LÀ MẬT LỆNH DI TẢN
CỦA QUÂN ĐỘI HOA KỲ
Những ngày cuối cùng Tháng Tư, 1975, lệnh di tản của quân lực Hoa Kỳ còn đồn trú tại VN được truyền đi qua làn sóng từ đài phát thanh của quân đội Hoa Kỳ bằng bản nhạc "White Christmas"do Bing Crosby hát. Tiếp theo là bài I’m Dreaming of a White Christmas do Bing Crosby hát. Mật lệnh này được truyền đi 15 phút một lần. Đó là thông điệp kêu gọi người lính Mỹ trở về nhà.
Lệnh rút hết quân đội HK ra khỏi VN, được truyền đi liên tục từ trưa ngày 29/4/1975 trên đài VOA và trên làn sóng các đài phát thanh quân sự Mỹ, với lời mật hiệu “The temperature in Saigon is 112 degrees and rising” (“Nhiệt độ ở Sàigòn bây giờ là 40 độ và đang tăng lên”). ( Nguồn: http://www.examiner.com/article/how-white-christmas-by-bing-crosby-helped-end-the-vietnam-war)
Lệnh rút hết quân đội HK ra khỏi VN, được truyền đi liên tục từ trưa ngày 29/4/1975 trên đài VOA và trên làn sóng các đài phát thanh quân sự Mỹ, với lời mật hiệu “The temperature in Saigon is 112 degrees and rising” (“Nhiệt độ ở Sàigòn bây giờ là 40 độ và đang tăng lên”). ( Nguồn: http://www.examiner.com/article/how-white-christmas-by-bing-crosby-helped-end-the-vietnam-war)
I’m Dreaming of a White Christmas
Chiến dịch "Cơn gió thường lệ" .
Trực thăng của chiến dịch " Cơn gió thường lệ"
đã đáp xuống toà đại sứ Mỹ tại Sài Gòn chiều ngày 29/4/1975
Ngày 9-4-1975 người Mỹ bắt đầu thảo chi tiết các kế hoạch di tản . Tùy
viên quân sự Mỹ , đại tá Whale đưa ra bốn khả năng : kế hoạch 1 và 2 là
di tản dần dần bằng đường hàng không , kế hoạch 3 là di tản đồng thời
bằng đường hàng không và đường biển và kế hoạch 4 là di tản bằng trực
thăng vận ngay tại Sài Gòn.
Các người Mỹ được căn dặn phải mở nghe thường trực các đài phát thanh quân sự Mỹ và chờ nghe thông điệp ngụy hóa như sau : "Mẹ muốn anh điện thoại về nhà " và bản tin thời tiết : "Bây giờ là 40 độ và nhiệt độ đang tăng lên", sau đó là bản "Giáng Sinh trắng " do Bing Crosby hát . Loạt mật lệnh này được truyền đi 15 phút một lần .
Lực lượng đăc nhiệm 76 của Hải Quân Mỹ cùng với các hàng không mẫu hạm Hancock , Okinawa và Midway chờ đợi ngoài khơi Việt Nam . Lực lượng này tập trung 81 trực thăng được các máy bay của lực lượng đặc nhiệm 77 yễm trợ . Chiến
dịch "Cơn gió thường lệ" (Frequent Wind), tên đặt cho kế hoạch 4 , bắt
đầu lúc 11 giờ 08 phút ngày 29 tháng 4 . Cuộc di tản từ mái các tòa cao
ốc dự định chấm dứt vào khoảng 18 giờ 30 cùng ngày , nhưng
ở tòa đại sứ Mỹ , cuộc di tản đã kéo dài đến 4 giờ 30 sáng ngày 30
tháng 4 . Chiến dịch này đã di tản được 1373 người Mỹ , 5595 người Việt
và 85 công dân các nước khác . Ngoài ra 41 máy bay của Không lực Việt
Nam Cộng Hòa chở các phi hành đoàn và gia đình của họ đến được các hàng
không mẫu hạm Mỹ . Đến bốn giờ sáng ngày 30 tháng 4 , Hoa Thịnh Đốn ra nghiêm lệnh chỉ được di tản nhân viên người Mỹ thôi. Từ đó
VNCH đã hoàn toàn rơi vào tay bọn cộng sản man rợ. Số phận nghiệt ngã
của người dân miền nam VN cũng chìm theo màn đêm của tháng tư đen 1975.
7 giờ 53 phút giờ Sài Gòn, kết thúc hoàn toàn chiến dịch " Cơn gíó thường lệ"
7 giờ 53 phút giờ Sài Gòn, kết thúc hoàn toàn chiến dịch " Cơn gíó thường lệ"
DIỄN BIẾN NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA VNCH
* Ngày 21-4-75 tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, cụ Trần Văn Hương nhận lãnh chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
* Ngày 26-4-75 đại sứ Martin yết kiến và thông báo cho cụ Hương về áp lực cộng sản Bắc Việt và khả năng của cộng quân tấn công vào Saigon.
* Ngày 27-4-75 quốc hội VNCH họp và biểu quyết việc trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh.
* Ngày 28-4-75 vào lúc 5:00 chiều, cụ Trần Văn Hương trao quyền lại cho tướng Dương Văn Minh theo quyết định của quốc hội.
Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa biểu quyết yêu cầu
Tổng thống Trần Văn Hương nhượng quyền lại cho tướng Dương Văn Minh.
Hình: AP Photo/Errington.
Khi Tổng Thống Tần Văn Hương bị áp lực từ nhiều phía và quốc hội VNCH, thì trước đó vào ngày
26.4 đầy những biến cố có tính quyết định tới vận mạng của chính quyền
Sài Gòn. Tại Pháp, Đại sứ VNDCCH là Võ Văn Sung gặp con trai tướng Minh
là Dương Minh Đức (đang du học ở Pháp) báo tin là nếu ông Minh lên làm
tổng thống thì Hà Nội sẽ chấp nhận đàm phán. Sau khi nhận tin, ông Minh
thuyết phục tướng Đôn, để ông Đôn vào dinh Độc Lập thuyết phục ông Hương
từ chức, giao quyền lại cho ông Minh. Tổng thống Hương từ chối, nói với
ông Đôn rằng, tướng Minh từng là học trò của ông nên ông biết rõ Minh
không thể cáng đáng công việc quốc gia vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng.
Tướng Minh sau đó đi gặp Chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền,để làm một cuộc vận động ngầm, Minh báo
cho ông Huyền biết là cả Thượng tọa Trí Quang lẫn ông Đôn đều ủng hộ
ông ta lên làm tổng thống, và nếu như thế thì ông sẽ đưa ông Huyền làm
Phó tổng thống.
Chủ tịch
Huyền đồng ý, rồi báo cho Tổng thống Hương là Quốc hội sẽ nhóm họp ngày
28.4, đồng thời khuyên ông Hương từ chức vì “quyền lợi của dân tộc”. Ông
Hương trả lời việc đó tùy Quốc hội định liệu. Tổng thống Hương thông
báo mọi điều với cựu Tổng thống Thiệu, tướng Khiêm và tướng Viên. Thế
nên, ngay tối 26.4 đó, ông Thiệu và ông Khiêm đã rời VN. Hai ông lên máy
bay đi Đài Loan theo công lệnh của Tổng thống Hương, đại diện VNCH dự
lễ tang Tưởng Giới Thạch.
Đúng ra theo hiến pháp VNCH năm 1967, Quốc hội không có quyền ép Tổng thống Hương từ chức để giao chức vụ lại cho tướng Dương Văn Minh.
Tuy nhiên, ông Hương lúc này bị áp lực từ nhiều phía, nhất là Phó thủ
tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn. Ông Đôn đã hù dọa Quốc
hội là chỉ có ông Minh lên làm tổng thống mới có thể thương thảo với
“Cộng sản” được mà thôi.
Trong
buổi điều trần trước Quốc hội, ba vị tướng: Trần Văn Đôn; Trần Văn Minh,
Tư lệnh Biệt khu thủ đô; Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh Cảnh sát quốc gia,
đã trình bày trước Quốc hội tình hình nguy ngập của việc bảo vệ Sài Gòn.
Theo đó, ngoài các đơn vị ở Vùng 4, tại Vùng 3, VNCH có 3 sư đoàn còn
nguyên vẹn là các sư đoàn 5, 25 và sư đoàn dù. Sư đoàn 18 và 22 là hai
sư đoàn trừ (tức thiếu quân số), đang được bổ sung. Nội thành thì có 2
liên đoàn Biệt động quân và 2 liên đoàn Cảnh sát dã chiến. Trong khi đó,
quân giải phóng đã huy động đến 16 sư đoàn chính quy, chưa kể các lực
lượng địa phương, đang dồn các mũi tấn công vào Sài Gòn. Tướng Đôn cũng
báo cho Quốc hội biết là bên kia đòi hỏi Tổng thống Hương phải bàn giao
chức vụ lại cho tướng Dương Văn Minh trước 12 giờ khuya ngày 27.4 để có
cơ hội thương thuyết, còn nếu không, họ sẽ ra lệnh tấn công. Sau đó, 3
tướng Đôn, Minh và Bình ra về để cho các thành viên Quốc hội quyết định.
Chỉ
một ngày sau khi nhậm chức Tổng thống VNCH thay thế ông Trần Văn Hương,
Tổng thống Dương Văn Minh ngày 29.4 đã ra lệnh cho tất cả những người
Mỹ phải rời VN trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Cuộc di tản người Mỹ và
người Việt liên tục không ngừng qua đêm.
Vì sao ông Minh có quyết định này?
Một sĩ quan tùy
viên của đại tướng Minh là cựu thiếu tá Trịnh Bá Lộc đã thuật lại
nguyên nhân dẫn đến quyết định trục xuất người Mỹ, xin được tóm lược lại
như sau:
"Một
hôm, đại tướng Minh đang họp với các cộng sự thì ông Charles J.Timmes,
cựu thiếu tướng, nguyên Trưởng phái bộ cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) đến xin
gặp. Ông Timmes lúc đó đang làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Thiếu
tá Lộc báo tin rồi đại tướng Minh gặp gỡ ông Timmes trong phòng kín.
Khi tiễn ông Timmes ra về, thiếu tá Lộc nghe ông Timmes nói với đại
tướng Minh, đại ý là Đại sứ Martin muốn rằng trong bài diễn văn nhậm
chức, đại tướng Minh có đề cập đến việc yêu cầu nhân viên Tòa đại sứ Mỹ
và cơ quan DAO rút khỏi VN. Tướng Minh không trả lời mà hẹn sẽ cho biết
sau.
Ngày
hôm sau, ông Timmes lại đến, có dẫn theo một chuyên viên và xin mắc
đường dây điện thoại đặc biệt, nói là để tiện việc liên lạc trực tiếp
giữa ông Minh và Tòa đại sứ Mỹ. Tướng Minh không cho, nói là chỉ cần gắn
điện thoại tại nhà thiếu tá Lộc, để sĩ quan tùy viên có gì báo lại. Ông
Lộc cho biết, đường dây này chỉ có 3 số, không qua tổng đài, và chỉ
liên lạc với những quan chức cấp cao. Ông Timmes có nhắc lại yêu cầu của
ngày hôm qua, nhưng đại tướng Minh vẫn không trả lời.
Sau
khi Quốc hội trong phiên họp lưỡng viện tối 27.4 biểu quyết chấp thuận
cho Tổng thống Hương giao quyền lại cho đại tướng Dương Văn Minh, chiều
28.4 diễn ra lễ nhậm chức của ông Minh. Bài diễn văn nhậm chức lúc đó đã
chuẩn bị xong xuôi, nên ngay trưa hôm đó, lúc ông Minh chưa đọc diễn
văn, ông Timmes đã nhận được một bản bằng tiếng Việt. Nội dung bài diễn
văn không có đề cập gì đến yêu cầu nhân viên Tòa đại sứ Mỹ và cơ quan
DAO rời khỏi VN.
Ngay
trong đêm hôm đó, dinh Độc Lập bị phi cơ oanh kích, và Sài Gòn cũng bị
pháo, tức không đúng như những gì mà những người ủng hộ ông Minh nói là
ông Minh lên cầm quyền thì sẽ có “cơ hội” đàm phán với “phía bên kia”.
Sáng ngày 29.4, ông Timmes lại đến tư dinh ông Minh. Khi ra về, lúc
ngang qua chỗ bộ phận tham mưu của tướng Minh làm việc, ông Timmes có
nói: “Đại sứ Martin nói là Cộng sản chỉ bằng lòng nói chuyện hòa bình
với chính phủ của đại tướng chỉ khi nào tất cả nhân viên tòa đại sứ và
DAO của Mỹ bắt đầu rời khỏi VN theo lời yêu cầu chính thức của đại tướng
Dương Văn Minh, Tổng thống VNCH, được phổ biến trên đài phát thanh”.
Theo
lời kể của thiếu tá Lộc thì lúc đó, giáo sư Lý Chánh Trung nói nhỏ:
“Thôi thì đại tướng làm theo yêu cầu của họ”. Ông Minh trầm ngâm trong
chốc lát, rồi nói chậm rãi: “Được rồi! Độ một giờ nữa, khi nào làm xong,
thiếu tá Lộc sẽ mời ông đến nhận”.
Ông
Timmes mừng rỡ cáo từ. Sở dĩ tướng Minh làm như vậy vì theo ông, là nếu
ông không yêu cầu, thì người Mỹ cũng sẽ rút lui như ở Campuchia, thế
nên, cần giúp người Mỹ rút trong danh dự, và dù sao, cũng đã có 58.000
quân nhân Mỹ thiệt mạng trên chiến trường VN.
Giáo
sư Vũ Văn Mẫu trong vai trò thủ tướng chính phủ, được mời đến ngay. Sau
khi trình Tổng thống Dương Văn Minh ký tên, thiếu tá Lộc gọi điện mời
ông Timmes đến nhận. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã đọc văn bản chính thức trên
đài phát thanh. Và chỉ trong vòng một giờ sau, máy bay của Mỹ vần vũ
trên không phận Sài Gòn. Cuộc rút lui chính thức của người Mỹ bắt đầu."
NHỮNG GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG
Theo như Frank Snepp kể lại những giờ phút cuối cùng tại Tòa Đại Sứ Mỹ vào ngày 29/4/1975. Ông Frank Snepp đã mô tả hình dạng của Đại Sứ Martin lúc đó như sau:
“Dưới con mắt của giới thân cận, Đại sứ Graham
Martin nay giống một xác chết biết đi. Da xanh, mặt nhăn nheo, ông đứng
không vững. Từ ngày Hoa Thịnh Đốn ra lệnh di tản bằng trực thăng, ông
tỏ ra không còn ý chí đấu tranh nữa. Giới quân sự và đô đốc Gayler nay
hoàn toàn nắm mọi công việc. Martin chỉ còn một lo lắng duy nhất: Làm
thế nào di tản càng được nhiều người Việt Nam càng tốt. Nhưng phải chờ
một hai giờ nữa máy bay trực thăng của hải quân mới đến.”
Bắt đầu chiến dịch là lúc 12
giờ 30 phút, một phi đoàn gồm 36 máy bay trực thăng đầu tiên rời cầu
tàu USS Hancoch với nhiều máy bay Cobra vũ trang hộ vệ. Một phút sau đó, những máy bay phản lực Phantom từ các căn cứ ở Thái Lan bay tới bầu trời Việt Nam yểm trợ thêm để yễm trợ cho chiến dịch. Một giờ rưỡi trôi qua kể từ lúc tổng thống bật đèn xanh cho chiến dịch "Gió Nhanh" (Frequent Wind)..
.
17 giờ,
tướng Smith gọi sứ quán hỏi số lượng người di tản. Lần đầu tiên ông
nhận được câu trả lời có vẻ nghiêm chỉnh. Một cộng tác viên của Jocbson
vừa đếm lại số người trong nhà, ngoài sân: từ 1.500 đến 2000 người. Tình
hình những người này lúc đó rất nóng nẩy. Mới có ba máy bay trực thăng
đến chở người tị nạn. Phải 40 phút nữa mới có chuyến khác. Sốt ruột vì
chờ đợi, dân tị nạn kêu ca, oán thán, chửi bới...
17 giờ 30 phút, tướng Smith báo cho hạm đội di tản biết còn khoảng 1.300 người nữa, trong đó có đơn vị an ninh hải quân gồm 840 người.
Cầu
hàng không máy bay trực thăng hoạt động đều, mặc dù gặp khó khăn: sân
hẹp, CH.53 là loại máy bay trực thăng lớn, nặng, mỗi chiếc phải chở tới
70 người, mức trọng tải cao nhất. Nhiều lần, gió cuốn suýt gây ra tai
nạn...Ở Tòa Bạch Ốc, Kissinger
báo cáo với tổng thống Ford: Phái bộ quân sự đã hoàn thành việc di tản.
Hơn 4.500 người đi bằng máy bay trực thăng trong đó có 450 người Mỹ. Đó
là một thành công rực rỡ mặc dù có mất mát.
Vào
lúc 1 giờ 30 sáng, Ngoại trưởng Kissinger ra lệnh cho Tòa đại sứ Mỹ
phải kết thúc việc di tản vào lúc 3 giờ 45 sáng, giờ Sài Gòn, và Đại sứ
Martin phải ra đi trên chuyến trực thăng trước chuyến bay cuối cùng.
3 giờ 45 phút,
kết thúc cuộc di tản, Martin đi ra sân sứ quán, nhìn nhanh đám đông, ra
hiệu cho đại tá Madison: "Những người Việt Nam còn lại sẽ đi bằng máy
bay CH.53. Ai còn chờ trong sứ quán thì ra sân đợi. Cầu hàng không trên
mái nhà dành riêng cho người Mỹ”.
Cuộc
di tản vẫn tiếp tục trong đêm cho đến rạng ngày 30 tháng 4, tuy nhiên
con số người Mỹ còn lại ở Sài Gòn vẫn còn nhiều. Tuy nhiên đến 3 giờ 45
sáng, vẫn còn có trên 400 người tại toà đại sứ Mỹ trong đó có cả Đại sứ
Martin. Vào lúc 4 giờ 20 sáng, Đô Đốc
Gayler đã quyết định kết thúc cuộc di tản và tất cả các phi công đều
nhận được lệnh như sau: "Đây là lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ và lệnh này
phải được chuyển lại bởi bất cứ phi công trực thăng nào liên được với
Đại Sứ Graham Martin. Chỉ có người Mỹ mới được phép di tản và Đại Sứ
Martin phải đáp chuyến trực thăng đầu tiên. Phi cơ chở đại sứ Martin
phát đi ám hiệu “Tiger, Tiger, Tiger" để báo cho biết rằng ông Martin đã
được di tản".
Vào lúc 4 giờ 58 sáng ngày 30 tháng 4, Đại Sứ Martin"bị hộ tống” lên trực thăng mang tên là Lady Ace 09, trên chiếc trục thăng này một phân đội Thuỷ Quân Lục Chiến đã được lệnh bắt giữ ông đại sứ để áp tãi lên phi cơ nếu ông ta còn chống lại lệnh di tản. Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã cố tình cưỡng lại lệnh của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhưng ông lại là ân nhân của một số người Việt Nam vì nếu không có ông thì họ không có may mắn được di tản ra khỏi Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Theo Ngoại Trưởng Kissinger thì Đại Sứ Martin đã phối hợp di tản được 6,000 ngời Mỹ và trên 50,000 người Việt Nam ra khỏi Sài Gòn.
7 giờ 30 phút (sáng 30.4.1975), giờ Sài Gòn, những người lính Hoa Kỳ cuối cùng đóng
chặt cánh cửa đồ sộ bằng gỗ sến của sứ quán, hạ màn sắt xuống và vội
vàng chạy đến cầu thang phụ. Ở lầu một và lầu bốn, họ ném lựu đạn cay
vào cầu thang máy và kéo hàng rào thép gai ra ngăn cầu thang. Nhưng đúng
lúc họ bước lên trên bậc cuối cùng để lên mái nhà thì những người Việt
Nam nổi giận ở ngoài sân đã phá được cửa tầng dưới và chạy lên đuổi theo
họ. Thủy quân lục chiến khóa được cửa lên mái nhà và chạy nhanh ra chỗ máy bay đậu và chờ họ.
Lúc người lính Mỹ cuối
cùng vào được ca bin máy bay thì cũng là lúc người Việt Nam leo tới mái
nhà. Và khi họ nhảy bổ vào gầm bánh máy bay thì máy bay bay lên cao.
Lúc bấy giờ là 7 giờ 53 phút giờ Sài Gòn, kết thúc hoàn toàn chiến dịch " Cơn gío thường lệ"
Đòan người di tản trên sân thượng toà đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn ngày 29/4/1975
Cuộc
di tản vẫn tiếp tục trong đêm cho đến rạng ngày 30 tháng 4, tuy nhiên
con số người Mỹ còn lại ở Sài Gòn vẫn còn nhiều. Vào lúc 1 giờ 30 sáng,
Ngoại trưởng Kissinger ra lệnh cho Tòa đại sứ Mỹ phải kết thúc việc di
tản vào lúc 3 giờ 45 sáng, giờ Sài Gòn, và Đại sứ Martin phải ra đi trên
chuyến trực thăng trước chuyến bay cuối cùng. Tuy nhiên đến 3 giờ 45
sáng, vẫn còn có trên 400 người tại toà đại sứ Mỹ trong đó có cả Đại sứ
Martin. Vào lúc 4 giờ 20 sáng, Đô Đốc Gayler đã quyết định kết thúc cuộc
di tản và tất cả các phi công đều nhận được lệnh như sau: "Đây là lệnh
của Tổng thống Hoa Kỳ và lệnh này phải được chuyển lại bởi bất cứ phi
công trực thăng nào liên được với Đại Sứ Graham Martin. Chỉ có người Mỹ
mới được phép di tản và Đại Sứ Martin phải đáp chuyến trực thăng đầu
tiên. Phi cơ chở đại sứ Martin phát đi ám hiệu “Tiger, Tiger, Tiger" để
báo cho biết rằng ông Martin đã được di tản".
Vào lúc 4 giờ 58 sáng ngày 30 tháng 4, Đại Sứ Martin"bị hộ tống” lên trực thăng mang tên là Lady Ace 09, trên chiếc trục thăng này một phân đội Thuỷ Quân Lục Chiến đã được lệnh bắt giữ ông đại sứ để áp tãi lên phi cơ nếu ông ta còn chống lại lệnh di tản. Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã cố tình cưỡng lại lệnh của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhưng ông lại là ân nhân của một số người Việt Nam vì nếu không có ông thì họ không có may mắn được di tản ra khỏi Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Theo Ngoại Trưởng Kissinger thì Đại Sứ Martin đã phối hợp di tản được 6,000 ngời Mỹ và trên 50,000 người Việt Nam ra khỏi Sài Gòn.
Đại sứ Martin
Sau
khi Đại Sứ Martin bị hộ tống lên trực thăng, trong toà đại sứ lúc đó
vẫn còn gần 200 người Mỹ mà trong số đó có 170 người là lính Thuỷ Quân
Lục Chiến có nhiệm vụ bảo vệ cho chiến dịch di tản. Cuộc di tản vẫn tiếp
tục cho đến đúng 7 giờ 53 phút sáng ngày 3O tháng 4 năm 1975 thì chiếc
trực thăng CH-46 cuối cùng mới rời khỏi sân thượng của toà Đại Sứ Hoa Kỳ
ở Sài Gòn mang theo Trung sĩ Juan Valdez, người lính Mỹ và cũng là
người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.
Tù
phút đó, chỉ còn lại toán lính TQLC Mỹ giữ an ninh tòa đại sứ. Họ rút
hết vào bên trong tòa nhà, đóng cửa sắt và lên trên sân thượng đợi. Ðúng
7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trực thăng ngoài biển bay vào đón họ,
chấm dứt sự hiện hữu lần thứ ba của người Mỹ trên nước VN, tính tròn 21
năm , từ lúc tướng Edward Landale của CIA đặt chân tới Sài Gòn. Tình
đồng minh, đồng hướng và chiến hữu giữa VNCH cùng Hoa Kỳ, cũng chấm dứt
từ đó.
Theo
tài liệu được Mỹ công bố, thì Tòa Đại Sứ và DAO ngày 29 rạng 30-4-1975
chỉ di tản được 7014 người, phần lớn không có tên trong danh sách được
lập lúc ban đầu. Ðể hoàn thành công tác trên, người Mỹ đã sử dung trực
thăng của Sư Đoàn 7 Không Quân và Hạm Ðội 7 tại Thái Bình Dương. Suốt
thời gian chiến dịch, chỉ có một A6 bị mất tích, một trực thăng AH1J
Cobra rớt xuống biển và 2 lính TQLC Mỹ bị tử thương khi VC pháo kích vào
DAO tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Dân Di Tản Chạy ra Tr ực Thăng tại Trụ sở DAO, Saigon
Một máy bay VNCH chở người di tản đáp xuống Midway
Dân Di Tản đến Midway bằng trực thăng Hoa Kỳ
Tuy
người Mỹ đã chính thức rời Sài Gòn vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975
nhưng trọn ngày đó cho tới hôm sau 1-5-1975, nhiều trực thăng của Không
quân VNCH khắp nơi bay tới Hàng Không Mẫu Hạm Midway, đang bỏ neo ngoài
khơi Vũng Tàu để xin đáp. Vì có quá nhiều người, nên Mỹ đã phải xô
nhiều trực thăng xuống biển để làm bãi đáp cho các trực thăng tị nạn. Dù
việc làm trên có thiệt hại hằng triệu mỹ kim nhưng cũng đã cứu vớt đươc
nhiều chiến binh trong giờ phút cuối cùng, không còn một lựa chọn nào
khác hơn, trong khi nước đã mất.
Chuyến phi cơ trực thăng cất cánh khỏi sân thượng của tòa đại sứ Mỹ vào hồi 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 này đánh dấu sự kết thúc của chính sách “ủng hộ miền Nam Việt Nam chiến đấu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản trong vùng Đông Nam Á của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ qua 5 đời tổng thống: Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford trong hơn 20 năm. Đối với người Mỹ, cuộc chiến tranh đã chấm dứt nhưng đối với một số người Việt Nam thì cuộc chiến vẫn chưa tàn. Vào ngày 30 tháng 4, có một số chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tiếp tục chiến đấu dù rằng trong vô vọng.
Duơng Văn Minh ra lệnh đầu hàng vào lúc 10 giờ 24 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tù
phút đó, chỉ còn lại toán lính TQLC Mỹ giữ an ninh tòa đại sứ. Họ rút
hết vào bên trong tòa nhà, đóng cửa sắt và lên trên sân thượng đợi. Ðúng
7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trực thăng ngoài biển bay vào đón họ,
chấm dứt sự hiện hữu lần thứ ba của người Mỹ trên nước VN, tính tròn 21
năm , từ lúc tướng Edward Landale của CIA đặt chân tới Sài Gòn. Tình
đồng minh, đồng hướng và chiến hữu giữa VNCH cùng Hoa Kỳ, cũng chấm dứt
từ đó.
Theo
tài liệu được Mỹ công bố, thì Tòa Đại Sứ và DAO ngày 29 rạng 30-4-1975
chỉ di tản được 7014 người, phần lớn không có tên trong danh sách được
lập lúc ban đầu. Ðể hoàn thành công tác trên, người Mỹ đã sử dung trực
thăng của Sư Đoàn 7 Không Quân và Hạm Ðội 7 tại Thái Bình Dương. Suốt
thời gian chiến dịch, chỉ có một A6 bị mất tích, một trực thăng AH1J
Cobra rớt xuống biển và 2 lính TQLC Mỹ bị tử thương khi VC pháo kích vào
DAO tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Tuy người Mỹ đã chính thức rời Sài Gòn vào lúc 7 giờ 53 sáng ngày 30-4-1975 nhưng trọn ngày đó cho tới hôm sau 1-5-1975, nhiều trực thăng của Không quân VNCH khắp nơi bay tới Hàng Không Mẫu Hạm Midway, đang bỏ neo ngoài khơi Vũng Tàu để xin đáp. Vì có quá nhiều người, nên Mỹ đã phải xô nhiều trực thăng xuống biển để làm bãi đáp cho các trực thăng tị nạn. Dù việc làm trên có thiệt hại hằng triệu mỹ kim nhưng cũng đã cứu vớt đươc nhiều chiến binh trong giờ phút cuối cùng, không còn một lựa chọn nào khác hơn, trong khi nước đã mất.
Theo một tài liệu mật mà tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mô tả lại trong 2 cuốn sách: Hồ sơ mật dinh Độc Lập và Khi đồng minh tháo chạy(2005), thì số phận VNCH xem như kết thúc ngày 23.4.1975, khi Tổng thống Mỹ lúc đó là ông Gerald Ford tuyên bố một cách thẳng thừng trong một bài diễn văn tại Đại học Tulane. "Đối với Mỹ, chiến tranh VN đã kết thúc".
Trận chiến tại Cầu Tân Cảng ngày 28-4-1975
Tháng Tư rộng cửa lao tù
Nước tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau
Núi rừng người nối chân nhau
Kiếp tù lạ nhất địa cầu, thảm chưa !
Trong tù, tù chết như mơ
Ngoài tù, dân chết bên bờ biển đông
( trích thơ Ngô Minh Hằng)
Các
hình ảnh trong bài là những hình được sưu tầm trên Internet. Chân
thành cám ơn tác giả của các bức hình có trong bài viết nầy.
Nước tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau
Núi rừng người nối chân nhau
Kiếp tù lạ nhất địa cầu, thảm chưa !
Trong tù, tù chết như mơ
Ngoài tù, dân chết bên bờ biển đông
( trích thơ Ngô Minh Hằng)
Duơng Văn Minh ra lệnh đầu hàng vào lúc 10 giờ 24 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
2.http://sachhiem.net/LICHSU/F/FrankSnepp2.php
3. http://www.ttdq.de/node/521
4.http://truyengicungco.com/van-hoc-viet-nam/Khi-dong-Minh-Thao-Chay-4803/
5. http://nguoiviethaingoai.org/ditan.html
6.http://vietdethuong.com/viewtopic.php?f=123&t=93027
Trịnh Khánh Tuấn 22/12/2014
3. http://www.ttdq.de/node/521
4.http://truyengicungco.com/van-hoc-viet-nam/Khi-dong-Minh-Thao-Chay-4803/
5. http://nguoiviethaingoai.org/ditan.html
6.http://vietdethuong.com/viewtopic.php?f=123&t=93027
CHÙM ẢNH CHIẾN DỊCH" CƠN GÍO THƯỜNG LỆ"
Trịnh Khánh Tuấn 22/12/2014
Thứ Tư, ngày 17 tháng 12 năm 2014
GIÁNG SINH BUỒN NĂM 1967
VIỆT CỘNG THÃM SÁT ĐỒNG BÀO
DAK SON VÀO MÙA GIÁNG SINH 1967
DAK SON VÀO MÙA GIÁNG SINH 1967
Những người dân làng còn sống sót tại Đắk Sơn.
Hình của The Viehtam Center Archive - Jim Feltz
Hình của The Viehtam Center Archive - Jim Feltz
Lòng bỗng thấy nao nao
Vì bao xác người Thượng
Chết thãm đầy xót xa
Cách đây 47 năm, trong khi mùa vọng đã tràn về trên khắp miền đất nước VN, là mùa mà nơi nơi đều cát cao thông điệp "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm", thì trong lúc đó tại một làng người thượng gần biên giới Campuchia vào tháng 12 năm 1967, đã bị những người hoàn toàn không có thiện tâm, những con thú đội lốt người, đã ra tay sát hại một cách rất thãm thương, man rợ 252 đồng bào nơi đây. Bọn cộng sản đả dùng súng phun lửa, lựu đạn để đốt và sát hại đàn bà con nít rất tàn nhẫn.
Đây là một cuộc tàn sát đồng bào thiểu số người "thượng" vào ngày 5 tháng 12 năm 1967 man rợ nhất trong chiến tranh Việt Nam lúc bấy giờ.https://www.youtube.com/watch?v=5AVyShH3RaU
Một em bé bị thương vì cháy tại Đắk Sơn đang được một bệnh nhân khác
tại bệnh viện Sông Ba, cõng tới chổ nghĩ ngơi tạm thời.
xác chết la liệt khắp nơi trong làng
Xác
người dân Thượng (Montagnard) bị giết tại Đắk Sơn được bọc lại để sửa
soạn đem chôn. Những xác này tìm được từ một căn hầm trú ẩn.
Hình của The Vietnam Center Archive -Jim Feltz
Hình của The Vietnam Center Archive -Jim Feltz
Xác chết dân làng nằm rải rác khắp nơi thân thể bị đốt cháy
Trẻ em bị thương nặng được băng bó
Hình của Jim Feltz
Trẻ con bị giết rất thương tâm
Xác chết dân làng Đắk Sơn nằm la liệt khắp nơi.
Làng Dak Son bị bọn người khát máu phá huỹ sau khi rút lui
Trái đạn B41 bỏ lại làng.
Hình của Jim Feltz
Làng Đắk Sơn bị thiêu hủy (Hình chụp một tuần sau đó)
Dak Son nằm dưới chân một vùng đồi núi cách biên giới Campuchia khoảng 50 km. Nơi đây đã được VNCH xây dựng cho khoãng 800 người Thượng.
Quân đội Bắc Việt đã cho đó là làng chống cộng và đã giúp đỡ cho những người tị nạn gốc thượng khác trốn khỏi các vùng do cộng sản kiểm soát, nên đã ra tay giết hại họ để trã thù rồi đổ lỗi do quân Mặt Trận Giải Phóng làm. Đây là một tội ác diệt chủng chống lại nhân loại mà cộng sản không thế chối cải được, vì chỉ có các tiểu đoàn quân chính qui Bắc Việt mới được trang bị súng phun lửa, đặc biệt là trung đoàn 88 thuộc sư đoàn 308 cộng sản, được trang bị súng phun lửa, đó là loại súng mà quân Giải Phóng Miền Nam không được trang bị. Theo Wikipedia, thì cuộc thãm sát nầy do quân giãi phóng thãm sát (?), nếu viết như Wiki. chính là lối viết chạy tội cho quân đội cộng sản Bắc Việt thuộc trung đoàn 88, rồi dồn hết tội lên đầu quân MTGPMN. Giống như hcm, núp sau những bút hiệu khác nhau để viết những bài báo cổ võ cho chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu tại miền bắc từ năm 1953-1956, dám làm mà không dám nhận, thật hèn!
Theo Charles Krohn, một sĩ quan tình báo Hoa Kỳ trích dẩn tài liệu của Douglas Pike, nhà sử gia về Chiến tranh Việt Nam, trước đó là nhân viên Phòng Thông tin "USIS" (Đơn vị Tâm lý chiến Hoa Kỳ), theo đó khoảng từ 300 cho tới 600 binh lính đã vào làng, khoảng 50 cho tới 60 người đã dùng súng phóng lửa và lựu đạn để đốt nhà và sát hại dân Dak Son. Một số người đã bị chết thiêu trong nhà, một số khác trốn dưới hầm bị chết ngạt vì thiếu oxy. Những căn nhà không bị cháy thì bị phá hủy bằng lựu đạn. Trước khi rời khỏi làng, họ đã bắn chết 60 người trong số 200 người còn sống sót bị bắt. Số còn lại bị bắt theo vô rừng. Theo tài liệu của USIS thì phía VNCH đã tìm được xác 252 người, 70% là đàn bà và trẻ con, nguồn của Kenneth Gee thì ghi là 10 người lính gác bị bắn chết, thêm 114 dân làng, hầu hết là đàn bà và trẻ em bị lựu đạn và súng phun lửa giết chết, số khác thì chết vì ngộp trong các hầm, khi làng bị phóng hỏa đốt cháy.
Đây là hành động rất dã man của cái gọi là Quân Đội Nhân Dân, được đảng lồng cho một cái tên để lường gạt nhân dân 2 miền nam và bắc, đó là "quân giải phóng miền nam". Làng Dak Son, không phải là vị trí quân sự chiến lược để cộng quân đem cã trung đoàn tới đánh chiếm, làng nầy chỉ thuần là một là một nơi sinh sống của dân tộc thiểu số, đó là những người đã trốn chạy từ trong các vùng bị việt cộng kiễm soát, vì họ không thể sống được với loài thú đội lốt người nầy, nên tìm về với chính phủ VNCH để được bình yên. https://www.youtube.com/watch?v=5qTbVRdkoRE
Đoàn quân man rợ thuộc trung đoàn 88 nầy, đã xã súng phun lửa thiêu đốt sự bình yên, hạnh phúc trong tự do của đồng bào trong mùa chúa giáng sinh. Đến khi hết nhiên liệu để phóng hoả, thì chúng dùng lựu đạn ném vào làng để giết tận gốc những đồng bào trong làng nầy.https://www.youtube.com/watch?v=B7AzA-AU5Y4
Có khoãng 60 người trốn dưới hầm, quân khát máu nầy đã lôi lên hầm và xử tử ngay tại chổ. Đây là tội ác trời không dung đất không tha, mà chúng luôn bưng bít thông tin cho đến ngày hôm nay.
Cám ơn Internet đã đến với nhân loại, nên tội ác của những tên chỉ huy Trung Đoàn 88 thuộc Sư Đoàn 308 của QĐND nầy cần phải phơi bày ra ánh sáng, để nhân dân thấy bộ mặt ác thú của chúng, còn với quân thù xâm lăng thì nhu nhược để lộ bản mặt hèn, khiếp nhược trước quân xâm lược tàu cộng. Xem hình ảnh mà csVN gọi là " Hải chiến 1988 tại đảo Gạc Ma" để thấy, hành động nhu nhược của quân đội nhân dân trước kẻ thù. Đưa thân mình ra làm bia cho đạn của Tàu cộng nã vào thân mình để gọi là bảo vệ chủ quyền đảo Gạc ma(?), những chiến sĩ đã hy sinh theo chỉ thị ngu xuẩn của các người chỉ huy của họ, xin mời xem cách bảo vệ chủ quyền biển đảo một cách lạ lùng của quân đội nhân dân trước lằn đạn quân xâm lược Tàu Cộng:https://www.youtube.com/
Cộng sản hãy trã lời với nhân VN:
1. Những đàn bà con nít bị quân đội ND thuộc trung đoàn 88, Sư Đoàn 308 Bắc Việt giết chết vào tháng 12 năm 1967, vậy những người bị giết nầy họ có phải là thành phần ác ôn hay không?? Nhũng người đã trực tiếp tham dự cuộc thãm sát nầy, nghĩ như thế nào về thành tích mà họ gọi là giải phóng miền nam??
2. Trên vùng dân thượng sinh sống tại Dak Son, người dân tại đây họ gần gủi với thiên nhiên, họ mặc khố, mình trần, một mảnh vãi đẹp để che thân còn chưa có, và trong số những xác chết, không thấy người nào bận quân phục của QL.VNCH. Vậy sao họ lại phải chịu bản án tử hinh rất cay độc của quân giải phóng miền nam/??
Những tên tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng trung đoàn 88A, những tên tư lệnh và chính uỷ sư đoàn 308, là người phải chịu trách nhiệm trực tiếp với nhân dân tại làng Dak Son, và phải chịu hình phạt do công lý phán xét về hành động sói lang của các thuộc cấp mình tại Dak Son ngày 5.12.1967. Họ là những tên chĩ huy trách nhiệm trong thời gian làng Dak Son xãy ra vụ thãm sát.
- Nguyễn Kiện - Chính uỷ Sư đoàn 308 từ 1966-1969
- Vũ Yên - Tư lệnh Sư đoàn 308 từ 1954-1955; 1959-1963; 1966-1968
Truy tìm vết tích của trung đoàn 88 CS BẮC VIỆT
Theo tin các tin tức tình báo của Việt Mỹ và những hiện vật còn sót lại tại Dak Son cho thấy đám ác ôn đã tham dự cuộc thãm sát man rợ nầy chính là trung đoàn 88.
Trích nguồn thứ nhất về trung đoàn 88:
"Từ Sư đoàn 308, ngày 31/05/1965, được trên điều động Trung đoàn đã vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu với phiên hiệu Trung Đoàn 88A. Trong những năm chiến trường Trung đoàn 88A đã từng chạm trán với hầu hết các đơn vị thiện chiến của Mỹ như: Sư đoàn số 01, số 04, Sư đoàn 101 (Anh cả đỏ), Sư đoàn 25 (Tia chớp nhiệt đới)... Liên tục 10 năm trên chiến trường Miền Nam, Trung đoàn đã có mặt khắp các mặt trận từ Trị Thiên đến Tây Nguyên..." hết trích
Trích nguồn thứ hai về trung đoàn 88:
"một vinh dự lớn đến với trung đoàn 88 được là một trong những trung đoàn đầu tiên được lựa chọn giao nhiệm vụ vượt trường sơn vào sát cánh cùng quân giải phóng miền nam chiến đấu .từ cái nôi của sư đoàn 308-quân tiên phong,trung đoàn được bổ sung thêm quân và ngày 31/12/1965 nhân thành hai trung đoàn :một trung đoàn vược trường sơn vào nam chiến đấu mang số hiệu trung đoàn 88 A.một trung đoàn ở lại làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của bộ trong đội hình sư đoàn 308 mang số hiệu trung đoàn 88 B.
Tiếp tục phát huy truyền thống Tu Vũ - Quân tiên phong, cả 2 trung đoàn hoàn thành xuất saức nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Trung đoàn 88B (F308) ngoài việc huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ, còn "ăn cơm bờ Bắc, đánh giặc bờ Nam" trong 3 chiến dịch lớn:
1, Chiến dịch Khe Sanh 1968; đã 2 lần tiến công quân địch đóng trên cao điểm Phu Nhoi, xáo sổ tiểu đoàn 3, trung đoàn lích thủy đánh bộ Mỹ.
2. Chiến dịch đườn 9 - Nam Lào 1971; tiêu diệt địch trên cao điểm 500 xóa sổ tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn dù Ngụy.
3. Chiến dịch Quảng Trịn 1972: tham gia giải phóng Đông Hà, làm nhiệm vụ thọc sâu vào Hồ Lầy - Đá Bạc, chốt dữ 80 ngày đêm tại Tây Nam thành cổ Quảng Trị.
Trung đoàn 88A đã tác chiến 10 năm liên tục trên các chiến trường miền Nam từ 1966 đến năm 1975. Trung đoàn tham gia tổng tiến công tết Mậu thân trên địa bàn Củ Chi, Hóc Môn, Bến Cát,...." Hết trích
Tiếp tục phát huy truyền thống Tu Vũ - Quân tiên phong, cả 2 trung đoàn hoàn thành xuất saức nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Trung đoàn 88B (F308) ngoài việc huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ, còn "ăn cơm bờ Bắc, đánh giặc bờ Nam" trong 3 chiến dịch lớn:
1, Chiến dịch Khe Sanh 1968; đã 2 lần tiến công quân địch đóng trên cao điểm Phu Nhoi, xáo sổ tiểu đoàn 3, trung đoàn lích thủy đánh bộ Mỹ.
2. Chiến dịch đườn 9 - Nam Lào 1971; tiêu diệt địch trên cao điểm 500 xóa sổ tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn dù Ngụy.
3. Chiến dịch Quảng Trịn 1972: tham gia giải phóng Đông Hà, làm nhiệm vụ thọc sâu vào Hồ Lầy - Đá Bạc, chốt dữ 80 ngày đêm tại Tây Nam thành cổ Quảng Trị.
Trung đoàn 88A đã tác chiến 10 năm liên tục trên các chiến trường miền Nam từ 1966 đến năm 1975. Trung đoàn tham gia tổng tiến công tết Mậu thân trên địa bàn Củ Chi, Hóc Môn, Bến Cát,...." Hết trích
Trích nguồn thứ ba về trung đoàn 88:
Tổ chức sư đoàn 308
- Trung đoàn 102 với tên truyền thống là Trung đoàn Thủ Đô
- Trung đoàn 36 với tên truyền thống là Trung đoàn Bắc Bắc
- Trung đoàn 88 với tên truyền thống là Trung đoàn Tu Vũ
Trung đoàn 88 Tu Vũ (lấy tên từ trận đánh cứ điểm Tu Vũ - trận mở màn chiến dịch Hoà Bình năm 1952):Trung đoàn được thành lập ngày 1/7/1949, tại xóm Gò Pháo, xã Tân Cương (T.P Thái Nguyên). Trung đoàn 88 gồm các Tiểu đoàn 23, 29, 28, 322.
Trung đoàn trưởng: Nguyễn Thái Dũng, Chính ủy: Đặng Quốc Bảo. Ngay sau
khi thành lập, Trung đoàn đã lập công xuất sắc trong 10 chiến dịch lớn
do Bộ Tổng tư lệnh mở trên các chiến trường chính Bắc Bộ trong kháng
chiến chống Thực dân Pháp." Hết trích
Căn cứ vào 3 nguồn kể trên, cho thấy lực lượng cộng quân có mặt tại cuộc thãm sát tại Dak Son tháng 12 năm 1967 là trung đoàn 88A, thuộc Sư Đoàn 308 là chính xác ( Sư đoàn nầy gồm có : Trung đoàn 102, Trung đoàn 36 Bắc Bắc và Trung Đoàn 88). Trung đoàn
88 có 3 tiểu đoàn, đó là 23, 29 và 322, hai trong ba tiểu đoàn đã là
những tên sát nhân khát máu trực tiếp tham dự vào cuộc thãm sát tại Dak
son.
Đây
là một trong những bằng chứng tiêu biểu cho hàng ngàn, hàng trăm
ngàn tội ác của csVN trong cuộc chiến đã qua. Cs VN đã không từ chối bất
cứ thủ đoạn phi nhân nào để hoàn thành cuộc chiến xâm lược miền nam VN. Cái mà chúng gọi là " bạo lực cách mạng trong chiến tranh giải phóng". Bác và đảng đã nhét vào hàng trang của các thanh niên trong QĐND là sự dã man và tàn ác với nhân dân miền nam. Trên nòng súng của họ đều mang chủ nghĩa căm thù được đảng và bác trao cho QĐND trước khi lên đường vào nam.
Để
cho oan hồn 252 người sắc tộc được yên nghĩ, xin mọi người hãy tiếp tay
phơi bày những sự thật về hành động khát máu nầy và tiếp tay để thiết
lập hồ sơ, đưa những tên tội phạm chiến tranh chống nhân loại nầy ra trước toà án hình sự quốc tế ( International Criminal Court, tiếng Pháp: Cour Pénale Internationale; thường được gọi là các ICC hoặc ICCt). Là một tòa án thường trực để truy tố các cá nhân phạm tội ác diệt chủng, tội ác chống lại loài người, tội ác chiến tranh, và tội ác xâm lược.Tòa này ra đời vào ngày 01 tháng 7 2002-ngày hiệp ước thành lập, Quy chế Roma về Toà án Hình sự Quốc tế, hiệu lực và nó có thể truy tố tội phạm vào ngày hoặc sau ngày đó. Trụ sở chính thức của tòa án là ở Den Haag, Hòa Lan, nhưng các tố tụng hình sự của tòa có thể diễn ra bất cứ nơi nào.. Tính đến tháng 6 năm 2011, 114 quốc gia là thành viên của tòa án. Website của Toà Án Hình Sự là: http://www.icty.org/
ICC ở Den Haag-Hoà Lan
Hình ảnh trong bài viết nầy là được sưu tầm từ trên Internet, cám ơn các tác giã nhũng bức hình kể trên.
Trịnh Khánh Tuấn
17.12.2014
17.12.2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét