Thứ Hai, 29 tháng 7, 2019

Mỹ làm ngơ để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa?

Image result for www. Hải chiến Hoàng Sa
 Vì sao Mỹ làm ngơ để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa?

 60
(TNO) Mỹ đã cố ý phớt lờ để mặc cho Trung Quốc tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 vì đã đoán trước là VNCH sẽ thất bại trước miền Bắc, theo nhận định của các chuyên gia quân sự phương Tây.

(TNO) Mỹ đã cố ý phớt lờ để mặc cho Trung Quốc tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 vì đã đoán trước là VNCH sẽ thất bại trước miền Bắc, theo nhận định của các chuyên gia quân sự phương Tây.










Vì sao Mỹ làm ngơ để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa? 1

Sau khi bắt tay với Trung Quốc….
Theo bản tin của tờ New York Times (Mỹ) đăng ngày 21.1.1974, mặc dù đã bại trận trước Trung Quốc trong cuộc đụng độ ở quần đảo Hoàng Sa ngày 19.1.1974, nhưng chính quyền VNCH vẫn không thừa nhận thất bại và đã lên án hành động xâm phạm chủ quyền của Bắc Kinh lên Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc.
Sau khi đã chiếm được Hoàng Sa vào ngày 19.1.1974, Bắc Kinh đã điều động 43 chiến hạm đến quần đảo này để đề phòng VNCH phản công.
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho 4 phi đội tiêm kích F-5 bay từ Biên Hòa ra Đà Nẵng (mỗi phi đội có 24 tiêm kích) kết hợp với 1 phi đội ở Đà Nẵng để chuẩn bị giành lại Hoàng Sa.
Nhưng lệnh tác chiến không được ban ra, dù các phi công đều đã tuyên bố sẵn sàng chết để giành lại lãnh thổ đất nước.
Chính quyền Tổng thống Thiệu cũng đã nhiều lần thông báo tình hình trận Hoàng Sa với Đại sứ quan Mỹ nhưng Washington không hề có động thái hỗ trợ gì.








Vì sao Mỹ làm ngơ để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa? 2

… Mỹ đã bỏ rơi đồng minh VNCH - Ảnh: Tư liệu
Mỹ làm lành với Trung Quốc, bỏ rơi VNCH
Tháng 2.1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã gặp gỡ Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh.
Sau cuộc gặp này, Mỹ và Trung Quốc đã cùng đưa ra tuyên bố chung phản đối "bá quyền" tại châu Á - Thái Bình Dương, theo tài liệu của Đại sứ quán Mỹ trên Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ hồi tháng 4.2006.
Đến năm 1973, Bắc Kinh và Washington mở “văn phòng liên lạc” ở thủ đô mỗi nước, chẳng khác gì đại sứ quán ngoại trừ cái tên, được cho là nhằm bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc.
Ngoài việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ đã ký kết Hiệp định Paris cũng trong năm 1973, chấp nhận rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, một động thái cho thấy Washington đã tiên liệu được rằng miền bắc Việt Nam sẽ chiến thắng, nên không can dự đến vấn đề tranh chấp chủ quyền của VNCH.
BBC hồi tháng 10.2011 dẫn các tài liệu mật của Bộ Ngoại Mỹ cho biết sau trận hải chiến Hoàng Sa, Đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, từng báo cáo với Ngoại trưởng Mỹ lúc bấy giờ là ông Henry Kissinger rằng: "Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa, Hoàng Sa và các đảo khác có cùng vấn đề - đó là vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng đó".
"Mỹ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam tại các đảo này", Ngoại trưởng Kissinger nói trong cuộc gặp với ông Hàn Tự, quyền trưởng phái đoàn liên lạc của Trung Quốc tại Washington, vào ngày 23.1.1974.
Mặc dù Mỹ nói không can dự vào trận chiến Hoàng Sa, nhưng Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã theo sát tình hình ở Hoàng Sa, cập nhật tình hình mỗi ngày, theo bài viết nhan đề “CIA theo dõi sát trận Hoàng Sa 1974” do BBC đăng tải ngày 30.12.2013.
Các nhà quan sát cho rằng do mới “làm lành” với Trung Quốc và cũng không muốn xích mích với Bắc Kinh nên Washington đã “án binh bất động” trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974.
VNCH bị Mỹ gây áp lực
“Chừng nào còn một hòn đảo thuộc phần lãnh thổ ấy của VNCH bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy Chánh phủ và nhân dân VNCH còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chánh đáng của mình”, chính quyền VNCH ra tuyên cáo vào ngày 14.2.1974 sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa.
Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Thiệu đã không ra lệnh cho chiến đấu cơ xuất kích để oanh tạc tàu chiến Trung Quốc, dù rằng với thực lực F-5 lúc bấy giờ có thể giúp VNCH giành lại được Hoàng Sa từ tay Trung Quốc.
Nhiều tài liệu quốc tế cho rằng chính Mỹ đã gây áp lực để chính quyền ông Thiệu không ra lệnh xuất kích vì không muốn đụng chạm đến Trung Quốc, lo ngại điều này sẽ làm ảnh hưởng đến kế hoạch rút quân của Mỹ.
Nhưng Mỹ được cho là có một “toan tính” sâu xa hơn khi không can dự vào trận Hoàng Sa năm 1974. Việt Nam và Trung Quốc đều đi theo con đường XHCN. Việc Washington “làm ngơ” cho Trung Quốc ngang nhiên xâm chiếm Hoàng Sa tạo ra sự thù địch giữa Hà Nội và Bắc Kinh, dẫn đến sự chia rẻ giữa các nước cộng sản.
Sự thật là cho đến nay, giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn tồn tại tranh chấp chủ quyền biển đảo tại biển Đông.
Phúc Duy - Hoàng Uy

Kế hoạch phản công tái chiếm Hoàng Sa
16.10.2018 11:48
Quân dân VN liều chết lấy lại Hoàng Sa như thế nào?

Image result for phiên hop tái chiếm hoàng sa t t thiệuImage result for phiên hop tái chiếm hoàng sa t t thiệu

Ước tính, từ nơi xảy ra hải chiến cách căn cứ hải quân Du Lâm 177 hải lý; cánh căn cứ Đà Nẵng 234 hải lý.


Thực hư kế hoạch phản công tái chiếm, đòn gió hay là thực tế là vậy, tại sao hủy bỏ,phải chăng cái chính là không được Hạm đội 7 hổ trợ?

Có hay không việc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh?
Sau khi chiếm được Hoàng Sa, Trung Quốc tập trung 43 chiến hạm tại quần đảo này để đề phòng Việt Nam Cộng hòa phản công tái chiếm. 
Đích thân Tổng thống  Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Tư lệnh hải quân vùng I "bằng mọi giá" phải giành lại đất của tổ tiên. Lần này, lực lượng không quân được giao vai trò tiên phong.
Ngay trong ngày 19.1.1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh điều 5 phi đoàn chiến đấu F5, bao gồm 4 phi đoàn thuộc sân bay Biên Hoà, 1 phi đoàn thuộc sân bay Đà Nẵng, tổng cộng 120 chiếc.
Địa điểm tập kết là sân bay Đà Nẵng.
Song song đó, Hải quân Việt nam Cộng hòa cũng gấp rút hình thành một Hải đoàn đặc nhiệm mới sẽ có nhiệm vụ thực hiện kế hoạch tái chiếm đảo sau khi lực lượng không quân rút đi.
Hải đoàn này bao gồm tàu HQ-6, HQ-17 điều động từ Trường Sa trở về và chiến hạm HQ-5 từng tham chiến tại Hoàng Sa trước đó.

Image result for phiên hop tái chiếm hoàng sa t t thiệu
Đại tá Hà Văn Ngạc tiếp tục được chỉ định làm chỉ huy Hải đoàn này.
Về phía không quân, sau khi nhận được lệnh, chỉ huy các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, phi đoàn 536 – Đàm Thượng Vũ, phi đoàn 540 – Nguyễn Văn Thanh, phi đoàn 544 – Đặng Văn Quang, phi đoàn 538 – Nguyễn Văn Giàu đã bàn bạc và lên kế hoạch tác chiến rất kỹ lưỡng.
Theo đó, bốn phi đoàn có nhiệm vụ tấn công và oanh tạc các chiến hạm của Trung Quốc, một phi đoàn có nhiệm vụ bảo vệ. Thời gian oanh kích sẽ kéo dài khoảng 30 phút.
Mỗi phi đoàn được trang bị 24 chiến đấu cơ F.5 và trên mỗi chiếc F5 được trang bị thêm 3 bình xăng phụ.
Để hỗ trợ cho kế hoạch, hàng ngày các máy bay thám thính RF5 của không lực VNCH có nhiệm vụ bay và chụp ảnh toàn bộ Hoàng Sa. 
Từ những bức không ảnh này, bộ phận phân tích thuộc lực lượng không quân sẽ theo dõi sự di chuyển, thay đổi đội hình của các tàu chiến Trung Quốc.


Ngoài ra, nó còn cung cấp cho các phi công chuẩn bị tham chiến biết được cách bố trí đội hình phòng thủ để từ đó có cách đối phó thích hợp.
Và theo những bức ảnh không thám ấy, thời điểm ngày 20.1.1974, tại khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc có tổng cộng 43 tàu chiến lớn nhỏ.
Sở dĩ lực lượng không quân VNCH tin tưởng vào kế hoạch oanh tạc và tái chiếm Hoàng Sa là do thời điểm đó, chiến đấu cơ F5 có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc.
Mặc dù khoảng cách đường bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa tương đương khoảng cách từ đảo Hải Nam đến Hoàng Sa nhưng F5 được xem là ít tốn nhiên liệu hơn Mig 21 của Trung Quốc.
Giờ "G" đã không điểm
Khi mọi kế hoạch được bên không quân chuẩn bị đầy đủ thì bất ngờ Tổng thống Thiệu ra lệnh hủy kế hoạch oanh kích tái chiếm Hoàng Sa.
Sau này, một số người cho rằng, nguyên nhân xuất phát từ sự cố vấn của Đại tá Hà Văn Ngạc, người trức tiếp chỉ huy trận đánh vào ngày 19.1.1974.
Khi đó, Đại tá Ngạc tin rằng "một cuộc phản kích tái chiếm sẽ thất bại ngoại trừ đó là một chiến thuật thí quân nằm trong một chiến lược cao hơn".
Được biết, các tàu chiến của VNCH lúc đó chỉ là các tuần dương hạm cũ (WHEC)  được Lực lượng tuần duyên Mỹ (US Coast Guard) chuyển giao cho.
Do thiết kế nên các tàu này thích hợp cho công tác tuần tiễu hơn là chiến đấu, bởi nó vừa chậm chạp vừa nặng nề nên khó chống trả lại với các chiến hạm chiến đấu tối tân hơn.
Loại tàu này cũng chỉ được trang bị một hải pháo 127 ly, còn vị trí đặt 2 khẩu hải pháo 40 ly đã được Hải quân Việt Nam Cộng hòa tháo dỡ làm bãi đáp trực thăng.

Trung uý phi công Nguyễn Thành Trung:
Sau khi bị mất đảo, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phản ứng như thế nào? Theo ông Nguyễn Thành Trung, Mỹ chỉ nói kiểu hàng hai, vì lúc đó Mỹ và Trung Quốc đã thông đồng rồi. “Còn ông Thiệu thì tức và quyết tâm làm một cái gì đấy để lấy tiếng vang... Tổng thống Thiệu liền ra lệnh điều 4 phi đoàn F-5 từ Biên Hòa ra Đà Nẵng, chỉ giữ lại 1 phi đoàn ở Biên Hòa. Theo biên chế thời đó, mỗi phi đoàn 24 chiếc; 5 phi đoàn có khoảng 120 chiếc và 150 phi công. Khi ra đến Đà Nẵng, chúng tôi nhận được lệnh chuẩn bị đánh để lấy lại Hoàng Sa và trước nhất muốn đánh là phải đánh cái hạm đội của Trung Quốc.
Sau khi các phi đội từ Biên Hòa bay tới Đà Nẵng, máy bay do thám RF-5A được điều ra Hoàng Sa để chụp ảnh. Các phi công đếm được khoảng 40 chiếc tàu, xác định được vị trí và hướng di chuyển của số tàu đó.
Kế hoạch không kích, theo lời ông Trung, là tuyệt mật, chỉ có những người tham gia mới biết. Chỉ huy cấp cao trong quân đội, nếu không có nhiệm vụ liên quan trực tiếp tới việc triển khai chiến dịch, đều không biết được.Một kế hoạch phản công được chuẩn bị công phu với “khả năng chiến thắng là 100%”, nhưng rốt cuộc đã không thể diễn ra do Mỹ cảnh báo Tổng thống Thiệu không được hành động.

Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại khi được hỏi về kế hoạch dùng không quân tái chiếm Hoàng Sa lại cho biết "Riêng tôi thì tôi không được biết. Những gì trao đổi ở Sài Gòn, nếu có xảy ra, thì không được thông báo... tôi không được nghe biết và tôi cũng không nhớ rằng tôi có nghe những kế hoạch nào từ trong Sài Gòn dùng không quân để tái chiếm lại Hoàng Sa. Quyết định đó có thể có và cũng có thể không."
Còn theo ông Hoàng Đức Nhã, thư ký Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh có một số kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa nhưng không được thực hiện do ưu tiên lúc đó không phải là tái chiếm Hoàng Sa mà là bảo vệ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa trước sự tấn công của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Nhã cho rằng Việt Nam Cộng hòa đã không có liên hệ nào nhằm phối hợp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên phương diện ngoại giao cũng như quân sự nhằm tái chiếm Hoàng Sa do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thái độ im lặng khi Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, họ cũng không giảm cường độ quân sự để Việt Nam Cộng hòa có thể huy động lực lượng tái chiếm Hoàng Sa. Mặt khác, ông Nhã nói Nguyễn Văn Thiệu đã tìm hiểu thái độ và lập trường của Mỹ qua điện thoại, nhưng chỉ nhận được lời trả lời "khó tin" rằng người Mỹ "không hề hay biết gì".
Việt Nam Cộng hoà "không đủ lực tái chiếm Hoàng Sa". Hơn nữa Việt Nam Cộng hoà phải bảo toàn lực lượng hải quân để bảo vệ duyên hải (vùng biển gần bờ) và chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà "đang tập trung lực lượng chuẩn bị tiêu diệt Việt Nam Cộng hoà". Việc tái chiếm Hoàng Sa tạm gác lại để ưu tiên cho các mục tiêu trước mắt quan trọng hơn. Sau khi các mục tiêu này được giải quyết, Việt Nam Cộng hoà "sẽ dùng các biện pháp quân sự kết hợp ngoại giao thu hồi Hoàng Sa"

Giải thích lý do huỷ bỏ

Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại nói với Nhà báo Phạm Trần:
"Từ khi tôi biết được có sự xuất hiện bất thường của quân Trung Cộng ở vùng bán đảo Hoàng Sa, cố vấn Mỹ bên cạnh tôi không một phút nào tán đồng lệnh của tổng thống Thiệu và các biện pháp tôi dùng trước và trong cuộc chiến. Khi tôi cho tăng viện thêm chiến hạm thì chính ông ta là người hăm dọa tôi là sẽ có phản lực cơ Trung Cộng tấn công chiến hạm của Hải Quân Việt Nam do đó tôi mới xin Không Quân Việt Nam tại Đà Nẵng ra nghênh chiến. Các phi vụ không thực hiện được vì theo tư lịnh Sư Đoàn 1 Không Quân (Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh) cho biết chỉ chiến đấu dược có 15 phút vì quá xa, quá nguy hiểm. Kể từ 1973 Hoa Kỳ không còn dính líu với miền Nam VN về quân sự nên tôi không có xin Hoa Kỳ tiếp viện. Việc xin cứu người trôi giạt cũng không được Mỹ giúp."

Nhận xét:
Điều vô lý trong thực tế lức bấy giờ, tinh thần của binh sĩ không kém, có thể là khí thế đang hăng nhưng hải quân và không quân đang thiếu và cần cho việc yểm trợ bộ binh trên các chiến trường khác nhau. Một kế hoạch phản công tái chiếm khả thi phải có cả hai lực lượng phối hợp với số lượng tàu chiến, máy bay nhiều để đủ đương đầu với lực lượng hùng hậu của hải không quân Trung Quốc. Họ lấy đâu ra, chiến trường trên bộ là sự sống còn của chế độ, họ có dám chấp nhận phiêu lưu không?

Lãnh đạo VNCH và các sĩ quan cao cấp chỉ là họp bàn, chính thức không có bằng chứng nào cho thấy có lệnh hay kế hoạch từ những người có cương vị trách nhiệm quyết định để phản công tái chiếm nhóm đảo Lưỡi Liềm đã bị mất về tay Trung Quốc. Vì nguyên tắc việc quân ở cấp cao, ai ra quyết định người ấy chịu trách nhiệm, mệnh lênh phải được ghi nhân qua điện báo hay văn bản. Một ví dụ như Tổng thống Thiệu chỉ đạo đối sách cho Đô đốc Tư lệnh Vùng I Duyên Hải, ông Thoại phải cho người đánh máy thành văn bản gửi về Phủ Thủ tướng để làm bằng chứng. Giả như có lênh từ ông A, ông B có chăng là lệnh miệng, chỉ dừng lại ở việc cấp dưới linh hoạt điều quân sẵn sàng chiến đấu theo ý cấp trên, không có giá trị trong thực hành tác chiến và việc lên kế hoạch không có nghĩa là có kế hoạch thật sự được triển khai, mọi việc tường thuật từ những nhân chứng theo hướng tin đồn, người này nghe lại từ người kia, rồi suy đoán...
Cho là Lãnh đạo và chỉ huy cao nhất của VNCH một lẫn nữa rất muốn đánh nhau với Trung Quốc thì khi chưa biết ý kiến Hoa Kỳ có hậu thuẫn hay không, chắc chắn không một ai dám quyết định.





Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại:
"Chúng tôi phải quyết định rút lui khi cố vấn Hoa Kỳ cho biết 17 chiến hạm của Trung Quốc đang trên đường tới khu vực và khả năng là sẽ có phi cơ phản lực tới từ đảo Hải Nam."

Theo Đại tá Ngạc thì Tư Lệnh Hải Quân(TLHQ) ra lệnh cho cả hai chiến hạm HQ4 và HQ5 quay trở lại Hoàng Sa, khi tàu quay lại thì lệnh tiếp phải rút về căn cứ Đà Nẵng.
Nếu đúng như từ cấp trên có lệnh bảo 2 chiến hạm quay lại chỗ mới đánh nhau thua trận thì đây là một lệnh ép duy ý chí và chắc rằng họ nghĩ lại đó là điều không thể, thí quân chứ không giải quyết được gì.

Image result for phiên hop tái chiếm hoàng sa t t thiệu


Theo Đại Tá Hà Văn Ngạc, Hạm trưởng

Với Tuần-dương-hạm HQ6 đã có mặt trong vùng và vừa hoàn-tất hộ-tống Tuần-dương-hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng-Sa Ðà-nẵng về bến, cộng với HQ17 (Hạm-trưởng HQ Trung-Tá Trần-đình-Trụ) điều-động từ Trường-Sa tới tăng-cường đã kết-hợp với Tuần-dương-hạm HQ5 thành một Hải-đoàn đặc-nhiệm mới với nhiệm-vụ chuẩn-bị tái-chiếm Hoàng-Sa. Mặc dầu nhiều sĩ-quan thâm-niên hơn tôi có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được chỉ-định tiếp-tục chỉ-huy. Một cuộc thao-dượt chiến-thuật và thực-tập tác-xạ đã diễn ra trong vòng một ngày tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía bắc vùng Cù-lao Chàm phía đông-nam Ðà-nẵng. Sau cuộc thao-dượt, tôi trình bầy kết-quả việc huấn-luyện trong các buổi thuyết trình hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân vùng, vẫn được Tư-lệnh-phó Hải-quân chủ-tọa. 
Nhưng cuối cùng thì công-cuộc tái-chiếm Hoàng-Sa được hủy-bỏ. Tuy vẫn được tín-nhiệm để chỉ-huy, nhưng tôi tin rằng cuộc phản-kích tái-chiếm sẽ thất-bại ngoại trừ đó là một chiến-thuật thí-quân nằm trong một chiến-lược cao hơn. Với các tuần-dương-hạm cũ-kỹ (WHEC) xử-dụng trong lực-lượng phòng-vệ duyên-hải Hoa-Kỳ (US Coast guard) từ lâu, được trang-bị vào công-tác tuần-tiễu hơn là để chiến-đấu, vừa chạm-chạp và vận-chuyển nặng-nề, nên khó chống trả lại với các chiến-hạm chiến-đấu tối-tân hơn. Loại này chỉ có một hải-pháo 127 ly, còn 2 hải-pháo 40 ly đã được Hải-quân Việt-Nam đặt thêm vào lái tầu là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực-thăng.  

Long Ly
Image result for phiên hop tái chiếm hoàng sa t t thiệu

Tôi nhớ lại lời dặn đã được lập đi lập lại của huấn luyện viên…một phi công lái F105, đã bay hơn 100 phi vụ oanh tạc Bắc Việt…là ” Khi không chiến, phải xem kẻ thù cùa mình là phi công giỏi nhất thế giới”.
Không chần chờ, quan sát chung quanh, nhanh chóng phán đoán tình hình, có phản ứng nhanh ,đúng, kịp thời, chính xác, không để mất bóng phi cơ địch, khai hoả thật nhanh, và hổ trợ cho người bạn của mình. Tôi vẫn biết lý thuyết là thế, nhưng trên thực tế, ngoài khả năng của phi công còn có những yếu tố khác như : khả năng nhào lộn, tốc độ thăng tốc cúa máy bay, vũ khí trang bị trên phi cơ, vị thế đầu tiên của phi cơ địch và thời tiết nữa.
Hôm nay thực sự những bài học kinh nghiệm huấn luyện về không chiến sắp được ứng dụng, có lẻ chỉ khoảng nửa giờ sau khi cất cánh từ Đà Nẳng. Tôi đã nóng lòng chờ những giây phút ấy, chưa bao giờ xảy ra trong đời, tôi thầm nhủ phải coi chừng những chiếc Mig 21, khó nuốt, nhưng không thắng thì huề,nhất định không chịu thua.
Đến 1 giờ, vẫn chưa thấy dấu hiệu gì chuẩn bị cất cánh, ông Thiếu Tá Giàu- người chỉ huy trận đánh- đi họp vẫn chưa về. 1giờ 30 , 2giờ, 2 giờ 30, rồi 3 giờ ,vẫn chưa được lệnh.Lúc đó tôi nghĩ đi trể như vậy, lúc về tối mất, không mấy thuận lợi nếu phải về trong trường hợp ít xăng và đáp xuống phi trường Phù Cát còn khá xa lạ với những phi cơ F5. Khoảng 5 giờ chiều mới biết cuộc hành quân oanh tạc Hoàng Sa bị huỷ bỏ vì:
“Mỹ không cho đánh “???.
Ngày hôm sau, tôi không có tên trong lịch trình trực bay , nhưng không đi đâu được, vì đang cấm trại 100% nên vẫn quanh quẩn ở phòng trực phòng không. Tại Đà Nẳng, lúc nào cùng có 3 phi tuần F5 trực phòng không. Phi tuần Xray trực 5 phút, Zulu trực 15 phút, Whisky trực 30 phút (có nghĩa khi báo động , phi tuần Xray bằng mọi cách phải cất cánh trong vòng 5 phút, sau đó phi tuần Zulu được đôn lên thành 5 phút, sẵn sàng cất cánh nếu cần, phi tuần Whisky đôn lên thành 15 phút và sẽ thành trực 5 phút nếu phi tuần Zulu phải cất cánh.)
Khoảng 3 giờ chiều, tình hình vẫn bình thường. Trung uý Chinh người trực phi tuần 5 phút đến gặp tôi, xin tôi trực thế cho một lát, để về đưa con đi bác sĩ. Tôi nhận lời vì chúng tôi vẫn thường giúp nhau, xem như anh em. Tôi lấy mủ bay ra phi cơ, gở mủ bay của Trung uý Chinh ra, nối ống dưỡng khí và dây vô tuyến vào (vì mỗi người có mủ bay riêng, đã được điều chỉnh cho phù hợp với đầu của mình).Khoảng 3 giờ 30, lúc đó Trung uý Chinh vừa chạy xe vào khu vực phòng không, đang mặc bộ G suit thì báo động.
Tôi vội chạy ra phi cơ, Trung uý Chinh cũng chạy theo gọi tôi; Long để tôi bay cho.
Tôi vừa chạy vừa trả lời: Không kịp đâu, tôi đã đổi mủ bay rồi. Nói xong, tôi liền leo vào phòng lái, mở nút battery, khoát hai quai dù vào, khoá Seat Belt lại, đội mủ bay, đeo mặt nạ dưỡng khí vào.
Trong khi tôi làm những việc đó một chuyên viên phi đạo vừa nổ máy, vừa giúp tôi nối giây G suit. Khi anh ta bước xuống, rút cầu thang là tôi đóng ngay nắp phòng lái, tống ga vọt khỏi ụ đậu.
Đài kiêm soảt không lưu Đà Nẳng thông báo ngay trên tần số vô tuyến cao độ 20.000 ngàn feet và hướng bay 045 mà đài kiểm báo Panama- ở trên đỉnh núi Sơn Chà- yêu cầu để dể dàng nhận thấy mục tiêu.
Lúc ấy mọi chuyện xảy ra rất nhanh, tôi không còn nhớ gì ngoài những phương thức cất cánh khẩn cấp, chạy ra phi đạo, không chần chừ, tống ga tối đa, mở afterburner, chiếc số 1 chạy trước, tôi bám sát theo, phi cơ lao nhanh trên phi đạo.
Hôm ấy vì chuẩn bị đánh Hoàng Sa nên phi cơ mang ba bình xăng phụ, phải chạy hơn một nửa phi đạo mới cất cánh được. Có lẻ từ khi báo động đến khi chúng tôi gấp bánh lại khoảng 3 phút rưỡi, không lâu hơn khoảng thời gian ấy. Khi đang bay lên cao, chúng tôi liên lạc với đài kiểm báo Panama xin diển tả mục tiêu.
Được cho biết hai phi cơ Mig 21 cất cánh từ Hải Nam bay về hướng Đà Nẳng còn cách phi tuần chúng tôi vào khoảng 100 dặm. Tôi bay dạt ra xa, hơi lùi về phía sau đối với chiếc số 1 trong đội hình không chiến. Trung uý Tảo bay số 1 liên tục hỏi Panama về mục tiêu vì 100 dặm tuy mắt thường không nhìn thấy nhưng hai phi cơ siêu thanh bay đối đầu nhau (head o­n) thì chỉ chốc lát là ở bên cạnh nhau ngay.
Chúng tôi tập trung quan sát kỹ lưỡng chung quanh , chưa thấy Mig đâu, lúc đó, ở phi đoàn gọi hotline lên Panama dặn chúng tôi nhớ vứt ba bình xăng phụ trước khi không chiến. Tôi vừa bay vừa nghĩ, chắc đụng thật rồi, nút nhả ba bình xăng phụ ở vi trí Standby chỉ cần bấm nút là ba bình xăng phụ sẽ tách rời khỏi máy bay.
Tôi liếc nhanh hoả tiển Sidewinders đã sẵn sàng khai hoả, tôi vặn nút volume tầm nhiệt của hoả tiển không không nghe cho rõ, để khi không chiến, hoả tiển bắt được hơi nóng của phi cơ địch sẽ báo lên bằng âm thanh nghe được bằng head phone gắn trong mủ bay.
Trung uý Tảo vừa liên lạc với Panama vừa quan sát mục tiếu, tôi cũng thế, theo dấu chiếc số 1, đồng thời cũng quan sát thật kỹ, mình phải thấy Mig trước, nhưng Panama im lặng vô tuyến một lát rồi yêu cầu chúng tôi giữ cao độ 20.000 feet và bay vòng trở lại , vì hai phi cơ Mig 21 của Trung Cộng đã quẹo về hướng Hải Nam.
Chúng tôi bay bao vùng vòng tròn ngoài biển cách phi trường Đà Nẳng khoảng 80-100 dặm.Thực ra Trung Cộng muốn thử phản ứng của Không Quân VNCH và chúng ta đã phản ứng rất nhanh, cất cánh ngay trước khi Mig xâm nhập khộng phận và nếu có xảy ra không chiến thì chúng ta kể như có lợi thế vì gần Đà Nẳng và khá xa Hải Nam.
Sau khi đã chỉ định danh sách những người bay các phi tuần còn lại, nếu tôi nhớ không lầm là khoảng 10 phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc. Phi cơ cất cánh bay cuối cùng là một chiếc RF-5, do một vị thiếu tá phi đoàn 522 lái có nhiệm vụ bay qua chiến trường chụp hình kết quả cuộc oanh tạc do những chiếc F5 bay trước ném bom xuống.
Khoảng 10 giờ sáng, tất cả những phi công tham dự cuộc hành quân đặc biệt này lên Sư đoàn họp, nghe thuyết trình kế hoạch đánh Hoàng Sa. Chẳng mấy khi những cấp sĩ quan cấp nhí như tụi tôi được vào phòng họp này, nên thấy có vẻ hơi lạ.
Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn I Không Quân thuyết trình tình hình và kế hoạch ném bom. Từng phi tuần cất cánh từ Phi trường Đà Nẳng, cách bờ biển 100 dặm, nếu thấy chiếc tàu nào đều đánh chìm vì Hải Quân của chúng ta đã rút về phòng thủ ở trong vòng 100 dặm, các tàu của các nước khác đã được thông báo và yêu cầu tránh xa vùng Hoàng Sa.
Chỉ có 10 phút không chiến, không được ở lâu, khi về bay chếch xuống hướng Nam, đáp xuống phi trường Phù Cát chứ không về Đà Nẳng nữa sợ phi cơ Mig bay chận hậu. Nếu máy bay Mig đuổi theo những chiếc F5 bay về Phù Cát, thì nó sẽ bị những chiếc F5 cất cánh từ phi trường Đà Nẳng lên chận đuôi nên sẽ không dám bay xa xuống hướng Nam.
Khi nghe thuyết trình như vậy, lúc ấy tuy còn rất trẻ nhưng tôi đã hình dung được chưa chắc mình đã bay được đến Hoàng Sa mà chắc chắn trận không chiến sẽ diển ra vào khoảng không phận 120 dặm cách Đà Nẳng cũng như đảo Hải Nam của Trung Cộng, vì khi chúng ta cất cánh lên bay về hướng Hoàng Sa, máy bay Mig sẽ lên nghênh cản ngay và cuộc đối đầu sẽ diển ra trong khoảng toạ độ đó.
Đến khi thuyết trình về hệ thống cấp cứu nếu chúng tôi phải nhảy dù trong trường hơp khẩn cấp. Đại Tá Tư Lệnh Phó SDIKQ cho biết…Cách bờ biển 50 dặm sẽ có hai chiếc tàu Hải Quân . Trên mỗi tàu có hai chiếc trực thăng, sẽ bay đi cấp cứu trong vòng 50 dặm nữa.
Như vậy, nếu mấy anh nhảy dù trong vòng 100 dặm thì cứu được, còn ngoài 100 dặm sẽ không cứu được vì quá xa. Một vị Trung Uý hỏi…Đệ thất hạm đội Mỹ có cấp cứu khi chúng tôi nhảy dù ngoài tầm cấp cứu của chúng ta ? Đại Tá trả lời ngay:” Đệ Thất Hạm Đội từ chối không cứu”.
Lúc đó chúng tôi hiểu ngay Mỹ đã bật đèn xanh và làm ngơ cho Trung Cộng cướp đảo Hoàng Sa của chúng ta.
Là những chiến sĩ VNCH ai không đau lòng khi bị Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, lấy mất mảnh đất do cha ông đã đổ bao công lao, xương máu tạo nên, giữ gìn cho đến ngày nay…
Những cuộc chiến đấu dũng cảm, đẫm máu như Tết Mậu Thân 1968, tái chiếm cổ thành Quảng Trị năm 1972, những trận đánh lừng danh trên khắp lãnh thổ Miền Nam Việt Nam,nhất quyết không để một tấc đất vào tay kẻ thù, vậy mà Trung Cộng lại ngang nhiên, công khai xăm lấn Hoàng Sa, với sự im lặng ủng hộ của CSVN, với sự phủi tay của Hoa Kỳ.
Những phi công F5 được chỉ định oanh tạc Hoàng Sa không ai từ chối, trái lại tinh thần rất cao, sẵn sàng tung cánh dầu không có sự yểm trợ của Không Quân và Đệ Thất Hạm Đội Mỹ.
Trước khi vào nghe thuyết trình, chúng tôi vẫn đinh ninh sẽ có sự tham dự ném bom của Không Quân Hoa Kỳ như họ đã từng bay những phi vụ yểm trợ, đánh phá Việt Công tại miền Nam cũng như tại miền Bắc trước khi có hiệp định Paris .Hoặc ít ra không trực tiếp oanh tạc, phi cơ Mỹ cũng bay Air Cover cho KQVNCH an toàn oanh tạc Hoàng Sa.
Nhưng thực tế, họ đã từ chối, tại sao vậy ?.Lúc đó chúng tôi không hiêu có phải Mỹ đã bỏ rơi chúng ta hay họ muốn thử xem thực lực của KQVNCH có khả năng vươn nổi cánh sắt đến những mục tiêu xa xôi như Hoàng Sa ?.
Buổi thuyết trình hành quân đang khựng lai vị hệ thống cấp cứu rất hạn chế thì bổng cửa phòng hop mở ra Đại Tá Võ Văn Sĩ, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 63 Chiến Thuật ở phi trường Biên Hoà và môt sĩ quan Không Quân cao câp khác tôi không biết tên, cả hai bước vào phòng họp.
Đại Tá Sĩ chỉ ngay vào Thiếu tá Hồ Kim Giàu nói :”Giàu ,đừng nóng “Hai vị sĩ quan cao cấp mới đến tiêp xúc với Đại TaTứ Lệnh Phó Sư Đoàn I KQ một lát và sau đó ra lệnh cho tất cả các phi công rời phòng họp.
Về khu trực phòng không, chúng tôi được lệnh chuẩn bị cất cánh, có lẽ vào khoảng 1 giờ chiều.Ai nấy sẵn sàng, kiểm tra lại G suit, xem lại những dụng cụ cấp cứu trong chiếc áo lưới, cân thận gài chặt khẩu súng P38, biết đâu đến lúc cần đến nó !Tôi mở sẵn bản đồ hành quân.Hoàng Sa nhỏ bé thật, có nhiều đảo nhỏ nhưng không có một mục tiêu được chỉ định rõ ràng.
Tôi cố học thuộc lòng tần số liên lạc của phi trường Phù Cát để khi trở về không lạng quạng mò mẩm. Tôi hình dung lại những bài học không chiến đã được tập luyện kỹ lưỡng tại Hoa Kỳ cũng như những phi vụ thực tập hàng ngày ở Phi Đoàn 538.
Tôi có niềm tự tin không đến nổi nào, có thể sẽ thắng. Khi thực tâp tại vùng sa mạc Arizona, đã nhiều lần tình cờ không chiến với các phi cơ F4. F100 (cũng bay những phi vụ huấn luyện về không chiến) Chính tôi cũng thấy ngang ngữa, không có gì thua sút họ cả.

Tôi ôn lại những kỷ niệm năm xưa với những dự tính oanh tạc Hoàng Sa năm 1974 của phi đoàn mà tôi phục vụ để thấy những nỗi đắng cay của chúng ta, của một nước kém phát triển, của một quốc gia còn non trẻ nhưng gặp thảm hoạ chiến tranh đã bị các nước lớn khuynh đảo.
Hoa Kỳ đã dùng xương máu của những người Việt Quốc Gia chống lại sự bành trướng của CS. Đã dùng Việt Nam làm điểm nóng, làm tiêu hao sinh lực khối Cộng Sản quốc tế trong cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu với CS. Chúng ta là nạn nhân của sự xung đột ý thức hệ, là tụ điểm va chạm nảy kửa của hai khối CS và Tự Do.
Trong cuộc chiến đấu chống Cộng tại Việt Nam. Hoa Kỳ chủ trương không muốn thắng, duy trì chiến tranh làm Liên Xô, Trung Cộng phải “xuất huyết” hao tiền tốn của để viện trợ cho CS Bắc Việt.
Đó là cuộc chiến tranh của những nước lớn, nhưng lại dùng quê hương chúng ta làm chiến trường. Để rồi, một thời điểm nào đó, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, người Mỹ phủ phàng bỏ rơi, để hàng chục triệu người vô tội rơi vào địa ngục Cộng Sản.
Ôi còn xót xa nào hơn thân phận của các nước nhược tiểu chỉ hứng lấy những sai lầm và là nạn nhân của các cuộc xung đột quốc tế. Hoa Kỳ đã mắc phải những sai lầm rất lớn trong cuộc chiến tranh Việt Nam trước đây, họ có trách nhiệm phải xoa dịu những nỗi thống khổ hiện nay của những người dân và Chiến Sĩ Quốc Gia mà quá khứ đã dũng cảm chiến đấu cho tự do bên cạnh Hoa Kỳ bằng những nổ lực làm tan dần đại hoạ CS VN.
Năm 1972, Hoa Kỳ nghĩ rằng bắt tay với Trung Cộng có rất nhiều điều lợi như tạo được sự chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Cộng, Xâm nhập kinh tế trung Cộng bằng dự án đầu tư thương mại. Hoa Kỳ cứ tưởng ” Nắm đầu Trung Quốc “
Tức đã nắm được CSVN nhưng chính Trung Quốc đã bị CSVN phản bội, bỏ rơi để chạy theo Liên Xô. Vì vậy, năm 1979, Trung Cộng đã đem quân qua trừng phạt, dạy cho CSVN một bài học đó là thiếu trung tín bất lương.
Sau này, có khi chúng tôi tập bay không chiến khá xa bờ biển, có khi khoảng 80 dặm, tôi nhìn biển xanh rộng mênh mông, Đà Nẳng nhìn thấy mờ mờ như trong sương mai. Biển bao la qúa, tôi thấy tội nghiệp cho những anh hùng Hải Quân VNCH đã dũng cảm, đơn côi chiến đấu với bọn cướp hung hản Trung Cộng.
Các anh chiến đấu không ai yểm trợ, biển lạnh sóng gió chập chùng, muốn mau về bến bờ, về thăm nhà cũng mất cả ngày, còn chúng tôi chỉ lát nữa đây, sau khi đáp xuống Đà Nẳng, là có dịp đi dạo phố hoặc quây quần cùng gia đình.
Đã 34 năm trôi qua, nhớ lại những kỹ niệm của thuở làm trai thời loạn, những ngày tung cánh vẫy vùng trong không gian, những ngày đâm xuống ném bom vào đầu giặc thù, những ngày trực phòng không dài lê thê, những ngày mưa dầm kéo dài cả tuần, mây mù che phủ Đà Năng thảm thương.
Hoàng Sa đánh dấu một trong những bước khởi đầu của tiến trình bỏ rơi VNCH. Đó là một nỗi buồn lịch sử báo động cho một đại hoạ sắp xảy ra cho VNCH. Tôi nhớ những người bạn cùng khoá đã anh hùng ra đi vĩnh viễn.
Nguyễn anh Tuấn – Đinh thành Trung – Nguyễn thăng Long – Lê mậu Trung – Đặng minh Toàn – Trần anh Tiên – Lê trường Sa…
Từ khi còn trong quân trường, các anh và chúng tôi đã cùng hát: Đây đó, hồn nước ơi , Không Quân Việt Nam lướt trên ngàn mây gió, ù u u u u ú, ôi phi công danh tiếng muôn đời “. Danh tiếng muôn đời lại mở đầu bằng tiếng “ôi” não nùng.!!!
Các anh đã thực hiện những chuyến bay dũng cảm, gieo kinh hoàng khủng khiếp cho kẻ thù, và các anh đã chết để giang sơn được sống, để đồng bào được ấm no nhưng người Mỹ đã buông xuôi, hậu qủa là nước mất nhà tan, người Việt Nam lưu lạc bốn phương trời.
Những cánh chim sắt của Không Quân VNCH đành phải xếp cánh và có lẽ sẽ không còn cơ hội nào tung bay như ngày xưa nữa.
Xin dành một phút tưởng niệm đến tất cả những anh hùng Hải Quân đã hiên ngang dũng cảm hải chiến với tàu Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa và đã chọn đại dương là mồ an nghỉ cuối cùng.
Xin dành một phút tưởng niệm đến tất cả những phi công VNCH đã trải dài thân xác mình trên khắp quê hương thân yêu vì chính nghĩa Quốc Gia và Lý Tưởng Tổ Quốc Không Gian.
Ngày nay, khi cộng Sản Việt Nam lại ký kết hiệp ước biên giới dâng đất, dâng biển, dâng một phần giang sơn của tổ tiên và tiền nhân để lại, cho Trung Cộng, thật tỏ rõ CSVN thật sự là quân bán nước.
Đọc kỹ lịch sử bán nước của CSVN, tôi mới biết ngày 14-9-1958. Phạm Văn Đồng thừa lệnh của Hồ Chí Minh đã ký dâng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng.
Có lẽ trước năm 1974. Trung Cộng không dám đụng đến vì trên đảo có quân lính VNCH trấn giữ và Hoa Kỳ vẫn còn sát cánh với QLVNCH chống cộng. Nhưng khi biết Mỹ có ý định rút quân ra khỏi miền Nam.
Trung Cộng tấn chiếm để xem phản ứng của chúng ta và Hoa Kỳ như thế nào rồi từ đó cố vấn cho CS Bắc Việt đẩy mạnh cuộc xâm lược để chiếm miền Nam Việt Nam.. Và thảm hoạ đã đến, ngày đó, tôi thật ngây thơ khi nghĩ cuộc chiến Hoàng Sa chỉ là âm mưu ăn cướp một hòn đảo nhỏ và người Mỹ cũng không quan tâm vì mất đảo Hoàng Sa không có nghĩa mất đi một vị trí chiến lược có ảnh hưởng đến sự sống còn và tồn vong của của VNCH.
Với tư cách người lính chiến đấu bảo vệ quê hương, với những hiểu biết rất hạn chế về thời cuộc, mình đâu có nhìn thấy tiến trình bỏ rơi của Mỹ và hiểm hoạ CS mỗi ngày một lớn, để rồi vẫn bình thản bay bổng làm tròn trách nhiệm và bổn phận của mình cho đến ngày mất nước.




Hải Chiến Hoàng Sa: Không quân VNCH đã từng xuất kích truy đuổi máy bay Trung Quốc




Ông Hoàng Đức Nhã, Cựu Tổng trường Dân vận-Chiêu hồi, Nguyên Bí thứ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu xác nhận với Nhà báo Phạm Trần: 
"Sau phiên họp tại Bộ Tư lệnh hành quân ở Tiên Sa (Đà Nẵng) có sự tham dự của Đại tướng Cao Văn Viên và các tự lệnh Quân đoàn I, Tư lệnh Hải Quân và Không quân vùng I chiến thuật, chính Tổng thống Thiệu đã quyết định không dùng Phi cơ F-5 oanh tạc các tầu chiến và lính Trung Cộng ở Hoàng Sa ví quá nguy hiểm cho các Phi công trong hoàn thiếu nguyên liệu và không có yểm trở của Hoa Kỳ."








Nhớ lại Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu


Nhớ lại Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu – Cuộc chiến chống cộng sản Bắc Việt xâm lăng VNCH

Kính nhớ tất cả Anh Hùng Liệt Nữ VN, đã vị quốc vong thân.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã vĩnh viễn ra đi nhưng ý chí chống cộng quyết liệt của Ông, đã nổi bật trong những năm đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo Quốc Gia (6/1965 -4/1975) và đã chứng minh qua câu nói hùng hồn, bất hủ “Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm”.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm có công giữ vững VNCH trong chín năm và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, là người đã tiếp tục lèo lái con thuyền Quốc Gia, chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn, dầu sôi lửa bỏng trước áp lực bành trướng của cọng sản quốc tế, trong lúc đồng minh Hoa Kỳ lúc đó, không bao giờ có thực tâm yểm trợ hữu hiệu cho QLVNCH. Nhưng với quyết tâm của TT.Thiệu, chính phủ và toàn dân, cũng như sức chiến đấu anh dũng của quân đội Miền Nam. Nhờ vậy VNCH mới tồn tại được cho tới ngày 30-4-1975.Và bây giờ dù ai có thương ghét, hoan hô hay đả đảo, thì cựu Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, cũng đã trở thành người thiên cổ vào ngày 29-9-2001, tại Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, hưởng thọ 78 tuổi. Ông mất để tự mình chấm dứt những oan khiên, lụy phiền chồng chất. Tất cả đều là hậu quả tất yếu của mười năm làm người lãnh đạo VNCH, chống lại cuộc xâm lăng của cọng sản Bắc Viêt. Đây là một cuộc chiến bi thảm nhất của dân tộc VN, vì phải đương đầu với toàn khối cọng sản quốc tế, được tiếp tay công khai, bởi một số ít người, luôn được ưu tiên trong xã hội miền Nam lúc đó, suốt cuộc chiến. Đây là thành phần ngụy hòa của VNCH, gồm đám quan quyền đa số xuất thân từ lính Tây, bị thất sũng, hay vẫn đang tại chức nhưng bất mãn vì túi tham chưa đầy. Bên cạnh đó là một bọn người vong ơn bạc nghĩa,tất cả mang mặt nạ trí thức khoa bảng nhưng trái tim và cõi hồn thì bần tiện ích kỷ, trước những người lính trận, đã hết lòng liều chết, để bảo vệ mạng sống cho họ. Nhưng trên hết vẫn là nỗi buồn nhược tiểu VN, trước thái độ và hành động kiêu căng của đồng minh Hoa Kỳ, luôn ỷ vào đồng đô la viện trợ, bắt buộc VNCH phải phục tùng, rồi cuối cùng vì quyền lợi riêng tư, mà trơ trẽn bán đứng bạn bè cho cọng sản Bắc Việt vào ngày 30-4-1975.
Công hay tội của những người có liên hệ tới vận mệnh Quốc Gia Dân Tộc, dĩ nhiên ai cũng có quyền phê phán, khen chê theo ý kiến của mình, nhất là hiện nay, tất cả uẩn khúc của lịch sử gần như được phơi bầy ra ánh sáng và ai cũng được đọc, biết hay nghe người khác kể. Cho nên tất cả phải dành cho lịch sử quyết đinh. Ngoài ra còn có cả bia đá và bia miệng, cũng là một phần của lịch sử, xưa nay không hề biết thiên vị ai, dù đó là vua chúa hay kẻ hèn nghèo trong xã hội.
Vì lịch sử không bao giờ tự bẻ cong ngòi bút và chạy theo đuôi phường mạnh, để phê phán hàm hồ. Bởi vậy mới có những câu chuyện sử về Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung, Quang Trung và cả Hồ Chí Minh, Dương Văn Minh…..
Bỗng dưng cảm thấy nghẹn ngào, khi nghĩ tới số phận hẳm hiu của những vị lãnh đạo quốc gia cận đại, từ Cựu Hoàng Bảo Đại, cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Trần văn Hương.. nay tới phiên cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tất cả gần như không được ngủ yên nơi chín suối, chẳng những của bộ máy tuyên truyền cộng sản, mà tàn nhẫn hơn là do chính miệng của những người thường mệnh danh là sử gia, thật sư chỉ là những thợ viết không tim óc, thường mượn sự tự do quá trớn, để trả thù đời, sau khi đất nước trải qua một cuộc bể dâu tận tuyệt, ông xuống hàng chó và sâu bọ thành người.
Ba mươi năm Việt Nam sống ngoi ngóp trong thiên đàng xã nghĩa, mới thật thấm thía và ý nghĩa biết bao về câu nói của người xưa, nay vẫn còn văng vẳng bên tai, hiển hiện trong mắt: “Đất nước còn thì còn tất cả – Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”.
Tóm lại điều quan trọng của chúng ta hôm nay, nhất là những sử gia hiện đại, có dám bắt chước Tư Mã Thiên hay ít nhất như Phạm Văn Sơn, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Đức Phương, Phạm Phong Dinh.. dám đối diện với sự thật, để nói lên những điều tai nghe mắt thấy , qua sự hiểu biết của mình, bằng lương tri và trái tim nhân bản VN. Những tên ngụy văn, ngụy sử, nguỵ quân tử của một thời hỗn mang điên loạn , giờ đã không còn thời cơ lên chức trời, để lấy giấy gói lửa hay dùng tay che mặt trời. Bởi vì hiện nay, gần như tất cả các văn khố trên thế giới, kể cả Nga Sô -Trung Cộng..cũng đang lần hồi bạch hóa nhiều tài liệu lịch sử, có liên quan tới chiến cuộc Đông Đương, Đảng và các nhân vật cọng sản quốc tế VN liên hệ, trong đó có chân tướng Hồ chí Minh.
Đất nước hiện nay đang ngả nghiêng trong bảo tố vì sự xâm lăng không tiếng súng của kẻ thù truyền kiếp Trung Cô.ng. Đảng và các chóp bu cọng sản VN đang theo gót đàn anh thuở trước, trong chính sách đu giây giữa hai kẻ thù Tàu-Mỹ, hầu tìm một chỗ dựa để kéo dài quyền lực, được xây dựng trên máu xương sông máu VN, suốt bảy mươi lăm năm qua. Nhưng thời cơ đã thay đổi rồi, vận mệnh của đất nước, sớm muộn gì cũng do toàn dân định đoạt, chứ không phải do VC, Tàu, Nga hay Mỹ dù VC đang nắm quyền cả nước. Họ mới chính là những nhân chứng lương tâm cuối cùng của thời đại, để trả lời, minh oan và đòi lại công lý danh dự, cho những người Việt Quốc Gia và người Lính VNCH, qua bao thế hệ, đã hiến thân cho đại nghĩa dân tộc.
1. Thân Thế và Sự Nghiệp của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu 
Như hầu hết vua chua từ cổ tới kim, thường vẽ chân cho rắn để tạo uy vũ cho người lãnh đa.o. Thân thế của vị Tổng Thống Đệ Nhị Cộng Hòa miền Nam VN, cũng bị sự huyễn hoặc và bói toán che phủ, làm cho ta không biết đâu là hư thực.
Theo các tài liệu hiện hành, Tổng Thống Thiệu sinh ngày 5-4-1923 tại Ninh Chữ, quận Thanh Hải, tỉnh Ninh Thuận (Trung phần). Nhưng cũng có nguồn tin, đa số phát xuất từ những người chống đối, cho rằng Ông Thiệu vì tin vào các quân sư bói toán thân cận, nên đã đổi lại ngày sinh là 25-12-1924 Dương lịch, nhằm ngày 18-11 năm Giáp Tý. Thật ra trong thời kỳ nhiễu nhương tại VN, việc khai trồi sụt tuổi so với năm sinh, là một việc quá đỗi bình thường. Song le, đối với những vị lãnh đạo của đất nước, trực tiếp cầm đầu cuộc chiến đấu chống xâm lăng cọng sản Bắc Việt như cố Quốc trưởng Bảo Đại, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, PTT Trần Văn Hương và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu..thì sẽ trở thành đề tài lớn để kẻ thù, những kẻ đố kỵ, ganh ghét, vin vào đó, để mỉa mai xuyên tac. Nhưng chuyện này chỉ có thể xảy ra ở miền Nam trước năm 1975, chứ tuyệt đối, vĩnh viễn và sẽ chẳng bao giờ có thể xảy ra tại miền Bắc trước tháng 4-1975 và cả nước từ đó tới nay. Nhiều danh từ và các câu chuyện trào phúng, hạ bạc như ‘ Năm Chuột, Tám Thẹo, Năm Lỳ..’, quá ư là tàn nhẫn, xuất hiện trên báo chí, sách vở và ngay cả những cái được gọi là sử liệu.
Nhưng đó cũng chỉ là một thiểu số với ác ý có mục tiêu. Riêng trong tâm tư của hầu hết quần chúng thầm lặng, thì sự thay đổi trên nếu có, cũng chẳng qua là một thái độ hợp thời, một hành động tâm lý, nhằm gây ấn tượng và tình cảm tốt đẹp đối với mọi người, khi vị nguyên thủ quốc gia, có chân mạng đế vương, xứng đáng nhận lãnh trọng trách lãnh đạo đất nước.
Về thân thế của Tổng Thống Thiệu, hiện cũng có nhiều tài liệu đề cập tới nhưng tựu trung đều viết, Ông xuất thân từ một gia đình nghèo nhưng cũng đã theo học hết các bậc Tiểu và Trung Học tại thị xã Phan Rang, tỉnh Ninh Thuân. Sau đó vào Sài Gòn, học Trường Kỹ Thuật Đổ Hữu Vị (sau đổi là trường Cao Thắng) và cuối cùng là Trường Hàng Hải Dân Sự.
Theo Nguyễn Khắc Ngữ, trong tác phẩm ” Những ngày cuối cùng của VNCH “, xuất bản sau năm 1975 tại Canada, thì ông Thiệu:
– 1948, theo học khóa Sĩ quan Trung đội Trưởng tại Trường Sĩ Quan Đập Đá (Huế). Căn cứ vào kỷ yếu của Trường Vỏ Bị Quốc Gia Đà Lạt, thì khóa này chính là Khóa 1 Phan Bội Châu của trường. Năm đó khóa này có 63 SVSQ theo học và thủ khoa là tướng Nguyễn Hữu Có, người mà mới đây, được VC cho lên đài truyền hình phỏng vấn, cùng với Nguyễn Hữu Hạnh..trong dịp kỷ niệm 30 năm, mừng VN được sống trong thiên đàng xã nghĩa, sau khi đất nước đã chấm dứt chiến tranh.
– 1949 mãn khóa, Ông Thiệu về phục vụ tại Miền Tây Nam Phần, rồi được sang tu nghiệp quân sự tại Coequidan. Ông cũng đã phục vụ trong các đơn vị tác chiến, của Quân Đội Quốc Gia tân lập, tại Hưng Yên (Bắc Phần), do Trung Tá Dương Quý Phàn chỉ huy. Lúc đó, cùng chung đơn vị có Cao Văn Viên, cả hai mang cấp bậc Trung Úy.
– 1955 là Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh tại Huế.
– 1958 thăng cấp Trung Tá, là Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
– Được theo tu nghiệp các khóa quân sự cao cấp về tham mưu, chính trị tại các quân trường của Hoa Kỳ như Port Leavenwort, Fort Blifs cũng như Okinawa (Nhật).-1959 tới 1963 : Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, đồn trú tại Biên Hòa.
-1/11/1963 tham dự cuộc binh biến và được thăng Thiếu Tứớng, làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
– Ngày 18/1/1965 thăng Trung Tướng, là Đệ Nhị Phó Thủ Tướng trong Nội Các Trần Văn Hương.
– Ngày 19-6-1965, quân đội VNCH chánh thức đổi thành Quân Lực VNCH và ngày đó đã trở thành NGÀY QUÂN LỰC hằng năm cho tới nay, dù Miền Nam đã bi cọng sản Bắc Việt xâm lăng cưỡng chiếm tháng 5-1975. Ngày này, Trung Tướng Thiệu, được Hội Đồng Quân Lực, cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (Quốc Trưởng).
– Ngày 4/9/1967 đắc cử Tổng Thống Đệ Nhị Cộng Hòa miền Nam. Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ là Phó Tổng Thống. Trong nhiệm kỳ này, chính phủ VNCH đã thực thi được nhiều cải cách quan trọng về Giáo Dục, Nông Nghiệp.
– Tháng 4/1972 tái đắc cử Tổng Thống lần thứ hai, cụ Trần Văn Hương là Phó Tổng Thống.
– Từ đầu năm 1973, qua áp lực cúp viện trợ đồng thời với những bức thơ của Tổng Thống Mỹ là Nixon, hứa hẹn sẽ yểm trợ và can thiệp khi VC xâm lăng Miền Nam, nên TT Thiệu đã bắt buộc, ký vào Bản Hiệp Ước Ngưng Bắn tháng 2-1973, dù đã biết rõ ràng đây là văn tự mà người Mỹ ký bán VNCH cho khối cọng sản quốc tế, để đánh đổi quyền lợi của nước mình.
-Ngày 26/3/1973 TT. Thiệu ban hành Luật Người Cầy Có Ruộng. Cũng từ đó cho tới lúc tàn cuộc chiến, người Mỹ đã gần như chính thức bỏ rơi miền Nam. TT Thiệu trước cảnh thù trong giặc ngoài, thêm CIA và điệp viên cọng sản nằm vùng ngay trong Dinh Độc Lập phá hoại, nên đã phải từ chức vào lúc 19 giờ 30 đêm 21-4-1975. Phó TT Trần Văn Hương lên thay thế nhưng cũng chỉ được vài ngày, rồi giao việc nước lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh, để ông đầu hàng cộng sản vào trưa ngày 30-4-1975.
Đêm 26-4-1975, TT Thiệu cùng Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, được Hoa Kỳ giúp đỡ phương tiện, di tản tới Đài Loan. Sau đó Ông tới định cư ở Anh Quốc và cuối cùng cư ngụ tại Boston-Hoa Kỳ.
– Ngày 29/9/2001 Ông ngã bệnh và qua đời, hưởng thọ 78 tuổi.Theo báo chí loan tải cũng như video ghi lại, thì đám táng của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, có rất nhiều người tham dự, với đủ mọi thành phần. Nhiều người đến từ Âu-Úc, Canada và các tiểu bang xa xôi, thuộc các đảng phái chính trị, chính quyền, các quân binh chủng VNCH. Hiện diện trong suốt thời gian tang chế, có 10 cựu Tướng Lãnh QLVNCH như Ngô Quang Trưởng, Phạm Quốc Thuần, Lê Minh Đảo, Đào Duy Ân (KQ), Phan Hòa Hiệp, Lâm Ngươn Tánh (HQ), Trần Bá Di, Văn Thành Cao và Mạch Văn Trường. Ngoài ra Ông còn được vinh hạnh, khi được đồng đội, đồng bào phủ lá quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ, của Quốc Dân VN trên quan tài, cũng như đã được Đức Hồng Y, Tổng Giáo Phận Boston, đến thăm viếng và ban phép lành, trước khi xác thân được hỏa táng.
Qua lời kể của Băng Đình, cựu Trưởng phái đoàn Báo Chí Phủ Tổng Thống, trên tạp chí Thế Giới Ngày Nay số 168 và Thiếu Tá Châu Bích, từng phục vụ nhiều năm tại Dinh Độc Lập, hiện sống tại Hạ Uy Di. Cả hai đều có nhiều cơ hội gần gũi với vị nguyên thủ quốc gia, khi công tác, thì TT Thiệu là người có tính tình rất bình dân mộc mạc, ăn nói huỵch toẹt theo nếp sống của người miền biển Phan Rang-Phan Thiết, không cần màu mè, mà chỉ muốn nói sao cho mọi người mọi giới, thông cảm là đủ rồi. Nhưng ngược lại khi muốn phổ biến văn bản tới quốc dân, cũng như người ngoại quốc , ông lại tỉ mỉ cẩn thận từ nội dung tới hình thức. Ông rất coi trọng thể diện quốc gia và cá nhân, nhất là không bao giờ sử dụng ngoại ngữ dù ông rất giỏi, chứ không phải như những tin đồn ác ý, nói vì sợ ám sát nên ông rất sợ và lệ thuộc người Mỹ trong mọi phương diện.
Thật sự hoàn toàn trái ngược, căn cứ theo những nguồn tư liệu ghi lại, thái độ của TT Thiệu đối với TT Nixon, trong các cuộc Họp Thượng Đỉnh tại Honolulu và Midway..Nhưng quyết liệt nhất là đối với Kissinger tại Dinh Độc Lập, khi đương sự tới Sài Gòn vào những ngày cuối năm 1972, để bắt buộc VNCH ký vào bản hiệp ước ngưng bắn.
Tóm lại, Tổng Thống Thiệu là một trong những nhà lãnh đạo VNCH, có lập trường kiên quyết chống cọng sảnxăm lăng miền Bắc. Hành động này chẳng những được thể hiện từ lúc còn có thực quyền, mà vẫn tiếp tục trong bước đường lưu vong khắp nẻo đường viễn xứ.
Sau khi Liên Sô và khối cộng sản quốc tế tan rã gần hết, khiến cho tình hình thế giới rối loạn khắp nơi. Khác với quan niệm xưa trong giới truyền thông Tây Phương và VNCH, chỉ cần ngồi một chỗ, hay tới các thư viện ngoại quốc, đọc sử liệu, rồi từ đó mao tôn cương ngòi bút, theo sự thương ghét mà khen chê trên báo-sách. Ngày nay những người làm truyền thông phương tây, không cần là nam giới mà ngay cả những nữ phóng viên chiến trường, cũng đã từng trải qua những giây phút hiểm nguy nồi đầu súng, chẳng khác gì người lính trận tại các điểm nóng Kosovo, Grozny, Islamabad, Peshawar, Kabul, Kunduz, Iraq..Nhửng nữ phóng viên chến trường Christiane Amanpour (CNN), Jacky Rowland (BBC), Maggie O’Kane (Ireland), Marie Colvin (Hoa Kỳ)..đã trở thành thần tượng của các nhà báo, vì phong cách nói thật, khác hẳn với những đồng nghiệp thuở trước.
Như các phóng viên chiến trường ngày nay, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu ngày xưa, luôn chứng tỏ là một tướng lãnh gan lỳ , biết chia xẻ với đồng đội nhũng hiểm nguy nơi chiến trường. Bởi vậy ông luôn có mặt ngay trong những miền lửa khói, đẫm máu và tàn bạo nhất trong quân sử VN và thế giới, giữa lúc vừa tạm ngưng tiếng súng , bom đạn, pháo kích như hồi Tết Mậu Thân (1968), Mùa hè đỏ lửa 1972 tại Tri-Thiên, Bình Định, Kon Tum, An Lộc..và nhiều địa danh hiểm ác nhất, khắp 4 vùng Chiến Thuật, tại miền Nam VN, trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975). Cảm động nhất đối với tâm tư của những người lính trận, trẻ tuổi xa nhà, là gần như tất cả các dịp xuân về, ông đều tới các tiền đồn nguy hiểm, xa xôi hẻo lánh hay các đơn vị Nghĩa Quân, để cùng ăn Tết với họ, giữa bom đạn thay tiếng pháo mừng Xuân. Thử đếm trên đầu ngón tay, suốt cuộc chiến, đã có bao nhiêu vị Tướng lãnh miền Nam, dám đem cái sinh mạng kim cương vàng ròng, để giỡn mặt với tử thần như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu?
Đặc biệt, trong cuốn video ghi lại cuộc họp mặt của Tổng Thống Thiệu và đồng hương người Việt tị nạn tại Colorado năm 1993, vào dịp ra mắt ” Ủy Ban hậu tái thiết cho một VN dân chủ “. Trong dịp này, cựu TT Thiệu đã tuyên bố trước cử tọa, là mình đã không còn xứng đáng để tiếp tục giữ bất cứ một chức vụ lãnh đạo nào, nếu có trong tương lai. Hơn nửa trong cộng đồng Tị Nạn VN hải ngoại, hiện có rất nhiều người tài đức và xứng đáng hơn ông nhiều,đã và đang dấn thân lèo lái con thuyền quốc gia, trong dòng sông lịch sử. Cuối cùng, ông thành thật gửi lời tạ tội và xin lỗi quốc dân, vì đã thất hứa bỏ nước ra đi trước ngày 30-4-1975, cũng như vì hoàn cảnh bắt buộc, đã phải cắn răng ban hành những mệnh lệnh quái ác trong năm 1975, làm cho hằng triệu đồng bào và đồng đội phải chết thảm thiết, oan khiên, đưa đất nước sớm lọt vào vòng nô lệ của cộng sản Đệ Tam Quốc Tế.
Chính những điều kể trên, khiến cho những người lính già VNCH, từng chiến đấu ngoài mặt trận lúc đó, nay may mắn được sống sót, sau khi đã nếm đủ đắng cay nhục hận, nơi mười hai tầng địa ngục trong cõi thiên đàng xã nghĩa VN..càng thấy gần gũi hơn với vị lãnh đạo của mình, ít ra trong việc ông đã cùng đồng chung chịu khổ với người lính trận tại chốn sa trường.
Ngày nay qua núi sử liệu mọi phía được công khai mở rộng và quan trong nhất là mới đây, những nhân vật từng có liên hệ tới cuộc chiến VN, trong cũng như ngoài nước, bạn hay thù, như TT Nixon, Ngoại trưởng Kissinger, Hoàng Đức Nhã, Nguyễn Tiến Hưng, Nguyễn Phú Đức, Lâm Lễ Trinh, Bùi Tín, Võ văn Kiệt, Lý Quý Chung..giúp ta thẩm định lại, một cách công bằng và can đảm, khi xuống bút ghi lại những lầm lỗi to lớn của ông, vào những giờ phút nguy ngập của đất nước, như bất nhất ra lệnh bỏ Cao Nguyên, Huế, Đà Nẳng, triệt thoái QĐI, QĐII..làm tan vỡ nửa lực lượng quân đội và mất vào tay giặc hơn 3/4 lãnh thổ. Tệ nhất là ông cũng giống như Đại tướng Dương Văn Minh, không dám ở lại cùng lính và dân, khi ‘ thành mất thì chủ tướng phải chết theo thành’, để muôn đời sống trong thanh sử như các vi nam nữ anh hùng dân tộc Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Lê Lai, Võ Tánh, Ngô Tùng Chu, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Khoa Nam, Phạm văn Phú, Lê văn Hưng, Trần văn Hai, Lê Nguyên Vỷ, Hồ Ngọc Cẩn..như lời hứa hẹn trong buổi lễ bàn giao chức vụ Tổng Thống VNCH cho Phó TT. Trần văn Hương.
Nhưng dù tài liệu có hé mở cách nào chăng nửa, việc bắt từ chức và bỏ nước ra đi của TT Thiệu, cho tới nay còn khuya các sử gia biết hết sự thật, ngoại trừ các chóp bu Mỹ trong Tòa Bạch Ốc, ông Thiệu, Cụ Hương, ông Dương văn Minh, mới có đủ tư cách và thẩm quyền trả lời. Tiếc thay người Mỹ có bao giờ thành thật để ai tin? Còn tất cả các vị trên nay đã trở thành người thiên cổ, không nói được và cũng không lưu lại cho hậu thế một lời nào. Riêng Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, thì vẫn như thuở nào, im lặng mặc cho miệng đời dị nghị. Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên có nói và viết nhiều, nhưng cũng chỉ là cái tôi muôn đời nay ai cũng biết. Tóm lại theo Nguyễn Văn Ngân, nguyên Phụ tá Chính trị lâu năm tại Phủ Tổng Thống, một cộng sự thân tín, đã bị chính ông Thiệu bắt giam, vì nghi kỵ phản bội, đả phát biểu rằng “Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong mười năm tại Dinh Độc Lập, đâu có khác gì ngồi trên bàn chông núi đao, vì luôn luôn phải đối phó với thù trong giặc ngoài và chính cả những người thân tín quanh mình, mà một số không ít, nếu chẳng là điệp viên của đệ Tam cộng sản Hà Nội nằm vùng, thì cũng làm việc cho CIA Mỹ hay bọn gian thương bất lương Ba Tàu Chợ Lón. Tất cả đã cùng hiệp đảng với đồng đô la viện trợ, góp phần lớn làm sụp đổ VNCH”.
Về trách nhiệm đối với cuộc binh biến ngày 1-11-1963, cũng theo các nguồn sử liệu hiện có, thì lúc đó ông Thiệu, tuy là Đại Tá Tư lệnh SĐ5BB nhưng đối với hàng Tướng lãnh quyền cao chức lớn, tại Bộ TTM cũng như Bộ TL/QD3, thì ông cũng chỉ là một thuộc cấp phải thi hành lệnh theo trên, đúng kỷ luật quân đội. Hơn nửa, ông chỉ ra lệnh tấn công Dinh Gia Long, khi biết chắc TT Diệm không còn trong Phủ Tổng Thống. Bởi vậy sau này, ông thường tỏ thái độ ân hận, vì mình có quân trong tay nhưng lại bất lực không cứu nổi Tổng Thống trong lúc nguy khốn. Cuối cùng người đã phải chết thảm trong lòng chiếc thiết vận xa M113 mang số 80989, bởi sát thủ của Dương văn Minh là Nguyễn văn Nhung. Do lòng kính trọng trên, nên suốt thời gian làm Tổng Thống VNCH, ông Thiệu và gia đình luôn luôn tham dự các thánh lễ tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
2. Ba Năm Xáo Trộn (1964-1967)
Nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam (1955-10/1963), tuy đã phạm nhiều lầm lỗi nhưng vẫn là một thể chế hợp hiến và trên hết có tự do dân chủ, đã mang lại phần nào ấm no hạnh phúc cho đồng bào miền Nam, trong lúc đất nước đang bị tai họa chiến tranh. Bởi vậy nếu đem so sánh, thì miền Nam lúc đó còn hơn nhiều quốc gia đương thời. Trong chín năm dài (1955-1963), VNCH đã ngăn chận hữu hiệu cuộc xâm lăng trắng trợn của cộng sản đệ Tam Quốc tế, đem lại an ninh hầu như khắp lãnh thổ Nam VN, từ Bến Hải vào tới Cà Mâu, chấm dứt sự hỗn loạn, do hậu quả và tàn tích của 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ. Rồi cuộc binh biến dành ngai vàng ngày 1-11-1963, gần như làm đổ vở tất cả những gì mà đồng bào đã có. Thật sự không có gì cả như lời hứa hẹn của các lãnh tụ và giả sử nếu có, cũng chẳng qua là cái men say chiến thắng, cùng sự tự phong gắn lon lá cho nhau của những người trong cuô.c. Cái trơ trẽn của nhân tình, khiến Lý Chánh Trung phải hạ bút một cách cay độc, khi nói tới hai chữ cách mạng, đã khiến cho mọi người phải ngao ngán tủi lòng, khi nghĩ về những cuộc cách mạng trong cận sử, qua các năm 1945, 1963 và cuối cùng là cuối tháng 4-1975. Tất cả đều cùng mang chung cái bản chất dối trá, mị dân bằng lớp son hào nhoáng bên ngoài, chỉ nhằm ru ngủ và thỏa mãn một vài đòi hỏi nhất thời của đám đông. Tóm lại cuộc binh biến ngày 1-11-1963 đã mở đầu cho ba năm xáo trộn chính trị tại VNCH. Tất cả cũng chỉ vì tranh giành địa vị, lợi lộc và chiếc ngai vàng ba chân đang bỏ trống, nên phải chỉnh lý, đảo chính, xuống đường..cho tới khi hai tướng Thiệu và Kỳ lên nắm quyền, dù nội bộ có tạm yên nhưng cũng là lúc lửa sân si bốc cháy rực trời, suýt chút nữa để Nam VN lọt vào tay cọng sản quốc tế Hà Nội vào thời điểm đó.
Hỡi ơi chỉ có ba năm sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm nằm xuống trong lòng chiếc thiết vận xa của ta, do những viên đạn cũng của phe ta, thì miền Nam đã có tới 6 chính phủ liên tiếp cầm quyền, trị nước. Đó là Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Nguyễn Xuân Oánh, Phan Huy Quát và Nguyễn Cao Kỳ. Rồi thì biểu tình và thiên tai tại miền Trung. Tiếp theo là cuộc nổi loạn của 4 trại Lực Lượng Đặc Biệt Thượng tại Darlac. Nhưng trên hết vẫn là cái vô tình, vô luân, vô nghĩa của bọn giàu sang no cơm ấm cật, rửng mỡ nên cứ đứng núi này trông núi nọ, luôn luôn bốc lửa bỏ vào kho xăng hỗn loạn, đang ngùn ngụt cháy, làm cho VNCH gần như vô chính phủ, làm cho nền pháp trị có sẵn từ trước, đã bị đám loạn tướng, kiêu tăng và bọn thầy tu ích kỷ, toa rập phá vỡ toàn bộ. Chính cái bi thảm này, mới là nguyên nhân then chốt đưa tới sự sụp đổ của đất nước vào tay cộng sản
Theo sử liệu, trong 3 năm xáo trộn chính trị, thì thời kỳ Nguyễn Khánh tham chính, từ cuối tháng 1-1964, gây chỉnh lý để hạ bệ các tướng Big Minh, Đôn, Kim, Đính, Xuân.. cho tới khi bốc nắm đất Sài Gòn, bỏ quê hương tới Mỹ sống lưu vong, là chuỗi ngày hỗn mang nhất trong 20 năm tồn tại của VNCH.
Ngày 4-9-1967, liên danh quân đội của hai tướng Thiêu-Kỳ đắc cử Tổng Thống, mở đường cho sự ổn định của nền Đệ nhị Cộng Hòa miền Nam (1967-1975). Ngày nay dù ai có gọi bằng một danh xưng nào chăng nửa, thì thực tế đây là thời kỳ an ninh trật tự xã hội đã được vãn hồi khắp nước, tạm thời chấm dứt những xáo trộn trầm kha trên sân khấu chính trị. Nhờ vậy nên đã giúp cho QLVNCH an tâm và đoàn kết trở lại như xưa, tạo nên sức mạnh, ngăn chống được giặc Bắc xâm lăng. Cuộc chiến còn đang tiếp diễn, thì não nùng thay Dương Văn Minh lên thay ngựa, đã dùng quyền lực, bắt người lính buông súng rã ngũ, để đầu hàng cọng sản quốc tế vào trưa ngày 30-4-1975.
Tóm lại trên đường tiến vào Dinh Độc Lập năm 1967, Tổng Thống Thiệu đã phải còng trên lưng, cái gia tài Mẹ VN hấp hối và rỉ máu, do Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh phá sản, trong cảnh tan hoang của buổi chợ chiều thời Ngô triều. Nói về thời kỳ nhiễu nhương trên, Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch bù nhìn của cái mật trận ma, tay sai Hà Nội, sau khi xâm lăng cướp được miền Nam, đã phán “Chính nhờ những cơ hội trên trời rớt xuống như thế này, nên CSBV mới chuyển bại thành thắng và cướp được VNCH“. Bởi vậy khi nhắc tới thời kỳ ổn định của miền Nam, từ 1967-1975, ai cũng bảo đó là phép lạ.
3. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu – Cuộc Chiến Chống csBV từ 1967 – Tháng 4 /1975
Mổi lần nghỉ tới cảnh nhà tan người chết, nổi đói nghèo của đồng bào và niềm đau xót tủi nhục trước cảnh cọng sản VN công khai bán đất dâng biển, làm đầy tớ cho ngoại bang như hôm nay, khiến cả nước đều khinh ghét bọn việt gian, đội lớp trí thức và tôn giáo thời VNCH. Đây mới chính là những vết dao trí mạng đâm bồi thêm sau lưng người chiến sĩ Quốc Gia, giữa lúc họ đang hứng chịu bom đạn nơi sa trường. Trong hoàn cảnh hỗn mang đó, ông Nguyễn Văn Thiệu xuất hiện đúng lúc trên sân khấu chính trị Miền Nam, qua tầm vóc dù nay có bị thiên hạ ganh tị, bới móc chửi rủa chê bai. Nhưng lúc đó, thật sự ông vẫn hơn nhiều người đương thời và quan trong hơn hết, là lập trường chống công sản rất kiên quyết, không bao giờ khoan nhương. Những yếu tố trên rất phù hợp quan điểm và chính sách của Hoa Kỳ lúc đó, là muốn chiến thắng cọng sản đệ Tam Quốc Tế, đang xâm lăng thôn tính VN.Do trên, ông đã được sự ủng hộ thành thật ban đầu của Mỹ. Nhờ vậy Tổng thống Thiệu mới ổn định được thời cuộc và giữ vững được miền Nam, cho tới cuối tháng 4-1975.
Mới đây cựu Ngoại trưởng Mỹ là Kissinger, một nhân vật bị mang tiếng là đã toa rập với cố Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon, dùng Hiệp định ngưng bắn Paris năm 1975, để bán đứng Đồng Minh của mình là nước VNCH, cho cộng sản đệ Tam Quốc Tế. Ông đã viết trong tác phẩm “Diplomacy“, rằng Hoa Kỳ vì muốn cứu mình, nên bắt buộc đã phải phản bôi Miền Nam. Cũng vì vậy tới nay, nước Mỹ đã phải trả một giá thật đắt với nhân loại, qua cái gọi là ‘Hội Chứng Chiến Tranh VN‘, về tội bất nhân, bất nghĩa, bất tín và hành động kẻ cướp của bọn con buôn chính trị hoạt đầu. Tóm lại cũng nhờ kinh nghiệm Mỹ phản bội VNCH, Đài Loan nên nhiều nước Đồng Minh của Hoa Kỳ, đã phải xét lại tình bạn cũng như sự hợp tác với kẻ bội tín, đưa tới hậu quả ngày nay là chẳng một ai muốn hợp tác thật sự với một quốc gia không có tình nghĩa, mà chỉ biết tính toán trong cuộc chơi, sao cho cả hai cùng được lơ.i. Trung Cộng, Đài Loan, Iraq, Iran, Bắc Hàn..là những bằng chứng đồng thời cũng là một bài học dạy khôn người Mỹ, đừng tưởng ai cũng hiền và cứ thất hứa lật lọng như VNCH ngày trước. Đối với những nước này, kể cả VC ngày nay, trong canh bài bịp, người Mỹ chừng nào mới lên mặt ngồi chung một chiếu với chúng, nói chi tới chuyện gạt người?
Cũng trong tác phẩm trên, Kissinger có đề cập tới sự sai lầm trầm trọng của Hoa Kỳ, khi tìm đủ mọi cách vào tham chiến tại Nam VN nhưng chỉ chiếu đấu bằng lý thuyết tại bàn giấy mà hầu như chẳng bao giờ thèm để ý tới thực tế chiến trường, nên bắt quân đội phải đánh giặc theo chủ đích có sẳn trong đơn đặt hàng của bọn siêu quyền lực lái súng, phần lớn là bọn Mỹ trắng gốc Do Thái, thời nào cũng nắm vận mệnh của Hiệp Chủng Quốc bằng thế lực kim tiền. Tóm lại đây là chiến thuật đầu voi đuôi chuột, chỉ nhằm phơi bầy lớp hào nhoáng bên ngoài và trên hết là thái độ độc tôn của kẽ có tiền, có học, luôn muốn người khác, cứ phải nhắm mắt làm theo ý mình, nếu cải hay phản đối lại, sẽ bị trù dập, ám sát hay dùng sử để bội bác hãm hai. Tất cả sự thật, mới đây đã được Nguyễn Tiến Hưng bật mí đủ trong tác phẩm ‘Khi Đồng Minh tháo chạy‘, xác nhận hiện tượng ‘Đưa quân vào, rút lính ra, dựng lãnh đạo, giết Tổng Thống‘ của người Mỹ đã và đang làm, không riêng gì tại VN mà hầu như khắp mọi nơi trên thế giới.
Đây cũng là căn bệnh trầm kha của xã hội Mỹ, quen sống chủ quan trong cảnh thừa mứa tự do và vật chất, đến lúc sự lạc quan sụp đổ, thì chán nản tuyệt vọng, vội buông xuôi tất cả để tháo cha.y. Tệ nhất là muốn rửa mặt với mọi người, Hoa Kỳ lại dựng thêm lý do ‘MIỀN NAM KHÔNG ĐÁNG ĐƯỢC CỨU VỚT‘. Nhưng dù biện bạch thế nào chăng nửa, thì người ta cũng không thể không nhắc tới vấn đề nhân đạo, trong một cuộc chiến lâu dài, tiêu bao..với một kẻ thù cuồng sát như cọng sản Bắc Việt, coi mạng dân rẽ hơn lá rụng, con sâu cái kiến. Bởi vậy từ Hồ chí Minh, Lê Duẩn, Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng tới các chóp bu lãnh đạo Bắc Bộ Phủ ngày nay, đều giống nhau, chỉ biết lấy máu xương con người vô tội, làm phương tiện, để đạt cứu cánh sau cùng, bât chấp thủ đoạn, nhân tình..nên nói chi tới lòng ái quốc và sự thương dân. Bao nhiêu tội ác thiên cổ của đảng cọng sản suốt bảy mươi lăm năm qua, chỉ riêng hành động bắt trẻ vị thành niên cầm súng, dùng chế độ hộ khẩu công an khu vực, để kềm kep khủng bố người Việt miền Bắc, trong suốt thời gian chiến tranh. Vì coi mạng người Việt nhỏ hơn cây kim sợi tóc, nên lúc nào VC cũng áp dung binh pháp của Nga-Tàu dựa theo Clausewits, lấy thịt đè người, xiềng bộ đội trong tăng pháo hay cho lính uống thuốc kích thích trước khi xung trân. Chiếu đấu với một kẻ thù lì lợm, bất nhân, mất nhân tính như VC, làm sao Hoa Kỳ và VNCH không bại trận ?. Cho nên dù có tranh luận thế nào chăng nửa hay đổ tội cho ai, cuối cùng cũng phải đi tới kết luận, như cố bộ trưởng tư pháp Mỹ Robert. Kennedy từng nói ‘LỖI LẦM TẠI VN NHIỀU TỚI NỔI, BẤT CỨ AI CÓ LIÊN HỆ, CŨNG PHẢI ÍT NHIỀU PHẠM PHẢI‘.Nói về chiến tranh VN hay đúng hơn là cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975), các nhà sử học trong cũng như ngoài nước, hay lấy trận Ấp Bắc (Định Tường) đầu năm 1963, cuộc triệt thoái của Quân Đoàn II tại Cao Nguyên Trung Phần và QD I ở Huế, Đà Nẳng, vào những ngày đầu tháng 4-1975, làm những sự kiện lịch sử quan trọng nhất, để phê bình các cấp lãnh đạo đầu nảo của VNCH tại Dinh Độc Lâp cũng như ở các Quân Khu. Chính những trung tâm quyền lực này, đã lợi dụng chức vụ và kỷ luật quân đội, để ngăn cản, làm rối loạn cùng sự tiêu hao việc thống nhất chỉ huy tại chiến trường. Ngoài ra không có kế hoạch thích ứng, để giải quyết những khó khăn nguy ngâ.p. Tệ hơn hết là sự chia rẽ, bất hợp tác trong nội bộ, khiến không mấy ai thực lòng nghĩ tới đại sự của quốc gia dân tô.c. Cũng may, QLVNCH còn có rất nhiều sĩ quan các cấp tài giỏi, đạo đức, có tình yêu nước nồng nàn và những chiến sĩ can trường trong mọi quân binh chủng, kể cả những người lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Xây Dựng Nông Thôn, Cảnh Sát Dã Chiến..Chính nhờ họ, mà VNCH mới tồn tại được trong hai mươi năm khói lửa, nhờ họ nên nhiều người có cơ hội thăng tiến thành cấp Tướng, Tá, Khoa bảng, Trí thức, Văn nhân Nghệ sĩ..nay đang khoe mặt với đời ô trọc, biển dâu, tôn ti đảo lộn, nhiều lúc đối diện, không biết đâu mà mò, không nhận rõ được ai là thằng, là ông vì ai cũng tài giỏi và có chức phận hết. Sau rốt cũng nhờ họ, nên tránh được nhiều tổn thất về nhân mạng cho thường dân cũng như binh lính miền Nam. Đây chính là nhận xét của nhà quân sử nổi tiếng, S.R Thompson, rất nhiều lần không tiếc lời ca tụng, sự thiện chiến và lòng can đảm của người lính bất hạnh VNCH.
Từ tháng 2-1965, vì tình hình hổn loạn, nên Tổng Thống Mỹ là L.Johnson đã ra lệnh oanh tạc Bắc Việt, đồng thời gởi quân bộ chiến vào giúp Nam VN. Nhiều đồng minh của Mỹ lúc đó như Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Thái Lan, Đài Loan, Đại Hàn, củng tham dự cuộc chiến. Chính vì lý do này, mà trong suốt cuộc chiến và tới ngày nay, VC cũng như đám lục bình ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, đã không ngớt rêu rao tuyên truyền rằng VNCH rước voi dầy mã tổ, bán nước, giết dân Viêt. Nhưng rồi tất cả đã hiện nguyên hình sau ngày 1-5-1975, đã trở thành những chuyện khôi hài cười ra nước mắt, qua các vụ bán Hoàng Sa, Trường Sa, đất đao biên giới, biển, lãnh hải cho Trung cộng, cùng hằng ngàn câu chuyện bi thảm trào phúng của xã nghĩa, đủ xác nhận ai là kẻ bán nước hiện nay.
Riêng câu chuyện rước voi vào dầy mã tổ Hồng Lạc, cũng là câu chuyện lâm ly nức nở, hiện cũng được mọi phía đào xới phơi bầy ra ánh sáng. Theo tài liệu của C. Jian trong ‘China and VN War 1945-1975‘ và gần đây là ‘Đem giữa ban ngày‘ của Vũ Thư Hiên, vào ngày 16-5-1965, chính Hồ chí Minh lúc đó là chủ tịch nước VN Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng sản Bắc Việt), đã yêu cầu các nước trong khối cộng sản đệ tam quốc tế như Liên Xô, Trung Cộng, Đông Đức, Đông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba..gởi quân vào tiếp viện miền Bắc. Hưởng ứng lời kêu gọi trên, sốt sắng nhất là Mao Trạch Đông, đã đưa ngay Hồng Quân vào giúp Hồ cứu nước. Tính tới cuối năm 1968, Trung Công quân viện cho Hà Nội bảy Sư Đoàn Công Binh và 16 SD Pháo đủ loại, kể cả súng cao xạ phòng không. Quân Tàu đỏ đóng khắp nơi, từ biên giới Hoa-Lào-Việt vào tới tận vỹ tuyến 20 ở Thanh Hóa. Tháng 3-1969, do sự bất hòa giửa hai nước về vấn đề Lào-Kampuchia, nên Mao đã rút hết Hồng quân về nước. Ngoài ra trên đất Bắc còn có nhiều cố vấn Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan. Riêng Bắc Hàn và Cu Ba, trong suốt cuôc chiến, đã quân viện cho VC nhiều đơn vị tác chiến. Ngày nay tại Hà Nội vẫn còn nhiều mồ mã của các tử sĩ ngoại quốc, đã chết vì chiến tranh VN. Có điều vì Hồ và đảng che đậy quá kỷ, cho nên mặt thật của việc đánh Mỹ cứu nước, gần mấy chục năm sau mới được phơi bầy.Ngày 4/9/1967 Tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống, nhờ đó những xáo trộn chính trị mới dần hồi chấm dứt. Đây cũng là thời gian thành công của Chiến dịch Phượng Hoàng , nhằm loại trừ các thành phần csVN đang nằm vùng khắp nơi. Dịp này, chính quyền đã thành lập các cơ cấu hạ tầng, cũng như hệ thống thẩm định dân tình tại các xã ấp xôi đậu, vản hồi được an ninh trên hầu hết lãnh thổ của VNCH.
Sự thành công trên, đã được Tướng Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Quân lực Mỹ và Đồng Minh tại VN, nhận xét ‘ Năm 1967, QLVNCH đã tiến triển vượt bư.c. Nhờ vậy đã bảo vệ được lãnh thổ trong hoàn cảnh đất nước đang khó khăn, sau mấy năm biến loạn chính trị với thù trong giặc ngoài. Điều này ít có quân đội nào trên thế giới, có thể thực hiện tốt đẹp được như vậy ‘. Cũng nên nhớ rằng, trước khi xãy ra biến cố Tết Mậu Thân (1968), ngoại trừ binh chủng Dù, TQLC, LLDB cuả QLVNCH, được Mỹ trang bị một số vũ khí mớị Còn tất cả, kể luôn BDQ vẫn phải xử dụng, số lớn quân cụ vũ khí của Pháp để lai. Còn viện trợ Mỹ hầu hết được sản xuất từ hai kỳ thế chiến. Trong khi đó, CSBV được toàn khối cọng sản đệ tam quốc tế, viện trợ tối đa, từ tiền bạc, tinh thần tới quân trang dụng và nhiều nhất đều của Liên Xô, Trung Cộng, Đông Đức..Nhiều loại vũ khí hiện đại đã được bộ đội Bắc Việt, xử dụng trên khắp chiến trường Nam VN như các loại Tiểu Liên AK47 (LX), AK56 (TC), AK-MPiKM (Đông Đức), AKM63 (Hung), AKVZ-58 (Tiệp) + Súng Chống Chiến Xa RPG-2B (B40 của LX), B56 (Tiệp), B27 (Trung Cộng), RPG-7(B41 của LX), B69 (TC), các loại Chiến Xa T54, Thủy Xa PT76 và Đại Bác tầm xa 122 -130 ly (LX).Vì những thất bại quân sự liên tiếp, nên Bắc Việt đã phải thay đổi chiến thuật, chiến lươc. Về chính trị, Hà Nội xử dụng bọn nằm vùng trong hàng ngủ khoa bảng trí thức, giáo vận Miền Nam, để đánh phá không ngừng nghĩ chính quyền, qua chiêu bài đòi hỏi tự do, dân chủ..trên báo chí, sách vở, biểu tình, xuống đường. Về quân sự, thay đổi từ du kích sang địa chiến, dùng người làm phương tiện mở các cuộc tổng công kích, chỉ với mục đích gây tiếng vang khắp thế giới, để biện minh về sự xâm lăng Miền Nam. Tại Hoa Kỳ và Âu Châu, thế lực cộng sản đệ Tam Quốc Tế, dùng tiền bạc và tuyên truyền, trà trộn vào các phong trào phản chiến thân Cộng, mục đích hạ uy tín của VNCH trên diễn đàn quốc tế, nhất là tại nước Mỹ, đang có nhiều thanh niên tham gia quân đội chiếu đấu tại VN, bằng thủ thuật đánh lạc hướng dư luận thế giới về ý nghĩa của cuộc chiến chống xâm lăng cọng sản của người Việt Quốc Gia. Nhờ vậy VC đã chiến thắng cuối cùng, không phải tại mặt trận, mà ở New York, Hoa Thịnh Đốn, Paris, Luân Đôn.
Ngày 30-1-1968 nhằm mồng Một Tết Nguyên Đán Mậu Thân, giữa lúc đồng bào đang nô nức đón Xuân, trong thới gian hưu chiến. Nhưng VC đã bội ước, lợi dụng QLVNCH không đề phòng, bất thần xua 283,000 cán binh bộ đội miền Bắc, gây nên cuộc chiến long trời lở đất tại thủ đô Sài Gòn, 5 thành phố, 36 thị xã, 64 quận lỵ và 50 xã ấp. Cuộc tàn sát đẳm máu của cộng quân, đã làm cho hơn 40,000 thường dân vô tội bị thảm sát. Hằng trăm ngàn nhà cửa, trường học, cơ sở tôn giáo, bệnh viện và nhiều di tích lịch sử lâu đời của dân tộc, bị bom đạn tàn phá tiêu hủy tận tuyê.t. Nhưng man rợ và thê thảm nhất lại thành phố Huế, CSBV và bọn VC địa phương như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Lanh, Hoàng Kim Loan,..trước khi tháo chạy vào ngày 26-2-1968, đã sát hại hơn 4,000 đồng bào vô tôi. Trong số nạn nhân chết thảm, có nhiều vị giáo sư Tây Đức đang giảng dạy tại viện Đại Học Y Khoa Huế lúc đó như vợ chồng Bác si Hort Gunther Krainich, Bác si Raimund Discher và Bác si Alois Alterkoster..Thi thể các nạn nhân được vùi tại nhiều nấm mồ tập thể trong nội thành và ngoại ô Huế. Xác các nạn nhân sau đó được cải táng tại Nghĩa Trang Ba Tầng ở Hương Trà (Thừa Thiên). Sau ngày 30-4-1975, VC lại cho xe ủi đất san bằng toàn bộ nghĩa trang trên, để phi tang tội ác thiên cổ nhưng cho dù xác thân của nạn nhân đã biến thành tro bụi, vẫn còn bia miệng và sử liệu nhắc nhớ ngàn đời. Tóm lại trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, cọng sản Bắc Việt đã thất bại hoàn toàn về quân sự nhưng lại được hệ thống báo chí truyền thông Mỹ, đổi trắng thay đen, bẻ cong ngòi bút, khiến cho Quân Lực Hoa Kỳ, Đồng Minh và VNCH trở thành bại trân. Hậu quả làm cho người Mỹ bi quan cuộc chiến, gây nên cảnh chia rẽ khắp Hiệp Chủng Quốc, cộng thêm phong trào phản chiến đòi Mỹ rút quân, làm cho Tổng Thống L.Johnson không ra tái cử.
Tháng 11-1968, R.M Nixon đảng Cộng Hòa, đắc cử Tổng Thống và trước thành quả ổn định của VNCH, năm 1969 Hoa Kỳ tuyên bố rút quân và bắt đầu thi hành kế hoạch VN Hóa chiến tranh, bằng chương trình hiện đại hóa QLVNCH. Từ năm 1970-1971, Nam VN đã mở nhiều cuộc hành quân ngoại biên Toàn Thắng tại Kampuchia và Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, đã phá hủy nhiều mật khu và căn cứ của bộ đội Bắc Việt, trên đường mòn Hồ Chí Minh. Nhờ chiến tháng đạt được tại chiến trường, năm 1972 Nixon tái tranh cử Tổng Thống nhiệm kỳ 2, giữa lúc Hoa Kỳ và Liên Xô đang thương-thảo về hiệp ứớc giới hạn vũ khí chiến lược (Salt), cùng tài giảm binh bị. Lúc đó, cọng sản Bắc Việt đang bị áp lực từ Liên Xô và cũng đang muốn gây lại tiếng vang sau những thất bại quân sự liên tiếp, nên đã liều lĩnh điên cuồng mở các cuộc tổng tấn công vào mùa hè đỏ lửa tại Quảng Trị, KonTum,Bình Định và An Lôc. Kết quả đã có hơn 100.000 cán binh bỏ mạng tại các chiến trường. Hoa Kỳ cũng phản ứng mạnh bằng cuộc dội bom vô tiền khoáng hậu miền Bắc, đồng thời dùng thủy lôi phong tỏa hải cảng Hải Phòng, khiến CSBV chịu nghiêm chỉnh hơn, dù chỉ đóng kịch trong bàn hội nghị.
Rồi hiệp ứơc ngưng bắn được Mỹ và Bắc Việt ký kết vào ngày 27-1-1973 tại Ba Lê, mở đường cho sự sụp đổ của VNCH vào ngày 30-4-1975. Viết về sự bi thảm trên, S.R.Thompson nhận xét rằng ‘ Khi ký hiệp định Ba Lê năm 1973, Nixon và Kissinger đã bỏ lở cuộc chiến thắng gần kề của QLVNCH, bằng tự ý ngưng oanh tạc miền bắc, cũng như ngăn cản Miền Nam tái chiếm lại cac vùng đất đã bị VC cưởng chiếm trong mùa hè đỏ lửa 1972’. Đây mới là yếu tố then chốt, để VC khinh thường Mỹ, nên đã đùa cợt, chơi chử và ngay cả con cáo già Kissinger cũng bị Lê Đức Thọ lừa vào bẩy rập như người lớn dùng kẹo ngọt dụ trẻ nít thơ ngây, không hề biết suy nghĩ. Còn Tổng Thống Nixon thì thú nhận rằng ‘Vì áp lực của Quốc Hội Mỹ lúc đó, đa số là đảng dân cư phản chiến, nên ông phải dùng viện trợ chống cộng, bắt ép Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, ký vào bản hiệp ước một cách bất công vô nhân đạo‘. Nhưng ý nghĩa hơn hết, vẫn là lời kết luân của Đô Đốc U.S.G Sharp, nguyên Tư lệnh Lực Lượng Mỹ tại Thái Bình Dương ‘Hiệp định Ba Lê mà Hoa Kỳ đã ký kết với CSBV, không phải là một công thức hòa bình, vì kẻ xâm lược là VC, vẫn ở lại Miền Nam VN để tiếp tục gây chiến tranh một cách công khai, mà không còn sợ Mỹ can thiệp như quá khứ ‘. Nhưng tệ hại nhất là Điều 4 của Bản Hiệp Ước, thì VNCH phải bị xóa bỏ, để Miền Nam lập lên một chế độ chính trị mới, có ba thành phần Quốc Gia, Cộng Sản và Lực Lượng thứ Ba Hòa Hợp Hòa Giải Dân tộc.
Theo hầu hết các sử gia trong và ngoài nước, thỉ điều 4 trên, mới chính là giọt nước mắt nhược tiểu VN, vì bản hiệp định chưa ký kết chính thức, thì bản dự thảo đã được cán binh bộ đội Bắc Việt, học tập chiến dịch giành dân, lấn đất. Tàn nhẩn hơn hết, là QLVNCH đang trong tư thế của người chiến thắng, thì lại bó tay nhận chịu thân phận kẻ bại trận, theo những áp đặt có lợi, để Mỹ chuẩn bị tháo chạy trong danh dự.
Rồi sau đó, biết chắc Mỹ sẽ không bao giờ còn can thiệp vào cuộc chiến VN, nên Bắc Việt công khai đổ quân vào Nam bằng đường mòn HCM. Hòa bình đâu chẳng thấy mà cuộc xâm lăng của Bắc Việt càng lúc càng ác liệt tại Cửa Việt, Sa Huỳnh, Hồng Ngự, Trung Nghĩa, Tống Lê Chân..Và cũng để sớm dứt điểm VNCH, quốc hội Mỹ lúc đó do đảng dân chủ cầm lèo, với đa số thuộc thành phần thân cộng phản chiến, đã liên tiếp ban hành hai đạo luật, ngăn cấm chính phủ không được xử dụng ngân khoản để hoạt động quân sự tại Đông Dương ( tháng 8-1973) và đạo luật War Powers Act (tháng 10-1973), bắt buộc Tổng Thống Mỹ muốn tham chiến phải có sự phê chuẩn của quốc hô.i. Nhờ hai đạo luật trên, nên cũng từ đó cọng sản Miền Bắc công khai xâm lăng Miền Nam, xé bỏ hiêp định Ba Lê vừa được ký kết . Vậy mà Kissinger và Lê Đức Thọ lại được Ủy ban giải Nobel Hòa Bình tại Na Uy tuyên xưng một cách trào phúng.
Trong lúc VNCH khốn đốn trước sự xâm lăng của giặc Bắc, thì Trung Cộng qua đồng thuận của VC và Hoa Kỳ, tấn công cưởng chiếm hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của dân tộc VN từ lâu đời.
Theo Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng/QLVNCH, thì Tổng thống Thiệu đã vô cùng nan giải trong giai đoạn này, vì nếu kiên quyết thi hành theo chủ trương ‘Bốn Không‘ thì Mỷ sẻ cúp ngay viện trợ, khiến cho Nam VN sẽ không còn phương tiện, để tiếp tục công cuộc chiến đấu chống xâm lăng và bảo vệ diện đia. Còn rút bỏ căn cứ, đã coi như tự cắt đất dâng cho giăc. Đây cũng chính là nguyên nhân, gần như bắt buộc Tổng thống Thiệu, quyết định bỏ Cao Nguyên và Quân Khu I, để rút về bảo vệ các tỉnh Duyên Hải còn lại, trong những ngày đầu tháng 4-1975.
Tháng 5-1974, Thượng Viện Mỹ lại biểu quyết không tăng Ngân sách Quân viện cho VNCH, khiến cho hầu hết các đơn vị của Miền Nam, không đủ hỏa lực để chiến đấu. Trong lúc Quân Nhu, Quân Cụ, xe cộ, chiến xa, phi cơ, đại bác ..đều thiếu các cơ phận thay thế. Nhưng dù gặp phải trăm điều khó khăn chồng chất, kể cả sự đói rách thê thảm của binh sĩ, do ảnh hưởng của xã hôi. Tuy vậy QLVNCH vẫn can trường chiến đấu cho tới giờ thứ 25, bị Dương Văn Minh dùng quyền Tổng Tư Lệnh Quân đội, bắt buộc buông súng rã ngủ.
Ngày 9-8-1974, Tổng thống Nixon từ chức vì vụ Watergate. Đây chính là thời cơ vàng ròng, để Bắc Việt quyết tâm xâm lăng VNCH, mà mở đầu là trận Thường Đức (Quảng Nam), kế tiếp là Phước Long vào ngày 6-1-1975.
Trong khi đó, tai Hoa kỳ từ Tổng thống Ford tới quốc hội và Bộ quốc phòng, nơi nào cũng dửng dưng không nghe không thấy. Tàn nhẩn hơn, Mỹ lại cắt xén gần hết ngân khoản viện trợ, từ 1 tỷ 126 triệu đô xuống 700 triê.u. Trước sự kiện bi thảm nảo nùng trên, S.R.Thompson đã viết ‘Trong suốt cuộc chiến, miền Nam đã đóng góp phần mình bằng phong độ phi thường. một điều mà ai cũng nghĩ là họ khó có thể làm được’.
Tháng 3-1975, Ban Mê Thuột thất thủ. Để có đủ lực lượng bảo vệ phần đất còn lại trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, nên Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh rút bỏ Cao Nguyên và QD1. Hai cuộc lui quân đều thất bại, kéo theo sự tan rã gần nửa lực lượng quân đội và ba phần tư lãnh thổ đất nước. Ngày 19-4-1975 Phan Thiết thất thủ. Tại Xuân Lộc (Long Khánh), từ 8-4-1975 tới ngày 15-4-1975, Sư đoàn 18BB cùng các Đơn vị tăng phái gồm Lử Đoàn 1 Nhảy Dù, TD82BDQ, Tiểu Khu Long Khánh..đã dạy cho quân xâm lăng Bắc Việt, bài học để đời với hơn 20.000 cán binh bỏ mạng tại chổ, trả thù cho đồng bào vô tội, đã bị cọng sản tập kích trên đường lánh nan. Ngày 21-4-1975, Tổng Thống Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương thay thế, cuối cùng giao quyền cho Dương Văn Minh vào ngày 28-4-1975, để đầu hàng giặc vào trưa ngày 30-4-1975.Viết về cuộc chiến VN, Thủ Tướng sau cùng của VNCH là Nguyễn Bá Cẩn, đã có nhận xét rất xác thực, khi diễn tả thái độ hờ hửng của đồng bào Miền Nam qua chiến cuô.c. Đây không phải là vì VNCH chỉ kiểm soát được 30 % dân số và phần còn lại chỉ là đám lục bình trôi nổi, như nhận xét của một sử gia nào đó. Thật sự miền Nam hoàn toàn khác biệt với chế độ độc tài khũng bố của Miền Bắc Ngoài ra tại Miền Nam, từ Quốc trưởng Bảo Đại, tới các Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu, Trần Văn Hương, quá tự do và nhân đao. Còn đồng bào phần lớn chưa hiểu rỏ mặt thật của cộng sản, nên đã bị giặc tuyên truyền đầu độc, chạy theo VC. Đã vậy dân chúng thường thờ ơ lãnh đạm với thời cuộc, hầu như giao phó hết mọi sự cho chính quyền, quân đội, ai chết mặc bây. Dân đã vậy, đất nước thêm bất hạnh vì đã không có một vị lãnh đạo, đủ khả năng đạo đức, để đối phó với hoàn cảnh, nhìn rõ chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ, để phối trí kịp thời lực lượng bảo vệ lãnh thổ, trong lúc khẩn cấp.
Thêm vào đó còn có các chính khách sa lông, nhiều nhà báo thân cộng nằm vùng, luôn thừa nước đục thả câu, tìm cách phá rối xách động mọi người chống lại chính quyền, giúp giặc cưởng chiếm đất nước. Tới khi cọng sản chiếm được Sài Gòn, sau ngày 1-5-1975, thành phần trí thức xôi thịt này, cũng đã bị VC đào thải không thương tiếc.
Lịch sử VN suốt mấy ngàn năm, trang nào cũng đẳm đầy máu lệ, chứ không phải chỉ riêng giai đoạn đau thương mất nước, dưới thời các vị Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương. Ba mươi năm qua (1975-2005), người dân cả nước sống trong hàng rào kẻm gai, lưởi lê và họng súng, của kiếp nô lệ mới, chắc đã thấm thía ngậm ngùi, khi đối mặt với những chóp bu già nua siêu phong kiến, tại Bắc Bộ Phủ. Đây mói chính là hình ảnh của hai cuộc đời, về những ác chúa từng miền, những xác ướp bạo quyền. Có nhận rõ sự thật của lịch sử, chúng ta mới không thấy cay mắt khi khai quật và trên hết là đủ can đảm lấp kín cái tội hèn của chính mình, khi công khai nói lên những điều muốn nói. (Mường Giang – Xóm Cồn, Tháng 6-2005)
Khoảng tháng 1 năm 1972, John Paul Vann nói, “Thực tế không thể chối cãi là đại đa số dân chúng … khoảng 95 phần trăm – thích chính quyền Việt Nam (Cộng Hòa) hơn là một chính quyền Cộng Sản hay là chính quyền trao cho phía bên kia”. Thật đáng buồn, ngày nay nhiều người miền Nam Việt Nam đang chỉ trích theo quan điểm của họ về Tổng Thống Thiệu.
Một Cái Nhìn Khác Về Ông Nguyễn Văn Thiệu: Tổng Thông Nguyễn Văn Thiệu không phải là bù nhìn của Mỹ (1)
Tác giả – LEWIS SORLEY
Toàn Nhưchuyển ngữ
LỜI GIỚI THIỆU:Nhân dịp Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH vùng thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, Hoa Kỳ, vừa tổ chức Lễ Giỗ lần thứ 7 cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 28-9-2008 vừa qua, chúng tôi xin giới thiệu đến quý bạn một bài báo của tác giả Lewis Sorley đã có một cái nhìn khác về ông Nguyễn Văn Thiệu. Tác giả là một cựu Đại Tá trong quân đội Hoa Kỳ đã hồi hưu, từng phục vụ tại Việt Nam trong thập niên 1960. Bài báo đăng trên tạp chí VIETNAM Magazine, tạp chí của các cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam, ấn bản tháng Tư 2004. (TN)
Ðọc những báo chí Mỹ trong thời kỳ Chiến Tranh Việt Nam, người ta có thể nghĩ rằng vị cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa từ 1965 đến 1973 (2) là một kẻ bất tài, làm theo sự sai khiến của Hoa Kỳ. Nguyên nhân là vì cái tinh thần phản chiến mạnh mẽ trong thời gian đó và cái khuynh hướng nghi ngờ việc chọn lựa các vị tổng thống đang phải đương đầu với một cuộc chiến bất bình thường. Cho nên, Thiệu không là gì khác hơn là một gã bù nhìn.
Trong những giai đoạn đẫm máu nhất của cuộc chiến, ông (Thiệu) đã chủ trì những diễn biến chính trị phức tạp và sôi nổi và mỗi chuyển động của ông đều được ghi lại trên trang nhất của báo chí Hoa Kỳ mô tả chiến tranh trong đầy rẫy khổ ải. Mặc dù vậy, trong khi chiến đấu chống lại một sự xâm lấn từ bên ngoài và một sự nổi dậy từ bên trong đang được ủng hộ và yểm trợ bởi Trung Quốc và Liên Sô, ông đã thực hiện được các chính quyền dân cử từ cấp quốc gia cho tới các xã ấp. Ông đã mở rộng và – với sự yểm trợ cố vấn và trang bị của Hoa Kỳ – chấn chỉnh quân lực để đảm nhận cái gánh nặng từ việc rút lui của quân lực Hoa Kỳ. Thiệu đã đích thân chỉ huy một chương trình bình định để phá vỡ sự xâm nhập (của VC) đang diễn ra tại nông thôn qua cưỡng ép và khủng bố, bằng cách ban hành một chương trình cải cách ruộng đất cấp cho 400,000 nông dân chủ quyền khoảng 2.5 triệu mẫu ruộng. Ngoài ra, ông còn tổ chức cho 4 triệu dân vào Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ, một lực lượng bán quân sự với 600,000 vũ khí.
Thiệu sinh ra ở Ninh Thuận và đi học tại những trường Thiên Chúa Giáo tại Huế. Ngay sau Thế Chiến II, ông đã có thời gian ngắn theo Việt Minh, nhưng đã sớm từ bỏ vì những khuynh hướng thiên về cộng sản của nó. Thiệu sau đó theo học trường Võ Bị Quốc Gia ở Huế rồi chiến đấu cho Pháp chống lại Việt Minh. Sau khi người Pháp ra đi và Việt Nam bị chia đôi, Thiệu đã tiến rất nhanh trong QLVNCH và trở thành một sĩ quan cấp tướng năm 1962 (3). Năm 1963, ông là một trong những người lãnh đạo cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Năm 1967, Thiệu được bầu làm Tổng Thống theo một bản hiến pháp mới.
Ðại Sứ Ellsworth Bunker biết rất rõ về Thiệu. Bunker nhận xét, “Ông ta giải quyết vấn đề một cách khôn khéo và thông minh. Ông ta là một cá nhân có khả năng hiểu biết rất sâu sắc. Ông ta quyết định ngay từ đầu tuân thủ theo hiến pháp, chứ không cai trị theo kiểu các ông tướng mà nhiều người trong số đó mong muốn ông thực hiện”.
Thiệu bị áp lực phải thay thế những kẻ tham nhũng và kém khả năng đang ở trong những vị trí cao, và chỉ giữ lại một số trung thành, nếu không thể loại trừ tất cả. Thời gian đầu trong nhiệm kỳ tổng thống ông đã giải thích lý do với một sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ rằng: “Việc thanh lọc toàn bộ số sĩ quan Miền Nam không thể nào đơn giản, bất cứ sự thay đổi chỉ huy chính yếu nào cũng phải được nghiên cứu phối hợp một cách cẩn thận. Quân đội không thể để cho chính trị loại bỏ trong một đêm. Quân đội đã và đang là người hỗ trợ về chính trị chủ yếu và là lực lượng duy nhất nối kết quốc gia.”
Bunker và vị Tư Lệnh Hoa Kỳ, Tướng Creighton Abrams, hiểu rõ chuyện này và cả hai đều kiên nhẫn và thông cảm, nhưng họ cũng đưa ra những đề nghị nhắm vào một số sĩ quan cao cấp không thích hợp. Vì vậy thỉnh thoảng đã có những sự thay đổi trong việc chỉ huy ở miền Nam Việt Nam. Nhưng chưa bao giờ có thể có một sự trong sạch hóa toàn diện. Không chỉ vì e sợ những xáo trộn về chính trị, mà còn vì một số những sự thay đổi thiết yếu vẫn chưa sẵn sàng.
So sánh với sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong cùng thời gian người ta có thể có những kết qủa thú vị. Chẳng hạn như Nguyễn Văn Thiệu khi tranh luận có thể được coi là một người lương thiện và đứng đắn hơn cả Lyndon Johnson và – tuy khác biệt trong một một số trường hợp – hoàn toàn như là một vị Tổng Thống có ảnh hưởng hơn của quốc gia ông. Vào lúc đó, người ta cũng cho rằng Thiệu có nhiều tự do quyết định cho xứ sở ông hơn cả LBJ (4) đối với nước Mỹ.
Những viên chức hàng đầu của Mỹ đều nhìn nhận tầm quan trọng của Thiệu, đặc biệt trong việc bình định. Abrams nhận xét, “Ông ấy biết về bình định hơn bất kỳ người Việt Nam nào.” William Colby (5) nói, Thiệu là “viên chức bình định số một.”
Tại Vũng Tàu, 1,400 trưởng ấp, đại diện cho khoảng ba phần tư các trưởng ấp ở Miền Nam Việt Nam, đã tham dự một khóa huấn luyện trong năm 1969. Thiệu đã đến thăm từng người trong các lớp học này, khuyến khích các trưởng ấp trở về nhà hãy nói rằng “Tổng thống Thiệu đã nói với tôi rằng …” Cuối năm 1969, tình hình đã tiến triển khả quan đến nỗi John Paul Vann (6), người đã đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác bình định, đã nói với cử tọa ở Princeton rằng, “Hoa Kỳ đã thắng cuộc chiến tranh quân sự và đang thắng một cuộc chiến tranh chính trị xuyên qua Thiệu.”
Mặc dù Cộng sản không ngừng tiên đoán về một “cuộc tổng nổi dậy” ở Miền Nam Việt Nam, nhưng trên thực tế đã không hề có một cuộc tổng nổi dậy nào như thế. Ðối với bất kỳ một nhà quan sát cụ thể nào, dường như chẳng ai ngạc nhiên về những thành tích của cộng sản qua những vụ ám sát, bắt cóc, đánh bom khủng bố, cưỡng bách và pháo kích bừa bãi vào những khu dân cư ở miền Nam Việt Nam. Ðó là những hành động khó mà chinh phục được trái tim và khối óc của các nạn nhân.
Vào tháng 4 năm 1968, Tổng Thống Thiệu đã chống lại lời khuyên của tất cả các vị cố vấn để tổ chức Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ. Ông biện luận, “chính phủ phải dựa vào sự ủng hộ của dân chúng, và nó cũng chẳng có gía trị gì nếu chúng ta không dám trang bị vũ khí cho họ.”
Sau cùng khoảng 4 triệu người, những người qúa gìa hoặc qúa trẻ cho quân vụ chính quy, được ghi danh vào Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ. Qua sự thiết lập này, chính quyền Thiệu đã có sự ủng hộ của chính dân chúng, qua Lực Lượng Tự Vệ với những vũ khí mà nó có không phải để chống lại chính quyền mà là để chiến đấu chống lại sự thống trị của Cộng Sản. Tháng Mười năm 1971, trong một cuộc chiến đấu cam go, Tổng Thống Thiệu đã được tái cử trong một cuộc bầu cử độc diễn. Nhiều người chỉ trích ông về việc này, và đề nghị không công nhận cuộc thắng cử của ông. Nhưng trong cuộc bầu cử đó, mặc dù kẻ thù kêu gọi tẩy chay và cử tri là mục tiêu bị đe dọa, nhưng kết qủa 87.7 % cử tri đi bầu và 91.5 % bầu cho Thiệu đã là một sự ngạc nhiên.
Ðó là con số cử tri đi bầu lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Nếu nó chẳng ra gì (vì không có đối thủ), hay nếu công chúng không chấp thuận sự lãnh đạo của Thiệu, tại sao họ lại đi bầu đông như thế, với những rủi ro cá nhân có thể hay thực sự xảy ra, nếu không phải để biểu lộ sự ủng hộ việc tái cử của Thiệu? Câu trả lời rõ ràng là đại đa số đồng bào đánh gía cao các việc làm của Thiệu và mong mỏi ông tiếp tục ở lại nhiệm vụ.
Khoảng tháng Giêng năm 1972, John Paul Vann nói, “Thực tế không thể chối cãi là đại đa số dân chúng … khoảng 95 phần trăm – thích chính quyền Việt Nam (Cộng Hòa) hơn là một chính quyền Cộng Sản hay là chính quyền trao cho phía bên kia.”
Thật đáng buồn, ngày nay nhiều người miền Nam Việt Nam đang chỉ trích theo quan điểm của họ về Tổng Thống Thiệu. Tôi đã nói chuyện về vấn đề này với nhiều người bạn Việt Nam đang sống ở Mỹ. Gần đây, một người đặc biệt, có học thức và thông thái, đã làm tôi ngạc nhiên khi nói rằng người Việt đã cho rằng Tổng Thống Thiệu đã lừa dối họ. Tôi đã hỏi lại ông ấy là lừa dối như thế nào. Người bạn đó đã trả lời: “Ông ấy biết người Mỹ sẽ bỏ chúng tôi, nhưng đã không nói cho chúng tôi biết.”
Tôi cho rằng đó là một quyết đoán qúa khe khắt và còn cần tranh luận. Ðại Sứ Bunker còn nhớ đã trao riêng cho Tổng Thống Thiệu ba lá thư của Tổng Thống Nixon mà trong đó “ông đã cam kết” sẽ trợ giúp miền Nam Việt Nam “trong bất kỳ sự vi phạm hiệp ước bởi phía bên kia.” Nhưng, Bunker nhận xét, “Quốc Hội … đã làm cho nó bất khả thi.”
Kết quả ra sao? Bunker nói một cách rõ ràng rằng “Tôi nghĩ đó thực sự là một sự phản bội miền Nam Việt Nam.” Cũng thật khó cho Tổng Thống Thiệu có thể tiên đoán được cái hành động đáng hổ thẹn như vậy của Hoa Kỳ.
Vài ngày trước khi Sài Gòn thất thủ trong năm 1975, Thiệu đã phải sống cuộc đời lưu vong, đầu tiên là ở Ðài Loan, sau tới Anh quốc và cuối cùng là Hoa Kỳ. Ông đã từ trần trong năm 2001. Nguyễn Văn Thiệu đã đương đầu một cách anh hùng trong những năm dài chiến tranh đầy cam go, ông đã nhận được – dù ông có nhận hay không – sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn của tất cả những ai mong muốn cho một miền Nam Việt Nam tốt đẹp.
TOÀN NHƯ chuyển ngữ
Chú Thích
(1) tạm dịch từ “South Vietnamese President Nguyen Van Thieu was far from the American patsy he is often portrayed to have been”, Vietnam Magazine, APR. 2004, Volume 16/Number 6.
(2) đúng ra ông Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống từ năm 1967 đến ngày 30/4/1975; còn từ năm 1965 đến 1967, ông là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (chức vụ tương đương Quốc Trưởng).
(3) năm 1962, ông Thiệu còn là Đại Tá.
(4) LBJ là chữ viết tắt tên TT. Lyndon Baine Johnson
(5) William Colby là trưởng Chi Nhánh CIA tại Việt Nam, sau giữ chức Giám đốc CIA tại Hoa Kỳ.
(6) John Paul Vann (1924-1972): Nguyên là một Trung Tá trong quân lực Hoa Kỳ sau đã giải ngũ, phục vụ 2 nhiệm kỳ tại Việt Nam trong vai trò cố vấn. Từ năm 1962 đến 1963, là cố vấn cho Ðại Tá Huỳnh Văn Cao (sau là thiếu tướng), Tư lệnh Sư Ðoàn 7BB. Trở lại VN năm 1965 làm việc cho cơ quan USAID, sau là Cố vấn cho Vùng II Chiến Thuật bị tử nạn máy bay năm 1972 tại KonTum.
Một Góc Khác của T.T. Nguyễn Văn Thiệu 
Nhà văn Trần Phong Vũ vừa phỏng vấn ông Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.Nội dung cuộc phỏng vấn giúp chúng ta hiểu thêm một vài góc cạnh khác của ông Thiệu, nhưng không trả lời được câu hỏi đau xót nhất là vai trò của ông trong việc phá tan hai quân đoàn 1 và 2, và để mất một nửa đất nước.
Ông có thi hành mệnh lệnh của Hoa Kỳ không?
Thái độ của ông, bỏ đất nước, bỏ dân chúng và quân đội để thoát thân theo vợ, con ra ngoại quốc có là chỉ dấu cho thấy ông “mua” sự an toàn của bản thân và gia đình ông bằng cái giá dâng hiến đất nước cho Việt Cộng không?
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân Đoàn I, và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, đã nêu lên nhiều nghi vấn về những mệnh lệnh rút quân của ông.Tôi trân trọng đề nghị nhà văn Trần Phong Vũ và ông Nguyễn Văn Ngân khai phá những bí mật còn gói kín này. Ông Ngân có thể không biết chi tiết, nhưng chắc chắn ông cũng có thể giúp đánh giá thái độ của ông Thiệu trong những ngày Việt Nam bị bức tử, có thể với sự đồng lõa của ông Thiệu.Ông Vũ giải thích nguyên nhân thực hiện cuộc phỏng vấn, và giới thiệu ông Ngân: “Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vai chính nắm giữ chìa khóa mở vào những bí ẩn của một giai đoạn lịch sử, đã vĩnh viễn ra đi ngày 29-9-2001 không để lại một vết tích nào, ít nữa là về phía ông. Không hồi ký. Không di chúc chính trị. Ông lặng lẽ trở về lòng đất mang theo một trời tâm sự u uẩn của một nhà lãnh đạo từng được dư luận đặt lên bàn cân với nhiều suy đoán, nhận định, lượng giá khác nhau, đôi khi đối nghịch nhau. Một khuôn mặt thời cơ? Một kẻ tham quyền cố vị? Một lãnh tụ gan lỳ, nham hiểm, nhiều thủ đoạn? Một người yêu nước cô đơn? Một nhà lãnh đạo quốc gia thông minh, mưu trí, nhưng sinh bất phùng thời?Do một trùng hợp tình cờ, 5 năm sau ngày TT Thiệu từ trần, chúng tôi đã gặp gỡ ông Nguyễn Văn Ngân, nguyên Phụ tá đặc biệt về chính trị của TT Nguyễn Văn Thiệu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa để thực hiện cuộc phỏng vấn này trong nhiều ngày của tháng 9 năm nay (2006). Là một cộng sự viên lâu năm và là một Phụ tá trẻ tuổi nhất trong số những Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu, ông Ngân thường được giới báo chí ngày đó coi là một khuôn mặt bí ẩn. Đối với các chính khách “vòng trong” thì ông là người đã nắm giữ nhiều quyền lực quan trọng trong hậu trường chính trị miền Nam bấy giờ.Ông Nguyễn Văn Ngân khởi sự làm việc với TT Thiệu năm 1965, thời gian ông Thiệu giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng trong chính phủ Phan Huy Quát. Năm 1967, ông là đại diện của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia trong liên danh Nguyễn Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ tại Hội đồng Tuyển cử Trung ương, trong cuộc chạy đua vào dinh Độc lập. Năm 1971, TT Thiệu ủy nhiệm ông chỉ đạo toàn bộ cuộc bầu cử tháng 10-71; ông là tác giả đạo luật bầu cử tổng thống với điều 10 khoản 7 đưa đến tình trạng độc cử.Năm 1974, ông là tác giả tu chính án Hiến pháp tháng 01-74 gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thống. Ông là người trách nhiệm điều hợp các cơ chế hiến định: Quốc hội, Tối cao Pháp viện, Giám sát viện và có ảnh hưởng quan trọng đến sinh hoạt của các cơ chế này; đồng thời là người tổ chức đảng Dân Chủ là đảng cầm quyền của TT Thiệu gồm hệ thống quần chúng, chính quyền và quân đội.Tháng 5-1974 ông bị TT Thiệu giải nhiệm và buộc phải rời khỏi Việt Nam. Cuối tháng 01-75, ông từ Mỹ và Gia nã đại về nước. Đầu tháng 4 năm ấy ông bị TT Thiệu hạ lệnh cho cơ quan an ninh “cô lập” và chỉ được trả tự do sau khi TT Thiệu rời Việt Nam đi Đài Loan tối ngày 25-4-1975.”
Ông Vũ hỏi ông Ngân: “Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng như Tổng Thống Thiệu, sự lãnh đạo đều có tính cách chuyên hoạnh cá nhân. Điều này có phải vì đầu óc độc tôn, tham quyền cố vị của lãnh tụ như hiện tượng phổ quát trong hầu hết các quốc gia chậm tiến?
Đ.- Tại miền Nam Việt Nam dưới thời Tổng Thống Diệm và Tổng Thống Thiệu có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân: nền dân chủ phôi thai, sinh hoạt chính đảng yếu kém, xã hội phân hóa, chiến tranh v.v… nhưng một trong những nguyên nhân chính có tính cách quyết định là chính sách can thiệp của người Mỹ.Người Mỹ đã thay thế nguời Pháp với chánh sách thực dân mới. Vào thế kỷ 19 người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân danh dân chủ đểå khai thác xương máu người Việt Nam trong việc thiết lập một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á của chủ thuyết Domino. Người Mỹ đến Việt Nam không vì quyền lợi người Việt Nam mà vì quyền lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người Mỹ xiển dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính phủ, nội loạn… để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chánh và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ.Chánh sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ đã được sử dụng như lưỡi gươm Damoclès. Trong khi viện trợ của Nga-Tàu cho Bắc Việt nặng tính cách sản xuất thì viện trợ của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hoàn toàn có tính cách tiêu thụ. Trong thời chiến Bắc Việt có khu kỹ nghệ nặng gang thép Thái Nguyên và cục quân giới của tướng Trần đại Nghĩa có khả năng cải tiến Sam 2 bằng cách ngăn chận hệ thống nhiễu sóng radar và đạt tầm cao hạ máy bay B52 của Mỹ bấy giờ được xem là loại máy bay bất khả xâm phạm có sức oanh tạc phá hoại ghê gớm thì kỹ nghệ quốc phòng của miền Nam Việt Nam là con số không. Những dự án xây dựng cơ sở đúc súng đạn, nhà máy lọc dầu, phân bón… từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm đều bị người Mỹ ngăn chận. Đối với một dân tộc, dù viện trợ có tính cách sản xuất, muốn sử dụng hữu hiệu cũng đòi hỏi phải có tinh thần tự lực, tự cường; huống hồ dân tộc đó vừa thoát khỏi ách đô hộ trăm năm của thực dân Pháp, chính sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ chỉ nhằm mục đích làm tê liệt ý chí đề kháng và nô lệ hóa.Cùng với chính sách viện trợ có tính cách tiêu thụ và nhân danh dân chủ để can thiệp vào nội bộ quốc gia được viện trợ, chính quyền của quốc gia được viện trợ bị xem là công cụ của ngoại bang, đã đẩy một số quần chúng đi về phía cộng sản và dưới mắt thế giới Việt Nam Cộng Hòa đã bị cô lập, cuộc chiến đấu bảo vệ dân chủ và tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam bị mất chánh nghĩa.Những khó khăn thực sự của ông Diệm và ông Thiệu phát xuất từ chính sách can thiệp của người Mỹ, có thể nói nếu giải quyết được những khó khăn nầy thì sẽ giải quyết được 90% những khó khăn trong việc xây dựng đất nước và chống cộng. Để đối phó với chánh sách hai mặt của người Mỹ, ông Diệm và ông Thiệu bị dồn vào thế lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, và như một vòng luẩn quẩn không lối thoát, sự lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân đã làm mất hậu thuẫn rộng rãi trong quần chúng.Chính sách thực dân mới của người Mỹ là yếu tố có tính cách quyết định đã làm sụp đổ miền Nam Việt Nam. Sau Thế chiến thứ I, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền đã đưa ra một bản cáo trạng lên án thực dân Pháp, thiết tưởng chế độ thực dân mới của Mỹ còn tàn bạo gấp nhiều lần so với thực dân cũ vì sau 30/4/75 Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn bị xóa sổ trên bản đồ thế giới.
H.- Ông có đồng ý rằng chế độ Đệ I và Đệ II Cộng Dòa cũng như ông Diệm và ông Thiệu đã được Hoa Kỳ yểm trợ nếu không muốn nói là đã góp phần quyết định?
Đ.- Không ai phủ nhận điều đó.Cũng như chế độ miền Bắc với Hồ Chí Minh. Đó là hậu quả đương nhiên của một thế giới lưỡng cực sau thế chiến thứ hai mà Việt Nam là một điểm nóng trong cuộc tranh chấp giữa tư-bản và cộng-sản.Người ta có thể nói Hồ Chí Minh là công cụ của cộng-sản quốc tế nhưng ông Diệm và ông Thiệu trong thực tế không phải là tay sai của Mỹ. Hồ Chí Minh đã áp đặt chế độ cộng sản trên đất nước, thay thế xiềng xích nô lệ thực dân, phong kiến bằng xiềng xích cộng sản; sự dã man và tàn bạo như thế nào thì tất cả mọi người đều biết. Và hậu quả di lụy của tinh thần nô lệ đã khiến cho một dân tộc vốn giàu lòng hy sinh, siêng năng, nhẫn nại, đã chiến thắng trong chiến tranh nhưng đã thất bại trong hòa bình đất nước tụt hậu trong đà tiến của nhân loại.Sau Hiệp Định Genève 1954, người Pháp rút lui để lại miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ vì chiến tranh để chống lại cộng sản quốc tế và Bắc Việt, chúng ta chỉ còn tài nguyên nhân lực là máu để đánh đổi viện trợ Mỹ cùng với các điều kiện áp đặt, không còn một sự lựa chọn nào khác. Ông Diệm và ông Thiệu đã lãnh đạo đất nước trong những điều kiện vô cùng khó khăn: xây dựng chế độ dân chủ trên một xã hội băng hoại bởi phân hóa với lịch sử ngàn năm phong kiến, nô lệ ngoại bang, chưa hề kinh qua một giai đoạn quá độ có ý niệm về dân chủ, tự do không phải là một công việc dễ dàng; đồng thời phải chống lại xâm lăng cộng sản và chánh sách thực dân mới của đồng minh Mỹ, những người quốc gia Việt Nam đã phải chiến đấu sinh tồn trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, trong cái thế trên đe dưới búa, giữa gọng kềm tư bản và cộng sản. Chế độ đệ I và đệ II Cộng Hòa của miền Nam trước 1975 dẫu có nhiều khuyết điểm nhưng không ai có thể phủ nhận rằng các cấu trúc chính trị, xã hội, kinh tế ngày đó đã đặt nền móng vững chắc làm bệ phóng dẫn đầu những con rồng Á Châu sau nầy để trở thành một quốc gia hùng cường tại Đông Nam Á. Tổng thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc, người của chủ nghĩa dân tộc, đã bị người Mỹ giết vì bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chính biến 1/11/63 và cái chết của ông là sự thất bại chung cho tất cả mọi người quốc gia Việt Nam về một giải pháp quốc gia. Hậu quả là việc quân đội Mỹ trực chiến và sự sụp đổ miền Nam Việt Nam 30/4/75. Chúng ta đã bị lôi kéo vào một cuộc chiến hoàn toàn không cần thiết vì đã không làm chủ được số phận của mình và tất cả dân tộc Vịệt Nam đều là nạn nhân với hơn hai triệu thương vong, hơn bảy triệu tàn phế, hơn hai triệu người bỏ nước ra đi tị nạn với hàng vạn người vùi thân trong biển cả, đất nước đổ nát… Thời Tổng thống Thiệu khó khăn hơn thời Tổng thống Diệm rất nhiều: hơn nửa triệu lính Mỹ trấn đóng; tòa Đại sứ Mỹ thực tế là một chánh phủ Mỹ tại hải ngoại với một hệ thống cố vấn dày đặc trong tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt quốc gia từ trung ương tới địa phương; số lượng nhân viên CIA chỉ sau trụ sở trung ương (Langley), là chi nhánh có nhân viên đông nhất trên thế giới; và ông Thiệu đã phải đối phó với một nghịch lý: trong khi khối cộng sản quốc tế và Bắc Việt tiếp tục leo thang chiến tranh thì người Mỹ thực hiện giải kết bằng cách rút quân trên chiến trường và nhượng bộ chính trị trên sinh mạng miền Nam Việt Nam tại hội đàm Paris. Trong cuộc chiến chống cộng và suốt thời gian lãnh đạo quốc gia, có thể nói 90% thời giờ của ông Thiệu được sử dụng trong nỗ lực không ngừng để tranh thủ và đối phó với người Mỹ mặc dầu phạm vi xoay sở của ông mỗi ngày một thâu hẹp; lý do giản dị là chánh sách của Mỹ sẽ quyết định sinh mạng của miền Nam Việt Nam chứ không phải cộng sản. Trong đời chánh trị của ông Thiệu có hai kẻ thù chính là cộng sản và Mỹ, và ông đã mang mối hận thù xương tủy người Mỹ đến tận cuối đời.Năm 1983, một buổi chiều ông lái xe cho tôi xem thành phố Londres, ông chỉ vào cái ảnh nhỏ của đứa con út sinh tại Londres sau 1975 gắn gần tay lái, ông nói: khi nó mới tập nói, tôi dạy cho nó: “kẻ thù của con là cộng sản và Mỹ…”. Lúc ông chết, ý nguyện của ông muốn hỏa táng để đem tro cốt về Việt Nam nếu có điều kiện, không thì sẽ rải xuống biển chứ không muốn chôn trong lòng đất Mỹ.
H.- Dù sao ông Thiệu đã cầm quyền 10 năm từ 1965-1975, hòa đàm Paris kéo dài từ 1968 đến 1973 thời gian đủ để tiên liệu và thực hiện những biện pháp cần thiết hầu ứng phó với vấn đề giải kết của Hoa Kỳ nhưng ông Thiệu đã hoàn toàn thụ động. Theo ông, phải chăng tình trạng nầy đã đóng góp vào sự sụp đổ của miền Nam ngày 30/4/75?
Đ.- Ông Thiệu thực sự cầm quyền qua cuộc bầu cử tháng 9/1967. Trong khi quân đội Mỹ còn đổ quân vào Việt Nam thì ông Thiệu đã đưa vấn đề giải quyết chiến tranh như một trong ba vấn đề căn bản của chương trình tranh cử: Xây dựng dân chủ Giải quyết chiến tranh Cải tạo xã hội. Sau vụ Tết Mậu thân 1968, ông Thiệu là người chủ động đưa ra đề nghị Hoa Kỳ có thể thực hiện việc rút quân từng giai đoạn trong mục tiêu tranh thủ thời gian đổi lấy viện trợ kinh tế và quân sự vì ông hiểu Việt Nam Cộng Hòa sẽ không có tư thế tại hội nghị hòa đàm nếu không chủ động trên chiến trường v.v…. Nếu cai trị là tiên liệu thì ông Thiệu là người có khả năng tiên liệu nhưng ông không có khả năng để thay đổi được chính sách của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn cầu mà vị thế địa lý chánh trị của miền Nam Việt Nam không còn nằm trong quyền lợi ưu tiên của Mỹ, mặt khác, chúng ta không còn ở vào thời đại có thể dùng “tầm vông vọt nhọn” để chống trả với quân thù. Năm 1967 cùng với việc tiếp tục đổ quân vào Việt Nam Đại sứ Bunker đã được Tổng thống Johnson gởi sang Việt Nam với sứ mạng thực hiện việc giải kết để rút quân. Khi Nixon thắng cử 1968, đại sứ Bunker đã được yêu cầu lưu nhiệm cho đến tháng 5/1973 sau khi Mỹ đã thực hiện xong việc rút quân và lấy lại tù binh. Chính sách của đảng Dân Chủ và Cộng Hòa Mỹ trong vấn đề giải kết chiến tranh Việt Nam hoàn toàn có tính cách nhất quán. Nếu sau Hiệp Định Genève 1954, người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại để thiết lập nền đệ I Cộng Hòa (1956 – 1963) như căn bản chánh trị để biện minh cho nhân dân Hoa Kỳ và thế giới về chính nghĩa của sự can thiệp vào Việt Nam nhằm ngăn chận sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á, thì năm 1967, người Mỹ đã áp lực chánh quyền quân nhân phải khai sinh nền đệ II Cộng Hòa, thực hiện chánh quyền dân chủ hợp hiến, hợp pháp để đưa Việt Nam Cộng Hòa vào bàn hội nghị và tạo bàn đạp cho Hoa Kỳ hòa đàm với cộng sản để rút quân, lấy lại tù binh, chấm dứt sự can thiệp và để miền Nam cho các phe phái chính trị tự giải quyết trên căn bản “dân tộc tự quyết”, điều mà hai thập niên trước đó Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận.
H.- Ông nghĩ sao về nỗi căm phẫn của đại đa số quần chúng đối với ông Thiệu sau 30/4/75?
Đ.- Quần chúng đánh giá lãnh đạo qua sự thành bại, họ có quyền căm phẫn vì họ là lớp người bị hy sinh nhiều nhất cho đất nước cũng như phải gánh chịu những hậu quả bi đát nhất sau 30/4/75 nỗi căm phẫn của họ là chính đáng; hơn nữa người lãnh đạo cũng như thuyền trưởng một con tàu, dù tàu chìm bởi bất cứ lý do gì thì thuyền trưởng phải là người rời tàu sau cùng hoặc phải chết theo tàu; mặt khác họ không ở cương vị để có thể nhìn vào mặt trái của cuộc chiến vừa có tính cách nội chiến vừa có tính cách ủy-nhiệm mà những yếu tố quyết định hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của người quốc gia.Tôi nhớ vào khoảng 1990 ông Thiệu có buổi nói chuyện với một số đồng bào tại Westminster, California, một người đàn bà được một tổ chức chống đối sắp đặt đã cầm micro chửi bới ông Thiệu nặng nề. Ông Thiệu chỉ trả lời: tôi rất thông cảm với nỗi căm phẫn của bà.Tôi hiểu sự im lặng của ông, nỗi cô đơn và cay đắng ông đã mang theo đến cuối đời. Ông Thiệu đã chết chắc hẳn không cần tôi biện hộ. Tôi cũng không làm công việc biện hộ mà chỉ nói lên sự thực mà tôi biết ” tôi không có bổn phận tranh luận với bất cứ ai và cũng không nhằm thuyết phục bất cứ người nào. Đối với tôi, nói những điều tốt mà người ta không có cũng tệ hại như nói những điều xấu mà người ta không phạm phải vì tất cả đều là dối trá”, nhất là đối với những người có đời sống công liên hệ đến vận mạng quần chúng thì còn là vấn đề trách nhiệm.Ông Thiệu có những lỗi lầm trầm trọng trong vấn đề lãnh đạo quốc gia cũng như có những sai phạm cá nhân ảnh hưởng đến uy tín lãnh đạo. Ông là một nhà chính trị thực tiễn mà hoàn cảnh và môi trường trưởng thành không thể tạo ông thành một kẻ tử đạo. Tuy nhiên, đến nay tôi vẫn nghĩ rằng nếu sự hy sinh có thể cứu vãn tình thế thì ông sẽ không từ nan. Lần tôi gặp lại ông ở Londres, ông nói như tâm sự: làm một người lính ra trận và hy sinh là một hành động dũng cảm, nhưng làm sao có thể sống sót để tiếp tục cuộc chiến đấu thì thật là khó.Xét định một con người cần nhìn vào tổng thể và đặc biệt là những giờ phút nghiêm trọng sinh mạng bị thử thách. Không thể chỉ dùng những sự việc tiêu cực để tổng quát hóa mà phải xét đến các mặt tích cực của cá nhân đó. Tuy nhiên việc định công luận tội là công việc của lịch sử sau nầy.
H.- Nhiều hồi ký chánh trị nói rằng ông Thiệu luôn luôn bị ám ảnh bởi việc người Mỹ thảm sát các ông Diệm, Nhu nên thường thay đổi chỗ ngủ hàng đêm v.v…. Điều này có thực không, và nếu thực thì đã ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề lãnh đạo?
Đ.- Hàng năm đến 1/11, ông Thiệu có xin thánh lễ cầu hồn cho cố Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu tại dinh Độc Lập. Ông Thiệu có kể cho tôi nhiều lần về sáng 2/11/63 sau khi thanh toán mục tiêu dinh Gia-long, ông về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu và sau đó có ra lệnh cho lính mở bửng thiết vận xa để chào thi hài ông Diệm, Nhu trước khi về nhà.Tôi thường qua chỗ ở của ông Thiệu để làm việc những khi ông không qua văn phòng và có khi làm việc trong phòng ngủ khi ông bị đau, tôi không thấy dấu hiệu thay đổi chỗ ngủ hàng đêm như đồn đại sau này. Có những biện pháp an ninh lúc ông đi ra ngoài, chẳng hạn mặc áo chắn đạn, hoặc cái podium ông đứng nói chuyện ngoài bằng gỗ nhưng trong có tấm thép chắn đạn, những biện pháp an ninh đặc biệt trong các cuộc diễn binh v.v… Tôi không để ý những chuyện nầy, đây là công việc của bộ phận an ninh. Chỉ có điều là những đề phòng nầy nhằm về phía Mỹ hơn là cộng sản. Thực ra ông Thiệu đã sống trong sự đe dọa thường trực của người Mỹ về đảo chánh và ám sát suốt thời gian từ lúc cầm quyền 1967, đến lúc rời Việt Nam đi Đài Loan 1975. Đồng minh Mỹ là một đồng minh bất trắc, khó tiên liệu, và ông Thiệu luôn ở trong tình trạng của người làm xiếc đi dây nguy hiểm. Có lần tôi lưu ý ông Thiệu về trường hợp Tổng Thống Magsaysay, Lý Thừa Vãn, Ngô Đình Diệm, ông Thiệu nói với tôi là ông không có an ninh… Trong giai đoạn giải kết, quyền lợi của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa tách rời đi đến đối nghịch, trong khi đó quyền lợi của Hoa Kỳ và của cộng sản xích lại gần nhau để đi đến thỏa hiệp chung. Nếu cộng sản áp dụng chính sách vừa đánh vừa đàm với Việt Nam Cộng Hòa và phối hợp cuộc đấu tranh trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao thì chính sách của “Đồng Minh” Hoa Kỳ đối với “Đồng Minh” Việt Nam Cộng Hòa cũng tương tự: cà rốt và cây gậy đã được áp dụng triệt để với ông Thiệu trên mọi bình diện để buộc Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận đường lối thương thuyết nhượng bộ cộng sản của Mỹ. Người Mỹ đã tiếp tay với cộng sản trong việc cổ võ, ủng hộ các phong trào phản chiến, đòi hòa bình, hòa hợp hòa giải dân tộc, lực lượng thứ ba… mà thực chất là những tổ chức trá hình của cộng sản nhằm phá vỡ thế hợp hiến, hợp pháp của chế độ VNCH, và đã không ngần ngại đâm sau lưng những người lính VNCH đang chiến đấu trong cái gọi là chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” để người Mỹ rút quân. Ông Thiệu nói với tôi vụ sư đoàn 3 rút bỏ Quảng Trị 1972 là một “sabotage politique”. Nixon đã viết thư cho ông Thiệu nhắc đến ý đồ thanh toán ông Thiệu của chính quyền Johnson vào năm 1968 và vụ đảo chánh 1/11/63 như một đe dọa trực tiếp nếu ông Thiệu không tuân thủ những đòi hỏi của Mỹ. Vào những tháng cuối trước khi ký HĐ Paris, ông Thiệu nuôi ý định tự sát như một phương cách chống trả cuối cùng. Vào lúc căng thẳng nầy chúng tôi đã triệu tập đại hội nghị viên toàn quốc về Saigòn, tuần hành vào dinh Độc Lập cùng các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ lập trường “bốn không” của ông. Tài liệu của đại sứ Bunker đã ghi nhận ý định tự sát nầy của ông Thiệu qua một báo cáo của ông Trần Thiện Khiêm ghi âm cuộc đối thoại giữa ông Thiệu, Khiêm. Chính ý định tự sát nầy đã khiến ông Thiệu “lì lợm” trước những đe dọa của Nixon và đã đưa đến những nhượng bộ của Nixon bằng những cam kết mật.Mỗi lần nhớ đến ông Thiệu, thực sự tôi không nghĩ đến những vinh quang bề ngoài của một Tổng Thống mà là những chuỗi ngày khó khăn của đất nước, những áp lực có tính cách quyết định ngày đó của Hoa Kỳ đã đè nặng lên ông, ông đã chiến đấu như một người lính đơn độc không vũ khí, bằng lòng dũng cảm và sinh mạng của chính mình. Tôi không có đức tin tôn giáo nhưng tôi vẫn cầu mong cho ông, một tín đồ ki-tô-giáo, được bình an và thanh thản nơi vĩnh hằng.
H.- Có phải Tổng thống Thiệu nói với ông là việc sư đoàn 3 tháo chạy đã để lại “đại lộ kinh hoàng” và Quảng Trị thất thủ vào tháng 5/72 là một “sabotage politique” của người Mỹ?
Đ.- Đúng như vậy.Hậu quả đã để lại hơn 20 ngàn thương vong trên “đại lộ kinh-hoàng.”
H.- Ông Thiệu đã nói với ông trong bối cảnh nào?
Đ.- Ngay hôm Quảng Trị thất thủ. Hôm đó vào lúc xế chiều tôi đang họp trung ương đảng bộ Dân-Chủ tại lầu nhà trắng trong khuôn viên dinh Độc-Lập thì được điện thoại của nhân viên văn phòng cho biết đại tá Đỗ Đức Tâm, thuyết trình viên quân sự của Tổng Thống đang có mặt tại Văn Phòng của tôi để thuyết trình về tình hình quân sự sau khi vừa thuyết trình cho Tổng Thống xong. Vì bận họp nên tôi yêu cầu đại tá Tâm gặp tôi tại lầu nhà trắng để thuyết trình cho tất cả cùng nghe. Sau phần thuyết trình, tôi nhớ rõ câu hỏi sau cùng của nghị sĩ Trần Trung Dung, nguyên Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng của Tổng thống Diệm: “liệu chúng ta có giữ được Quảng Trị không?” Đại tá Tâm “…chắc chắn chúng ta giữ được.” Chừng nửa giờ sau, điện thoại trên bàn họp reo, tôi nhắc máy, đầu dây là đại tá Tâm cho biết trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân đoàn I vừa điện trình Tổng Thống là Quảng trị đã thất thủ trưa hôm nay. Sự việc cho thấy là Trung tướng Lãm không biết sư đoàn 3 rút bỏ Quảng trị và như vậy là đã có một “sự cố bất thường” xẩy ra nên tôi bỏ phòng họp đi gặp Tổng thống Thiệu ngay lúc đó. Tôi thấy ông rất bình tĩnh. Ông nhìn tôi nói: tôi điện thoại gần như mỗi ngày cho ông Lãm về tình hình quân sự Quảng trị, tối qua tôi còn nhắc ông Lãm phải coi chừng “thằng cộng sản” ngày 1/5, ông Lãm bảo đảm với tôi là không việc gì, thế mà như vậy. Ông dằn mạnh: đây là một “sabotage politique”.Lúc bấy giờ chỉ có tôi và ông.Những chuyện như vậy thuộc loại “cấm kỵ không phải có thể nói với bất cứ ai và không bao giờ ông nói khi có sự hiện diện của người thứ ba. Đó là nguyên tắc ngăn cách ông vẫn thường áp dụng và cũng là cách để bảo đảm sựï an toàn cho chính ông. Trong trường hợp này, ông Thiệu là người duy nhất có đủ yếu tố chính trị để thẩm định, vì ông là người trực tiếp chịu các áp lực của Mỹ. Bấy giờ là tháng 5/1972, trong mật đàm Paris Mỹ và cộng sản đã đạt được các thỏa thuận căn bản, chỉ còn trở ngại về phía ông Thiệu. Gần đây tôi có đọc một chứng liệu của Đại sứ Bunker thuật lại phiên họp tại dinh Độc Lập một ngày sau khi Quảng Trị thất thủ giữa Đại sứ Bunker, Tướng Abrams và Tổng thống Thiệu. Ông Thiệu đã không hề quy trách cho các giới chức quân sự Việt Nam, ông im lặng một cách khó hiểu và mãi đến phút cuối cùng “bật nói”: “…không có lý do gì Quảng Trị lại bị thất thủ, tướng Giai phải chịu trách nhiệm về việc nầy.”Tướng Vũ văn Giai, Tư Lệnh Sư đoàn 3BB Giới Tuyến, được di tản bằng trực thăng của Mỹ, bỏ lại binh sĩ và dân chúng với “đại lộ kinh hoàng” – đã bị đưa ra Tòa án quân sự, bị tước đoạt binh quyền và ở tù.Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh tái chiếm Quảng trị ngay sau đó mặc dầu biết rằng Quảng Trị sẽ thành một đống gạch vụn, sẽ phải hy sinh những người lính thiện chiến của những đơn vị thiện chiến nhất mà tổn thất khó có thể bù đắp được trong thực tế bấy giờ nhưng ông đã phải quyết định như vậy, một quyết định chính trị để chứng tỏ quyết tâm của quân dân miền Nam với thế giới, với nhân dân Hoa Kỳ, nhằm chống trả các thỏa hiệp mật giữa cộng sản và Mỹ mà sau nầy được cụ thể trong Hiệp Định Paris 1973.Cũng tương tự như vậy, việc Trung cộng chiếm Hoàng Sa vào đầu năm 1974 đã được sự thỏa thuận ngầm của Mỹ để đặt cộng sản Hà Nội sau nầy trước một “fait accompli”. Ông Thiệu biết Hải Quân Việt Nam không đủ sức đương đầu với hải quân Trung cộng và Hạm đội 7 Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nhưng ông vẫn ra lệnh tái chiếm như một chứng liệu về chủ quyền lãnh thổ sau nầy.Bởi chính sách hai mặt của Hoa Kỳ, nhiều áp lực nặng nề riêng cá nhân ông phải chịu đựng không được chia sẻ và trong nhiều trường hợp ông phải đưa ra những quyết định chuyên độc mà không thể giải thích với đồng bào cùng chiến hữu của ông.
H.- Nhận định của ông Thiệu về vụ sư đoàn 3 tháo chạy có mâu thuẫn với các quyết định của người Mỹ mở rộng chiến tranh qua các cuộc tấn công của QLVNCH vào hậu cần của cộng sản tại Miên năm 1970 và hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào 1971 hay không?
Đ.- Không. Các cuộc tấn công vào hậu cần cộng sản tại Miên 1970 và Hạ Lào 1971 chỉ có tính cách nhất thời nhằm mục đích chính là dùng xương máu của quân đội VNCH để mở rộng hành lang an toàn cho việc triệt thoái quân đội Mỹ. Ông Thiệu miễn cưỡng phải chấp nhận mở cuộc hành quân Lam Sơn 1971 vì Hạ Lào tiếp giáp với hậu phương lớn Bắc Việt. Khi có dấu hiệu sa lầy ông đã ra lệnh cho trung tướng Hoàng Xuân Lãm đưa ngay một đơn vị vào Tchepone “đái một bãi” (nguyên văn) và rút ra ngay lập tức. Cần lưu ý là chương trình rút quân của Mỹ không phụ thuộc vào khả năng thay thế của Quân Lực VNCH, và chương trình Việt Nam hóa thực chất chỉ nhằm yểm trợ cho việc rút quân của Mỹ chứ không phải để VNCH có đủ sức đề kháng và tồn tại.
H.- Sau này, nhiều người trong đó có những viên chức chính phủ của ông Thiệu cho rằng ông Thiệu đã dựa vào những cam kết mật của Tổng thống Nixon nên đã chấp nhận ký kết Hiệp Định Paris vì không hiểu rõ tổ chức công quyền của Hoa Kỳ thẩm quyền của hành pháp và lập pháp. Như Tiến sĩ Kissinger đã nhận định: đó chỉ là những ý định của Tổng thống Nixon, không có tính cách cam kết quốc gia vì không có phê- chuẩn của Quốc Hội.
Đ.- Vào lúc bấy giờ ông Thiệu cũng hiểu như giải thích của Kissinger sau nầy, nhưng ông cũng hiểu rõ vị thế yếu kém của VNCH và giới hạn cuối cùng mà ông có thể đòi hỏi ở Nixon. Ông Thiệu có chủ định rõ ràng là mua thời gian còn lại của nhiệm kỳ Nixon trong hoàn cảnh “còn nước còn tát”.Chúng ta cần nhớ rằng không hề có một hiệp ước Việt Mỹ nào về việc Mỹ đổ quân và tham chiến ở Việt Nam cũng như không có một văn kiện pháp lý nào về quy chế trấn đóng của quân đội đồng minh trên lãnh thổ Việt Nam bấy giờ. Những tiểu đoàn TQLC Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng đầu năm 1965 dưới thời chính phủ Phan Huy Quát, ông Thiệu là Tổng trưởng Quốc Phòng kiêm Phó Thủ tướng; ông nói với tôi: tình hình bấy giờ hơn hai phần ba lãnh thổ bị cộng sản ung thối, nếu quân đội Mỹ không can thiệp kịp thì miền Nam mất. Thời đệ I Cộng Hòa, Tổng Thống Diệm muốn có một hiệp ước hỗ-tương như ở Đại Hàn nhưng người Mỹ từ chối. Các cố vấn quân sự Mỹ đến và đi không qua sự kiểm soát của nhà chức trách Việt Nam. Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi, hậu quả là vấn đề đơn phương rút quân, Việt Nam hóa, Hiệp Định Paris. Tương quan Việt Mỹ là một tương quan thực tế mà người Mỹ cố tình không để bị ràng buộc vào những văn kiện pháp lý “giấy trắng mực đen” như ở Triều tiên, Nhật bản, Âu châu là những nơi Hoa Kỳ có mục tiêu dài hạn.
H.- Đến bao giờ thì ông Thiệu mất tin tưởng vào các cam kết mật của Nixon? Vụ ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long vào đầu năm 1975 có phải là một trắc nghiệm về những cam kết mật hay không?
Đ.- Ngay sau cuộc gặp gỡ Thiệu Nixon tại San Clemente tháng 4/73. Về phương diện biểu kiến cuộc gặp gỡ mang nhiều ý nghĩa tích cực như là một sự xác nhận các cam kết mật, sự tiếp tục ủng hộ của Hoa Kỳ với VNCH và đặc biệt với ông Thiệu, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược. Cuộc gặp gỡ mặt đối mặt đã khẳng định cho ông Thiệu thấy không còn hy vọng vào các cam kết mật cũng như các viện trợ quân sự và kinh tế đã được hứa hẹn trước đây. Đây là lý do và thời điểm quyết định việc tu chính hiến pháp: gia tăng nhiệm kỳ 3 Tổng Thổng. Cuộc độc cử 1971 đã làm sút giảm uy tín chính trị của ông Thiệu; Hiệp Định Paris thừa nhận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam, ngưng bắn tại chỗ, chinh phủ liên hiệp ba thành phần đã hoàn toàn xóa bỏ lập trường bốn không của ông; người Mỹ đã hoàn tất việc rút quân và lấy lại tù binh; và nay là hiểm họa Hoa Kỳ bỏ rơi… khiến ông Thiệu bị lột truồng như câu chuyện ông vua không quần áo (the emperor without any chothes) và hoàn toàn trắng tay. Tư thế lãnh đạo của ông Thiệu bị đặt trong hoàn cảnh thử thách nghiêm trọng và đây là lý do thực sự của vụ tu chính hiến pháp đã không bao giờ được tiết lộ. Nội dung tu chính bấy giờ được giữ mật vì phải chờ sau cuộc bầu cử bán phần Thượng Nghị Vện tháng 10/73 mới đủ túc số thực hiện. Việc tu chính không nhằm vào nhiệm kỳ 3 Tổng Thống mà mục đích thực sự là bày tỏ sự tín nhiệm của dân chúng qua Quốc Hội “để tái trang bị tư thế lãnh đạo của ông Thiệu hầu đối phó với tình thế mới. Dù muốn hay không sinh mạng chính trị của ông Thiệu đã gắn liền với sự còn mất của chế độ và sau ông sẽ là trận hồng thủy. Trong cuộc gặp các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ tu chính Hiến Pháp tại hội trường khách sạn Majestic vào đêm trước hôm biểu quyết, tôi có nói rõ: “đây không phải là hành động ủng hộ cá nhân Tổng thống Thiệu mà là hành động của mỗi chúng ta để tự cứu”. Có thể họ hiểu là tình hình nghiêm trọng nhưng không biết là đang bị Hoa Kỳ bỏ rơi và đất nước đã ở trên bờ vực thẳm. Nếu Kissinger đã tiên liệu thời gian có thể coi được (decent interval) từ HĐ Paris 1/73 đến lúc miền Nam sụp đổ là một năm rưỡi thì ông Thiệu đã tiên liệu một thời gian ngắn hơn. Đầu năm 1974 cũng là lúc Quốc Hội biểu quyết tu chính Hiến Pháp, ông Thiệu nói tại Hội Đồng Tổng Trưởng: “…các quan sát viên quốc tế rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta còn ngồi ở đây hôm nay, tất cả đều nghĩ rằng miền Nam Việt Nam chỉ có thể tồn tại không quá sáu tháng sau HĐ Paris…”. Như một người chết đuối vớ bất cứ bèo bọt nào, ông ra lệnh mật cho Bộ Tổng Tham Mưu kiểm thính điện đài các dàn khoan để tìm hiểu trữ lượng dầu hỏa với hy vọng Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam, ông nói: tôi sẽ làm Bộ Trưởng Dầu Hỏa chứ không làm Tổng Thống. Ông chỉ thị cho chính phủ tạo điều kiện dễ dàng cho ngoại quốc đầu tư, ông nói với tôi: bây giờ cho không để bọn nó vào (đầu tư) cũng phải “cho không”. Đối với cộng sản, cuộc tấn công chiếm Phước Long đầu năm 1975 là một trắc nghiệm về ý đồ tái can thiệp của Mỹ được mệnh danh là đòn “trinh sát chiến lược”, sau đó Bộ Chính trị đã quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên và tiếp theo là chiến dịch Hồ chí Minh. Đối với ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long vì sẽ tổn thất rất nặng không thể bù đắp, có chiếm lại cũng không giữ được, lực lượng trừ bị không còn và phải bảo toàn lực lượng cho các cuộc tấn công sắp tới của cộng sản.
H.- Ngoài việc tu chính gia tăng ba nhiệm kỳ Tổng Thống, còn có việc gia tăng thời hạn mỗi nhiệm kỳ từ 4 năm lên 5 năm. Lý do?
Đ.- Lý do được viện dẫn của tu chính là chương trình kinh tế ngũ niên nhưng sự thực là chúng tôi muốn có khoảng cách xa giữa cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ và Tổng Thống Việt Nam vì nhiệm kỳ Tổng Thống Mỹ cũng 4 năm, và cứ 4 năm thì nước Mỹ lại bị một cơn sốt chính trị ảnh hưởng nặng nề đến cuộc bầu cử Tổng Thống Việt Nam. Đây không phải là mục tiêu chính của tu chính Hiến Pháp nhưng nhân việc tu chính Hiến Pháp thì chúng tôi bỏ vào luôn.
H.- Ông Thiệu có tham khảo ý kiến của người Mỹ về việc tu chính Hiến Pháp hay không?
Đ.- Không.Như tôi đã nói ở trên, nội dung tu chính Hiến Pháp đã được quyết định ngay sau khi Tổng thống Thiệu ở San Clemente về nhưng được giữ mật cho đến sau cuộc bầu cử bán phần TNV tháng 10/73. Đại sứ Martin chỉ được Tổng thống Thiệu thông báo sau khi dự luật tu chính được đệ nạp tại Quốc hội tức là vào khởi đầu giai đoạn công khai. Ông Thiệu nói với tôi: Ngày hôm qua tôi có mời ông Martin vào đây (dinh Độc Lập) để thông báo về việc chúng ta tu chính Hiến Pháp tôi nói với ông Martin là tôi nhận thấy có bổn phận phải thông báo cho ông đại sứ vì Hoa Kỳ là đồng minh chính yếu đã giúp đỡ chúng tôi trong cuộc chiến. Cụ Hương được ông Thiệu thông báo vào lúc dự luật tu chính được đưa cho các dân biểu, nghị sĩ đứng tên tác giả v.v… Nội vụ hoàn toàn được giữ mật cho đến giờ cuối.ÔNG NGÂN NÓI NHIỀU về vai trò xấu xí của người Mỹ tại Việt Nam. Điều này không phải là một khám phá mới.Chúng ta cảm phục chế độ chính trị dân chủ và tổ chức kinh tế, xã hội công bằng và cổi mở của Hoa Kỳ, nhưng nhiều người bất mãn về ngoại chính của họ đối với Việt Nam ngày trước, và đối với nhiều nước khác hiện nay.Ông Ngân cũng thành công trong việc vẽ ra một ông Thiệu sợ Mỹ hơn sợ Việt Cộng, ưu tư và toan tính đối phó với Mỹ hơn là tìm cách bảo vệ miền Nam bằng những phương tiện quân sự eo hẹp hơn, nhưng cũng thích hợp hơn với hoàn cảnh của đất nước.Nhưng ông không trả lời đúng vào câu hỏi thứ 3, về việc ông Thiệu không làm những điều cần phải làm để bảo vệ đất nước trong giả thuyết người Mỹ giải kết. Ông nói ông không bào chữa cho ông Thiệu, nhưng trút toàn bộ trách nhiệm làm mất Việt Nam cho Hoa Kỳ lại là cách bào chữa kiến hiệu nhất.Ông Thiệu sợ Mỹ nhưng cũng chính ông lại tuyên bố là “không có viện trợ Mỹ, tôi không làm tổng thống nữa”, xin ông Ngân giải thích mâu thuẫn này.Quan trọng nhất vẫn là vai trò của ông Thiệu trong những ngày tháng cuối cùng của Nam Việt.
(trích trong Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu – Công và Tội – Nguyễn Đạt Thịnh)
Nguồn:http://www.vietnamville.ca/article.7189

Phóng viên VTV tác nghiệp tại điểm nóng Hoàng Sa - HD 981- https://youtu.be/D046iVZuvqo









Có gì mừng không khi “Mỹ đang điều hạm đội 7 đến bãi Tư Chính”?


Đó là câu nói được cho rằng là của Đô đốc, tư lệnh hạm đội 7, cũng là hạm đội mạnh nhất hải quân Hoa Kỳ G. Sawyer. Dĩ nhiên, câu nói này chưa được x.á.c thực nhưng việc Hoa Kỳ “đa’nh tiếng” ở một mức độ nào đó quan tâm đến xung đột tại bãi Tư Chính của Việt Nam là có thật.
Và (một số) dân Việt Nam mừng ra mặt, ơ thế mà mừng cái gì?
Năm 1974, khi quần đảo Hoàng Sa bị TQ n.ổ s.ú.n.g x.â.m l.ư.ợ.c, quân lực hạng 4 và hải quân hạng 3 thế giới không dám bay, không dám xuất tàu chỉ vì “Mỹ quan ngại gia tăng xung đột” hay đúng hơn là người Mỹ đã thỏa thuận cho phép TQ tấn công Hoàng Sa, đổi lại Mỹ nhận được sự ủng hộ của TQ trong vấn đề Liên Xô, Đông Âu. Những phi cơ bị cấm bay mặc dù đã chuẩn bị tất cả. Bấy giờ, hải quân và không quân VNCH được cho rằng mạnh áp đảo TQ và gần như “chấp” toàn bộ ASEAN.
Hay như năm 2012, bãi cạn của anh bạn Philippines cũng “đôi chủ”. Mỹ vẫn im lặng mặc dù trước đó cam kết sẽ “đồng hành vĩnh viễn cùng đồng minh Philippines”.
“Ơ thế hóa ra là “cú lừa” à?”
Hay lại như tòa án quốc tế Hà Lan chỉ nói mồm ăn đẫy 10 triệu USD tiền án phí của Philippines kèm theo một tuyên bố “thắng cuộc”. Và rồi anh bạn phương Bắc vẫn ngông nghênh “bố lại sợ tòa án của tụi mày quá”.
Nói vui chút, chỉ cần một tàu t.ê.n l.ử.a của hải quân Việt Nam cũng đủ để “làm gỏi” toàn bộ hạm đội của hải quân Philippines.
Nếu cư dân mạng Việt Nam đọc được những dòng mà người dân Philippines nhắn gửi đến Việt Nam, các bạn có lẽ sẽ nổi da gà. Họ nói rằng người Việt Nam đáng nhẽ nên tự hào về hải quân Việt Nam.
“Họ là nước duy nhất tại châu Á dám, sẽ và không ngại đối đầu với hải quân TQ, họ mới thực sự dũng cảm”
“Họ là quốc gia từng bị TQ chiếm đóng gần 1000 năm, bị Mỹ đa’nh gần 30 năm, bị Pháp đô hộ cả trăm năm. Nhưng chưa bao giờ họ chùn bước, lịch sử đã dạy họ trở thành những chiê’n binh có một không có hai. Chúng ta hổ thẹn trước họ”
“Ngư dân họ đa’nh bă’t tận Indonesia, Úc và sang cả Ấn Độ vẫn thấy có lực lượng bảo vệ, còn chúng ta đi xa khỏi bãi biển 30km cũng đã nghĩ đây không phải là Philippines rồi”.
“Tàu cá của họ bị húc, họ cứu. Tàu cá của ta bị húc, họ cũng ứng cứu. Họ dường như có mặt mọi nơi tại Biển Đông”
Chúng ta không thể “bốc” đất nước từ chỗ này sang chỗ kia được.
Cũng không thể nhờ vả một quốc gia nào giải quyê’t hộ vấn đề của mình được.
Bản thân một quốc gia không tự giải quyê’t được vấn đề của nước mình, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền, thì đất nước đó không xứng đáng có được độc lập, không xứng đáng có được tự do.
Bãi Tư Chính là chủ quyền của Việt Nam, nó không thuộc Trường Sa và càng không phải là vùng đất có tranh chấp.
Nếu Mỹ đưa quân vào Biển Đông, TQ càng có cái cớ để họ điều thêm lực lượng vào Hoàng Sa hay Trường Sa. Lực lượng này sẽ không phải cảnh s.á.t biển, hải giám mà sẽ là hải quân. Với động thái nhanh éo cần thiết của Mỹ, TQ sẽ biến “vùng đất không xung đột” thành “xung đột”, biến “nơi không có tranh chấp” thành “tranh chấp”.
Thế giới biết đến một Việt Nam sòng phẳng trên bàn đàm pha’n với Mỹ, Pháp, TQ. Thế giới biết đến Việt Nam “bất cần đời” trước gần 150 thành viên Liên Hợp Quốc trong vấn đề Khơ Me Đỏ. Việt Nam đâu có ngại ai và thực ra việc gì phải sợ. Họ gần như đều bị chúng tôi đa’nh bại rồi – Ông Nguyễn Cơ Thạch nói.
Việc gì phải cúi mình trước những kẻ bại tướng?
Chỉ duy nhất trên thế giới này có một quốc gia làm được như vậy.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiê’n tranh và hệ quả của nó cũng chính là giá trị của Hòa Bình.
Philippines, Thái Lan, Singapore, Indonesia… sẽ không hiểu cái giá Việt Nam đã phải trả để đường hoàng hiên ngang sống giữa đất trời. Việt Nam chưa bao giờ và sẽ không bao giờ cần một hiệp định “trao trả độc lập”.
Hàng triệu người Việt đã ngã xuống để có thể ngồi sòng phẳng tại Genève và Paris. Các cường quốc thế giới đã phải hạ mình cúi đầu chấp nhận đầu hàng hoặc rút quân vô điều kiện khỏi cái dải đất chữ S này.
“Chúng tôi đã làm được những cái việc mà người ta cho rằng: Không làm được.
Một cái việc là tưởng như là huyền thoại nhưng mà nó thành sự thật.
Nhưng phải chứng tỏ rằng nếu mà có sự quyê’t tâm lớn.
Không gì quý hơn độc lập, tự do.”
– Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Biển Đông sẽ còn sóng dữ.
Chúng ta sẽ không thể hiểu hay biết hết những gì đang diễn ra ngoài kia.
Chúng ta sẽ không thể rõ đang có những hy sinh lớn lao gì ở nơi đầu sóng ngọn gió.
Từ đáy lòng mình, nghiêng mình và nguyện cầu mong mọi điều tốt đẹp nhất đến các chiê’n sĩ, cán bộ, nhà báo ngoài kia.
https://tambao.net/co-gi-mung-khong-khi-my-dang-dieu-ham-doi-7-den-bai-tu-chinh.html
Nguồn: Vietnam Projects Constructio

#ktv1 #tintucdachieu

Bãi Tư Chính tối 29/7: Hạm đội 7 sẽ can thiệp nếuxung đột VN - TQ xảy ra Lầu Năm Góc cam Bãi Tư Chính tối 29/7: Hạm đội 7 sẽ can thiệp nếu xung đột VN - TQ xảy ra Lầu Năm Góc cam kết?

600 lượt xem
 https://youtu.be/JGUs-nD9BvM 
 
Trong hình ảnh có thể có: Mai Nguyễn Huỳnh

Bãi Tư Chính: Hoa Kỳ sử dụng "lá bài cuối cùng" nhằm VẠCH MẶT "vở tuồng" của Việt cộng và Tàu cộng
Có một chi tiết rất đáng lưu tâm đó là tin nhắn liên tục từ chỉ huy trưởng nhà giàn DK1 Bùi Xuân Bổng gởi đến Tổng Thư ký Báo Tuổi Trẻ rằng "Anh em OK, DK1 vẫn OK anh ơi! Không có chuyện đụng độ với tàu Trung Quốc đâu. Xin gửi lời chào đất liền".
Như vậy có thể khẳng định không có chuyện xung đột, đẩy đuổi của lực lượng chấp pháp Việt cộng trước việc tàu thăm dò dầu khí của Tàu cộng đang tác nghiệp ngay trong vùng miền thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam. Bởi vì nếu có xung đột, đẩy đuổi từ phía Việt cộng thì sẽ có những thước phim ghi lại tương tự như vụ giàn khoan HD - 981 năm 2014.

Giới thiệu về trang web này

YOUTUBE.COM
Có một chi tiết rất đáng lưu tâm đó là tin nhắn liên tục từ chỉ huy trưởng nhà giàn DK1 Bùi Xuân Bổng gởi đến Tổng Thư ký Báo Tuổi Trẻ rằng "Anh em OK, DK1 v...




     
Bãi Tư Chính Một Sáng Không Bình Yên, LHQ phán quyết Trung Quốc không chịu, cơ chế nào hơn cơ bắp?
KHi các cơ chế giải quyết đối đầu trên Biển Đông đang đổ vỡ, Liên Hiệp Quốc và phán quyết của tòa trọng tài quốc tế PCA mà cũng không làm Trung Quốc tuân thủ thì Việt Nam phải làm gì? Còn cơ chế nào xử lý hay phải dùng cơ bắp.
Sáng nay Bãi Tư Chính lại không bình an vì các biện pháp dường như đang đi vào ngõ cụt.

Giới thiệu về trang web này
YOUTUBE.COM
KHi các cơ chế giải quyết đối đầu trên Biển Đông đang đổ vỡ, Liên Hiệp Quốc và phán quyết của tòa trọng tài quốc tế PCA mà cũng không làm Trung Quốc tuân thủ...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét