vang khi chưa trùng tu mới thấy hết khốc liệt của chiến tranh, mới hiểu thảm cảnh của dân chúng và hiểu gia đình mình đã may mắn vì đã có những người lính cố gắng cầm cự để chiến tranh đừng lan xuống phía Nam, để hậu phương còn yên bình và tự do.
Đánh máy lại những trang bút ký của các phóng viên đã theo chân quân đội tái chiếm những vùng đất đã mất, không phải để ghi công cho những người lính. Vì ghi bao nhiêu cho đủ? Đánh máy lại, để tri ân. [Trần Vũ]
oOo
Bây giờ thì niềm mơ ước được trở về mái nhà xưa ở một quê hương điêu tàn sau hai tháng chui rúc trong các khu tạm cư của người dân Quảng Trị đã đến độ chín mùi.
Làm sao mà ngoảnh mặt cho đành với nơi chôn nhau cắt rún có những con đường chảy quanh bờ sông đổ dài ra biển. Khi bỏ xứ mà đi với nỗi buồn đầy ắp trong hồn rưng rưng dòng lệ, tài sản một gánh lên vai kỷ niệm nào hơn nấm mồ tổ tiên cha mẹ. Niềm luyến lưu níu chặt đôi chân dù ngoài kia súng đạn Bắc quân đang xích lại gần với họ. Rồi cũng phải ra đi không một dự tính tương lai. May mắn thì có được một chỗ ngồi trên đoàn xe quân đội đang chực chờ đầu quốc lộ 1. Rủi ro thì dắt dìu, bồng bế nhau lang thang trên con đường thiên lý tiến về Nam, kẻ chết thì nằm yên lại đó với thành phố buồn thiu làm mồi cho lũ chó hoang chạy rong khắp xóm.
Người dân Quảng Trị đã thực sự cô đơn từ giờ phút đó. Nỗi kinh hoàng hiện rõ trên hàng ngàn nét mặt từ trẻ thơ cho đến cụ già. Mùa hạ đốt lửa trên đầu gió mùa đùn cát xôn xao lên lớp da mặt họ lầm lũi đi trong tủi nhục và khốn khổ. Ngày mai rồi sẽ ra sao? Niềm lo âu cơm áo đè nặng tâm hồn họ cũng như nỗi thiết tha với quê hương sắp mất. Rồi bom đạn Bắc quân vùi dập trên đầu họ, vài người thân ngã xuống dù chết thương tích hoặc kiệt sức cũng phải đành đoạn bỏ đi. Họ tan loãng trong bãi cát mênh mông, bãi cát như một địa ngục hãi hùng với những tiếng khóc la thảm thiết. Còn hình ảnh nào diễn tả tình mẫu tử cảm động hơn một bà mẹ ngã gục với mảnh đạn ngay tim còn thì thào vỗ về đứa con chưa đầy hai tuổi đang dẫy dụa trên ngực mẹ vì dòng sữa ngấm máu mằn mặn. Kẻ sống sót bương bả qua những đồi cát trắng phau tìm về đồng lúa vàng đang độ chín mùi lần mò đến con sông Mỹ Chánh. Sinh lộ mở ra ở đó và họ chỉ còn lại hai bàn tay trắng với một tâm tình rách nát.
Sau cùng rồi họ cũng đến được thành phố bên kia rặng núi Hải Vân. Người đến trước còn có được một chỗ nằm trong khu tạm cư, những trường học, công sở. Kẻ đến sau đành chui rúc ở những vỉa hè sống đời sống du mục. Cơm áo bây giờ mới là một vấn đề nan giải đối với họ, kẻ phải lê lết ăn xin, nhiều cô gái trong trắng hiền lành một sớm một chiều bỏ quên guốc gỗ sân trường để bán xác nuôi thân. Niềm tủi nhục lớn dần trong tâm hồn họ khi lặng nhìn những người thành phố vẫn phè phỡn ăn chơi vung tiền qua khung cửa những trà đình tửu điếm. Tình đồng bào chỉ được thể hiện ở vài ngày đầu với những hô hào, khẩu hiệu rồi lắng xuống theo nhịp độ vồn vã của một vùng đất mất gốc.
Tôi đã đến đó với đồng bào tôi bằng một tâm trạng nhọc nhằn ở những chung cư chật chội, hôi hám. Phẩm vật cứu trợ của chính phủ tuy có nhưng làm sao đủ để đắp đổi qua ngày dù chỉ là rau cháo. Từ đó họ nhìn về quê hương hằng những nhớ nhung xao động, dù khó nhọc nhưng đã trở thành gắn bó đậm đà trên luống rau, luống cải. Tôi đã phải nhọc nhằn lắm nhưng vẫn không thể nào tìm được câu trả lời xác thực nào hơn bằng sự im lặng khi nghe họ hỏi:
-Răng chừ thì “miễn” mình có thể trở lại Quảng Trị được en (anh)? -Liệu Quảng Trị có mất luôn không en?
Làm sao tôi có thể giải thích được cho họ vì chính mình cũng còn không hiểu được nữa. Cuộc chiến tranh ở đất nước này đã trở thành kỳ quặc với những bùa phép, toan tính của ngoại bang. Người dân Quảng Trị cũng đủ biết rằng ngày mai có về lại mái nhà thân yêu của họ được chăng nữa cũng chỉ còn những đổ vỡ hoang tàn với hai bàn tay trắng. Nhưng bản chất cần cù chịu đựng họ vẫn có thể bắt đầu xây dựng lại bằng chính sức người tiềm tàng trong tâm hồn họ. Họ sẽ trồng rau trên cát, phá núi làm đồng và ươm mầu cho những tương lai chất đầy hy vọng như ngày xưa tổ tiên họ đã hiên ngang khai phá những địa danh Cam Lộ, Ba Lòng thâm u chướng khí khô cằn sỏi đá trở thành vùng đất mầu mỡ với đồn điền chim bay thẳng cánh.
Tôi tin tưởng rằng người dân Quảng Trị là những người hiền hòa nhưng có sức chịu đựng gian khổ dai dẳng nhất nhân loại. Nếu không có đủ sức chịu đựng làm sao họ có thể sống từ đời này qua đời nọ ở một quê hương dẫy đầy thiên tai và chiến tranh tàn phá. Tôi đã gặp nhiều cụ già tuổi trời đã xế tâm sự như một điều hối hận khi đã bỏ Quảng Trị mà đi. Các cụ hối tiếc đã không ở lại để được chết trên quê cha đất tổ cho trọn đạo làm người. Quan niệm của các cụ tuy lỗi thời nhưng nói lên được cái tâm tình của người dân tha thiết với quê hương đã thành thiêng liêng cao quý. Họ chờ đợi không nản và không mỏi mòn cho một lần về dù lúc ra đi thật vội vã và nhất quyết. Cũng lang thang bằng đôi chân ốm yếu nhưng rắn chắc, mỗi người đã lần mò ra tận Mỹ Chánh, Bến Đá nghe đạn réo trên đầu để chỉ được nhìn những làng mạc, xóm thôn mờ mờ sau khói lửa và lũy tre xanh. Người lính ôm súng nằm tuyến đầu nhìn thấy cảnh đó như một réo gọi thúc đẩy phải tiến lên đánh bật kẻ thù để chiếm lại vùng đất tạm bỏ.
Không hô hào, nhân danh và trục lợi nhưng tôi đã nhìn thấy những người dân Quảng Trị quần rách áo ôm, trên tay cầm những món quà nghèo nàn tìm đến trao tận tay những chiến binh Dù, Thủy quân Lục chiến (TQLC) bằng trọn vẹn chân tình. Món quà nhỏ họ trao cho người lính nhưng không khác gì họ đã gởi trọn tâm hồn cho quê hương đang lọt vào lằn mức bên kia và người lính khi đón nhận bằng tất cả cảm xúc khác nào đang đón nhận một lời ủy thác cái nhiệm vụ thiêng liêng phải giành lại cho bằng được mảnh vườn của người dân dù trên đó chỉ còn tro than.
Người lính chiếm lại từng gò mả, từng chặng đường là lập tức có bóng dáng của người dân theo sau hỏi han, chia xớt…
Tôi cũng theo chân đoàn quân nhảy xuống những làng mạc tiêu điều sau hai tháng dưới sự kiềm tỏa của Bắc quân. Từ các hầm hố ven làng người dân đã nhảy lên ôm chầm bờ vai người lính quốc gia khóc nức nở như vừa tình cờ bắt gặp hạnh phúc. Họ đã tâm sự không nỡ bỏ làng mà đi vì còn lại những bàn thờ tổ tiên, những mồ mả ông cha không thể để hương tàn bàn lạnh. Nỗi kinh hoàng còn in rõ trên từng khuôn mặt hốc hác vì thiếu ăn. Người lính TQLC chia xớt cho dân nuốt miếng cơm sấy trong nỗi nghẹn ngào xúc động. Họ không ngớt cám ơn ông bà, thần thánh đã cho họ có ngày hôm nay còn nhìn thấy quê hương thật sự được giải thoát bởi những người con thân yêu.
Tôi đã chứng kiến tận mắt người lính Tiểu đoàn 1 TQLC cởi bớt chiếc áo lót trên mình để tặng cho một người dân ở Gia Đẳng và người nhận áo đã mân mê đôi tay khô kia của mình lên đôi tay người lính chai nám như tình nhân. Họ nhắc đến hai tiếng Cộng quân bằng giọng điệu kinh tởm, hãi hùng. Hơn bao giờ hết, lúc này những người lính Dù, TQLC đã trở thành một cái gì quý mến, tràn trề yêu thương trong tâm hồn đồng bào Quảng Trị. Một vài bà mẹ ở Mai Đằng Thượng Xá đã nói với nước mắt: – Mấy en Cộng hòa ơi, cả làng chờ các en mấy tháng trời rồi, ngày mô cũng ngồi trong hầm dòm ra mà không thấy dạng mấy en mô hết. Toàn là tụi giải phóng khôn ni. Mần răng mà mấy en bỏ dân lâu rứa? Mấy en mà tới trễ vài ngày nữa e dân chết hết ni.
Rồi họ chạy ra ngoài vườn in đầy những hố bom bới những gốc sắn tàu đem vô nấu tặng người lính. Một sĩ quan TQLC đã nói với tôi một câu thật đầy ý nghĩa: -Trong suốt cuộc đời lính của tôi, bây giờ tôi mới thấy sự chiến đấu của mình được đền bù xứng đáng hơn bất cứ một sự thăng thưởng hay huy chương nào.
Người dân Quảng Trị đã thật sự un đúc thêm ý chí chiến đấu cho người lính phong trần. Chính người lính cũng phải thú nhận rằng những chiến thắng ở mặt trận này mà họ tạo được phần lớn nhờ ở tâm tình mà đồng bào cho họ. Quảng Trị một quê hương thật nghèo nàn khốn khổ nhưng người dân ở đây mới thực sự là một thành trì chống Cộng kiên cố nhất nhờ ý thức thâu lượm được ở kinh nghiệm chung đụng với cả hai bên. Cộng thêm đó là niềm thiết tha với xứ sở thôi thúc họ trong từng hơi thở, trong từng nhịp đập của trái tim.
Bây giờ thì dân Quảng Trị đang chực chờ trở lại thành phố, làng mạc mà họ biết chắc đã điêu tàn, đổ vỡ. Cho dù có một nơi khác bình an và sung túc hơn chắc chắn rằng họ cũng không thể nào từ bỏ quê hương của mình với thật nhiều kỷ niệm. Họ phải trở về để xây dựng lại trên những đống gạch vụn, phải nhặt lại nắm xương tàn của người thân đã nằm xuống vì bom đạn của Bắc quân; người sống không thể mất quê hương thì người chết cũng cần phải có quê hương để an nghỉ đời đời. Họ đã có sẵn sự chịu đựng vô bờ và niềm tin được thắp sáng lên từ nỗi nhọc nhằn để khai sơn phá thạch thì sá gì một lần làm lại cho xứ sở một ngày mai huy hoàng và tươi sáng.
(Còn tiếp)
ĐKT, 1972
Trần Vũ đánh máy lại tháng 1-2018 từ “Tuyển tập Bút ký Phóng sự Chiến trường 1972”, Nxb Văn Nghệ Dân Tộc in 1973. (Nguồn: http://damau.org/archives/49316)
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Mon Jul 16, 2018 12:05 am
Nhớ đến Anh, Người Lính VNCH Nguyễn Phú Kính tặng các anh chiến hữu yêu dấu QLVNCH tại chiến trường Long Khánh, 1975.
Người chiến sĩ QLVNCH với trọng trách mà Tổ quốc đã giao phó cho họ qua ba điều tâm niệm: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm, như chiếc ghe nhỏ đang cố gắng đẩy chiếc sà lan nặng nề đầy cát giữa dòng sông nước chảy cuộn, tìm cách tránh né những cụm lục bình trôi theo dòng nước lũ, mà hầu như lúc nào những cụm lục bình trôi không định hướng ấy cũng muốn bám chặt vào cánh quạt máy chân vịt của chiếc ghe đó…
Sư đoàn 21
Thế rồi dòng đời trôi qua, trong mọi bối cảnh, bất chấp gian nan, sự khổ cực, sự ngược đãi và bất công mà anh phải trải qua hằng ngày, người chiến sĩ QLVNCH đó vẫn kiên trì chiến đấu, bởi vì anh chỉ có biết thực thi những điều nhắn nhủ mà vị tổng tư lệnh QLVNCH đã nói với anh và các đồng đội: “Hãy kiên trì chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc chống lại cuộc xâm lăng trắng trợn của bè lũ Cộng Sản Bắc Việt.”
Người chiến sĩ QLVNCH đó có thể là người lính thuộc SĐ21BB đã phơi thây trên những tuyến đầu của Quốc Lộ 13 để mở đường cho cuộc phản công giải tỏa các đồng đội họ trong chiến trường An Lộc.
Và người chiến hữu đó cũng có thể là anh cựu Biệt Kích Quân được đồng hóa ra phục vụ trong TĐ.92/ BĐQ/BP, mà dưới sự đàn áp tấn công liên tục của Cộng Quân thuộc Trung Đoàn 274 Bắc Việt, anh đã kiên trì giữ vững trại Tống Lê Chân đến hơi thở cuối cùng.
Và người chiến hữu đó cũng có thể là anh lính thuộc Trung Đoàn 43/SĐ18BB, mặc dầu bị tràn ngập và áp đảo dưới hỏa lực dữ dội của Cộng Quân thuộc Công Trường 6 và Sư Đoàn 341 Bắc Việt, anh đã làm tròn nhiệm vụ mà Hằng Minh đã trong đợi nơi anh: ngăn trở và làm chậm lại những toán quân tiền phương của Cộng quân Bắc Việt, mua thêm thời gian cho sự bố trí chiến đấu của SĐ18BB và các đơn vị bạn trong cuộc phòng thủ tuyến thép Long Khánh.
Những nấm mồ tử sĩ sư đoàn 18 bị lãng quên ở An Lộc
Và người chiến hữu đó cũng có thể là anh lính ĐPQ còn lại của Chi khu Định Quán, mặc dầu đơn vị anh đã tan rã đêm 16 Tháng Ba, 1975, anh và một vài đồng đội của anh đã hăng hái tình nguyện giúp đỡ chi đội thiết giáp M-113 võ trang và tái thiết bị để chống chọi lại với chiến xa T-54 của địch tại tuyến thép 2/52, để rồi ngày 12 Tháng Tư,1975, anh lại cùng toán quân đặc nhiệm của Trung Đoàn 43, phục kích và tảo thanh Cộng quân trong thị xã Xuân Lộc.
Và người chiến hữu đó cũng có thể là anh chị Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn thuộc Tiểu Khu Long Khánh đã can đảm, kiên trì trong gian nan, hy sinh thân mình cùng với các anh lính của chiến hữu Vương Mộng Long, giữ vững phòng tuyến tại khách sạn Long Khánh cũ trong đợt tấn công ào ạt lần thứ hai của Cộng quân vào 5 giờ sáng ngày 9 Tháng Tư, 1975.
Và người chiến hữu đó cũng có thể là anh lính thuộc Tiểu Đoàn 82/BĐQ/BP đã gian nan chiến đấu, mà cho đến giây phút cuối cùng, anh đã can đảm từ chối, không nhận di tản bằng trực thăng Chinnook CH-47 mặc dầu đang bị thương nặng, bởi vì anh cảm thấy rằng anh đã làm tròn nhiệm vụ của anh và hơn nữa cái chỗ của anh trên chiếc trực thăng ấy có thể dành di tản thêm một người dân vô tội.
Và người chiến hữu đó cũng có thể là anh lính Pháo Binh thuộc TĐ3/PBD, mặc dầu Cộng quân đang trên đồi xung phong xuống tại gần quân trường Long Giao cũ, và mặc dầu anh đang bị thương ôm mặt máu me tùm lum, anh vẫn can đảm và bình tĩnh hủy diệt ngòi cơ bẩm của khẩu 105 ly do anh trọng trách, bởi vì anh đã được huấn luyện như vậy.
Và người chiến hữu đó cũng có thể là anh lính vì tuân lệnh của vị tân “tổng tư lệnh” QLVNCH, buông súng ống mà đã cùng theo anh chiến đấu nhiều năm trong khói lửa chiến tranh, chán chường dìu dắt đồng đội bị thương của anh từ cầu New Port, theo ngã ba Hàng Xanh, qua ngã tư Bình Hòa, ngã ba Cây Thị, chợ Gò Vấp, đến ngã năm Chuồng Chó, mệt mỏi và kiệt sức quẹo trái xuống Tổng Y Viện Cộng Hòa với hy vọng được điều trị vết thương một cách nhân đạo, để rồi đã bị xua đuổi đi một cách vô nhân đạo bởi những kẻ chiến thắng mà đối với họ chỉ có bác và đảng là trên hết.
Và rồi người chiến hữu đó cũng có thể là anh lính QLVNCH ngày đó, trên quê hương lần thứ hai này, can đảm, mặc kệ những sự bất công, ngược đãi, và gièm pha như những cụm lục bình vô định hướng trong dòng sông nước chảy cuộn, đang cố gắng chiến đấu với những kẻ chiến thắng vô thần đó, tranh giành sự tự do thật sự, tìm mọi cách hữu hiệu xoa dịu vết thương lòng và vết thương thân thể của những đồng đội đã kém may mắn hơn anh còn đang kẹt lại trên quê hương yêu dấu của anh…
Nguyễn Phú (Trung Đội Trinh Sát/Tiểu Đoàn 2/43 - SĐ18BB)
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Thu Jul 26, 2018 12:07 am
Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên MX Phạm Văn Tiền
Khóa 20 Võ bị Quốc Gia Ðà Lạt ra trường ngày 20-11-1965. Tình nguyện và được tuyển chọn về Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến 25 tân Thiếu úy. Sau khi thụ huấn 6 tuần lễ khóa 23 Rừng núi Sình Lầy tại Trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, trình diện Bộ Tư Lệnh Lữ Ðoàn TQLC và được Trung tá Bùi Thế Lân, Tham mưu trưởng phân phối đều cho các Tiểu đoàn tác chiến.
Về Đơn Vị mới
Anh em chúng tôi gồm 5 người Tiền, Minh, Liêm, Kiệt, Chính về Tiểu Ðoàn 2, hậu cứ gần chợ Tam Hà, Thủ Ðức. Ðơn vị vừa mới trở về nghỉ dưỡng quân sau cuộc hành quân dài 3 tháng, tăng phái cho Quân đoàn II giải vây áp lực địch tại Ðức Cơ. Thiếu úy Nguyễn Văn Diễn trưởng ban I kiêm Chỉ huy hậu cứ, tiếp chúng tôi và đệ trình danh sách theo thứ tự tuổi tác về các Ðại đội tác chiến. Nguyễn quang Minh, Hoàng như Liêm, tuổi lớn nhất về Ðại đội 1, Tr/úy Trần Kim Hoàng Đại đội trưởng; Nguyễn Tuấn Kiệt về Đại đội 2, Ðại úy Nguyễn văn Hay ÐÐT Kiêm Tiểu đoàn phó, tôi về ÐÐ3 với Tr/úy Nguyễn Ngọc Ðiệp Đại đội trưởng, còn Nguyễn Quốc Chính nhỏ nhất về ÐÐ4, Tr/uý Nguyễn Xuân Phúc Đại đội trưởng.
Danh sách đề nghị được duyệt qua văn phòng Tiểu đòan phó trước khi được quyết định bởi Tiểu đoàn trưởng. Tôi được Ð/u TÐP (Biệt danh Hay chùa) giữ lại ÐÐ2 của ông ta do thật giản dị là Ðại đội ông ta đang có Thiếu úy Võ Tấn Tài vừa mới mãn khóa học Basic School từ Hoa Kỳ trở về, cần tôi nữa là “Tiền-Tài” đủ bộ, sẽ làm ăn khấm khá. Sau nầy anh em thường gọi đùa tôi là đệ tử “Hay Chùa”, Tr/U Trần Văn Thuật, Thiếu úy Vũ Ðoàn Dzoan, tôi, Tài hình thành được một “Group” có tên là “Băng Hay Chùa” vì cùng chung một Đại đội. Thiếu tá Lê Hằng Minh, Tiểu đoàn trưởng cũng vừa đảm trách đơn vị chỉ vài tháng, sau khóa học A.W.S. lần thứ 2 tại Hoa Kỳ. Tôi, một Thiếu úy “sữa” tròn 21 tuổi mới ra trường, còn bỡ ngỡ lạ lùng như chim non vừa rời tổ mẹ chẳng biết nói gì hơn ngoài việc ấp a, ấp úng trước hàng quân, một Trung đội 32 người toàn là những chiến sĩ già dặn đầy kinh nghiệm chiến trường. Mặt tái xanh, tim đập mạnh, vụng về bắt tay từng người, bằng tất cả những cố gắng tôi mới thốt được nên lời: “Ðược thượng cấp chỉ định về Chỉ huy các Anh, tôi rất hãnh diện, nguyện cùng nhau sát cánh để hoàn thành được trách nhiệm mà thượng cấp giao phó.”
Công việc hàng ngày lúc nầy là có mặt đều đặn tại văn phòng Đại đội, điểm danh và làm quen với các anh em binh sĩ. Kiểm tra lại quân trang vũ khí, trang bị thêm đạn dược để sẵn sàng cho cuộc hành quân kế tiếp. Ban đêm thay phiên nhau đi phép, còn ban ngày thì phải thường xuyên có mặt ngày 2 bữa tại cơm nhà bàn. Ðây là dịp để các Sĩ quan trong Tiểu đoàn làm quen với nhau, mà cũng là hình thức kiểm soát rất tế nhị của vị Tiểu đoàn trưởng. Ở tuổi đời trên dưới 30 nhưng trông ông có vẽ đạo mạo, chững chạc, mực thước của một cấp Chỉ huy, chứ không ồn ào hấp tấp, vui chơi vội vã như bạn tôi. Bên cạnh những tài hoa văn nghệ, với những ngón đờn “Guitar” tuyệt diệu, ông còn là một người con hiếu thảo, một cấp Chỉ huy tài ba, gan dạ trên chiến trường. Là Sĩ quan độc thân ông sống hết mình với thuộc cấp, xuất hiện rất đều đặn ở trại gia binh để theo sát đời sống khó khăn của binh sĩ, đến không ai hay và ra về không ai biết. Với bộ ria mép được tỉa gọn gàng, bình dân cùng chiếc “Radio” ấp chiến lược mỗi lần lên xe Jeep đi đâu đó, mãi mãi là hình ảnh thân thương quen thuộc đối với mỗi thuộc cấp trong Tiểu đoàn. Chỉ vài tuần lễ sau đó, Tiểu đoàn có lệnh hành quân thay thế một đơn vị Nhảy Dù ở vùng Tân Thuận Ðông, Long Kiển trong nhiệm vụ hành quân bảo vệ vòng đai phòng thủ Sàigòn. Thiếu úy Nguyễn Quang Minh đã bị tử thương trong cuộc chạm súng với một Đại đội địch tại xóm Bánh Tét trong lúc còn đang tập sự chức vụ Trung đội trưởng (OJT). Một viên đạn địch cũng đã chợt qua đỉnh đầu vị Tiểu đoàn trưởng trong lúc ông ta đang Chỉ huy điều động đơn vị, để lại một lỗ hỏng khá lớn trên chiếc mũ sắt của ông.
Với địa thế hiểm trở, nhiều kênh rạch chằng chịt và bị ta bao vây tứ bề, địch chỉ còn cách là cố tử thủ, chống trả mãnh liệt lại cuộc tấn công bất ngờ của ta. Còn ta cũng chẳng thể nào tiến chiến mục tiêu dễ dàng ở một vùng đầy kênh nước như vậy. Ðược yểm trợ hữu hiệu bởi các Giang đoàn Hải quân và phi pháo, địch bị thiệt hại khá nặng nề, nằm chờ đêm tối để chém vè tẩu thoát. Trung đội tiền đồn của tôi đã diệt gọn một đám rút lui của địch khi chúng di chuyển bằng ghe vào tuyến. Lục soát mục tiêu và kiểm soát trận địa vào sáng ngày hôm sau, địch đã để lại nhiều xác và vũ khí. Tiểu đoàn 2 TQLC đã thắng lớn trong trận nầy, bù lại ta có gần hơn chục mạng bị thương vong. Chiếc nón sắt đầy kỷ niệm của vị Tiểu đoàn trường đã được ông ta giữ mãi trong văn phòng Tiểu đoàn cho đến lúc sau nầy. Lệnh bắt buộc tất cả các Sĩ quan phải đội mũ sắt trong lúc hành quân cũng bắt đầu từ đây. Ðám tang của cố Thiếu úy Nguyễn Quang Minh đã được tổ chức theo đúng “Lễ nghi quân cách” tại Nghĩa trang quân đội Gò Vấp. Anh không được vinh thăng cố Tr/úy mà chỉ được ân thưởng ADBT ngôi sao vàng. Đây là một quyết định kỳ lạ làm đau lòng nhiều người tham dự lễ tang. Chính tay vị tư lệnh Lữ đoàn gắn chiếc Huy chương nầy lên quan tài Anh trước khi hạ huyệt. Hình ảnh vợ Minh đang mang thai trong bộ tang phục màu trắng cùng lời đáp từ của ông cụ thân sinh Anh đã làm nhiều người rơi lệ. Trong phần cuối bài điếu văn ông đã nói: “Sự ra đi của Minh là một mất mát lớn lao với gia đình chúng tôi, nhưng sự mất mát ấy không đáng kể nếu so với đại cuộc, vì Tổ quốc đã mất đi một Chiến sĩ trẻ đầy lòng nhiệt huyết hết lòng phục vụ quê hương”
Trung tuần tháng 3 năm 1966, Tiểu đoàn lại có mặt tại chiến trường Bồng Sơn, Tam Quan cùng với Chiến đoàn “A” TQLC. Lần nầy được tăng phái cho Sư đoàn 22 Bộ binh trong một chiến địch hành quân hỗn hợp. Nhiều Sư đoàn địch trong số có Sư đoàn Cộng sản Bắc Việt đã có mặt tại đây trong nhiều tháng liền với ý định tiến chiến quận lỵ Bồng Sơn hầu chận yết hầu trên đoạn đường tiếp tế từ Qui Nhơn ra Quảng Ngãi. Mục tiêu hành quân lần nầy là các vùng An Quý, Cự Tài, Trường Phước nằm về phía Tây QL1 khoảng 7-8 km đường chim bay. Tiểu đoàn tấn công với đội hình 2 Đại đội hàng ngang. Vượt tuyến xuất phát từ tờ mờ sáng, di chuyển qua những dãy rừng dừa cao rậm rạp, khoảng 9 giờ 30 sáng cùng ngày khi gần đến từ mức xung phong thì đơn vị bắt đầu chạm phải toán tiền đồn của địch. Trung đội 4 của tôi có 2 binh sĩ bị thương. Lệnh Ðại đội cho dừng lại để cũng cố lại đội hình và tìm cách thanh toán địch. Trung đội 2 của Th/úy Tài bên phải đã phát hiện địch từ những ngọn dừa cao trước mặt, xa chừng 200m. Tổ đại liên 30 do Hạ sĩ Nguyễn Nữa xạ thủ được điều động từ Trung đội vũ khí nặng phiá sau tới, hạ gục 2 tên tại chỗ cùng 2 khẩu CKC có ống nhắm chính xác. Từ xã An Quý trước mặt, địch bắt đầu khai hỏa mãnh liệt vào đoàn quân đang di chuyển của ta, phi cơ bao vùng cũng cho biết là địch rất đông đang trú ẩn nằm chờ ở các hầm hố kiên cố! ÐÐ2 chúng tôi đã bám được vào con suối cạn nằm chơ vơ giữa đồng trống, ta và địch chỉ cách nhau khoảng ba bốn trăm mét qua một khoảng ruộng lúa mênh mông. Ta bị bất lợi ở thế tấn công còn địch thì ưu điểm hơn về mặt phòng thủ. Ðó là lúc khoảng 12 giờ trưa cùng ngày. Pháo binh cơ hữu TQLC chưa đặt xong vị trí ở đồi 10, và vì vậy hỏa lực yểm trợ cho ta rất hạn chế!
Nằm chịu trận ở địa thế thấp đã là mục tiêu tác xạ tốt nhất cho địch. Số binh sĩ thương vong mỗi lúc một nhiều hơn, riêng Trung đội tôi thì cũng mất gần 10 mạng từ sáng tới giờ. Lệnh tấn công chiếm mục tiêu bất cứ giá nào từ vị Tiểu đoàn trưởng là động cơ duy nhất hối thúc chúng tôi. Tôi bắt đầu đứng dậy hô xung phong, nhìn quanh các Tiểu đội không ai nhúc nhích. Các anh hãy theo tôi “Xung phong, xung phong!” phóng qua khỏi mép suối bò lên qua phía bên kia, Hạ sĩ Nguyễn Văn On, Binh I Nguyễn Trung đã bị gục tại chỗ khi cố theo sát tôi phía sau. Hỏa lực yểm trợ chỉ nhờ mấy khẩu súng cối 81 ly từ Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Cuối cùng rồi Trung đội còn lại của tôi không đầy 20 chục mạng cũng dàn được hàng ngang trên các bờ đê thấp. Ở cạnh trái và phải còn các Trung đội 1 của Th/u Vũ Ðoàn Dzoan và Trung đội 2 của Th/u Võ tấn Tài. Tiếp tục hô và chạy về phía trước, vừa tác xạ vừa hò hét: “Xung phong! Xung phong!” được ngụy trang liên tục nhờ các quả khói màu. Các khẩu M79 do Hạ sĩ 1 Nhành và HS Nghêu tỏ ra rất công hiệu khi tiến gần sát mục tiêu. Mọi chuyện tải thương, tiếp đạn đều do Trung sĩ 1 Nguyễn Văn Ðợi đảm trách, một Trung đội phó gan dạ, nhanh nhẹn và sốt sắng đã giúp đỡ tôi trong mọi tình huống ngặt nghèo.
Bám sát được vị trí giao thông hào địch đầu tiên vào lúc 6 giờ chiều, một vài tên vừa mới chết còn máu tươi lênh láng bên khẩu thượng liên Tiệp Khắc mà chân vẫn còn xích chặt ở mấy gốc dừa. Lục soát và bung rộng mục tiêu, Đại đội tìm thấy thêm nhiều xác chết và thu hơn 20 vũ khí đủ loại. Ở các cánh quân khác của Tiểu đoàn số thương vong cũng không ít ỏi gì so với Ðại đội tôi. Trung úy Nguyễn Ngọc Ðiệp ÐÐT/ÐÐ3 bị tử thương, Thiếu úy Hoàng Như Liêm thuộc Đại đội 1 đã bị bắn gãy nát giò khi dũng mãnh hiên ngang điều động Trung đội mình vào mục tiêu. Lần đầu tiên TÐ2 TQLC có số thương vong cao nhất trong một trận đánh, khoảng 40 người chết cùng 60 người khác bị thương. Nhưng bù lại, đơn vị đã dành được chiến thắng, một chiến thắng nhiều “Vành khăn sô” nhất của Tiểu đoàn.
Ðầu tháng 4 năm 1966 trong một cuộc gắn Huy chương và thăng cấp tại hậu cứ Tiểu đoàn. Trung tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh TQLC đề nghị là Tiểu đoàn 2 nên có một biệt danh nào khác như Tiểu đoàn 42 Biệt động quân “Cọp Ba đầu rằn” chẳng hạn. Và cái tên “Trâu Ðiên” đã ra đời trong lúc nầy vì những chiến tích trước đây tại Bồng Sơn, Tam Quan, được kẻ thù coi là “Đánh giặc không sợ chết như con bà phước và húc như trâu khùng”. Chuẩn úy Nguyễn Văn Cầu, Trưởng ban 5 đã được lệnh thực hiện ngay huy hiệu nầy với tài họa sĩ của anh. Các tên Quái Ðiểu, Sói Biển, Kình Ngư, Hắc Long, Thần Ưng, Mảnh Hổ, Ó Biển cũng được lần lượt chào đời.
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Fri Aug 03, 2018 12:35 am
Vết thương 43 năm - Y tá MX Hạ sĩ Trần Văn Thế
Hồi ký của một y tá TQLC
43 năm qua, lần đầu tiên tôi được đọc bài viết của một người lính. Mà lại của một y tá MX. Lời văn mộc mạc và chân tình, nói lại những giây phút cuối của đời lính. Được vào danh sách thương binh của TQLC năm 2017, nhờ anh em TPB cùng hoàn cảnh giới thiệu. Trong niềm vui đồng đội, anh đã viết lại những giây phút tưởng chừng đã mất. Nhìn lại hình xưa, anh em quê nhà đặt lại là Thế nhí - vì quá nhỏ. Hiện tại gia đình đang ngụ một lều nát ở Cần Giờ. Vợ bán vé số, chồng bị tay và chân nên làm lặt vặt. Con gái đang học lớp 9, đi bộ hằng ngày - khoảng 1 giờ đến trường. Hôm nay với cánh tay và chân tật. Anh ghi lại... Lạt Ma
Trước ngày diễn ra trận đánh tại Căn cứ Phượng Hoàng, Tiểu Đoàn 6 – TQLC di chuyển từ căn cứ Barbara đến căn cứ Ái Tử rạng sáng ngày 08/04/1972. Hình như quân địch biết được các chiến sĩ Thần Ưng đến, chúng chào đón chúng tôi bằng những tràng pháo 130 ly và 122 ly được rót vào Căn cứ Ái Tử. Đại Bàng Thái Dương (Thiếu Tá Đỗ Hữu Tùng) Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 – TQLC điều động các Đại đội phân tán ra ngoài vành đai Căn cứ Phượng Hoàng. Riêng Trung đội Quân y được bố trí căn hầm gần hàng rào phòng thủ. Căn cứ Ái Tử đang nằm trong tầm tác xạ của pháo binh địch. Tiếng nổ khắp nơi trong Căn cứ, khói lửa mịt trời và mọi người đều biết chuyện gì sẽ xảy ra trong trận pháo kích!
Đến khoảng 9 giờ sáng, Y tá Đại đội chỉ huy Hạ sĩ Nguyễn Hải Hà đến bên tôi và nói: - Anh nhận lệnh của Y tá Trưởng, Trung Sĩ Tuấn Phát đều phải về Đại đội 4 chứ không về Căn cứ Phượng Hoàng.
Vào lúc này Căn cứ Ái Tử bị phóa kích dữ dội. Tôi thoáng nghe có tiếng rít trên đầu, với phản xạ của người lính tôi vội nhảy xuống hố cá nhân, may mắn cho tôi quả đạn nổ cách tôi khoảng hơn chục mét, toán Quân y bình an vô sự. Đến trưa tiếng pháo thưa dần rồi im hẳn, tình hình tạm thời im lặng, lúc này tôi cảm thấy đói vì trên đường di chuyển tôi chưa ăn uống gì, khui hộp trái cây nuốt vội cho đỡ đói.
Tình hình trong Căn cứ, các Chiến sĩ TQLC đang sửa chữa lại công sự sau khi bị pháo kích, riêng Toán Quân y không có việc gì làm, tôi chợt nghĩ: “Tại sao mình không xin Y tá Trưởng cho mình vào căn cứ Phượng Hoàng chơi sáng mai về? ” Tôi trở lại hầm Quân y xin y tá Trưởng Trung sĩ Tuấn Phát giận dữ nói với tôi: - Mày có bị điên không? Tụi nó đang pháo kích, mày vô đó làm gì? Bộ muốn chết hả? Ông Thiếu Úy Long đang họp trên BC Tiểu đoàn chưa về nên chưa biết tình hình thế nào! Thiếu Úy Long là Sĩ quan trợ y, chỉ huy trực tiếp Trung đội Quân y Tiểu đoàn. Tôi tiếp tục nan nỉ, cuối cùng Y tá Trưởng cũng đồng ý và phán một câu: - Ừ mày muốn chết thì cứ đi, ngày mai khi có lệnh là phải về trình diện liền! Tôi vác ba lô và túi thuốc lên vai rồi chạy ra ngoài tìm phương tiện để đi, nếu không có thì phải cuốc bộ vào Căn cứ Phượng Hoàng. Đường dẫn vào căn cứ là con đường rất nhỏ, tôi còn nhớ rất rõ. May mắn cho tôi, lúc này có một xe GMC chở mìn chống tank cho căn cứ Phượng Hoàng. Tôi xin mấy anh Công binh cho tôi quá giang vào Căn cứ. Trên đường đi tôi thấy có một số quân nhân BĐQ đang di chuyển ngược hướng chúng tôi, với gương mặt hóc hác mệt mỏi.
Khi xe vừa vào Căn cứ tôi đã thấy Y tá Hà và Trung sĩ Vinh, Quân Y cánh B đang đứng trong hầm gần cổng trước. Không để hai người hỏi, tôi nói luôn: - Em có xin phép anh Phát vào đây chơi với mấy anh, sáng mai em về. Anh Hà trả lời: - Tụi anh biết rồi. Trung sĩ Phát có báo cho tụi anh lúc em đang trên đường vào đây. Anh cũng cho tôi biết có một bác sĩ mới về thay cho Thiếu úy Long Sĩ quan trợ y. Bác sĩ mới là Y sĩ Trung úy Huỳnh Văn Chỉnh, sau này tôi mới biết là Ca sĩ Trung Chỉnh! Bác sĩ Chỉnh cho tập hợp các anh em Quân y về trình diện để ông biết mặt. Như vậy tôi ở đây đến sáng mai về luôn, lúc này anh Hà nói: - Có đói không? Cơm vắt đó ăn đi. - Cám ơn anh, em không đói. tôi trả lời. Thấy cái hầm trước mặt khá kiên cố, tò mò tôi hỏi: - Hầm phía trước là của ai thế anh? Anh Hà chỉ tay về hướng hầm trả lời: - Hầm đó của hai cố vấn Mỹ và Ông Sữ Tiểu đoàn phó, còn hầm phía bên kia là của Ông Tài, Đại đội Trưởng đại đội 4.
Chúng tôi trò chuyện rôm rả. Khoảng 3 giờ sáng, địch quân bắt đầu pháo kích vào Căn cứ với cường độ vừa phải, tôi và các anh còn nhận ra đạn nổ nơi nào trong Căn cứ. Đến 5 giờ sáng địch ngưng pháo kích, tôi nói với anh Hà và anh Vinh tôi sẽ sang hầm của Đại úy Tài, nói xong tôi chồm tay lấy túi thuốc và sang hầm Đại úy Tài và Cố vấn Mỹ. Xuống đến hầm, dưới hầm bầu không khí im lặng, vẻ mặt mọi người hiện rõ nét lo lắng, không ai nói với tôi câu nào, lúc này địch quân bắt đầu pháo kích trở lại với cường độ dữ dội hơn lúc trước. Trong lúc Đại úy Tài liên lạc với các trung đội tiền đồn, ngoài hầm đạn pháo nổ vang trời. Trong hầm anh em chúng tôi thưởng thức những tách trà nóng, đạn pháo càng lúc càng dồn dập hơn. Vậy là tôi phải ở lại hầm của Ông Đại úy Tài.
Màn đêm buông xuống, ngoài trời tối đen như mực, rồi những tia chớp, những tiếng nổ đinh tai nhức óc như xé tạc màn đêm. Mệt mỏi tôi ngồi dựa vào vách hầm định chợp mắt một tí nhưng không tài nào ngủ được, chỉ mong cho trời mau sáng, nhưng thời gian như dài vô tận, chầm chậm trôi qua. Tất cả mọi người đều thức, nhìn nhau im lặng và chờ đợi. Ngoài kia vẫn còn những âm thanh của hỏa tiển 122 ly vang dội núi rừng.
Qua lỗ châu mai trời tối đen, hỏa tiễn của địch vẫn tiếp tục rơi vào Căn cứ. Lúc này trên máy truyền tin của Đại đội, cánh tiền đồn báo về cho Đại úy Tài, Đại đội 4 là đã trông thấy chiến xa T54 đang dàn đội hình cùng bộ binh tùng thiết đang tiến về căn cứ Phượng Hoàng. Đại úy Tài xin Đại bàng Thái Dương cho pháo binh yểm trợ và soi sáng vì trời vẫn còn tối và sương mù dày đặc bao phủ các ngọn đồi nên hạn chế tầm quan sát. Hỏa châu soi sáng cả một vùng trời, chúng tôi ngồi dưới hầm mà đã nghe tiếng gầm rú của Tank T54 của địch. Toán tiền đoàn báo về là đã chạm súng với cánh quân đầu tiên của địch, tank T54 đang tiến thẳng vào vị trí phòng thủ của ta, cuối cùng toán tiền đồn xin rút lui và mất liên lạc. Khoảng 5 giờ sáng thì tank T54 đã xuất hiện bên kia đồi, mặt sau của căn cứ, T54 bắn trực xạ vào vị trí phòng thủ của ta và tiến thẳng vào hàng rào căn cứ. Quân phòng thủ chống trả mãnh liệt, buộc chúng rút lui xuống chân đồi chỗ con suối. Trong hầm mọi người chuẩn bị tư thế chiến đấu, bỗng liên tiếp có nhiều tiếng nổ gần căn hầm, có nhiều tiếng la, có một binh sĩ chạy xuống hầm với cánh tây đầy máu, lập tức tôi băng bó vết thương cho anh ta, và anh ta cho biết là tank T54 của địch đã vào đến hàng rào, và sắp vào đến đây. Tôi tiếp tục công việc cuối cùng là chích cầm máu và ngừa ATS cho anh.
Lúc này tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng, tiếng gầm rú của tank T54 càng lúc nghe càng gần, nhìn qua lỗ châu mai thấy rõ bánh xích chạy qua. Mọi người trong hầm đều di chuyển ra khỏi hầm, riêng tôi đi sau cùng. Khi vừa ra đến cửa hầm thì chiếc tank T54 thứ hai chồm tới, tôi vội vàng trở lại xuống và núp lại trong hầm, định chờ cho chiếc tank T54 đi qua rồi chạy lên, nhưng định mệnh đã an bài cho số phận của tôi, chiếc tank T54 không chạy qua mà tiến thẳng vào cửa hầm ngay chỗ tôi núp khoảng 5 mét, đầu nó hướng thẳng vào cổng trước Căn cứ, nơi có một toán quân cố gắng rút lui. Làm sao bây giờ? Tôi tự hỏi. Trong tay tôi không có một thứ vũ khí gì ngoài túi thuốc và hai trái lựu đạn M67 đeo trên áo giáp. Tôi lục lọi và tìm kiếm hy vọng còn sót lại vài khẩu chống chiến xa M72. Tôi thực sự thất vọng khi không tìm thấy một thứ gì. Dựa vào vách hầm, tay tháo trái lựu đạn M67 bẻ ngay chổ an toàn, quan sát và suy nghĩ tìm cách vượt thoát. Trước mặt tôi là chiếc tank T54 đang nằm một đống, cũng may cho tôi là nó mãi mê nhìn về phía cổng nên không nhìn thấy tôi. Tôi lúc này trong tình trạng dở khóc dở cười tiến thoái lưỡng nan. Cuối cùng lợi dụng tên xạ thủ công 12 ly 8 đang mãi mê nhìn ra hướng nơi mà toán quân trong căn cứ đang cố gắng rút lui về hướng Căn cứ Ái Tử. Tôi men theo vách hầm, tránh xa dần chiếc T54 của địch, 5 mét, 10 mét rồi 20m. Bây giờ nó không còn nhìn thấy tôi. Trên tay của tôi vẫn còn trái lựu đạn M67 nhưng không biết phải làm gì trong tình huống này. Nhìn sang phía bên kia đồi, thấy lố nhố bộ binh của địch đang di chuyển tiến về hướng Căn cứ. Phía Bắc Căn cứ một chiếc T54 đang ủi và phá các ụ lô cốt, phía con đường phía tây thì có tổng cộng 8 chiếc tank đang dàn đội hình lù lù tiến ngay cổng Căn cứ. Tại cổng có một chiếc tank T54 đang án ngự tại đó. Tôi hiểu bây giờ mình đã vào tử lộ, không còn đường thoát, có lẽ số phận mình đến đây là kết thúc. Cầm quả lựu đạn trên tay tôi thầm nhủ: “Nếu có chết thì phải chết cho xứng đáng của một chiến sĩ TQLC vậy là tôi ở yên vị trí và chờ đợi.”
Lúc này tôi chợt nhớ về Phương Nam, nơi tôi được sinh ra và lớn lên, nhớ cha mẹ, anh em, bạn bè, mắt tôi cay xè, đôi dòng lệ lăn trào trên khóe mắt. Ở ngoài tôi nghe có tiếng la hàng sống chống chết vang khắp nơi, tôi lăn người xuống hố cá nhân và sẳn sàng cho mình một cái chết đúng nghĩa của một người chiến binh. Trên miệng hố tôi thấy có một tấm ván ép nên tiện tay kéo đậy miệng hố và hy vọng địch quân không phát giác ra mình, nếu nó gỡ tấm ván ra là cưa hai với tụi nó, ngón tay trỏ tôi thủ sẵn trong khóa an toàn của quả lựu đạn. Trên miệng hầm tiếng hàng sống chống chết vang lên khắp nơi. Tôi chợt nghe có tiếng bước chân đang tiến gần về phía hố của tôi, ngồi dưới hố tôi xoay người thủ thế. Bỗng trên đầu tôi vang lên hai tiếng nổ của súng AK47. Sau khi bắn xong tên vc bỏ đi, ngước nhìn lên tôi thấy ánh sáng xuyên lỗ thủng qua hai lỗ đạn. tôi cảm thấy đau nhói, tôi biết rằng tôi đã trúng đạn nhưng không biết ở đâu? Sự việc diễn ra quá nhanh, tôi cảm thấy tay phải của tôi tê dại và không theo sự điều khiển của tôi, tay trái tôi lấy trái lựu đạn khóa chốt an toàn và để xuống chân, tiếp đến là lấy tay trái nắm chặt tay phải cho nó đừng lắc lực, lúc này tôi nhận ra là mình đã bị thương ở tay phải và còn một viên nữa không biết trúng ở đâu? Tôi thấy đau nhói và tê chổ đùi trái, tôi cố gắng cử động chân trái để biết vết thương có nặng không? Tôi lấy tay sờ vết thương ở đùi trái, máu ước đẫm quần, tay phải của tôi lúc này đau nhức khủng khiếp, không thể làm gì với hai vết thương trong cái hố chật chội, tối om này tôi thầm nghĩ trước sau gì mình cũng chết, thôi cho mày thấy luôn, nghĩ xong tay trái tôi đẩy tấm ván ép qua một bên, lập tức bên tay tôi văng văng tiếng la: “ngụy, ngụy” và có hàng chục họng súng AK chĩa vào tôi, một tên trong bọn nó kêu tôi đứng lên và leo lên hố. Tôi ngồi im và trả lời là không thể leo lên được vì tôi bị thương ở chân. Từ xa có tiếng hỏi lớn: - Đâu, ngụy đâu?, tên chỉ huy tay lăm lăm khẩu súng K54, tên này quát lớn. - Đứng dậy. Vẫn câu trả lời tôi không thể vì chân và tay của tôi bị gãy rồi, tên chỉ huy tiếp tục hỏi tôi: - Súng mày đâu? Tao thấy trong này tụi bây ngoan cố chống trả mãnh liệt lắm mà! Tôi trả lời rằng tôi không có được trang bị súng vì tôi là Y tá Quân y. - Vậy túi cứu thương của mày đâu, tên chỉ huy tiếp tục hỏi.
Tôi nói là tôi để trong hầm đằng kia, nó cho người xuống lấy và ra lệnh cho tên y tá của nó xem vết thương của tôi đúng như tôi đã nói với nó không. Sau khi xem vết thương, tên y tá báo cáo là đúng như vậy, thằng này bị gãy tay và chân, vào lúc này pháo binh ta bắt đầu phản công, những quả lựu đạn từ trên cao nổ chụp xuống. Đây là lần đầu tiên tôi mới thấy loại đạn này. Bọn địch chạy toán loạn tìm chổ ẩn nấp, tên y tá chạy không kịp, liền ngồi xuống hố với tôi, nó run lập cập. Tôi bảo tên y tá địch: - Mày leo lên hố là chết liền, tên y tá ngồi im không nói một lời nào. Tôi hỏi nó: - Trong túi cứu thương của mày có kéo không? - Có, nó trả lời tôi. Tôi liền bảo nó lấy kéo rọc tay áo chỗ vết thương, tôi chỉ chỗ lấy thuốc sát trùng trong dây ba chạc của tôi ra sát trùng và băng vết thương cho tôi! Tên y tá làm theo hướng dẫn của tôi. Máu từ cánh tay không ngừng chảy, ướt cả hai băng cá nhân, tôi liền bảo nó lấy băng có tẩm thuốc, băng chặt bên ngoài và treo cánh tay bịt thương lên. Pháo binh của ta tiếp tục rót vào Căn cứ, thoáng nghe tiếng gọi: - Y tá đâu? Y tá đâu? nó liền đứng dậy chào tôi và chạy biến ra ngoài.
Tôi ngồi im tại hố cá nhân, nghe ngóng tình hình. Bây giờ trước mắt phải tránh xa tụi vc cái đã, rồi tính sau. Tôi liền chồm người và leo lên miệng hố. Đầu óc quay cuồng, choáng váng tôi ngã ập xuống đất, không thể đi được, tôi nghĩ có lẽ tôi mất máu nhiều nên mới bị như vậy. Tôi nằm ngửa và quan sát tìm hướng về hầm chỉ huy, nơi đó an toàn để tránh miếng pháo chụp của phe ta. Hầm chỉ huy cách chỗ của tôi khoảng 15 mét. Tình cảnh lúc này khó khăn cho tôi, miểng đạn, cát đất bay mù trời, tôi nghĩ nằm ở đây không ổn. Trông thấy có cái thùng conex gần đó, tôi liền trườn vào, nằm thở hổn hển mệt và khát vô cùng. Máu từ hai vết thương tiếp tục rỉ làm thấm ướt áo quần. Bỗng tôi thấy có tia chớp lóe sáng, sau đó là tiếng nổ đinh tay nhứt óc, cái thùng conex lay động mạnh. Tiếng mảnh đạn rít bên tai, một góc thùng bị bể và những tia nắng mặt trời chiếu qua những lỗ thủng xuống chỗ tôi nằm, cái thùng conex trúng mảnh đạn chứ không phải tôi, vậy tôi vẫn chưa chết, may mắn thật. Một lúc sau không còn nghe tiếng pháo của ta nữa, mà chỉ còn nghe tiếng gọi nhau í ới của địch quân. Từ hướng đông có tiếng trực thăng bay tới rất gần và trời ơi nó bắn cái gì như bò rống, tụi vc ở ngoài hoảng loạn réo gọi la hét ầm ĩ, chắc có một số đi chầu diêm Chúa. Trực thăng bắn và đảo hai vòng rồi biến mất. Trong cái thùng conex lỗ chỗ lỗ thủng, tôi lại cảm thấy không an toàn, tôi cố gắng lết ra ngoài để trườn về hầm chỉ huy. Nhưng ác thay vừa lết ra khỏi thùng thì tôi nghe tiếng máy bay khu trục cơ và đang lù lù bay tới, lần này nó bay tầm thấp, khi bay ngang chỗ tôi nằm tôi còn thấy rõ viên phi công. Chắc người phi công cũng nhìn thấy tôi, tôi đưa tay chỉ về phía sau, ngụ ý hướng của địch quân, lúc đó tôi có nghe nhiều loạt đạn phòng không bắn về chiếc khu trục, trúng đạn chiếc khu trục rơi về hướng địch. Bọn vc trong Căn cứ reo hò vì đã hạ được chiếc phi cơ. Tôi vô cùng lo âu vì không biết bao giờ mới kết thúc. Mình đang trong tình cảnh bị thương, máu ra nhiều, không biết còn sống được bao lâu nữa! Tôi tiếp tục trườn về hướng hầm chỉ huy, cuối cùng thì tôi cũng tới được cửa hầm. Sức cùng lực kiệt tôi không thể xuống hầm, nên tôi nằm tại chổ, phó mặc cho số phận, tới đâu thì tới, quá mệt!
Pháo binh của ta lại tiếp tục nã vào Căn cứ Phượng Hoàng, lần này dữ dội hơn. Đạn rơi đều khắp trong Căn cứ. Tôi nghĩ có lẽ bên ta muốn hủy diệt tất cả địch quân trong Căn cứ, không may cho tôi trong đó có người lính TQLC còn sót lại trong căn cứ. Những quả đạn pháo lại tiếp tục rơi. Tôi cố gắng chui xuống hầm một cách khó nhọc. Hai vết thương đau nhức khi tôi va chạm với các bậc lên xuống. Xuống đến hầm thở hổn hển, tay chân gần như bất động. Căn hầm rung chuyển vì những quả đạn nổ trên nóc hầm, căn hầm như muốn sập. Nằm ở đây tôi nghe tiếng xích của xe tank T54 đều khắp nơi trong căn cứ. Nằm gần như bất động, máu chảy đọng vũng, mệt vô cùng, hơi thở yếu dần, khát khủng khiếp. “Hay là uống thử máu mình cho đỡ khát”, tôi thầm nhủ, nếm thử một ít tôi thấy mặn và tanh quá nên đành thôi. Bỗng có tiếng nổ rất gần, một lúc sau có người chạy về phía căn hầm, tôi vội lết vào chỗ tối nơi góc hầm. Tụi nó không phát hiện ra tôi, trong bóng tối, tôi quan sát thấy tụi nó không đội nón cối mà đội nón của mấy tên trên xe tank. Tôi nghe chúng nó xì xầm to nhỏ một lúc sau thì bỏ đi. Có mấy quả đạn lại rơi lên nóc hầm, căn hầm sập một góc, tôi nghĩ sớm muộn gì cũng sập, ở đây nó đè chết luôn! Tôi cố gắng lết ra khỏi hầm rồi ngã quỵ. Một trái đạn pháo rơi gần cửa hầm, mảnh đạn văng tung tóe, lúc đó nếu mà tôi lên sớm một tí chắc là ôm nguyên một trái. Số của tôi chắc có ông bà che chở cho nên bao lần thoát hiểm, nên tôi van vái cho tai qua nạn khỏi. Đợi trái thứ hai nổ cách xa cửa hầm, lấy hết sức lực tôi bung người nhảy ra khỏi hầm. Trời đất như quay cuồng, tôi ngã ập xuống mà mắt vẫn mở nhìn về phía hầm của hai cố vấn Mỹ, cách đó khoảng hơn chục mét có chiếc tank T54 nằm gần cái thùng conex hình như nó đang cháy, pháo của ta vẫn nã đều vào Căn cứ. Ở ngoài này không xong rồi. Bản năng sinh tồn của tôi trỗi dậy mãnh liệt, một lần nữa tôi cố gắng lết xuống hầm. Ngồi dựa vào vách hầm, xem xét lại các vết thương, máu vẫn tiếp tục rỉ, miệng khô và đắng vì khát, cơn khát hành hạ tôi, nên tôi quên nỗi đau của thể xác. Rồi tiếng pháo thưa dần rồi im hẳn.
Một lúc sau có tiếng súng cá nhân, tiếng súng M16 vang lên ở phía ngoài cổng Căn cứ và tiếng la hét xung phong. Tôi vô cùng mừng rỡ là mình sẽ được các đồng đội cứu ra khỏi chỗ này. Nhưng lúc này tôi phải sáng suốt để nhận định tình tình. Khi quân ta tấn công và tái chiếm căn cứ. Không biết là cánh quân nào, nhưng chắc chắn có một điều là họ sẽ thanh toán các mục tiêu (như căn hầm) bằng lựu đạn. Khoảng cách từ cổng Căn cứ là vài chục mét, tôi nghe có tiếng chân người tiến đến cửa hầm. Tôi quyết định lên tiếng và la to lên: - Tôi TQLC bị thương. Đúng như tôi dự đoán, người trên hầm ra lệnh: - Ra khỏi cửa hầm cho tôi thấy. Nén đau tôi lết ra khỏi cửa hầm, tôi nhìn thấy hai người lính TQLC gương mặt họ ngụy trang một lớp màu đen, một người hỏi: - Có vc ở dưới hầm không? - Không. Tôi trả lời. Họ nhảy xuống hầm và lục soát, kế đến có hai người lính nữa khiêng tôi ra khỏi Căn cứ. Có một vị sĩ quan của TĐ TQLC tôi không rõ là đại đội mấy! Ông nhìn tôi và nói: - Tụi tao đã trả thù cho mày rồi đó và chỉ về hướng chiếc xe tank T54 đang bốc cháy nằm la liệt.
Lúc này có một toán quân nữa của ta cũng vừa đến, họ đang truy kích địch. Trong toán quân này có 4 người cùng Trung đội Quân y TĐ với tôi. Vừa thấy tôi họ la lên: - Thằng Thế đây! Họ vui mừng không tả xiết. Trung đội báo cáo tôi mất tích rồi. Nhìn cảnh tôi bị thương ai cũng xót thương. Hạ sĩ Y tá Minh nói: - Thằng Thế nó bị thương nặng lắm, bây giờ là phải tải thương nó về TĐ có Bác sĩ Chỉnh ở đó. Lúc này tôi cảm thấy lạnh và hơi thở của tôi yếu dần, không có băng ca tải thương. Anh Minh lấy cái poncho quấn ngang người tôi và nói: - Em ráng chịu đau để anh vác em về hầm Quân y nơi Bác sĩ Chỉnh.
Các anh đỡ tôi lên vai của anh Minh, tay của anh Minh ôm hai chân tôi, đầu tôi gục sau lưng anh, mắt tôi nhắm nghiền, rên khe khẽ. Lúc này tôi không còn cảm giác đau nữa, tôi lịm dần và không còn biết gì nữa. Trong trạng thái lơ mơ tôi có nghe tiếng anh Hà, có ai chích thuốc vào bụng tôi. Khi tỉnh dậy tôi mới biết mình ở BV Quảng Trị. Tôi vừa trải qua một cuộc giải phẫu, anh Hà bước vào phòng là tôi đã hiểu là anh đã tản thương tôi ra BV này. Tôi hỏi là các vết thương của tôi có nặng không, anh Hà trả lời: - Bác sĩ vừa mổ xong, không có gì nghiêm trọng, sẽ mau bình phục thôi. Anh Hà trấn an tôi: - Sáng mai sẽ chuyển em ra BV Nguyễn Tri Phương – Huế. Anh ở đấy với em, chờ tán thương xong anh sẽ trở lại hành quân. Hôm sau ngày 10-04-1972 tôi được tản thương ra Huế, xúc động, bùi ngùi, tôi chia tay Hạ sĩ Hải Hà từ ngày ấy…
Và bặt tin cho đến nay, dù tôi đã tìm mọi cách để gặp lại. Ngày 12-04-1972 tôi được chuyển ra phi trường Phú Bài di chuyển về phi trường Tân Sơn Nhất và chuyển tiếp về BV Lê Hữu Sanh của TĐ Quân y TQLC. Nơi tôi ra đi và ngày về không còn nguyên vẹn. Bây giờ tôi là một Thương phế binh ./.
Cần giờ, Ngày 09 tháng 4 năm 2018 Y tá MX Hạ sĩ Trần Văn Thế Quân y TDD. TQLC
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Thu Aug 23, 2018 12:06 am
.
Tôi gọi họ là anh hùng Đặng Chí Hùng 07 Tháng Mười Hai 2014
Trong cuộc chiến mà Bên Thắng Cuộc (theo cách gọi của tác giả Huy Đức) đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” như tôi từng chứng minh trong 2 bài “Những sự thật cần phải biết - phần 1” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng...
Cứ mỗi độ Xuân về, những ngày tháng 3 cho đến cuối tháng 4, đã gần 40 năm qua chúng ta thường được nghe những luận điệu lặp lại của những người Cộng sản chuyên nghề ngậm máu phun người và làm thì ít mà báo cáo láo thì nhiều về cái gọi là “chiến thắng lẫy lừng” thì tôi lại phải xuống bút.
Có lẽ tôi không cần phải nói lại về bản thân tôi vì tôi chẳng có cái gốc “Ngụy” để mà đi “chống phá” cách mạng. Nhưng tôi thấy cần phải luận anh hùng với đôi dòng để bạn đọc thấy trong cuộc chiến mà Bên Thắng Cuộc đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng...
Tại sao tôi nói như vậy? Vì trong cuộc chiến phi nghĩa mà Cộng sản gây ra khiến nhân dân điêu linh thì kẻ thắng đã được đặt vào thế “được thắng,” còn người “thua” thì thực tế họ không thua mà họ đang thắng trong lòng chúng tôi, những người dù sinh sau đẻ muộn.
Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Điều này tôi đã chứng minh ở một bài viết “Những sự thật cần phải biết - phần 2”. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với Cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH - vì với tôi họ là “anh hùng”!
Đã cuối tháng 3 gãy súng (theo lời tác giả Cao Xuân Huy) của gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ - những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không?
Tiền đồn An Lộc
Thứ nhất, trong khuôn khổ bài 1, 2 “Những sự thật cần phải biết” tôi đã chứng minh rằng: VNCH không phải là “ngụy” và những người lính VNCH phải gục ngã vì họ bị ép phải thua và không còn khả năng để chiến đấu. Họ không thể dùng tay không đánh nhau với đoàn quân đông đảo có vũ khí, đạn dược áp đảo đang tiến theo thế cờ chính trị. Như vậy họ không phải là những người bại trận. Trên thực tế họ bị ép phải “thua.”
Thứ hai, với khẩu hiệu “tổ quốc-danh dự-trách nhiệm” thì quân lực VNCH đã chiến đấu cho tự do miền Nam hơn 20 năm trời. Họ không phải là những kẻ đi gây chiến, xâm lược nước khác, khủng bố như Cộng sản. Vậy cớ sao họ vì an ninh, vì quốc gia mà chiến đấu không thể gọi họ là anh hùng?
Thứ ba, nhìn lại cuộc chiến VNCH và VNDCCH thì ai cũng thấy gương của những ông tướng dám tuẫn tiết theo thành như trường hợp của tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng,... Vậy ai còn có thể nói quân lực có những người anh hùng đó không anh hùng? Dám chết cho lý tưởng của mình, dám chết vì thấy rằng mình dù bị ép thua nhưng cũng có trách nhiệm trong nỗi đau đó có thể gọi là anh hùng không? Có! Rất xứng đáng gọi họ là những anh hùng.
Hải Quân Thiếu Tá QLVNCH Ngụy Văn Thà
Thứ tư, khi so sánh với quân đội nhân dân VN hiện nay tôi càng thấy sự khác biệt của những người anh anh hùng và những kẻ “tự phong anh hùng.” Nếu Quân Lực VNCH có Ngụy Văn Thà và đồng đội sẵn sàng hy sinh vì biển đảo tổ quốc thì quân đội nhân dân Cộng Sản không dám “ho” một tiếng với Trung Cộng bắn ngư dân và còn “tri ân” giặc như một đứa con nít đang xu nịnh đám giang hồ mất nết. Vậy ai là anh hùng các bạn cũng đã biết rồi chứ?
Thứ năm, sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng triệu người lính VNCH còn kẹt lại ở VN chịu thương tật, không ai giúp đỡ, không có lương hưu nhưng họ vẫn sống thẳng thắn và điềm đạm. Trong khi đó quân đội Cộng sản tự cho mình là anh hùng thì lại vì cái sổ hưu mà đang cố bám lấy cái đảng khủng bố, độc tài và chịu làm thân nô lệ cho Tàu. Vậy ai là anh hùng? Xin giành sự suy ngẫm này cho chính các vị tướng già quân đội Cộng sản.
Còn rất nhiều bằng chứng nhưng tôi xin chỉ nêu 5 điều chính cho thấy những người mà tôi gọi là anh hùng - những người lính VNCH là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc chiến mà họ phải thua dù họ có chính nghĩa không có ý nghĩa. Điều ý nghĩa đọng lại cho mãi sau này đó là họ đã từng là những người anh hùng, họ xứng đáng được tôn vinh và quan trọng hơn họ đang thắng trong cuộc chiến trong lòng con dân Việt Nam!
Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH - Những người anh hùng - Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục Cộng sản khát máu!
Đặng Chí Hùng
Oai hùng Hoàng Sa! Nỗi nhục Gạc Ma!
Hải quân VNCH chiến đấu bảo vệ chủ quyền, lãnh hải của Tổ Quốc VN, chống lại kẻ xâm lăng, là giặc bành trướng Trung cộng. Quân lực VNCH anh dũng chiến đấu, mưu trí, quyết tâm, dù biết chắc sẽ hy sinh vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, dù biết tình hình VNCH bất lợi lớn trên cục diện mọi mặt.
Phim Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa QLVNCH
Năm 1988 quần đảo Trường Sa bị Trung Cộng tấn công. Tàu chiến Trung Quốc trực xạ bắn vào tàu vận tải công binh Việt Nam khiến 64 Hải quân Nhân Dân VN đã hy sinh cùng với lệnh không được nổ súng. .
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Mon Mar 25, 2019 8:10 am
ANH TÔI VÀ TRUNG ĐỘI NGHĨA QUÂN Kha Lăng Đa
(Kính dâng hương hồn anh tôi)
Những năm tháng làm “quyền huynh thế phụ” khi cha tôi lâm trọng bệnh, qua đời, anh tôi đã lèo lái thuyền buồm ra khơi đánh cá để nuôi sống gia đình. Anh rất thông minh, cần mẫn, luôn học hỏi kinh nghiệm của những người “bạn biển” già đã từng đối địch với phong ba để đem về bến những khoang thuyền khẳm nặng cá, tôm. Những năm đầu hành nghề hạ bạc, anh tôi đã đem lại sự ấm no cho gia đình, nhưng dần dần, số lượng hải sản bị thất thu, đưa đến tình trạng bi đát hơn nữa, nhiều ngày “đi không, về không”, cuối cùng phải kéo thuyền đánh cá lên bờ và giải nghệ trong nỗi đau buồn đọng đầy nước mắt của mẹ tôi.
Mẹ phải thức khuya dậy sớm, làm bánh ngọt để tạm sống qua ngày, nuôi tôi và đứa em út đi học ở trường làng. Sau lễ khánh thành “Ấp Chiến Lược”, anh tôi được vào phục vụ trong Hội Đồng xã Cần Thạnh, Quận Cần Giờ, Tỉnh Phước Tuy (sau này thuộc tỉnh Biên Hòa, rồi thuộc tỉnh Gia Định) – trong Đặc Khu Rừng Sát. Sau đó anh làm Trung đội Trưởng Nghĩa Quân mà trong thời Đệ Nhứt Cộng Hòa gọi là Nhân Dân Tự Vệ. Ấp Chiến Lược ở quê tôi được xây dựng khá kiên cố, là phòng tuyến chống cộng đã tách rời địch quân bám víu nhân dân, nhằm ổn định, củng cố và bảo vệ cuộc sống tự do, dân chủ ở hậu phương, yểm trợ cho tiền tuyến đấu tranh với Cộng sản xâm lược. Ngoài đồn bót của một đại đội Bảo An (sau gọi là Địa Phương Quân) đóng sát bờ biển của Ấp Hưng Thạnh, đồn Nghĩa Quân của anh tôi được dựng lên, gần hàng rào Ấp Chiến Lược, hướng mặt ra bìa rừng và xóm rẫy. Đồn được rào chằng chịt bằng ba lớp kẽm gai, chung quanh là hào sâu, có cắm chông nhọn dày đặc. Tháp canh kiên cố, vượt lên khỏi nóc đồn cho tầm mắt quan sát của người lính gác dễ nhìn ra bốn phía. Bên trong vòng rào là giao thông hào để chiến đấu khi địch tấn công đồn.
Anh tôi rất hân hoan khi được cầm súng bảo vệ quê hương. Anh luôn hăng hái và hoàn thành trách nhiệm được giao phó nên ông Quận Trưởng rất thương mến và tin tưởng anh. Trung đội của anh tôi gồm 30 người, đa số là ngư dân, đã từng dãi nắng dầm mưa nên người nào cũng khỏe mạnh, da ngăm đen, thân hình rắn chắc, hiên ngang. Những chiến sĩ bảo vệ xóm làng này đã tham gia phong trào thể thao nên nhiều người là tuyển thủ của hội túc cầu, bóng chuyền và bóng bàn địa phương. Đội bóng đá Cần Giờ đã một thời nổi tiếng ở miền Đông. Anh tôi là vô địch bóng bàn của quận và anh đã về tỉnh tranh giải điền kinh trong những ngày lễ Quốc khánh 26 tháng 10 của thời Đệ Nhứt Cộng Hòa. Ngoài nhiệm vụ canh phòng, tuần tiễu, phục kích, trung đội của anh tôi còn phối hợp hành quân với lực lượng Địa Phương Quân. Anh tôi cùng đồng đội làm công tác “Dân sự vụ” khi nhân dân cần đến, chẳng hạn như cất lại nhà cho những nạn nhân bị hỏa hoạn... Anh tạo được đường dây liên lạc tình báo nhân dân trong xóm rẫy để thu thập tin tức về địch quân. Đường dây này rất cẩn mật vì nếu bị tiết lộ thì những “cảm tình viên” của anh sẽ bị Việt Cộng hạ sát. Giai đoạn Ấp Chiến Lược hình thành, địch đã khủng bố dã man, giết hại nhân viên xã, ấp và nhân dân cộng tác với chính quyền ta. Trên xác chết của nạn nhân nào cũng có bản án tử hình củabọn chúng mà tội danh thường là ác ôn, phản động.
Trong những bó rau, cải đặc biệt của những cảm tình viên từ những thôn ấp nằm ngoài vòng đai ấp chiến lược “bán” cho anh tôi giữa phiên chợ buổi ban mai, có tờ báo cáo ngắn gọn về tin tức địch quân. Anh tôi biết được ngày, giờ và địa điểm Việt Cộng lén về hoạt động nên nhiều lần phục kích, gây thiệt hại nặng nề cho bọn chúng. Anh tôi cũng đã thi hành chính sách “chiêu hồi” của chính phủ đề ra dù trách nhiệm ấy của ngành Tâm Lý Chiến. Anh đã cho người thân tín ở xóm rẫy bắt liên lạc với những cán binh Việt Cộng trong rừng muốn trở về với chính nghĩa Quốc Gia và đích thân anh sẽ đi đón những người quy chánh ở những điểm hẹn. Vì anh tôi có lòng nhiệt huyết, dũng cảm trong chiến đấu, tinh thần chống Cộng triệt để và mưu lược của anh đã làm cho địch điên đảo nhiều phen nên bọn chúng treo giải thưởng bằng một số tiền lớn cho những ai giết được anh tôi.
Mẹ tôi rất lo lắng cho anh tôi đã tích cực phục vụ và có lập trường quốc gia vững chắc, trước sự khủng bố của Việt cộng. Mỗi lần anh tôi đi tuần tiễu, nghe súng nổ xa xa, mẹ tôi thoáng vẻ sợ sệt trên gương mặt đã in hằn nhiều nếp nhăn của ưu tư chất chồng theo năm tháng, mẹ tôi đốt nhang, cắm lên bàn thờ cha tôi rồi đứng lâm râm khấn vái. Sau những lần chạm súng với địch, trở về an toàn, anh tôi tươi cười trấn an mẹ tôi. Mẹ gượng cười, nhìn anh bằng ánh mắt mênh mông. Bao nỗi lo âu của Mẹ đã tiêu tan trước cảnh sum họp của gia đình, khi vầng kim ô chìm khuất sau khu rừng sát đang nhuộm ánh tà dương. Rồi anh tôi lại bất chấp hiểm nguy, cùng đồng đội triệt hạ mật khu Giồng Ao, đánh bật lực lượng địch toan tấn công tiền đồn Ba Động, bắn chìm ghe Việt cộng trên vàm sông Tắc Xuất...
Sau những đêm đi tuần tiễu hay phục kích địch quân, những chiến sĩ của trung đội Nghĩa Quân trở về mái nhà lợp bằng lá dừa nước, cùng vợ, con đi bắt nghêu, bắt ốc, hoặc đi kéo lưới, giăng câu để mưu cầu thêm sự sống cho gia đình. Anh tôi thì trở về nhà, đi lặn xuống biển, bắt sò, bắt con dòm hay đi dọc theo bờ biển đất sình, bắt tôm tích dưới những hang sâu để bán, kiếm thêm tiền thu nhập cho gia đình. Lương của Nghĩa Quân hàng tháng chỉ 800 đồng, phải chắt chiu, dành dụm, ăn uống đạm bạc mới đủ nuôi vợ, nuôi con. Vậy mà anh tôi và đồng đội vẫn một lòng trung thành với chính nghĩa quốc gia, vẫn dãi gió, dầm sương thức đêm để bố phòng, canh gác cho đồng bào được an cư, lạc nghiệp. Đồng tiền làm ra bằng công sức của mình, anh tôi dành dụm, mua xi-măng, đúc từng viên gạch ống để xây dựng lại căn nhà cũ. Vì không có được nhiều tiền nên anh chỉ đúc mỗi lần được mười viên gạch. Tôi cảm động, nhìn anh tôi cặm cụi làm kế hoạch “kiến tha lâu đầy tổ” ròng rã mấy năm trường.
Trong trung đội của anh tôi có anh Nguyễn Văn Thành, thuộc một gia đình ở miền Bắc, di cư vào Nam năm 1954. Có lẽ anh thích xứ biển nên về nhập tịch ở làng tôi. Chiều nào, tôi đi đá banh cũng gặp anh ta. Anh Thành tính tình vui vẻ, nhanh nhẹn, thích đi dạo trong xóm rẫy để “o mèo”! Anh có ngờ đâu những cuộc la cà, vui chơi với phái nữ ở xóm rẫy đã đưa anh vào cạm bẫy “địch vận” của Việt cộng. Người yêu của anh đã móc nối anh làm nội tuyến trong trung đội Nghĩa Quân. Chúng hẹn đến một đêm mà Thành có nhiệm vụ canh gác đồn Nghĩa Quân sẽ ra tay hành động. Chúng tặng anh Thành một cái đồng hồ đeo tay để canh đúng giờ với đồng hồ của bọn chúng trong mưu đồ triệt hạ đồn Nghĩa Quân. Anh Thành nhận lệnh đến giờ G trong phiên gác đêm của anh, anh sẽ ra mật hiệu bằng đèn ”pin” chớp, tắt ba lần. Bên ngoài đồn, lực lượng của địch bố trí ở một vườn mãng cầu gần đó, sẽ đáp lại mật hiệu. Sau đó Việt cộng sẽ cắt hàng rào kẽm gai của ấp chiến lược để đột nhập và đích thân anh Thành sẽ mở cửa đồn cho địch vào, hạ sát hết anh em Nghĩa Quân, lấy vũ khí, quân dụng, rồi đặt chất nổ giựt sập đồn trước khi rút lui. Anh Thành sẽ theo bọn chúng vào rừng. Nhưng anh Thành đã báo cho anh tôi biết sự việc và anh tôi đã dẫn anh ta đến trình diện Quận Trưởng để đặt kế hoạch “phản nội tuyến”. Điểm mai phục, chờ giờ hành động của hơn một trung đội Việt cộng, tại vườn mãng cầu, cách đồn Nghĩa Quân hơn hai trăm thước về phía Đông Nam, được làm mục tiêu cho hai khẩu đại liên từ trên môt tháp canh của Địa Phương Quân,cách đó không xa, về phía Bắc. Ngoài mười nghĩa quân trong đồn, số còn lại do anh tôi chỉ huy, phối hợp với một trung đội Địa Phương Quân phục kích đường rút lui của bọn chúng cách đó khoảng một trăm thước về phía Nam Tây Nam.
Đêm ấy trời tối đen như mực, thôn xóm nằm im lìm trong giấc ngủ say sưa. Mưa thu bay lất phất theo gió. Giọng côn trùng rả rích, cầm canh. Kế hoạch phản nội tuyến đã được khai triển, chực chờ diệt địch. Đến hơn nửa đêm là phiên gác của anh Thành, đúng giờ G, anh ta bật đèn hiệu. Bên ngoài, Việt công đáp lại mật hiệu và cho năm tên đi trước để dọn hàng rào Ấp Chiến lược. Lực lượng địch vẫn còn nằm bố trí tại vườn mãng cầu. Anh Thành xuống tháp canh, đi ra cửa đồn để rước địch quân vào. Dưới địa đạo bên trong rào kẽm gai, các chiến sĩ Nghĩa Quân đã ẩn núp sẵn sàng trước khi anh Thành lên phiên gác. Khi năm tên cảm tử của địch quân vừa đến cửa đồn với súng cầm tay, anh Thành vẫy tay ra hiệu cho chúng cứ vào. Chúng cũng vẫy tay với anh Thành. Tên đi đầu cầm khẩu súng Thompson với cái áo giáp mang đầy băng đạn. Có lẽ địch giao nhiệm vụ cho tên này lọt vào đồn trước tiên, dùng súng tiểu liên giết sạch hết Nghĩa Quân đang ngủ say. Khi chúng còn cách cửa đồn 5 thước, anh em Nghĩa Quân mai phục dưới giao thông hào đã khai hỏa, bắn chết bọn chúng. Hai khẩu đại liên trên tháp canh của đồn Địa Phương Quân bắn xối xả vào vị trí địch. Ánh hỏa châu soi sáng liên tục trên vùng chiến trận. Việt cộng không còn vị trí ẩn núp vì chúng chọn vườn mãng cầu làm điểm tập trung tạm thời để chờ giờ vào đồn hốt vũ khí sau khi toán cảm tử của chúng đã giết hết Nghĩa Quân nên chúng bị thương vong dưới mưa đạn của lực lượng ta rất nhiều. Chúng rút lui, lôi theo xác đồng đội, tháo chạy để thoát thân khỏi vùng hội tụ hỏa lực của hai khẩu đại liên với sự tăng cường của khẩu súng cối. Vì hai đơn vị phối hợp phục kích trên đường rút lui của địch quá gần mục tiêu nên tầm đạn bắn trên đầu quân bạn quá rát khiến họ phải nằm tại chỗ chớ không nhóng lên được để truy kích địch quân. Họ nghe tiếng rên la, kêu gào của Việt cộng trên đường rút lui, nhưng đành phải bó tay. Nếu kế hoạch phản nội tuyến hoàn chỉnh hơn thì lực lượng truy kích đã diệt trọn đơn vị địch quân.
Sáng hôm sau, quân ta lục soát, ngoài năm lính Việt cộng bỏ xác trước cửa đồn với bốn khẩu AK47 và một khẩu Thompson, trong vườn mãng cầu còn đọng nhiều vũng máu của địch quân. Anh Nguyễn Văn Thành được tuyên dương công trạng và được thưởng một chiếc xe đạp mới tinh. Anh tôi và cả trung đội Nghĩa quân cũng được tuyên dương công trạng. Với số tiền thưởng của quận Cần giờ, anh tôi và anh em đồng đội mở tiệc ăn mừng chiến thắng. Sau đó anh Thành từ giã xứ biển để thuyên chuyển về Biên Hòa. Hình như cấp trên muốn tìm sự an toàn cho anh. Nhưng mấy tháng sau tôi nghe anh tôi nói anh Thành bị mất tích khi cỡi xe đạp đi “du hí” ở vùng thôn quê.
Một đêm nọ, anh tôi cùng bốn anh em nghĩa quân đi tuần tiễu về ngang trường tiểu học thì bị ám sát bằng lưu đạn, nhưng anh đã nhanh nhẹn, nằm mọp xuống và hô to: “lưu đạn!” Bốn nghĩa quân kia cũng nhào lăn xuống đất vừa lúc trái lựu đạn nổ ầm vang giữa canh khuya, mảnh văng tứ tung, nhưng không có ai bị thương. Thật là may mắn cho anh tôi và toán tuần tiểu thoát nạn trong đường tơ, kẽ tóc. Thỉnh thoảng trung đội của anh tôi có một, hai chiến sĩ nghĩa quân hy sinh trong những cuộc chạm súng với Việt cộng, để lại vợ hiền, con thơ, đầu chít khăn tang, mắt chan hòa dòng lệ tiếc thương trước cảnh tình tử biệt, sanh ly. Ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, quân ta đã quyết tâm gìn giữ dãy đất lành từ Bến Hải đến mũi Cà Mau, người đi trước vừa ngã gục, kẻ ở phía sau tiến lên thay thế, luôn củng cố phòng tuyến chống Cộng hầu đánh tan âm mưu thôn tính miền Nam của bè lũ vô thần. Nhưng, thực trạng của miền Nam lúc đó không ổn định được ý thức hệ Tự do, Dân chủ vì tư tưởng Cộng sản vẫn còn lẫn lộn trong quần chúng. Trung đội của anh tôi, có một chuyện đau lòng xảy ra khi một người em là chiến sĩ nghĩa quân đã bắn chết người anh ruột theo “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” trong một trận đánh cận chiến vào một buổi chiều, nơi một thôn ấp nằm ngoài vòng đai ấp Chiến lược.
Cuối mùa Hè năm ấy, khi anh tôi xây dựng lại gian nhà thờ cúng tổ tiên, ông bà thì tôi phải xa lìa nơi chôn nhau, cắt rốn, và những người thân để theo học trường Trung Học Vũng Tàu, cách quê tôi mười ba cây số đường biển. Mẹ và anh tôi tiễn tôi ra bến đò vào một buổi hừng đông, khi vầng trăng chếch bóng bên khu rừng sát mênh mông. Anh khuyên bảo tôi đừng lêu lỏng, chơi bời, hãy cố công học hành đỗ đạt hiển vinh trong tương lai, làm đẹp lòng mẹ và anh, làm rạng rỡ tông đường. Tôi cảm động rưng rưng nước mắt và hứa vâng lời mẹ và anh dạy bảo. Đò từ từ xa bến, tôi gạt lệ nhìn mẹ và anh tôi còn đứng trông theo. Gió lạnh thổi tạt vào mui đò khiến lòng tôi tê tái trong nỗi buồn ly biệt và khung trời bỗng mờ nhạt như mưa.
Ở nhà trọ của người chị bà con để theo việc bút nghiên ở xứ người, nhưng lòng tôi luôn hướng về mái ấm ngày xưa. Tôi nhớ mẹ và các anh, chị, em tôi và lo lắng cho người anh đang chỉ huy trung đội Nghĩa Quân, đang kề cận với tử thần vì kẻ thù luôn rình rập anh. Nhớ chuyện Việt cộng treo giải thưởng để mua đứt mạng của anh, tôi càng mang nặng nỗi ưu tư. Chiều nào tôi cũng ra Bãi Trước, nhìn quê cũ in bóng xa mờ trên sóng nước mênh mông mà nghe lòng quặn thắt. Xứ biển nghèo nàn, nhưng tình quê nồng mặn và những kỷ niệm êm đẹp như ràng buộc người cất bước ly hương. Than củi đước của khu rừng sát mênh mông đã sưởi ấm tôi từ lúc sơ sinh và lời ru ca dao của mẹ hiền hòa trong âm vang sóng vỗ, khi vầng trăng buông tơ vàng trên mặt biển bao la. Cá, tôm của biển mặn thân yêu đã nuôi tôi nên hình nên vóc. Nghĩa nặng, tình sâu của quê cha, đất tổ, tôi ghi nhớ trọn đời. Tôi muốn bỏ học, trở về xóm cũ, làng xưa để sống êm đềm bên những người thân, nhưng nhớ lời khuyên bảo của mẹ và anh tôi, tôi cố đè nén nỗi nhớ thương, bi lụy của mình và cần mẫn, siêng năng học tập. Lâu lâu, anh tôi dẫn mẹ tôi qua Vũng Tàu thăm tôi, lần nào anh cũng đem nhiều tôm tích và con dòm do chính tay anh lặn lội, đi bắt để làm quà cho tôi vì anh biết tôi thích ăn những món đặc sản của quê nhà. Những món ấy như được ướp đầy tình thương của anh tôi, tôi ăn mà nghe lòng dạt dào cảm xúc vì tôi hình dung anh phải nằm nghiêng mình trên bãi đất bùn, thọc tay vào hang sâu, có khi bị con tôm tích dùng đôi càng bén như răng cưa, chém tay anh chảy máu, hoặc bị con thôn cắt rách da khi anh lặn xuống đáy biển để bắt con dòm.
Một hôm, anh qua thăm tôi với khuôn mặt bơ phờ, hốc hác, xanh xao. Tôi ngạc nhiên, hỏi anh thì anh mới trả lời là trung đội của anh vừa bị nội tuyến, mà kẻ phản bội là anh Ch. – người anh bà con của tôi. Anh u buồn, kể lại cho tôi nghe chuyện đoạn trường của đơn vị anh. Đêm ấy, trong đồn Nghĩa Quân chỉ còn lại bảy người thay phiên nhau canh gác, trong đó có anh Ch. Số người còn lại theo anh tôi đi phục kích địch quân ở Ba Động. Anh Ch. đã mua hai con gà và mấy lít rượu đế đem vào đồn, làm món nhậu “gà xé phay” để thết đãi anh em. Anh ta nói với mọi người là anh ăn bài cào ở xóm Cồn Cát nên mời anh em nhậu cho vui. Đến khuya, người nào cũng say ngất ngưởng, nằm ngủ như chết, chỉ có anh Ch. còn tỉnh táo. Người canh gác là anh Dưỡng, uống rượu ít hơn anh em, nhưng vì tửu lượng yếu nên anh ta say và ngồi ngủ trên tháp canh. Anh Ch. mở cửa cho một tiểu đội Việt cộng vào đồn, dùng lưỡi lê trên đầu súng AK đâm chết bốn nghĩa quân đang ngủ say. Nghĩa Quân tên Ngói nghe tiếng động, giật mình, ngồi dậy, bị một tên Việt cộng đâm lưỡi lê xuyên qua cổ của anh. Nhờ có sức mạnh, anh Ngói nắm chặt đầu súng, đẩy kẻ địch té ngửa để rút lưỡi lê ra khỏi cổ rồi anh ta chạy vọt ra khỏi đồn. Anh Dưỡng trên vọng gác tỉnh giấc, biết có chuyện biến động nên hoảng hốt nhảy xuống đất, chạy thoát thân. Dù vết thương máu ra rất nhiều, anh Ngói gắng sức chạy về nhà anh Quân – Trung Đội Phó cách đồn gần 2 cây số để báo nguy, nhưng khi tới nơi, vừa gõ cửa xong thì anh té nhào và tắt thở. Lực lượng địa phương được điều động đến truy kích thì địch đã rút khỏi đồn. Chúng lấy của Nghĩa Quân sáu khẩu súng và mấy thùng lựu đạn... Anh Ch. theo Việt cộng vào rừng. Anh Dưỡng thoát chết, nhưng bị liệt một cánh tay, anh chạy về nhà ngồi ngơ ngẩn như người mất trí.
Cách mấy ngày sau, anh Ch. lén về thôn ấp, bị Địa Phương Quân bắt sống, dẫn về quận. Anh Ch. bị bắt rất dễ dàng vì lúc ra khỏi đồn vào đêm ấy, anh đạp phải chông nhọn, bị thương ở chân nên không chạy được. Nửa tháng sau anh Ch. bị xử án tử hình. Trước khi dẫn anh ra pháp trường, người ta đã cho anh ăn no. Anh Ch. vừa ăn vừa khóc, có lẽ anh đang hối hận vì sự phản bội của anh đã giết chết bạn đồng đội là những người hết lòng yêu thương và tin tưởng anh. Anh tôi vô cùng đau đớn, bỏ ăn, mất ngủ vì tiếc thương năm anh em Nghĩa Quân đã đâu lưng, đấu cật với anh, cùng chiến đấu bên nhau ròng rã bốn năm trường. Anh phải quay mặt đi nơi khác để giấu đôi dòng nước mắt khi người ta bắn chết anh Ch. – một nguời anh trước kia đã ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu với anh trong thời gian hai người còn là ngư dân, đi đánh cá trên chiếc thuyền buồm của gia đình tôi.
Vào cuối mùa Hè năm ấy, tôi xếp bút nghiên để lên đường theo tiếng gọi của non sông. Tôi muốn cầm súng như anh tôi để gìn giữ quê hương, chống ngăn Cộng sản xâm lược miền Nam. Trong bữa tiệc tiễn đưa, có nhiều anh em Nghĩa Quân thuộc Trung đội của anh tôi đến tham dự. Họ cụng ly với tôi và chúc tôi đạt được sự thành công vẻ vang trên đường binh nghiệp. Anh tôi cười tươi hơn bao giờ hết, có lẽ vì anh hãnh diện có được một đứa em có lập trường Quốc Gia vững chắc và cùng chí hướng với anh.
Từ Trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi được tuyển chọn sang Không Quân. Đơn vị đầu tiên của tôi sau ngày mãn khóa là Phi Đoàn 114, Không Đoàn 62 Nha Trang. Lúc tôi vào quân trường thì anh tôi lập gia đình. Anh không báo tin cho tôi biết vì đám cưới anh là ngày giỗ cha tôi. Anh và chị dâu tôi lạy bàn thờ gia tiên, bàn thờ cha tôi, rồi kết hợp lương duyên. Ngày tôi về phép từ Nha Trang, anh chị tôi đã có một đứa cháu gái rất dễ thương. Anh chị đãi tôi ăn canh chua cá chìa vôi, gỏi cá đối, tôm tích, cua gạch son, ghẹ rằn. Trong bữa tiệc mừng tôi về mái nhà xưa, có mấy anh Nghĩa Quân đến chung vui, đờn ca vọng cổ đến nửa đêm, trong bầu không khí đầm ấm, sum vầy. Anh ao ước tôi được về phục vụ tại Biên Hòa để có dịp bay xuống quan sát và yểm trợ cho quận nhà Cần Giờ. Tôi nói với anh sau một thời gian làm việc ở Nha Trang, tôi sẽ xin thuyên chuyển về xứ Bưởi của miền Nam. Anh chị tôi muốn ra Nha Trang một lần cho biết danh lam, thắng cảnh của miền nắng vàng, cát trắng, biển xanh. Tôi dặn anh chị hãy cho tôi biết trước ngày đến Nha Trang để tôi xin phép đơn vị ở nhà vài hôm, đưa anh chị và cháu nhỏ đi chơi.
Anh hẹn tôi hai tháng nữa, sau Tết Trung Thu, anh chị sẽ ra Nha Trang thăm tôi. Sở dĩ anh không đi trước Trung Thu được vì làng tôi có tục lễ cúng “Ông Thủy Tướng” (cá Ông) vào ngày 15, 16, và 17 tháng Tám Âm lịch hàng năm, trung đội của anh tôi có trách nhiệm bảo vệ an ninh, trật tự cho những ngày đại hội. Anh còn cộng tác với ban tổ chức những cuộc thi chèo thuyền, bơi lội, leo cột mỡ, đấu bóng chuyền, túc cầu, múa lân... cho ngày “nghênh ông”. Lúc trở về đơn vị, tôi mong sao chóng đến ngày hẹn để tôi được tiếp đón anh, chị và cháu tôi. Tôi sẽ đưa anh tôi đi dạo bãi biển Nha Trang, đi thăm Hòn Chồng, Cầu Đá, Hải Học Viện, tháp Chàm và xóm Xóm Bống. Tôi sẽ bồng đứa cháu gái của tôi đi mua sắm quần áo mới, và búp bê. Tôi sẽ đãi anh chị tôi ăn nem nướng Ninh Hòa và những món ăn đặc sản của miền biển Nha Trang. Tôi phải dành dụm để có nhiều tiền mới thực hiện được dự tính. Còn mười hôm nữa thì đến ngày hẹn, tôi bỗng được lệnh của Phi Đoàn đi biệt phái, bay yểm trợ hành quân cho Sư Đoàn 23 Bộ Binh ở Ban Mê Thuột. Tôi phải gửi thư cấp tốc cho anh tôi biết: khi nào tôi hết hạn biệt phái, trở về đơn vị, tôi sẽ đánh điện tín gọi anh, chị ra Nha Trang.
Đêm 17 tháng 8 Âm lịch của tiết Trung Thu ở miền cao giá lạnh, không ngủ được, tôi ngồi ngoài hành lang phòng trọ của Hội Quán Sĩ Quan Ban Mê Thuột mà lòng bồi hồi, thương nhớ quê xưa. Ánh trăng xuyên qua cành cây kẽ lá chiếu xuống mặt đường im vắng giữa canh khuya. Tôi nhớ kỷ niệm của tiết Trung Thu thuở trước nơi làng cũ, vào dịp vía ông thủy tướng, anh chị em tôi dắt nhau đi xem hát bội trong Lăng Ông, đến hơn nửa đêm mới về nhà, dưới ánh trăng sáng vằng vặc, mênh mông. Những đêm vui của lứa tuổi ngọc ngà đã chìm trong vùng ký ức mịt mờ, như bị che khuất bởi khói lửa chiến chinh. Tôi sống kiếp phiêu bồng mà lòng vẫn mơ về nơi quê mẹ, như hoa hướng dương dõi bóng kim ô, cho đến khi hương sắc phai tàn. Tim tôi bỗng hồi hộp, lo sợ cho anh tôi hơn bao giờ hết. Đành rằng trong thời chiến chinh, sự sống chết là lẽ thường, sao tôi cứ bị ám ảnh một ngày nào đó tôi sẽ mất anh. Sương khuya xuống lạnh. Vầng trăng đã xế bóng phía trời Tây. Tiếng chim cú từ trên cây cổ thụ bên vệ đường vọng vào khiến tôi nghe rùng mình, ớn lạnh. Tôi vào phòng, nằm trăn trở một hồi lâu rồi đắm hồn trong giấc ngủ chập chờn.
Ngày hôm sau, tôi và bạn bè của Biệt đội L19 thay phiên nhau thi hành phi vụ quan sát hành quân cho Sư Đoàn 23 ở phía Tây Nam Ban Mê Thuột. Lúc xế chiều, vừa về đến phi trường, tôi nhận được hung tin: anh tôi tử trận ở quê nhà. Phi Đoàn trưởng cho người lên thay thế tôi để tôi về đơn vị và đi phép đặc biệt vào sáng hôm sau. Cái ngày đau thương, tang tóc, đẫm dầy nước mắt mà từ lâu tôi lo sợ, nay nó đã đến với tôi. Trời đất như quay cuồng trước mắt tôi, chân tôi đứng không vững, phải vịn vào thân phi cơ trên bến đậu để lấy lại thăng bằng. Niềm uất hận hòa trong xúc cảm, sôi trào lên cổ họng khiến tôi nghẹn ngào, đôi dòng lệ nóng trào tuôn ra khóe mắt.
Tôi về đến nhà vào buổi trưa, cái quan tài liệm xác anh tôi, có phủ lá quốc kỳ đã được vùi chôn dưới lòng đất lạnh quê hương, từ buổi ban mai, bên cạnh phần mộ của cha tôi. Tôi hối tiếc cho mình chậm trễ, không được đưa linh cửu của anh đến nơi an nghỉ sau cùng. Tôi sụp quỳ xuống đất, hai tay ôm nấm mộ anh tôi, nước mắt thâm tình lai láng trên gò má. Nhớ năm xưa khi cha tôi mới qua đời, những buổi hoàng hôn sau cơn mưa lạnh, anh tôi dẫn tôi ra đốt lửa bên mộ cha tôi rồi hai anh em ngồi khóc. Bây giờ, anh vĩnh viễn nằm cạnh bên cha, chắc cha cũng đỡ phần lạnh lẽo. Tuổi đời còn thanh xuân, anh lại vội vã ra đi, để lại mẹ già, vợ hiền, con thơ và đệ huynh tiếc thương anh mà nghe như đứt từng đoạn ruột.
Tôi gặp lại những anh em Nghĩa quân thân cận anh tôi. Họ kể rằng: anh tôi bị Việt cộng ám sát bằng lựu đạn trong một quán giải khát, trước cửa lăng Ông, vào đêm 17 tháng 8, tức là đêm hát cuối cùng của lễ nghênh ông. Có 5 người chết trong vụ ám sát này: một Thượng sĩ Địa Phương Quân, một Trưởng Ấp, anh tôi và hai thường dân. Một mảnh lựu đạn độc nhứt đã găm thấu tim anh tôi khiến anh trút hơi thở sau cùng khi vào bệnh viện được nửa giờ đồng hồ. Định mệnh ác nghiệt đã cướp của tôi một người anh yêu kính, có trái tim trung dũng, nghĩa nhân, đầy nhiệt huyết, luôn tôn thờ chính nghĩa quốc gia. Trong bữa tiệc vui của Trung đội Nghĩa quân nhân ngày đại hội của quê hương trong tiết Trung Thu, anh tôi khoe với anh em đồng đội là anh sẽ ra Nha Trang thăm tôi sau lễ nghênh ông. Bây giờ trọn kiếp này tôi vẫn không tìm lại được anh tôi.
Tôi trở về Phi Đoàn rồi lại xin đi biệt phái trên xứ “buồn muôn thuở” của miền cao nguyên đất đỏ, bụi mù. Tháng sau nghe tin mẹ tôi lâm bệnh vì quá buồn thảm, thương tiếc anh tôi nên sau kỳ biệt phái cao nguyên, tôi xin phép đặc biệt, về quê cũ. Lần nầy, tôi được anh em Nghĩa quân kể chuyện về sự linh thiêng của hương hồn người anh quá cố. Họ nói anh em nào gác ban đêm mà ngủ quên cũng được anh tôi đánh thức họ dậy. Họ mơ thấy anh tôi về, vỗ vai, gọi tên họ và bảo: “Em ơi...! Hãy thức dậy canh gác, coi chừng Việt cộng nó vào”. Họ giựt mình tỉnh dậy mà nghe tiếng nói của anh tôi như còn văng vẳng bên tai. Họ đã lập bàn thờ anh tôi trong đồn Nghĩa Quân và hằng đêm dốt nhang, khấn vái.
Anh tôi đã đền xong nợ nước, nhưng hồn thiêng còn lưu luyến quê cha đất tổ, lưu luyến Trung đội Nghĩa Quân thân mến của anh nên vương vấn theo anh em đồng đội để phù hộ, nhắc nhở họ chu toàn nhiệm vụ bảo vệ quê hương.
Tiêu đề: Re: Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH Sun Mar 31, 2019 9:05 am
.
Những anh hùng thầm lặng - Huy Phương
Bức tượng Thương Tiếc tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa năm 1970 (Hình: Flickr manhhai)
(Nhân dịp cuốn sách “Biệt Đoàn Thiên Nga” của Nguyễn Thanh Thủy vừa ra đời)
Chính họ là những anh hùng thầm lặng. Họ không được chết trên chiến trường, thân xác mang về “Nhà Vĩnh Biệt” với những tràng hoa ghi ơn, huy chương truy tặng, với những thủ tục chào kính cùng với điệu kèn ai oán, quan tài đi giữa hai hàng quân danh dự, và những phát súng chào tiễn biệt. Cuộc sống họ rất bình thường, gần gũi và chung quanh chúng ta đây thôi, hòa tan vào đám đông bình thường trên đường phố, nơi chờ đợi chuyến xe buýt, trong công viên buổi chiều, chỗ chợ đông người. Phần đông chúng ta không biết họ là ai, từ đâu đến, dĩ vãng, gia thế ra sao, họ sống ra sao, có những suy nghĩ, trăn trở gì ? Có thể đó là một người phụ nữ chúng ta gặp ở sân chùa, ông già lẩm cẩm chống gậy chờ xe ở góc đường, người thanh niên đang vội vã qua đường nơi chỗ đèn xanh, đèn đỏ. Có một lúc nào đó, họ là những người lính, là những anh hùng thật sự, không chết nhưng đang phai nhạt dần. Lời nói của danh tướng MacArthur ngẫm lại thấy xót xa, thà họ được chết đi giữa trận tiền trong những ngày bom đạn, phai nhạt dần trong quên lãng của mọi người cũng là một điều đau đớn.
Phần đông họ sống khép kín và lặng lẽ và không muốn khơi lại những vết thương cũ, không muốn nói về mình, trong khi bao nhiêu người viết hồi ký đề cao cá nhân để gọi mình là anh hùng, đầy dẫy chiến công và đôi khi vay mượn, cầm nhầm chiến công của người. Chưa ai đấm ngực nhận mình là người có lỗi, mang tội với tổ quốc. Những ngày dài phải bỏ nước ra đi, sống lưu vong trên đất khách, họ sống rất lặng lẽ trong nỗi trầm uất cay đắng của những người thua trận, ngậm ngùi với ý nghĩ “bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng, vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí”, có nghĩa là biết rõ thân phận của mình là một viên tướng bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Một người phải bỏ xứ sở để ra đi tị nạn thì làm sao gọi là người có mưu lược được…
Họ không lập triều đại, xưng hùng xưng bá đề lừa bịp quần chúng, cũng không dao to búa lớn, tuyên bố chuyện thâu tóm trời đất, không làm điều vô bổ tổn hại công sức và lòng tin của quần chúng. Ngày xưa khi thất trận, có phương tiện ra đi, nhưng những cấp chỉ huy đã không bỏ anh em chiến hữu đang phơi thân ngoài trận địa giữa pháo thù. Dù thất trận, cấp chỉ huy ra lệnh cho binh sĩ không được khinh xuất, phá bỏ hàng ngũ, hàng lớp chỉnh tề vũ khí trên vai cho đến lúc bàn giao. Họ tuyên bố với kẻ thắng trận: “Cuộc chiến đã xong, hãy để yên những người lính của tôi, nếu có việc không hay xảy ra thì đừng trách chúng tôi phải động thủ !”. Họ cam tâm không rút chạy, vẫn ở với các chiến hữu trong những giờ phút cuối cùng, trên tuyệt lộ, khi con tàu cứu viện không thể cập bến, trên không không nghe tiếng phi cơ bạn, và pháo yểm trợ đã ngưng. Không ai phủ nhận rằng người chiến sĩ chọn cái chết không phải anh hùng, nhưng sống cũng không phải là hèn nhát khi sống mà ngẩng cao đầu, không hề quỵ lụy, sợ hãi kẻ thù như nhan đề cuốn sách của một tướng lãnh “Can Trường Trong Chiến Bại !”.
Họ là một nữ quân nhân tình báo, thay vì dùng thời gian cuối cùng để sắp xếp chuyện thoát thân ra đi, đã ở lại để thiêu hủy hồ sơ của đơn vị, tránh sự liên lụy và bảo vệ mạng sống cho hàng ngàn chiến hữu dưới quyền của mình. Họ là những người lính của đơn vị, bắn đến viên đạn cuối cùng, thế nước phải treo cờ trắng. Họ là những lính chết cạn trên bãi biển miền Trung, trong tình thế vô vọng, biết ra sự sống là khó khăn nhưng vẫn phải sống. Họ có thể là một người phụ nữ miền Nam bình thường, ngày thất trận, phải lo chồng tù đày, lo cho con khốn khổ giữa vòng vây kỳ thị, phân biệt của xã hội mới!
Anh hùng cũng có lúc sa cơ! Không đem thắng bại mà luận anh hùng! - “Gặp thời thế, thế thời phải thế !”. Với kẻ thù vốn nhỏ nhen và ti tiện, họ phải sống qua những ngày lưu đày, tù tội ô nhục khó quên! Ngày nay, biết bao người lâm cảnh như họ, dù phải sống xa quê hương, ẩn dật, đơn chiếc, nghèo khó cũng không nản lòng. Có thể họ đã quên đi ngày tháng, nhiều khi cố quên mà không được những vết tích chiến trường xưa, hình ảnh và tên tuổi những người anh em ngã xuống cạnh họ, và bên lòng vẫn canh cánh một nhiệm vụ chưa hoàn thành!
Đã qua đi một thời chinh chiến, bây giờ họ đã hòa nhập vào cuộc sống mới ở bên ngoài đất nước. Chúng ta gặp những người rất bình thường, họ có thể là một người lái taxi đứng bến ở Honolulu; một người bán kem dạo ở gần khu Disneyland, Anaheim; một nhân viên an ninh cho một khu chợ cá vùng thủ đô nước Mỹ; một người quét dọn trong building hay là một người giúp việc trong một quán ăn bạn thường lui tới. Chúng ta rất ít biết về họ. Họ có thể là một người áo quần bảnh bao, tươm tất đang lái chiếc xe đời mới trên đường phố. Họ có thể là một ông già chúng ta thường gặp trong các buổi hội hè, trong một bộ quân phục của một binh chủng. Họ có thể là người đang ngồi trên chiếc xe lăn lăn chậm trên đường phố, có cắm ngọn cờ tổ quốc năm xưa. Cũng có thể họ là người đang chìa tay chờ bạn bố bố thí trong khu chợ kia! Nhưng quả thật họ không tầm thường. Nơi mỗi một người là cả một câu chuyện dài chưa được kể lại, có khi là một chuỗi chinh chiến xa nhà, một chiến công ngoài mặt trận, có khi là một mối tình ngang trái trong loạn ly, có khi là tấn thảm kịch oan khuất trên Biển Đông.
Tuổi trẻ mới lớn lên xem họ là những ông gìa lẩm cẩm vô dụng. Họ bị lạc loài giữa thời đại cơ khí, kỹ thuật như những người đứng bên lề thời cuộc hay bị bỏ lại đằng sau. Chúng ta có rất nhiều những anh hùng đang sống thầm lặng ở quê nhà, chịu đựng sự nghiệt ngã của số phận mình trong số phận của đất nước, sự khổ đau, nghèo khó, phân biệt đã dìm họ đến tận cùng xã hội. Họ là những người thương binh không lành lặn, lê lết đi tìm miếng sống trên hè phố đông người, cam chịu đời sống bất hạnh trong túp lều che tạm trong nghĩa địa, bên đống rác. Những người khác không có cơ hội ra đi, nay phải lưu vong trên chính quê hương mình. Thế hệ sau không biết họ là ai, mặc dầu họ đã xây dựng cho chúng ta được cuộc sống hôm nay, thế hệ đương thời thì vốn vô ơn, xem họ như những người không liên hệ gì tới mình, sống chẳng làm lợi ích cho ai, đôi khi còn là một gánh nặng mà cộng đồng phải cưu mang.
Trong cuộc sống đang đi tới, họ bị bỏ lại đằng sau, ít người còn nhớ đến họ. Họ đã sống một thời oanh liệt, cống hiến cho tổ quốc tuổi thanh xuân. Họ là một phần dĩ vãng và máu thịt của chúng ta. Xin đừng quên họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét