Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

Sự thật về Chiến Tranh VN : Đánh nhưng không được thắng – Bruce Herschensohn, Prager University

Sự thật về Chiến Tranh VN : Đánh nhưng không được thắng – Bruce Herschensohn, Prager University
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh do Đỉnh Sóng chép ra từ YouTube cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế:
“Decades back, in late 1972, South Vietnam and the United States were winning the Vietnam War decisively by every conceivable measure. That’s not just my view. That was the view of our enemy, the North Vietnamese government officials. Victory was apparent when President Nixon ordered the U.S. Air Force to bomb industrial and military targets in Hanoi, North Viet Nam’s capital city, and in Haiphong, its major port city, and we would stop the bombing if the North Vietnamese would attend the Paris Peace Talks that they had left earlier. The North Vietnamese did go back to the Paris Peace talks, and we did stop the bombing as promised.
On January the 23rd, 1973, President Nixon gave a speech to the nation on primetime television announcing that the Paris Peace Accords had been initialed by the United States, South Vietnam, North Vietnam, the Viet Cong, and the Accords would be signed on the 27th. What the United States and South Vietnam received in those accords was victory. At the White House, it was called “VV Day,” “Victory in Vietnam Day.” The U.S. backed up that victory with a simple pledge within the Paris Peace Accords saying: should the South require any military hardware to defend itself against any North Vietnam aggression we would provide replacement aid to the South on a piece-by-piece, one-to-one replacement, meaning a bullet for a bullet; a helicopter for a helicopter, for all things lost – replacement. The advance of communist tyranny had been halted by those accords.
Then it all came apart. And It happened this way: In August of the following year, 1974, President Nixon resigned his office as a result of what became known as “Watergate.” Three months after his resignation came the November congressional elections and within them the Democrats won a landslide victory for the new Congress and many of the members used their new majority to de-fund the military aid the U.S. had promised, piece for piece, breaking the commitment that we made to the South Vietnamese in Paris to provide whatever military hardware the South Vietnamese needed in case of aggression from the North. Put simply and accurately, a majority of Democrats of the 94th Congress did not keep the word of the United States.
On April the 10th of 1975, President Gerald Ford appealed directly to those members of the congress in an evening Joint Session, televised to the nation. In that speech he literally begged the Congress to keep the word of the United States. But as President Ford delivered his speech, many of the members of the Congress walked out of the chamber. Many of them had an investment in America’s failure in Vietnam. They had participated in demonstrations against the war for many years. They wouldn’t give the aid.
On April the 30th South Vietnam surrendered and Re-education Camps were constructed, and the phenomenon of the Boat People began. If the South Vietnamese had received the arms that the United States promised them would the result have been different? It already had been different. The North Vietnamese leaders admitted that they were testing the new President, Gerald Ford, and they took one village after another, then cities, then provinces and our only response was to go back on our word. The U.S. did not re-supply the South Vietnamese as we had promised. It was then that the North Vietnamese knew they were on the road to South Vietnam’s capital city, Saigon, that would soon be renamed Ho Chi Minh City.
Former Arkansas Senator William Fulbright, who had been the Chairman of the Senate Foreign Relations Committee made a public statement about the surrender of South Vietnam. He said this, “I am no more distressed than I would be about Arkansas losing a football game to Texas.” The U.S. knew that North Vietnam would violate the accords and so we planned for it. What we did not know was that our own Congress would violate the accords. And violate them, of all things, on behalf of the North Vietnamese. That’s what happened.
I’m Bruce Herschensohn.”
Phần chuyển ngữ : Sự thật về Chiến Tranh VN
Nhìn lại những thập niên trước, vào cuối năm 1972, Miền Nam VN và Hoa Kỳ rõ ràng đang thắng Chiến Tranh VN, hiển nhiên là thế. Đó không chỉ là quan điểm của riêng tôi. Đó là quan điểm của kẻ thù của chúng ta, những viên chức của chính phủ Bắc Việt. Chiến thắng rõ ràng khi Tổng Thống Nixon ra lệnh cho không lực Hoa Kỳ dội bom những mục tiêu kỹ nghệ và quân sự ở Hà Nội, thủ đô Bắc Việt và ở Hải Phòng, hải cảng chính của họ, và chúng ta sẽ ngưng dội bom nếu Bắc Việt tham dự Hội Đàm Paris mà họ đã rời trước đó. Bắc Việt không trở lại bàn hội nghị, và chúng ta không ngưng dội bom như đã hứa.
Vào ngày 23 tháng Giêng năm 1973, Tổng Thống Nixon đọc một bài diễn văn toàn quốc trên truyền hình vào giờ cao điểm, cho biết Hội Đàm Paris đã được ký tắt bởi Hoa Kỳ, Nam VN, Bắc Việt, Việt Cộng, và Hiệp Định sẽ được chính thức ký vào ngày 27. Những gì mà Hoa Kỳ và Nam VN nhận được trong hiệp định đó là một thắng lợi. Tại Tòa Bạch Ốc, người ta đã gọi đó là ngày “VV Day – Victory in Vietnam Day.”
Hoa Kỳ đã hậu thuẫn chiến thắng đó với một bảo đảm đơn giản bên trong Hiệp Định Paris, theo đó: nếu Miền Nam yêu cầu chiến cụ để tự vệ chống lại bất kỳ cuộc xâm lăng nào của Bắc Việt thì chúng tôi sẽ cung cấp viện trợ thay thế (replacement aid) cho Miền Nam trên căn bản từng cái một và một đổi một (piece-by-piece, one-to-one replacement), nghĩa là, một viên đạn đổi một viên đạn, một trực thăng đổi một trực thăng, đối với tất cả những thứ bị mất. Bước tiến của chế độ độc tài cộng sản đã bị chặn đứng bởi hiệp định đó.
Thế rồi tất cả đều tan vỡ. Và sự thể như thế nầy: Vào tháng Tám của năm tiếp theo, 1974, Tổng Thống Nixon từ chức do hậu quả của vụ Watergate. Ba tháng sau khi ông từ chức là những cuộc bầu cử quốc hội tháng mười một và trong đó những thành viên của Đảng Dân Chủ thắng lợi vẻ vang trong Quốc Hội mới và nhiều thành viên đã lợi dụng đa số mới của họ để chấm dứt tài trợ cho chương trình viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đã hứa, một đổi một, bội ước lời cam kết của chúng ta đối với Miền Nam VN ở Paris là sẽ cung cấp bất kỳ chiến cụ nào mà Miền nam cần trong trường hợp bị Bắc Việt xâm lăng. Nói một cách đơn giản và chính xác, đa số những đảng viên Đảng Dân Chủ của Quốc Hội khóa 94 không giữ lời hứa của Hoa Kỳ.
Vào ngày 10 tháng Tư, 1975, Tổng Thống Gerald Ford đã trực tiếp nói chuyện với những thành viên Quốc Hội đó trong một buổi họp hỗn hợp buổi tối, được truyền hình trên toàn quốc. Trong bài diễn văn đó, ông tha thiết kêu gọi Quốc Hội hãy giữ lời hứa của Hoa Kỳ. Nhưng trong khi Tổng Thống Ford đọc diễn văn, nhiều thành viên Quốc Hội bước ra khỏi phòng họp. Nhiều người trong số họ đã đầu tư vào sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Họ đã tham gia các cuộc biểu tình phản chiến trong nhiều năm. Họ sẽ không cho viện trợ. Vào ngày 30 tháng Tư, Miền Nam đã đầu hàng và những trại cải tạo được dựng lên, và hiện tượng người vượt biển bắt đầu. Nếu Miền Nam nhận được vũ khí mà Hoa Kỳ đã hứa với họ thì kết quả đã khác đi? Sự khác biệt đó đã được chứng minh. Giới lãnh đạo Bắc Việt đã thú nhận rằng lúc bấy giờ họ đang trắc nghiệm Tổng Thống mới Gerald Ford, và họ đã chiếm từ làng nầy đến làng khác, rồi đến những thành phố, tỉnh lỵ; và phản ứng duy nhất của chúng ta là bội ước. Hoa Kỳ không tái viện trợ Miền Nam như chúng ta đã hứa. Chính lúc đó Bắc Việt nhận thức được rằng họ đang trên đường tiến đến Saigon, thủ đô của Miền Nam, sau đó được đổi tên thành TP Hồ Chí Minh.
Cựu TNS William Fulbright, nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thương Viện, đã đưa ra một công bố chính thức về sự đầu hàng của Miền Nam. Ông nói, “I am no more distressed than I would be about Arkansas losing a football game to Texas.”
(Tôi không thấy đau khổ gì mấy, chẳng khác nào khi thấy Arkansas thua Texas một trận đá bóng.)
Hoa Kỳ biết rằng Bắc Việt sẽ vi phạm hiệp định Paris và chúng ta đã chuẩn bị cho chuyện đó. Điều mà chúng ta không biết là chính Quốc Hội của chúng ta sẽ vi phạm hiệp định đó. Và vi phạm, về mọi mặt, thay cho Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra. Tôi là Bruce Herschensohn.
** Sau khi Saigon thất thủ, hơn một triệu người Miền nam bị đưa vào các trại cải tạo ở miền quê. 250 ngàn người đã chết ở đó, do bị hành quyết không xét xử, tra tấn, bệnh tật, và suy dinh dưỡng. Giữa năm 1975 và 1995, hai triệu người Việt đã trốn chạy khỏi nước, vượt Biển Đông bằng những chiếc thuyền thiếu trang bị để đi tìm tự do. Ước tính có khoảng 200 ngàn người vượt biển nầy đã chết – do bị chết chìm và bị hải tặc giết. Ngày nay Việt Nam vẫn có một chính phủ cộng sản, nhưng họ đã bỏ hết những lý thuyết kinh tế cộng sản, những lý thuyết mà họ đã hy sinh bao nhiêu sinh mạng của đồng bào của họ để theo đuổi.
3. Nhận định bên lề
Trong khi hơn 96% hệ thống truyền thông nằm trong tay Tập đoàn Do Thái quốc tế và Mỹ Cộng thì công việc truy tìm thông tin, tài liệu, nhận định, và phán xét trung thực về Chiến Tranh VN chẳng khác nào mò kim đáy biển, vì hầu hết các hảng thông tấn, các trang mạng, đài truyền thanh truyền hình, những tờ báo hàng đầu đều nói một thứ tiếng của Do Thái được chuyển ngữ sang tiếng Anh, cùng phục vụ một chủ nghĩa độc tài mềm, cùng bị kiểm soát bởi một chính sách ngân hàng trị và Do Thái trị, cùng gián tiếp hay trực tiếp cỗ xúy một loại trật tự được mệnh danh New World Order hayOne-government World – thực chất là một loại thế giới đại đồng hoang tưởng do tập đoàn Do Thái thống trị. Hiện cảnh đen tối của một chính quyền Mỹ thân cộng Do Thái trị ngày nay là nhìn đâu cũng thấy Do Thái và sờ đâu cũng chạm phải bàn tay lông lá của Do Thái từ CIA, FBI, truyền thông, Internet, đại học, Hollywood đến hành pháp, tư pháp, lập pháp, v.v…; và đâu có Do Thái ở đó có Mỹ Cộng. Những kẻ đi tìm sự thực như Ted Gunderson luôn bị chúng khủng bố và truy sát bằng mọi cách; những kẻ khác thì co đầu rụt cổ vì sợ bị ghép tội bài Do Thái, cùng lắm chỉ vòng vo đập quanh bụi rậm. Hậu quả là Do Thái và Mỹ cộng xem phần còn lại của thế giới như một bầy trẻ con, ngây thơ về chính trị và nhút nhát như bầy gấu trúc. Hầu hết các bài viết, nhất là những bài của những tay viết blog cho VOA, BBC, RFA, RFI, v.v…, đều viết theo đơn đặt hàng của Do Thái, Mỹ Cộng, và Việt Cộng, dưới môt hình thức nào đó và theo một kênh tuyên vận nào đó. Chín mươi phần trăm của những bài viết nầy là vỏ bọc đường nghe rất bùi tai và nhìn rất mát mắt, nhưng chỉ để phục vụ 10 phần trăm còn lại dùng chứa thuốc độc nhằm đánh bóng Mỹ Cộng hay Việt Cộng hay cả hai.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào toàn cục vấn đề và căn cứ trên những tài liệu, dù là hiếm hoi, được chính phủ Hoa Kỳ bạch hóa về những cuộc đi đêm mà Washington đã tiến hành với Bắc Kinh nhằm bán đứng Miền Nam hay thậm chí cả Việt Nam cho Trung Quốc dưới sức ép và đồng lõa của tập đoàn Do Thái và cộng sản quốc tế để đổi lấy quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, về chủ trương đánh Cộng Sản nhưng không được thắng, v.v… thì bức điện tín đầu hàng vô điều kiện nói trên không hẳn là bịa đặt. Nhưng tại sao Bắc Việt đầu hàng mà Mỹ vẫn tiếp tục đánh? Theo thiển ý của chúng tôi, đầu hàng với Mỹ không thành vấn đề; đầu hàng với Trung Quốc mới là mục tiêu tối hậu của cả Mỹ lẫn Tàu. Ở điểm nầy, vì muốn có được những quyền lợi với Trung Cộng, Mỹ ra sức phục vụ quyền lợi của Bắc Kinh trước đã, nghĩa là giúp Bắc kinh thôn tính Việt Nam thông qua Đảng Cộng Sản VN và trên xương máu dân tộc VN ở cả hai miền. Cũng ở điểm nầy người ta mới thấy Chiến Tranh VN là cơ hội bằng vàng để đế quốc Tàu tiếp tục giấc mộng thôn tính Việt Nam sau hơn ngàn năm không thực hiện được. Cả Mỹ lẫn Tàu đã đạt được mục tiêu chung sau những cuộc không tập B52 kéo dài; và sau đó, vì muốn bảo vệ đảng, Bắc Việt đã quỳ gối đầu hàng Bắc Kinh và ký những mật ước nhượng đất nhượng biển và nhượng cả chủ quyền cho Trung Cộng. Việc Mỹ làm ngơ cho Trung Cộng chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam có lẽ cũng nằm trong khuôn khổ những mật ước như thế nhưng đã có trước khi chiến tranh chấm dứt. Như thế kẻ thắng chiến tranh VN là Trung Cộng chứ không phải Bắc Việt; Bắc Việt chỉ là một thây ma được Mỹ, Tàu, Do Thái vớt lên từ địa ngục để thi hành sứ mạng Thái Thú cho Thiên Triều.
Những người sinh ra và lớn lên trong hệ thống tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ của cộng sản và ngay cả những người cộng sản được xem là “mở mắt” như Bùi Tín, Phạm Chí Dũng, Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, chẳng hạn, có lẽ không bao giờ chấp nhận sự thực đó, vì, đối với những người nầy, làm thế chẳng khác nào chối bỏ “ảo ảnh đời mình,” chối bỏ một huyền thoại giúp họ tiếp tục ngẩng mặt lên tiếng với đời. Những đám người nầy có thể “trái dạ” với đảng cộng sản nhưng dứt khoát không tự phản bội chính mình. Nếu không có huyền thoại đó thì cách nay bốn mươi năm họ chỉ là nhưng kẻ mù quáng đi trong doàn quân ma được Mỹ, Tàu và Do Thái tha chết và vớt xác lên từ địa ngục đồng thời trao cho chiếc bánh vẻ “đại thắng mùa xuân” để sau đó đạo quân ma nầy tràn vào Miền Nam cướp của giết người. Nếu không tin các ông các bà cứ hỏi Trần Đăng Thanh, một đại tá VC thuộc Học Viện Quốc Phòng của chế độ Hà Nội thì biết ngay. Cũng có thể các ông các bà đều biết sự thực nhưng không dám công khai thú nhận; các ông các bà vờ mở mắt nhưng chỉ mở một mắt để khỏi thẹn với lương tâm và tiếp tục đi trong mộng du. Ngày nay các ông các bà được giải quyết sang Mỹ chẳng khác nào lá rơi về cội, gặp lại ân nhân ngày trước, thế thôi. Một số người cộng sản vẫn thường bóng gió so sánh cộng sản VN với giới lãnh đạo Tây Đức, Bỉ, với Bắc Quân Hoa Kỳ trong cuộc Nội Chiến, thậm chí với cả chính quyền Hoa Kỳ trong Đệ Nhi Thế Chiến đã thắng Nhật. Làm như thế là hiếp dâm lịch sử vì cố tình đặt một thây ma được vớt lên từ địa ngục ngang hàng với những kẻ chiến thắng đích thực, đặt đạo quân đồ tể ngang hàng với loài người có lương tri, liêm sỉ, và trí tuệ, đặt một đám gia nô thái thú ngang hàng với những con người thực sự làm chủ đời mình và giúp dân tộc làm chủ vận mệnh của đất nước. Hãy nhìn kỹ những gì đám đồ tể đã làm trong suốt bốn mươi năm qua trên đất nước Việt Nam để đặt tên đám thái thú thời đại nầy cho đúng. .
Đỉnh Sóng
Nguồn: Đỉnh Sóng

__________________***  ***_______________

Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975
để giải ảo ngụy sử, hoà giải dân tộc và xây dựng đất nước.

Đỗ Kim Thêm
06-05-2015
Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam. Chúng ta có các lý do chính đáng để không tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hoà giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.
Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.
Mọi vấn đề hiện nay của Việt Nam có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên.
Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưng cầu toàn để canh tân đất nước hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.
***
Nguồn:http://mainguyenhuynh.blogspot.co.id/2016/09/cia-giu-bi-mat-bac-viet-au-hang-vo-ieu.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét