Thứ Năm, 26 tháng 2, 2015

Sống để chiến tranh...chết cho hòa bình- P23

 Lịch Sử Quân Sự Việt Nam Cộng Hòa
Tiếp theo…
 SỐNG ĐỂ CHIẾN TRANH- CHẾT CHO HÒA BÌNNH{23 }
Huỳnh Mai St.8872
Dạ Lệ Huỳnh
February 26-2015, 9: 28 PM
 
   

Lột Mặt Nạ Tổ Chức Bịp Bợm "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam"

(Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản)

- Cố Gs HỨA HOÀNH -


Các ông, các bà trí thức tư sản miền Nam trốn theo "Mặt Trận Giải Phóng" (gọi tắt của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam), ông nào ông nấy chức tước to tổ bố, cao đụng trần nhà, đọc lên kêu như sấm. Nào là:

- Trịnh Đình Thảo, Chủ Tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Binh Việt Nam, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, Chủ tịch đoàn Ủy Ban Trưng Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

- Bác sĩ Phùng Văn Cung, Phó Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, kiêm Bộ Trưởng Nội Vụ...

Nhưng tại mật khu, hàng tuần, tất cả quí vị trí thức khoa bảng ấy phải họp lại để học "nghị quyết". Nắm giữ các chức vụ chóp bu, quí vị ấy không có quyền thảo ra nghị quyết, đường lối sao mà phải học tập?

Vậy thì các ông bà trí thức ấy chỉ là những con hạc trong đình, các chậu hoa trong phòng khách, còn quyền hành thực sự do "bác và đảng" núp trong bóng tối chỉ huy. Khi tỉnh ngộ, bao

nhiêu biệt thự, phố xá, đồn điền, gia sản, ruộng đất (Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Lâm Văn Tết... ), cơ xưởng (hãng sơn của kỹ sư Nguyễn Hữu Khương), cửa hàng (nhà thuốc của dược

sĩ Mã Thị Chu ở Cần Thơ, dược sĩ Hồ Thu) trở thành tài sản của nhà nước. Nhiều vị gia đình tan nát như Trịnh Đình Thảo, Phùng Văn Cung, Hồ Thu, nhà văn Thanh Nghị .

“Giải phóng” miền Nam rồi, quí vị ấy được “Bác và Đảng” đền bù công lao xứng đáng bằng phiếu mua lương thực: 13 ký gạo, nửa cân đuờng cát, 2 bao diêm quẹt, 2 cái lưỡi dao lam cạo

râu, nửa cân thịt ba rọi ... mỗi tháng để ngồi chơi xơi nước, hoặc giữ các chức "hàm" (hữu danh vô thực). Mấy năm sau, họ

chết trong âm thầm ghẻ lạnh của chính quyền mà họ đã cúc cung phụng sự, thiếu cả tiếng trống, tiếng kèn tiễn đưa đến phần mộ.

"Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam", sao y bản chánh "Mặt Trận Dân Tộc" của Trung Cộng:

Cái gọi là "Ban nghiên cứu lịch sử đảng", chỉ là một sự tập họp các bồi bút, được gọi là sử gia, nhận chỉ thị của Bộ Chính Trị thêu dệt, bịa đặt, rồi tô vẽ, minh họa để cá nhân ông Hồ trở

thành một vĩ nhân, văn võ toàn tài, một vị thánh sống. Sự thật lịch sử đã được phơi bày: trình độ học vấn của ông Hồ chỉ dở dang lớp 7, ông Hồ chưa biết khái niệm phổ thông về các khoa

học thường thức. Trong cuộc đời lưu lạc với tư cách một bồi tàu, một cán bộ làm lính đánh thuê cho cộng sản quốc tế nhiều năm, ông có đủ kinh nghiệm, nhiều mưu gian mẹo vặt để cóp

tổ chức nầy, bắt trước tác phẩm kia, mượn danh ngôn của người khác, làm của riêng mình, mà không bao giờ nêu xuất xứ. Đó là thái độ thiếu minh bạch, người tự trọng không ai làm.

Trong thời “kháng chiến chống Pháp” 1945-1954, ông Hồ luôn ngụy trang, đội lốt người quốc gia, lập các tổ chức dưới danh nghĩa dân tộc như Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941), rồi Mặt Trận Liên Việt để che giấu bộ mặt thật cộng sản của

mình. Trong cuộc chiến tranh Quốc Cộng với người quốc gia ở miền Nam, ông mập mờ lập lại tổ chức mà danh xưng na ná như tổ chức của người quốc gia. Rồi dùng lời ngon ngọt tuyên

truyền lừa dối, phỉnh gạt các trí thứ miền Nam. Có khi giả mời đi họp, rồi cưỡng bách, bắt cóc đưa ra mật khu, gán cho họ những chức vụ hữu danh vô thực để làm bình phong và lừa dối quốc dân đồng bào cùng dư luận ngoại quốc.

Hơn 20 năm làm cán bộ cộng sản quốc tế, lãnh lương, phụ cấp, cả giấy thông hành, ông Hồ qua các nước hoạt động để xuất khẩu chủ nghĩa cộng sản, chớ đâu phải để “giải phóng dân tộc Việt Nam”.

Với nhiệm vụ nầy, ông Hồ tới lui Trung Quốc trước sau tới 5 lần.

Những năm ở mật khu Diên An (1938-1939), ông Hồ gia nhập đảng Cộng Sản Trung Hoa, làm lính đánh thuê cho Mao Trạch Đông. Nhờ đó, ông đã cóp nhặt được các tổ chức bịp bợm của

Trung Cộng đem về áp dụng tại Việt Nam. Nhiều người không biết, tưởng đâu ông Hồ tài ba, còn đảng Cộng sản là "đỉnh cao trí tuệ".

Để quí độc giả thấy rõ bộ mặt của họ, chúng tôi kính mời quí vị đọc qua giáo điều của Cộng Sản quốc tế: “Muốn tiến hành cuộc cách mạng vô sản, phải chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 1

dùng chủ nghĩa dân tộc làm chiếc áo che ngoài và thiết lập chính quyền giai cấp tư sản (tức là Chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sau nầy); giai đoạn 2 thật sự đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa."

Trong đại hội Cộng Sản quốc tế kỳ 7 (1935), họ đã chỉ thị cho Trung Cộng: “Phải thay đổi đường lối làm sao khi Mao Trạch Đông chạy thoát được sự bao vây của Quốc Dân Đảng trong

cuộc ''vạn lý trường chinh'' (1935) là phải lập Mặt Trận Dân Tộc, rồi dùng chiêu bài kháng Nhựt cứu nước". Ông Hồ đã bê nguyên xi các tổ chức của Trung Cộng từ các "hội cứu quốc,

căn cứ địa, lực lượng vũ trang”, đến các khẩu hiệu lừa bịp quần chúng ... về áp dụng tại Việt Nam. Ông áp dụng y chang các tổ chức ấy như “sao y bản chánh” mà thôi.

Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941) rồi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (1960), gọi tắt là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) cũng chỉ là một sự bắt chước các tổ chức của Trung Cộng trong thời kỳ tương tranh với chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng khi Nhựt đang xâm lăng lục địa.

Sách lược nầy, ngoài mặt thì kêu gọi "đoàn kết rộng rãi toàn dân, các đảng phái, tôn giáo, nhưng chủ ý của họ là phân hóa hàng ngũ người quốc gia, tiêu diệt chủ nghĩa dân tộc, dồn tất cả mọi lực lượng để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam (tức Việt Nam Cộng Hòa).


Người ta còn nhớ, tại hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941, ông Hồ có nhắc nhở cán bộ của ông ta: “Trước cục diện mới, vấn đề đoàn kết dân tộc càng quan trọng.

Chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng để thành lập một mặt trận mà hình thức và tên gọi sao cho tuyệt đối phù hợp với cục diện đó” (”Hồ Chí Minh tại Trung Quốc”, Tưởng Vĩnh Kinh, Thượng Huyền dịch, trang 186).

Rõ ràng ông Hồ đã "sao y bản chánh" các tổ chức "mặt trận dân tộc" của Trung Cộng cùng các khẩu hiệu, tên gọi các tổ chức phụ (cứu quốc), các khẩu hiệu (chống Mỹ cứu nước) chỉ là sao chép lại "kháng Nhựt cứu nước" của Trung Cộng từ năm 1937.

Khi Mao Trạch Đông nhận chỉ thị của cộng sản quốc tế để thành lập Mặt Trận Dân Tộc và tung ra khẩu hiệu Kháng Nhựt Cứu Nước thì mục đích thật sự của nó không phải là đánh Nhựt, mà nhắm tấn công chính phủ Trung Hoa

Quốc Dân Đảng
. “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phòng Miền Nam” cũng không phải chống Mỹ như họ đề ra, thật sự chỉ là sự tập họp các phần tử bất mãn với chính quyền miền Nam, tạo sức mạnh để cộng sản xâm lược miền Nam và tiến hành cách mạng vô sản mà thôi.

MTGPMN chỉ là một sự a tòng mập mờ theo tổ chức Mặt Trận Dân Tộc của Mao Trạch Đông do cộng sản quốc tế chỉ đạo, có mục đích phục vụ lợi ích cho Liên Xô. Lập MTGPMN, cộng sản

có mục đích theo đuổi con đường cách mạng vô sản, làm tay sai cho Liên Xô, rồi Trung Quốc để xuất cảng chủ nghĩa cộng sản qua các lân quốc. Sau năm 1975, chúng ta đã thấy rõ việc làm của họ, và sự sụp đổ của nó theo mẫu quốc Liên Xô vào năm 1989.

Loạt bài nầy chia làm 4 phần:

- phần 1,và 2: Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản.

- phần 3: Những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.

- phần 4: Vãn tuồng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Phần 1.Lột mặt nạ tổ chức bịp bợm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam

* MTGPMN gởi Ba Trà, cán bộ trí vận xuống chùa Phước Hậu ở Trà Ôn để tuyên truyền rỉ tai Hòa Thượng Thích Thiện Hoa (Viện trưởng Viện Hóa Đạo) về chủ trương, đường lối của Mặt Trận đối với Phật Giáo. Trước đó, họ cho người đến chùa Ấn Quang hẹn ngài về Trà Ôn.

* Luật sư Trịnh Đình Thảo tâm sự với giáo sư Lê Văn Hảo tại nhà khách trung ương Đảng tại Hà Nội: "Bọn mình chỉ là những hình nộm, người ta sai làm gì thì làm nấy, chứ chẳng có chút quyền hành nào cả..."

* Trần Bạch Đằng, Thường vụ ủy viên Mặt Trận Saigon Gia Định, có nhà trọ ở đường Phan Kế Bính và mua một chiếc xe du lịch Simca 1000 do người nhà là Nguyễn Hải Thọ đứng tên kiêm tài xế. Nguyễn Hải Thọ là em vợ của người anh ruột

bà Nguyễn Văn Thiệu, giáo sư Pháp Văn ở trường Trung Học Bến Tranh (Tân Hiệp, Định Tường). Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, Thọ làm giám đốc công ty cung ứng xuất khẩu...


Nhớ lại cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập, Việt Minh không bao giờ tự nhận mình là cộng sản. Trong suốt đoạn đường chiến đấu 9 năm đó (1945-1954), Việt Minh tạo ra

“chính nghĩa giai đoạn”, để tập họp mọi tầng lớp dân chúng ủng hộ và hy sinh cho quyền lợi của đảng họ. Sắp tới chiến thắng,

họ trở mặt: gạt tất cả mọi thành phần trí thức, tiểu tư sản, địa chủ ra ngoài cuộc kháng chiến. Chiến thắng rồi, những thành phần ấy trở thành kẻ thù, chỉ trừ giai cấp vô sản.

Trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, không có một trí thức nào ở miền Nam ủng hộ cộng sản. Biết rõ như vậy, nên Việt Cộng phải ngụy tạo một chiêu bài mới: Mặt

Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để lừa dối đồng bào, dư luận cả trong lẫn ngoài nước. Việt Cộng cưỡng ép một số thân hào nhân sĩ tiêu cực, đối lập, những trí thức bất mãn với chính

quyền quốc gia, trốn ra bưng, rồi gắn cho họ cái chức ủy viên trung ương MTGPMN để họ tiến hành cuộc chiến tranh du kích, phá hoại.

Lúc đó, họ gọi là "chiến tranh giải phóng" và đảng cộng sản được gọi là “đảng cách mạng”, giấu kín tông tích để mọi người hiểu lầm rằng “MTGPMN là tổ chức không phải cộng sản".

Cái gian hùng và lừa bịp của Việt Cộng khiến nhiều trí thức ngây thơ, cả tin, lầm lạc mà trót theo họ. Sự thật, cái nhãn của MTGPMN là cộng sản. Chiếm được miền Nam rồi, MT và cái chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam trở thành cộng sản một cách trơ trẽn.

Trong "chiến tranh chống Mỹ", MT nhiều lần phong chức cho người nầy người nọ, dù khéo léo đến đâu, cũng chỉ tạo ra một tấm bình phong che chắn những thủ đoạn bất chính, những hành động tàn bạo, phi nghĩa. Người CS luôn luôn có tâm địa

lắt léo, miệng lưỡi tráo trở. Chỉ tội nghiệp các phần tử trí thức miền Nam vì tin họ mà phải chịu làm bù nhìn, làm người tù bị giam lỏng ở mật khu để hưởng sự biệt đãi, mặc tình cho cán bộ CS tiếp tục dùng mưu gian mẹo vặt chiếm cho được miền Nam trù phú...

Trong cuộc chiến tranh quốc Cộng 1954-1975, các chính phủ VNCH phải luôn luôn vất vả đối phó với các phong trào phản chiến, đòi "hòa bình" tại hậu phương.

Họ chiến đấu như người võ sĩ bị trói tay. Ngoài một thiểu số tu sĩ Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo bị VC tuyên truyền, liên miên làm áp lực, còn sinh viên, các trí thức thân Cộng, đối lập, bất mãn,

nhưng chưa hiểu MTGPMN là CS, tập họp thành một lực lượng chống đối, làm cho tình thế mỗi ngày trở nên nguy ngập, tiềm lực chiến đấu của quân đội suy yếu. Trong môi trường đó,

người bạn đồng minh chiến đấu Mỹ lại can thiệp vào nội bộ chúng ta, cưỡng bách chính quyền quốc gia nhập cảng thứ tự do quá trớn của Mỹ, tạo ra sự sơ hở, kẻ thù lợi dụng xâm nhập, lũng đoạn hàng ngũ, tuyên truyền, phá hoại. Đất nước đang

lâm chiến một mất một còn với CS, lẽ ra tất cả mọi người không phân biệt, tôn giáo, đảng phái... phải tập họp thành một sức mạnh chung để chiến thắng, thì lại vô tình tiếp tay cho địch, làm đồng minh cho họ. Chính quyền quốc gia miền Nam

sụp đổ do nhiều nguyên nhân, trong đó các phong trào phản chiến của các giới đã “đóng góp” công lao làm "ung thối" chế độ mà họ đang sống, đang hưởng những tiện nghi và phúc lợi.

Lúc đó, báo chí miền Nam gọi những người nầy là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma CS” cũng không sai lắm. Chúng tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng phải nhìn nhận những đoàn thể, tổ chức

tôn giáo, sinh viên cũng có người tốt kẻ xấu. Chính vì ngây thơ tưởng rằng MTGPMN không phải là CS, nên nhiều người đã ủng

hộ họ, để rồi sau năm 1975, phải bỏ tất cả sản nghiệp bôn đào ra ngoại quốc một cách tức tưởi. Bài học ấy còn sờ sờ, nhưng người quốc gia hay quên và dễ tha thứ..

Trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, CS không có một người nào đủ uy tín để lôi kéo những phần tử trí thức, thân hào nhân sĩ miền Nam theo họ, CS “mượn đầu heo

nấu cháo”, cưỡng bức một số trí thức tên tuổi ở miền Nam theo họ làm bình phong, rồi tuyên truyền lừa bịp, lợi dụng tên tuổi các trí thức ấy, lập mặt trận nầy, liên minh kia... thực chất chỉ

là những tổ chức hữu danh vô thực, những con bù nhìn. Sách lược lừa bịp của VC trước sau như một, không bao giờ thay đổi.

"Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng VC không bao giờ hết lừa bịp".

Chiếm được miền Nam rồi, các trí thức trong MT, trong chính phủ lâm thời bị thay thế, giải thể, để những tên CS lưu manh, thất học thay thế. Lúc chưa chiếm được miền Nam, họ mời mọc, quyến rũ, ép uổng để trí thức tham gia.

Các ông Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết (nguyện Thượng Hội Đồng Quốc Gia), Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Kiết, các giáo sư Nguyễn Văn Chì, bà Nguyễn Đình Chi ... ra rìa hoặc giữ những chức vụ hàm, trang điểm cho Mặt Trận Tổ Quốc.


Trong bài "Số phận trí thức trong hàng ngũ kháng chiến của Việt Minh" (1945-1954), chúng tôi quên, không nhắc đến một trí thức khác, cũng rất nổi tiếng, quê ở Bến Tre, du học bên Pháp về, tốt nghiệp ngành sinh vật học.

Tuy khả năng chuyên môn của ông không liên quan gì tới kháng chiến chống Pháp như kỹ sư Vũ Quý Hân về Bắc,
nhưng vì lòng yêu nước bồng bột, nên sau khi nghe ông Hồ và phái đoàn thuyết trình về hiện tình "hiện nay nước nhà đã độc

lập", ông sẵn sàng về "xây dựng quê hương”. Người đó là giáo sư Dương Hữu Thời. Tôi không rõ giáo sư Dương Hữu Thời có liên hệ ruột thịt họ hàng gì với giáo sư Dương Minh Thới, thân phụ của bác sĩ Dương Quỳnh Hoa hay không.


Mấy tháng cuối năm 1946, Dương Hữu Thời về tới Saigon. Tình hình chiến sự mỗi ngày một gia tăng, còn kháng chiến quân liên tiếp thất bại, rút lui xa đô thành, làm cho giáo sư Dương Hữu Thời thất vọng. Tuy nhiên, giáo sư Thời là con

người thầm lặng, ít lâu sau được “móc” ra bưng chiến đấu. Gặp các cấp chỉ huy kháng chiến, Dương Hữu Thời kể lại quá trình được đào tạo chuyên môn về sinh vật học của mình, nhưng mọi người hờ hững vì không biết ứng dụng tài năng ấy vào việc gì

trong lúc chiến tranh. Tuy nhiên, nhờ chịu khó, ông mò mẫm tự coi sách chế tạo võ khí, đạn dược và trở thành một Trần Đại Nghĩa thứ hai ở khu 8, tuy không có một điều sáng tạo hay

phát minh nào đáng kể. Từ đó, trong kháng chiến, giáo sư sinh vật học Dương Hữu Thời được gọi là kỹ sư Phương Thanh vì ông có giúp sửa chữa súng, chế tạo đạn. Năm 1954, Dương Hữu Thời tập kết ra Bắc, được bổ vào làm giáo sư trường đại học

tổng hợp Hà Nội. Ông âm thầm làm việc, tận tụy giảng dạy, tự học tiếng Nga để nghiên cứu thêm sách Nga, cập nhật hóa kiến thức chuyên môn. Có người từng học với giáo sư Dương Hữu Thời kể lại: "Tuy là một nhà khoa học tận tụy với sinh viên,

đóng góp nhiều công sức cho đất nước nầy, nhưng sự đãi ngộ của nhà nước dành cho ông rất đạm bạc, muộn màng. Ông như đứa con ghẻ, con rơi của chế độ, đầy nghi kỵ và mặc cảm về hàng ngũ trí thúc do tư bản đào tạo. Trong cuộc sống gian khổ

của một công chức hạng trung, lẽ ra phải được đãi ngộ xứng đáng vì công lao to lớn, thế mà nhà nước lại bỏ rơi ông. Dù vậy, giáo sư luôn luôn làm việc cật lực, có lúc làm hiệu phó trường đại học, để đóng góp vào sự phát triển của đất nước lẽ ra phải

có, nhưng đất nước càng ngày càng kiệt quệ, khánh tận, nghèo đói thêm. Nhiều lần ông kín đáo tâm sự với vài sinh viên thân tín. Cũng theo dư luận trong giới sinh viên, giáo sư Dương Hữu

Thời là người rất xứng đáng phong danh hiệu "hàm giáo sư, phó tiến sĩ, nhà giáo nhân dân ..." tuy nhiên những chữ xa xỉ ấy không đến được với ông.

Giáo sư Dương Hữu Thời âm thầm, tận tụy đóng góp tài năng của mình trong các lãnh vực khoa học, nhưng đời ông là cả một sự gian khổ, bất hạnh và bị lãng quên.

Đó cũng là số phận chung của những người trí thức trót theo phụng sự cho chế độ CS, phải tuyệt đối phục tùng, tận tụy và được hưởng sự... bạc đãi của họ.

Nói về những động lực khiến một số trí thức miền Nam theo MTGP thì có nhiều nguyên do khác nhau. Tuy nhiên, lý do chính và quan trọng hơn hết là tất cả đều tin rằng MTGPMN không phải là một tổ chức của CS. Theo họ, MTGPMN tập họp những

thành phần quốc gia yêu nước, bất mãn chế độ hiện tại, muốn dấn thân tranh đấu cho nước nhà độc lập hòa bình, thoát khỏi sự lệ thuộc vào các cường quốc tư bản. Một lý do thầm kín khác là trong mỗi con người trí thức ấy, đều bộc lộ một tham

vọng chính trị vô bờ "muốn làm lãnh tụ". Với họ, việc nầy thường bộc lộ qua việc cả hai vợ chồng đều trốn ra mật khu.

Mong muốn chồng làm lớn luôn luôn thôi thúc các bà xúi chồng cùng tham gia MTGPMN để tìm địa vị. Chẳng hạn như trường

hợp vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng - Vân Trang, vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung, vợ chồng luật sư Trịnh Đình Thảo.


Sinh ra trong một gia đình đại trí thức, giàu có, gia sản cá nhân và bên vợ ông Thảo là những gia đình đại phú gia. Bà Thảo, nhũ danh Ngô Thị Phú, thuộc gia đình danh giá lớn, giàu có ở

Sóc Trăng, thuộc dòng dõi hội đồng Ngô Phong Điều mà khắp miền Nam ai cũng nghe danh. Với thành phần giai cấp, gia sản như vậy, chắc chắn ông Thảo không bao giờ muốn theo VC.

Lúc mới ra bưng, trong một lần họp mặt với các trí thức Saigon trốn ra, chính bà Thảo tuyên bố một câu giựt mình. Quí vị có biết bà Thảo nói gì không? Trong một bữa ăn do bà Thảo đãi,

có bơ, sữa, phó mát, nho và vài món nổi tiếng của Pháp do chính con bà, đang học ở Thụy Sĩ gởi qua tiếp tế bằng máy bay, qua ngã Phnom Penh. Giữa bữa ăn thịnh soạn, đông đủ các trí thức Saigon mới trốn ra mật khu, bà Thảo nói:


- Thôi đừng nói tới CS tôi nghe, tôi sợ quá! Hồi ở dưới xứ tôi (Sóc Trăng), ai nghe nhắc tới CS cũng kinh hồn, vì hồi CS dậy (tức Nam Kỳ khởi nghĩa 1941), họ bắt người mổ bụng dồn trấu...

Nữ sĩ Vân Trang, vợ giáo sư Trần Kim Bảng nói:
- Gặp phản ứng của "bà cả" rồi!

Trong khi Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát cũng mỉm cười cho vui lòng bà Thảo. Ông Võ Ngọc Thành, công chức cao cấp trong chính phủ VNCH mới trốn vô bưng cũng phụ họa thêm:
- Làm gì thì làm, không bao giờ tôi theo VC. (Tiết lộ của một ủy viên trung ương MTGPMN).

Các trí thức miền Nam ngây thơ, tin vào sự tuyên truyền của CS mà bị họ lợi dụng. Khi đã trốn ra bưng, họ bị kèm kẹp, không bao giờ có dịp "hồi chánh". Chúng tôi muốn kể lại vài trường hợp điển hình.

Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1982), là một trí thức lớn của miền Nam, sinh trong một gia đình danh giá, giàu có tại miền Bắc. Ông Thảo là người thứ ba trong số 4 anh chị em đều đỗ đạt.

- Anh cả Trịnh Đình Huyến, tốt nghiệp ngành canh nông (trường Công Chánh Hà Nội), ông được bổ nhiệm làm đốc công thủy lợi nhiều nơi tại Nam kỳ, có lúc ông sống ở Giá Rai, Bạc

Liêu. Chính tại nơi đây, nhà văn Nguyễn Hiến Lê đi công tác thủy lợi, được quen biết với ông và trở thành con rể ông Huyến.


- Con thứ hai cũng tốt nghiệp trường Công Chánh ra, làm công chức cho Pháp.

- Ông Trịnh Đình Thảo, tốt nghiệp tiến sĩ luật khoa tại Pháp rất sớm, hồi hương về Nam kỳ năm 1929, hành nghề luật sư tại tòa Thượng Thẩm Saigon đến năm 1945. Trong thời gian ấy,

nhiều lần ông bênh vực cho các nhà ái quốc Việt Nam bị Pháp bắt, đưa ra xét xử. Năm 1945, ông Thảo tham gia chánh phủ độc lập đầu tiên do cụ Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Sau khi

Việt Minh cướp chánh quyền, ông Thảo vẫn sống ở Saigon bằng nghề luật sư cho đến năm 1954, tên ông xuất hiện trong

"phong trào hòa bình" cùng với một nhóm các trí thức khác như các ông Lưu Văn Lang, Michel Văn Vĩ, dược sĩ Trần Kim Quan, Từ Bá Đước, Phạm Huy Thông, Nguyễn Thị Lựu...


Ông Thảo có một người em gái, được gả cho một luật sư ở Hà Nội.

Ngày 10/8/1954, phong trào hòa bình chính thức ra tuyên ngôn: ngừng bắn vĩnh viễn; trao trả tù binh; thực hiện tự do dân chủ...

Ông bà Thảo có một ngôi nhà lớn như dinh tham biện tại Thông Tây Hội, Gò Vấp. Năm 1963, VC cho người móc nối luật sư Trịnh Đình Thảo (có lẽ là bà luật sư Ngô Bá Thành) cùng một số trí thức đối lập, bất mãn với chính quyền quốc gia, chống chế

độ Ngô Đình Diệm về việc để Mỹ đổ quân ồ ạt vào Việt Nam, can thiệp vào nội bộ. Cán bộ trí vận MTGPMN luôn luôn tìm cách đưa chỉ thị, giao nhiệm vụ cho ông ta để lôi cuốn thêm các phần tử bất mãn khác, lập thành một nhóm làm áp lực, tranh

đấu công khai chống chính quyền. Đầu năm 1965, tại tư gia ở Thông Tây Hội, Gò Vấp, luật sư Thảo tổ chức một buổi họp dưới hình thức ăn tiệc, đưa ra thăm dò ý kiến các trí thức đã

được mời tới, nhưng chưa nói rõ công tác. Trong lần họp ấy, các trí thức đồng ý lập Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết theo chủ trương của MTGPMN đề ra. Sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân thất bại (1968), MTGPMN bây giờ hết ăn khách, VC lập

thêm một tổ chức mới qui tụ các trí thức, nhân sĩ tên tuổi của miền Nam lấy tên Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam. Muốn vậy, họ phải tìm cách mời các trí thức tên tuổi ấy ra bưng: đi đêm có ngày gặp ma. Các trí thức

bất mãn, chống chế độ, thậm thụt giao thiệp với VC đã thấu tới tai chánh quyền quốc gia. Nhiều vị bị mời điều tra, hỏi cung, hoặc tạm giam, thẩm vấn. Với chứng cớ đầy đủ, dễ gì họ chối được. Các trí thức bị chính quyền quốc gia thẩm vấn hay tạm

giam. gồm các ông kỹ sư Hồ Văn Bửu, luật sư Nguyễn Long, luật sư Ngô Bá Thành (tức Phạm Thị Thanh Vân, con gái bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên Tổng Ủy Trưởng Di Cư), luật sư Trịnh Đình Thảo... VC cho người liên lạc, hối thúc các vị ấy "cứ ra bưng, vô vùng giải phóng để được bảo vệ”.



Trong thế “chẳng đặng đừng”, ông Thảo được du kích tới nhà, khiêng đi vào một đêm tối, sau khi đưa ông ra khỏi Sàigòn an toàn.

Trường hợp này cũng giống như việc hòa thượng Thích Đôn Hậu. Trong khi tấn công Huế (1968), Việt Cộng "mời" ông lên núi "họp". Ngài không đi, chúng cho bộ đội thay phiên võng ngài lên núi. (lời giáo sư Lê Văn Hão)

Khi chiến trường miền Nam sôi động, MTGPMN liền gởi các trí thức miền Nam ra Hà Nội, trọ tại nhà khách Trung Ương đảng.

Trong lúc gặp nhau đủ mặt, luật sư Trịnh Đình Thảo đã lên tâm sự với giáo sư Lê Văn Hảo rằng:


- Bọn mình chỉ là những hình nộm. Người ta sai làm gì thì làm nấy, chớ chẳng có chút quyền hành gì cả...Lần đó, luật sư Thảo gặp các bà Nguyễn Đình Chi, giáo sư Lê Văn Giáp, ông Nguyễn

Đóa, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (một trong “3 ông hòa bình"), Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thúc Tuân (em ông Nguyễn Thúc Hào (?).. .


* Lâm Văn Tết (1896 - 1982):

Là một trí thức, nhân sĩ có uy tín lớn trong hàng trí thức miền Nam, Lâm Văn Tết xuất thân trong một gia đình đại điền chủ tại Bạc Liêu, từng làm trong sở Công Chánh Pháp nhiều thập niên.

Từ năm 1943, Lâm Văn Tết bắt đầu hoạt động chống Pháp có khuynh hướng thân Nhựt, rồi lại ủng hộ Việt Minh kháng chiến.

Sau đó ông theo Việt Minh một thời gian ngắn, thấy rõ VM không thật tâm yêu nước, chỉ lợi dụng xương máu người dân để họ phục vụ cho quyền lợi của CS, thì bỏ về thành. Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lâm Văn Tết bất mãn khi thấy

người Mỹ càng ngày càng can thiệp vào nội tình VN. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Lâm Văn Tết được mời làm hội viên Thượng Hội Đồng Quốc Gia (giống như Thượng Viện, nhưng không do dân bầu). Ông được cử làm Phó Chủ Tịch đủ

biết uy tín của ông ra sao. Từ năm 1965, cán bộ trí vận móc nối, ông Tết bày tỏ tích cực thái độ chống đối và bất mãn của ông trước việc Mỹ xua quân ồ ạt vào miền Nam. Chiến tranh

mỗi ngày một leo thang, Mỹ đưa quân thêm vào, làm cho miền Nam mất chính nghĩa. Từ đó, VC tuyên truyền "đánh Mỹ cứu nước”. Sau Tết Mậu Thân (1968), cụ Lâm Văn Tết được móc nối trốn vô mật khu R, để được “bảo vệ”. Cũng như Trịnh Đình

Thảo, ông vì già, sức yếu, đã 72 tuổi, nên được du kích khiêng bằng võng vô khu. Sáu năm sống trong rừng, cụ Tết chỉ làm có mỗi một công việc "cho MTGPMN" "mượn cái tên" để tuyên

truyền, phỉnh gạt mọi người. Hàng ngày cụ uống trà, đọc sách báo, học chính trị (mỗi tuần 2 buổi) về đường lối, chính sách và “thế tất thắng” của MTGP. Khi chính phủ lâm thời CHMNVN được thành lập, cụ được gởi ra nước ngoài để tuyên truyền, rồi

được qua Đông Đức chữa bịnh ... Tại mật khu R, VC “gắn” cho cụ nhiều chức vụ rất kêu, nhưng hữu danh vô thực với mục đích lợi dụng tên tuổi cụ để lôi cuốn đồng bào và trí thức ngây thơ như: Phó Chủ tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân

Chủ và Hòa Bình. Đến tháng 6 năm 1969, cụ được “gia phong” chức mới để ngồi chơi xơi nước là Ủy Viên Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Kể cả ông

Nguyễn Hữu Thọ lẫn cụ và các ủy viên trong Hội Đồng cố vấn đều bị VC cố vấn, chớ các cụ cố vấn được ai. Nói cách khác, cụ bị cố vấn thì đúng hơn.


"Liên Minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình", "Hội đồng cố vấn chính phủ", cũng như nhiều tổ chức khác do VC lập nên, chỉ là những tổ chức chính trị, lừa bịp thế gian, chớ

không phải "tổ chức chính quyền", vậy các trí thức theo VC chỉ là những tấm bình phong che chắn cho những việc làm gian ác của họ.. Tuy vậy, nhiều người chưa rõ CS, cho rằng các trí thức miền Nam theo MTGP đều "làm lớn lắm".


Nói đến trường hợp các ông chồng trí thức theo VC, bị các bà vợ giựt dây, muốn cho chồng “được làm lớn", chúng tôi xin kể lại trường hợp bác sĩ Phùng Văn Cung và vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng - Vân Trang.

Bác sĩ Phùng Văn Cung cùng với vợ thoát ly theo VC từ ngày VC mới chuẩn bị thành lập MTGP. Xuất thân trong một gia đình tiểu tư sản, chào đời tại Chợ Lớn và gia đình bên vợ Lê Thoại Chi

cũng thuộc hàng giàu lớn, trí thức, nhiều người học cao, đỗ đạt, vô “dân Tây”, bác sĩ Phùng Văn Cung không phải là mẫu người dấn thân, ham hoạt động chính trị. Một người em bà con của bà

Phùng có bí danh là Ba Trà, người trực tiếp ra vô Sàigòn Chợ Lớn như ăn cơm bữa. Chính Ba Trà là người móc nối nhiều trí thức bất mãn, đối lập với chính quyền quốc gia từ năm 1957.


Theo lời ông Trương Như Tảng, Bộ Trưởng Tư Pháp trong chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam cho biết: "Nguồn tin của tình báo Mỹ hiểu lầm rằng bác sĩ Phùng Văn Cung là người chủ trương khủng bố."

Sự thật ông chỉ thuộc thành phần bất mãn với chính phủ Ngô Đình Diệm. Trước khi thoát ly, trốn ra mật khu vào đầu năm

1960, bác sĩ Cung phục vụ nhiều năm trong các bịnh viện lục tỉnh. Sau đó ông đổi về là giám đốc một bịnh viện ở Sàigòn.

Theo một vài người có quen biết với bác sĩ Phùng Văn Cung thì bác sĩ Cung là người thích hưởng nhàn, tính tình hiền lành.

Những ngày cuối tuần rỗi rảnh, ông thường đến nhà, hoặc mời các đồng nghiệp, bạn bè tới nhà đánh bài tứ sắc. Về quan điểm chính trị, bác sĩ Cung là người chủ trương hòa giải hơn cứng

rắn, ít thích nghi với cuộc sống kham khổ. Lúc sống trong mật khu, các bạn bè bác sĩ Cung cũng đều cho rằng những điều nhận xét trên là đúng. Nhiều thành viên của bác sĩ Cung như

dược sĩ Hồ Thu, Trần Bửu Kiếm ... đều có cảm tưởng rằng bác sĩ Phùng Văn Cung không thể làm người cách mạng được. Trái lại vợ ông là một người đàn bà nhiều tham vọng, Lê Thoại Chi

hoạt động tích cực, lấn lướt và chế ngự ông chồng hiền lành trước mặt bạn bè. Bà Phùng Văn Cung là người có ý chí mạnh mẽ. Tôi được nghe một ủy viên trung ương MTGP quen biết với vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung xác nhận:


Chính bà Phùng Văn Cung đã thúc đẩy chồng tham gia hoạt động chính trị, trốn ra mật khu theo MTGP từ lúc chuẩn bị thành lập và họ không ngờ rằng MTGP chỉ là chiêu bài do CS

miền Bắc dựng lên để có chính nghĩa xâm lăng, chiếm trọn miền Nam. Khi tìm các thành viên để lập chiêu bài MTGP, các cán bộ CS đã tìm hiểu, phân tích uy tín, thái độ chính trị của một số trí thức, nhân sĩ thân Cộng.


Vai trò chủ tịch MTGPMN chính VC đã thảo luận trước, không cần tiếp xúc hay hỏi ý kiến của đương sự, rồi “bắt cóc họ”, đưa ra mật khu phong chức hàm. Khi đã chọn xong, họ mời các vị

ấy đi họp, rồi bắt cóc luôn vô rừng. Trong một bài trước, chúng tôi có nhắc đến việc VC bí mật lựa chọn người đóng vai chủ tịch MTGPMN giữa các trí thức, nhân sĩ được dân chúng nghe danh, biết tên như dược sĩ Trần Kim Quan, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giám đốc nhà băng Michel Văn Vĩ ... sau cùng họ

chọn luật sư Nguyễn Hữu Thọ, lúc đó đang bị chính quyền quốc gia giam lỏng tại Cũng Sơn, tỉnh Phú Yên.


Sau đó họ tổ chức bắt cóc Nguyễn Hữu Thọ, gọi là “giải thoát” Thọ, rồi đem giấu tại một nơi nằm trong rừng sâu, giữa biên

giới Nam Kỳ, Miên, Lào, gọi là vùng "Trois frontiers", đợi ngày thành lập MTGPMN (20-12-60) bầu ông Thọ vào chức chủ tịch.

Tuy nhiên, vào ngày đó, ông Thọ về căn cứ MTGP không kịp, nghĩa là không có mặt. Mặt trận đã không có quyền gì, thì chức chủ tịch cũng chỉ là ... hàm mà thôi. Tất cả mọi thành viên

trong mặt trận này cũng được lựa chọn từ trước, không hỏi qua ý kiến đương sự. Theo chỉ thị từ Hà Nội, VC dàn cảnh để tổ chức lập “MTGPMN”. Họ mời các trí thức, nhân sĩ “đi họp” rồi dẫn đi luôn vô rừng.


Trở lại việc bà Cung là người tích cực, lấn lướt quyền chồng ... Trong cái gọi là "Đại hội mừng công” dỏm, tổ chức tại mật khu năm 1964 có một chuyện lừa bịp do chính người được lãnh mề

đay, cờ lưu niệm và nhận miếng vải có thêu mấy chữ MTGP để lưu niệm. Người đó là anh Dương Đình Lôi, người Tân An, tập

kết ra Bắc, làm thiếu tá huấn luyện viên trường dạy pháo binh ở Sơn Tây, mới xâm nhập miền Nam, chẳng biết ất giáp gì cả.


Nguyên lúc đó là năm 1964, sân bay Biên Hòa bị VC pháo kích, làm hư hại nhẹ 2 chiếc phản lực cơ Skyraiders. Liền sau đó, phi cơ trực thăng vọt lên, phát hiện chỗ đặt súng pháo kích nhờ

đốm lửa phát ra, liền xạ kích, hạ sát tất cả mấy tên du kích đó, trong ấy có Huỳnh Thành Đồng làm “tổ trưởng đoàn 69".


Tuy vậy, độ một tháng sau, để tuyên truyền lừa bịp, MTGP tổ chức “đại hội mừng công” tại mật khu, trước sự hiện diện của một số trí thức mới trốn ra, các ủy viên trung ương của Mặt

trận. Sau lúc Nguyễn Hữu Thọ đọc diễn văn chào mừng, ca ngợi công trạng láo khoét, tới phiên các chiến sĩ có công lên nhận huy chương. Ông Dương Đình Lôi được gọi lên khán đài,

và biết rằng "bị đóng kịch”, phải giả vờ đóng trọn vai người chiến sĩ thi đua, anh dũng lập công. Huỳnh Tấn Phát bước lên khán đài tặng ông Lôi "Huy chương kháng chiến hạng 3". Tới

phiên tặng lá cờ kỷ niệm, thì đến bác sĩ Phùng Văn Cung phó chủ tịch bước lên khán đài, nhưng bà Cung nhanh chân, giành lên khán đài trước. Bà ôm hôn thắm thiết "chiến sĩ thi đua lập

công Dương Đình Lôi", rồi mới trao cờ kỷ niệm. Anh Lôi kể:

- Bà Phùng Văn Cung già ngắt, phấn son thơm phức, nhưng da mặt đã nhăn!

Trong “đại hội mừng công này”, lần đầu tiên có đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí danh Sáu Vi xuất hiện. Ông từ Hà Nội mới vô R bằng phi cơ qua ngả Phnom Penh để nắm tất cả quyền

hành. Ông bà Phùng Văn Cung có gởi một đứa con gái ra Hà Nội học tập, vì để nó học trong Nam "sẽ hư con người".


Theo ông Lê Tùng Minh, giáo sư Đại Học Tổng Hợp, quê ở Sóc Trăng, tập kết ra Bắc cho biết:

- Cô gái con ông bà Phùng Văn Cung khi ra Bắc được gởi theo học lớp y tá, thay vì bác sĩ như bà Cung muốn. Nhớ lại hồi năm 1960, khi cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm bất

thành, một số sĩ quan VNCH, trốn lên Cam Bốt rồi được VC móc nối, trốn vô mật khu, theo VC. Trong số đó có đại úy Phan Lạc Tuyên, thiếu úy Thái Trần Trọng Nghĩa, bút hiệu Thủy Thủ.

Phan Lạc Tuyên được MTGP gởi ra Hà Nội làm "tùy viên văn hóa" cho MT, bên cạnh chính phủ HCM.

Cô gái con ông bà Cung lấy ông Phan Lạc Tuyên, ăn ở với nhau có một đứa con. Sau năm 1975, ông Tuyên trở về Nam, thôi hẳn người vợ đó. Gia đình ông Tuyên trước năm 1960 cũng đã đổ vỡ. Ông về Sàigon ăn ở với người em dâu, (?) là vợ của người em, bị đi học tập cải tạo.


Cũng trong lần “đại hội mừng công” nầy, bà Nguyễn Thị Định được Nguyễn Chí Thanh (Sáu Vi) phong chức “Tư lệnh phó các

lực lượng võ trang miền Nam". Sau đó, Sáu Vi có một buổi họp với một số trí thức Saigon mới ra, và nói một câu dằn mặt, làm cho mọi người thất vọng:


- Quý vị ra đây là để “phục vụ cách mạng”, chớ không phải để được hưởng sự biệt đãi của cách mạng. Nên nhớ, hồi đó, họ chưa dùng các chữ “phục vụ đảng” mà chỉ nói "phục vụ cách mạng". Ai hiểu sao thì hiểu. mấy chữ "đảng CS" còn giấu kín như bưng.

Chúng tôi muốn kể thêm một trường hợp khác về việc "mời họp", rồi cưỡng ép ra mật khu tham gia MTGPMN với chức vụ "ủy viên trung ương" mà họ "gắn” cho. Người đó là ông giáo Nguyễn Văn Ngỡi, quê tại Tam Bình, là một chức sắc trong đạo Cao Đài.

Ông Ngỡi là một người hiền lành, có lúc ăn chay trường, được phụ huynh và các học sinh kính trọng. Ông Ngỡi có một người con trai tập kết, tên Nguyễn Hồng Quang. Quang được du học bên Bulgaria và đậu kỹ sư, nhưng lúc về nước, được bổ làm

nhân viên sứ quán VC tại Algeria. Biết rõ ông Ngỡi có liên lạc với người con tập kết, VC cho người móc nối, phổ biến tin tức

miền Bắc. Họ đã nhắm "chức sắc đạo Cao Đài" của ông Ngỡi, nên vào một đêm tối giữa năm 1960, du kích tới nhà ông ở Tam Bình "mời đi họp”, rồi cưỡng bách, dẫn ông đi theo họ luôn.


Khi thành lập MTGPMN, ông Ngỡi được phong chức “ủy viên trung ương". Nhiều người ủy viên trung ương MTGPMN đều ở trong trường hợp đó. (Tôi được nghe chính người con trai của ông là Nguyễn Hồng Quang kể). Cho tới nay, nhiều trí thức

miền Nam, trót nghe lời tuyên truyền đường mật của VC, rồi bị họ quyến rũ, thoát ly gia đình, trốn ra mật khu. Tới nơi, những vị nầy được phong các chức vụ nghe rất kêu mà hữu danh vô

thực. Tới nơi, họ chỉ ngồi chơi xơi nước, biết mình bị lừa, nhưng rất ít người thoát được sự kềm kẹp của họ để trở về. Sau này, nhiều vị cũng thú nhận lầm lỗi của mình là tưởng rằng MTGPMN là tổ chức của những người quốc gia yêu nước, muốn đuổi Mỹ,

để đòi chủ quyền và độc lập dân tộc. Lúc mới thành lập MT này, họ công bố chủ truong "độc lập dân tộc, hòa bình và trung lập", không bao giờ để lộ “cái đuôi CS”. Vì lẽ đó, nhiều nhà trí thức,

các chủ đồn điền, các cơ sở làm ăn lớn, nhưng không hiểu rõ thực chất của MTGPMN chỉ là công cụ của CS miền Bắc, nên đã bị họ đánh lừa, rồi lợi dụng. Chúng tôi muốn nói đến trường hợp các ông Trịnh Đình Thảo, bác sĩ Phùng Văn Cung, dược sĩ Hồ Thu, kỹ sư Cao Văn Bổn, kỹ sư Tô Văn Cang.


Trong kháng chiến chống Pháp, buổi đầu (1945-1950), mặt trận Việt Minh đã lừa bịp được các trí thức bằng cách đặt ra hai đảng Dân Chủ và Xã Hội để lôi cuốn những thành phần nói trên.

Trong quá trình kháng chiến, CS luôn ngụy trang, che giấu mục tiêu thật sự của họ. Cán bộ, đảng viên CS núp trong bóng tối để chỉ huy. Tùy thời gian, họ dựng lên những chiêu bài khác nhau, mới nhìn người nào cũng thấy họ có chính nghĩa. Đó là

"cái chính nghĩa giai đoạn". Khi nào tình thế thuận lợi, họ trở mặt ngay. Khi CS Trung Quốc chiếm Hoa Lục, nối liền các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa thì ông Hồ theo lịnh của Mao Trạch

Đông, tái lập đảng CS mà ông đã giả bộ tự giải tán tháng 11 năm 1945, rồi lập đảng Lao Động vô sản. Nước VN là một bộ phận của cách mạng vô sản toàn thế giới và sẽ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa CS.


Sau hiệp định Genève, CS có âm mưu chiếm miền Nam bằng võ lực, nên gài cán bộ ở lại để phát động cuộc chiến tranh du kích,

và cho cán bộ trí vận móc nối với những người kháng chiến cũ để mở đầu phong trào “tranh đấu chính trị trong quần chúng”.

Những người đóng vai trò cán bộ trí vận, móc nối với các trí thức miền Nam là ai? Đó là Tạ Bá Tòng, Ba Trà (Trần Văn Paul), Tư Đen ...


Nhiều trí thức đối lập, sẵn sàng theo Mặt Trận để chống lại chính phủ quốc gia, vô tình họ trở thành những kẻ nối giáo cho giặc mà báo chí miền Nam trước đây gọi những thành phần đó là "ăn cơm quốc gia thờ ma CS".

Trong số những trí thức, khoa bảng miền Nam theo CS có một số người tham vọng quyền lực như luật sư Trịnh Đình Thảo, có nhà riêng như dinh tham biện, nằm trong một vườn xoài rộng

lớn, mát mẻ; giáo sư Nguyễn Văn Kiết, từng làm lớn trong Bộ Giáo Dục, được cấp tư gia, có công xa đưa đón; ông bà Phùng Văn Cung ... chắc chắn không muốn theo CS để rồi tất cả tài

sản bị tịch thu ...! Họ là những người thuộc giai cấp thượng lưu xã hội, hưởng mọi sự ưu đãi, không bị áp bức, bốc lột thì làm sao theo CS được, nếu không hiểu lầm rằng MTGPMN là của

những người quốc gia yêu nước? Nguyên nhân đó cũng là lý do thầm kín, chẳng hạn như các ông nhắm vào chức thủ tướng, bộ trưởng sau này?


Về trường hợp vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng cũng là những người ngây thơ, tin rằng MTGP không phải là CS.

Khi họ thành lập "chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam VN" (cũng là chiêu bài mới), bà Vân Trang, vợ giáo sư Bảng có hỏi:
- Tại sao nước ta là nước nông nghiệp, lại không có bộ Canh Nông?

Rõ ràng bà tưởng cái chính phủ ấy thực sự có quyền hành! Nó chỉ là công cụ của CS miền Bắc, để có tư thế tham dự hòa đàm tại Paris.

Ông Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vừa là nhà văn, nhà giáo và nhà cách mạng ôn hòa. Ông Thiên Giang là thân phụ của giáo sư địa chất Trần Kim Thạch, dạy tại trường Đại Học

Khoa Học Sàigòn. Trần Kim Bảng là người sinh quán tại Quảng Nam, học hết cao đẳng tiểu học Pháp (tức trung học đệ nhất cấp), hoạt động trong nhóm CS đệ tứ như các ông Hồ Hữu

Tường, Trần Văn Thạch ... là kẻ thù không đội trời chung với CS đệ tam, tức phe ông Hồ. Tuy nhiên thời kỳ sau này, CS đệ tam vẫn lợi dụng họ mà không giết như hồi kháng chiến chống Pháp ... Có lúc ông Bảng bị Pháp bắt giam tại Lao Bảo (Quảng Trị).


Từ năm 1949-1952, Trần Kim Bảng sống tại Sàigòn, viết báo, cộng tác với các tờ báo có khuynh hướng xã hội. Trong thời gian đó, ông tiếp tục làm giáo sư địa tại một số tư thục ở

Sàigòn. Bà vợ ông, người ta chỉ biết bút hiệu Vân Trang, họ Đào (?), con một gia đình điền chủ ở miền Tây. Ông Trần Kim Bảng có một người em gái, cũng có khiếu văn chương, thường làm thơ, bút hiệu là Hợp Phố.

Trong thập niên 1950, bà Vân Trang vừa là nhà văn chuyên viết các truyện ngắn về phụ nữ trung lưu, tiểu tư sản ở thôn quê miền Nam khá có tiếng tăm. Nữ sĩ Vân Trang là con gái út của gia đình có 4 người con gái, đều thông minh, học giỏi, có tài viết văn, làm thơ và đàn ca ...

Người chị cả là vợ của học giả Hồ Hữu Tường, quê ở Thường Thạnh, Cái Răng, Cần Thơ hoạt động trong nhóm đệ tứ, nổi tiếng là lý thuyết gia của nhóm.

Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Tường là người đệ tứ duy nhứt còn sống sót, thoát khỏi những đợt thanh trừng của phe ông Hồ. Từ năm 1949, ông Tường, cùng với các ông Trịnh Khánh Vàng, Trần Văn Ân, Lê Văn Ngọ, Jean Baptise Đồng ...

đều làm cố vấn cho Bảy Viễn. Năm 1955, ông Tường bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt, kêu án tử hình và đày ở Côn Đảo.

Sau khi nhà Ngô bị đảo chánh, ông Tường được trả tự do. Sau đó ông ứng cử dân biểu quốc hội và đắc cử. Sau năm 1975, ông bị VC bắt cải tạo và chết trong tù ở Hàm Tân.


Người chị thứ hai được biết đến qua mấy chữ “Bà Tân Sinh" vì bà có nhà sách "Tân Sinh" ở đường Đinh Tiên Hoàng, Dakao.

Có lúc bà Vân Trang đứng trông coi nhà sách phụ với chị. Chồng bà Tân Sinh, cũng là nhà văn, có viết quyển truyện ngắn “Nọc Nạn” kể lại biến cố lớn ở Nam Kỳ năm 1928, trong đó

cường hào ác bá (ông chủ H. với Mã Ngân) cấu kết với nhau, cướp đất của nông dân trực tiếp đứng ra khai khẩn, nhưng không biết thủ tục giấy tờ xin hợp thức hóa.


Người kế là nữ sĩ Mộng Trung, đa tài, biết đàn ca, viết văn, làm thơ, là vợ của giáo sư nhạc sĩ Trần Văn Khê ...

Cả hai vợ chồng ông Trần Kim Bảng đều hoạt động chính trị, và bà Vân Trang có nhiều tham vọng, muốn chồng giữ chức vụ quan trọng. Hai vợ chồng thoát ly gia đình, trốn ra mật khu vào

năm 1968. Tuy nhiên, trong MTGPMN cũng như cái gọi là "chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam", cả hai ông bà đều không được "gắn" một chức vụ nào cả, trong khi đó, bác sĩ Phùng Văn Cung làm Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Nội Vụ.


Cán Bộ Trí Vận Móc Nối Các Nhà Trí Thức Miền Nam Như Thế Nào?

Trước hết, cán bộ trí vận nhắm vào thành phần kháng chiến cũ, có liên hệ ít nhiều với Việt Minh từ sau năm 1945. Phần lớn những người này đều có cảm tình với MTGPMN. Những cán bộ

trí vận (vận động trí thức) mà chúng tôi được biết là Tạ Bá Tòng, Tư Đen, (Nguyễn Thanh Phong) Ba Trà (Trần Văn Paul ...)


Trước hết chúng tôi xin kể về trường hợp cán bộ trí vận Ba Trà. Ba Trà còn có tên là Trần Văn Danh hay Paul, em ruột của bà Phùng Văn Cung, người sinh trưởng tại Chợ Lớn.

Trà theo học chương trình Pháp nhưng dở dang ở bậc đại học, rồi bỏ theo kháng chiến.

Tôi xin mượn lời của một ủy viên "Mặt Trận Liên Minh Các Lực Lượng Dân Chủ và Hòa Bình" kể lại những hoạt động của Trà:


"Tôi làm cho ... tại đồn điền cao su Lai Khê, cách quận Bến Cát chừng 4km. Chỗ này vắng vẻ, ban đêm VC thường lén về đòi tiền, thu thuế và tuyên truyền "cách mạng". Tôi bị họ đến hăm dọa, đòi tiền nhiều lần, và tuyên truyền về đường lối, chính

sách của cách mạng. Có lúc tôi đấu lý với chúng, nhưng không thể nào dứt khoát cự tuyệt được ... Tôi “ủng hộ cách mạng” nhiều lần, mỗi lần một số tiền tượng trưng. Quen mùi thấy bùi, cứ cách vài ba đêm, chúng cử người tới diễn trò cũ: đòi tiền yêu cầu ủng hộ và tuyên truyền rỉ tai.


"Chừng vài tháng sau tôi mới cảm thấy mình dại vì đùa với lửa.

Tôi đã đấu lý và làm cho chúng bực bội, hậm hực bỏ đi. Tôi nghĩ trước sau gì tôi cũng bị VC trả thù. Nếu tôi tiếp xúc thường xuyên và ủng hộ cách mạng bằng tiền nhiều lần, trước sau gì,

chính quyền quốc gia cũng phát giác, hoặc nghi ngờ, làm khó dễ, khiến tôi thấy cuộc sống bị đe dọa từ nhiều phía. Trong một dịp tình cờ, người bạn tôi, anh kỹ sư Tô Văn Cang giới thiệu một cán bộ VC vừa mới xâm nhập Sàigòn, Gia Định. Tôi sốt sắng

làm quen liền vì nghĩ rằng nó sẽ là "cái mộc" để bảo vệ tôi ở Lai Khê khỏi bị VC khủng bố. Người đó là Tư Đen (tên thật là Nguyễn Thanh Phong), từng du học ở Pháp về, không có bằng cấp gì. Sau năm 1975, có lúc hắn làm giám đốc công an thương cảng Sàigòn.

Qua sự gặp gỡ với Tư Đen, tôi được quen thêm một cán bộ khác có bí danh Ba Trà. Lúc đó Ba Trà cũng là cán bộ trí vận, hoạt động như thế nào tôi không rõ. Mỗi lần y ghé thăm tôi, nhờ tôi chở đi chỗ này chỗ nọ. Tôi như một người tài xế cho y.

Có lần y bắt tôi chở tới gần một địa điểm rồi xuống xe, đi một mình đến chỗ mà y muốn sau khi thấy xe tôi chạy khuất. Một lần tôi đi công chuyện ở Dầu Tiếng, Ba Trà xin quá giang về Núi Cậu ...


Nhưng khi đến Dầu Tiếng, không thấy người đi đón ở điểm hẹn, nên y phải trở về Sàigòn ... Sau này tôi mới biết y đi đổi dollars ra tiền Việt Nam Cộng Hòa, để đem về mật khu.

Sau nầy tôi mới biết núi Cậu là mật khu của Ủy Ban MTGPMN khu Sàigòn - Gia Định do khu ủy thường trực là Trần Bạch Đằng nắm giữ.

Trần Bạch Đằng tên thật là Trương Gia Triều, bí danh Tư Ánh (tên con gái ông ta).

Trong đợt tổng công kích vào Tết Mậu Thân năm 1968, Trần Bạch Đằng làm phó bí thư đảng ủy tiền phương 2, còn bí thứ là Võ Văn Kiệt. Vợ của Trần Bạch Đằng là Nguyễn Thị Chơn

(thường được gọi là Dì Năm Chơn), có lúc bị chính quyền quốc gia bắt giam. Trần Bạch Đằng phải tìm cách trao đổi tù binh với Mỹ để cứu bà Chơn. Khi chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ra đời, bà Chơn được cử làm thứ trường Bộ Tư Pháp.

Năm 1969 bà Chơn có tham gia phái đoàn dự hội nghị Paris.


Có một lần Ba Trà biểu tôi chở đi Dầu Tiếng để đón một ông lớn. Khi tới suối ông Hùng, còn cách Dầu Tiếng 10km, gặp du kích chận xe lại. Nhìn mặt, họ biết Ba Trà là người của họ, và

bảo tôi trở đầu xe. Lúc đó Trần Bạch Đằng mới xuất hiện, lên xe cùng với Ba Trà trở về Sàigòn. Sau này tôi mới biết Trần Bạch Đằng là thường vụ khu ủy Sàigòn - Gia Định. Trần Bạch Đằng

có nhà trọ ở đường Phan Kế Bính, và mua một chiếc xe du lịch Simca 1000, do người nhà là Nguyễn Hải Thọ đứng tên và làm tài xế. Nguyễn Hải Thọ là em vợ của người anh ruột bà Nguyễn

Văn Thiệu (bà Mai Anh), giáo sư Pháp Văn ở trường trung học Tân Hiệp (Bến Tranh) tỉnh Định Tường. Hiện nay Thọ làm giám đốc công ty cung ứng xuất khẩu ở Sàigòn (1990).


Trong thời gian giao thiệp với Ba Trà, có lần anh ta nhờ tôi đem tờ tạp chí của VC tựa "Trí Thức Mới" phổ biến trong giới trí thức ở Sàigòn, đặc biệt là đem tới nhà hai ông:

Dương Minh Thới, thân phụ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, và Nguyễn Xuân Bái, thân phụ của Nguyễn Xuân Oánh. Tôi nhận mấy tạp chí đem về nhà, nhưng rồi vì lo sợ, đã đốt sạch, không giao và không phổ biến cho ai cả. Tuy nhiên tôi cũng báo cáo với Ba Trà tôi đã tiếp xúc với hai ông trí thức kể trên, và đã

cho hai ông biết đường lối sắp tới của MTGPMN sẽ tấn công để cướp chính quyền, để đưa toàn thể miền Nam được độc lập, hòa bình và trung lập như hội nghị Nhân Dân Đông Dương chủ

trương theo ý kiến của Tổng Thống De Gaulle. Tôi cũng bịa ra rằng cả hai nhà trí thức ấy rất hài lòng và ước mong cán bộ MTGPMN cứ đến thăm người trí thức ở thương cảng Sàigòn để giới trí thức miền Nam không còn sợ MTGP là CS nữa.


Tất nhiên, những điều tôi báo cáo láo với Ba Trà, được anh ta trình về mật khu, về cục R. Vì vậy, sau này Ba Trà được lịnh kết nạp tôi làm cán bộ trí vận của MTGPMN khu Sàigòn - Gia Định, nhưng chỉ là cán bộ trên danh nghĩa, chớ không có giấy tờ gì chứng minh cả.

Cũng từ đó, tôi tưởng rằng mình có thể yên tâm đi làm việc ở các đồn điền cao su hẻo lánh. Nếu bị VC bắt, chắc chắn tôi sẽ được thả liền và không còn nguy hiểm nữa. Tôi ngây thơ tin

tưởng như vậy. Sự thật cả hai ông trí thức kể trên đều là những nhà tư sản, giàu có, chưa chắc gì họ sẵn sàng tin và theo MTGP. Tôi thâm thụt đi lại với Ba Trà trong gần 3 năm. Có những dịp tôi được gặp Vương Văn Lễ, Trần Văn Kiểu, Lê Thị Riêng và Đổ Thị Duy Liên ...


Đi đêm có ngày gặp ma. Ngày 28 tháng 4 năm 1967, ông bạn kỹ sư Tô Văn Cang điện thoại cho tôi:

- Đừng run nghe! Đây là tin giật gân! "Ba Trà đã bị bắt rồi", nhưng anh cũng cố trấn an tôi bằng cách nói thêm:

- Anh Ba Trà có 30 tuổi đảng, sẽ giữ khí tiết và không tiết lộ bí mật. Đừng sợ!

Phía VC, khi hay tin Ba Trà bị bắt, cho người nhắn tin Tô Văn Cang hãy ra vùng giải phóng ngay để được bảo vệ. Tuy nhiên, anh Cang không đi. Ngày 30 tháng 4 năm 67, vào lúc 3 giờ

sáng, cảnh sát quận 3 đô thành bao vây nhà kỹ sư Cang và lục soát. Vì có chuẩn bị trước, anh Cang trốn trên trần nhà, nên thoát khỏi, chỉ có bà vợ bị bắt mà thôi.

Trường hợp của tôi bị bắt cũng tương tợ. Tôi bị giam giữ tại bót Ngô Quyền, đường An Bình, Chợ Lớn. Vào chỗ tạm giam, tôi còn gặp một số đông người quen biết thì vững bụng là Ba Trà đã khai hết, nên không ai bị đánh đập gì cả và còn hy

vọng được chính quyền quốc gia khoan hồng! Sau đó, tôi hỏi vài người quen về trường hợp Ba Trà bị bắt. Thực ra, Ba Trà bị theo dõi từ mấy tháng trước. Khi Ba Trà từ nhà kỹ sư Cao Văn Bổn đi ra, công an chính quyền VNCH xác nhận đúng là

VC, chận y lại, rồi bắt đưa lên xe. Tới nơi hỏi cung, Ba Trà thú nhận y là cán bộ trí vận, không chối cãi hay giữ bí mật như mọi người lầm tưởng. Cuối cùng, chính quyền quốc gia cho Ba Trà tự chọn lựa:


- Một là hợp tác với chính quyền quốc gia.
- Hai là chịu tra tấn.
- Ba là chịu thủ tiêu.

Sau một hồi suy nghĩ, Ba Trà đầu hàng, và viết bảng tự khai sự thật 100% với chính quyền quốc gia. Ba Trà phải để hai ngày ròng rã viết lại các hoạt động của y và sự liên hệ của các cán bộ trí vận CS nào liên lạc với các trí thức nào ở Sàigòn, Chợ

Lớn, Gia Định. Có một điều là Ba Trà thổi phồng sự thật về địa vị và chức vụ của y cho quan trọng hơn: khai tùm lum, khiến nhiều người chỉ mới tiếp xúc, chưa hoạt động cũng bị bắt như:

Trương Như Tảng, giám đốc công ty đường Việt Nam, ông Đinh Xáng, chủ tịch một ngân hàng, Cao Thị Quế tự Đức Anh ...

Ba Trà cộng tác đắc lực với chính quyền quốc gia, nên công an VNCH còn bắt được bà Nguyễn Thị Chơn là vợ của Trần Bạch Đằng, hai khu ủy viên Sàigòn, Gia Định là Trần Văn Kiểu và Lê Thị Riêng
.

Hai người này không chịu đầu hàng và bị đưa đem bắn trong đêm đầu tiên của cuộc tổng công kích Mậu Thân (1968). Sau khi chiếm được miền Nam, VC lấy tên bà Lê Thị Riêng đặt cho con đường Tôn Thọ Tường, chỗ bán phụ tùng xe đạp và xe Honda trong Chợ Lớn.


Những việc không có liên hệ với y thì Ba Trà không khai như việc tôi và bà Ngô Bá Thành đi thăm các thượng tọa tại chùa Ấn Quang, đi gặp Linh Mục Hoàng Quỳnh. Tất nhiên những lời khai

của Ba Trà về tôi thì tôi phải nhận, còn việc tiếp xúc với giáo sư Dương Minh Thới và ông Nguyễn Xuân Bái (mà tôi báo cáo láo) thì phải đối chất với hai ông ấy khi hai ông bị mời tới Tổng Nha

CSQG. Đồng thời tôi phải làm giấy xác nhận là tôi đã "báo cáo láo" với Ba Trà, thì hai ông này mới không bị chính quyền quốc gia làm khó dễ.


Dù sao tôi cũng đã tiếp tay, hoạt động cho VC với bằng chứng cụ thể, nên tôi bị giam trong phòng tối 9 tháng và 3 tháng tại Câu Lưu xá Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Dưới thời đệ nhứt

Cộng Hòa (1955-1963) những trí thức hoạt động cho VC có bằng chứng cụ thể, có thể bị kết án 15 năm tù và bị đày đi Côn Đảo như trường hợp chị dược sĩ Phạm Thị Yến, vợ anh Trần Bửu Kiếm, và giáo sư Nguyễn Văn Chì năm 1960. Chị Yến được ân xá dưới thời cụ Trần Văn Hương. Chị có đến thăm cụ

và sau đó được cắp phương tiện đi Phnom Penh đoàn tụ với chồng. Riêng kỹ sư Tô Văn Cang sau đó chính vợ đã khai thật vì bị dọa tịch thu tài sản, nên cũng bị bắt. Cang bị phạt nặng hơn tôi, nhưng cũng được tha cùng một lúc với tôi."



Cố Giáo Sư Hứa Hoành
Tinparis

Reply With Quote
  #2  
Chưa đọc hôm nay, 09:05 AM
Tướng 3 sao
 
Ngày Gia Nhập: Mar 2013
Số Bài: 665
Thanks: 14
Được cảm ơn 111 lần trong 106 bài
Wink Vài bí mật chưa được tiết lộ

Vài bí mật chưa được tiết lộ về Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

Hứa Hoành



Đồng bào miền Nam VN, ai cũng biết rằng Cộng Sản chiếm được miền Nam nhờ bịp bợm và khủng bố, "mặt trận giải

phóng miền Nam" không đại diện cho ai cả, chỉ là công cụ do CS dựng lên để lừa bịp dư luận trong và ngoài nước, lừa bịp ngay các thành viên của mặt trận này.


Từ "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam" qua "Liên Minh Dân Chủ", rồi đến "Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam VN" đều là những màn trình diễn bịp. Thành viên của 3 tổ chức trá hình đó

đều là những tên múa rối, bị điều khiển bởi những tên cán bộ Cộng Sản núp trong hậu trường. Các tổ chức trá hình trên là

những vở tuồng được soạn sẵn, các đào kép bị phỉnh gạt đưa vào, phải đóng trọn vai của mình, nếu không sẽ bị thủ tiêu.



Tuy là thành viên của mặt trận, họ luôn luôn bị kìm kẹp (Việt Cộng gọi là bảo vệ), theo dõi, kiểm soát chặt chẽ. Hàng ngày chúng nhồi nhét chính trị. Chúng tôi xin tường thuật quá trình

lừa bịp của Cộng Sản qua các tổ chức bịp bợm ấy ở miền Nam do kỹ sư Hồ Văn Bửu, từng là ủy viên của chính phủ lâm thời (ngang hàng Bộ trưởng), hồi chánh năm 1970 kể lạị Tập hồi ký

này không xuất bản, chỉ dành cho các bạn thân của ông. Tôi may mắn được đọc bản chính tập hồi ký đó, và được phép khai thác để cống hiến độc giả. Hiện ông kỹ sư Bửu vẫn còn trong

trại tỵ nạn Thái Lan. Chúng tôi xin trân trọng biết ơn ông Hồ Văn Bửu đã kể lại những âm mưu, những thủ đoạn lừa bịp trong hậu trường bọn Cộng Sản ở miền Nam để độc giả thấy được sự gian trá của chúng.



Ông Hồ Văn Bửu sinh năm 1932 tại Biên Hòạ Thân phụ là ông Hồ Văn Tam, nhà giáo, sau khi hồi hưu làm chủ tịch hội đồng chủ tịch tỉnh Biên Hòa 1962-1963. Năm 1948, ông Bửu qua

Pháp du học cùng chuyến tàu với Đỗ Cao Trí, lúc dó qua Pháp học về nhảy dù. Ông vừa là bà con vừa là bạn học với cố Đại tướng Đỗ Cao Trí. Qua Pháp, ông Bửu theo học trường Bernard

Palassy ở Monpellier, sau dó lên Paris tiếp tục học và đổ kỹ sư Canh nông năm 1958. Năm sau ông về miền Nam được chính

phủ VNCH bổ nhiệm làm phụ tá cho tiến sĩ Thái Công Tụng đang làm trưởng bang Thổ nhưỡng Trường kỹ thuật nông nghiệp.



Kể từ năm 1964, ông thôi làm công chức ở Bộ canh nông, qua làm chuyên viên khảo cứu cao su cho các đồn điền cao su Pháp ở miền Đông Nam phần. Trong những năm còn là sinh

viên ở Pháp, ông Bửu đã có cảm tình với VC vì bị tổ chức Liên hiệp Việt kiều của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện tuyên truyền. Lúc đó ở Pháp, nhiều trí thức mới tốt nghiệp như ông, còn ngây thơ

chính trị, chưa hiểu Cộng Sản là gì, đến khi có người tuyên truyền về chủ nghĩa Cộng Sản, họ thấy tốt đẹp, nên theo, rồi bị mắc lừạ Cụ thể có bác sĩ Trương Công Trung tức Hai Ngọ, kỹ sư Phạm Tám, kỹ sư Trần Văn Thiện, nghe lời đường mật của

Cộng Sản hồi hương về Bắc. Nguyễn Khắc Viện vẽ ra trước mắt họ một chương trình "về phục vụ đất nước sau chiến thắng Điện Biên Phủ" với cả một tương lai rực rỡ. Về đến Hà Nội, các trí thức ấy được bổ nhiệm dưới quyền những tay CS bần cố

nông, không biết chuyên môn. Hàng ngày, họ bị cán bộ nhồi sọ về chính tri, kiểm thảo thường xuyên. Vì thuộc thành phần

tiểu tư sản, giới trí thức hồi hương này không bao giờ được Đảng Cộng Sản tin cậy, cũng không bao giờ cho giữ chức vụ chỉ huy nào cả.


Trường hợp ông Bửu có hơi khác. Khi làm chuyên viên cho Viện khảo cứu cao su cho các đồn điền Pháp, ông có dịp tới lui nhiều lần các đồn điền cao su nằm trong chỗ khuất vắng của các tỉnh miền Đông Nam phần, là nơi có du kích, cán bộ Cộng

Sản núp lén hoạt động kể từ sau năm 1963. Thỉnh thoảng ông gặp họ, nói chuyện, bị họ tuyên truyền rồi ngả theo cái gọi la "mặt trận giải phóng miền Nam", công cụ của Cộng Sản Bắc Việt mà ông tưởng là tổ chức củạ..người quốc gia yêu nước, có

khuynh hướng độc lập, chống lại sự can thiệp vào nội bộ nước nhà của Mỹ. Khi đã lọt vào tay Cộng Sản rồi, thấy mình bị mắc lừa, ông Bửu chỉ tìm cơ hội vượt thoát khỏi cái tổ chức bịp bợm

đó. Từ căn cứ của "chính phủ lâm thời" nằm sâu trên đất Miên, ông Bửu nhờ một người dẫn đường, tìm cách trốn qua Miên, bị

cầm tù một thời gian, rồi bị trục xuất qua Làọ Ở đây ông bị điều tra mấy tháng rồi giải giao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.


Cuộc vượt thoát khỏi nanh vuốt của bọn cộng sản phải mất sáu tháng. Sau năm 1975, ông bị bắt cầm tù cho đến cuối năm

1980 mới được thả. Về Saigon, ông sống không có hô khẩu suốt mười năm, tìm cách vượt biên nhiều lần nhưng thất bại.

Lần sau cùng, ông đến được trại tỵ nạn Thái Lan năm 1990.

Mới đây, nghe tin ông bị lọt sổ thanh lọc, chúng tôi thấy cách làm việc của Ban thanh lọc người tỵ nạn ở Thái Lan rất khó hiểu. Ông Bửu là một nhân viên cao cấp của Cộng Sản, chống

đối chế độ, trở về hồi chánh, rồi trốn thoát, bị tù đày, sau cùng vượt biên nhiều lần mới tới được bến tự do, nhưng không được nhìn nhận tư cách tỵ nạn chính trị. Ông có đủ giấy tờ chứng

minh, hình ảnh báo chí ngoại quốc chụp khi ông công du Ấn Độ tố cáo chế độ cộng sản, thế mà vẫn bị đánh rớt. Không biết Ban thanh lọc đòi tiêu chuẩn của người tỵ nạn như thế nào mới gọi là hội đủ điều kiện của người tỵ nạn chính trị ?



Phong Trào Hòa Bình, mở màn cho cuộc đấu tranh chính trị của CS ở miền Nam:


Hiệp định Geneva 1954 có điều khoản qui định rằng 2 năm sau, sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Tại miền Nam, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa biết rằng

nếu tổ chức bầu cử, miền Bắc sẽ gian lận, và chiến thắng. Hơn nữa, viện lẻ chính quyền quốc gia không ký tên vào Hiệp định Geneva, nên chính phủ miền Nam tự coi mình không bị ràng

buộc bởi những điều kiện trong đó. Năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm thông báo cho Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến ở VN, lúc đó là Đại sứ Ấn độ Christian Menon.

Ông này vốn thiên Cộng, đã tìm cách thuyết phục chính phủ VNCH nhiều lần nhưng thất bạị Được tin đó, Hồ Chí Minh thất vọng ra mặt, nhưng hắn đã có chuẩn bị trước, cài nhiều cán bộ

ở lại (từ 3000-5000 người) ngay khi ký Hiệp định Geneva. Bọn Cộng Sản Bắc Việt phát động một hình thức đấu tranh chính trị mới : Đó là nguyên nhân chào đời của cái gọi là "phong trào đòi hòa bình và dân tộc tự quyết" ở miền Nam.



Để phát động phong trào này, trước hết, bọn cán bộ cộng sản nằm vùng bắt đầu hoạt động bí mật. Họ móc nối các trí thức ngây thơ, những người kháng chiến cũ đã bỏ họ về thành sau 1954. Cụ thể là Tạ Bá Tòng, cán bộ trí vận cộng sản tự là Năm

Thới, hoạt động bí mật để tạo sự bất ổn trong dân chúng. Để mở đầu, Tạ Bá Tòng móc nối gia đình bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên là Tổng ủy trưởng Di cư năm 1954, có nhiệm

vụ chuyên chở người tỵ nạn từ Bắc vô Nam ! Gia đình ông Huyến có một người con gái tên là Phạm Thị Thanh Vân, lại có cảm tình với cộng sản. Bà ta kết hôn với ông Ngô Bá Thành nên lấy tên chồng để hoạt động trong hàng ngũ trí thức. Qua

sự trung gian của gia đình bác sĩ Huyến, Tạ Bá Tòng tiếp xúc với nhiều trí thức bất mãn khác ở miền Nam, nhưng cũng không ưa cộng sản. Tạ Bá Tòng không bao giờ ra mặt. Từ

trong tối, hắn chỉ thị cho bác sĩ Huyến, bà Ngô Bá Thành đi móc nối các vị lãnh đạo tôn giáo, các nhà báo, nhà giáo có uy tín để lập "liên hiệp hành động" chống sự can thiệp của Mỹ.



Giai đoạn này, mục tiêu của cộng sản là phát động một phong trào của dân chúng đòi "Hòa bình và Tự quyết", có lúc báo chí miền Nam gọi là "Phong trào Hòa bình". Mục đích sâu kín bên

trong là yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thi hành Hiệp định Geneva, tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, để "mọi người dân tự quyết lấy số phận đất nước và thể chế tương lai của Việt Nam". Phong trào này còn hô hào tẩy chay

người Mỹ can thiệp vào nội tình miền Nam Việt Nam. Cán bộ cộng sản chỉ đạo phong trào không bao giờ ra mặt. Chúng núp lén để ra chỉ thị. Chúng tìm một số gương mặt trí thức được quần chúng biết đến để lôi kéọ Những người lãnh chỉ thị của

cộng sản mời các bạn bè, thân hữu, vốn chỉ có cảm tình với nhau thôi, đến nhà hàng Thanh Thế để ăn cơm. Tới nơi, mới biết chúng tổ chức họp báo và ra tuyên ngôn đòi hỏi, yêu sách

như đã nói trên. Phiên họp vừa mới bắt đầu thì cảnh sát áp vào bắt đủ mặt (lời ông Bửu). Ông Bửu cũng có dự phiên họp này nhưng đã lanh chân chạy thoát.



Hôm đó, "Buổi họp báo ngụy trang dưới hình thức buổi tiệc" có những người sau đây:

- Luật sư Nguyễn Long

- Bà Ngô Bá Thành

- Bác sĩ Phạm Văn Huyến

- Kinh lý Đào Văn Nhơn

- Hoạ sĩ Đặng Văn Ký

- Kỹ sư Hồ Gia Lý

- Ký giả Cao Minh Chiếm

- Giáo sư Đại học Văn khoa : Tôn Thất Dương Kỵ...


Sau đó họ bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa ra tòa xét xử. Những người trong Ban Chấp hành bị 5 năm tù, những người bị mời ăn tiệc, chỉ mới ký tên bị 6 tháng tù ở. Luật sư Nguyễn Long trong Ban chấp hành bị 5 năm tù.


Ít lâu sau, chính phủ Ngô Đình Diệm nhất định đưa 3 ông : Bác sĩ Phạm Văn Huyến, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và nhà báo Cao Minh Chiếm được gọi là "3 ông hòa bình" trục xuất ra Bắc qua ngã cầu Hiền Lương.


Khi hay tin "ba ông hòa bình" bị áp giải qua cầu Hiền Lương, Việt Cộng đã tổ chức một cuộc mít-tinh để đón tiếp và tuyên truyền. Đây cũng là một cuộc đấu tranh chính trị giữa hai miền

Nam Bắc. Khi "Các ông hòa bình" được cảnh sát miền Nam dẫn độ ra đến sông Bến Hải, có khuyên các ông một lần chót nên xin ở lại để được khoan hồng, nhưng các ông đã lở leo lên lưng cọp rồi, khó xuống được. Cây cầu Hiền Lương lúc đó sơn hai

màu khác nhau: phân nửa phía bên cộng sản sơn màu đỏ, phân nửa bên Việt Nam Cộng Hòa sơn màu xanh. Khi ba ông hòa bình vừa bước qua ranh giới phân chia Nam Bắc, công an Việt Cộng chạy tới tiếp dón, giành các túi xách của ba ông để

ba ông rảnh tay đến dự cuộc mít-tinh do cộng sản tập trung dân chúng ở huyện Vĩnh Linh đến để tuyên truyền. Cuộc mít-tinh này gọi là dân chúng tự động họp mít-tinh chào mừng

ba nhà trí thức yêu nước của miền Nam. Về sau, thân nhân của một trong ba vị ấy (xin giấu tên) nói rằng khi trở lại lấy túi đồ, thì túi đồ đã bị lục soát, bị mất đi mấy bộ đồ mới.


Sau đó, ba ông hòa bình được dẫn đi thăm viếng các xí nghiệp, nông trường và hợp tác xã ở miền Bắc để tuyên truyền cho chính sách đoàn kết chiến đấu của Việt Cộng. Số phận của ba nhà trí thức miền Nam này ra sao?


Hết gia đoạn tuyên truyền rồi, cả ba ông được đưa sang Cam-bốt để tiếp tục làm công tác đánh lừa dư luận dân chúng hải ngoại với đường lối mới, đòi "trung lập hóa miền Nam theo

chủ trương của Tổng Thống De Gaulle là trung lập hóa toàn thể Đông Dương". Trái lại, lúc này quốc trưởng Sihanouk không đồng ý sự có mặt của ba ông hòa bình trên xứ Chùa Tháp, nên

ra lịnh cho cảnh sát mời ba ông đến yêu cầu rời khỏi lãnh thổ Cam-bốt lúc nào thuận tiện nhất. Họ khuyên ba ông làm đơn lên quốc trưởng Sihanouk, để xin đi bất cứ nơi nào cũng được.

Riêng một mình giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ làm đơn xin ra Bắc, được bố trí làm Tổng thư ký Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đình Thảo sau này. Đó là chức vụ hữu danh

vô thực, khiến ông chán nản, và bất mãn từ đó. Còn hai ông Phạm Văn Huyến và Cao Minh Chiếm thì xin qua Pháp, không bị Việt Cộng lợi dụng nữa.



"Phong trào hòa bình và Tự quyết" của CS bị thất bại. Nó tạm lắng dịu một thời gian chờ cơ hội khác tái sinh dưới một tổ chức khác để rù quến những con mồi ngây thơ khác, đó là Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đình Thảo.


Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đình Thảo:


Chế độ Ngô Đình Diệm miền Nam sụp đổ là một nguy cơ cho đất nước. Thời kỳ sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, miền Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng lãnh đạo trầm trọng, khủng

hoảng về đường lối chiến tranh (quốc sách Ấp Chiến Lược đang có hiệu quả, nhưng vì mặc cảm với chế độ củ, nên bãi bỏ để lập Ấp Đời Mới, Ấp Tân Sinh, đó chỉ là các hình thức vá víu tạm

bợ). Chế độ mới chỉ lo thỏa mãn tham vọng của mình và lo trả thù những quân nhân, công chức có liên hệ với chế độ cũ, làm thiệt hại đến tiềm năng chiến đấu chống cộng sản.



Tất cả những điều đó tạo ra sự bất ổn chính trị, chia rẽ và CS liền khai thác triệt để. Chúng đưa cán bộ xâm nhập vào dân chúng miền Nam để tuyên truyền, móc nối với các thành phần trí thức, tôn giáọ Nhiều trí thức trong "Phong Trào Hoà Bình"

lúc trước đã mãn hạn tù. Họ bất mãn chính phủ VNCH. Khi CS chủ trương mở ra mặt trận tranh đấu mới thì họ sẵn sàng tham gia, đó là "Liên Minh Dân Chủ" của luật sư Trịnh Đình Thảọ Lúc này Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã chào đời, nhưng chỉ

đóng trong rừng. Cục R và mặt trận này cứ dời đổi địa điểm tới lui 2 bên con sông nhỏ, làm ranh giới giữa Tây Ninh và Kampuchea. MTGPMN ra đời mấy năm nhưng tỏ ra không hữu hiệu, nên họ mới dựng ra cái gọi là "Liên Minh Dân Chủ", để lôi

cuốn trí thức tranh đấu ngay trong vùng chính phủ VNCH kiểm soát. Trịnh Đình Thảo là người miền bắc, sinh trong một gia đình có tiếng tăm, cả thảy bốn anh em, đều đổ đạt, hay giữ

chức vụ quan trọng trong chính quyền Pháp thuộc. Người anh cả là Trịnh Đình Huyến, tốt nghiệp Trường Canh nông Hà Nội, là đốc công ở Bạc Liêu, người anh kế tốt nghiệp Trường Công

chánh, và người em gái út gã cho một luật sư ở Hà Nội. Ông Thảo tốt nghiệp tiến sĩ Luật khoa bên Pháp, về mở văn phòng luật sư ở Saigon.


Buổi họp đầu tiên của Liên Minh Dân Chủ vào tháng 1/1964 tổ chức tại nhà ông Kinh lý Đào Văn Nhơn, đường Hàn Thuyên, thẳng góc với Dinh Độc Lập. Lời ông Bửu:


"Trước ngày họp, tôi được tiếp xúc với một cán bộ VC tên Tư Đen mời tôi tới làm thư ký cho Liên Minh đó. Phản ứng đầu tiên của tôi là từ chối, vì lẽ tôi đang ở trong tuổi động viên, đi lính

VNCH. Tư Đen lý luận rằng, "Trong số thư ký đó, cũng có Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung (giáo sư Đại học Văn khoa) cũng ở lớp tuổi của anh có sao đâu!" Tôi suy nghĩ một lúc rồi cũng nghe theo lời của anh ta, để rồi hôm sau tôi đến chỗ họp.



Tại nhà ông kinh lý Đào Văn Nhơn, vào lúc 16 giờ, có mặt gần như đông đủ hết các trí thức được mời. Kế tiếp, thẩm phán Trần Thúc Linh, thuyết trình mục đích và yêu cầu việc thành

lập Liên Minh Dân Chủ. Sau khi Trần Thúc Linh kêu gọi anh em đóng góp ý kiến, thì giáo sư Lý Chánh Trung mới đặt vấn đề:



- Người ta mời tôi vào một tổ chức quốc gia mà trong chương trình hành động không có đề cập đến vân đề chống CS, thì vô tình chúng ta sẽ bị chánh quyền chụp mũ rằng chúng ta hoạt động có lợi cho CS thì sao?


Chỉ một mình Trần Thúc Linh trả lời rằng:


- Chúng ta là những người dân không bị CS cai trị. Chúng ta không có cơ sở nào nêu lên vấn đề chống Cộng.


Cuộc họp gây cấn sắp đổ vỡ. Đến giai đoạn bầu ban chấp hành, thì ông Kha Văn Dưỡng, dân biểu khóa I của VNCH được bầu làm chủ tịch.


Các chức vụ khác như sau :


- Phó chủ tịch : Luật sư Trịnh Đình Thảo.


- Tổng thư ký : Trần Thúc Linh.


- Phó Tổng thư ký

- Ủy viên : Bà Ngô Bá Thành, Nhà văn Thanh Nghị, Thiếu Sơn...


Sau cuộc họp, chủ nhà mới ăn tiệc thì tôi được rỉ tai rằng :"Chỉ làm biên bản đưa về Cục R, chứ không đứng tên, tức là VC có âm mưu sử dụng tôi (Hồ Văn Bửu) vào việc khác".


Chừng một tuần sau, tôi đọc báo được biết rằng con trai của ông Kha Văn Dưỡng là Thiếu tá quân lực VNCH (1964) viết báo đính chánh : Cha của anh được mời đi ăn tiệc, rồi tên ông ta

(Kha Văn Dưỡng) được đưa lên làm chủ tịch "Liên Minh Dân Chủ" mà chính ông không biết. Một vài ông khác cũng viết báo đính chính, cho nên liên minh này của VC chết ngay sau khi công bố danh sách, và chính phủ VNCH cũng không bắt bớ ai cả.



Tuy nhiên qua hành động quá lộ liễu của ông Trần Thúc Linh, hoạt động chống phá VNCH mà chính quyền không đủ chứng lý để bắt ông ta. Vào một ngày nào đó của năm 1967, con trai

ông đang học năm thứ hai trường Đại học Y khoa Saigon, bị hai thanh niên lực lưỡng từ bên ngoài, đột nhập vào trường Y khoa, bắt ném qua balcon từ lầu hai xuống đất. Chú sinh viên y

khoa năm thứ hai này chết ngay tại chỗ. Đó là hành động trả đủa của ông Thiệu hay ông Kỳ gì đó (lời ông Bửu), cho nên công an VNCH khỏi mất công đi tìm thủ phạm.



Sau lễ an táng con trai, ông Trần Thúc Linh có đăng báo cáo phó, cám ơn các bộ trưởng và thân hào nhân sĩ đã chia buồn với gia đình ông. Vả lại, khi thấy sinh mạng bị đe dọa, Trần

Thúc Linh không còn dám hoạt động cho CS nữa. Trái lại, hành động ném lựu đạn giết chết luật sư Dương Trung Tín (anh ruột bà Dương Quỳnh Hoa, theo CS) tại nhà ở Đà Lạt đã thúc đẩy

bác sĩ Dương Quỳnh Hoa chạy theo VC sau cuộc Tổng công kích Mậu Thân của CS năm 1968. Luật sư Tín là người đã từng mang thư riêng của Lê Duẩn gởi cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ để móc nối ông này tham gia MTGPMN vào năm 1960.


CS sắp đặt cuộc tiếp xúc của trí thức miền Nam và Đặc sứ lưu động Mỹ:


Cuộc tiếp xúc này cũng là một đòn chính trị của VC, nói thẳng cho Mỹ biết thái độ của trí thức thân Cộng miền Nam muốn đuổi Mỹ, muốn Mỹ ngưng viện trợ, rút cố vấn, và không can

thiệp vào nội bộ miền Nam. Người Mỹ cũng tò mò, họ muốn biết quan điểm ra sao của một số trí thức không ủng hộ chính phủ VNCH hiện hữu, mà cũng chưa ra mặt hoạt động cho CS.

Liên Minh Dân Chủ thất bại, CS xoay qua một hình thức tranh đấu khác, lợi dụng các nhà trí thức ngây thơ về CS. Đây không phải là một phong trào, mà chỉ là một cuộc trực diện đấu khẩu

với Mỹ, do CS chủ mưu từ trong bóng tốị Họ đâu có người trí thức. Họ chỉ lợi dụng trí thức làm công cụ để họ đạt được mục đích mà thôị Phần này chúng tôi ghi lại lời thuật của ông Bửu.



Vào năm 1965, qua sự sắp xếp của CS, chúng tôi một số trí thức có cảm tình với CS được đưa đến một nhà hàng để gặp gỡ với Đặc sứ lưu động của TT Johnson. Buổi tiệc này dược tổ

chức bí mật tại một phòng trên lầu 3 nhà hàng Á đông trong Chợ Lớn. Đúng giờ hẹn, chúng tôi đến thì ông Yamato đã có mặt một mình trong phòng khách, đang xem báo. Qua lời giới thiệu của bà Ngô Bá Thành, chúng tôi chào hỏi xã giao bằng

tiếng Pháp. Ông Yamato mời chúng tôi vào phòng ăn. Bửa cơm Tàu thịnh soạn được lần lượt dọn lên, không có ai uống rượu cả, và đàm thoại tự do, không có máy ghi âm. Mục đích của

ông đại sứ này là đi nhiều nước, tiếp xúc với giới trí thức và chính quyền sở tại để thăm dò ý kiến về việc Mỹ trực tiếp tham chiến ở VN. Ông trò chuyện với người ngồi kế bên. Rồi ông tự động xin đổi chỗ ngồi để tiếp chuyện với từng người một. Ông hỏi tôi :



- Ông nghĩ gì về cuộc chiến tranh hiện naỵ


Tôi đáp :


- Thưa ngài đại sứ, cuộc chiến tranh này không thấy chiến thắng quân sự. Người Mỹ có phương tiện hiện đại và vũ khí tối tân, nhưng không tiêu diệt được người du kích CS. Chúng tôi

đề nghị người Mỹ đình chiến để thương thuyết và rút quân Mỹ đi thì sẽ có hòa bình. Bởi chiến tranh lâu dài chỉ gây chết chóc cho "người dân vô tội".


Ông ta (Yamato) nói thêm :


- Các anh có tiếp xúc với bên kia (CS) không ?


Tôi (Bửu) trả lời không .


Ông Yamato nói :


- Hãy chờ đợi vài năm nữa sẽ chấm dứt chiến tranh.


Kế đó, ông chuyển ghế để ngồi gần người khác và tôi không nghe ông hỏi gì thêm.

Chúng tôi gồm có luật sư Trịnh Đình Thảo, bà Ngô Bá Thành, thẩm phán Đỗ Quang Huệ, thẩm phán Trần Thúc Linh, kỹ sư Trương Như Tảng, kỹ sư Hồ Gia Lý, kỹ sư Tô Văn Cang (KN :

một cán bộ cao cấp của VC; người sau này chứng nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh trong Dinh Độc Lập)
, bác sĩ Trần Văn Du, Kinh lý Đào Văn Nhơn, hoạ sĩ Đặng Văn Ký và kỹ sư Hồ Văn Bửu.


Cuối cùng, ông đại sứ Yamato mới lên tiếng cho cả bàn tiệc nghe rằng trước đây ông đã từng di Âu Châu, sang Đông Nam Á, tiếp xúc với các chính quyên địa phương, rồi trạm chót là VN, để gặp gỡ các trí thức VN, trước khi ông về Mỹ báo cáo

cho TT Mỹ... Tiếp đó, ông đưa ra một quyển sổ yêu cầu mỗi người ghi tên họ, tuổi tác và nghề nghiệp của mình. Cuôi cùng ông vui vẻ đứng dậy chia tay từng người, và chúc sức khoẻ.

Ông yêu cầu mọi người kiên trì chờ đợi ngày hoà bình sẽ đến VN không xa lắm đâu.



Cũng theo lời ông Bửu, lúc đó Mỹ chưa trực tiếp tham chiến tại VN. Vài tháng sau, Mỹ đổ quân ào ạt vào Saigon và Đà Nẵng.


Sau cuộc gặp gỡ đại sứ Yamato thì vài tháng sau, có một số người Mỹ tìm gặp một số trí thức VN đối lập với chính quyền VNCH. Một dịp tình cờ, tôi đến nhà ông Trịnh Đình Thảo ở Hạnh

Thông Tây, Gò vấp, lời ông Bửu, đây là một vườn xoài rộng 6 mẫu, ông Thảo cho xây một nhà đúc kiên cố, theo kiểu nhà khách ở bịnh viện Cộng Hòa.


Chúng tôi ngồi uống trà dưới bóng mát của 3 cây xoài, trên những ghế đá màị Tôi được ông Thảo giới thiệu với một người Mỹ nói tiếng Pháp, còn tôi được gọi là kỹ sư không xưng tên.

Sau lời chào hỏi lịch sự theo xã giao Tây phương, chúng tôi nói chuyện thoải mái với ông Mỹ này. Tôi nói :



- Nguyện vọng của chúng tôi là yêu cầu Mỹ rút quân để vấn đề chiến tranh này cho người VN giải quyết với nhau.


Người Mỹ đáp :


- Nếu quân đội Mỹ rút đi, thì CS sẽ chiếm miền Nam.


Tôi nói tiếp :


- Nếu CS có thắng thì chúng tôi hợp tác với họ trong hòa bình, không còn bắn giết nhau nữa, người dân Việt Nam mới sống yên ổn, sinh hoạt bình thường, không còn lo sợ chiến tranh.


Người Mỹ này đứng dậy, lấy khăn lau mồ hôi trán, rồi chậm rãi đáp :


- Nếu CS vào Saigon, thì sẽ bắn giết lực lượng VNCH. Saigon sẽ thành biển máu lửa. VC sẽ bỏ tù hết các ông.


Tôi đáp ngày :


- Chúng tôi là dân sự, không chống đối họ thì họ sẽ trọng dụng chúng tôi, nhất là chúng tôi là những chuyên viên về kinh tế, kỹ thuật, có thể phục vụ cho đất nước bất cứ lúc nào cũng được.


Ông Mỹ nói:


- Ông còn ảo tưởng lắm! Người CS có đường lối độc tài của họ, không sử dụng người trí thức đâụ Họ sẽ tiêu diệt giai cấp bằng

cách quốc hữu hóa tài sản của người dân, biến con người thành công cụ sản xuất, nhằm bảo vệ giai cấp lãnh đạo của họ, được gọi là giai cấp công nhân thất học đó.



Tôi có cảm tưởng khinh thường ông Mỹ này, vì tôi cho rằng ông đi tuyên truyền chống cộng như con vẹt. Tôi đáp:


- Xin lỗi ông, tôi không tin!


Trong khi đó, trước sự chú ý của nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, ký giả Hoàng Trọng Miên, bà Ngô Bá Thành, kỹ sư Trần Văn Quyến, ký giả Thiếu Sơn, kỹ sư Hồ Gia Lý...thì ông Thảo cắt ngang lời nói của tôi. Ông nói:


- Cháu còn trẻ nên còn hăng đấy.


Ông Mỹ cười và quay sang bà Ngô Bá Thành ngồi kế bên nói chuyện một lúc. Rồi ông nói rõ lập trường của Mỹ như sau :


- Người Mỹ sang VN chiến đấu vì lý tưởng tự do và bảo vệ tự do cho dân tộc VN. Với tư cách một người trí thức Mỹ, tôi tin rằng số đông trí thức VN đều có du học ở phương Tây, sẽ hiểu

biết được thực tâm của chính phủ Mỹ, để không chống đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở VN, nhằm ngăn chặn làn sóng sẽ do Trung quốc đang muốn bành trướng sang VN và Đông Nam Á.

Trong dịp này, CS núp dưới chiêu bài "giải phong miền Nam", để rồi sau khi chiếm được VNCH, họ sẽ thôn tính luôn cả Lào và Kampuchea.



Qua cuộc tiếp xúc này, tôi được biết ý định của Mỹ, nhưng tôi vẫn xem Mỹ là kẻ xâm lược VNCH, vì lẽ "người dân có kêu Mỹ tham chiến đâu"! Tự nhiên người Mỹ vào thay thế người Pháp

sau Hiệp định Geneva 1954 và cai trị chế dộ VNCH xuyên qua các chính quyền do Mỹ dựng lên. Sự có mặt của người Mỹ như chủ nhân ông, không có chính nghĩạ Đối với lương tri con

người, mặc dù chính quyền Mỹ đã tốn rất nhiều tiền, và thanh niên Mỹ phải bỏ mạng ở chiến trường VN. Bởi vì nếu CS xâm lược thì nhân dân miền Nam có quyền tự vệ và đánh đuổi CS ra

Bắc Việt Cũng bởi vì quốc sách Ấp Chiến Lược của VNCH đang tỏ ra hữu hiệu thì Mỹ lại thay đổi chính sách chống Cộng!



Hoạt động của "Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam":


Sau khi MTGPMN không còn hữu hiệu nữa, CS giải tán để lập thành "Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam VN". Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa từ Ban Y tế qua làm Bộ trưởng Y tế. Các ông

trong Ban tuyên huấn mặt trận thì trở thành Bộ trưởng Thông tin hay Giáo dục. Các ông già như ông Trịnh Đình Thảo, Lê Văn Giáp, Lâm Văn Tết ra Bắc lánh nạn. Vợ chồng Thiên Giang,

Trần Kim Bảng ra Bắc để qua Đông Đức chữa bệnh. Lâm Văn Tết là kỹ sư, có chân trong Thượng hội đồng quốc gia, thành lập sau khi lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Tết được Trần Bạch Đằng móc nối theo CS.

Sau khi chính phủ ma này được dựng lên thì nó được lệnh của CS Bắc Việt tổ chức đi thăm hữu nghị chính phủ Hoàng gia Kampucheạ Trong buổi họp, đại diện chi bộ đảng là Huỳnh Tấn Phát tiết lộ cấp trên chỉ định "chị Bảy Hồng", tức bác sĩ Dương

Quỳnh Hoa, tham gia phái đoàn của chính phủ do Huỳnh Tấn Phát cầm đầụ Trên thực tế, phái đoàn này gồm toàn thể cán bộ cao cấp của Đảng CSVN, chỉ có 2 người của "chính phủ cách mạng lâm thời" như kể trên. Phái đoàn được dự trù tự động

đến thị xã Swayriêng thì xe chính quyền Kampuchea đón rước đưa về Phủ Thủ tướng cho Lon Nol tiếp đón. Sau nghi lễ tiếp đón ở Dinh thủ tướng, Lon Nol, thủ tướng chính phủ hướng dẫn phái đoàn "chính phủ cách mạng lâm thời" đến hoàng cung ra

mắt thái tử Sihanouk và hoàng hậu Monique. Tối lại, phái đoàn được mời dự tiệc và nghỉ đêm tại nhà khách của hoàng cung.

Qua hôm sau, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Hoàng Bích Sơn và Nguyễn Văn Hiếu được Sihanouk hướng dẫn đi tham quan các cơ sở văn hóa của kampuchea như Chùa Vàng, Chùa

Bạc và vài cơ sở kinh tế trong thành phố Nam Vang. Trong khi đó, phái đoàn chuyên viên kinh tế giữa 2 chính phủ làm việc với nhau.



Cụ thể như VC cần mua 90,000 tấn gạo, nhưng VC ký hiệp định mua của Kampuchea 60,000 tấn thôi, vì lẽ VC cảnh giác rằng chính phủ Kampuchea có thể lật lọng thì CS sẽ ở vào thế bí. Còn 30,000 tấn gạo kia thì sẽ giữ bí mật để mua gạo chợ

đen của dân chúng Miên tự động chở xuống biên giới Việt-Miên bán cho cơ quan hậu cần của VC. Qua 3 ngày viếng thăm chính thức Kampuchea, "chính phủ cách mạng lâm thời" muốn mua lòng Sihanouk, nên biếu cho Kampuchea năm hòn đảo của VN

đối diện với thành phố Kép của Kampuchea . Năm hòn đảo này nguyên là chủ quyền của VNCH, có dân cư VN đang sinh sống và VC biếu không cho Kampuchea để lấy lòng Sihanouk, nhờ y cho phép chỡ vũ khí từ Kompongsom lên biên giới Việt-Miên theo giá biểu 4000-5000 riel một tấn.


Nói về sự lãnh đạo của đảng CS, thì trong phái đoàn này có Hoàng Bích Sơn của Bắc Việt là người trực tiếp đưa ra đường lối và chủ trương của đảng, vì lẽ Sơn là người với danh nghĩa thư ký của MTGPMN, nhưng lại lãnh đạo trực tiếp Nguyễn Hữu Thọ

trong thời kỳ chiến tranh VN. Còn tại "Phủ chủ tịch" của "Chính phủ Cách mạng Lâm thời" thì tên Tư Dũng là Bí thư đảng đoàn của Phủ chủ tịch, tức là lãnh dạo luôn cả Huỳnh Tấn Phát trong mọi sinh hoạt. Còn ở Tòa Đại sứ VC ở nam Vang, thì tên Ba

Dũng là Đệ nhất bí thư Toà Đại sứ, lãnh đạo Đại sứ Nguyễn Văn Hiếu, măc dù Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát và Nguyễn Văn Hiếu đều là đảng viên, nhưng không thuộc thành phần công nhân và bần cố nông vô sản, nên không được

quyền lãnh đạo theo chủ trương của Đảng CSVN. Tôi nói rõ như vậy để chứng minh rằng CSVN không bao giờ sử dụng khả năng của người trí thức. Nếu người trí thức đó do chế độ tư

bản đào tạo mà đứng được trong hàng ngũ CS thì có 2 lẽ : một là đảng viên kỳ cựu cở Nguyễn Khắc Viện và Huỳnh Tấn Phát, đã lỡ phóng lao thì phải theo laọ Nhưng sau này, Nguyễn Khắc

Viện cũng bị thất sủng rồi; thứ hai là các trí thức cơ hội, chế độ nào cũng hùa theo để kiếm ăn cở Nguyễn Xuân Oánh, Nguyễn Ngọc Hà, Ngô Bá Thành, Lý Chánh Trung,...



Sau khi kết thúc việc viếng thăm chính thức Kampuchea, Lon Nol đích thân đưa phái đoàn "chính phủ cách mạng lâm thời" của VC từ Nam Vang về biên giới Việt-Miên. Tại biên giới này,

nhờ con sông Saigon chia dôi 2 nước, VC chuẩn bị sẵn xuồng để băng qua sông. (chỗ hẹp nhất phía trên đó như 1 dòng suối) ở đoạn hẹp nhất để trở lại căn cứ VC trên đất

Kampuchea. Trong dịp này, Hoàng thân Sihanouk có biếu cho "chính phủ cách mạng lâm thời" 16 tấn khô cá, gọi là món quà hữu nghị Khmer-VN.




Từ đất Miên băng qua sông, tưởng là qua lãnh thổ VN cũng rất thực tế. Có lần, ký giả Burchette, 2 giáo sư y khoa người Pháp tên là Can và Crévin và Đại sứ Raoul Castro của Cuba từ Nam Vang đến vùng VC có nhiệm vụ gì đó, cũng bị VC đánh lừa

bằng cách cho xuống xuồng băng ngang qua sông, đi một đổi thật xa, lên tới nguồn sông Saigon, rồi băng trở lại chỗ hẹp nhất như băng qua suối để đi về căn cứ VC trên đất Miên mà

họ tưởng rằng căn cứ đó ở miền Nam VN. Nhờ những thủ đoạn vặt như vậy mà CS mới tuyên truyền bịp dư luận ở ngoại quốc, và căn cứ trên đất Miên không bị tiêu diệt bởi lực lượng VNCH.

Điều đó chứng tỏ VC không thành thật ngay với cán bộ của mình, lẫn đồng minh.



Trong một dịp trò chuyện với bác sĩ Nguyễn Văn Thủ và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp năm 1969 tại "phủ chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời", hai anh này nói với tôi rằng hai anh có nhiệm

vụ đi rước khách nước ngoài kể trên tại bờ sông biên giớị hai anh hướng dẫn khách nước ngoài lên bờ bên này, đi rất xa

nhưng khi lên ngọn suối băng trở lại thì giáo sư Crévin nói rằng, "Tôi có cảm tưởng là tôi trở lại đất Kampuchea". Anh bác sĩ Thủ liền đáp :



- Xa đất Kampuchea lắm rồi.


Tất cả đều cười hả hê vì đi quá xa, qua trảng thì sợ máy bay xạ kích tự do nên cũng thắm mệt, không nhớ phương hướng gì

cả. Trên thực tế, căn cứ của Ban Dân Y chỉ nằm cách chỗ xuồng đậu 500m trên đất Kampuchea, tức là khỏi cần qua sông cũng đi tới rất mau lẹ thôi!


Tôi và anh Trương Như Tảng có đến căn cứ này dự lễ mãn khóa đào tạo 200 bác sĩ y khoa do bác sĩ Trần Hữu Nghiệp mờị Trong số sinh viên y khoa, tôi để ý một nhóm nữ sinh người

Hoa, không thạo tiếng Việt mà cũng đi học. Đó cũng là đường lối chính trị lừa bịp của CS, khích lệ người Hoa tham gia mặt trận chống Mỹ. Đó là lời tiết lộ của cô Phùng Ngọc Anh, 21

tuổi, bị nhốt tại Tổng nha Cảnh sát VNCH sau khi bắn lính Mỹ bằng cả hai tay cầm hai cây súng nhỏ, giữa thành phố Saigon.

Cô là người Hoa Chợ Lớn, bị quân cảnh bắt tại hiện trường, nhưng đưa qua Cảnh sát Quốc gia điều tra không ra manh mốị.

Đêm đầu tiên của trận Mậu Thân 1968, cô bị đem thủ tiêu mà không chết. Cô được xe cứu thương đem về Nhà thương Chợ Rẫy thì công an phát hiện, đem biệt giam bỏ luôn không chữa

và không cho ăn uống. Nhưng có một sinh viên người Việt ở lứa tuổi của cô, vận động anh em tù gởi thuốc trụ sinh vào cho cô uống và đem cơm cho cô ăn. 2 tháng sau, cô lành bệnh vì bị một lằn đạn xuyên qua mông đít.



Sau này tôi xem báo biết cô ta bị kêu án 20 năm tù và bị đày ra Côn Đảọ Đến năm 1973 khi được trao đổi tù binh, cô được đưa về Hà Nội. Lần cô bị đem thủ tiêu năm 1968 có 2 người khác nữa là Lê Thị Riêng và Trần Văn Kiểu. Cả 3 người bị bắn ở

đường Hồng Bàng, trước Trường Cây Mai. Riêng cô Phùng Ngọc Anh đã may mắn bị đạn nhưng không chết. Trong hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh VN, VC tố cáo hành động này

của VNCH, rồi qua lời trình bày của Đỗ Thị Duy Liên (vợ Trần Bạch Đằng), là người đồng cảnh với Phùng Ngọc Anh, hội nghị Paris bị VC tẩy chay một tuần lễ để phản đối VNCH. Đó là năm 1969.



Hứa Hoành


Bình Luận:

Bài này được giáo sư Hứa Hoành viết theo trí nhớ nên có thể có một số chi tiết không đúng. Chẳng hạn vụ ba ông hòa bình được đưa ra Bắc xảy ra sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đã chấm dứt chứ không phải do chế độ Ngô Đình Diệm đưa ra Bắc.


Về tổng quát, bài này nói về một số trí thức miền Nam thời đó được đảng Cộng Sản Việt Nam lôi kéo để lập ra các tổ chức độc lập với chính quyền miền Nam, không chủ trương chống Cộng như chính quyền miền Nam với mục đích là để phân hóa nội bộ

miền Nam, không để cho miền Nam trở thành một khối đoàn kết nhất trí chống Cộng Sản. Vì chỉ dùng những trí thức đó với mục đích tạm thời là phân hóa nội bộ miền Nam nên các trí thức đó có cảm tình với đảng Cộng Sản Việt Nam đến mức nào

thì không quan trọng, miễn sao họ làm đúng theo quĩ đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam vạch ra, là lên tiếng đòi hòa bình, không dùng vũ lực chống Cộng. Trong khi đó thì đảng Cộng Sản Việt Nam ra sức dùng lực lượng vũ trang để tấn công miền Nam với mục đích đánh chiếm miền Nam.



Vì chỉ dùng tạm thời nên các trí thức đó chỉ được sử dụng khi chế độ miền Nam chưa bị Cộng Sản chiếm. Sau 1975, nhiều trí thức trong các phong trào này sống trong im lặng vì chế độ không cần đến họ nữa và họ cũng chẳng có quyền lực gì trong thời gian hoạt động.


Người miền Nam cho rằng các trí thức này bị đảng Cộng Sản Việt Nam đánh lừa, lợi dụng. Nhưng trong số tên tuổi xuất hiện trong các phong trào đó ai là người bị đánh lừa và ai là người đi lừa thì đến ngày nay cũng không thật sự rõ ràng vì nhiều người

vào thời đó là đảng viên, nhận chỉ thị của đảng Cộng Sản Việt Nam để lôi kéo trí thức nhưng họ dấu tung tích của họ. Nên có khi kẻ tưởng là bị lừa thật sự lại là kẻ đi lừa. Một số người mà dân miền Nam thời đó tưởng chỉ là thân cộng, nghĩa là có cảm

tình với Cộng Sản, thì thật sự là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam. Chẳng hạn, trong số ba ông hòa bình bị chính quyền miền Nam đưa ra Bắc vào thời sau 1963 có giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ đã là đảng viên từ năm 1947 nhưng ông ta đâu có

dại gì nói ra mình là đảng viên vào thời đó mà chỉ nói mình là trí thức chống chiến tranh, muốn hòa bình. Cũng như bà Nguyễn Thị Bình trả lời với nhà báo ngoại quốc năm 1965 là mình không phải là đảng viên như thật ra là bà đã gia nhập

đảng Cộng Sản từ năm 1948. Ông Tôn Thất Dương Kỵ kêu gọi dân miền Nam hãy theo đường lối hòa bình đừng cầm súng chống lại miền Bắc trong khi đồng chí của ông thì đem toàn lực tấn công miền Nam để đánh chiếm miền Nam. Trong số người

thấy mình bị lừa có ông Trương Như Tảng. Sau 1975, ông thấy những gì đảng Cộng Sản làm không giống như những gì đã hứa là để miền Nam theo chế độ không cộng sản, có nhiều thành phần chính trị tham dự, nên ông đã vượt biên, rồi sang Pháp sống quãng đời còn lại.

Về mặt lãnh thổ, khi đảng Cộng Sản Việt Nam cần Trung Quốc viện trợ vũ khí thì đảng Cộng Sản Việt Nam dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc. Trong bài trên, đảng Cộng Sản

Việt Nam dâng cho Cam Bốt năm hòn đảo ở gần Cam Bốt. Xem ra đảng Cộng Sản Việt Nam xem nhẹ lãnh thổ quốc gia, khi cần ngoại bang giúp mình việc gì thì không ngần ngại cắt đất dâng

cho ngoại bang. Nói chung chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam là có thể làm bất cứ chuyện gì miễn là đạt được cái lợi trước mắt. Khi cần tiêu diệt các phe phái đối lập thì bịa đặt, vu khống để giết họ, hứa hẹn những cái mình sẽ không làm để lôi

kéo người hoạt động cho mình, xuyên tạc, bịa đặt lịch sử miễn sao có lợi cho mình, còn dân tộc bị nhiễm các hiểu biết lầm lạc thì mặc kệ.


Chi bộ trí thức

14:50 | 08/10/2012

Lê Văn Lân

Chi bộ Trí thức là một cụm từ vừa thân quen vừa lạ lẫm. Thân quen là đối với những người hoạt động trong phong trào đô thị Huế. Và lạ lẫm là trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là ở thời điểm 9 năm kháng chiến chống Pháp. Những năm 1948 - 1950 ở Huế có một Chi bộ như thế: Chi bộ Trí thức.

Lịch sử Đảng bộ thành phố (1930 - 2000) đã ghi rõ: “Một Chi bộ do Thị ủy trực tiếp chỉ đạo đã được thành lập gồm ông bà bác sĩ Thân Trọng Phước, bác sĩ Lê Khắc Quyến, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, công thương gia Nguyễn Ngọc Bang”.

Chân dung Chi bộ Trí thức


Ở thời điểm này, phần lớn những người trong Chi bộ Trí thức đều đã mất. Những người trực tiếp lãnh đạo Chi bộ như ông Tư Minh, ông Ngô Lén, ông Hồng Xích Tâm, ông Vũ Xuân Chiêm, ông Hoàng Lanh... đều không còn, những người còn sống thì

cũng đã qua tuổi 90, nhớ nhớ quên quên. Chúng tôi tìm gặp ông Trần Hân, nguyên Bí thư Thị ủy Huế những năm 1954 - 1955, qua trao đổi ông cho biết: Khi nhận nhiệm vụ Bí thư Thị ủy nghe nói trước đó có Chi bộ Trí thức nhưng không rõ lắm, có gì gặp ông Phan Nam. Chúng tôi tìm gặp ông Ngô Yên Thi,

nguyên Ủy viên TW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, người chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế. Ông khẳng định: Những năm 1948 - 1950 Huế có Chi bộ Trí thức nhưng lúc đó mình

còn nhỏ không rõ lắm. Người biết rõ Chi bộ này là ông Phan Nam. Qua giới thiệu của ông Trần Hân và ông Ngô Yên Thi, chúng tôi tìm gặp ông Phan Nam - nguyên Chủ tịch UBND Thành phố.

Ông Phan Nam, là cán bộ lão thành cách mạng tham gia cướp chính quyền ở huyện Phú Lộc trong Cách mạng Tháng 8, cùng đồng bào Phú Lộc biểu tình cướp chính quyền Huế. Là tự vệ cảm tử xã Vinh Giang (Phú Lộc) tăng cường tham gia trung

đoàn Trần Cao Vân 101. Năm 1947 là Bí thư Chi bộ xã Vinh Giang, Bí thư Chi bộ nhiều xã vùng địch hậu ở Phú Lộc, tham gia Huyện ủy Phú Lộc. Chuẩn bị cho tổng phản công 1950; ông Phan Nam, ông Võ Đại Triều là 2 trong 6 người được Thường

vụ Tỉnh ủy điều động tăng cường vào bám trụ ở Huế. Và cơ sở ông Phan Nam tiếp cận chính là Chi bộ Trí thức với nhiệm vụ quan hệ và phát huy Chi bộ này trong tổng phản công. Ông Phan Nam tâm sự: Ban đầu tiếp xúc với các vị trong Chi bộ Trí

thức ông rất ngại vì lúc đó ông còn rất trẻ, các vị lại vào hàng cha chú, học nhiều hiểu rộng, hiểu chủ nghĩa Cộng sản từ trường học, sách báo phương Tây. Vào Đảng từ sự kính trọng

những nhà trí thức lớn chung quanh Bác Hồ và xem những nhà lãnh đạo ở Huế lúc bấy giờ như ông Tư Minh, ông Ngô Lén... là “thần tượng”. Vì vậy, các vị rất tin tưởng những anh em Tỉnh ủy cử về tiếp xúc.

Theo ông Phan Nam, người Thị ủy phân công chỉ đạo trực tiếp Chi bộ là ông Tôn Thất Long, con trai cụ Thượng thư Tôn Tất Đàn. Bí thư Chi bộ là kỹ sư Hà Xuân Hiển, các đảng viên trong chi bộ gồm các vị: Ông Hà Xuân Vịnh (em ruột ông Hà Xuân

Hiển), hai vợ chồng bác sĩ Thân Trọng Phước, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, bác sĩ Lê Khắc Quyến, kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, họa sĩ Phạm Đăng Trí, công thương gia Nguyễn Ngọc Bang, cùng một số vị mà giờ không nhớ hết. Danh sách có thể kéo dài thêm nữa.

Ông Trần Hân, nguyên Trưởng ty Công an Thừa Thiên Huế, tháng 7/1954 ông được phân công vào Huế làm Bí thư Thành ủy (lúc này thị ủy được nâng lên Thành ủy, trực thuộc Khu ủy khu IV) trực tiếp chỉ đạo phong trào hòa bình ở Huế. Một năm

sau tháng 8/1955 ông bị địch bắt trong suốt 20 năm, gần như toàn bộ tuổi thanh xuân của mình ông triền miên chiến đấu với kẻ thù từ nhà tù này đến nhà tù khác, đặc biệt là địa ngục trần gian Côn Đảo. Năm 1974 địch thả ông ra trong tình trạng thập

tử nhất sinh, hai chân bại liệt, chỉ còn chờ chết. Tổ chức đã nhanh chóng đưa ông ra vùng giải phóng. Ở vùng giải phóng, trong các cuộc tiếp xúc cùng cán bộ chiến sĩ B14 (cơ quan

Thành ủy trong kháng chiến); ông Hoàng Lanh luôn giới thiệu ông Trần Hân là một người anh đáng kính, kiên cường trong đấu tranh với kẻ thù, thà chết cương quyết bảo vệ cách mạng, bảo vệ đồng chí đồng đội.

Ông Trần Hân cho biết: Có nghe nói Chi bộ Trí thức nhưng không rõ lắm. Nhưng những tâm sự của ông Trần Hân cũng cho ta cảm nhận thành viên của Chi bộ Trí thức có thể đông hơn. Chẳng hạn giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương

Tiềm đã là đảng viên khi còn ở Vân Dương, năm 1947 được Thị ủy điều vào cư trú trong nội thị. Và như vậy trong Chi bộ Trí thức có giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm. Cũng theo ông Trần Hân, Thị ủy lãnh đạo phong trào nhân sĩ trí thức yêu nước qua

một ban cán sự gồm bác sĩ Thân Trọng Phước, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, nhà văn Võ Đình Cường. Nhà văn Võ Đình Cường trong ban cán sự Đảng thì không thể không là đảng viên...

Nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng đã nói lên tầm vóc, vị trí, tính chiến lược của Chi bộ Trí thức nằm ngay trung tâm đầu não của thực dân Pháp và triều đình phong kiến ở Huế; mới thấy

hết tính sáng tạo, độc đáo của Thị ủy Huế trong công tác xây dựng Đảng. Chúng ta cần biết tháng 7/1947 Huế chỉ có 10 đảng viên, năm 1948 có 38 đảng viên, cuối 1949 là 100 đảng viên (trong đó có 72 đảng viên hoạt động hợp pháp).

Thời đó, khi nói đến Chi bộ Trí thức, nhiều người nói vui đó là Chi bộ Salon, Chi bộ Bơ sữa. Trên một khía cạnh nào đó điều này cũng đúng. Theo ông Trần Hân, nói Chi bộ Bơ sữa bởi người dân thời đó làm gì có bơ sữa để ăn, những người trong

Chi bộ Trí thức phần lớn có cuộc sống quá đầy đủ, có vị trí xã hội cao trong vùng tạm chiếm. Nói Chi bộ Salon cũng đúng bởi vì những vị trong Chi bộ thực sự là những chính khách như bác sĩ Thân Trọng Phước hoạt động cách mạng từ những năm 20

của thế kỷ trước, là đảng viên Đảng Tân Việt từ những năm 1925, được kết nạp vào Đảng Cộng sản từ những năm 1930.

Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ có tinh thần đấu tranh với kẻ thù không mệt mỏi, với uy tín nghề nghiệp và uy thế chính trị của mình, buộc địch không còn cách nào khác trục xuất qua sông Bến Hải năm 1965, tạo nên một sự kiện độc đáo trong cách

mạng miền Nam. Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế, người đấu tranh trực diện với chính quyền Diệm khi chúng đưa giáo sư Trần Hữu Thế ra thay linh mục Cao Văn Luận (người ủng hộ phong trào đấu tranh của Phật giáo) làm

Viện trưởng Viện Đại học Huế, sau chính biến 1963, bác sĩ Lê Khắc Quyến là Chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc khi ngụy quyền thành lập cơ quan lãnh đạo Tam đầu chế: Dương Văn Minh - Trần Thiện Khiêm - Nguyễn Khánh, ra thông báo đòi tập

đoàn Cần lao phải đến trình diện và tự thú. Uy thế của phong trào buộc địch phải mời bác sĩ Lê Khắc Quyến tham gia vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của chúng: Thượng hội đồng Quốc gia.

Hoặc như kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, thời chống Pháp đã là Giám đốc Nha Thủy Lâm Trung trung bộ, một chức vụ bộ trưởng trong chính quyền Mỹ - Ngụy có lẽ không quá khó khăn nếu cụ muốn.

Chi bộ Trí thức và phong trào hòa bình

Phong trào Hòa bình là phong trào đấu tranh trong các đô thị, đặc biệt là Huế và thành phố Sài Gòn diễn ra từ năm 1954 với nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Genève, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi dân chủ dân sinh,

hướng mọi người vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Lúc này Chi bộ Trí thức không còn nữa, nhưng chính những người trong Chi bộ Trí thức lại là những nhân vật chủ chốt của phong trào này.

Phong trào Hòa bình ở Huế mở ra trong lúc Mỹ - Diệm mở chiến dịch “Tố cộng”. Ai nói hòa bình, bảo vệ hòa bình là cộng sản. Chúng xem ngày ký Hiệp định Genève 20/7 là ngày Quốc

hận. “Quốc gia phải tiêu diệt cộng sản đến tên cuối cùng”. Đỉnh cao của Phong trào Hòa bình là 2 cuộc biểu tình lớn ngày 1/5 và 28/8/1955, mỗi cuộc biểu tình thu hút trên 3 vạn đồng bào tham dự. Nhân ngày quốc tế lao động 1/5, các tầng lớp nhân dân Huế và các huyện mitting tại Quảng trường Phu Văn Lâu

đòi dân sinh, dân chủ, đòi đắp đập Thuận An, đòi lập quan hệ Bắc Nam, tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước, đòi tôn trọng và thực thi dân chủ, chống đàn áp khủng bố. Cuộc biểu tình ngày 28/8, cũng nội dung đòi thi hành Hiệp định Genève

nhưng quyết liệt hơn nhiều, cuộc biểu tình với bảng kiến nghị mang hàng vạn chữ ký của nhân dân đòi Ngụy quyền phải bàn bạc, hiệp thương tổng tuyển cử. Chính quyền Diệm điều động

công an, cảnh sát, mật vụ và cả quân đội đàn áp tàn bạo. Sau đó Ngô Đình Diệm phải ra Huế xoa dịu và giải quyết một số yêu sách.

Nói đến Phong trào Hòa bình ở Huế không thể không nhắc đến tập văn Ngày Mai (xem thêm Sông Hương số 275, tháng 1/2012). Liền sau khi hiệp định Genève ký kết, tháng 8/1954 tập văn Ngày Mai ra mắt bạn đọc, tiếp đó tháng 10/1954 tập 2,

tháng 12/1954 tập 3, tập 4 số mùa xuân 1955 được gọi là tập văn Xuân Hòa Bình; tập 5 bị tịch thu hoàn toàn, giấy phép xuất bản bị rút. Nòng cốt của tập văn Ngày Mai phần lớn là trong Chi bộ Trí thức gồm các ông Thân Trọng Phước, Tôn Thất

Dương Kỵ, Nguyễn Hữu Đính, Cao Xuân Lữ, Tôn Thất Dương Tiềm, Võ Đình Cường, Phạm Đăng Trí, Nguyễn Hữu Ba... Không chỉ ở Huế, tập văn Ngày Mai còn được phát hành tại Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt và thành phố Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh thông tin tuyên truyền thời đó, việc ra đời tập văn Ngày

Mai như là một cơ quan ngôn luận hợp pháp của cách mạng là một cái gai trước mắt đối với chính quyền Mỹ - Diệm. Ngay từ tập 1, Võ Đình Cường, Tôn Thất Dương Kỵ, Lê Quang Vịnh đã bị trấn áp; đến Ngày Mai tập 3 thì họ bị bắt giam và trục xuất khỏi Thừa Thiên Huế.

Đánh giá Phong trào Hòa bình, tập văn Ngày Mai và Chi bộ Trí thức là một việc làm nghiêm túc và cần thiết không chỉ ở một giai đoạn lịch sử sau Hiệp định Genève mà còn tác động đến phong trào đô thị Huế trong những năm chống Mỹ cứu nước.

Nhưng điều không ai có thể phủ nhận được phong trào đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân sĩ trí thức, các công thương gia tiêu biểu của Huế, từ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, Võ Liêm Sơn... đến Nguyễn Hữu Ba, Tam Ích, Lê

Dân... và thế hệ trẻ thời đó như Lê Quang Vịnh, Trụ Vũ, Hoàng Nguyên... Mặc khác Phong trào Hòa bình đã đẩy Mỹ - Diệm vào chân tường buộc Diệm phải bộc lộ chân tướng trước nhân dân

làm tay sai cho Mỹ, buộc Mỹ phải phơi bày dã tâm của kẻ xâm lược can thiệp vào nội tình Việt Nam, kéo dài sự chia cắt.

Đảng viên Chi bộ Trí thức thời chống Mỹ


Có thể nói sau năm 1954, Chi bộ Trí thức trên thực tế không còn tồn tại. Nhiều đảng viên không còn sinh hoạt Đảng. Có nhiều nguyên nhân và chỉ có người trong cuộc mới có thể trả lời được. Mặc khác, Chi bộ Trí thức cũng như các đảng viên

nhân sĩ trí thức phần lớn được tổ chức hoạt động đơn tuyến, bảo đảm bí mật và thế hợp pháp, sinh hoạt bị gián đoạn làm mất liên lạc đảng viên là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, dù

trong hoàn cảnh nào, đảng viên trong Chi bộ Trí thức vẫn đứng vững trên trận tuyến của mình và là chỗ dựa tin cậy vững chắc của cách mạng trong lòng địch và trong chừng mực nào đó, họ và gia đình đã trở thành những pháo đài giữa lòng thành phố.

Đó là giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, đảng viên từ năm 1947 ở Vân Dương được điều vào nội thị, là người chủ chốt trong Chi bộ Trí thức và Phong trào Hòa bình. Ông bà Tôn Thất Dương

Kỵ có nhà In Khánh Quỳnh hoạt động những năm 1950 - 1951, Nxb Tâm Huệ hoạt động cuối năm 1953. Đây là nơi đã xuất bản tập thơ Tiếng nói dân nghèo, toàn văn Hiệp định Genève, thơ Vũ Anh Khanh, thơ Đoàn Văn Long. Sau tập văn Ngày Mai,

ông bị địch bắt và trục xuất khỏi Thừa Thiên Huế. Vào thành phố Sài Gòn ông tiếp tục hoạt động cách mạng và bị trục xuất qua sông Bến Hải năm 1965. Năm 1968 ông tham gia vào liên minh các Lực lượng dân tộc dân chủ hòa bình. Anh em chú bác

với ông là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, trong Chi bộ Trí thức, hoạt động trong Nội thành đến năm 1968 thoát ly tham gia kháng chiến và sau ngày giải phóng là Trưởng phòng Giáo dục.

Bố vợ giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, cụ Nguyễn Đóa hoạt động trong Nội thành, năm 1968 thoát ly tham gia kháng chiến và là Phó Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Anh rể giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, ông

Phan Văn Chính, một cơ sở cách mạng tin cậy trong lòng địch... Nói chung toàn bộ gia đình là cơ sở “cộm cán” của Thành ủy; các đồng chí lãnh đạo thành phố Hoàng Lanh, Phan Nam, Hoàng Kim Loan... khi vào Nội thành đều đến các gia đình này bởi được bí mật và an toàn.

Đó là kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, đảng viên trong Chi bộ Trí thức từng là Giám đốc Nha Thủy Lâm Trung trung bộ, Hiệu trưởng Trường Nông Lâm Súc Huế. Trong chống Mỹ cứu nước ông là

đầu mối giúp Thành ủy móc nối liên lạc với tầng lớp trên, ông cũng là Chủ tịch Ủy ban Bảo trợ Sinh viên Huế, hỗ trợ hoạt động của Tổng hội Sinh viên Huế những năm cuối cùng của cuộc chiến. Nhà ông có hai căn hầm bí mật là nơi an toàn cho

các đồng chí lãnh đạo thành phố đột nhập vào Huế. Con cụ nhiều người là cơ sở cách mạng như Nguyễn Hữu Châu Phan hoạt động trong Nội thành, Nguyễn Hữu Hài hoạt động ở Sài

Gòn và thoát ly tham gia kháng chiến. Sau giải phóng cụ là Ủy viên Trung ương MTTQ Việt Nam, Chủ tịch UBMTTQ thành phố Huế. Cụ cũng là người sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Huế.

Có thể nói rằng, không riêng gì gia đình giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, bác sĩ Thân Trọng Phước... những người trong Chi bộ Trí thức dù còn tiếp tục sinh hoạt Đảng hoặc bị gián đoạn, nhưng suốt quá trình chống Pháp

cũng như chống Mỹ cứu nước họ luôn là người trí thức mẫu mực đáng kính, tùy theo cương vị của mình họ luôn có đóng góp tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bản thân họ và

gia đình là một pháo đài giữa lòng thành phố với đầy đủ sức hút và lan tỏa của nó. Họ là tấm gương sáng, là ngọn cờ tập hợp lực lượng trong phong trào đô thị.

Lê Văn Lân
Tạp chí Sông Hương, số Đặc Biệt
(SĐB9-12)



Những người tác động tới nội các Dương Văn Minh

QĐND - Thứ Ba, 16/04/2013

QĐND - Tôi có dịp gặp Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm (tức Sáu Trí), người chỉ huy Khối điệp báo-Tình báo quân sự Quân giải phóng miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và được nghe ông kể lại những năm tháng hoạt động nội tuyến

trong Tổng Nha Cảnh sát của chính quyền Sài Gòn, nhất là thời điểm ông và đồng đội từng tham gia tác động để nội các Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng ngày 30-4-1975…



Trưa 28-4-1975, sau bữa cơm trưa, tôi đang ngồi đọc báo trên gác nhà H3 (bí danh của Ba Lễ, một cán bộ điệp báo của ta) tại khu Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn thì một người con của H3 lên báo tin: Có hai người không phải bạn của H3 nhưng lại nói

muốn gặp Sáu Trí. Đây là một tình huống bất ngờ, song tôi nghĩ mình cần phải tìm hiểu cụ thể hơn nên đã nhờ H3 xuống phòng khách xem hai người ấy là ai, tại sao lại biết tôi ở đây, gặp tôi để làm gì? Một lát sau, H3 lên cho biết: Đó là anh Tô

Văn Cang, một nhân sĩ trí thức yêu nước, công tác trong lưới tình báo của anh Đinh Sơn Đường (tức Hai Thắng) Cụm A24 từ đầu năm 1973. Cùng đi với anh là kỹ sư Lê Văn Giàu, một cơ

sở trí vận của ta. Tô Văn Cang đến đây là do nội các Dương Văn Minh muốn nhờ anh đi tìm đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nhằm thương lượng một vấn đề quan trọng.



Sở dĩ Tô Văn Cang biết tôi có mặt tại Sài Gòn là do Hai Thắng tiết lộ. Thấy việc đó không ảnh hưởng nhiều tới công việc của lưới tình báo nên tôi đã xuống gặp. Khi thấy tôi, Tô Văn Cang

đứng dậy chào, tự giới thiệu là cán bộ của Cụm A24 và là cha ruột của một chiến sĩ tình báo công tác tại A24. Anh xin lỗi vì đã vi phạm nguyên tắc bí mật, đường đột đến tìm tôi và cho biết: “Tôi là bạn thân của Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng Tiếp

thương trong nội các Dương Văn Minh, trước đó Diệp là Giám đốc Việt Nam ngân hàng). Vì Dương Văn Minh muốn bố trí gặp người đại diện cấp cao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nên Diệp đã nhờ tôi đi tìm”. Tô Văn Cang cũng giải thích vì nội các

Dương Văn Minh chia làm hai phe, một phe chịu thương lượng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng để kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào, phe thứ hai với người đại diện là Nguyễn Bảo Kiếm

quyết tử thủ Sài Gòn, cố gắng kéo dài chiến tranh thêm một thời gian hòng kiếm giải pháp có lợi cho chính quyền Sài Gòn.

Phe chủ hòa do Diệp cầm đầu có nhiều ảnh hưởng đến Dương Văn Minh nên muốn tìm gặp đại diện của ta để xử trí trong bối cảnh căng thẳng. Tôi trả lời Tô Văn Cang là chỉ vào Sài Gòn có

việc riêng nên không có tư cách đại diện của cách mạng để gặp gỡ bất cứ ai, còn chính quyền Dương Văn Minh muốn gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời thì cứ đến cơ quan bốn bên tại Tân Sơn Nhất, ở đó luôn có người thường trực. Tô Văn Cang

truyền đạt câu hỏi thứ hai của Nguyễn Văn Diệp: Trong hoàn cảnh hiện nay, nội các Dương Văn Minh nên xử trí ra sao? Tôi trả lời rằng, Dương Văn Minh là một nhà quân sự nên ông ta có thừa khả năng để đánh giá tình thế khi Sài Gòn đang bị các

quân đoàn của Quân Giải phóng bao vây. Quân đội Sài Gòn sẽ không còn đủ lực lượng để chống đỡ, Mỹ không thể đưa quân trở lại và cũng không còn thì giờ tiếp cứu. Chính quyền Sài Gòn đừng ảo tưởng vì sự cứu viện của Mỹ cũng như của bất cứ

cường quốc nào. Sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn được tính từng ngày, nếu để kéo dài tình trạng ấy sẽ gây tác hại lớn, đồng bào thương vong nhiều, thành phố Sài Gòn sẽ đổ nát. Nếu chọn

giải pháp tử thủ Sài Gòn thì nội các Dương Văn Minh sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân. Vì thế, việc đầu hàng ngay và đầu hàng vô điều kiện là thái độ có trách nhiệm trước sinh mạng của nhân dân...



Sau đó, Tô Văn Cang đã thông qua Nguyễn Văn Diệp và Nguyễn Đình Đầu (một trí thức có nhiều ảnh hưởng đối với Dương Văn Minh) nhằm tác động đến viên tổng thống cuối

cùng của chính quyền Sài Gòn. Thảo luận với Nguyễn Văn Diệp xong thì 16 giờ ngày 29-4, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền lên đài phát thanh tuyên bố “sẵn sàng thương thuyết hòa bình với Mặt trận Giải phóng”.



Khoảng hơn 8 giờ ngày 30-4, Nguyễn Đình Đầu điện thoại cho anh Cang báo tin là Dương Văn Minh đã chịu chấp thuận đầu hàng vô điều kiện. Nguyễn Văn Diệp cũng gọi điện thoại mời Tô Văn Cang vào Dinh Độc Lập để tổ chức đón tiếp Chính phủ

Cách mạng lâm thời và dặn nên đi theo lối đường Nguyễn Du, tại đó Nguyễn Văn Diệp sẽ ra đón. Tô Văn Cang liền đi cùng xe do kỹ sư Lê Văn Giàu lái hướng về phía Dinh Độc Lập, nhưng

đến cầu Bông thì xe bị cảnh sát Sài Gòn chặn lại, không cho vào nội thành. Xe phải chạy ra lối ngã tư Hàng Xanh, đến ngã tư xa lộ thì gặp đoàn xe thiết giáp của Quân Giải phóng từ

hướng cầu Sài Gòn chạy đến và đang lúng túng chưa biết đi đường nào. Tô Văn Cang liền tiến đến chiếc đi đầu và ra hiệu cho đoàn xe thiết giáp chạy theo xe của mình…



Khoảng 9 giờ 30 phút sáng 30-4, tại nhà H3, tôi nghe trên Đài Phát thanh Sài Gòn lời phát biểu của Dương Văn Minh kêu gọi quân đội Sài Gòn buông súng, chấp nhận những điều kiện của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Vài giờ sau, Tô Văn Cang và

người bạn của anh là kỹ sư Lê Văn Giàu lại mời tôi và H3 vào Dinh Độc Lập để chứng kiến sự đầu hàng của nội các Dương Văn Minh, tránh mọi hành động đáng tiếc xảy ra khi Quân Giải

phóng vào tiếp quản Dinh Độc Lập. Tôi và H3 cùng theo xe của Tô Văn Cang vào Dinh Độc Lập, đến phòng của Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền thì có một bộ phận Quân Giải phóng đã có mặt trong dinh. Bộ đội ta đòi bắt toàn bộ các nhân vật này làm

tù binh. Sợ anh em vi phạm chính sách của Mặt trận Giải phóng, tôi liền gặp và giải thích: Nội các Dương Văn Minh đã chấp thuận theo những điều kiện của ta nên vừa có thông báo đầu hàng trên Đài phát thanh. Lúc đầu, anh em không tin vì

thấy tôi mặc thường phục. Tôi tự giới thiệu là Đại tá Sáu Trí, Sĩ quan Bộ Tham mưu B2 vào Sài Gòn làm công tác đặc biệt trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. May sao, đúng lúc đó xuất hiện

một sĩ quan thuộc đơn vị thiết giáp, anh chính là người bạn học cùng khóa quân sự cấp cao với tôi ở Hà Nội. Anh tới bắt tay tôi và thân mật nói: “Đi đâu cũng gặp thằng tình báo này!”.



Sau đó, tôi gặp Thiếu tướng Nguyễn Hữu An-Tư lệnh Quân đoàn 2 -và cùng anh bàn việc tiếp quản Dinh Độc Lập. Chúng tôi nhất trí nên có lời công bố chính thức của Quân Giải phóng

trên đài phát thanh. Thiếu tướng Nguyễn Hữu An phân công tôi soạn thảo gấp. Tôi cùng với Tô Văn Cang, Ba Lễ bàn nhau và thống nhất giao cho Tô Văn Cang chấp bút bản thông báo với tựa đề “Thông báo số 1”. Viết xong, tôi đến gặp Thiếu tướng

Nguyễn Hữu An để thông qua. Ông tế nhị từ chối không đề tên đơn vị mình và đề xuất chỉ nên đề là “Bộ tư lệnh Quân Giải phóng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định”. Anh Cang được phân công cùng với anh Giàu lên xe com-măng-ca chạy ra Đài phát thanh.

Phải khó nhọc lắm xe của anh mới vào được trong. Anh Cang lên lầu, đọc chậm và rõ bản “Thông báo số 1”. Anh Giàu đọc lại lần hai. Sau đó dặn cứ 5 phút thì lặp lại một lần.



Bản "Thông báo số 1” của Bộ tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định là bản tin chính thức được ta phát trên Đài phát thanh, vài giờ sau lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh.


Trong lúc tôi và Thiếu tướng Nguyễn Hữu An đang bàn công tác bảo đảm an ninh thì anh em cho biết những thành viên nội các Dương Văn Minh đang tỏ ra hoảng loạn. Anh An bảo tôi nên đi gặp gỡ họ vì tôi là người miền Nam, lại làm tình báo nên

biết tâm lý, tình cảm của họ. Tôi mời họ ra hành lang để nói chuyện. Tướng Minh đứng trước, các thành viên đứng kế tiếp.

Tôi động viên họ về sự chiến thắng vĩ đại của quân, dân ta và về việc đầu hàng không điều kiện của nội các Dương Văn Minh đã giúp cho thành phố Sài Gòn vẫn giữ được nguyên vẹn. Tôi

còn hứa sẽ bảo đảm việc an toàn tính mạng cho họ. Lúc ấy, Dương Văn Minh xin phép tạt qua phòng riêng để thăm người vợ đang lo lắng cho số phận của chồng, anh Cang cũng rảo bước theo sau…


Phạm Xuân Trường

Minhduc7.blogspot
 
 
Nguồn:  http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=32904
 
Nhận xét
LỘT MẶT NẠ TỔ CHỨC BỊP BỢM " MẬT TRẬN DÂN TỘC GPMN " 
Lột Mặt Nạ Tổ Chức Bịp Bợm "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam" (Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản) - Cố Gs HỨA HOÀNH - Các ông, các bà trí thức tư sản
miền Nam trốn theo "Mặt Trận Giải Phóng" (gọi tắt của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền N...

Sau cuộc gặp gỡ đại sứ Yamato thì vài tháng sau, có một số người Mỹ tìm gặp một số trí thức VN đối lập với chính quyền VNCH. Một dịp tình cờ, tôi đến nhà ông Trịnh Đình Thảo ở Hạnh
Thông Tây, Gò vấp, lời ông Bửu, đây là một vườn xoài rộng 6 mẫu, ông Thảo cho xây một nhà đúc kiên cố, theo kiểu nhà khách ở bịnh viện Cộng Hòa.
Chúng tôi ngồi uống trà dưới bóng mát của 3 cây xoài, trên những ghế đá màị Tôi được ông Thảo giới thiệu với một người Mỹ nói tiếng Pháp, còn tôi được gọi là kỹ sư không xưng tên.
Sau lời chào hỏi lịch sự theo xã giao Tây phương, chúng tôi nói chuyện thoải mái với ông Mỹ này. Tôi nói :
- Nguyện vọng của chúng tôi là yêu cầu Mỹ rút quân để vấn đề chiến tranh này cho người VN giải quyết với nhau.
Người Mỹ đáp :
- Nếu quân đội Mỹ rút đi, thì CS sẽ chiếm miền Nam.
Tôi nói tiếp :
- Nếu CS có thắng thì chúng tôi hợp tác với họ trong hòa bình, không còn bắn giết nhau nữa, người dân Việt Nam mới sống yên ổn, sinh hoạt bình thường, không còn lo sợ chiến tranh.
Người Mỹ này đứng dậy, lấy khăn lau mồ hôi trán, rồi chậm rãi đáp :
- Nếu CS vào Saigon, thì sẽ bắn giết lực lượng VNCH. Saigon sẽ thành biển máu lửa. VC sẽ bỏ tù hết các ông.

Tôi đáp ngày :
- Chúng tôi là dân sự, không chống đối họ thì họ sẽ trọng dụng chúng tôi, nhất là chúng tôi là những chuyên viên về kinh tế, kỹ thuật, có thể phục vụ cho đất nước bất cứ lúc nào cũng được.
Ông Mỹ nói:
- Ông còn ảo tưởng lắm! Người CS có đường lối độc tài của họ, không sử dụng người trí thức đâụ Họ sẽ tiêu diệt giai cấp bằng
cách quốc hữu hóa tài sản của người dân, biến con người thành công cụ sản xuất, nhằm bảo vệ giai cấp lãnh đạo của họ, được gọi là giai cấp công nhân thất học đó.
Tôi có cảm tưởng khinh thường ông Mỹ này, vì tôi cho rằng ông đi tuyên truyền chống cộng như con vẹt. Tôi đáp:
- Xin lỗi ông, tôi không tin!
Trong khi đó, trước sự chú ý của nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, ký giả Hoàng Trọng Miên, bà Ngô Bá Thành, kỹ sư Trần Văn Quyến, ký giả Thiếu Sơn, kỹ sư Hồ Gia Lý...thì ông Thảo cắt ngang lời nói của tôi. Ông nói:
- Cháu còn trẻ nên còn hăng đấy.
Ông Mỹ cười và quay sang bà Ngô Bá Thành ngồi kế bên nói chuyện một lúc. Rồi ông nói rõ lập trường của Mỹ như sau :
- Người Mỹ sang VN chiến đấu vì lý tưởng tự do và bảo vệ tự do cho dân tộc VN. Với tư cách một người trí thức Mỹ, tôi tin rằng số đông trí thức VN đều có du học ở phương Tây, sẽ hiểu
biết được thực tâm của chính phủ Mỹ, để không chống đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở VN, nhằm ngăn chặn làn sóng sẽ do Trung quốc đang muốn bành trướng sang VN và Đông Nam Á.
Trong dịp này, CS núp dưới chiêu bài "giải phong miền Nam", để rồi sau khi chiếm được VNCH, họ sẽ thôn tính luôn cả Lào và Kampuchea.
Qua cuộc tiếp xúc này, tôi được biết ý định của Mỹ, nhưng tôi vẫn xem Mỹ là kẻ xâm lược VNCH, vì lẽ "người dân có kêu Mỹ tham chiến đâu"! Tự nhiên người Mỹ vào thay thế người Pháp

sau Hiệp định Geneva 1954 và cai trị chế dộ VNCH xuyên qua các chính quyền do Mỹ dựng lên. Sự có mặt của người Mỹ như chủ nhân ông, không có chính nghĩạ Đối với lương tri con
người, mặc dù chính quyền Mỹ đã tốn rất nhiều tiền, và thanh niên Mỹ phải bỏ mạng ở chiến trường VN. Bởi vì nếu CS xâm lược thì nhân dân miền Nam có quyền tự vệ và đánh đuổi CS ra
Bắc Việt Cũng bởi vì quốc sách Ấp Chiến Lược của VNCH đang tỏ ra hữu hiệu thì Mỹ lại thay đổi chính sách chống Cộng!
 
Ký ức và trăn trở của Điệp viên X20 - Đặng Chí Bình


Điệp viên X20 - Đặng Chí Bình. RFA files photos

Trong cuộc chiến tranh VN huynh đệ tương tàn, nhiều người bị trở thành tù binh chiến tranh. Điệp viên Đặng Chí Bình với bí danh “X20” là một trong những tù binh chiến tranh ở Bắc Việt từ năm 1962. Sau khi đặt chân đến Hoa Kỳ, ông Đặng Chí Bình đã kể lại điệp vụ vượt tuyến và 18 năm tù đày của mình qua thiên hồi ký “Thép Đen”. Nhân sự kiện 40 năm ngày 30/4, cựu tù binh chiến tranh Đặng Chí Bình chia sẻ lại hồi ức của mình khi đón nhận thông tin “Sài Gòn thất thủ”.
Hòa Ái: Xin chào ông Đặng Chí Bình. Rất cảm ơn ông đã dành cho đài ACTD để chia sẻ với thính giả của đài biết về hoàn cảnh ông bị đi tù ở Hòa Lò cũng như ở khắp các trại tù miền Bắc, VN trong thời gian rất dài. Trước tiên, xin ông cho biết tại sao ông chọn ngành tình báo khi ông còn quá trẻ và ông đã bị bắt vào lúc nào?

Ông Đặng Chí Bình: Xin chào cô Hòa Ái và qua cô tôi hân hạnh kính chào toàn thể quý vị đang lắng nghe đài ACTD. Tôi cảm ơn cô hỏi đến một người đã ngoài 80, làm cho tôi vui hẳn và hưng phấn. Tôi xin trả lời câu cô hỏi “tại sao chọn ngành tình báo” là do bản tính tôi từ nhỏ rồi. Bố tôi là võ sư và tôi đã học võ từ lúc còn bé thành thử tính thích ngang tàn. Sau này đọc những sách Z28 (của Người Thứ Tám), sách của Phạm Cao Củng. Trong bối cảnh quê hương ở miền Nam như thế, từ ý thích đó cho đến khi cơ duyên đến được gặp ông chú Nguyễn Văn Thưởng và được giới thiệu với Linh mục Mai Ngọc Khuê, rồi từ đấy tôi vào ngành tình báo.

Sau 2 năm huấn luyện, tôi nhận một nhiệm vụ bí mật một mình tôi trở ra Hà Nội đầu năm 1962, khi đó còn Đệ nhất Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhiệm vụ của tôi bí mật đến Hà Nội rồi bí mật đi chỉ có 25 ngày. Công tác của tôi thuộc loại ngắn hạn với nhiệm vụ tuyển mộ gây mạng lưới.
Sau 2 năm huấn luyện, tôi nhận một nhiệm vụ bí mật một mình tôi trở ra Hà Nội đầu năm 1962, khi đó còn Đệ nhất Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhiệm vụ của tôi bí mật đến Hà Nội rồi bí mật đi chỉ có 25 ngày. Công tác của tôi thuộc loại ngắn hạn với nhiệm vụ tuyển mộ gây mạng lưới - Ông Đặng Chí Bình
Khi đến đấy, đầu tiên có điều kiện là tôi đến bệnh viện Việt-Đức để trao một tài liệu đặc biệt cho bác sĩ Hoàng Đình Thọ. Ngày hôm sau tôi tiếp tục đến một nhà thờ để liên lạc với một vị linh mục. Khi đi ra thì tôi phát hiện có người theo dõi. Từ khi khẳng định thì bắt đầu tôi đánh lừa, tương kế tựu kế, dùng các phương pháp đánh lạc hướng cho rối mù lên. Đáng lẽ bí mật tôi về chổ đổ bộ của tôi ở Hà Tĩnh nhưng vì không cắt được đuôi để rồi lang thang đến cuối cùng hơn 1 tháng sau tôi mới bị bắt.

6 năm trường ở Hỏa Lò, Hà Nội, tôi bị bao nhiêu phương pháp cùm kẹp, tra tấn từ đầu năm 1962 cho đến ngày 30/12/1967, tôi bị đưa ra Tòa án Nhân dân Thành phố xử 18 năm và 5 năm mất quyền công dân. Người nào đọc sách “Thép đen” của tôi mới hiểu được, thưa cô Hòa Ái.

Hòa Ái: Như vậy Trong suốt thời gian ông bị tù đày, bị tra tấnthì hình thức tra tấn nào ông cho rằng là ấn tượng nhất?

Ông Đặng Chí Bình: Tôi bị cùm kẹp, đói khát. Người khác còn có người trông nom. Tôi thì không có một ai nhìn tới trong 6 năm ở trong Hỏa Lò, không một ai hỏi thăm đến. Vì tôi là tình báo nên nếu ai hỏi thăm thì bị nghi là đường dây của tôi thì người đó cũng bị nguy hiểm. Tôi bị cùm kẹp suốt 3, 4 năm trường như thế. Tôi ấn tượng nhất trong quá trình tù dưới chế độ Cộng sản thì tôi phải nói rằng là cái đói là nặng nhất chứ cùm kẹp đối với tôi chẳng nghĩa lý gì cả. Chết thì thôi mà. Bắn thì xin mời cứ bắn. Tôi cảm ơn nữa là khác. Đáng lẽ một người tù ăn được 5 phần nó chỉ cho ăn 3 thành thử người tù bị rút cả xương tủy. Cái đói và thời gian 6 năm mù mịt ở trong Hỏa Lò như thế…Chỉ có thời gian và đói mới là nguy hiểm, rất ấn tượng trong thời gian đi tù của tôi.

Hòa Ái: Trong thiên hồi ký “Thép đen”, ông có đề cập đến một dụng cụ gọi là “cùm mồm”, ông có thể mô tả sơ lược lại vì sao ông phải chịu hình thức tra tấn này?

Ông Đặng Chí Bình: Khi bị bắt vào Hỏa Lò, đầu tiên tôi bị 4,5 thằng bắt cởi quần áo, khám xét từ miệng, tai, tóc…vì tôi là điệp viên nên bị khám kỹ ghê gớm. Theo hiểu biết của tôi lúc đó là một người điệp viên như tôi đã bị bắt thì chỉ có bị tra tấn đến chết, trước sau cũng chết. Tôi xác định chấp nhận cái chết. Vậy thì chết trước là đỡ khổ. Cho nên khi bị đưa vào xà lim và bị cùm, tôi còn bị đánh bằng một cái gậy khoảng 60-70 phân như cái cán xẻng. Tôi hiểu từ trước là Hồ Chí Minh được xem như thần thánh hễ ai nói động tới là bị bắn hết. Lúc đó tôi nghĩ rằng chỉ muốn chửi ngay thằng Hồ Chí Minh với đảng Cộng sản thì mong rằng mục đích là tôi bị bắn chết đi để khõi khổ, khõi bị tra tấn. Tôi nghĩ như vậy cho nên tôi mới chửi. Nhưng nó không bắn. Nó mang vào một dụng cụ, nó khóa tay tôi ra phía sau rồi nó đưa khóa miệng tôi lại. Sau này tôi mới biết là cái “cùm mồm”. Sau này nữa trong giai đoạn xà lim, qua nghe ngóng, có 1 anh Tàu cũng chửi bới và cũng bị cùm mồm như tôi.

Hòa Ái:Đã có bao giờ ông có ý định vượt ngục? Trong hòan cảnh quá tuyệt vọng, ý nghĩ vượt ngục có manh nha trong đầu hay không, thưa ông?

Ông Đặng Chí Bình: Nói đến vượt ngục thì ngay khi bị phát hiện thì tôi đã định trốn rồi nhưng không có cách gì cả vì có quá đông người theo dõi tôi. Khi bị bắt trong Hỏa Lò, bị cùm chân cùm tay, kềm kẹp ở trong xà lim nữa thì không có cách gì mà vượt ngục được. 3 năm sau, chuyện dài lắm, trong “Thép đen” mới tả hết được, lúc đó tôi ở xà lim 1 rồi tình cờ 1 lần có 1 cán bộ gọi cung tôi thì ra người này ở quê tôi, Phát Diệm. Tôi thấy anh chàng này ăn nói có vẻ ngơ ngơ ngác ngác nên trong buổi cung đó tôi nổi lên ý tưởng có thể trốn thoát. Thế là tôi dùng nhiều mưu mẹo và cả nghệ thuật võ của tôi nữa. Cuối cùng tôi đánh gục và khóa cổ anh ta rồi tôi thay quần áo và tìm cách trốn khõi Hỏa Lò. Nhưng mà, lúc ra khõi Hỏa Lò thì tôi bị nhiều trận lắm. Nó bắt được tôi, nó đánh tôi, đâm tôi gãy 3 cái răng rồi nó trói tay, đưa tôi xuống hầm đá, cát-sô ở Hỏa Lò…có thể chết ở dưới đó. Do Thượng đế, do hồn thiêng dân tộc thì tôi mới sống chứ tôi đã chết rồi.

Hòa Ái: Trong suốt thời gian bị giam cầm như vậy, ông có được nghe tin họ báo rằng ông được trao trả như tù bình chiến tranh hay không?

Ông Đặng Chí Bình: Không bao giờ thông báo cả. Chỉ tự suy nghĩ đoán thôi chứ không bao giờ nó bảo các anh sẽ được trao trả dù trước tập thể hay trước cá nhân, không bao giờ nói với ai cả.
Ngày 30/4 thì tôi không còn thiết điều gì nữa. Trước đây còn hy vọng le lói trong miền Nam nhưng bây giờ 30/4 mất miền Nam... Tôi chán chường, tôi thấy cuộc đời mù mịt, chung quanh tối đen, không còn một hy vọng nào nữa - Ông Đặng Chí Bình
Vào khoảng sắp sửa ký hiệp định Paris thì tôi ở trại Trung ương số 1, Lào Cai. Nó tập trung tất cả tù binh biệt kích, gián điệp. Nó giam nhiều chổ khác nhau nhưng khi đó nó tập trung về 1 nơi để cho ăn bồi dưỡng. Trước đây ăn đói khổ, ăn 13 kg trung bình nhưng bây giờ cho ăn 18 kg, có cả gạo và thịt bồi dưỡng. Chúng tôi biết đây là sắp trao trả. Nó chuẩn bị như vậy từ trước 6 tháng ký Hiệp định Paris. Nhưng lưng chừng nó đánh lừa được phía các phái đoàn của Mỹ và của quốc tế, thế là nó mang tôi với một anh nữa là anh Lê Văn Bưởi, 1 thiếu tá cũng là 1 điệp viên đã đi theo cách vượt sông Bến Hải, và 1 người nữa là anh Lưu Nghĩa Lương, đưa sang trại Trung ương số 2 ở Yên Bái trở lại chế độ bình thường. Ở đây nó điều tôi đi làm các công việc dọn cứt đái, rồi trong các toán rau…khổ cực, đày đạo ghê lắm như tôi đã tả trong “Thép đen”.

Hòa Ái: Câu hỏi sau cùng, ông đón nhận tin về ngày 30 tháng 4 năm 1975 như thế nào?

Ông Đặng Chí Bình: Thưa cô, hỏi như thế này thì tôi hãy còn nỗi niềm, nó quấn vào trong đầu tôi, trong lòng tôi ngày hôm đó. 30/4/1975, lúc đó tôi ở trại Phong Quang. Có thể nói rằng tôi đã xác định chấp nhận cái chết nhẹ như không, 2 chân trong cùm mà tôi vẫn vui cười vì đấy là lý do để tôi sống được. Nghệ thuật sống và phương pháp sống và nhân sinh quan, thế giới quan của tôi đã trang bị cho tôi nên tôi mới sống được. Thế mà ngày 30/4 thì tôi không còn thiết điều gì nữa. Trước đây còn hy vọng le lói trong miền Nam nhưng bây giờ 30/4 mất miền Nam thì tôi có 1 chì mật duy nhất vẫn giấu hơn 10 năm trường với hy vọng sau này còn hoạt động tiếp được nữa mà tôi cũng hủy luôn. Tôi chán chường, tôi thấy cuộc đời mù mịt, chung quanh tối đen, không còn một hy vọng nào nữa. Đúng giai đoạn đó tôi gặp rất nhiều nhiều người như anh Nguyễn Chí Thiện, anh Kiều Duy Vĩnh và nhiều nhân vật tù miền Bắc lúc đó mà tôi cũng không thiết nói chuyện với ai. Tôi chán chường lắm!

Hòa Ái:bây giờ là thời điểm 40 năm qua, 30/4/2015 kể từ giây phút ông đón nhận tin VNCH không còn nữa thì cảm giác từ lúc đó cho đến bây giờ có còn ám ảnh ông hay không và nỗi ám ảnh đó ra sao?

Ông Đặng Chí Bình: Hết 18 năm của tôi…Bởi vì chống đỡ với dư luận nên nó mới cho tôi về rồi thì nó sẽ bắt tôi tội khác nên tôi tương kế tựu kế, tôi mượn kế của nó để thoát khõi tay nó. Cô ơi, không phải dễ để trốn vượt biên sang đến hải ngoại đâu! Người nào phải đọc sách “Thép đen” của tôi mới hiểu được. Nỗi ám ảnh thật là to tát quá! Nỗi ám ảnh 30/4 đã mờ nhạt rồi! Điều nặng nề trong lòng tôi nhất là mối nguy hiểm nhất từ Trung Cộng với Mỹ và thế giới tự do bây giờ. Tôi buồn lắm! Từ khi trong tù cho đến hải ngoại cho đến bây giờ tim tôi vẫn rỉ máu ngày đêm. Mặc dù kể cả CIA huấn luyện tôi mà CIA cũng không ưa gì tôi vì tôi dám nói thẳng nói thật là vì Mỹ chưa hiểu Cộng sản, nhất là không hiểu Cộng sản Tàu và Cộng sản VN. Liên Xô đổ, Đông Âu đổ, Cộng sản đổ…cũng không hiểu được Trung cộng. Trung cộng quỷ quái ghê gớm lắm. Tôi dám nói rằng trong “Thép đen” của tôi đã đề cập nhiều đến mối nguy hiểm của người Trung cộng, của người Cộng sản VN, kể cả thế giới cũng không hiểu. Nó làm cho người khác hiểu lầm nó. Nó giả vờ sắp vỡ đến nơi. Nó tham nhũng, đấu đá nhau sắp chết đến nơi rồi để các anh coi thường nó. Nhiều ông chiến lược gia, lý luận gia cứ tưởng nó sắp vỡ đến nơi. Đấy là sai lầm! Các anh không hiểu họ thì dù anh giỏi hơn hay giàu có hơn gấp 10 hay gấp trăm lần thì cũng vẫn không là đối thủ của họ khi mà không hiểu kẻ thù của mình. Tôi già 80 tuổi ngoài rồi, tôi đau buồn lắm!

Hòa Ái: Cảm ơn ông đã dành thời gian chia sẻ với quý thính giả của đài ACTD. Cầu chúc ông mọi sự được an lành!

Ông Đặng Chí Bình: Tôi xin cảm ơn cô.

Hoà Ái, phóng viên RFA
2015-02-24
Nguồn:  http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=32934
 
 Nhận xét

KÝ ỨC VÀ TRĂN TRỞ CỦA ĐIỆP VIÊN X20- ĐẶNG CHÍ BÌNH

Điệp viên X20 - Đặng Chí Bình. RFA files photos

Trong cuộc chiến tranh VN huynh đệ tương tàn, nhiều người bị trở thành tù binh chiến tranh. Điệp viên Đặng Chí Bình với bí danh “X20” là một trong những tù binh chiến tranh ở Bắc Việt từ năm 1962. Sau khi đặt chân đến Hoa Kỳ, ông Đặng Chí Bình đã kể lại điệp vụ vượt tuyến và 18 năm tù đày của mình qua thiên hồi ký “Thép Đen”. Nhân sự kiện 40 năm ngày 30/4, cựu tù binh chiến tranh Đặng Chí Bình chia sẻ lại hồi ức của mình khi đón nhận thông tin “Sài Gòn thất thủ”.

 Ông Đặng Chí Bình: Hết 18 năm của tôi…Bởi vì chống đỡ với dư luận nên nó mới cho tôi về rồi thì nó sẽ bắt tôi tội khác nên tôi tương kế tựu kế, tôi mượn kế của nó để thoát khõi tay nó. Cô ơi, không phải dễ để trốn vượt biên sang đến hải ngoại đâu! Người nào phải đọc sách “Thép đen” của tôi mới hiểu được. Nỗi ám ảnh thật là to tát quá! Nỗi ám ảnh 30/4 đã mờ nhạt rồi! Điều nặng nề trong lòng tôi nhất là mối nguy hiểm nhất từ Trung Cộng với Mỹ và thế giới tự do bây giờ. Tôi buồn lắm! Từ khi trong tù cho đến hải ngoại cho đến bây giờ tim tôi vẫn rỉ máu ngày đêm. Mặc dù kể cả CIA huấn luyện tôi mà CIA cũng không ưa gì tôi vì tôi dám nói thẳng nói thật là vì Mỹ chưa hiểu Cộng sản, nhất là không hiểu Cộng sản Tàu và Cộng sản VN. Liên Xô đổ, Đông Âu đổ, Cộng sản đổ…cũng không hiểu được Trung cộng. Trung cộng quỷ quái ghê gớm lắm. Tôi dám nói rằng trong “Thép đen” của tôi đã đề cập nhiều đến mối nguy hiểm của người Trung cộng, của người Cộng sản VN, kể cả thế giới cũng không hiểu. Nó làm cho người khác hiểu lầm nó. Nó giả vờ sắp vỡ đến nơi. Nó tham nhũng, đấu đá nhau sắp chết đến nơi rồi để các anh coi thường nó. Nhiều ông chiến lược gia, lý luận gia cứ tưởng nó sắp vỡ đến nơi. Đấy là sai lầm! Các anh không hiểu họ thì dù anh giỏi hơn hay giàu có hơn gấp 10 hay gấp trăm lần thì cũng vẫn không là đối thủ của họ khi mà không hiểu kẻ thù của mình. Tôi già 80 tuổi ngoài rồi, tôi đau buồn lắm!

Hòa Ái: Cảm ơn ông đã dành thời gian chia sẻ với quý thính giả của đài ACTD. Cầu chúc ông mọi sự được an lành!

Xin đừng hòa hợp với Ngụy

Ông Bút (Danlambao) - Vài lời thưa trước: 
1/ Cho phép tôi được để chữ Ngụy thoải mái, không nằm trong ngoặc kép. Biết rằng ý nghĩa chữ Ngụy rất xấu, phản nghĩa với Việt Nam Công Hòa, lại do chính bọn Cộng Sản xách mé gọi chính quyền và quân đội Sài Gòn. Thế nhưng hầu hết, kể cả người dân miền Bắc, khi biết ai là Ngụy, họ tỏ ra thân thiện và tin tưởng.
2/ Theo đề bài trên, giống như người viết mạo nhận đại diện cho một số người, hoặc hội đoàn quân nhân, quân lực VNCH, thực tế không phải, tôi chỉ viết với suy tư cá nhân, không hề dám đại diện bất cứ ai, bản thân người viết là Ngụy, Ngụy rặc ròng, từ ông cố, ông nội, ông ngoại, cha, mẹ, anh chị em và những người giúp việc trong gia đình, toàn Ngụy. 
3/ Tôi không muốn viết sự việc cũ rích, song mới đây CS đưa ra luận điệu hòa hợp, hòa giải, (HHHG) với lời lẽ trịch thượng, hỗn xược, tuy không mới, hy vọng "be bờ" gìn giữ chính mình, và ai đó mang tâm địa trắc ẩn, hoặc khù khờ hùa theo giặc. Với CS không làm hại được nó, tối thiểu cũng quyết không làm lợi cho bọn Việt Gian, trường hợp này xin ghi nhớ câu: "Đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy việc ác nhỏ mà làm." 
Ngày 24 tháng 2 năm 2015, trên báo Vietnamnet, có bài: "Hòa hợp dân tộc: Mong người trên ngựa chìa bàn tay" của tác giả Xuân Linh. Trích: 
"Trong một lần tôi đi thăm Mỹ, tiếp xúc với một số anh em đã từng phục vụ chế độ cũ, một người đã tâm sự: Trong cuộc chiến, chúng tôi là người ngã ngựa, còn các anh là những người chiến thắng, ngồi trên mình ngựa. Nhiều lúc, chúng tôi ước mong, những người ngồi trên mình ngựa hãy cúi xuống chìa bàn tay kéo chúng tôi dậy. Mỗi cử chỉ ấy sẽ xóa tan nỗi hoài nghi của bao nhiêu người ở nước ngoài này." 
Đương nhiên Tổng Thống bỏ nước ra đi, tướng mất thành là thua, không cần biện bác lý do này, kia. Nhưng nêu ra 4 điểm tự hào trong chiến bại: 
1/ Thua trận nhưng VNCH vẫn thuộc về phe có chính nghĩa, Cộng Sản là kẻ cướp. Ngày nay đúng với câu: "Rước voi dày mả tổ." 
2/ 20 năm chiến tranh CS chỉ chui rúc trong mật "khu," chưa hề xâm lấn trọn vẹn một quận của miền Nam. (ngoại trừ 4/1972 chiếm duy nhất quận lỵ Lộc Ninh) 
3/ Hai trận thư hùng An Lộc, Xuân Lộc, đã nói lên tính anh dũng chiến đấu của QLVNCH. 
Chiến trường An Lộc: 
CS quen thói biển người, điều hơn 40 ngàn bộ đội, trong khi đó tướng Lê Văn Hưng chỉ có SĐ 5, LĐ 3 BĐQ, 2 TĐ của SĐ 18, cùng với Địa Phương Quân, Nghĩa Quân Bình Long, tổng số quân phòng thủ 6,300, sau 10 ngày chiến đấu Lữ Đoàn 1 Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tăng viện. Căn cứ sự chênh lệch này Nguyễn Thị Bình, tại hòa đàm Paris, đã láu táu, tuyên bố rằng "10 ngày nữa An Lộc sẽ là thủ đô của MTGPMN," nhưng An Lộc mãi kiên cường thách thức Cộng thù cho tới ngày tàn cuộc. 
Chiến trường Xuân Lộc: 
Lực lượng CS Bắc Việt gồm có: Quân đoàn 4, tăng cường sư đoàn 6 bộ binh (quân khu 7), ngoài ra còn một trung đoàn tăng, Thiết Giáp, một trung đoàn Pháo Binh, sau còn được tăng cường thêm trung đoàn 95B (sư đoàn bộ binh 325) và một đại đội xe tăng (tổng quân số khoảng 40.000) do thiếu tướng Hoàng Cầm tư lệnh và thiếu tướng Hoàng Thế Thiện chính ủy. 
Quân lực Việt Nam Cộng hòa quân số khoảng hơn 10.000 người, gồm Sư Đoàn 18 bộ binh (với các trung đoàn 43, 48 và 52), lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân Long Khánh và các đơn vị tăng phái gồm trung đoàn 8 (thuộc sư đoàn 5 Bộ binh), Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân, hai tiểu đoàn Pháo Binh, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Lữ đoàn 1 Dù (với các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9) và Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Toàn bộ tuyến phòng ngự do chuẩn tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư Đoàn 18 chỉ huy. (1) 
Đặc biệt giờ áp chót của đất nước, lòng dạ quân dân suy sụp trầm trọng, vũ khí và quân nhu, thiếu hụt thê thảm, nhưng quân dân Long Khánh, SĐ 18 BB và tướng Lê Minh Đảo, đã kịp để lại một trang sử vẻ vang. 
Tình cờ hai chiến trận, hai ông tướng đều họ Lê, đều chuẩn tướng, thư hùng với nhiều tướng CS. Tướng Hưng "gặp" các tướng: Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Văn Phát, Lê Ngọc Hiền, Bùi Phùng, sư đoàn trưởng, SĐ 9 VC Bùi Thanh Vân, SĐ 7 VC Nguyễn Thới Bưng. 
Bộ chỉ huy cao cấp: Chính ủy Phạm Hùng, Hoàng Văn Thái, Trần Độ, Hoàng Cầm. 
Chuẩn tướng Lê Minh Đảo "gặp" thiếu tướng Hoàng Cầm, tư lệnh QĐ4, thiếu tướng Hoàng Thế Hiện chính ủy. 
4/ Nhiều Tướng, Tá tuẫn tiết khi mất nước: Mất nước, mất về bọn Tàu (như ông Ngô Đình Nhu đã nói) là điều nhục nhã, không còn điều gì để biện bác. Song rất tự hào cho bất cứ ai thuộc về hàng ngũ chính nghĩa, chỉ cần 2 trận thư hùng An và Xuân Lộc, đối chiếu với đại tướng Phùng Quang Thanh và BCT đảng CSVN, lạy lục bọn Tàu, Trương Tấn Sang nịnh Tàu với cờ 6 sao. Nếu CS có một chút liêm sĩ, sẽ biết cái nhục nằm ở bên thắng cuộc, hay bại trận!? 
CS mỗi khi đề cập HHHG thường tuyên truyền "Ngụy vì bại trận nên cay cú, ngoan cố và căm hận CS". 
18 năm gần gũi với các siêu niên trưởng, niên trưởng và bạn bè, tôi không hề thấy họ có ý thức như vậy, hầu như họ không muốn nhớ tới cuộc chiến đã qua, hiện tại quý vị đó đã quá già để nghĩ tới thế cuộc, sinh hoạt Cộng Đồng, Hội Đoàn bóng dáng của họ rất thưa thớt. 
Rừng cờ vàng ba sọc đỏ ở Canada, Nguyễn Tấn Dũng và đảng CS phiền hà, phản đối, tôi tin rằng không có bao nhiêu cánh tay của Quân, Cán, Chính VNCH, rừng cờ vàng đó của hơn 90% đồng hương bình thường tạo nên. Khắp nơi trên đất nước Tự Do đều có cờ vàng, có sự tranh đấu chống độc tài đảng trị, do đồng hương chủ xướng, Nói như vậy để CS chấm dứt hô hoán "Ngụy bại trận nên cay cú và cực đoan, do đó chưa thành công trong công tác HHHG".
Không riêng Ngụy, mà toàn thể đồng bào, đồng hương cùng một lòng không HHHG với CS, vấn đề rất đơn giản, muốn thực sự HHHG ít nhất phải có những điều căn bản tương đồng, đã không có điểm tương đồng, chỉ có sự đối nghịch, làm thế nào đi đến HHHG được. 
Ví dụ: Ngụy và đồng bào muốn tự do, dân chủ. Đảng CS muốn độc tài đảng trị, và cha truyền con nối. 
Ngụy và đồng bào muốn tự do truyền thông báo chí, đảng CS độc tôn lãnh đạo. 
Ngụy và đồng bào quyết tâm không nô lệ giặc Tàu, đảng CS quyết chí "trọng thị" Tàu, coi Tàu như tổ tiên, còn hơn cả ông bà, cha mẹ của đảng CSVN. 
Những điều quá khác biệt như trắng với đen, làm sao có thể HHHG? Đứa trẻ con cũng hiểu. Vì vậy không thể tin một kẻ ngu xuẩn, đớn hèn nào đó, chờ đợi: "ước mong, những người ngồi trên mình ngựa hãy cúi xuống chìa bàn tay kéo chúng tôi dậy. Mỗi cử chỉ ấy sẽ xóa tan nỗi hoài nghi của bao nhiêu người ở nước ngoài này." (?) 
Tôi, một quân nhân cấp bậc gần nhỏ nhất, của một triệu quân, chưa hề thấy quỵ ngã, nếu có cũng tự mình đứng dậy, hoặc bạn bè chiến hữu vực dậy, chưa bao giờ nghĩ tới kẻ thù bất nhân, vô đạo như CS "chìa bàn tay". Cuối cùng quỵ ngã, hoàn toàn trong cô độc, thà làm tử sĩ vô danh, nhất định không chờ bàn tay CS nhuộm máu, cướp bóc tài sản của đồng bào, bàn tay đã vùi hàng triệu người vô tội dưới biển Đông, trên rừng sâu núi thẳm, bàn tay đó không xứng đáng chìa ra trước mặt tôi, tôi tin rằng bạn bè cùng suy nghĩ. 
CS, một bè lũ ác nhơn, khi chúng tỏ ra thân thiện, người ta càng tởm, càng sợ tránh xa, ai nghĩ rằng "cử chỉ ấy sẽ xóa tan nỗi hoài nghi." Kẻ ấy không xứng đáng là Ngụy, hoặc mạo danh Ngụy. 
Sau 1975 đất nước hết chiến tranh, nhưng không có hòa bình, cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn, sự bại trận trên chiến trường súng đạn, chưa phải đã kết thúc, mỗi quân nhân và đồng bào, đồng hương, đều có thể tự chọn một phương thức thích hợp để "tác chiến." Mỗi phương thức tuy khác nhau, nhưng cùng nhắm về kẻ thù của Tự Do - Dân Chủ, kẻ thù của Độc Lập và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. 
Những tên: Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, kể luôn thằng vua Mường Nông Đức Mạnh, đang ngồi "trên ngai vàng" chứ kể gì trên mình ngựa, có xứng đáng "chìa bàn tay kéo Ngụy dậy không?" 
Chớ dại, hoặc lú nghe lời xúi bậy, gặp Ngụy và tất cả "khúc ruột ngàn dặm" chìa bàn tay quân cướp ngày, coi chừng bị ăn cái tát, hay một bãi nước bọt vào mặt. 
 
Nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2015/02/xin-ung-hoa-hop-voi-nguy.html#more
 
Bình luận 

Theo tôi, QLVNCH tuy đã Thua (vì đồng minh phản bội), nhưng để cho toàn dân VN Thắng (khi mọi người bây giờ đều hiểu rõ mặt thật của Hồ chí minh và bọn Cướp Sạch VN. Nhiều bí mật, huyền thoại về Hồ chí minh và bọn Cướp Sạch VN nay đã được giải mã làm cho có những kẻ xưa nay còn mù mờ chưa hiểu, nay cũng đã được tỏ tường). Xin mọi người hãy nhớ lời tôi: Sau này, khi bọn tay sai cho ngoại bang, bán nước cho giặc Tàu, giết hại dân lành vô tội, cướp của dân nghèo để tiêu xài phung phí xa hoa, bọn chó đẻ Cướp Sạch VN đã bị lật đổ, bọn chúng sẽ biến mất....vĩnh viễn....trên quê huơng VN, bởi vì nhân dân VN sẽ làm cỏ bọn chúng rất sạch sẽ, không sót một tên nào. Đó sẽ là chiến thắng cuối cùng và ngày đó sắp đến rồi. Khi biến cố đã xảy ra rồi, thì nhanh lắm vì lòng dân đang sôi sục khắp nơi. Bọn bay cứ chờ xem!!!

"Những người chiến thắng ngồi trên mình ngựa" của Xuân Linh toàn là BỌN BÁN NƯỚC, dân miền Nam thấy là nhổ vô mặt. BÁN NƯỚC là đã đốn mạt rồi, lại còn làm trò VỪA BÁN NƯỚC VỪA VÊNH VÁO thì đúng là siêu đốn mạt thật. Tụi bây mà ngồi trên mình ngựa gì, ngồi dưới cái đít của Tàu thì có.
QLVNCH dứt khoát và quyết tâm...không bao giờ hòa hợp , và hòa giãi với Việt Cộng cho đến khi hơi tàn , sức kiệt !!!

Xin được đóng góp ý kiến:
Đề tựa "Xin đừng hòa hợp với Ngụy" không đúng với nội dung của đề tài.... hao hao như "xin cho" (?)
Đề nghị để tựa "ĐỪNG MONG HOÀ HỢP VỚI NGỤY" để chứng tỏ bên có "Chính Nghĩa" là người ngồi trên ngựa.
csVN "bá đạo.... hèn với giặc ác với dân" là kẻ té ngửa....



Chỉ một chử thôi: TUYỆT. Cảm ơn T/G đã vạch rỏ làn ranh quốc gia và cộng sản. Ðây cũng là kim chỉ nam rỏ ràng mạch lạc. Tuy nhiên, những kẽ đón gió trỡ cờ bắt tay với Việt cộng để làm giàu trên xương máu lam lũ của người dân VN thì nó sẽ bịt mắt, bịt tai và hành động như con đà điểu trên sa mạc: Chúi đầu vào cát và đưa cái đít lên trời.

Hay, bài rất hay.
Xin phép các Ông, Bà, Cô, Chú, Bác, ACE trên diễn đàn cho Cu Teo nói lời này: Không có gì mà phải cần HHHG với ai. Giữ vững niềm tin Cờ Vàng hải ngoại rồi sẽ có ngày về trong vinh quang. Việt Cộng nó sắp chết nên nó mới bài keo cuối HHHG. HHHG là tự mình chấm dứt mính, tự mình hai tay trao chính nghĩa cho VC.
Đừng nghe bất cứ ai nói khích theo kiểu như "mỗi năm mang về cho VC mười mấy tỉ để nuôi bọn chúng". VC mang tiền ra khỏi Việt Nam còn nhiều hơn VK mang về. VK về rồi đi chứ không ai ngu ở lại với VC.
HHHG là một mưu đồ khoét lỗ chó để cho VC chui chôn, tìm đường thoát thân và thoát tội trước sự phán xét của lịch sử trong một ngày gần. Âm mưu bỏ điều 4 HP của VC cũng nằm trong trò lưu manh này của VC.
Đất nước Việt Nam vẫn còn đó, không một thằng chó Trung Cộng nào có thể chiếm được Việt Nam khi người Việt Nam còn. "Bao gời nhổ hết cỏ nước Việt Nam thì mới hết người Việt Nam chống Trung Cộng". Đừng vì nao núng trong phút chóc rồi bị rơi vào cái bẫy việt vị như HCM(HTC) văng ra để lưới những người yêu nước thời 45-54.
Tổ Quốc là thiêng liêng, nhưng sự thiêng liếng đó phải lấy lý tri tôn thờ, chứ không thể lấy linh hồn mình làm nô lệ cho Tổ Quốc. Bởi vì khi linh hồn mình là nô lệ thì chính Tổ Quốc cũng thuộc nô lệ. Linh hồn mình là tư tưởng. Cho nên khi tư tưởng mình là Tự Do-Dân Chủ thì Tổ Quốc mình sẽ thịnh vường phú cường. Còn tư tưởng mình là nô lệ thì tự mình nô lệ Tổ Quốc mình. Vì thế đừng để VC đem Tổ Quốc Việt Nam của mình rồi nô dịch mình theo đường hướng chúng mong muốn như những gì HCM và đảng CS đã làm từ 45-75.
"Đừng hỏi Tổ Quốc làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho Tổ Quốc". Tổ quốc không đòi hỏi chúng ta phải làm gì cả, và càng không đòi hỏi chúng ta "hi sinh, hi sinh"!? Hi sinh hết rồi thì có còn Tổ quốc nữa không?
Ta làm gì cho Tổ Quốc?
Thông minh sáng suốt và khôn ngoan để tồn tại thì Tổ Quốc vẫn tồn tại. Mỗi người Việt Nam là văn minh, nhân bản, Tự do-Dân chủ thì Tổ quốc Việt Nam sẽ sáng chói và thịnh vượng phú cường. Bài học lịch sử vẫn còn đó, vẫn còn nhìn thấy hiển hiện khi bao nhiêu thế hệ người Việt Nam quyết hi sinh cho Tổ quốc nhưng mù quáng nghe theo HCM và CSVN, để HCM và CSVN nô dịch họ cho cái gọi là "tổ quốc" để rồi hôm nay CSVN dâng cho Trung Cộng. Như vậy thì thử hỏi cái sự tôn tại của "tổ quốc" Việt nam hiện tại là cái gì? Nó chỉ còn là cái danh, để mỗi người Việt Nam tôn thờ cái danh. Nhưng nó đã thuộc chủ nghĩa man rợ CS và thuộc Hán Tầu từ lâu rồi.
Tóm lại: Không có nhu cầu HHHG với VC ở mọi hình thức nào hết.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét