Thứ Tư, 19 tháng 9, 2018


LÁ THƯ VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU - Gs LÊ NGUYỄN CÔNG TÂM GỞI TT DONALD TRUMP

https://youtu.be/QSx8Qw5-OBI

GS Nguyễn Công Tâm Thỉnh Nguyện Thử Gửi Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump

https://youtu.be/0W6zBTlIw9k


Chiến tranh Việt Nam: miền Bắc thắng nhờ lợi dụng lòng dân?



No media source currently available
0:00 0:03:28
0:00
Đường dẫn trực tiếp
Chiến tranh Việt Nam: chính nghĩa thuộc về ai?






Đấu tranh chính trị để xây dựng chính nghĩa cho mình và đả phá chính nghĩa của Sài Gòn, kế sách này đã giúp Hà Nội tập hợp sự ủng hộ của người dân Việt Nam không chỉ ở miền Bắc mà cả một bộ phận ở miền Nam, cùng lúc làm lay chuyển sự ủng hộ của dân Mỹ đối với cuộc chiến. Đó là một trong những nguyên nhân then chốt giúp Bắc Việt giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, theo các học giả Mỹ và Việt Nam tại một hội thảo mới đây ở thủ đô Washington, Hoa Kỳ.
Trong khi đó, chính quyền Sài Gòn lại chật vật tranh thủ sự ủng hộ của người dân, đối mặt với sự chia rẽ trong dư luận, bị nghi ngờ về tính chính nghĩa của mình ở cả trong nước và trên trường quốc tế, cũng theo các ý kiến tại hội thảo có tiêu đề: ‘Nhìn lại Chiến tranh Việt Nam’ do Tập hợp vì Dân chủ cho Việt Nam (ADVN) tổ chức tại Cơ quan Văn khố Quốc gia Mỹ hôm 14/9.
‘Giương cao chính nghĩa’
Chiến dịch đấu tranh ngoại giao ‘hết sức quyết liệt và hiệu quả’ của chính quyền Hà Nội trên trường quốc tế là ‘một trong những chìa khóa’ giúp miền Bắc giành chiến thắng chung cuộc bên cạnh chiến dịch quân sự ở miền nam, ông Pierre Asselin, Giáo sư Sử học thuộc Đại học San Diego và là tác giả của nhiều đầu sách về chiến tranh Việt Nam, nhận định.
Nhờ đó mà Hà Nội ‘đã giương cao chính nghĩa của mình là chính nghĩa hợp pháp trong khi liên tục đả kích tính chính nghĩa của miền Nam và của Mỹ’. Theo GS Asselin, đó là vũ khí để Hà Nội vô hiệu hóa sức mạnh quân sự rõ ràng là vượt trội của người Mỹ.
“Chung cuộc, Hà Nội đã có thể cô lập cả người Mỹ và miền Nam Việt Nam về ngoại giao,” ông Asselin nhận định trong phần tham luận có tựa đề ‘Nhìn từ Bắc Việt: Làm sao Bắc Việt thắng trong cuộc chiến’ và lưu ý rằng miền Nam đã không thể làm được như Hà Nội.
“Sài Gòn đã thất bại thảm hại trong việc thể hiện tính hợp pháp của mình ngay cả với dư luận trong nước,” ông nói.
Ông Asselin nói rằng ngay từ rất sớm trong cuộc chiến, chính quyền miền Bắc đã nhận thức được tầm quan trọng của thông tin tuyên truyền. “Hà Nội đã xây dựng được luận điệu tuyên truyền thậm chí ngay trước khi chiến tranh bắt đầu và luôn nhấn mạnh, duy trì luận điệu đó một cách nhất quán,” ông nói.
“Cách tuyên truyền đó thành công đến nỗi nó vẫn còn tiếp tục đến ngày nay,” ông nói thêm và dẫn chứng những sinh viên học sinh khi được học về Chiến tranh Việt Nam vẫn cho rằng Việt Nam Cộng hòa là ‘tay sai, bù nhìn’ của người Mỹ.
Về tính chính nghĩa của miền Nam, ông Tường Vũ, Giáo sư chính trị tại Đại học Oregon, cho rằng đó là một chính thể cộng hòa được xây dựng với các lý tưởng tự do dân chủ kết hợp với lý tưởng dân tộc. Theo ông thì những giá trị như ‘xã hội dân chủ tự do cho phép mọi người được tự do buôn bán, làm việc, học hành’ cũng tạo nên chính nghĩa của riêng miền Nam để thu hút người dân đứng lên.
Về lý tưởng dân tộc thì miền Nam cũng mong muốn Việt Nam ‘trở thành một quốc gia thống nhất, không bị lệ thuộc vào ngoại bang’, ông Vũ trình bày trong phần tham luận về quá trình xây dựng nhà nước cộng hòa ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1955-1975.
“Tổng thống Ngô Đình Diệm từng nhấn mạnh rằng sự can thiệp quân sự của người Mỹ là đi ngược lại lý tưởng dân tộc,” GS Vũ cho biết và nói rằng tuy nhiên sau đó Việt Nam Cộng hòa đã không thể chấm dứt được sự lệ thuộc vào người Mỹ.
Trả lời câu hỏi của VOA tại hội thảo rằng điều gì, chính nghĩa giải phóng dân tộc hay xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã giúp miền Bắc tranh thủ được sự ủng hộ của người dân miền Bắc và cả ở miền Nam tập kết ra Bắc, GS Asselyn nói rằng đó là vì miền Bắc ‘biết cách thao túng lịch sử’.
Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng chính người Mỹ cũng đã giúp Hà Nội tăng cường tính chính danh của mình khi họ tiến hành ném bom miền Bắc. Điều này càng làm cho người dân miền Bắc, vốn đã mệt mỏi sau cuộc chiến với người Pháp và không muốn có thêm một cuộc chiến nữa, càng hết lòng ủng hộ lãnh đạo của họ trong cuộc chiến ở miền Nam.
‘Thất sách’ của miền Nam
Trao đổi với VOA bên lề hội thảo về tại sao miền Nam cũng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc nhưng lại để cho quân Mỹ vào bắn giết người dân Việt Nam, GS Vũ cho rằng ‘đó là thất sách’ mà vì lẽ đó mà chính quyền miền Nam ‘phần nào mất đi tính chính nghĩa’.
Tuy nhiên, ông cho rằng ‘điểm yếu đó nằm ngoài khả năng kiểm soát của chính quyền miền Nam Việt Nam’ mặc dù ‘rất nhiều giới tinh hoa kể cả Tổng thống Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ đều không đồng ý đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam’.
Trước câu hỏi của VOA tại sao miền Bắc cũng đón quân Trung Quốc và Liên Xô vào cố vấn, vào đồn trú nhưng lại không ảnh hưởng đến chính nghĩa của họ trong mắt người dân, ông Vũ giải thích rằng đó là vì ‘miền Bắc để cho quân lính nước ngoài đóng ở các tỉnh biên giới sát với Trung Quốc và không được đi sâu vào thành phố’.
“Họ (quân nước ngoài) được bố trí ở những nơi hẻo lánh và kín đáo nên không tạo nên sự phản cảm với người dân trong khi ở miền Nam sự hiện diện của quân Mỹ là quá rõ ràng,” ông nói thêm và cho biết quân Trung Quốc và Liên Xô không trực tiếp chiến đấu như quân Mỹ ở miền Nam mà ‘chỉ huy các đơn vị phòng không và các đơn vị xây dựng sửa chữa cầu đường khi bị bom đạn phá hỏng’.
Ông Vũ cũng cho rằng tính chất chế độ Nhà nước ở miền Nam khiến cho họ gặp nhiều bất lợi hơn Hà Nội trong việc thống nhất dư luận cho cuộc chiến.
“Chế độ độc tài có thể huy động quân lính, huy động lương thực, huy động tài nguyên cho chiến tranh dễ hơn chế độ dân chủ vốn phải qua nhiều cuộc thảo luận mới có thể quyết định,” ông giải thích. “Thêm nữa là còn tinh thần thượng tôn pháp luật (ở miền Nam). Ở miền Bắc những ai bất đồng chính kiến thì bị bỏ tù ngay lập tức trong khi ở miền Nam thì không thể làm thế vì người dân có quyền biểu tình, có quyền thể hiện chính kiến của mình.”
Chính vì vậy mà miền Nam đã ‘không thể thống nhất được dư luận và gặp phải sự chống đối từ bên trong’, ông Vũ phân tích. Tuy nhiên, ông cho rằng miền Nam không thể nào làm theo miền Bắc là xây dựng một chế độ toàn trị để có thể thắng cuộc chiến vì ‘nếu từ bỏ những giá trị tự do thì miền Nam còn đi chiến đấu để làm gì?’
“Việt Nam Cộng hòa vẫn trung thành với lý tưởng của mình cho dù họ có thua trong cuộc chiến đi nữa,” ông nói.
Điều này cũng được GS Asselyn đồng tình. Ông cho rằng mặc dù bên ngoài không nghe thấy về thái độ phản chiến trong lòng Bắc Việt nhưng điều này thật sự là có vì ‘cho đến những năm 1969-1971, người dân Bắc Việt đã quá mệt mỏi với chiến tranh vì họ cũng là con người’ nhưng ‘Hà Nội đã làm tốt hơn rất nhiều so với Sài Gòn trong việc bóp nghẹt những tiếng nói phản đối’.
Cũng tại hội thảo, trước câu hỏi về tình trạng tham nhũng và không có tính giải trình (unaccountability) của các quan chức miền Nam làm tổn hại như thế nào đến cuộc chiến của họ, GS Vũ thừa nhận rằng ‘chắc chắn có tình trạng tham nhũng và vấn đề giải trình và xu hướng của một số lãnh đạo như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lĩnh có những hành động làm mất lòng tin của người dân, giới trí thức, xã hội dân sự và gặp khó khăn trong quan hệ với Mỹ’. Tuy nhiên, ông cho rằng xã hội lành mạnh và truyền thông độc lập ở miền Nam có thể đứng lên chống lại những hành vi vi phạm các chuẩn mực của nền Cộng hòa.
Về câu hỏi của VOA rằng đối với các nhà lãnh đạo miền Bắc thì mục tiêu chiến lược nào của họ là quan trọng hơn: dùng lá bài giải phóng dân tộc để tiến tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa xã hội hay dùng lý thuyết đấu tranh giai cấp để phục vụ cho việc giành độc lập dân tộc, ông Vũ cho rằng mục tiêu cuối cùng của các nhà lãnh đạo cộng sản ‘luôn là chủ nghĩa xã hội’ vì điều này ‘thể hiện rất rõ trong những văn kiện của Đảng Cộng sản từ những thập niên 30 cho đến 60’.
“Điều kiện cần thiết để họ đạt được mục tiêu đó (xây dựng chủ nghĩa xã hội) là quyền kiểm soát chính trị ở cả miền Bắc lẫn miền Nam,” ông giải thích và lấy dẫn chứng là cuộc cải cách ruộng đất mà thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn đã được các lãnh đạo miền Bắc đưa vào thực thi ngay cả trước khi họ đạt được mục tiêu giành độc lập dân tộc.
Về phần mình, GS Asselyn cũng cho rằng Hà Nội muốn thắng trong chiến tranh không chỉ vì mục tiêu thống nhất đất nước mà còn là ‘để tạo cảm hứng cho các phong trào cách mạng cánh tả khác trên thế giới’.
Tuy nhiên, chính sử của đảng Cộng sản cho rằng ông Hồ Chí Minh vì ra đi tìm đường cứu nước (độc lập dân tộc) mới tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lenin (Luận cương của Lenin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa) và xem chủ nghĩa xã hội là con đường giải phóng dân tộc. Trong khi đó, trước giờ các văn kiện của Đảng Cộng sản vẫn đặt hai mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội song song và ngang nhau.
Lung lạc dân Mỹ
Nhìn từ quan điểm của nước Mỹ, trong phần tham luận có tiêu đề ‘Cuộc đấu tranh chính trị không được để ý: Tại sao miền Nam Việt Nam và đồng minh thua cuộc chiến?’, GS Robert Turner thuộc Trường Luật Đại học Virginia nhấn mạnh rằng các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt ‘đã rất thành công trong việc làm cho người Mỹ quay lưng lại với cuộc chiến’.
“Chúng ta đã nói nhiều về việc Bắc Việt đã giành được khối óc và trái tim của người dân Việt Nam nhưng chúng ta ít khi để ý đến việc họ đã chiếm được tình cảm và suy nghĩ của người dân Mỹ,” ông Turner nói.
“Chúng ta tham chiến với sự ủng hộ áp đảo của người dân Mỹ,” ông nhắc và đưa ra dẫn chứng là tỷ lệ ủng hộ của Tổng thống Lyndon B. Johnson đã tăng vọt lên thêm 30 điểm (tức tăng đến 58%) sau khi ông lần đầu tiên ra lệnh dùng vũ lực đối với miền Bắc Việt Nam và việc Quốc hội Mỹ đã cho phép sử dụng hành động quân sự với tỷ lệ 99,6% bỏ phiếu thuận trong khi hai nghị sỹ bỏ phiếu chống đã thất cử ngay sau đó.
Theo ông Turner thì cho đến năm 1970 nhiều quan chức và giới học thuật nhận thấy rõ là Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa ‘đang trên đà thắng’, và điều này cũng được chính các quan chức ở Hà Nội nhìn nhận.
Ông lấy dẫn chứng là lời của Đại tá Bùi Tín, người vừa qua đời tại Paris, thuật lại vào giữa những năm 1990 rằng ‘kể từ năm 1965 thì Bộ Chính trị đã biết rằng họ không thể nào đánh thắng được Mỹ’ và ‘hy vọng duy nhất của Hà Nội là thắng lợi trong phong trào phản chiến ở Mỹ’.
Chính vì vậy, GS Turner cho rằng chính quyền Hà Nội và các đồng minh của họ đã tiến hành một cuộc đấu tranh chính trị ‘tài ba’ để thay đổi lập trường của người dân Mỹ đối với cuộc chiến.
Ông dẫn lại nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9 của Đảng Lao Động Việt Nam vào năm 1963 đã trình bày về chiến lược chiến tranh chính trị như sau: “Chúng ta phải tiến hành mọi nỗ lực để thúc đẩy các tổ chức yêu chuộng hòa bình của nhân dân Á, Phi, Mỹ Latin có hành động mạnh mẽ yêu cầu đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Chúng ta cũng phải tranh thủ sự thông cảm và ủng hộ của nhân dân các nước đế quốc như Mỹ, Anh, Pháp’.
Chiến lược chiến tranh chính trị này thật ra đã được giới lãnh đạo cộng sản miền Bắc áp dụng từ cuộc chiến chống lại người Pháp. Ông Turner đã dẫn lời Tổng bí thư Trường Chinh viết vào năm 1947 rằng họ phải ‘cô lập kẻ thù, thêm nhiều bạn’ và tranh thủ sự ủng hộ của người dân Pháp, người dân ở các thuộc địa của Pháp và của ‘tất cả các lực lượng yêu chuộng hòa bình’ trên thế giới.
“Dưới sức ép của các nhà hoạt động phản chiến, vào tháng 5 năm 1973, Quốc hội Mỹ đã thông qua luật để đưa tới thất bại từ ngưỡng cửa của chiến thắng,” ông Turner nói và cho biết đạo luật này đã dừng mọi chu cấp tài chính của Mỹ cho cuộc chiến ở Việt Nam.
Ngoài ra, theo GS Asselyn, các nguyên nhân khác giúp miền Bắc giành thắng lợi chung cuộc là ‘khả năng tổ chức tài tình về mặt đảng và mặt quân đội’, ‘sự kiên trì, bền bỉ đến không ngờ’, ‘khả năng phục hồi sau những thất bại thảm khốc như chiến dịch Mậu Thân 1968’, ‘biết lợi dụng chia rẽ giữa Moscow và Bắc Kinh để đạt được sự ủng hộ vật chất, chính trị và tinh thần của cả hai bên’, và việc Lê Duẩn và các cộng sự thân cận của ông ‘không hề quan tâm đến việc phải hy sinh bao nhiêu nhân mạng để đạt đến thắng lợi’.
Ngoài ra, sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong thắng lợi của miền Bắc mà nếu không, theo GS Tường Vũ, thì Hà Nội không thể nào thắng được Mỹ và Sài Gòn.
Ông Asselyn cho rằng nhờ vào sự ủng hộ của hai nước lớn này mà quân đội Bắc Việt, vốn phần lớn là nông dân, đã được huấn luyện và trang bị tốt ‘như bất cứ quân đội nào trên thế giới’.
“Bất chấp những sai lầm thảm họa của giới lãnh đạo và đặc biệt là của (Bí thư thứ nhất) Lê Duẩn, Bắc Việt Nam vẫn chiến thắng,” ông Asselyn kết luận.
Nguồn: https://www.voatiengviet.com/a/chi%E1%BA%BFn-tranh-vi%E1%BB%87t-nam-mi%E1%BB%81n-b%E1%BA%AFc-th%E1%BA%AFng-nh%E1%BB%9D-l%E1%BB%A3i-d%E1%BB%A5ng-l%C3%B2ng-d%C3%A2n-/4577693.html

‘Nữ hoàng phản chiến’ Hanoi Jane thú nhận 'vô tâm' nhưng 'chê' phim Chiến Tranh Việt Nam





Nữ diễn viên-nhà hoạt động Mỹ Jane Fonda ngồi trên họng súng cao xạ của quân đội Bắc Việt và hát bài hát phản chiến trong chuyến thăm Hà Nội vào tháng 7 năm 1972.






Nữ diễn viên Mỹ-nhà hoạt động Jane Fonda, người đóng vai trò tích cực trong phong trào phản chiến thời chiến tranh Việt Nam, thú nhận bà đã “vô tâm” khi chụp ảnh ngồi trên nòng súng cao xạ của quân đội Bắc Việt, nhưng lại nói rằng bà “thất vọng” và “không thể chịu đựng được” bộ phim tài liệu lịch sử “Chiến Tranh Việt Nam” phát hành gần đây của hai đạo diễn nổi tiếng Ken Burns & Lynn Novick.
Xuất hiện trong một chương trình thảo luận bàn tròn của TCA nhằm quảng bá cho bộ phim tài liệu “Jane Fonda In Five Acts” trên kênh HBO sắp tới, nữ diễn viên Jane Fonda được hỏi, bà đã xem bộ phim tài liệu được khen ngợi của hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick chưa? “Hanoi Jane” trả lời ngay rằng: “Tôi không thể chịu được bộ phim đó. Tôi rất thất vọng. Ông ấy (đạo diễn Ken Burns) không hiểu vai trò của phong trào phản chiến Mỹ trong việc kết thúc chiến tranh Việt Nam”, Decider dẫn lời nữ diễn viên Mỹ.
Giải thích lý do “quá thất vọng” về bộ phim, Jane Fonda nói: “Phim không hay”, và thêm rằng “Tôi rất tôn trọng ông ấy. Tôi cho rằng phim ‘The Civil War’ (Nội Chiến) là một trong những bộ phim tài liệu vĩ đại về lịch sử nước Mỹ. Nhưng tôi nghĩ ông ấy không đạt được điều này trong phim ‘The Vietnam War’ (Chiến Tranh Việt Nam). Ông ấy không hiểu. Hay ông ấy đang cố hết sức để khách quan? Tôi không biết”.




Đạo diễn Ken Burns trong một buổi giới thiệu ra mắt phim "Chiến Tranh Việt Nam" ngày 30/7/2017.
Đạo diễn Ken Burns trong một buổi giới thiệu ra mắt phim "Chiến Tranh Việt Nam" ngày 30/7/2017.
Theo mô tả của trang Decider, nữ diễn viên 81 tuổi của Mỹ tỏ ra đặc biệt khó chịu về chuyện bà không được xuất hiện với những nhân vật nổi bật trong phong trào phản chiến Mỹ. Bà thừa nhận cả bà và chồng cũ, cựu Thượng nghị sĩ Tom Hayden, đều không được nhóm của đạo diễn Burns phỏng vấn, dù trong phim có sự xuất hiện của nhà hoạt động phản chiến ôn hòa Bill Zimmerman.
“Ông ấy không nói chuyện với mọi người. Chẳng hạn như, tôi không mong đợi được tham gia bộ phim, nhưng ông ấy chưa bao giờ nói chuyện với tôi về những gì chúng tôi đã làm và tại sao lại làm điều đó”, bà Jane Fonda nói.
Trước đó, khi trả lời các nhà báo về tấm ảnh đã khiến bà mang biệt danh “Hanoi Jane”, nữ diễn viên Mỹ thú nhận rằng bà đã “vô tâm” khi ngồi lên nòng súng cao xạ của quân đội Bắc Việt trong chuyến đi thăm Hà Nội năm 1972.
“Tôi thấy hối hận vì đã vô tâm ngồi lên nòng súng của quân Bắc Việt vào thời điểm đó và về thông điệp mà hành động đó của tôi gửi tới các quân nhân trẻ phục vụ tại đó, cũng như tới gia đình của họ”, bà Fonda nói.
Tấm ảnh đã khiến cho nữ diễn viên Mỹ trở thành mục tiêu bị đả kích nặng nề trong giới cựu chiến binh Việt Nam cho mãi tới bây giờ, vì nhiều người cho rằng bà là “kẻ phản quốc”.
Trong chương trình phỏng vấn, trang Decider dẫn lời bà Fonda thậm chí nói rằng khi nhìn lại tấm ảnh đó, “Tôi thấy buồn nôn!”
Nữ diễn viên Mỹ tỏ ra tự hào về các hoạt động phản chiến của bà và mô tả chiến tranh Việt Nam là một sự kiện làm thay đổi cuộc đời bà.
“Trước khi trở thành một nhà hoạt động phản chiến, tôi có cuộc sống sôi động nhưng vô nghĩa”, bà Fonda nói trong cuộc thảo luận bàn tròn.
Trả lời câu hỏi của Decider về cách bà ứng phó trước lòng căm hận của nhiều người đối với bà trong nhiều năm qua, Jane Fonda trả lời: “Có hai điều. Một là tôi không bao giờ đơn độc. Tôi là một phần của phong trào. Bao quanh tôi là tình thân và sự hỗ trợ. Điều sai lầm là tôi đã đến Việt Nam một mình. Tôi không nên làm như vậy. Nhưng tôi không đơn độc. Tôi có những người bạn đã ở đó một tuần trước khi tôi đến. Nhưng mọi người không biết có bao nhiêu người đã đi thăm miền Bắc Việt Nam vào thời điểm đó. Họ đến rồi đi”.
“Tôi biết tôi là ai. Tôi biết tại sao tôi lại đi. Tôi có những người yêu tôi và vây quanh ủng hộ tôi. Đó là cách để bạn sống sót trước sự căm hận. Điều đó rất tệ”.
Jane Fonda cho biết chính cuộc gặp với các binh sĩ Mỹ ở Paris trước đó đã dẫn bà vào con đường hoạt động phản chiến. Sau cuộc gặp gỡ đó, bà cảm thấy mình đã bị các nhà lãnh đạo Mỹ lúc bấy giờ “phản bội” và “lừa dối”, cho nên đã quyết định làm tất cả những gì có thể để chấm dứt chiến tranh Việt Nam, theo ABC News.
‘Nữ hoàng phản chiến’ Hanoi Jane thú nhận 'vô tâm' nhưng 'chê' phim Chiến Tranh Việt Nam



https://youtu.be/fehljJ4UBP8?list=PL231429C17BE39E34
Nguồn:https://www.voatiengviet.com/a/nu-hoang-phan-chien-hanoi-jane-chien-tranh-viet-nam/4500883.html



Mai Nguyễn Huỳnh qua Google+

5 năm trước  -  Được chia sẻ công khai
 PHONG TRÀO PHẢN CHIẾN HOA KỲ.
Jane Fonda, cô đào phản chiến Hoa Kỳ trong tập đoàn quan chức quốc hội Mỹ thời chiến tranh VN. Trong đó hiện tại bây giờ, là Ngoại trưởng John Kerry và Phó TT Joe Bidden đã gây nên hệ quả mất tự do- dân chủ và quyền sống 23 triệu người dân Miền Nam VN bị cộng Sả Bắc Việt hóa, chiếm đóng Sài Gòn- Miền Nam, vì hành động thân cộng sản,của phong trào phản chiến cho quyền lợi riêng tư của xứ sở Hoa Kỳ.
Jane Fonda đã hối hận và phản tỉnh thiếu tin thần trách nhiệm vì an ninh hòa bình thế giới, bị cộng sản Hà Nội lợi dụng chiến tranh để tuyên truyền. Còn Ngoại Trưởng John Kerry và Joe Bidden, vẫn bám bíu vào lòng kiêu ngạo tự hào tự do dân tộc truyền thống lập quốc Hoa Kỳ, mà bỏ rơi quyền sống tự do của đồng minh chiến hữu QL.VNCH- Be bờ Cộng Sản hóa quốc tê ĐNÁ/TBD..

MỸ- CỘNG ĐÃ CHIẾN THẮNG TRONG CUỘC CHIẾN VN NHƯ THẾ NÀO.

Một quyển sách của tiến sĩ Roger Canfield vừa được ra mắt ở Mỹ đã đưa ra một cái nhìn khác, khá thú vị, về kết cục của chiến tranh Việt Nam.

Mỹ-cộng đã chiến thắng trong cuộc chiến VN như thế nào

Cập nhật: 22.03.2010 20:00
Cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc 35 năm nay, nhưng cho tới giờ nó vẫn còn làm hao tốn biết bao giấy mực của giới cầm bút, những nhà văn, nhà nghiên cứu, cũng như các cơ quan báo chí truyền thông trong và ngoài nước. Sách vở tại Việt Nam miêu tả kết quả cuộc chiến rằng quân đội Mỹ đã bị quân Bắc Việt đánh bại hoàn toàn. Trong khi đó, một số sách báo bên ngoài lại viết rằng do tình hình thời cuộc, Mỹ đã quyết định triệt thoái ra khỏi chiến trường Việt Nam vào tháng 4 năm 1975.

Một quyển sách của tiến sĩ Roger Canfield vừa được ra mắt ở Mỹ hơn một tháng trước thời khắc kỷ niệm đúng 35 năm ngày kết thúc cuộc chiến đã đưa ra một cái nhìn khác, khá thú vị, về kết cục của chiến tranh Việt Nam. Tác phẩm có nhan đề “Comrades in arms: How the Ameri-cong won the Vietnam war against the common enemy-America”, tạm dịch ngắn gọn là “Mỹ-cộng đã chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam như thế nào”.

Tiến sĩ Canfield là một ký giả và là một nhà phân tích chiến lược chính trị dày dặn kinh nghiệm, chuyên nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản và các chính sách của Hoa Kỳ. Ông đã mất 22 năm nghiên cứu kể từ năm 1988 để hoàn thành tác phẩm này. Tác giả cho biết ba chương sách dày tổng cộng 1600 trang được ông đúc kết từ rất nhiều tư liệu sách báo-lịch sử, các cuộc phỏng vấn, hồi ký, các tài liệu của CIA, FBI, cũng như của chính quyền cộng sản Việt Nam.

Điều thú vị đầu tiên đập vào mắt người đọc có lẽ xuất phát từ tựa đề quyển sách, với từ “Ameri-cong”. Trước nay, người ta thường nhắc nhiều tới các từ như Việt cộng hay Trung cộng, nhưng dường như ít ai dùng, hoặc nghe tới hai từ “Mỹ-cộng”. Và đó cũng là điểm nhấn chính của tác phẩm này. Tác giả Canfield giải thích:
“Ameri-cong là vì một số những người hoạt động phản chiến và kêu gọi hòa bình họ tự xưng như thế. 'Mỹ-cộng'” có nghĩa là những người Mỹ đồng quan điểm với Việt cộng, với công cuộc đấu tranh của cộng sản. 'Mỹ-cộng' và Việt cộng đều xem chủ nghĩa đế quốc Mỹ là kẻ thù chung.”

Biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam tại Boston, 1970
Biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam tại Boston, 1970
Theo tiến sĩ Canfield, chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến chính trị, chứ không phải là một cuộc chiến quân sự, và sở dĩ Mỹ can dự là vì đây là một phần của cuộc chiến tranh lạnh, mà Trung Quốc và Liên Xô lúc bấy giờ cũng can thiệp vào cuộc chiến Việt Nam. Tác giả cho rằng kết quả cuộc chiến là do người Mỹ thua mặt trận chính trị ngay tại Quốc hội Hoa Kỳ năm 1975 vì ảnh hưởng của truyền thông và các phong trào hòa bình-phản chiến, chứ quân Mỹ không thua trận do bị cộng sản Việt Nam đánh bại:

“Vào thời điểm cuối của cuộc chiến, phong trào phản chiến đã thuyết phục được Quốc hội ngưng viện trợ cho miền Nam. Đó là thực tế, nhưng trước đó, chúng tôi đã đánh bại Việt cộng nhiều lần trong các cuộc tấn công lớn của họ hồi những năm 1968 và 1972. Không đúng khi nói rằng Hoa Kỳ thua trận trên chiến trường mà phải nói là thua tại sân nhà, tại các làn sóng phản chiến trên các đường phố New York và Washington lúc bấy giờ. Đó là thông điệp chính của tôi.”
Và thông điệp ấy đã được tiến sĩ Canfield trình bày cặn kẽ trong cuốn sách vừa phát hành. Ông nói tiếp:

“Nội dung của quyển sách là tìm hiểu cách thức mà cộng sản Việt Nam đã thắng lợi trong cuộc chiến nhờ vào việc sử dụng các phong trào phản chiến và các phong trào kêu gọi hòa bình tại Mỹ. Đây là một cuộc chiến chính trị hơn là một cuộc chiến quân sự. Người cộng sản lúc bấy giờ hiểu rõ điều đó trong khi người dân Mỹ thì không. Thông điệp chính mà tôi muốn gửi gắm qua tác phẩm này là hầu hết những gì người Mỹ hiểu về cuộc chiến Việt Nam là sai lầm, bởi vì phần lớn những gì được ghi lại trong sách vở là sự tuyên truyền của cộng sản Việt Nam. Khác biệt giữa quyển sách này với hàng ngàn cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam là ở chỗ chưa có một cuốn sách nào nghiên cứu chi tiết các cuộc tiếp xúc và thăm viếng qua lại giữa chính quyền Hà Nội với phe phản chiến tại Mỹ lúc bấy giờ.

Chiến tranh là điều không nên vì chiến tranh thật khủng khiếp, đặc biệt là cuộc chiến Việt Nam. Tuy nhiên, nó là một cuộc chiến nhằm ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Đây là một chiến trường quan trọng trong chiến tranh lạnh. Các chiến sĩ cộng hòa ở miền Nam Việt Nam không đánh bại được lính cộng sản miền Bắc vì quân đội Mỹ đã phản bội họ. Theo tôi, phản bội đồng minh của mình là điều đáng xấu hổ.”

Anh Dũng Nguyễn, một độc giả trẻ tại miền Tây Hoa Kỳ đã tham gia buổi ra mắt sách hôm 3/3 vừa qua ở Viện Bảo tàng Quân sự của bang California đặt tại Sacramento, cho biết cảm tưởng sau khi đọc qua quyển sách của tiến sĩ Canfield:

“Đầu tiên mình thấy rất tội cho người Việt Nam của mình khi thấy tương lai của dân tộc bị ảnh hưởng bởi phong trào phản chiến. Từ đó dẫn tới phong trào thuyền nhân, với biết bao nhiêu người đã chết trên biển. Càng đọc càng thấy đau đớn nhiều hơn. Cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, và Liên Xô dùng những chiến lược và chiến thuật về tuyên truyền. Họ đã dùng các phong trào phản chiến làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam.”

Một câu hỏi được đặt ra có nên không khi lên án phong trào phản chiến vì nếu không có nó e rằng cuộc chiến Việt Nam sẽ còn kéo dài hơn nữa. Vì vậy có người cho rằng nhờ nó mà chiến tranh sớm kết thúc, giảm bớt đau thương mất mát?

Độc giả trẻ tên Dũng lập luận:

“Chiến tranh càng dài càng hại cho dân tộc Việt Nam, nhưng nếu chỉ vì nước Mỹ họ vì quyền lợi của họ mà làm ảnh hưởng đến sinh tồn của một quốc gia Việt Nam thì điều đó thật là không công bằng.”

Một bạn đọc khác tên Ngọc Giao từ miền Đông Bắc nước Mỹ nói về quyển sách của tiến sĩ Canfield sau khi đã xem trọn tác phẩm này:

Biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam tại Memorial Bridge, Washington, D.C., 10/1967
Biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam tại Memorial Bridge, Washington, D.C., 10/1967
“Ngọc Giao cũng tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam, thấy rằng có nhiều chi tiết trong tác phẩm này hoàn toàn trái ngược với các sách giáo khoa. Tác giả dẫn chứng rất rõ ràng những nỗ lực của các nhân vật như Tom Hayden hay Jane Fonda có những hội hỗ trợ tiếp tay cộng sản Việt Nam làm các chương trình phản chiến. Cho nên các chương trình phản chiến có sự hỗ trợ và tài trợ rất mạnh mẽ. Một câu kết của ông rất rõ ràng, nói rằng dù cho phong trào phản chiến có làm gì đi nữa thì trách nhiệm chính vẫn là tại Quốc hội Hoa Kỳ. Quốc hội Hoa Kỳ đã có quyết định sai lầm nhưng trong đó có ảnh hưởng của phong trào phản chiến tạo dư luận quần chúng.

Tác giả là một người Mỹ, ông ta đã nói lên sự phẫn uất của người Mỹ trước sự sai lạc của truyền thông Hoa Kỳ, nhưng ông ta quên không nhắc tới vai trò của chính quyền và quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông có nhắc tới một phần thôi, nhưng tôi nghĩ vai trò của chính quyền miền Nam Việt Nam cần phải được đặt mạnh hơn nữa và rõ ràng hơn nữa.”

Một chuyên gia giảng dạy lớp nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam trong nhiều năm và cũng từng có bài viết nói về vai trò của truyền thông trong cuộc chiến này phản đối quan điểm của tiến sĩ Canfield. Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia quân sự cao cấp thuộc Học viện Quốc phòng Hoàng gia Australia, không đồng ý với lập luận của tiến sĩ Canfield cho rằng phong trào phản chiến ở Mỹ đã cấu kết với phe cộng sản để lật đổ chủ nghĩa đế quốc Mỹ.

Giáo sư Thayer phát biểu:

“Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến cách mạng kéo dài. Và hiểu theo cách cộng sản đó là cuộc chiến kết hợp giữa quân sự và chính trị. Đó là cuộc đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Tôi không đồng ý với ý kiến cho rằng Hoa Kỳ thua tại mặt trận ở nhà. Có rất nhiều cuộc nghiên cứu sâu rộng về vai trò của truyền thông trong cuộc chiến này nhưng không có kết quả nào ủng hộ ý kiến cho rằng phong trào phản chiến tại Mỹ đã thành công trong việc dẫn tới việc Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam.

Tôi cũng không đồng ý với quan điểm cho rằng Hoa Kỳ thua trận. Cuộc chiến mà Hoa Kỳ đương đầu là một cuộc chiến cách mạng kéo dài và vì thế nói thắng hay thua là không hợp lý vì theo thời gian, mục tiêu của nước Mỹ thay đổi. Mỹ đã không thành công duy trì độc lập cho phe cộng hòa ở Việt Nam. Đây không phải là cuộc chiến tranh hiểu theo nghĩa thông thường là 1 quốc gia xâm lược một nước khác, mà đây là một cuộc chiến cách mạng, một cuộc chiến cách tân Việt Nam khỏi chủ nghĩa cộng sản.”

Trà Mi vừa gửi đến quý vị một số ý kiến của tác giả, độc giả, và giới chuyên gia nghiên cứu về quyển sách của tiến sĩ Roger Canfield nhan đề: “Mỹ-cộng đã chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam như thế nào”. Đây là một cuốn sách điện tử, nghĩa là tác phẩm được phát hành dưới dạng đĩa CD để độc giả có thể đọc qua màn hình máy tính. Muốn tìm đọc tham khảo, quý vị và các bạn có thể email cho tác giả Canfield về địa chỉ rogercan@pacbell.net. Sau khi đọc qua tác phẩm này, các bạn có suy nghĩ như thế nào, hoặc quan điểm của các bạn về cuộc chiến Việt Nam có gì thay đổi, xin hãy chia sẻ với Trà Mi tại địa chỉ email vietnamese@voatiengviet.com, hoặc điền vào mục ý kiến trên trang web của đài VOA www.voatiengviet.com, các bạn nhé.
Nguồn: http://www.voatiengviet.com/content/comrades-in-arms-how-the-ameri-cong-won-the-vietnam-war-against-the-co

Huỳnh Mai St.8872

Jane Fonda, cô đào phản chiến Hoa Kỳ trong tập đoàn quan chức quốc hội Mỹ thời chiến tranh VN. Trong đó hiện tại bây giờ, là Ngoại trưởng John Kerry và Phó TT Joe Bidden đã gây nên hệ quả mất tự do- dân chủ và quyền sống 23 triệu người dân Miền Nam VN bị cộng Sả Bắc Việt hóa, chiếm đóng Sài Gòn- Miền Nam, vì hành động thân cộng sản,của phong trào phản chiến cho quyền lợi riêng tư của xứ sở Hoa Kỳ.
Jane Fonda đã hối hận và phản tỉnh thiếu tin thần trách nhiệm vì an ninh hòa bình thế giới, bị cộng sản Hà Nội lợi dụng chiến tranh để tuyên truyền. Còn Ngoại Trưởng John Kerry và Joe Bidden, vẫn bám bíu vào lòng kiêu ngạo tự hào tự do dân tộc truyền thống lập quốc Hoa Kỳ, mà bỏ rơi quyền sống tự do của đồng minh chiến hữu QL.VNCH- Be bờ Cộng Sản hóa quốc tê ĐNÁ/TBD...
Nguyễn Chính- Trên Facebook
Tuần này, nữ tài tử Jane Fonda, nay đã 76 tuổi, đã 3 lần nói về cuốn sách mới của bà "Jane Fonda: My Life So Far" sẽ được phát hành vào tháng 10/2013. Jane Fonda đã nhiều lần lên tiếng xin lỗi về chuyến đến Hà Nội kéo dài 2 tuần lễ vào năm 1972, trong đó nổi bật nhất là những bức ảnh ngồi trên mâm pháo của bộ đội phòng không Bắc Việt. Vì những tấm hình này, Fonda đã bị mang một cái tên mỉa mai “Hanoi Jane”.

Phát biểu trong chương trình truyền hình của Ophrah Winfrey, Jane Fonda tuyên bố:
“Tôi phạm một sai lầm không thể nào tha thứ được khi tôi đến Bắc Việt và tôi sẽ mang theo lỗi lầm đó đi xuống mồ.” Fonda nói rằng khi đó bà nhận biết ngay tức khắc là đã phạm sai lầm và đã nhiều lần xin lỗi trước công chúng.

Theo Fonda, việc chụp hình trên mâm pháo xảy ra vào ngày cuối cùng tại Hà Nội khi đó bà đã thấm mệt: "Hình ảnh Jane Fonda, Barbarella, con gái của Henry Fonda... ngồi trên súng cao xạ của đối phương là một sự phản bội. Hành động này là sự thiếu suy xét nhất mà tôi có thể tưởng tượng… Tôi không biết có bị dàn cảnh hay không nhưng khi đó tôi đã trưởng thành. Tôi nhận lãnh mọi trách nhiệm về những hành động của mình”.

Tuy vậy, Fonda nói không hối tiếc khi đã thăm Hà Nội cũng như chụp hình chung với các tù binh Mỹ tại đó: "Có hàng trăm đoàn Mỹ đã gặp các tù binh chiến tranh [POW]. Cả hai phía đều dùng vấn đề POW làm tuyên truyền. Đây không phải là điều mà tôi phải xin lỗi."

Về cuộc gặp gỡ POW có một chi tiết thú vị. Tù binh Mỹ tại “Hanoi Hilton” đã nghĩ ra một kế hoạch cho thế giới biết họ vẫn còn sống. Từng người giấu kín một mẫu giấy tí xíu trong lòng bàn tay, với số An sinh Xã hội của mình ghi trên đó. Khi diễu qua trước Fonda và một người quay phim, từng người đưa vào lòng bàn tay Fonda mẩu giấy của họ.

Bà ta nhận hết chẳng bỏ sót ai.... Đến cuối hàng và khi máy ngưng quay, trước cú sốc không tin được của các tù binh, Fonda quay sang viên sĩ quan chỉ huy và đưa cho hắn ta tất cả các mẫu giấy....

Kết quả là ba người chết vì bị đánh đập. Đại tá Larry Carrigan suýt là người thứ tư nhưng ông đã sống sót, đó là nguyên do duy nhất chúng ta biết đến hành động của Fonda vào ngày đó.

Jane Fonda sắp được vinh danh như là một trong "100 người Đàn bà của Thế kỉ."

Hình ảnh: Tuần này, nữ tài tử Jane Fonda, nay đã 76 tuổi, đã 3 lần nói về cuốn sách mới của bà "Jane Fonda: My Life So Far" sẽ được phát hành vào tháng 10/2013. Jane Fonda đã nhiều lần lên tiếng xin lỗi về chuyến đến Hà Nội kéo dài 2 tuần lễ vào năm 1972, trong đó nổi bật nhất là những bức ảnh ngồi trên mâm pháo của bộ đội phòng không Bắc Việt. Vì những tấm hình này, Fonda đã bị mang một cái tên mỉa mai “Hanoi Jane”. Phát biểu trong chương trình truyền hình của Ophrah Winfrey, Jane Fonda tuyên bố: “Tôi phạm một sai lầm không thể nào tha thứ được khi tôi đến Bắc Việt và tôi sẽ mang theo lỗi lầm đó đi xuống mồ.” Fonda nói rằng khi đó bà nhận biết ngay tức khắc là đã phạm sai lầm và đã nhiều lần xin lỗi trước công chúng. Theo Fonda, việc chụp hình trên mâm pháo xảy ra vào ngày cuối cùng tại Hà Nội khi đó bà đã thấm mệt: "Hình ảnh Jane Fonda, Barbarella, con gái của Henry Fonda... ngồi trên súng cao xạ của đối phương là một sự phản bội. Hành động này là sự thiếu suy xét nhất mà tôi có thể tưởng tượng… Tôi không biết có bị dàn cảnh hay không nhưng khi đó tôi đã trưởng thành. Tôi nhận lãnh mọi trách nhiệm về những hành động của mình”. Tuy vậy, Fonda nói không hối tiếc khi đã thăm Hà Nội cũng như chụp hình chung với các tù binh Mỹ tại đó: "Có hàng trăm đoàn Mỹ đã gặp các tù binh chiến tranh [POW]. Cả hai phía đều dùng vấn đề POW làm tuyên truyền. Đây không phải là điều mà tôi phải xin lỗi." Về cuộc gặp gỡ POW có một chi tiết thú vị. Tù binh Mỹ tại “Hanoi Hilton” đã nghĩ ra một kế hoạch cho thế giới biết họ vẫn còn sống. Từng người giấu kín một mẫu giấy tí xíu trong lòng bàn tay, với số An sinh Xã hội của mình ghi trên đó. Khi diễu qua trước Fonda và một người quay phim, từng người đưa vào lòng bàn tay Fonda mẩu giấy của họ. Bà ta nhận hết chẳng bỏ sót ai.... Đến cuối hàng và khi máy ngưng quay, trước cú sốc không tin được của các tù binh, Fonda quay sang viên sĩ quan chỉ huy và đưa cho hắn ta tất cả các mẫu giấy.... Kết quả là ba người chết vì bị đánh đập. Đại tá Larry Carrigan suýt là người thứ tư nhưng ông đã sống sót, đó là nguyên do duy nhất chúng ta biết đến hành động của Fonda vào ngày đó. Jane Fonda sắp được vinh danh như là một trong "100 người Đàn bà của Thế kỉ."

Jane Fonda- Ngồi trên pháo tháp cao xạ, tuyên truyền cho Cộng Sản Hà Nội.

MỸ CỘNG, VIỆT CỘNG BẮT TAY!
HAI THẰNG ĐỐI TÁC...VIỆT NAM ĂN MÀY!?

Huỳnh Mai St.8872
{Tổng hợp nguồn tin PTPC/Hoa Kỳ}
Được đăng bởi Mai Nguyễn Huỳnh vào lúc 22:50 Gửi email bài đăng này BlogThis! Chia sẻ lên Twitter Chia sẻ lên Facebook
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2013/05/phong-trao-phan-chien-hoa-ky.html

#thờisựhoakỳ #thoisuhoaky

23/9/2018 CẢ NƯỚC MỸ C-Ă-M G-H-ÉT 'ĐÁM THỔ TẢ DÂN CHỦ' GỐC VIỆT VÌ LÀM ĐIỀU NÀY VỚI TỔNG THỐNG TRUMP


https://youtu.be/HFWDYqjpxAc




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét