TÀI LIỆU
Công ước Genève về đối xử nhân đạo đối với tù binh, hàng binh chiến tranh
Công ước Genève về đối xử nhân đạo đối với tù binh, hàng binh chiến tranh là công ước về các quy tắc mà các nước đã phê chuẩn hoặc chưa phê chuẩn được khuyến cáo tuân theo khi đối xử với tù binh, hàng binh chiến tranh và dân thường trong vùng chiếm đóng.
Sự cần thiết
Lịch sử loài người gần như là lịch sử của các cuộc xung đột liên miên giành đất đai, tài sản, quyền lực giữa các phe nhóm, dân tộc và không tránh khỏi việc có nhiều người bị tổn hại tính mạng, tài sản, danh dự hoặc bị truy bức, chiụ nhục hình như các tù binh, hàng binh, dân thường trong vùng bị chiếm đóng. Để giảm bớt các tổn hại mà người của các bên đều gặp phải trong các cuộc xung đột, một số nước ở châu Âu đã lập ra công ước Genève và sau này nó được nhiều nước khác tham gia, phê chuẩn.
Các khái niệm
Tù binh chiến tranh là những quân nhân bị bắt khi tham gia chiến đấu trong một cuộc chiến giữa các bên.
Hàng binh chiến tranh là quân nhân đầu hàng trong một cuộc chiến giữa các bên.
Trong một cuộc chiếm đóng, một số người lính hoặc dân theo một tổ chức hoặc nhóm chống đối sự chiếm đóng bằng vũ lực không có đồng phục, phù hiệu, biên chế cụ thể còn gọi là các du kích vẫn được hưởng quy chế đối xử nhân đạo như là tù binh và hàng binh chiến tranh khi bị bắt hoặc đầu hàng lực lượng chiếm đóng.
Nội dung
Đối xử nhân đạo với tù binh và hàng binh chiến tranh là các hướng dẫn về việc bảo toàn an toàn tính mạng, danh dự, phẩm giá tù binh và hàng binh. Nó bao gồm các khuyến cáo về việc trợ giúp cứu chữa cho người bị thương; các hành vi bị khuyến cáo không được phép dùng để truy bức về tinh thần và thể xác; các hình thức, các nhục hình và các lời nói làm xúc phạm đến nhân phẩm người bị bắt hoặc xúc phạm niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng hoặc lý tưởng người bị bắt; các khuyến cáo về việc không được dùng tù binh và hàng binh làm con tin hoặc bia đỡ đạn, hoặc lao động khổi sai... các hướng dẫn về việc sinh hoạt tối thiểu của người bị bắt về vệ sinh, lương thực, thuốc men, thực phẩm tuỳ theo điều kiện cho phép của các bên và tình hình chiến trường.
Công ước Genève cũng khuyến cáo các hành vi của lực lượng chiếm đóng đối với dân thường trong việc nhanh chóng lập lại trật tự xã hội, đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của dân thường và việc cung cấp các phương tiện sống căn bản và chăm sóc y tế căn bản cho nạn nhân chiến tranh.
Công ước Genève cũng xác định các quyền lợi và nghĩa vụ của lực lượng chiếm đóng trong việc được tiếp tục sở hữu các tài sản và quyền lợi của chính quyền cũ về cơ sở hạ tầng và cơ sở kinh tế nhưng lực lượng chiếm đóng phải gánh chịu các nghĩa vụ nợ của chính quyền cũ, kể cả các món nợ lương và lương hưu của các nhân viên dân sự phục vụ chính quyền cũ hoặc các món nợ kinh tế vay từ bên ngoài không phục vụ trực tiếp cho chiến tranh.
Thực hiện
Tuy rằng có phê chuẩn và mở rộng các khái niệm giúp cho các đối xử với tù binh, hàng binh và dân thường trong vùng bị chiếm đóng có tốt hơn, nhân đạo hơn so với trước khi có Công ước nhưng Công ước này chỉ được các bên thực hiện theo tình hình thực tế chiến trường và phần nào theo ý thức của cấp chỉ huy cũng như binh lính.
Phát xít Đức
Sau khi mở rộng khái niệm về lực lượng du kích người Đức đã xem các thành viên lực lượng này khi bị bắt là tù binh hoặc tù binh nhưng có nhiều nguồn cho thấy quân đội phát xít Đức đã không tuân thủ nghiêm Công ước và đã dùng nhục hình, ép buộc lao động khổ sai và giết hại tù binh Liên Xô cũng như các tù binh của nước đồng minh khác như trong các vụ Thảm sát tại Malmédy, Thảm sát tại Boves,
Phát xít Nhật
Quân đội Phát xít Nhật bị xem là vi phạm Công ước khi tàn sát thường dân ở Nam Kinh trong vùng họ chiếm đóng, họ cũng bị xem là vi phạm nghiêm trọng Công ước Genève khi tiếp tục chính sách nhổ lúa trồng đay của Chính quyền thực dân Pháp đồng thời không tổ chức vận chuyển lương thực từ miền Nam ra Bắc đúng mức, bàng quang trước cái chết của gần 2 triệu người dân Việt trong Nạn đói Ất Dậu, họ được nhiều người biết đã truy bức, nhục hình và buộc lao động khổ sai các tù binh người da trắng trong các trại ở Thái Lan, Miến Điện khi thi công tuyến đường sắt qua sông Kwai[cần dẫn nguồn].
Liên Xô
Tập tin:Cheka 18-1.jpg
Nhân viên Mật vụ Cheka đang làm nhiệm vụ
Học giả Nicolas Werth cho biết chỉ trong 2 tháng năm 1918, số nạn nhân bị giết của tân chế độ Lenin là từ 10.000 đến 15.000. Con số này lấy từ báo cáo của Mật vụ Cheka, sau khi tác giả ghi lại các huấn thị của chính Lenin về việc phải trừng phạt những kẻ bất phục tùng được gọi là những "tên Gulaks. Dù vậy, số người bị giết ở mức ước lượng tối thiểu trong chỉ 2 tháng dưới chế độ Lenin đã nhiều gấp hơn 10 lần so với số nạn nhân của chế độ Nga Hoàng trọn năm 1906 là năm đàn áp dữ dội nhất do phản ứng chống cuộc cách mạng 1905. Theo tác giả trong vòng gần một thế kỷ dưới chế độ Nga hoàng kể từ 1825 đến 1917, tổng số người bị giết chỉ có 6.321 nạn nhân. Số người bị tống vào tù dưới chế độ Lenin thì trong 2 năm từ 1919 tới 1921 đã tăng từ 16 ngàn lên 70 ngàn không kể nhiều trại tù địa phương có nơi lên tới 50 ngàn trong mùa thu 1921[1].
Tại Estonia, ngày 14 tháng 1 năm 1920, trước khi rút lui vì thất bại, Hồng quân giết 250 người tại Tartu và hơn 1000 người tại Rakvere. Khi Wesenburg được giải phóng vào ngày 17 tháng 1 năm 1920, người ta khám phá ra 3 mồ chôn tập thể với 86 tử thi. Tại Tartu, các con tin bị bắn ngày 26 tháng 12 năm 1919 sau khi bị đập gẫy tay chân và có người bị khoét mắt. Ngày 14tháng 1 năm 1920, nhóm Bolshevik chỉ kịp giết 20 người trong số 200 người bị giam giữ ở Tartu. Tổng giám mục Plato bị giết vào dịp này nhưng "bởi vì những nạn nhân đã bị đánh túi bụi bằng búa rìu và báng súng nên cực kỳ khó khăn để nhận diện"[2].
Liên Xô là một nước có phê chuẩn công ước này nhưng cũng có nguồn cho rằng quân đội Liên Xô cũng có giết hại tù binh Đức hoặc tù binh Ba Lan.
Sau việc sáp nhập Ba Lan năm 1939, hàng ngàn sỹ quan Ba Lan gồm cả quân dự bị, đã bị hành quyết vào mùa xuân năm 1940, trong cái sau này được biết đến là cuộc Thảm sát Katyn.
Xô Viết còn quyết tâm trừng phạt những kẻ mà họ cho là hợp tác với Đức trong chiến tranh. Hàng triệu người Ba Lan, Latvia, Gruzia, Ukraina và các sắc tộc thiểu số khác bị trục xuất tới các Gulag ở Siberi, vào khoảng 13 triệu vào năm 1953 và giảm còn 5 triệu vào năm 1956-1957. Trong tổng số 12,4 triệu thường dân Liên Xô chết trong Đệ nhị Thế chiến, từ 2,5 cho tới 3,2 triệu người đã chết không phải do sự chiếm đóng của quân Đức mà do sự trả thù của chính quyền Xô viết với những người họ cho là đã cộng tác với quân Đức của chính quyền Xô viết[3]
Có tới 600.000 thường dân tại 3 quốc gia ven biển Baltic là Latvia, Lithuania và Estonia[4], 2 triệu rưỡi người Ba Lan[5], 80.000 người Tiệp Khắc cùng 300.000 người Romania đã bị bắt giữ, tù đày hoặc sát hại bởi lực lượng Liên Xô[6]
Trung Quốc
Trong trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 một số tù binh Việt Nam Cộng hòa đã được Trung Quốc giao trả qua Hội chữ thập đỏ Hồng Kông. Trung Quốc cũng đã bị phê phán vi phạm Công ước trong cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979 khi họ đâp phá trường học, bệnh xá, đâm lủng nồi, đổ thuốc độc xuống giếng nước, nhằm mục đích gây khó khăn cho cuộc sống 3,5 triệu người dân thường Việt Nam ở vùng biên giới. Việc cản trở cứu nạn các chiến sỹ hải quân của Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở quần đảo Trường Sa sau khi bị Trung Quốc bắn chìm tàu cũng được xem là cố ý vi phạm công ước này[7]..
Việt Nam Cộng hoà
Theo thống kê, trong thời gian từ 1955 đến 1960, với các biện pháp đàn áp và củng cố quyền lực trong tay chính quyền Ngô Đình Diệm, đã ít nhất là có 24.000 người bị thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500.000 bị đưa đi các trại tập trung.[8]. Đặc biệt là Đạo luật 10-59 nhằm triệt hạ những cán bộ Việt Minh và kháng chiến cũ với những cách thức tử hình thời trung cổ như chém đầu công khai.
Việt Nam Cộng hoà không có chủ trương giết hại tù binh nhưng trong thực tế đã có sự giết hại tù binh, truy bức nhục hình ở Nhà lao Cây Dừa , đảo Phú Quốc trong Chiến tranh Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Các dãy Chuồng cọp và các dụng cụ tra tấn ở Côn Đảo hiện vẫn được lưu giữ như chứng tích về tội ác chiến tranh. Vụ tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn chết tù binh ngay giữa đường phố cũng từng gây chấn động thế giới. Nhưng quan điểm của Việt Nam Cộng hoà về các du kích, lính biệt động thành của Quân Giải phóng miền Nam cũng không rõ ràng. Toà án Việt Nam Cộng hoà đã xử tử hình Nguyễn Văn Trỗi mà không xem đó là tù binh chiến tranh do anh ta không mặc quân phục và việc đánh bom ám sát Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mc Namara được coi là hành vi khủng bố, dù trước đó họ đã có thỏa thuận trả tự do cho anh Trỗi để đổi lấy một Đại tá Mỹ bị du kích Venezuela bắt giữ.
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Theo Jean Louis Margolin, tác giả này xác nhận là không có tắm máu trong ngày phe Cộng sản đánh chiếm Sài Gòn nhưng sau đó đã đưa ra con số 200 ngàn người bị giam giữ theo xác nhận của Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên về việc này, tác giả ghi thêm: "Những ước tính nghiêm chỉnh nói từ 500 ngàn đến một triệu tù nhân trong tổng số dân là 20 triệu"[9].
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nước đã phê chuẩn Công ước và Chính phủ Hoa Kỳ có ý thức bảo vệ công ước này cũng như chịu sự theo dõi của báo chí Hoa Kỳ cũng như Hội chữ thập đỏ quốc tế về việc thực hiện Công ước. Nhưng trong Chiến tranh Việt Nam binh lính Hoa Kỳ đã không nghiêm chỉnh chấp hành công ước, đã có bằng chứng về sự giết hại tù binh, hàng binh chiến tranh cũng như giết hại dân thường trong vùng họ chiếm đóng. Nhìn chung quân lính Hoa Kỳ, hoặc không phân biệt được du kích và dân thường, hoặc do tâm lý ám ảnh giết chóc và hoảng loạn nên đã giết nhiều dân thường vô tội ở các nơi trên thế giới. Tiêu biểu là Thảm sát Mỹ Lai bị vạch trần bởi cuộc điều tra độc lập của một nhà báo. Rút kinh nghiệm làn sóng phản chiến tại Việt Nam do các hành động tàn nhẫn của lính Mĩ bị phơi bày, chính phủ Mĩ đã có những biện pháp nhằm hạn chế các nhà báo tại các vùng chiến sự ở Iraq.
Không quân Hoa Kì cũng thường xuyên ném bom giết hại dân thường. Trong cuộc không kích Dredsen, ước tính có từ 50 tới 300 ngàn thường dân bị giết hại. Trong cuộc Ném bom Tokyo 1945, bom Napan giết hại hơn 200 ngàn dân thường Nhật. Đặc biệt là 2 vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki với tổng số nạn nhân bị chết là 250 ngàn, đa số là dân thường. Trong các vụ ném bom thuộc chiến dịch Sấm rền, ước tính đã có khoảng 72.000 dân thường bị chết
Ngày 13 tháng 1 năm 2001 trong cuộc Chiến tranh chống khủng bố lần đầu tiên sau Đệ nhị thế chiến, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush ký lệnh thiết lập tòa án quân đội để xét xử người nước ngoài nào bị nghi ngờ có liên hệ với kế hoạch khủng bố tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không công nhận các "chiến sỹ tử vì đạo" của các Tổ chức chiến đấu Hồi giáo hoặc các tổ chức mà Chính phủ Hoa Kỳ xác định là tổ chức khủng bố là các quân nhân hoặc du kích vì vậy các đối tượng này không được hưởng các chế độ dành cho tù binh, hàng binh của Hoa Kỳ, họ bị giam giữ không thông qua xét xử ở Guatanamo (Cuba) hoặc chuyên chở qua một số nước Châu Âu để giam trong các nhà tù bí mật mặc dù một phần trong số đó bị bắt trên chiến trường, có vũ khí, có tổ chức[cần dẫn nguồn]. Vụ bê bối nhà tù Guantanamo với việc binh lính Mĩ tra tấn và lăng nhục tù nhân, cùng với các cáo giác rằng CIA đã tra tấn các tù nhân ở châu Âu đã trở thành chủ đề tranh cãi lớn trên thế giới.
Anh
Chính phủ Anh đã phê chuẩn Công ước Genève nhưng quân lính của Hoàng gia Anh cũng bị phê phán là đã không chấp hành đúng công ước này trong khi cai trị các thuộc địa Anh. Chính phủ Hoàng gia Anh đã bị nhà thơ Rabindranath Tagore, người đạt được giải Nobel văn chương 1913 phản đối vì vi phạm công ước khi trong cuộc cuộc thảm sát Jaliyaanwala Bagh, Amritsar, Ấn Độ vào năm 1919, lính Anh đã nã súng vào nhóm thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội.
Ngoài ra, Chính phủ Anh lại có cách hiểu tương tự Hoa Kỳ về cái gọi là "phần tử khủng bố". Một số thành viên của các tổ chức mà bị Chính phủ Anh liệt vào danh sách khủng bố hoặc một số người dân có các hành vi gây ra nghi ngờ là khủng bố có thể bị Cảnh sát Anh bắn chết ngay tại chỗ dù đã bị bắt. Những người này không được Chính phủ Anh xem là tù binh và hàng binh chiến tranh thậm chí trong trường hợp khi bị bắt họ có vũ khí và họ hành động có tổ chức. Chính phủ Anh đã bị báo chí tố cáo là ngầm cho phép các chuyến bay chở các nghi phạm khủng bố của Hoa Kỳ bay qua không phận Anh mà không xem xét tư cách của các người này vì rằng họ chưa qua xét xử tức không phải là tù nhân chiến tranh, họ cũng không phải là tù binh chiến tranh[cần dẫn nguồn].
Ngày nay nhiều nước phê chuẩn và mở rộng các khái niệm về tù binh và hàng binh chiến tranh, có nước quy định việc dùng tù binh hoặc dân thường làm bia đỡ đạn là tôi phạm chiến tranh, có nước còn nghiêm cấm việc đưa hình ảnh của tù binh có ý bôi bác nhân phẩm hoặc làm thay đổi cách nhìn của người dân lên báo chí, phim ảnh hoặc mạng Internet, có nước nghiêm cấm việc đưa các hình ảnh có cảnh hành hạ thi thể tù binh.
Nhưng chừng nào còn có xung đột, mâu thuẫn mà các bên không phổ biến công khai, rộng rãi nội dung của công ước này; không tổ chức học tập công ước đến tận người lính, người dân thường, thì việc vi phạm công ước lại càng dễ dàng xảy ra.
Đặc biệt là khi có sự chênh lệch lớn về lực lượng, trình độ vũ khí của các bên thì tù binh, hàng binh và người dân thường của bên mạnh hơn lại càng ít được công ước này bảo vệ, họ trở thành con tin và vũ khí tuyên truyền của bên yếu thế hơn.
Công Ước Genéva và Hiệp Định về vấn đề phần mộ:
Clip phim youtube "Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà - Quốc Hận 30/4/1975 Phần II", có ghi lại những phần như sau :
- Công Ước Genéva được ký ngày 12/08/1949, Chương III, Điều 120, và Điều 121: nói về trách nhiệm chôn cất tù binh và bảo vệ phần mộ của các phe lâm chiến.
- Hiệp Định Genéva ngày 20/07/1954, Điều 23 : xác nhận trách nhiệm bảo toàn phần mộ của các tử sĩ đối phương trong lãnh thổ chiếm đóng.
- Hiệp Định Hòa Bình Paris ký ngày 17/01/1973, Điều 8 : cũng ghi rõ nhiệm vụ bảo vệ và gìn giữ phần mộ của tử sĩ phe đối địch.
Để minh xác cho sự thật, chúng ta thử duyệt qua những trích đoạn trong Công Ước, Hiệp Định nêu trên, để một lần nữa không-còn-nghi-ngại đó là cách ngụy biện của kẻ thua cuộc bày ra.
1. Công Ước ngày 12/08/1949 :
Đây là Công Ước quốc tế lần thứ tư định nghĩa một cách rộng rãi về những quyền cơ bản của tù nhân chiến tranh (dân sự và quân nhân) trong chiến tranh, thành lập sự bảo vệ cho những người bị thương tích và dân sự trong vùng chiến, kể cả những nầm mồ, hài cốt của người tham chiến hay không dự phần. Công Ước nầy được những nước là thành viên của Liên Hiệp Quốc ứng dụng trong thực thi lòng nhân đạo nhằm xoa dịu phần nào những đau thương, thống khổ, và mất mát trên cả hai phần của con người : vật chất/ (thể chất) và tinh thần. Dù trong chiến tranh, người ta cố gắng bảo vệ lý tưởng nào đó, nhưng trong đoạn kết, ngay cả kẻ chiến thắng cũng cảm thấy quá mõi mệt để đeo đuổi nó, khi nhìn lại những xác chết, nấm mồ của bạn-và-thù chưa từng quen biết.
Nguồn trên trang mạng http://www.icrc.org có đăng toàn bộ Công Ước. Trong Phần IV: Mức hạn của sự giam cầm, Mục III: Sự tử vong của các tù nhân chiến tranh, và…
a. Điều 120 có những đoạn như sau :
"… The burial or cremation of a prisoner of war shall be preceded by a medical examination of the body with a view to confirming death and enabling a report to be made and, where necessary, establishing identity.
The detaining authorities shall ensure that prisoners of war who have died in captivity are honourably buried, if possible according to the rites of the religion to which they belonged, and that their graves are respected, suitably maintained and marked so as to be found at any time. Wherever possible, deceased prisoners of war who depended on the same Power shall be interred in the same place.
Deceased prisoners of war shall be buried in individual graves unless unavoidable circumstances require the use of collective graves."
Tạm dịch : "… Việc chôn cất hoặc hỏa táng một tù sẽ được tiến hành sau một cuộc kiểm tra y tế trên thể xác với sự thẩm định để xác nhận về sự tử vong và cho phép làm bản báo cáo và, khi cần thiết, xác minh sự nhận dạng
Các nhà chức trách giam giữ sẽ phải bảo đảm rằng các tù binh, những người đã tử vong trong sự giam cầm, được chôn cất một cách vinh dự, nếu có thể, theo các nghi thức của tôn giáo của họ, và phần mộ của họ được tôn trọng, duy trì một cách phù hợp và đánh dấu để có thể tìm lại được trong bất kỳ thời gian nào. Bất cứ khi nào có thể, những tù binh quá cố, những người dựa vào cùng chính quyền sẽ được táng cùng một nơi.
Những tù binh quá cố sẽ được chôn trong những phần mộ riêng lẽ, trừ khi trong hoàn cảnh không thể tránh được, đòi hỏi phương cách của ngôi mồ tập thể."
Trong trích đoạn của Điều 120 ở trên, có nhắc đến trách nhiệm của nhà chức trách trong tinh thần nghĩa vụ quốc tế về sự chôn cất, bảo vệ phần mộ đối phương, và "lòng cao thượng" của họ nên được thể hiện qua sự tôn trọng những chiến binh quá cố, sự đồng cảm về tình đồng đội. Và để nhấn mạnh thêm về trách nhiệm chăm sóc phần mộ là của nhà cầm quyền, phần cuối của Điều khoản viết :
"… Responsibility for the care of these graves and for records of any subsequent moves of the bodies shall rest on the Power controlling the territory, if a Party to the present Convention"
Tạm dịch : "… Trách nhiệm cho việc chăm sóc các phần mộ và hồ sơ của bất kỳ sự xê dịch xác chết tiếp theo sau đó sẽ vẫn là của nhà cầm quyền đang kiểm soát lãnh thổ, nếu nhóm đảng tham gia Công Ước này."
b. Điều 121 có đoạn :
"Every death or serious injury of a prisoner of war caused or suspected to have been caused by a sentry, another prisoner of war, or any other person, as well as any death the cause of which is unknown, shall be immediately followed by an official enquiry by the Detaining Power
… If the enquiry indicates the guilt of one or more persons, the Detaining Power shall take all measures for the prosecution of the person or persons responsible."
Tạm dịch : "Mỗi cái chết hoặc sự chấn thương nghiêm trọng của tù binh bị xãy ra hoặc nghi ngờ rằng đã bị gây ra bởi lính gác, tù binh khác, hoặc bất kỳ người nào khác, cũng như bất kỳ cái chết nào từ nguyên nhân chưa được biết, sẽ phải được theo dõi ngay lập tức bởi công cuộc điều tra chính thức của nhà cầm quyền."
… Nếu cuộc điều tra chỉ rỏ tội của một hoặc nhiều người, nhà cầm quyền sẽ phải tiến hành các biện pháp truy tố cá nhân hoặc những người có trách nhiệm."
Trong Điều 121, nói về "trách nhiệm" của nhà cầm quyền đối với "cái chết" của tù binh, dù với lý do nầy hay lý do khác, nhưng đó vẫn là trách nhiệm của họ !
2. Hiệp định Genéva ngày 20/07/1954, Điều 23:
Đây là một Hiệp Định mà hầu hết người dân Việt biết đến, vì nó đánh dấu sự chia cắt hai miền Nam-Bắc nơi vĩ tuyến 17, cùng những đoàn người xuôi ngược giữa hai miền trước khi bước vào giai đoạn "hận thù" nhau, hơn nửa thế kỷ qua.
Từ nguồn http://www.usshancockcv19.com/histories/xodesk3.htm là toàn bộ Hiệp Định 54. Một phần trích đoạn trong Điều 23 như sau :
"In cases in which the place of burial is known and the existence of graves has been established, the Commander of the Forces of either party shall, within a specific period after the entry into force of the Armistice Agreement, permit the graves service personnel of the other party to enter the part of Vietnam territory under their military control for the purpose of finding and removing the bodies of deceased military personnel of that party, including the bodies of deceased prisoners of war. The Joint Commission shall determine the procedures and the time limit for the performance of this task. The Commanders of the Forces of the two parties shall communicate to each other all information in their possession as to the place of burial of military personnel of the other party."
Tạm dịch : "Trong những trường hợp mà trong đó các địa điểm mai táng được biết đến và sự tồn tại của ngôi mộ đã được xây dựng, Tư lệnh Lực lượng của cả hai bên, trong khoảng thời gian cụ thể sau khi sự ghi nhận danh mục trở nên có hiệu lực trong Hiệp Định đình chiến, sẽ phải cho phép các nhân viên phục vụ mộ phần của bên kia vào phần lãnh thổ Việt Nam dưới sự kiểm soát quân sự của họ cho mục đích của việc tìm kiếm và di chuyển xác của những quân nhân quá cố của bên đó, bao gồm xác của các tù binh đã mất. Ủy ban Hợp tác sẽ quyết định phương thức và thời hạn để thực hiện nhiệm vụ này. Tư lệnh Lực lượng của hai bên sẽ trao đổi với nhau tất cả các thông tin của họ như là nơi chôn cất các quân nhân của bên kia."
Qua Điều 23, có nói về quyền hạn của nhân viên phục vụ mộ phần vào Nam hay ra Bắc, nhưng phải tuân theo phương thức và thời hạn của nhà cầm quyền trên miền của họ. Có nghĩa, dường như nó chỉ có hiệu lực trong thời gian ấn định nào đó, vì khi chiến tranh bùng nỗ sau 1954, xem như Hiệp Định 54 đã hết hữu hiệu.
3. Hiệp định Paris ký ngày 17/01/1973, Điều 8 :
Và đây cũng là một Hiệp Định được biết đến với đại đa số dân Việt. Hiệp Định nầy là cả sự hảnh diện của chình quyền Hà Nội trong thế chính trị khôn ngoan đã buộc Hoa Kỳ lui bước khỏi miền Nam Việt Nam và trói tay quân lực Việt Nam Cộng Hòa với tên gọi Hiệp Định Đình chiến Hòa Bình.
Cũng từ nguồn http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/vietnam/treaty.htm cung cấp một bản sao đầy đủ những Chương, Điều khoản. Trong đó, Điều 8 được viết như sau :
"(a) The return of captured military personnel and foreign civilians of the parties shall be carried out simultaneously with and completed not later than the same day as the troop withdrawal mentioned in Article 5. The parties shall exchange complete lists of the above-mentioned captured military personnel and foreign civilians on the day of the signing of this Agreement.
(b) The parties shall help each other to get information about those military personnel and foreign civilians of the parties missing in action, to determine the location and take care of the graves of the dead so as to facilitate the exhumation and repatriation of the remains, and to take any such other measures as may be required to get information about those still considered missing in action.
(c) The question of the return of Vietnamese civilian personnel captured and detained in South Viet-Nam will be resolved by the two South Vietnamese parties on the basis of the principles of Article 21 (b) of the Agreement on the Cessation of Hostilities in Viet-Nam of July 20, 1954. The two South Vietnamese parties will do so in a spirit of national reconciliation and concord, with a view to ending hatred and enmity, in order to ease suffering and to reunite families. The two South Vietnamese parties will do their utmost to resolve this question within ninety days after the cease-fire comes into effect."
Tạm dịch : "(a) Sự trao trả quân nhân, thường dân nước ngoài bị bắt của các bên sẽ được tiến hành cùng lúc và hoàn tất không muộn hơn trong cùng ngày khi quân rút lui, được đề cập tại Điều 5. Các bên sẽ trao đổi danh sách đầy đủ những quân nhân và thường dân nước ngoài bị bắt nói trên vào ngày ký kết Hiệp định này.
(b) Các bên sẽ giúp đỡ lẫn nhau để có tin tức về những quân nhân và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong trận chiến, để xác định vị trí và chăm sóc các ngôi mộ của người chết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai quật và hồi hương các bộ hài cốt, và để thực hiện bất kỳ biện pháp khác như có thể được yêu cầu góp nhặt tin tức về những người vẫn được xem là mất tích trong trận chiến.
(c) Những câu hỏi về sự trao trả nhân viên dân sự Việt bị bắt và bị giam giữ ở miền Nam Việt-Nam sẽ được giải quyết do hai đảng phái của miền Nam Việt Nam trên cơ sở các nguyên tắc của Điều 21 (b) của Hiệp Định về sự đình chiến ở Việt Nam ngày 20 tháng bảy, 1954. Hai đảng phái của miền Nam Việt Nam sẽ làm như vậy trong một tinh thần quốc gia hòa giải và hòa hợp, với một quan điểm chấm dứt thù hận và thù nghịch, nhằm giảm bớt đau khổ và đoàn tụ với gia đình. Hai đảng phái của miền Nam Việt Nam sẽ làm hết sức mình để giải quyết câu hỏi này trong vòng chín mươi ngày sau khi lệnh ngưng bắn có hiệu lực."
Vì đây là Hiệp Định giữa bốn bên (Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam_ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam hay Việt Minh_, và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa) nên có những Điều khoản rất dễ làm người đọc hiểu sai, vì đôi khi cả ba bên được nói đến trong cùng một Điều khoản, hoặc chỉ nói đến 2 bên. Như trong Điều 23, phần (a) và (b) ứng dụng cho 3 bên (hơn là 4 bên, hay chỉ 2 bên Nam-Bắc), và phần (c) dành cho 2 bên, nhưng chỉ ứng dụng trong miền Nam giửa 2 nhóm thế lực.
Và Điều 23(b) cũng nhắc đến sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các bên trong việc khai quật, hồi hương hài cốt, và chăm sóc phần mộ. Cũng như tin tức về những người mất tích trong chiến tranh.
Xét qua những Điều khoản trên, đều có nhắc đến "phần mộ", và tùy theo mục đích của Công Ước hay Hiệp Định vấn đề đó được nhấn mạnh, hay chỉ sơ sài chi tiết. Cho dù là vậy, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ ngày 20/09/1977 nhưng vẫn cố tình không thực hiện những Điều khoản trong Công Ước Genéva quốc tế, và Hiệp Định đã từng ký kết về phần mộ của các tù nhân chiến tranh, hay chiến sĩ đối phương.
Điều nầy chắc chắn sẽ gây nên trở ngại cho những cuộc bang giao của Việt Nam với quốc tế, ngoại trừ với khối cộng sản bé nhỏ. Sự tín nhiệm của nước khác vào Việt Nam trong cương vị là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, sẽ là một dấu hỏi không nhỏ. Nhất là khi NtQdBH - một nghĩa trang bậc quốc gia của chế độ cũ, còn sót lại - bị xóa mất dấu tích, sẽ khiến quốc tế có cái nhìn e ngại hơn về lòng nhân đạo của Việt Nam.
Thử nhìn lại một góc cạnh nhỏ trong bối cảnh sau khi Hiệp Định Paris 1973 đã được ký kết, để có thể phán xét, ai là kẻ gây nên chiến tranh, trong sự công bằng và sự thật của lịch sử. Theo Wikipedia, "Le Duc Tho", bản tiếng Anh, có đoạn như sau :
"Lê Đức Thọ and Henry Kissinger were jointly awarded the 1973 Nobel Peace Prize for their efforts in negotiating the Paris Peace Accords. However, Thọ declined to accept the award, stating, "There was never a peace deal with the U.S. We won the war."
Tạm dịch : "(Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Chính khách VNDCCH) Lê Đức Thọ và (Bộ Trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ) Henry Kissinger cùng được trao chung giải Hòa Bình Nobel năm 1973 cho những nỗ lực của họ trong cuộc đàm phán Hiệp định Hòa bình Paris. Tuy nhiên, Thọ đã từ chối chấp nhận giải thưởng, nói rằng "Không bao giờ có một thỏa thuận hòa bình với Mỹ. Chúng tôi chiến thắng."
Và vẫn theo Wikipedia, "Kissinger", bản tiếng Anh, đã viết : "Tho rejected the award, telling Kissinger that peace had not been really restored in South Vietnam."
Tạm dịch : "Thọ từ chối giải thưởng, nói với Kissinger rằng hòa bình chưa thực sự được khôi phục ở miền Nam Việt Nam"
Qua câu nói của Lê Đức Thọ_ chỉ vừa sau khi ký xong Hiệp Định_ đã đủ phô diển niềm tự kiêu của kẻ hiếu chiến (xâm phạm Hiệp Định Paris, nhất là nơi Điều 15) và chỉ mong chiến thắng (tiếp tục vận chuyển bộ đội, vũ khí Trung cộng, Liên Xô vào miền Nam) hơn là xây dựng nền hòa bình thực sự như trong bản Hiệp Định mang tên Hòa Bình đó. Có lẽ, cũng vì vậy, niềm hy vọng mong chờ một đặc ân trong hòa hợp hòa giải dân tộc từ phía nhà cầm quyền đương thời, cho những phần mộ của chiến sĩ "được nằm yên" trong NtQdBH, là một điều rất mong manh - chắc không bao giờ là hiện thực. Vả lại Việt Nam hôm nay có quá nhiều thay đổi; sức mạnh đồng tiền (đô la) không còn là hư ảo trong chủ nghĩa xã hội nữa, mà nó hiển hiện một cách trung thực, rõ ràng, và mãnh liệt nhất, hơn cả sinh mạng con người đang sống. Thì làm sao, có thể đặt chút hy vọng vào một đặc ân nào đó cho người quá cố của chế độ "thù nghịch" cũ ! (?).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét