Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2019
TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ-DO ĐÁNH MẤT!!!
TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ-DO ĐÁNH MẤT!!!
TÌM LẠI GIÁ TRỊ TỰ-DO ĐÁNH MẤT!!!
Kỹ niệm 39 năm Hiệp Định Paris/73- 2012.
Tg: Huỳnh Mai St.8872
27-1-2012, 10:49 AM
Suốt 39 năm qua,Hiệp Định Paris/73 đã đi vào quá khứ. Dù muốn dù không nó cũng để lại trong lòng người dân Miền Nam một nỗi buồn Mất Nước, mất Tự-Do dân tộc của quân dân,cán chính VNCH với lý tưởng Tự-Do Người Việt Quốc Gia.
Hiệp Định Paris/73 Việt Nam đã mặc nhiên chấp nhận sự sai lầm và thất bại của thế giới Tự-Do,trong đó Hoa Kỳ muốn sống chung hòa bình với Quốc Tế Cộng Sản Nga,Tàu và muốn phân cực thế giới thành lưởng cực chiến tranh giành,quyền thống trị nhân loại, mà Việt Nam vô phúc trở thành tiền đồn chống cộng ,và kéo theo bán đảo Đông Dương -Việt Miên Lào- trở thành be bờ cộng Sản tràn xuống Đông Nam Á/TBD.
Hiệp Định Paris/73 đưa đến mất chủ quyền Hoàng Sa và Tự do Miền Nam VN
Với chủ trương sống chung hòa bình, mở rộng thị trường đông dân của Trung Quốc Cộng Sản.Hoa Kỳ-TT Nixon và Ngoại Trưởng Kissinger đi đêm, mật ước,hòa đàm với Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh 1972 và loại bỏ liên xô ra khỏi vùng cuộc chiến tranh chấp Đông Dương,và kéo CS Bắc Việt Nam về phía Cộng Sản TQ khi Liên Xô tan rả.
Mỹ rốt sức thả bom B.52 suốt 12 ngày đêm tàn phá Hà Nội cuối năm 1972 ,bằng chiến dịch:Operation link Backer I+II hầu tiêu diệt khả năng chiến đấu của Hà Nội bằng những trái hỏa tiễn SAM cuối cùng của Liên Xô còn xót lại, vì đã bị hư hỏng không bắn lên được để tiêu diệt chiếc máy bay B52 Mỹ cuối cùng chấm dứt bỏ bom Noéll Hà Nội. Cuối cùng CS /Hà nội xin đầu hàng Mỹ vô điều kiện.Nhưng Mỹ không chấp nhận đầu hàng của Hà Nội và bắt buộc Hà Nội phải nhận ban ơn tiếp trợ của Trung Quốc Cộng Sản gửi 300.000 quân kéo sang bảo vệ chung quanh vòng đai thủ đô Hà nội, vì sợ quân VNCH thừa thắng xông lên… “Giải Phóng Hà Nội Miền Bắc”Và Hoa Kỳ đã bỏ lở mất một bàn thắng “Trông thấy!?”cho VNCH. Thật đáng tiếc cho người Mỹ phản bội vì bán đứng kẻ thù Hà Nội vào tay Trung Quốc, để rồi lần lựa tới Sài gòn/Miền Nam VNCH bằng bản H.Đ Paris/73 do CS. Hà nội tay sai tiếp quản 30-4-1975 trên bờ lục địa Việt Nam.Còn phía dưới biển quần đảo Hoàng Sa của VNCH được Mỹ bật đèn xanh cho Trung Cộng lấn chiếm-19-1- 1974, phía Hoa kỳ không can thiệp,vì muốn trao tặng Trung Cộng món hàng khuyến mãi khi mở cửa thị trường TQ.
“Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, TT Nixon tuyên bố ông đã thực hiện được thỏa hiệp danh dự (an honorable agreement)., không phản bội đồng minh, không bỏ rơi tù binh. Hiệp định Paris trên thực tế vẫn không đem lại hòa bình cho Đông Dương, hơn hai năm sau ngày ký kết, BV đem đại binh tấn công miền Nam VN đưa tới sụp đổ ngày 30-4-1975, VNCH biến mất trên bản dồ thế giới. Nay người ta giải thích về thất bại của Hiệp định và sụp đổ miền Nam VN.
- Nixon và Kissinger nói họ thắng cuộc chiến nhưng Quốc Hội làm mất hòa bình, hai nhà lãnh đạo đổ lỗi cho Quốc hội đã không cho Hành pháp khả năng giám sát Hiệp định và cắt hết viện trợ bỏ rơi đồng minh.
- Hiệp định thể hiện một khoảng cách vừa đủ, decent interval để quân Mỹ rút đi, lấy tù binh còn lại người Việt tự giải quyết số phận đất nước, Hoa Kỳ không muốn CS thắng quá nhanh. Theo Frank Snepp, nhà phân tích chiến lược CIA tại VN trong cuốn Decent interval nói Hiệp định Paris chỉ là cách trốn tránh nhiệm vụ của Mỹ, chỉ là để Mỹ rút ra khỏi VN.
- Nixon và Kissinger nói họ thắng cuộc chiến nhưng Quốc Hội làm mất hòa bình, hai nhà lãnh đạo đổ lỗi cho Quốc hội đã không cho Hành pháp khả năng giám sát Hiệp định và cắt hết viện trợ bỏ rơi đồng minh.
- Hiệp định thể hiện một khoảng cách vừa đủ, decent interval để quân Mỹ rút đi, lấy tù binh còn lại người Việt tự giải quyết số phận đất nước, Hoa Kỳ không muốn CS thắng quá nhanh. Theo Frank Snepp, nhà phân tích chiến lược CIA tại VN trong cuốn Decent interval nói Hiệp định Paris chỉ là cách trốn tránh nhiệm vụ của Mỹ, chỉ là để Mỹ rút ra khỏi VN.
“Một khi người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân đều đã không muốn tham chiến trở lại, dù có hay không vụ Watergate. “Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ không còn muốn dính dáng gì với Việt Nam” (Kissinger A Biography p. 487)
Người dân Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.
Gió đã đổi chiều, hoài bão của Tổng thống Nixon để giữ một miền nam Việt Nam không Cộng Sản cuối cùng chỉ là ảo tưởng vĩ đại”{tác giả Trọng Đạt}
Người dân Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.
Gió đã đổi chiều, hoài bão của Tổng thống Nixon để giữ một miền nam Việt Nam không Cộng Sản cuối cùng chỉ là ảo tưởng vĩ đại”{tác giả Trọng Đạt}
Rút Quân Tây Nguyên, Chiến Lược NIXON hay Chiến Thuật đầu hàng cộng sản Bắc Việt của TT Nguyễn Văn Thiệu!?.
Thượng và Hạ viện quốc hội Hoa Kỳ cảnh cáo cho biết nếu TT Nguyễn văn Thiệu không ký dự thảo Paris khi Cộng sản Bắc Việt không rút 120.000 Cộng Quân ra khỏi Miền Nam VNCH.vì vậy, gây trở ngại hòa đàm thì Quốc hội sẽ ra luật rút quân để đổi lấy tù binh, cắt hoàn toàn viện trợ, đưa ra hạ viện với tỷ lệ 2-1, nếu không có viện trợ Sài Gòn sẽ chết ngay.
Lời nhắn cũa quốc hội Mỹ cho ông Thiệu VNCH biết rằng:họ muốn nói gần như công khai sẵn sàng đánh đổi Đông Dương lấy 580 tù binh Mỹ còn bị BV giam giữ, đối với họ chỉ có sinh mạng của tù binh Mỹ mới là quan trọng, sinh mạng của cả Đông Dương không nghĩa lý gì. Về điểm này trong No More Vietnams trang 142, Nixon cũng nói như vậy, nhưng ông Thiệu vẫn không tin cho là họ chỉ hù dọa chứ không dám bỏ Đông dương, cho tới tháng 3-1975 ông vẫn không tin Mỹ bỏ miền nam VN và đã tháu cáy giả vờ thua chạy, cho rút khỏi Pleiku giữa tháng 3-1975 để dụ cho Mỹ trở lại, hậu quả đưa tới sụp đổ VNCH thật nhanh chóng.Vì người ta quá chán ngán chiến tranh đông dương đang xẫy ra tại Việt Nam.{Tg;Trọng Đạt}
Ông Thiệu rút quân khỏi Tây Nguyên Trung phần là thi hành Hiệp Định Paris do Mỹ và quốc hội Hoa Kỳ bắt ép.Và đã trở thành một thất sách của hàng bại tướng chiến lược QL.VNCH,vì nghe theo lời hù dọa,áp lực của Hoa Kỳ cúp viện trợ quân sự cho VNCH,nên phải co cụm về bảo vệ thành lũy cuối cùng Sài gòn của vùng 4 chiến thuật đồng bằng sông Cữu long-Lũy tuyến Tự-Do còn lại VNCH.
Quân Đoàn I,thuộc Quản Trị,Thừa Thiên,Huế; trở vào Quân Đoàn II,Pleiku Kom Tum,và Nha Trang Bình Thuận-Phan thiết là phần đất được Hoa Kỳ chỉ định ông Thiệu phải trao lại cho chính phủ Lâm Thời Mặt trận GPMNVN có đất,hay lãnh thỗ để thành lập chính phủ Lâm Thời Việt Cộng nằm vùng gọi thành phần thứ 3 được Mỹ chấp nhận trong Hiệp Định Paris/73 và được dân Miền Nam phản chiến;biểu tình; đề cữ,ủng hộ việt Cộng Giải Phóng Miền Nam VN.
Kissinger -Hoa Kỳ-được Lê Đức Thọ -Hà Nội- hỏi:Hoa Kỳ chấp nhận sống chung với TQ và đối xử ra sao với đồng chí CS bắc Việt.và được trả lời:”Sống chung được với TQ,thì phải chấp nhận hòa bình với tôi tớ ông chủ”Và vì thế ông Thiệu phải cam tâm hy sinh quân lính-chiến Sĩ VNCH- rút quân chiến thuật,đưa lưng làm bia đở đạn Việt Cộng.Tay bồng tay bế con thơ,dắt vợ chạy trong lửa đạn…và dưới nước mắt thương đau của ông Thiệu đang khóc trong tòa nhà trắng -White House- tại vịnh Cam Ranh-10-4-1975,chứng kiến cuộc di tản rút quân thiếu chiến thuật này do người Mỹ gây nên.
Rút quân Tây Nguyên là sách lược chống cộng của VNCH, của ông Nguyễn văn Thiệu.
Chiến tranh Việt Nam tự nó không có thắng và thua giữa Bắc Việt và Nam Việt Nam ,và nó biến chuyển tùy theo tình hình quyền lợi được sắp đặt giữa hai khối Tư Bản Hoa Kỳ và Cộng Sản Nga Tàu chia vùng ảnh hưởng,thống trị làm ăn ,còn tự do dân chủ VNCH đứng sang bên lề thắng bại chiến-tranh. Vì thế Lê Duẩn Cộng Sản nói chiến thắng miền nam là thắng giùm cho Nga Tàu.
Rút quân Tây Nguyên là thế của Miền Nam phải rút, khi viện trợ quân sự Hoa- kỳ cắt giãm,rút quân giao đất,nhường vùng lãnh thổ VNCH cho MTGPM lập chính phủ lâm thời Cộng Hoà Miền Nam VN.
Ông Thiệu bị Nixon của Mỹ hăm dọa: cắt bỏ cái đầu, nếu không chịu ký kết H.Đ Paris/73 theo ý muốn quyền lợi kinh tế với TQ,và bầu cữ nước Mỹ.Quốc hội Hoa Kỳ ra đạo luật rút quân,cúp viện trợ quân sự VNCH do dân Mỹ phản chiến bỏ rơi chiến tranh VN, trả con em trở về với họ.Đứng trước tình hình chiến sự nguy cấp,nên ông Thiệu phải rút quân,bảo toàn lực lượng và bỏ lại một phần đất tự do -Tây nguyên- cho địch chiếm theo áp lực cắt bỏ viện trợ quân VNCH,để tiếp tay cộng quân Bắc Việt vẫn còn hiện diện đóng quân tại Miền Nam VNCH, được Hoa Kỳ và quốc tế LHQ cho phép tồn tại trong HĐ Paris đã được ký kết.
Tất cả trách nhiệm mất tự do miền nam,phía Mỹ đổ lỗi cho VNCH: “Không chịu chiến đấu bảo vệ tự do cho chính dân tộc mình”.Ông Thiệu phải nuốt hận,căm nín làm thinh cho đến ngày chết,không biện hộ,không kết tội người bạn đồng minh Hoa Kỳ hứa lời cam kết rồi phản bội khi VNCH ký kết xong H Đ Paris -27-1-1973.
TT Nixon nói: “ Tới đoạn cuối nếu Hà Nội vi phạm, họ sẽ bị trả đũa nặng nề. Đô đốc Moorer đã thảo kế hoạch khẩn trương 3 và 6 ngày cho kế hoạch đòi hỏi để tấn công BV. Ban tham mưu phải thực hiện chặt chẽ kế hoạch, gài mìn trở lại và xử dụng B-52 oanh tạc Hà Nội, nếu BV vi phạm Mỹ sẽ giáng trả hết cỡ, chúng ta phải giữ một lực lượng tại địa điểm để thi hành. Sự giáng trả BV phải ồ ạt hữu hiệu, trước hết B-52 phải nhắm vào Hà Nội.”
Một Bại Tướng Đầy Nhiệt Lòng Yêu Nước!
Ông TT.Thiệu là một tổng tư lệnh QL.VNCH và các sĩ quan tướng lãnh quân đội miền nam được đào tạo chỉ huy quân sự trong các nhà trường quốc tế Pháp-Mỹ,và dày dạn trong chiến trường Việt Minh chống Pháp; đầy đủ kinh nghiệm mặt trận điện Biên Phủ -Bắc Việt Nam- lại phải bỏ trống Tây Nguyên,vị thế chiến lược quan trọng – Nóc nhà Tây Nguyên- trung phần miền nam VN.để rồi lần lược mất cả Miền Nam VNCH vào tay quân Cộng Sãn Bắc Việt,ngày 30-4-1975.
Quân Cộng Sản Bắc Việt chiếm đóng Sàigon với quân số 15 sư đoàn CSBV.xiết chặt vòng lửa bảo vệ thủ đô Saigòn của chiến sĩ VNCH cùng năm trái bom CBU-Bom ngạt chân không- bị đồng minh mỹ tháo ngòi nổ…và đổ thêm 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến Hoa Kỳ,từ đệ thất hạm đội ngoài khơi Vủng Tàu vào sàigon bảo vệ các yếu nhân Mỹ chưa kịp rút đi bằng trực thăng đậu trên các cao ốc Saigon,với mục đích đề phòng quân nhân, chiến sĩ VNCH bắt tù binh Mỹ làm con tin cuộc chiến ,vì phẩn nộ không có ngòi nổ cho 5 trái CBU -Tiểu Nguyên Tử-này,tức là Mỹ muốn giao sàigon cho cộng quân Bắc Việt.Và Mỹ viên cớ không can thiệp vào VN theo H Đ Paris/73 khi quân Cộng Sản bắc việt được quyền uy hiếp Sài gòn và sẵn sàng vi phạm H Đ Paris 30-4-75.Vậy đâu là phản bội đồng minh cũa Mỹ!???
Sài gòn bị quân cộng Sản Bắc Việt chiếm đóng trước phản ứng tự vệ để bảo vệ gia đình,thân nhân và chiến hữu đơn vị mình không bị trả thù của bọn Việt Cộng nằm vùng… và các đảng phái cách mạng 30,giờ thứ 25 nổi dậy trả thù quân- dân ,cán- chính VNCH,trước lời kêu gọi đầu hàng của tên việt gian cộng hòa T.T Dương Văn Minh,trong sự tức tối căm hờn của chiến Sĩ Tự Do VNCH.cho ngày “Gảy súng tan hàng” tối tăm đất nước!?
Sàigon chiến bại, nhưng không đổ nát,hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vì lòng nhân đạo của chiến sĩ VNCH biết tôn trọng của cãi và tư hữu và quền sống tự do người dân miền Nam.Nên khi cộng sản Miền Bắc vào sàigon và cả nông thôn Miền Nam để tiếp thu,được quân dân cán chính VNCH bàn giao cơ sở vật chất còn nguyên vẹn không thất thoát, hư hao hay bị đốt phá.Và cũng từ đây ta thấy đâu là chính nghĩa Tự do của Người Việt Quốc Gia,và đâu là phi nhân,phi nghĩa của người Cộng Sản.khi bắt tù binh VNCH vào tù cải tạo và cướp bóc tài sản,làm hằng triệu người dân miền nam sợ hải bỏ nước ra đi tìm tự do của hàng trăm ngàn người bỏ xác trong lòng đại dương biển cả…
Nhờ sự kiện và biến cố “Giải Phóng Miền Nam” ngày 30-4-1975 đã làm lộ ra chân tướng sự thật của các đoàn thể nhân dân trí thức,nhân sĩ và các hội đoàn xã hội là cơ sở bí mât hoạt dộng cho việt cộng nằm vùng.Các giáo hội tôn giáo là cơ sở tổ chức che dấu hoạt động phong trào sinh viên,quân chúng phản chiến của phiếm quân cộng Sản Nằm vùng: “Đánh cho Mỹ cút-Ngụy nhào”.Họ: “Ăn cơm quốc gia và thờ ma Công Sản”
Với dân tình đất nước như thế này: mất nước là phải rồi!? trách nhiệm là lỗi của VNCH, chỉ biết xử dụng thành phần Việt gian cộng Sản vào nằm vùng trong tổ chức chính phủ VNCH.Kễ từ khi dệ nhất cộng hòa do TT Ngô đình Diệm chấp chính,rồi sụp đổ 1963 .Và Mỹ đưa quân vào biển Đà Năng 1965.và kể từ đó dân Miền Nam theo Cộng Sản Miền Bắc thì nhiều,Thậm chí vùng nông thôn,hết 85% theo Việt Cộng và có mật cứ nuôi quân VC/GPMN…
Đáng lý ra Mỹ không nên đưa quân vào Miền NamVNCH là thất sách chính trị,và tạo bằng chứng cho Cộng sản miền bắc tuyên truyền lòng yêu nước trong toàn dân để chống “Mỹ xăm lược,tay sai VNCH” Vô tình mất chính nghĩa Người Việt Quốc Gia,và đẩy người dân về phía địch,do VC đánh lừa dối dân tộc, cho một chủ nghĩa cộng sản ngoại lai.
Một Chủ Nghĩa Pha Màu Dân Tộc!
Từ khi Cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam Tự Do/VNCH,tìm vùng đất hứa của chủ nghĩa ngoại lai Cộng sản,thì người dân Miền Nam mới thực sự thực hiện ước mơ sống chung hòa bình với người anh em cộng sản Bắc Việt.Đây là một cuộc pha trộn,đổi màu dân tộc, từ màu vàng của Tự Do,trộn lẫn màu đỏ máu-Cộng Sản. người dân Miền Nam nhận được môt màu “Tim tái-đỏ bầm” rỉ máu con tim dân tộc. một màu biểu tượng chiến thắng;có pha màu máu vết thương kẻ chiến bại Miền Nam.Khi biết được thì đã muộn- màn,khánh kiệt nguồn lực sống,và liệt kháng toàn dân khi trót lở lầm đặt miền tin yêu vào sự vong bản,phản bội quê hương của CSVN.
US Marines - South Vietnam 1966
Đây là phát kiến độc đáo của Tướng Một Mắt Do Thái Moshe Dayan sang thăm chiến trường Miền Nam Việt Nam,và gửi lại một lời cố vấn quân sự cho Tổng Tống Nguyễn Văn Thiệu với một quốc sách chiến lược VNCH; “ Muốn thắng Cộng Sản,phải biết thua Cộng Sản trước đã!.lùi một bước ,để tiến lên 3 bước”.Tức thua một Miền Nam mà thống nhất tư tưởng,ý chí tự do chống cộng cả 3 miềm Nam- Trung- Bắc; để sau này giải phóng thủ đô Hà Nội;đòi lại chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa sau những năm dài mất nước trước tỉnh thức của toàn dân.biết sống chung cùng nỗi đau thương Cộng Sản, mới vở lẽ thế nào sống chung cùng xã hội Cộng Sản.
Trước khi thi hành chiến lược “Thụt lùi” của tướng Do Thái Moshe Dayan và lời khuyến cáo “Khổ nhục kế” chân tình của TT Lý Quang Diệu-Singapore- nên ông Thiệu chịu nhục nhã mang 16 tấn vàng của ngân khố VNCH,xin thế chấp cho Mỹ và vay mượn 300.triệu đô la mua đạn dược cho quân sĩ chiến đấu cầm cự 3 tháng,đợi giải pháp chính trị tự do trung lập cho Miền Nam VN, nhưng bất lực không thành…với người Mỹquyết tâm cúp viện trợ và tướt quyền Tự Do miền Nam VNCH,trói tay bức tử QL.VNCH trao cho Quân Cộng Sản Bắc Việt Hà Nội.Và lịch sử sẽ phán xét Công và Tội của TT Nguyễn văn Thiệu khi tự do và hòa bình trở lại quê hương Việt Nam…!
Ông Thiệu dù bất tài cầm quân,khiển tướng ,nhưng nhiệt lòng yêu nước.Và đã xô đẩy Việt Nam vào hoàn cảnh khốn cùng phải sống chung hòa bình với Cộng Sản Miền Bắc để thử thách và đánh thức niềm tin dân chủ, tự do Miền Nam của người Việt Quốc Gia đã ngủ yên trong lòng dân Việt; dể lại cho đời câu nói mai sau: ‘Đừng tin những gì Cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”.
Tự Chủ -Tự Quyết Dân Tộc Là Giá Trị Tự Do Việt Nam!
Suốt 37 năm nay-2012- người dân cả nước đang chiến đấu cho tự do,dân chủ Việt Nam không biết mệt mõi,với nhiều hình thức,tù nhân chiến tranh trong tù cải tạo cộng sản,đi vùng kinh tế mới,và tìm cách vượt biên của hàng triệu người Miềm-Nam không chấp nhận cộng sản.
Ngay đến người dân Cộng sản Miền Bắc cũng phản tỉnh, nên hoạt động, tranh đấu đòi quyền dân chủ, nhân quyền bị áp bức độc tài đảng trị CSVN bị khống chế chủ quyền biển đảo Việt Nam.Dù phải tù tội cũng không nản chí, sờn lòng cho một ngày mai thành công dân chủ, nhân quyền và quền tự chủ-tự quyết dân tộc.
Nhưng không thể quyết đoán,và đổ lỗi hoàn toàn trách nhiệm cho Hoa Kỳbán đứng Miền Nam VNCH.Và momg muốn sự góp sức,góp công của Mỹ cho Việt Nam mau chống tiến đến độc lập,dân chủ hòa bình dân tộc.Hiện nay,Hoa Kỳ không còn xem Việt Nam là móm hàng hóa lẫn quyền lợi trao đổi với Trung Quốc Cộng Sản khi hai nền kinh tế cạnh tranh nhau quyết liệt.Cho đến hôm nay đang xảy ra xung đột quyền lợi kinh tế tại biển Đ.Á/TBD.Vì dù sao Mỹ cũng mắc nợ Việt Nam vì thiếu trách nhiệm trên tinh thần tự do,an ninh hòa bình thế giới,vì lý do nội tại theo chủ thuyết:
Hiện Sinh Tư Bản Thực Dụng Chủ Nghĩa Hoa Kỳ
Phát sinh từ chủ nghĩa Anh hùng trong cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ-1865-được cả thế gới tôn vinh là dân tộc văn minh,độ lượng và anh hùng,nên đã trao cho danh dự,trách nhiệm giử gìn an ninh,hòa bình thế giới Tự Do.Nhưng vì Hoa Kỳ phải sống cho thực tế theo chủ nghĩa “Hiện Sinh Tư Bản” cho dân tộc mình lớn mạnh và giàu có bằng cách làm Kinh Tế là nguồn sống thực tế của Hoa Kỳ để mưu cầu tự do và hạnh phúc cho dân tộc đang lên cũa Mỹ.do đó ta không nên trách Mỹ bán đứng VNCH vì quyền lợi sống cho họ nên đánh mất tự do,hòa bình dân chủ của Việt Nam.Hãy chấp nhận sự thật và nhận lãnh trách nhiệm về mình.Phải can đãm đứng dậy từ nơi té ngả của mình,để đòi lại quyền tự chủ, tự quyết cho Việt Nam,sau đó bạn bè thế giới và đông minh Hoa Kỳ sẽ giúp mình.Vì muốn phục hồi kinh tế toàn cầu và tìm sự sống còn cho Xã Hội Hiện SinhTư Bản Mỹ,bắt buộc họ sẽ quay trở lại Việt Nam và giúp tìm lại tự do dân chủ mà họ đã bỏ rơi suốt 37 năm qua kể từ 30-4-1975.
Tự Do-Hòa Bình Việt Nam Gắn Liền Phục Hồi Kinh Tế Hoa Kỳ!
Tự Do-Hòa Bình Việt Nam Gắn Liền Phục Hồi Kinh Tế Hoa Kỳ!
Hoa kỳ trở lại Đông Á/TBD cho phục hồi kinh tế nước Mỹ suy thoái trầm trọng.TT Barack Obama đến Honolulu-Hawaii thuộc châu á TBD để thiết lập khối mậu dịch thị trường Tự Do xuyên TBD gọi tắt TPP,ngày 11-11-2011 để đối trọng lại nền kinh tế đang phát triển bành trướng của Trung Cộng đang lấn dần và thao túng quyền lực lên khối kinh tế các nước Asean-Đông Nam Á- bằng tranh chấp chủ quyền Biển Đông Á.
Hoa Kỳ tuyên bố:Đông Á/TBD là “Quyền lợi cốt lõi của Mỹ có truyền thống xưa nay với đồng minh Hoa Kỳ trong mậu dịch buôn bán”.và Mỹ có quyền bảo vệ bạn hàng buôn bán đồng minh của mình bằng con đường Tự- do hàng hãi được quốc tế hóa của LHQ.
Việt Nam là một trong 6 nước có chủ quyền tranh chấp với Trung Quốc, nhưng vì là đồng khối cộng sản với Trung Quốc,nên Trung Cộng có quyền lấy biển đảoVN làm ao nhà,và mặc nhiên vẻ cung đường lưỡi bò chín đoạn bao gồm quần đảo Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam đầy triển vọng tiềm năng dầu mõ, khí đốt.Và cũng là năng lượng,chiến lược của Hoa Kỳ và Trung Cộng tìm cách làm chủ biển Đông Á/TBD.Hơn nữa Trường sa của VN là điểm giao lưu,ngã tư quốc tế hàng hải hội tụ nhiều thủy hải sản cá tôm, do có hai dòng nước nóng và lạnh của thế giới chảy qua.Vì thế Trung Quốc Cộng Sản Muốn VN là mãi mãi của tầu cộng,để Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên 8o% trên biển đông Á/TBD. Là điều không thể được trên đường phục hồi kinh tế của Hoa Kỳ sau khi rãnh tay;chấm dứt chiến tranh dầu hỏa tại Trung Đông.
Việt Nam là một nước bị Hoa kỳ bỏ rơi trong cuộc chiến tranh Vn trước năm 1975,và nay trở thành thuộc phiên một tỉnh của Trung Quốc Cộng Sản có lãnh thổ mở rộng về phương Nam-Đông Á/TBD,là bàn đạp, căn cứ đóng vững chắc trong cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ và đồnng minh trong tranh chấp ngôi vị sô1 kinh tế toàn cầu xuất phát từ đây.Với vị thế chiến lược có Việt Nam là ngòi nổ chiến tranh xẩy ra, không thể tránh được một cuộc chiến khu vực biển Đông á/TBD cho tranh chấp dầu hỏa,và dẩn đến chiến tranh thế giới thứ 3.
Việt nam có “ Quyền lợi cốt lõi trong chiến tranh!?” nên VNCS ra sức khai thác quyền lợi bằng trò đu dây qua lại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc để tìm sự tồn tại CSVN giữa hai lằn đạn bạn và thù: “Theo Tàu thì mất nước, còn Đảng theo Mỹ,còn nước mất đảng…”.Vậy giải pháp thứ 3 là Du dây là an-toàn cho đảng CSVN tồn tại… mới là khôn ngoan của đỉnh cao trí tuệ CSVN.
Hoa Kỳ là một con buôn tầm cở quốc tế không thua gì sư phụ “Ba Tàu cộng sản”.Biết rỏ đâu là quyền lợi “Cốt lõi Hoa Kỳ” khi trở lại Đông Nam Á/TBD,họ muốn CSVN làm “Đối tác tác chiến lược, cân bằng quyền lực Trung quốc tại Biển Đông”, thì đổi lại mỹ sẽ bồi thường chiến tranh trong chất độc da cam-dioxin với nình thức nhân đạo cho VN,theo tuyên bố của bà Ngoại Trưởng Hillary Clinton ngày 23-7-2010 tại Hà Nội với TT Nguyễn Tấn Dũng và Ngoại giao Phạm Gia Khiêm CSVN. Không phải Mỹ tử tế và nhân đạo gì!? với VN, là vì Hoa Kỳ muốn lấy “Gậy ông đập lưng ông” nên tọa dựng ra màn bi kịch, xúi Cộng sản TQ đánh CSVN: “Dạy cho VN bài học vô ơn” và chạy theo Mỹ-kẽ thù TQ.Và VN là ngòi nổ nguy hiểm chiến tranh Trung-Việt không thể tránh né được.Hoa Kỳ cũng biết rỏ CS Hà Nội không đáng tin cậy và anh hùng dám đánh Trung Cộng như trận hải chiến Hoàng Sa-19-1-1974- của đồng Minh cũ VNCH,mới thậtđáng tin tưởng hơn CSVN.
Cộng sản Việt Nam sắp tới đây sẽ bị Trung cộng đánh trong tháng 8 đến tháng 10-2012 theo đúng kế hoạch tranh cữ bầu phiếu của TT Obama muốn kiếm phiếu để giành phần thắng về mình, nên phải sớm khấy động biển Đông châu á/TBD cho dân Mỹ tin tưởng Obama có khả năng phục hồi kinh tế nước Mỹ,và đem lại công ăn việc làm cho thất nghiệp Hoa-Kỳ bằng hành động thực tế chính trị,quân sự hổ trợ kinh tế Hoa Kỳ có dấu hiệu đang lên theo thắng cử nhiệm kỳ II của Obama,để cạnh tranh sống còn gay gắt với TQ đang lên…
Tại sao Trung Quốc không chiến tranh vời Philippine và các nước có chủ quyền tranh chấp với Trung quốc.Vì các nước kia có ký hiệp ước bảo vệ chủ quyền lãnh hải khi có chiến tranh với Hoa Kỳ. còn riêng Việt Nam là cộng Sản nên không có hiệp ước hổ tương quân sự với Hoa Kỳ,nêú bị Trung Quốc đánh là ráng đở một mình…vã lại từ xưa trong chiến tranh Việt nam,các nước trong vùng Đông Nam Á có nước nào chịu chiến tranh để be bờ Công Sản,chì muốn VN làm tiền đồn chống cộng-VNCH-Họ luôn xô đẩy chiến tranh ra khỏi đất nước họ để có an bình và thời gian xây dựng lại đất nước cho được phát triển kinh tế giàu mạnh cho dân họ nhờ.
Vừa qua,ngày 39-1-2012 Philippine tập trận cùng Mỹ tạ khu vực tranh chấp chủ qyuền Trường Sa bị Trung Cộng hăm dọa trừng phạt quân sự lẫn kinh tế, Philippine liền xuống nước nhỏ để đẩy chiến tranh TQ sang phía VN.Như thể VN là bải rác chiến tranh không bằng!?.Đây chính là nguồn trục lợi kiếm tiền trên xương máu,đau khổ của dân VN khi chiến tranh.Dù CSVN có tài giỏi đu dây,cũng có ngày bị đứt “cable đu” và dân tộc việt Nam lãnh đủ chiến tranh thêm lần nữa!???.
Khi Hoa Kỳ tuyên bố trở lại Đông á/TBD và thành lập khối kinh tế tự do mậu dịch xuyên Thái Bìng dương-TPP bao gồm các nước Đông –Tây-Nam Bắc bên bờ Thái Bình Dương 21 quốc gia,kễ luôn 10 nước trong khu vực Asean cũ.Nên cần phải quốc tế hóa tự do hàng hải biển Đông Á cho mục tiêu giao thương,vận chuyển hàng hóa các nước trong vùng,mà Hoàng Sa và Trường Sa VN là ngã tư giao lộ hải trình quốc tế bị Trung Cộng chiếm giữ làm ao nhà và khoanh vùng bằng đường lưỡi bò 9 đoạn,bởi CSVN nằm trong hệ thống khối cộng sản,nên gây trở giao thương quốc tế cho khối mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương –TPP của Hoa Kỳ.Muốn không trở ngại thì phải đưa Trung Quốc Cộng Sản trở lại thi hành H Đ Paris/73 trong chiến tranh VN,mà Trung Cộng và Hoa Kỳ đồng chủ tịch hội đồng ký H Đ paris có giám sát quốc tế LHQ và 12 nước thuộc2 khối Cộng Sản,Tự Do ký thi hành.Và Sau đó Trung Quốc và Cộng sản Hà Nội vi phạm H Đ Paris.Kẻ dưới biển-Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa củaVNCH 19-1-1974;trên bờ CS Bắc Việt tấn công chiếm đóng Saigon Miền Nam VN 30-4-1975.Đó là lý do căn bản vững chắc không thể phủ nhận của Trung quốc và CSVN phải rả lại quyền biển đảo cho VNCH để Mỹ và LHQ thi hành H Đ paris/73 và Quốc Tế hóa tự do hang hải biển Đông Á/TBD. Và trả lại Tự Do,độc lập chủ quyền dân chủ cho Việt Nam.
“WIN-SPOIL” Học Thuyết chiến lược quân sự Hoa Kỳ.
Đây là chiến lược đổi mới quân sự Hoa Kỳ dùng làm công cụ, phương tiện,và yễm trợ Chiến Tranh Kinh Tế giữa Mỹ và TQ.Nét đặt thù trong chiến thuật hành quân mới lạ;hoàn toàn thay đổi đối sách chiến lược Win-Win{Cùng thắng }của Hoa Kỳ.Nó có ý nghĩa tìm “Thắng lợi trong thất bại”.Đúng!chỉ cần một đạo quân nhỏ với kỹ thuật tác chiến cao và các phương tiện vũ khí khoa học “Kỹ thuật số” cao;có bom định vị xuyên phá hầm ngầm trong lòng đất; có hỏa tiển xuyên lục địa từ ngoài biển khơi bắn vào, và hỏa lực tàng hình vượt qua màng lá chắn đạn đối phương…Tìm mục tiêu căn cứ địch bằng vệ tinh định vị toàn cầu ,là Hoa Kỳ không cần quân đội nhiều để đưa quân chiếm cứ đất đai, lập căn cứ và phải đóng quân cố định trong lòng địch mới được gọi là chiến thắng… Nay căn cứ là mục tiêu di động trên chiến trường biển khơi, rất khó bị phát hiện và tấn công của địch,nên dể bảo tồn lực lượng và duy trì khả năng tác chiến, như cuộc chiến tranh khoa học “Giữa Các Vì Sao”.Rất thích nghi,có điều kiện cho chiến trường Đông Á/TBD giữa Mỹ và Trung Quốc.
Chiến Tranh Kinh Tế
Một cuộc chiến không cần chiếm đất,đóng quân và bảo vệ căn cứ rất hao quân,tổn tướng ,tốn hao chi phí quốc phòng.Chỉ cần đóng quân, lập căn cứ quân sự ngoài xa khơi biển cả.với căn cứ, mục tiêu di động của Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử Hoa Kỳ trên biển Trung Hoa cứ nả pháo vào lục địa Trung Cộng,tìm diệt và phá hủy các nhà máy,cơ sở sản xuất,làm tê liệt khả năng kinh tế đối phương,không cần đổ quân chiếm đóng… Vừ rồi,2-2-2012 quốc phòng Hoa Kỳ họp tham mưu hải quân Philippine,tăng cường vũ khí tối tân và hạm dội hiện đại cho các căn cứ nổi và biết di động trên biển,không cần căn cứ cố địng trên đất liền của Phi theo hiệp ước quân sự cho phép Mỹ đóng quân trên đất liền-năm 1999-vì chiến lược quân sự Win-Spoil cần có sự di chuyển,điều động quân cho hai mặt trận ở Trung Đông và Đông Nam Á Châu.
Đánh cho TQ sập tiệm, làm mất khả năng cạnh tranh kinh tế toàn cầu và khu vực Đông Á/TBD. Nâng kinh tế Hoa kỳ được phục hồi ngôi vị số 1 toàn cầu. Đó là học thuyết chiến lược quân sự toàn cầu “Win-Spoil”dùng cho Chiến Tranh Kinh Tế của TT Barack Obama và bộ Tham mưu quốc phòng Hoa Kỳ khởi xướng,ngày 5-1-2012 để yễm trợ cho sách lược kinh tế mậu dịch tự do Xuyên Thái Bình Dương-TPP- tại Bali-Hawaii,ngày 11-11-2011,khi TT Obama tuyên bố trở lịa châu á TBD,để phục hồi kinh tế Mỹ trong suy trầm.
Với chiến lược quân sự thay đổi toàn cầu nầy của hoa kỳ, và rất thích hợp cho cuộc giãm quân số, tiết kiệm ngân sách quốc phòng 480 tỷ đô la trong 10 năm sắp tới của Hoa Kỳ trong đợt phục hồi kinh tế Mỹ sắp tói.
Một cuộc chiến vĩ đại giữa hai thế giới có nền kinh tế khác biệt,dị đồng về cơ chế tổ chức,và điều hướng kinh tế tăng trưởng,cạnh tranh nhau,giữa“Kinh Tế Định Hướng Xã Nghĩa” và “Kinh Tế thị trường Tự-Do”đều có tính ưu điểm của “Các Vì Sao kinh tế số 1 toàn cầu” để cạnh tranh thế đứng trên thế giới giũa Trung Cộng Và Hoa Kỳ trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Một điều ta lấy làm lạ,cứ nhìn vào hiện suy trầm kinh tế của Hoa Kỳ, thì bất cứ phe đối nghịch nào cũng cho rằng Tư Bản chủ nghĩa đang dẩy chết và kinh tế tư bản Hoa Kỳ suy thoái tiêu vong,mất khả năng lãnh đạo kinh tế toàn cầu,nên thay thế Mỹ kim bằng đồng Nhân Dân tệ TQ.Nhưng qua lịch sử lập quốc và phát triển kinh tế của Hoa Kỳ,chúng ta đồng thấy sức mạnh nội tại của dân tộc Mỹ là sức trẻ trung, năng động và có tri thức tự do tổng hợp của nhiều sắc dân trên thế giới. Cứ vài chục năm phải có một lần đáo hạn suy trầm Kinh tế và Hoa Kỳ hay đi tìm chiến tranh về “Kinh Tế” với các nước gây nên suy trầm cuộc sống dân Mỹ, và thụt lùi giá trị đạo đức tự do cho nước Mỹ.
Việt Nam Cộng Sản Mất Cơ Hội Đu Dây!
Vì chiến lược chiến tranh kinh tế của Win-Spoil không có nhu cầu lãnh thổ đất đai để lập căn cứ cố định trên địa thế VN, nên vai trò Đối Tác Chiến Lược cân bằng quyền lực Trung Quốc tại biển đông của CSVN là không cần thiết. Trong đợt cắt giãm quân số, tái bố trí quân lực Mỹ được tinh nhuệ và hiện đại hóa khả năng tác chiến đáp ứng nhu cầu chiến trường linh hoạt hơn. Hay nói chính xác hơn,Hoa Kỳ cắt cable đu dây của CSVN, không cần đối tác chiến lược, vì Hoa Kỳ thừa biết CSVN thà mất nước hơn là mất đảng VC đương quyền lãnh đạoVN, nên không cần đôi co,năn nỉ đền bù chiến tranh-chất độc da Cam- đã được Tầu Cộng trao đổi kinh tế mở cửa với Hoa Kỳ và bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Thị Bình trong bang giao bải bỏ cấm vận kinh tế VN-1965. Đây là điều nhân đạo cần sự giúp đở xoa dịu vết thương chiến tranh dồng lọai của phía Mỹ, mà CSVN không nên đặt thành bồi thường chiến tranh cho kẻ thắng trận Cộng sản Miền Bắc vào cướp phá và chiếm đóng-vi phạm H Đ Paris/73,nay lại làm tiền trên những thân hình khốn khổ và dị dạng do sự tàn phá chất độc da Cam là sự tàn nhẫm vô lương tâm của con người XHCN/CSVN.
Hoa Kỳ đang thực hiện cắt cable du dây của CSVN và điều chỉnh dần chinch phục hồi giá trị tự-do,dân chủ cho dân Miền Nam VNCH khi Cộng Sản xé H Đ Paris/73 chiếm sài gòn miền Nam nay-4-1975.
Lượng Giá Tình Hình Biển Đông Á,Và Mật Ước Thi Hành… Cho Cộng Sản Việt Nam!
Học thuyết chiến lược quân sự Win- Spoil được ra đời trong ngành Lượng Giá Học Quân sự Hoa Kỳ; có sự điều nghiên,đánh giá và và cân lượng rỏ ràng cho sự chọn lựa tối ưu trên mặt trận chiến trường Đông Á để phục vụ nền kinh tế Hoa Kỳ,nên nó rất khả tín,ít sai lầm và mang lại hiệu quả giá trị kinh tế tự do mậu dịch Hoa Kỳ song hành với an ninh hòa bình thế giới.
Hoa kỳ tự hào và tự tin mang, sách lược kinh tế mậu dịch tự do Xuyên Thái Bình Dương-TPP và chiến lược quân sự Win-Spoil vào vùng tranh chấp kinh tế Đông Á/TBD với Trung Cộng của TT Barack Obama tuyên bố trở lại Đông Á/TBD,mở tự do mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương, và quốc tế hóa tự do hàng hải Đông Nam Á với mục đích cốt lỏi quyền lợi cho sự phục hồi nền kinh tế suy trầm của hoa Kỳ.
Mặc dù không còn cần CSVN làm vai trò đối tác chiến lược cho Hoa Kỳ, khi có quốc sách chiến lược Hoa Kỳ-Win-Spoil- thay thế đối tác Vn cân bằng quyền lực Trung Quốc,vì biết CSVN đã ngả hẵn về phía Trung Cộng để được che chở và tồn tại đảng CSVN. Và vì Mỹ đã mạnh tay cắt cable đu dây cộng sản Hà Nội để chấm dứt hành động bỉ ôi ,vô lương tâm của kẻ chiến thắng Hà Nội trên kẻ chiến bại Miền Nam bị què quặc,dị hình-dị dạng bởi sự tàn phá chất độc da cam-Dioxin- trong chiến tranh VN…Nhưng Mỹ vẫn cữ phái đoàn 4 Thượng Nghị Sĩ quốc hội Hoa Kỳ tới Hà Nội VN,gồm các ông: “NS John McCain, NS Sheldon Whitehouse, NS Joseph Lieberman và nữ NS Kelly Ayotte. Trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012, các nghị sĩ Mỹ cho hay họ đã gặp một số lãnh tụ CSVN, thảo luận một số vấn đề, trong đó có cả vấn đề nhân quyền và vấn đề biển Ðông.Bản tin TTXVN tường thuật các cuộc tiếp xúc của ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng CSVN, và của ông Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch Quốc Hội, với các nghị sĩ nói trên.
Bản tin này tảng lờ những điều họ yêu cầu chế độ Hà Nội mở rộng dân chủ, trả tự do cho các người bất đồng chính kiến, trả các quyền tự do căn bản cho người dân.
Bản tin của TTXVN cũng tảng lờ những điều phái đoàn nghị sĩ Mỹ nói với ông Dũng về các vấn đề liên quan đến tranh chấp biển Ðông.
Trước khi đến Việt Nam, 4 nghị sĩ nói trên cũng đã họp báo ở Manila, cũng cho hay họ cũng đã nói chuyện với nhiều viên chức cao cấp của Philippines về chuyện tranh chấp biển Ðông (mà Philippines gọi là biển Tây Phi).
Dịp này, ông nói rằng “Hoa Kỳ sẽ làm mọi điều cần thiết để bảo vệ tự do hải hành.”
Khi phái đoàn nghị sĩ Mỹ còn ở Manila, Hoàn Cầu Thời Báo ở Bắc Kinh đả kích Mỹ chen vào tranh chấp ở khu vực.
Và tiếp theo, chưa đầy 2 tuân lễ Hoa kỳ đề cữ :Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Kurt Campbell, quan chức ngoại giao cao cấp nhất của Mỹ phụ trách khu vực Châu Á-Thái Bình nói hôm 2/2 rằng để quan hệ Mỹ-Việt tiến thêm bước nữa thì Hà Nội cần có cải thiện đáng kể về nhân quyền.
“Chúng tôi cũng nói rõ việc chúng tôi tin là vẫn còn tù chính trị, tù nhân lương tâm và những người bị giam giữ trái luật pháp [ở Việt Nam].-"Ông Kurt Campbell.Truyền thông Việt Nam khi đưa tin về chuyến thăm của ông Campbell đã không nhắc gì tới chủ đề nhân quyền.
Ông thứ trưởng ngoại giao trong chuyến đi lần này nói hiện vẫn còn lệnh cấm đối với việc cung cấp một số mặt hàng quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam. Thế nhưng, hai quân đội đã bắt đầu có các tương tác.
Hoa Kỳ đã phản ứng nhanh chóng trước các diễn biến dân chủ tích cực ở Miến Điện và chỉ 12 tiếng đồng hồ sau đợt thả tù chính trị tháng trước đã thông báo nối lại quan hệ cấp đại sứ với Nay Pi Taw.Tuy nhiên, ông Campbell cũng cảnh báo rằng còn nhiều khó khăn to lớn trước mắt Miến Điện trong nhiều lĩnh vực, không chỉ ngày một ngày hai mà giải quyết xong.
"Tôi nghĩ các nước Asean đều ủng hộ việc Hoa Kỳ và các quốc gia khác hợp tác chặt chẽ với chính quyền Miến Điện và điều này không còn là trở ngại trong quan hệ giữa Mỹ và Asean nữa."
Hai phái đoàn vừa qua của Hoa Kỳ mang điều kiện dân chủ,nhân quyền ra yêu cầu VNCS phải thi hành để góp phần vào giải quyết ổn định khu vực Đông Nam Á/TBD.Đó là mật ước thi hành H D paris/73,vì nó ẩn tàngTự Do dân Chủ của Miền Nam VNCH mà Mỹ có trách nhiệm thi hành đối với kẻ thù Cộng Sản VN, đem lại sự công bằng tự do dân chủ trả lại đồng minh,chiến hữu VNCH. Và vì ly do tế nhị ngoại giao, và tính phổ quát Tự Do-Dân Chủ-Nhân Quyền đều là tính tất yếu trong thiêng liêng…! Nhưng nó lại nằm trong tư tưởng Người Việt Quốc Gia và có sẳn trong hiến pháp thể chế VNCH,bị cộng sản Bắc Việt vi phạm H Đ Paris chiếm đóng Miền Nam VNCH-30-4-1975.Nay CSVN phải thi hành theo mật ước Hoa Kỳ cho tự do dân chủ VN,nếu không muốn mang tiếng là kẻ cướp,quân xăm lăng Quốc Tế Cộng Sản làm xấu hổ chủ nghĩa Mác-Lenin và manh tiếng kẻ bại trận,đầu hàng Cộng sản Nga Tàu khi Hoa Kỳ đánh mất tự do dân chủ Miền Nam VNCH!?
Sứ Giả Hòa Bình và Thông Điệp Tự Do-Dân chủ cho Việt Nam!
Qua hai cuộc trao đổi liên tục như con thoi của hai phái đoàn Hoa Kỳ đến Việt Nam trong đầu xuân mới Asean-Đông Nan Á Thái Bình Dương, được cho là động thái quyết tâm cấp bách phục hồi nền kinh tế Mỹ đang suy trầm.Để tạo sự ủng hộ,chiến thắng trong cuộc bầu cữ nhiệm kỳ2 của Barack Obama trong tháng 11-2012,và cũng tạo một niềm tin tưởng đáng tin cậy cho các đồng minh và đối tác kinh tế trong khu vực Đông Nam Á/TBD, khi TT.Barack Obama tuyên bố trở lại Biển Đông ÁTBD phục hồi lại kinh tế suy thoái Hoa Kỳ.
Muốn làm được điều này,trước hết phải giải quyết hiện tình Việt Nam đang nằm trong thế kẹt của Cộng Sản Trung Quốc chiếm trọn lãnh hải một vùng “Lưỡi Bò-Chín Đoạn” rộng lớn hơn 80% Đông Nam Á/TBD, là nhờ vi phạm trắng trợn HD Paris/73 của 2 kẻ thù CSVN và Trung Cộng do sự bao che,dễ dàng trong trao đổi mở cửa thị trường đông dân Trung Quốc Của Hoa Kỳ năm 1972 giữ Nixon và Mao Trạch Đông TQ. Và vùng Lưỡi Bò nằm áng ngữ ngả tư giao thương quốc tế,từ Đông Sang Tây của Thái Bìng Dương và Ấn Độ Dương;từ Bắc tới Nam của khu vự biển Đông Á/TBD do bị Hoàng Sa của CSTQ và CSVN chiếm đóng kiểm soát, và khống chế giao thương quốc tế,và ảnh hưởng thất bại đến tự do mậu dich xuyên Thái Bình dương –TPP- của Hoa Kỳ .Vì thế Mỹ phải dùng sức mạnh quân sự “Win-Spoil” vừa mới chế tác ra để yễm trợ phục hồi kinh tế Hoa Kỳ,và luật quốc tế LHQ về biển{Unclos},hay nguyên tắc ứng xử biển đông{COC} ra áp dụng với Cộng Sản TQ và VN,để đòi lại quyền Tự Do hàng hải và quốc tế hóa Biể Đông Á.Nhưng chưa chắc gì chấp thuận hòa bình biển Đông của kẻ bành trướng Bắc Kinh nuôi tham vọng làm kinh tế sô1 toàn cầu và đè bẹp,nhấn chìm kinh tế Mỹ hết chỗ ngóc đầu lên,với lý do đây là vùng kinh tế đặc quyền Cộng Sàn, “Kinh tế Dịnh Hưo1ng Xã Nghĩa Cộng Sản” bách chiến bách thắng,không bao giờ suy thoái trên toàn cầu!?
Vì muốn được niềm tin của của đồng minh buôn bán trong khu vực Asean và thắng lợi trong bầu cữ nhiệm kỳ2, nên TT Barack Obama phải đưa Trung Quốc Cộng Sản và Cộng Sản VN vào thế vi phạm H Đ Paris/73 do Trung Cộng chiếm đóng của VNCH ngày 19-1-1974,Và Cộng Sản Bắc Việt tiến chiếm Sài gòn/Miền Nam/VNCH và lôi cả quốc tế LHQ vào cuộc thi hành H D Paris.Đó là lý do rất thuyết phục cho đồng phạm TQ và VN ra Hội Đồng Bảo An LHQ thi hành bản lệnh tội ác và phải trả lại quyền tự chủ dân tộc cho Việt Nam tự quyết định Tự do, dân chủ chinh mình, cho công cuộc gia nhập vào cộng đồng thế giớiTư do Mậu dịch.
Có được như vậy TT.Obama mới giữ trọn miền tin và giữ chữ tín, bảo vệ đồng minh, không bán đứng bạn bè như VNCH trước đây,thì kinh tế mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương-TPP- mới được thành công cho phục hồi kinh tế nước Mỹ và thắng cữ nhiệm kỳ 2 của TT Barack Obama trong trạng thái thanh-thãng làm tròn trách nhiệm mang lại tự do,dân chủ dân tộc Viêt Nam.Và làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của Thượng Đế cho Hòa Bình Việt Nam, mà tiên tri Vũ Trụ Trần Dần chúc phúc dân tộcViệt Nam!!!
Huỳnh Mai St.8872
Rút Quân Tây Nguyên, Chiến Lược NIXON hay Chiến Thuật Đầu Hàng Cộng Sản Bắc Việt của TT Nguyễn Văn Thiệu!?.
Thượng và Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ cảnh cáo cho biết nếu TT Nguyễn Văn Thiệu không ký dự thảo Paris khi Cộng Sản Bắc Việt không rút 120.000 Cộng Quân ra khỏi miền Nam VNCH.vì vậy, gây trở ngại hòa đàm thì Quốc Hội sẽ ra luật rút quân để đổi lấy tù binh, cắt hoàn toàn viện trợ, đưa ra Hạ Viện với tỷ lệ 2-1, nếu không có viện trợ Sài Gòn sẽ chết ngay.
Lời nhắn của Quốc Hội Mỹ cho ông Thiệu VNCH biết rằng họ muốn nói gần như công khai sẵn sàng đánh đổi Đông Dương lấy 580 tù binh Mỹ còn bị BV giam giữ, đối với họ chỉ có sinh mạng của tù binh Mỹ mới là quan trọng, sinh mạng của cả Đông Dương không nghĩa lý gì. Về điểm này trong No More Vietnam trang 142, Nixon cũng nói như vậy, nhưng ông Thiệu vẫn không tin cho là họ chỉ hù dọa chứ không dám bỏ Đông Dương, cho tới tháng 3-1975 ông vẫn không tin Mỹ bỏ miền nam VN và đã tháu cáy giả vờ thua chạy, cho rút khỏi Pleiku giữa tháng 3-1975 để dụ cho Mỹ trở lại, hậu quả đưa tới sụp đổ VNCH thật nhanh chóng.Vì người ta quá chán ngán chiến tranh đông dương đang xẩy ra tại Việt Nam. {Tg;Trọng Đạt}
Ông Thiệu rút quân khỏi Tây Nguyên Trung phần là thi hành Hiệp Định Paris do Mỹ và Quốc Hội Hoa Kỳ bắt ép. Và đã trở thành một thất sách của hàng bại tướng chiến lược QL.VNCH, vì nghe theo lời hù dọa, áp lực của Hoa Kỳ cúp viện trợ quân sự cho VNCH, nên phải rút về bảo vệ thành lũy cuối cùng Sài Gòn của vùng 4 chiến thuật đồng bằng sông Cửu Long - Lũy tuyến Tự Do còn lại của VNCH.
Quân Đoàn I, thuộc Quản Trị, Thừa Thiên, Huế; trở vào Quân Đoàn II, Pleiku Kom Tum, và Nha Trang Bình Thuận-Phan Thiết là phần đất được Hoa Kỳ chỉ định ông Thiệu phải trao lại cho chính phủ Lâm Thời Mặt trận GPMNVN có đất, hay lãnh thỗ để thành lập chính phủ Lâm Thời Việt Cộng nằm vùng gọi thành phần thứ 3 được Mỹ chấp nhận trong Hiệp Định Paris/73 và được dân Miền Nam phản chiến; biểu tình; đề cữ, ủng hộ việt Cộng Giải Phóng Miền Nam VN.
Kissinger - Hoa Kỳ - được Lê Đức Thọ - Hà Nội- hỏi: Hoa Kỳ chấp nhận sống chung với TQ và đối xử ra sao với đồng chí CS bắc Việt, và được trả lời: ”Sống chung được với TQ, thì phải chấp nhận hòa bình với tôi tớ ông chủ”. Và vì thế ông Thiệu phải cam tâm hy sinh quân lính-chiến sĩ VNCH- rút quân chiến thuật, đưa lưng làm bia đỡ đạn Việt Cộng. Tay bồng tay bế con thơ, dắt vợ chạy trong lửa đạn… và dưới nước mắt thương đau của ông Thiệu đang khóc trong Tòa Bạch Ốc - White House - tại vịnh Cam Ranh-10-4-1975, chứng kiến cuộc di tản rút quân thiếu chiến thuật này do người Mỹ gây nên.
Rút quân Tây Nguyên là sách lược chống Cộng của VNCH, của ông Nguyễn văn Thiệu.
Chiến tranh Việt Nam tự nó không có thắng và thua giữa Bắc Việt và Nam Việt Nam, và nó biến chuyển tùy theo tình hình quyền lợi được sắp đặt giữa hai khối Tư Bản Hoa Kỳ và Cộng Sản Nga Tàu chia vùng ảnh hưởng, thống trị làm ăn, còn tự do dân chủ VNCH đứng sang bên lề thắng bại chiến-tranh. Vì thế Lê Duẩn Cộng Sản nói chiến thắng miền Nam là thắng giùm cho Nga Tàu.
Rút quân Tây Nguyên là thế của Miền Nam phải rút, khi viện trợ quân sự Hoa kỳ cắt giãm, rút quân giao đất, nhường vùng lãnh thổ VNCH cho MTGPM lập chính phủ lâm thời Cộng Hoà Miền Nam VN.
Ông Thiệu bị Nixon của Mỹ hăm dọa cắt bỏ cái đầu nếu không chịu ký kết H.Đ Paris/73 theo ý muốn quyền lợi kinh tế với TQ, và bầu cữ nước Mỹ. Quốc Hội Hoa Kỳ ra đạo luật rút quân, cúp viện trợ quân sự VNCH do dân Mỹ phản chiến bỏ rơi chiến tranh VN, trả con em trở về với họ. Đứng trước tình hình chiến sự nguy cấp nên ông Thiệu phải rút quân, bảo toàn lực lượng và bỏ lại một phần đất tự do -Tây Nguyên - cho địch chiếm theo áp lực cắt bỏ viện trợ quân VNCH, để tiếp tay cộng quân Bắc Việt vẫn còn hiện diện đóng quân tại miền Nam VNCH, được Hoa Kỳ và quốc tế LHQ cho phép tồn tại trong HĐ Paris/73 đã được ký kết.
Tất cả trách nhiệm mất tự do miền Nam, phía Mỹ đổ lỗi cho VNCH: “Không chịu chiến đấu bảo vệ tự do cho chính dân tộc mình”. Ông Thiệu phải nuốt hận, câm nín làm thinh cho đến ngày chết, không biện hộ, không kết tội người bạn đồng minh Hoa Kỳ hứa lời cam kết rồi phản bội khi VNCH ký kết xong HĐ Paris -27-1-1973.
TT Nixon nói: “Tới đoạn cuối nếu Hà Nội vi phạm, họ sẽ bị trả đũa nặng nề. Đô Đốc Moorer đã thảo kế hoạch khẩn trương 3 và 6 ngày cho kế hoạch đòi hỏi để tấn công BV. Ban Tham Mưu phải thực hiện chặt chẽ kế hoạch, gài mìn trở lại và xử dụng B-52 oanh tạc Hà Nội, nếu BV vi phạm Mỹ sẽ giáng trả hết cỡ, chúng ta phải giữ một lực lượng tại địa điểm để thi hành. Sự giáng trả BV phải ồ ạt hữu hiệu, trước hết B-52 phải nhắm vào Hà Nội.”
Một Bại Tướng Đầy Nhiệt Lòng Yêu Nước!
Ông TT. Thiệu là một tổng tư lệnh QL. VNCH và các sĩ quan tướng lãnh quân đội miền nam được đào tạo chỉ huy quân sự trong các nhà trường quốc tế Pháp-Mỹ, và dày dạn trong chiến trường Việt Minh chống Pháp; đầy đủ kinh nghiệm mặt trận điện Biên Phủ -Bắc Việt Nam- lại phải bỏ trống Tây Nguyên, vị thế chiến lược quan trọng – Nóc nhà Tây Nguyên- Trung phần miền Nam VN để rồi lần lượt mất cả miền Nam VNCH vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt ngày 30-4-1975.
Quân Cộng Sản Bắc Việt chiếm đóng Sài Gòn với quân số 15 sư đoàn CSBV, xiết chặt vòng lửa bảo vệ thủ đô Saigòn của chiến sĩ VNCH cùng năm trái bom CBU-Bom ngạt chân không- bị đồng minh mỹ tháo ngòi nổ…và đổ thêm 2 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ từ Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi Vũng Tàu vào Sài Gòn bảo vệ các yếu nhân Mỹ chưa kịp rút đi bằng trực thăng đậu trên các cao ốc Sài Gòn, với mục đích đề phòng quân nhân, chiến sĩ VNCH bắt tù binh Mỹ làm con tin cuộc chiến vì phẩn nộ không có ngòi nổ cho 5 trái CBU - Tiểu Nguyên Tử - này, tức là Mỹ muốn giao Sài Gòn cho Cộng quân Bắc Việt. Và Mỹ viên cớ không can thiệp vào VN theo H Đ Paris/73 khi quân Cộng Sản bắc việt được quyền uy hiếp Sài Gòn và sẵn sàng vi phạm H Đ Paris 30-4-75.Vậy đâu là phản bội đồng minh cũa Mỹ!???
Sài Gòn bị quân Cộng Sản Bắc Việt chiếm đóng trước phản ứng tự vệ để bảo vệ gia đình,thân nhân và chiến hữu đơn vị mình không bị trả thù của bọn Việt Cộng nằm vùng… và các đảng phái cách mạng 30,giờ thứ 25 nổi dậy trả thù quân- dân, cán- chính VNCH,trước lời kêu gọi đầu hàng của tên Việt Gian Cộng Hòa T.T Dương Văn Minh,trong sự tức tối căm hờn của chiến Sĩ Tự Do VNCH.cho ngày “Gãy súng tan hàng” tối tăm đất nước!?
Sàigon chiến bại, nhưng không đổ nát, hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vì lòng nhân đạo của chiến sĩ VNCH biết tôn trọng của cãi và tư hữu và quyền sống tự do người dân miền Nam. Nên khi Cộng Sản miền Bắc vào Sài Gòn và cả nông thôn miền Nam để tiếp thu, được quân dân cán chính VNCH bàn giao cơ sở vật chất còn nguyên vẹn không thất thoát, hư hao hay bị đốt phá. Và cũng từ đây ta thấy đâu là chính nghĩa Tự do của Người Việt Quốc Gia, và đâu là phi nhân, phi nghĩa của người Cộng Sản khi bắt tù binh VNCH vào tù cải tạo và cướp bóc tài sản, làm hằng triệu người dân miền Nam sợ hãi bỏ nước ra đi tìm tự do của hàng trăm ngàn người bỏ xác trong lòng đại dương biển cả…
Nhờ sự kiện và biến cố “Giải Phóng Miền Nam” ngày 30-4-1975 đã làm lộ ra chân tướng sự thật của các đoàn thể nhân dân trí thức, nhân sĩ và các hội đoàn xã hội là cơ sở bí mât hoạt dộng cho Việt Cộng nằm vùng. Các giáo hội tôn giáo là cơ sở tổ chức che dấu hoạt động phong trào sinh viên, quân chúng phản chiến của phiếm quân Cộng Sản Nằm vùng: “Đánh cho Mỹ cút-Ngụy nhào”. Họ “ăn cơm quốc gia và thờ ma Cộng Sản”
Với dân tình đất nước như thế này: mất nước là phải rồi!? trách nhiệm là lỗi của VNCH, chỉ biết xử dụng thành phần Việt gian cộng Sản vào nằm vùng trong tổ chức chính phủ VNCH.Kễ từ khi dệ nhất cộng hòa do TT Ngô Đình Diệm chấp chính,rồi sụp đổ 1963 .Và Mỹ đưa quân vào biển Đà Năng 1965.và kể từ đó dân Miền Nam theo Cộng Sản Miền Bắc thì nhiều,Thậm chí vùng nông thôn,hết 85% theo Việt Cộng và có mật cứ nuôi quân VC/GPMN…
Đáng lý ra Mỹ không nên đưa quân vào Miền Nam VNCH là thất sách chính trị,và tạo bằng chứng cho Cộng Sản miền Bắc tuyên truyền lòng yêu nước trong toàn dân để chống “Mỹ xâm lược, tay sai VNCH” vô tình mất chính nghĩa Người Việt Quốc Gia, và đẩy người dân về phía địch, do VC đánh lừa dối dân tộc, cho một chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai.
Một Chủ Nghĩa Pha Màu Dân Tộc!
Từ khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam Tự Do/VNCH, tìm vùng đất hứa của chủ nghĩa ngoại lai Cộng Sản, thì người dân miền Nam mới thực sự thực hiện ước mơ sống chung hòa bình với người anh em Cộng Sản Bắc Việt. Đây là một cuộc pha trộn, đổi màu dân tộc, từ màu vàng của Tự Do, trộn lẫn màu đỏ máu Cộng Sản người dân miền Nam nhận được môt màu “Tim tái-đỏ bầm” rỉ máu con tim dân tộc. một màu biểu tượng chiến thắng;có pha màu máu vết thương kẻ chiến bại miền Nam. Khi biết được thì đã muộn màn, khánh kiệt nguồn lực sống, và liệt kháng toàn dân khi trót lở lầm đặt miền tin yêu vào sự vong bản,phản bội quê hương của CSVN.
US Marines - South Vietnam 1966
Đây là phát kiến độc đáo của Tướng Một Mắt Do Thái Moshe Dayan sang thăm chiến trường Miền Nam Việt Nam,và gửi lại một lời cố vấn quân sự cho Tổng Tống Nguyễn Văn Thiệu với một quốc sách chiến lược VNCH; “ Muốn thắng Cộng Sản,phải biết thua Cộng Sản trước đã!.lùi một bước ,để tiến lên 3 bước”.Tức thua một Miền Nam mà thống nhất tư tưởng ,ý chí tự do chống Cộng cả 3 miền Nam- Trung- Bắc; để sau này giải phóng thủ đô Hà Nội; đòi lại chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa sau những năm dài mất nước trước tỉnh thức của toàn dân biết sống chung cùng nỗi đau thương do Cộng Sản gây nên, mới vở lẽ thế nào sống chung cùng xã hội Cộng Sản.
Trước khi thi hành chiến lược “Thụt lùi” của tướng Do Thái Moshe Dayan và lời khuyến cáo “Khổ nhục kế” chân tình của TT Lý Quang Diệu-Singapore- nên ông Thiệu chịu nhục nhã mang 16 tấn vàng của ngân khố VNCH,xin thế chấp cho Mỹ và vay mượn 300.triệu đô la mua đạn dược cho quân sĩ chiến đấu cầm cự 3 tháng,đợi giải pháp chính trị tự do trung lập cho Miền Nam VN, nhưng bất lực không thành…với người Mỹ quyết tâm cúp viện trợ và tướt quyền Tự Do miền Nam VNCH,trói tay bức tử QL.VNCH trao cho Quân Cộng Sản Bắc Việt Hà Nội. Và lịch sử sẽ phán xét Công và Tội của TT Nguyễn văn Thiệu khi tự do và hòa bình trở lại quê hương Việt Nam…!
Ông Thiệu dù không có tài cầm quân khiển tướng nhưng nhiệt lòng yêu nước .Và đã xô đẩy Việt Nam vào hoàn cảnh khốn cùng phải sống chung hòa bình với Cộng Sản miền Bắc để thử thách và đánh thức niềm tin dân chủ, tự do miền Nam của người Việt Quốc Gia đã ngủ yên trong lòng dân Việt; dể lại cho đời câu nói mai sau: ‘Đừng tin những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”.
Tự Chủ -Tự Quyết Dân Tộc Là Giá Trị Tự Do Việt Nam!
Suốt 37 năm nay-2012 - người dân cả nước đang chiến đấu cho tự do, dân chủ Việt Nam không biết mệt mỏi, với nhiều hình thức, tù nhân chiến tranh trong tù cải tạo Cộng Sản, đi vùng kinh tế mới, và tìm cách vượt biên của hàng triệu người miền Nam không chấp nhận Cộng Sản.
Ngay đến người dân Cộng Sản miền Bắc cũng phản tỉnh, nên hoạt động, tranh đấu đòi quyền dân chủ, nhân quyền bị áp bức độc tài đảng trị CSVN bị khống chế chủ quyền biển đảo Việt Nam.Dù phải tù tội cũng không nản chí, sờn lòng cho một ngày mai thành công dân chủ, nhân quyền và quyền tự chủ-tự quyết dân tộc.
Nhưng không thể quyết đoán,và đổ lỗi hoàn toàn trách nhiệm cho Hoa Kỳ bán đứng Miền Nam VNCH. Và mong muốn sự góp sức, góp công của Mỹ cho Việt Nam mau chống tiến đến độc lập,dân chủ hòa bình dân tộc. Hiện nay,Hoa Kỳ không còn xem Việt Nam là món hàng hóa lẫn quyền lợi trao đổi với Trung Quốc Cộng Sản khi hai nền kinh tế cạnh tranh nhau quyết liệt.Cho đến hôm nay đang xảy ra xung đột quyền lợi kinh tế tại biển Đ.Á/TBD. Vì dù sao Mỹ cũng mắc nợ Việt Nam vì thiếu trách nhiệm trên tinh thần tự do, an ninh hòa bình thế giới, vì lý do nội tại theo chủ thuyết:
Hiện Sinh Tư Bản Thực Dụng Chủ Nghĩa Hoa Kỳ
Phát sinh từ chủ nghĩa anh hùng trong cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ 1865 được cả thế giới tôn vinh là dân tộc văn minh, độ lượng và anh hùng, nên đã trao cho danh dự, trách nhiệm giữ gìn an ninh, hòa bình thế giới Tự Do. Nhưng vì Hoa Kỳ phải sống cho thực tế theo chủ nghĩa “Hiện Sinh Tư Bản” cho dân tộc mình lớn mạnh và giàu có bằng cách làm Kinh Tế là nguồn sống thực tế của Hoa Kỳ để mưu cầu tự do và hạnh phúc cho dân tộc đang lên cũa Mỹ, do đó ta không nên trách Mỹ bán đứng VNCH vì quyền lợi sống cho họ nên đánh mất tự do, hòa bình dân chủ của Việt Nam. Hãy chấp nhận sự thật và nhận lãnh trách nhiệm về mình. Phải can đảm đứng dậy từ nơi té ngả của mình, để đòi lại quyền tự chủ, tự quyết cho Việt Nam, sau đó bạn bè thế giới và đồng minh Hoa Kỳ sẽ giúp mình. Vì muốn phục hồi kinh tế toàn cầu và tìm sự sống còn cho Xã Hội Hiện Sinh Tư Bản Mỹ, bắt buộc họ sẽ quay trở lại Việt Nam và giúp tìm lại tự do dân chủ mà họ đã bỏ rơi suốt 37 năm qua kể từ 30-4-1975.
Tự Do-Hòa Bình Việt Nam Gắn Liền Phục Hồi Kinh Tế Hoa Kỳ!
Hoa kỳ trở lại Đông Á/TBD cho phục hồi kinh tế nước Mỹ suy thoái trầm trọng.TT Barack Obama đến Honolulu-Hawaii thuộc châu á TBD để thiết lập khối mậu dịch thị trường Tự Do xuyên TBD gọi tắt TPP, ngày 11-11-2011 để đối trọng lại nền kinh tế đang phát triển bành trướng của Trung Cộng đang lấn dần và thao túng quyền lực lên khối kinh tế các nước Asean-Đông Nam Á- bằng tranh chấp chủ quyền Biển Đông Á.
Hoa Kỳ tuyên bố: Đông Á/TBD là “Quyền lợi cốt lõi của Mỹ có truyền thống xưa nay với đồng minh Hoa Kỳ trong mậu dịch buôn bán”.và Mỹ có quyền bảo vệ bạn hàng buôn bán đồng minh của mình bằng con đường Tự Do hàng hãi được quốc tế hóa của LHQ.
Việt Nam là một trong 6 nước có chủ quyền tranh chấp với Trung Quốc, nhưng vì là đồng khối Cộng Sản với Trung Quốc, nên Trung Cộng có quyền lấy biển đảoVN làm ao nhà,và mặc nhiên vẻ cung đường lưỡi bò chín đoạn bao gồm quần đảo Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam đầy triển vọng tiềm năng dầu mõ, khí đốt. Và cũng là năng lượng, chiến lược của Hoa Kỳ và Trung Cộng tìm cách làm chủ biển Đông Á/TBD. Hơn nữa Trường Sa của VN là điểm giao lưu, ngã tư quốc tế hàng hải hội tụ nhiều thủy hải sản cá tôm, do có hai dòng nước nóng và lạnh của thế giới chảy qua. Vì thế Trung Quốc Cộng Sản Muốn VN là mãi mãi của Tầu Cộng, để Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên 8o% trên biển đông Á/TBD. Là điều không thể được trên đường phục hồi kinh tế của Hoa Kỳ sau khi rãnh tay; chấm dứt chiến tranh dầu hỏa tại Trung Đông.
Việt Nam là một nước bị Hoa Kỳ bỏ rơi trong cuộc chiến tranh Vn trước năm 1975, và nay trở thành thuộc phiên một tỉnh của Trung Quốc Cộng Sản có lãnh thổ mở rộng về phương Nam-Đông Á/TBD,là bàn đạp, căn cứ đóng vững chắc trong cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ và đồnng minh trong tranh chấp ngôi vị sô1 kinh tế toàn cầu xuất phát từ đây. Với vị thế chiến lược có Việt Nam là ngòi nổ chiến tranh xẩy ra, không thể tránh được một cuộc chiến khu vực biển Đông á/TBD cho tranh chấp dầu hỏa, và dẩn đến chiến tranh thế giới thứ 3.
Việt nam có “ Quyền lợi cốt lõi trong chiến tranh!?” nên VNCS ra sức khai thác quyền lợi bằng trò đu dây qua lại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc để tìm sự tồn tại CSVN giữa hai lằn đạn bạn và thù: “Theo Tàu thì mất nước, còn Đảng theo Mỹ,còn nước mất đảng…”. Vậy giải pháp thứ 3 là đu dây là an toàn cho đảng CSVN tồn tại… mới là khôn ngoan của đỉnh cao trí tuệ CSVN.
Hoa Kỳ là một con buôn tầm cở quốc tế không thua gì sư phụ “Ba Tàu Cộng Sản”. Biết rõ đâu là quyền lợi “Cốt lõi Hoa Kỳ” khi trở lại Đông Nam Á/TBD,họ muốn CSVN làm “Đối tác tác chiến lược, cân bằng quyền lực Trung quốc tại Biển Đông”, thì đổi lại mỹ sẽ bồi thường chiến tranh trong chất độc da cam-dioxin với nình thức nhân đạo cho VN,theo tuyên bố của bà Ngoại Trưởng Hillary Clinton ngày 23-7-2010 tại Hà Nội với TT Nguyễn Tấn Dũng và nhà ngoại giao Phạm Gia Khiêm CSVN. Không phải Mỹ tử tế và nhân đạo gì với VN, là vì Hoa Kỳ muốn lấy “Gậy ông đập lưng ông” nên tạo dựng ra màn bi kịch, xúi Cộng Sản TQ đánh CSVN: “Dạy cho VN bài học vô ơn” và chạy theo Mỹ - kẻ thù của TQ. Và VN là ngòi nổ nguy hiểm chiến tranh Trung-Việt không thể tránh né được. Hoa Kỳ cũng biết rỏ CS Hà Nội không đáng tin cậy và không anh hùng dám đánh Trung Cộng như trận hải chiến Hoàng Sa-19-1-1974- của đồng Minh cũ VNCH, mới thật đáng tin tưởng hơn CSVN.
Cộng Sản Việt Nam sắp tới đây sẽ bị Trung Cộng đánh trong tháng 8 đến tháng 10-2012 theo đúng kế hoạch tranh cử bầu phiếu của TT Obama muốn kiếm phiếu để giành phần thắng về mình, nên phải sớm khấy động biển Đông Châu Á/TBD cho dân Mỹ tin tưởng Obama có khả năng phục hồi kinh tế nước Mỹ, và đem lại công ăn việc làm cho thất nghiệp Hoa Kỳ bằng hành động thực tế chính trị, quân sự hổ trợ kinh tế Hoa Kỳ có dấu hiệu đang lên theo thắng cử nhiệm kỳ II của Obama, để cạnh tranh sống còn gay gắt với TQ đang lên…
Tại sao Trung Quốc không chiến tranh vời Phi Luật Tân và các nước có chủ quyền tranh chấp với Trung Quốc. Vì các nước kia có ký hiệp ước bảo vệ chủ quyền lãnh hải khi có chiến tranh với Hoa Kỳ, còn riêng Việt Nam là cộng Sản nên không có hiệp ước hổ tương quân sự với Hoa Kỳ, nếu bị Trung Quốc đánh là ráng đở một mình… vã lại từ xưa trong chiến tranh Việt Nam, các nước trong vùng Đông Nam Á có nước nào chịu chiến tranh để làm be bờ chống Công Sản, chỉ muốn VN làm tiền đồn chống Cộng - VNCH - Họ luôn xô đẩy chiến tranh ra khỏi đất nước họ để có an bình và thời gian xây dựng lại đất nước cho được phát triển kinh tế giàu mạnh cho dân họ nhờ.
Vừa qua, ngày 39-1-2012 Phi Luật Tân tập trận cùng Mỹ tạ khu vực tranh chấp chủ quyền Trường Sa bị Trung Cộng hăm dọa trừng phạt quân sự lẫn kinh tế, Phi Luật Tân liền xuống nước nhỏ để đẩy chiến tranh TQ sang phía VN. Như thể VN là bải rác chiến tranh không bằng!? Đây chính là nguồn trục lợi kiếm tiền trên xương máu, đau khổ của dân VN khi chiến tranh. Dù CSVN có tài giỏi đu dây, cũng có ngày bị đứt “cable đu” và dân tộc việt Nam lãnh đủ chiến tranh thêm lần nữa!???.
Khi Hoa Kỳ tuyên bố trở lại Đông á/TBD và thành lập khối kinh tế tự do mậu dịch xuyên Thái Bìng dương-TPP bao gồm các nước Đông –Tây-Nam Bắc bên bờ Thái Bình Dương 21 quốc gia, kễ luôn 10 nước trong khu vực Asean cũ. Nên cần phải quốc tế hóa tự do hàng hải biển Đông Á cho mục tiêu giao thương, vận chuyển hàng hóa các nước trong vùng, mà Hoàng Sa và Trường Sa VN là ngã tư giao lộ hải trình quốc tế bị Trung Cộng chiếm giữ làm ao nhà và khoanh vùng bằng đường lưỡi bò 9 đoạn, bởi CSVN nằm trong hệ thống khối Cộng Sản, nên gây trở giao thương quốc tế cho khối mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương –TPP của Hoa Kỳ. Muốn không trở ngại thì phải đưa Trung Quốc Cộng Sản trở lại thi hành HĐ Paris/73 trong chiến tranh VN, mà Trung Cộng và Hoa Kỳ đồng chủ tịch hội đồng ký HĐ Paris có giám sát quốc tế LHQ và 12 nước thuộc 2 khối Cộng Sản,Tự Do ký thi hành. Và Sau đó Trung Quốc và Cộng Sản Hà Nội vi phạm HĐ Paris. Kẻ dưới biển-Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa của VNCH 19-1-1974; trên bờ CS Bắc Việt tấn công chiếm đóng Saigon Miền Nam VN 30-4-1975. Đó là lý do căn bản vững chắc không thể phủ nhận của Trung Quốc và CSVN phải rả lại quyền biển đảo cho VNCH để Mỹ và LHQ thi hành H Đ paris/73 và Quốc Tế hóa tự do hang hải biển Đông Á/TBD. Và trả lại Tự Do,độc lập chủ quyền dân chủ cho Việt Nam.
“WIN-SPOIL” Học Thuyết chiến lược quân sự Hoa Kỳ.
Đây là chiến lược đổi mới quân sự Hoa Kỳ dùng làm công cụ, phương tiện, và yễm trợ Chiến Tranh Kinh Tế giữa Mỹ và TQ. Nét đặt thù trong chiến thuật hành quân mới lạ; hoàn toàn thay đổi đối sách chiến lược Win-Win {Cùng thắng} của Hoa Kỳ. Nó có ý nghĩa tìm “Thắng lợi trong thất bại”. Đúng! Chỉ cần một đạo quân nhỏ với kỹ thuật tác chiến cao và các phương tiện vũ khí khoa học “kỹ thuật số” cao; có bom định vị xuyên phá hầm ngầm trong lòng đất; có hỏa tiển xuyên lục địa từ ngoài biển khơi bắn vào, và hỏa lực tàng hình vượt qua màng lá chắn đạn đối phương… Tìm mục tiêu căn cứ địch bằng vệ tinh định vị toàn cầu ,là Hoa Kỳ không cần quân đội nhiều để đưa quân chiếm cứ đất đai, lập căn cứ và phải đóng quân cố định trong lòng địch mới được gọi là chiến thắng… Nay căn cứ là mục tiêu di động trên chiến trường biển khơi, rất khó bị phát hiện và tấn công của địch, nên dể bảo tồn lực lượng và duy trì khả năng tác chiến, như cuộc chiến tranh khoa học “Giữa Các Vì Sao”. Rất thích nghi, có điều kiện cho chiến trường Đông Á/TBD giữa Mỹ và Trung Quốc.
Chiến Tranh Kinh Tế
Một cuộc chiến không cần chiếm đất, đóng quân và bảo vệ căn cứ rất hao quân, tổn tướng, tốn hao chi phí quốc phòng. Chỉ cần đóng quân, lập căn cứ quân sự ngoài xa khơi biển cả với căn cứ, mục tiêu di động của Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử Hoa Kỳ trên biển Trung Hoa, cứ nả pháo vào lục địa Trung Cộng, tìm diệt và phá hủy các nhà máy, cơ sở sản xuất, làm tê liệt khả năng kinh tế đối phương,không cần đổ quân chiếm đóng… Vừa rồi, 2-2-2012 Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ họp tham mưu Hải Quân Phi Luật Tân, tăng cường vũ khí tối tân và hạm dội hiện đại cho các căn cứ nổi và biết di động trên biển, không cần căn cứ cố định trên đất liền của Phi theo hiệp ước quân sự cho phép Mỹ đóng quân trên đất liền-năm 1999-vì chiến lược quân sự Win-Spoil cần có sự di chuyển, điều động quân cho hai mặt trận ở Trung Đông và Đông Nam Á Châu.
Đánh cho TQ sập tiệm, làm mất khả năng cạnh tranh kinh tế toàn cầu và khu vực Đông Á/TBD. Nâng kinh tế Hoa kỳ được phục hồi ngôi vị số 1 toàn cầu. Đó là học thuyết chiến lược quân sự toàn cầu “Win-Spoil” dùng cho Chiến Tranh Kinh Tế của TT Barack Obama và Bộ Tham Mưu quốc phòng Hoa Kỳ khởi xướng, ngày 5-1-2012 để yểm trợ cho sách lược kinh tế mậu dịch tự do Xuyên Thái Bình Dương-TPP- tại Bali-Hawaii,ngày 11-11-2011,khi TT Obama tuyên bố trở lại Châu Á TBD, để phục hồi kinh tế Mỹ trong suy trầm.
Với chiến lược quân sự thay đổi toàn cầu nầy của hoa kỳ, và rất thích hợp cho cuộc giãm quân số, tiết kiệm ngân sách quốc phòng 480 tỷ đô la trong 10 năm sắp tới của Hoa Kỳ trong đợt phục hồi kinh tế Mỹ sắp tói.
Một cuộc chiến vĩ đại giữa hai thế giới có nền kinh tế khác biệt,dị đồng về cơ chế tổ chức,và điều hướng kinh tế tăng trưởng,cạnh tranh nhau,giữa“Kinh Tế Định Hướng Xã Nghĩa” và “Kinh Tế thị trường Tự Do” đều có tính ưu điểm của “Các Vì Sao kinh tế số 1 toàn cầu” để cạnh tranh thế đứng trên thế giới giữa Trung Cộng Và Hoa Kỳ trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Một điều ta lấy làm lạ,cứ nhìn vào hiện suy trầm kinh tế của Hoa Kỳ, thì bất cứ phe đối nghịch nào cũng cho rằng Tư Bản chủ nghĩa dang dẫy chết và kinh tế tư bản Hoa Kỳ suy thoái tiêu vong,mất khả năng lãnh đạo kinh tế toàn cầu, nên thay thế Mỹ kim bằng đồng Nhân Dân tệ TQ. Nhưng qua lịch sử lập quốc và phát triển kinh tế của Hoa Kỳ,chúng ta đồng thấy sức mạnh nội tại của dân tộc Mỹ là sức trẻ trung, năng động và có tri thức tự do tổng hợp của nhiều sắc dân trên thế giới. Cứ vài chục năm phải có một lần đáo hạn suy trầm Kinh tế và Hoa Kỳ hay đi tìm chiến tranh về “Kinh Tế” với các nước gây nên suy trầm cuộc sống dân Mỹ, và thụt lùi giá trị đạo đức tự do cho nước Mỹ.
Việt Nam Cộng Sản Mất Cơ Hội Đu Dây!
Vì chiến lược chiến tranh kinh tế của Win Spoil không có nhu cầu lãnh thổ đất đai để lập căn cứ cố định trên địa thế VN, nên vai trò Đối Tác Chiến Lược cân bằng quyền lực Trung Quốc tại biển đông của CSVN là không cần thiết. Trong đợt cắt giãm quân số, tái bố trí quân lực Mỹ được tinh nhuệ và hiện đại hóa khả năng tác chiến đáp ứng nhu cầu chiến trường linh hoạt hơn. Hay nói chính xác hơn,Hoa Kỳ cắt cable đu dây của CSVN, không cần đối tác chiến lược, vì Hoa Kỳ thừa biết CSVN thà mất nước hơn là mất đảng VC đương quyền lãnh đạo VN, nên không cần đôi co,năn nỉ đền bù chiến tranh - chất độc da Cam - đã được Tầu Cộng trao đổi kinh tế mở cửa với Hoa Kỳ và Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Thị Bình trong bang giao bải bỏ cấm vận kinh tế VN-1965. Đây là điều nhân đạo cần sự giúp đỡ xoa dịu vết thương chiến tranh đồng lọai của phía Mỹ, mà CSVN không nên đặt thành bồi thường chiến tranh cho kẻ thắng trận Cộng Sản Miền Bắc vào cướp phá và chiếm đóng-vi phạm H Đ Paris/73,nay lại làm tiền trên những thân hình khốn khổ và dị dạng do sự tàn phá chất độc da Cam là sự tàn nhẩn vô lương tâm của con người XHCN/CSVN.
Hoa Kỳ đang thực hiện cắt cable du dây của CSVN và điều chỉnh dần chinch phục hồi giá trị tự-do, dân chủ cho dân Miền Nam VNCH khi Cộng Sản xé H Đ Paris/73 chiếm sài gòn miền Nam nay-4-1975.
Lượng Giá Tình Hình Biển Đông Á,Và Mật Ước Thi Hành… Cho Cộng Sản Việt Nam!
Học thuyết chiến lược quân sự Win- Spoil được ra đời trong ngành Lượng Giá Học Quân sự Hoa Kỳ; có sự điều nghiên, đánh giá và và cân lượng rỏ ràng cho sự chọn lựa tối ưu trên mặt trận chiến trường Đông Á để phục vụ nền kinh tế Hoa Kỳ,nên nó rất khả tín,ít sai lầm và mang lại hiệu quả giá trị kinh tế tự do mậu dịch Hoa Kỳ song hành với an ninh hòa bình thế giới.
Hoa kỳ tự hào và tự tin mang, sách lược kinh tế mậu dịch tự do Xuyên Thái Bình Dương-TPP và chiến lược quân sự Win Spoil vào vùng tranh chấp kinh tế Đông Á/TBD với Trung Cộng của TT Barack Obama tuyên bố trở lại Đông Á/TBD, mở tự do mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương, và quốc tế hóa tự do hàng hải Đông Nam Á với mục đích cốt lỏi quyền lợi cho sự phục hồi nền kinh tế suy trầm của hoa Kỳ.
Mặc dù không còn cần CSVN làm vai trò đối tác chiến lược cho Hoa Kỳ, khi có quốc sách chiến lược Hoa Kỳ-Win-Spoil- thay thế đối tác Vn cân bằng quyền lực Trung Quốc,vì biết CSVN đã ngả hẵn về phía Trung Cộng để được che chở và tồn tại đảng CSVN. Và vì Mỹ đã mạnh tay cắt cable đu dây cộng sản Hà Nội để chấm dứt hành động bỉ ôi ,vô lương tâm của kẻ chiến thắng Hà Nội trên kẻ chiến bại Miền Nam bị què quặc,dị hình-dị dạng bởi sự tàn phá chất độc da cam-Dioxin- trong chiến tranh VN…Nhưng Mỹ vẫn cữ phái đoàn 4 thượng nghị sĩ Quốc Hội Hoa Kỳ tới Hà Nội VN, gồm các NS John McCain, NS Sheldon Whitehouse, NS Joseph Lieberman và nữ NS Kelly Ayotte. Trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày thứ Năm, 19 tháng 1, 2012, các nghị sĩ Mỹ cho hay họ đã gặp một số lãnh tụ CSVN, thảo luận một số vấn đề, trong đó có cả vấn đề nhân quyền và vấn đề biển Ðông. Bản tin TTXVN tường thuật các cuộc tiếp xúc của ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng CSVN, và của ông Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch Quốc Hội, với các nghị sĩ nói trên.
Bản tin này tảng lờ những điều họ yêu cầu chế độ Hà Nội mở rộng dân chủ, trả tự do cho các người bất đồng chính kiến, trả các quyền tự do căn bản cho người dân.
Bản tin của TTXVN cũng tảng lờ những điều phái đoàn nghị sĩ Mỹ nói với ông Dũng về các vấn đề liên quan đến tranh chấp biển Ðông.
Trước khi đến Việt Nam, 4 nghị sĩ nói trên cũng đã họp báo ở Manila, cũng cho hay họ cũng đã nói chuyện với nhiều viên chức cao cấp của Philippines về chuyện tranh chấp biển Ðông (mà Philippines gọi là biển Tây Phi).
Dịp này, ông nói rằng “Hoa Kỳ sẽ làm mọi điều cần thiết để bảo vệ tự do hải hành.”
Khi phái đoàn nghị sĩ Mỹ còn ở Manila, Hoàn Cầu Thời Báo ở Bắc Kinh đả kích Mỹ chen vào tranh chấp ở khu vực.
Và tiếp theo, chưa đầy 2 tuân lễ Hoa kỳ đề cữ: Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Kurt Campbell, viên chức ngoại giao cao cấp nhất của Mỹ phụ trách khu vực Châu Á-Thái Bình nói hôm 2/2 rằng để quan hệ Mỹ-Việt tiến thêm bước nữa thì Hà Nội cần có cải thiện đáng kể về nhân quyền.
“Chúng tôi cũng nói rõ việc chúng tôi tin là vẫn còn tù chính trị, tù nhân lương tâm và những người bị giam giữ trái luật pháp [ở Việt Nam].-"Ông Kurt Campbell. Truyền thông Việt Nam khi đưa tin về chuyến thăm của ông Campbell đã không nhắc gì tới chủ đề nhân quyền.
Ông thứ trưởng ngoại giao trong chuyến đi lần này nói hiện vẫn còn lệnh cấm đối với việc cung cấp một số mặt hàng quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam. Thế nhưng, hai quân đội đã bắt đầu có các tương tác.
Hoa Kỳ đã phản ứng nhanh chóng trước các diễn biến dân chủ tích cực ở Miến Điện và chỉ 12 tiếng đồng hồ sau đợt thả tù chính trị tháng trước đã thông báo nối lại quan hệ cấp đại sứ với Nay Pi Taw.
Tuy nhiên, ông Campbell cũng cảnh báo rằng còn nhiều khó khăn to lớn trước mắt Miến Điện trong nhiều lĩnh vực, không chỉ ngày một ngày hai mà giải quyết xong.
"Tôi nghĩ các nước Asean đều ủng hộ việc Hoa Kỳ và các quốc gia khác hợp tác chặt chẽ với chính quyền Miến Điện và điều này không còn là trở ngại trong quan hệ giữa Mỹ và Asean nữa."
Hai phái đoàn vừa qua của Hoa Kỳ mang điều kiện dân chủ, nhân quyền ra yêu cầu VNCS phải thi hành để góp phần vào giải quyết ổn định khu vực Đông Nam Á/TBD. Đó là mật ước thi hành H D Paris/73, vì nó ẩn tàng Tự Do Dân Chủ của Miền Nam VNCH mà Mỹ có trách nhiệm thi hành đối với kẻ thù Cộng Sản VN, đem lại sự công bằng tự do dân chủ trả lại đồng minh, chiến hữu VNCH. Và vì lý ngoại giao tế nhị, và tính phổ quát Tự Do-Dân Chủ-Nhân Quyền đều là tính tất yếu trong thiêng liêng…! Nhưng nó lại nằm trong tư tưởng Người Việt Quốc Gia và có sẵn trong hiến pháp thể chế VNCH, bị Cộng Sản Bắc Việt vi phạm HĐ Paris chiếm đóng miền Nam VNCH-30-4-1975. Nay CSVN phải thi hành theo mật ước Hoa Kỳ cho tự do dân chủ VN, nếu không muốn mang tiếng là kẻ cướp, quân xăm lăng Quốc Tế Cộng Sản làm xấu hổ chủ nghĩa Mác-Lênin và manh tiếng kẻ bại trận, đầu hàng Cộng Sản Nga Tàu khi Hoa Kỳ đánh mất tự do dân chủ miền Nam VNCH!?
Sứ Giả Hòa Bình và Thông Điệp Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam!
Qua hai cuộc trao đổi liên tục như con thoi của hai phái đoàn Hoa Kỳ đến Việt Nam trong đầu xuân mới Asean-Đông Nan Á Thái Bình Dương, được cho là động thái quyết tâm cấp bách phục hồi nền kinh tế Mỹ đang suy trầm.Để tạo sự ủng hộ,chiến thắng trong cuộc bầu cữ nhiệm kỳ 2 của Barack Obama trong tháng 11-2012,và cũng tạo một niềm tin tưởng đáng tin cậy cho các đồng minh và đối tượng kinh tế trong khu vực Đông Nam Á/TBD, khi TT. Barack Obama tuyên bố trở lại Biển Đông ÁTBD phục hồi lại kinh tế suy thoái Hoa Kỳ.
Muốn làm được điều này, trước hết phải giải quyết hiện tình Việt Nam đang nằm trong thế kẹt của Cộng Sản Trung Quốc chiếm trọn lãnh hải một vùng “Lưỡi Bò-Chín Đoạn” rộng lớn hơn 80% Đông Nam Á/TBD, là nhờ vi phạm trắng trợn HD Paris/73 của 2 kẻ thù CSVN và Trung Cộng do sự bao che, dễ dàng trong trao đổi mở cửa thị trường đông dân Trung Quốc Của Hoa Kỳ năm 1972 giữa Nixon và Mao Trạch Đông TQ. Và vùng Lưỡi Bò nằm áng ngữ ngả tư giao thương quốc tế,từ Đông Sang Tây của Thái Bìng Dương và Ấn Độ Dương; từ Bắc tới Nam của khu vự biển Đông Á/TBD do bị Hoàng Sa của CSTQ và CSVN chiếm đóng kiểm soát, và khống chế giao thương quốc tế,và ảnh hưởng thất bại đến tự do mậu dịch xuyên Thái Bình Dương –TPP- của Hoa Kỳ. Vì thế Mỹ phải dùng sức mạnh quân sự “Win-Spoil” vừa mới chế tác ra để yễm trợ phục hồi kinh tế Hoa Kỳ, và luật quốc tế LHQ về biển {Unclos}, hay nguyên tắc ứng xử biển đông {COC} ra áp dụng với Cộng Sản TQ và VN, để đòi lại quyền Tự Do hàng hải và quốc tế hóa Biển Đông Á. Nhưng chưa chắc gì chấp thuận hòa bình biển Đông của kẻ bành trướng Bắc Kinh nuôi tham vọng làm kinh tế số toàn cầu và đè bẹp, nhấn chìm kinh tế Mỹ hết chỗ ngóc đầu lên, với lý do đây là vùng kinh tế đặc quyền Cộng Sản, “Kinh tế Định Hứong Xã Nghĩa Cộng Sản” bách chiến bách thắng, không bao giờ suy thoái trên toàn cầu!?
Vì muốn được niềm tin của của đồng minh buôn bán trong khu vực Asean và thắng lợi trong bầu cữ nhiệm kỳ 2, nên TT Barack Obama phải đưa Trung Quốc Cộng Sản và Cộng Sản VN vào thế vi phạm HĐ Paris/73 do Trung Cộng chiếm đóng của VNCH ngày 19-1-1974,Và Cộng Sản Bắc Việt tiến chiếm Sài Gòn/miền Nam/VNCH và lôi cả quốc tế LHQ vào cuộc thi hành H D Paris. Đó là lý do rất thuyết phục cho đồng phạm TQ và VN ra Hội Đồng Bảo An LHQ thi hành bản lệnh tội ác và phải trả lại quyền tự chủ dân tộc cho Việt Nam tự quyết định Tự Do, Dân Chủ cho chính mình, cho công cuộc gia nhập vào cộng đồng thế giới Tự Do Mậu Dịch.
Có được như vậy TT. Obama mới giữ trọn miền tin và giữ chữ tín, bảo vệ đồng minh, không bán đứng bạn bè như VNCH trước đây, thì kinh tế mậu dịch Xuyên Thái Bình Dương - TPP - mới được thành công cho phục hồi kinh tế nước Mỹ và thắng cữ nhiệm kỳ 2 của TT Barack Obama trong trạng thái thanh thản làm tròn trách nhiệm mang lại tự do,dân chủ dân tộc Viêt Nam. Và làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của Thượng Đế cho Hòa Bình Việt Nam, mà tiên tri Vũ Trụ Trần Dần chúc phúc dân tộc Việt Nam!!!
Huỳnh Mai St.8872
Hiệp định Paris: Khuất tất và khả năng tái hợp
Đã 46 năm trôi qua kể từ khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973 tại thủ đô nước Pháp.Vừa qua, một nhóm người từ Mỹ, Canada và tại Pháp, có người đã từng tham dự Hiệp định Paris cũng như đã từng phục vụ trong chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng hòa, đã đến thăm lại nơi chốn đã ký kết Hiệp định lịch sử này. Họ cũng là những người đang nỗ lực tái hợp lại Hiệp định Paris để tìm một giải pháp cho vấn đề biển Đông.
Số 19 đường Kleber, tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Tế (Centre de Conférences International), cách đây 46 năm, đã ghi nhận một sự kiện lịch sử: Hòa đàm Paris, nơi mà 4 thành phần (Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam) đã đặt bút để ký: “Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam” (Accords sur la fin de la guerre et le rétablissement de la paix au Vietnam, Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) thường được gọi tắt là Hiệp định Hoà Bình Paris (Accords de Paix de Paris, Paris Peace Accords) hay Hiệp Định Paris, quyết định số phận của miền Nam Việt Nam từ ngày 27/1/1973.
Trung Tâm Hội Nghị Quốc tế - nơi ký Hiệp định Paris - nay đã được chính phủ Pháp bán lại cho Tập đoàn khách sạn năm sao Peninsula (thuộc sở hữu của “The Hongkong and Shanghai Hotels” và “Katara Hospitality”, ex-Qatar National Hotels Co.) Mặc dù cư ngụ tại Pháp, nhưng lần đầu tiên trở lại nơi đây, nhìn lại cảnh cũ, Ông Phạm Đăng Sum, nguyên Phát Ngôn Nhân và Giám đốc Nha Thông tin Báo chí của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng hòa ngậm ngùi chia sẻ:
Trung Tâm Hội Nghị Quốc tế - nơi ký Hiệp định Paris - nay đã được chính phủ Pháp bán lại cho Tập đoàn khách sạn năm sao Peninsula (thuộc sở hữu của “The Hongkong and Shanghai Hotels” và “Katara Hospitality”, ex-Qatar National Hotels Co.) Mặc dù cư ngụ tại Pháp, nhưng lần đầu tiên trở lại nơi đây, nhìn lại cảnh cũ, Ông Phạm Đăng Sum, nguyên Phát Ngôn Nhân và Giám đốc Nha Thông tin Báo chí của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng hòa ngậm ngùi chia sẻ:
“Đến đây thì tôi rất là bỡ ngỡ, ngỡ ngàng. Bởi vì tôi không nhận ra được ! Lúc đó là buổi sáng, chúng tôi đến và ngồi ở cái phòng mà bây giờ tôi nhìn không ra mà có lẽ bây giờ họ đổi ra thành phòng ăn. Nó rộng lắm! Có cái bàn rất rộng và trong đó có 4 phái đoàn: Lẽ tất nhiên là có phái đoàn Mỹ, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, phái đoàn Bắc Việt và phái đoàn miền Nam (Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. RFA) Tôi nhớ là tôi ngồi ở chỗ mà nhìn ra con đường, lúc đó chưa có cổng này.”
Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 thực ra là kết cuộc của một chuỗi thương lượng kéo dài 4 năm 9 tháng bắt đầu từ ngày 13/5/1968 giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt, sau đó ngày 25/1/1969 có thêm Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam với 202 phiên họp chính thức và 24 cuộc họp không chính thức (còn được gọi là “đi đêm”) giữa Ngoại trưởng Henry Kissinger và các ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Ông Phạm Đăng Sum còn nhớ lại sau khi Hiệp định được ký xong:
“Có một giai thoại là ông trưởng phái đoàn Bắc Việt và mấy anh ở trong Nam gặp chúng tôi cũng chào và nói rằng “Chúng mình nay mai sẽ thống nhất, gặp gỡ nhau. Trong việc này không ai được, ai thua hết. Chúng ta là dân Việt Nam cả, chúng ta từ này sẽ độc lập và theo những điều trong thỏa hiệp thì là không có những sự trả thù, không có những sự tranh đấu. Từ nay chúng ta sẽ thống nhất, hòa bình. Nhưng mà tiếc thay, lúc nói thì như vậy nhưng sau này thì sự thật thấy là sự thống nhất không được giải quyết bằng phương pháp hòa bình mà là sự cưỡng chế bằng vũ lực. Đó là điều không nói đến trong Hiệp Định Ba-Lê, chỉ nói rằng sẽ có thống nhất với sự thỏa hiệp giữa hai miền chứ không có sự thống nhất bằng vũ lực như năm 1975. Đó là điều làm tôi rất buồn, rất tiếc”
Hiệp định Paris gồm 9 chương (8 chương chính và 1 chương phụ) và 23 điều khoản. Nội dung Hiệp định đòi hỏi các nước phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam đã công nhận. Quận đội Hoa Kỳ và đồng minh rút quân ra khỏi Việt Nam. Các bên cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam có quyền quyết định tương lai chính trị của mình thông qua Tổng Tuyển cử tự do và dân chủ có giám sát quốc tế. Sau đó, việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài.
Hiệp định Paris sẽ hết hiệu lực vào ngày Tổng tuyển cử 25/4/1976.
“Có một giai thoại là ông trưởng phái đoàn Bắc Việt và mấy anh ở trong Nam gặp chúng tôi cũng chào và nói rằng “Chúng mình nay mai sẽ thống nhất, gặp gỡ nhau. Trong việc này không ai được, ai thua hết. Chúng ta là dân Việt Nam cả, chúng ta từ này sẽ độc lập và theo những điều trong thỏa hiệp thì là không có những sự trả thù, không có những sự tranh đấu. Từ nay chúng ta sẽ thống nhất, hòa bình. Nhưng mà tiếc thay, lúc nói thì như vậy nhưng sau này thì sự thật thấy là sự thống nhất không được giải quyết bằng phương pháp hòa bình mà là sự cưỡng chế bằng vũ lực. Đó là điều không nói đến trong Hiệp Định Ba-Lê, chỉ nói rằng sẽ có thống nhất với sự thỏa hiệp giữa hai miền chứ không có sự thống nhất bằng vũ lực như năm 1975. Đó là điều làm tôi rất buồn, rất tiếc”
Hiệp định Paris gồm 9 chương (8 chương chính và 1 chương phụ) và 23 điều khoản. Nội dung Hiệp định đòi hỏi các nước phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam đã công nhận. Quận đội Hoa Kỳ và đồng minh rút quân ra khỏi Việt Nam. Các bên cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam có quyền quyết định tương lai chính trị của mình thông qua Tổng Tuyển cử tự do và dân chủ có giám sát quốc tế. Sau đó, việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài.
Hiệp định Paris sẽ hết hiệu lực vào ngày Tổng tuyển cử 25/4/1976.
Điều 5, chương 2 của Hiệp định quy định Hoa Kỳ phái rút toàn bộ quân và cố vấn trong vòng 60 ngày sau khi ký hiệp định. Nhưng lại không nói gì đến lực lượng quân đội Bắc Việt còn ở lại miền Nam lúc ấy. Luật sư Lê Trọng Quát, Dân biểu thời Đệ Nhất Cộng hòa , Quốc Vụ Khanh thời Đệ Nhị Cộng hòa, phân tích:
“Điều khuất tất nhất trong Hiệp định Paris là không có nói chứ không phải là không nói rõ. Hoàn toàn không nói về sự tồn tại của 100.000 cán binh cộng sản ở miền Nam Việt Nam, cái hiệp định đó đã im lặng. Đó là sự nhượng bộ to lớn của Hoa Kỳ để cho Việt cộng ký hiệp định. Chúng ta biết rằng Hiệp định Paris có điều khoản cốt cán là quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh phải rút lui sau khi hiệp định ký kết. Trong lúc đó thì 100.000 cán binh Việt cộng còn ở lại trong Nam mà hiệp định hoàn toàn không nói đến. Đó là một ẩn khuất quan trọng đã quyết định số phận của miền Nam Việt Nam”
“Điều khuất tất nhất trong Hiệp định Paris là không có nói chứ không phải là không nói rõ. Hoàn toàn không nói về sự tồn tại của 100.000 cán binh cộng sản ở miền Nam Việt Nam, cái hiệp định đó đã im lặng. Đó là sự nhượng bộ to lớn của Hoa Kỳ để cho Việt cộng ký hiệp định. Chúng ta biết rằng Hiệp định Paris có điều khoản cốt cán là quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh phải rút lui sau khi hiệp định ký kết. Trong lúc đó thì 100.000 cán binh Việt cộng còn ở lại trong Nam mà hiệp định hoàn toàn không nói đến. Đó là một ẩn khuất quan trọng đã quyết định số phận của miền Nam Việt Nam”
Hiệp định bắt đầu có giá trị lúc 0 giờ , giờ quốc tế GMT đêm 27 rạng 28-1-1973, tức 8 giờ sáng giờ Việt Nam. Nhưng sáng ngày 28-1-1973, miền bắc Việt Nam đã lợi dụng những vùng ‘tranh tối, tranh sáng’ hay vùng ‘da beo’ nơi không phân biệt được quốc gia hay cộng sản, để tiến hành cái mà họ gọi là: “cuộc đấu tranh của nhân dân ta để thi hành Hiệp định Paris, thực chất là cuộc đấu tranh để tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam kéo dài hơn 2 năm nữa mới kết thúc”.
Theo lời Luật sư Lê Trọng Quát thì đây là sự vi phạm Hiệp Định Paris:
“Khi tiếng súng vừa chấm dứt vào lúc 1.00 giờ sáng ngày 27/1 thì Việt cộng ở phía Bắc đã bắt đầu vi phạm hiệp định bằng cách họ không ngưng tiếng súng mà vượt ra khỏi vùng họ đang chiếm đóng để chiếm cứ thêm đất đai và dân chúng ở những vùng đó. Có thể nói tình trạng” da beo” lúc bấy giờ giữa hai bên, dân cư của những vùng khác nhau trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam đã tạo ra sự khó khăn cho việc thi hành hiệp định mà (Việt cộng) lợi dụng cơ hội đó tỏa ra để chiếm thêm đất đai, sự vi phạm bắt đầu từ đó.
Sự vi phạm thứ hai chúng ta đều biết là quân đội chính quy của Bắc Việt cộng sản đã hoàn tất cuộc xâm lăng, tràn vào chiếm cứ thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975. Chúng ta thấy rõ ràng là họ vi phạm hoàn toàn Hiệp định Paris”
“Khi tiếng súng vừa chấm dứt vào lúc 1.00 giờ sáng ngày 27/1 thì Việt cộng ở phía Bắc đã bắt đầu vi phạm hiệp định bằng cách họ không ngưng tiếng súng mà vượt ra khỏi vùng họ đang chiếm đóng để chiếm cứ thêm đất đai và dân chúng ở những vùng đó. Có thể nói tình trạng” da beo” lúc bấy giờ giữa hai bên, dân cư của những vùng khác nhau trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam đã tạo ra sự khó khăn cho việc thi hành hiệp định mà (Việt cộng) lợi dụng cơ hội đó tỏa ra để chiếm thêm đất đai, sự vi phạm bắt đầu từ đó.
Sự vi phạm thứ hai chúng ta đều biết là quân đội chính quy của Bắc Việt cộng sản đã hoàn tất cuộc xâm lăng, tràn vào chiếm cứ thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975. Chúng ta thấy rõ ràng là họ vi phạm hoàn toàn Hiệp định Paris”
Để thoát ra khỏi vũng lầy của cuộc chiến Việt Nam, theo tài liệu của sử gia Trần Gia Phụng, truyền thông quốc tế sau này tiết lộ Tổng thống Hoa Kỳ Nixon đã nói với Ngoại trưởng Henry Kissinger: “Tôi không biết rằng những lời đe dọa liệu có đủ hay không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết như là - hay sẽ cắt đầu ông ta nếu cần.” (Tin AFP, thứ Ba 23-6-2009. BBC thứ Tư 24-6-2009.) Ông Phạm Đăng Sum cũng khẳng định :
“Chúng tôi biết là cái Hiệp định này có nhiều cái bất lợi rồi, cho nên Tổng thống Thiệu lúc đó đã nhiều lần kéo dài không muốn ký, nhưng Hoa Kỳ đã ép buộc và đưa ra những đe dọa để bắt chính phủ VNCH phải ký. Lúc qua đây, tôi là người ôm hồ sơ Hiệp định, tôi thấy rõ ràng có nhiều điều không tốt cho VNCH. Nhưng mình nghĩ rằng nếu như thực hành nghiêm chỉnh thì cái Hiệp định đó có thể đưa ra sự hòa hợp, hòa giải giữa hai bên”
Điều thứ 11, Chương 4 trong Hiệp định quy định hai bên sẽ thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử
với bên này hay bên kia, bảo đảm các quyền căn bản của người dân.
“Chúng tôi biết là cái Hiệp định này có nhiều cái bất lợi rồi, cho nên Tổng thống Thiệu lúc đó đã nhiều lần kéo dài không muốn ký, nhưng Hoa Kỳ đã ép buộc và đưa ra những đe dọa để bắt chính phủ VNCH phải ký. Lúc qua đây, tôi là người ôm hồ sơ Hiệp định, tôi thấy rõ ràng có nhiều điều không tốt cho VNCH. Nhưng mình nghĩ rằng nếu như thực hành nghiêm chỉnh thì cái Hiệp định đó có thể đưa ra sự hòa hợp, hòa giải giữa hai bên”
Điều thứ 11, Chương 4 trong Hiệp định quy định hai bên sẽ thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử
với bên này hay bên kia, bảo đảm các quyền căn bản của người dân.
Theo Luật sư Lê Đình Thông, nguyên công cán ủy viên Bộ Thông Tin dưới thời đệ II Cộng hòa, luật sư Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn, Giáo sư Quan hệ Quốc Tế Đại học Nanterre (Pháp) sự thực thi điều khoản trong Hiệp định là một sự mỉa mai vì chính những người ký và cam kết đã không tôn trọng nó, ông nói:
“Mỗi điều khoản của hiệp định đã đưa đến cho tôi một sự cay đắng, một sự mỉa mai, bởi vì những quy định này hoàn toàn không phù hợp với thực tế. Tôi phân tích vấn đề một cách khách quan và trong tinh thần đại học chứ không đứng trong quan điểm của bên này hay bên kia mà phân tích một cách thiên lệch: Như chúng ta thấy bản văn đã ghi rõ là “cấm mọi trả thù” vậy mà tại sao sau năm 75 chính những người đã ký kết họ đã trả thù một cách man rợ. Amnesty International đã nói rõ – mà con số này cũng do Hà Nội đưa ra – là có đến 1 triệu người đã phải vào các trại mà người ta gọi là “trại cải tạo” nhưng thực tế, “cải tạo” ở đây, theo cái nhìn của tôi là “cải tạo” từ “tự do” sang “nô lệ”. Chữ “cải tạo” chỉ có một ý nghĩa như vậy thôi.”
Điều 19 trong Hiệp định Paris quy định trong vòng 30 ngày sau khi ký kết, một Hội nghị sẽ được triệu tập để bảo đảm việc thực thi Hiệp định. Ngày 2/3/1973 một Hội nghị được triệu tập tại Paris để ký “Định ước của Hội nghị Quốc tế về Việt Nam” gồm 12 nước là bốn bên trong hội nghị Paris (Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa , Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng hòa miền nam Việt Nam) cùng 8 nước khác là Canada, Hungary, Indonesia, Poland, Anh, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Liên Xô và Pháp trước sự chứng kiến của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kurd Waldheim. Định ước này gồm 9 điều khoản nhằm bảo đảm việc thực thi Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, giữ vững hòa bình tại Việt Nam. Luật sư Lê Trọng Quát cho biết :
“Định Ước cuối cùng (Acte de Final) đó cũng ghi một điều rất quan trọng: Sự tôn trọng quyền lãnh thổ của nước Việt Nam. Nếu áp dụng đúng điều khoản đó thì Trung Cộng không thể xâm lăng những lãnh thổ, lãnh hải của chúng ta như chúng ta đã biết”
“Định Ước cuối cùng (Acte de Final) đó cũng ghi một điều rất quan trọng: Sự tôn trọng quyền lãnh thổ của nước Việt Nam. Nếu áp dụng đúng điều khoản đó thì Trung Cộng không thể xâm lăng những lãnh thổ, lãnh hải của chúng ta như chúng ta đã biết”
Dựa vào những điều khoản đã ghi rõ trong Hiệp định cũng như điều 7 trong Định ước Quốc tế quy định về việc tái hợp Hiệp định Paris, luật sư Lâm Chấn Thọ (Montreal, Canada) từ năm 1999 đã tìm cách tái hợp lại Hiệp định Paris. Theo ông, Cộng sản Việt Nam đã không tôn trọng các điều khoản trong Hiệp định, vì thế chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ thật sự chấm dứt. Nếu có một Chính Phủ Pháp Định Liên Tục Công Quyền VNCH thì việc vận động các quốc gia khác tái hợp Hiệp định Paris là điều khả thi.
Điều 7 trong Định Ước Quốc Tế Bảo Đảm việc thực thi Hiệp Định Paris quy định : Nếu muốn tái hợp Hiệp Định Paris thì có hai cách :
1- Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tức Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay) đồng ý tái hợp
2- 6 quốc gia trong 12 quốc gia đã ký kết trong Định Ước đồng ý tái hợp.
Điều này có nghĩa là : Nếu Chính Phủ VNCH Pháp Định (hiện nay do luật sư Lê Trọng Quát đảm nhiệm từ năm 2015) vận động được thêm 5 nước nữa đồng ý thì có thể tái hợp Hiệp định Paris.
Điều này có nghĩa là : Nếu Chính Phủ VNCH Pháp Định (hiện nay do luật sư Lê Trọng Quát đảm nhiệm từ năm 2015) vận động được thêm 5 nước nữa đồng ý thì có thể tái hợp Hiệp định Paris.
Luật sư Lâm Chấn Thọ trình bày về công trình nghiên cứu của ông :
“ Cái “Định Ước Bảo Đảm Thực Thi Hiệp định Ba-Lê” được định rằng: Khi có một vi phạm thì có một thủ tục mà chúng ta phải tuân theo để có thể tái hợp Hiệp định này lại.
Thủ tục đó có hai phần: Phần thứ nhất: Tôi không hiểu vì lý do gì Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa lại có ưu tiên để tái hợp. Nếu họ đồng yêu cầu tái hợp thì mọi người phải họp. Còn nếu không thì 1 thành phần nào đó phải vận động 5 thành phần khác để được 6/12 thì mới tái hợp. Cái gì mà nó đưa tôi đến ý định đây là thời điểm mà chúng ta có thể làm việc được ? Tôi đã bắt đầu năm 1999 để kêu gọi đồng hương làm sao phục hoạt Việt Nam Cộng Hòa thức dậy để dùng VNCH kêu gọi những nước khác để có được 6 thành phần trên 12 để tái hợp Hội nghị, để đặt vấn đề bầu cử tự do ở Việt Nam và đặt vấn đề chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa với Trung cộng”
Thủ tục đó có hai phần: Phần thứ nhất: Tôi không hiểu vì lý do gì Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa lại có ưu tiên để tái hợp. Nếu họ đồng yêu cầu tái hợp thì mọi người phải họp. Còn nếu không thì 1 thành phần nào đó phải vận động 5 thành phần khác để được 6/12 thì mới tái hợp. Cái gì mà nó đưa tôi đến ý định đây là thời điểm mà chúng ta có thể làm việc được ? Tôi đã bắt đầu năm 1999 để kêu gọi đồng hương làm sao phục hoạt Việt Nam Cộng Hòa thức dậy để dùng VNCH kêu gọi những nước khác để có được 6 thành phần trên 12 để tái hợp Hội nghị, để đặt vấn đề bầu cử tự do ở Việt Nam và đặt vấn đề chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa với Trung cộng”
Luật sư Lâm Chấn Thọ đã bắt đầu công việc khó khăn mà có người cho là “đội đá vá trời” này để tìm lại công đạo cho miền Nam Việt Nam đã bị bức tử cách đây 46 năm bởi lợi ích của Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt. Cuộc trường chinh kéo dài 20 năm dần dần đã có những kết quả cụ thể, luật sư Lâm Chấn Thọ cho biết :
“Một tin mừng cho quý vị và cho tôi là hiện giờ Canada có một quyết nghị của Thượng Viện Canada đòi hỏi Canada phải đóng một vai trò tích cực hơn để dùng Định Ứớc Bảo Đảm Thực Thi Hiệp Định Ba-Lê (hay còn gọi là Kết Ước của Hội Nghị Quốc Tế về vấn đề Việt Nam) dùng cái đó để giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông. Đó là công sức của ông Thượng Nghị Sĩ Canada gốc Việt (TNS Ngô Thanh Hải. RFA) Thành ra chúng ta đã đi được con đường rất xa và đặc biệt là ông TNS Ngô Thanh Hải đã vận động được bộ luật Canada lên tiếng kết án Cộng sản Việt Nam vi phạm Hiệp định Ba-Lê một cách trắng trợn. Bộ luật đó đã được chuẩn y bởi quốc hội Canada mà không có bất kỳ một phiếu chống nào. Cộng sản Việt Nam đang điên tiết về vấn đề này. Đó là con đường chúng ta đã đi ở Canada rồi. Ở bên Hoa Kỳ, tôi đã tìm ra được một bộ luật. Đó là bộ luật 93559: Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ đồng đòi hỏi Hành pháp Hoa Kỳ phải tái hợp Hội nghị quốc tế về vấn đề Việt Nam như chúng ta đã muốn. Nhưng bộ luật đó bị ngâm tôm trong vòng mấy chục năm nay. Đó là cơ hội ngàn vàng cho chúng ta. Và sau đó quý vị thấy tôi có mặt tại Âu châu đây là vì đây là bước tiến tiếp theo của chúng ta. Quý vị hỏi tôi những nước nào ? Xin cho tôi tạm không nói, nhưng quý vị hiểu rằng chúng tôi có mặt ở Âu châu thì muốn hay không muốn, có những vận động đang xảy ra”
Trung Quốc là một trong những quốc gia đã ký kết bảo đảm việc thực thi hiệp định này, trong đó có điều khoản bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của miền Nam Việt Nam vì thế, việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường sa cũng là một hành động vi phạm Hiệp định Paris. Luật sư Lâm Chấn Thọ tiếp :
“Trung cộng là một thành phần đã ký, Trung Cộng đã hứa sẽ tôn trọng và bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam vậy tại sao Trung cộng đã chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988 mà bây giờ không ai đặt vấn đề đó hết. Bây giờ đã đến lúc chúng ta đặt vấn đề. Đặt vấn đề cách nào ? Đặt vấn đề tái hợp Hội nghị lại. Và khi chúng ta tái hợp Hội nghị lại chúng ta sẽ biến Hội nghị đó thành một cơ quan tài phán quốc tế. Tức là gì ? dùng ảnh hưởng của những nước (trong hội nghị Paris. RFA) để làm áp lực bắt Trung cộng phải có một thái độ đúng đắn về Hoàng Sa và Trường Sa.”
Ngoài ra, Luật sư Lâm Chấn Thọ cũng trình bày trước công luận một hồ sơ mật đã được công bố: Đó là lá thư viết ngày 17/4/1975 của Ngoại trưởng Henry Kissinger gửi cho Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc đó là ông Graham Martin. Trong đó, Kissinger viết: Pháp đã tiếp cận chúng ta và đưa ý kiến tái hợp lại Hội nghị Paris, nhưng chúng ta đã từ chối vì điều đó phản tác dụng (counterproductive) cho Hoa Kỳ.
Từ đó, luật sư lâm Chấn Thọ có một cái nhìn lạc quan khi trở lại nơi này :
“Có 9 nước bảo đảm với đất nước của tôi là VNCH rằng họ sẽ tôn trọng và sẽ bảo đảm quyền tự quyết của nhân dân tôi. Cho nên đó là một món nợ mà họ đã thiếu nhân dân tôi. Khi đến đây, tôi nhìn thấy cảnh vật thay đổi thì tôi nghĩ rằng tình hình thế giới sẽ thay đổi và những người đã quên món nợ của họ phải nhớ lại. Cho nên, mấy chục năm nay tôi theo đuổi để làm sống dậy, cho họ tỉnh thức dậy để họ hiểu rằng họ chưa trả món nợ đó. Đồng thời họ còn thiếu cái nợ thứ nhì là họ bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ của đất nước tôi mà Trung cộng là một thành viên đã ký ngang nhiên chiếm Hoàng Sa, Trường Sa. Và những người đã ký cùng Trung Cộng không làm gì để giúp cho Việt Nam. Cho nên, khi tôi thấy vật đổi sao dời thì tôi nghĩ rằng gió phải đổi chiều. Tôi mong rằng đây là thời điểm chúng ta có thể đi đòi những món nợ mà những người thiếu đất nước chúng ta sẽ phải trả”
Những điều khoản đã nằm yên trong ngăn tủ từ hơn 40 năm qua nay được mở ra. Liệu chúng có khả năng giúp hồi sinh những tia hy vọng mới như lời Luật sư Lâm Chấn Thọ vừa bày tỏ?
LeHang
nơi gửi Germany
Trọng tâm để tái lập lại Hiệp Định Hòa Bình Paris không phải là Hoa Kỳ, và cũng không phải chxhch Việt Nam. Như bài trước tui đã trình bày là bản Hiệp Định Hòa Bình Paris là tác phẩm giữa Hoa Kỳ với bắc Việt (tức là chdc Việt Nam lúc đó), và đồng ký là VNCH với Chính phủ lâm thời MNVH.
Có nghĩa là chỉ còn một „thành phần còn tồn tại“ là MTGPMNVN là trên pháp lý có đủ tư cách để xin duyệt lại bản Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê. Bởi vì qua Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê thì VNCH đã chính thức công nhận MTGPMNVN là một đảng đối lập tại VNCH. Và trong chính trị thì chính phủ cầm quyền ở VNCH có quyền đi vào „vùng da beo“ cũng như MTGPMNVN đã được văn phòng trong Phi Trường Tân Sân Nhất và tự do đi lại tại mọi nơi tại VNCH.
Khi công chức của VNCH đi vào „vùng da beo“ để vận động tuyên truyền cho VNCH, thì luôn bị ngăn chận từ phía „MTGPMNVN“, như vậy là đã vi phạm nội dung của Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê. Quốc Lộ 13 từ Sài Gòn đi Bình Long và Phước Long phải qua vùng „da beo“ Bình Dương . Các chuyến quân xa của QLVNCH tiếp vận cho Bình Long và Phước Long luôn bị tấn công từ phía quân chính quy bắc Việt đội lốt MTGPMNVN. Và khi sư đoàn 5 QLVNCH đưa quân hổ trợ cho tiếp vận từ Sài Gòn dọc theo Quốc Lộ 13 và vài lần đụng độ. Thì các phóng viên Hoa Kỳ tại VNCH đã nhanh chóng thông tin nói là VNCH vi phạm Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê, rồi yêu cầu Quốc hội Hoa Kỳ cắt viện trợ cho VNCH.
Phải nói là trước khi Kissinger đem bản thảo cho Hiệp Định Hòa Bình Ba Lẹ đến Sài Gòn để xin TT Thiệu chuẩn chi, thì Kissinger đã tiến hành hàng loạt phát biểu làm mất uy tín của VNCH trong dư luận tại Hòa Kỳ, để qua đó làm áp lực với TT Thiệu là phải „quì gối“ trước Kissinger. Một „đồng minh“ nên phải tôn trọng lẫn nhau để cùng giúp lẫn nhau. Nixon muốn tái đắc cử, TT Thiệu cũng sẳn sàng giúp đở cho TT Nixon là giúp TT Nixon nhanh chóng triệt thoát quân đội Hoa Kỳ ra khỏi VNCH.
Điều mà TT Thiệu „không ngờ“ là Kissinger chẳng quan tâm đến MIA và KIA tại VNCH-Cam Bốt-Lào, mà Kissinger chỉ tập trung vào „tù binh“ Hoa Kỳ ở (Hilton Hotel) và dùng dùng báo chí để bôi xấu VNCH, khi một Show của Kissinger thất bại như: Show chào đón các Pilots được Hà Nội phóng thích, tự phóng các Pitots đó là anh hùng của Hoa Kỳ (trong khi đó thì quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VNCH thì như là một đám „chó“ chẳng ai chào đón, mà còn phải đón nhận những chửi rủa (tư bản Hoa Kỳ là thế!!!) .
Rất tiếc là VNCH đã tưởng Hoa Kỳ là một „đồng minh“. Hòa Bình và an ninh cho Việt Nam chỉ là do „lòng tin“ dại khờ. Ngay chính Lê đức Thọ cứ tưởng là Hoa Kỳ sẽ nhả ra „hòa bình“ để Hà Nội xây dựng chủ nghĩa xã hội tuyệt vời . Nhưng Hoa Kỳ cũng chẳng có tốt đẹp để cứ „bợ“ mà cứ „tin tưởng“.
Có nghĩa là chỉ còn một „thành phần còn tồn tại“ là MTGPMNVN là trên pháp lý có đủ tư cách để xin duyệt lại bản Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê. Bởi vì qua Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê thì VNCH đã chính thức công nhận MTGPMNVN là một đảng đối lập tại VNCH. Và trong chính trị thì chính phủ cầm quyền ở VNCH có quyền đi vào „vùng da beo“ cũng như MTGPMNVN đã được văn phòng trong Phi Trường Tân Sân Nhất và tự do đi lại tại mọi nơi tại VNCH.
Khi công chức của VNCH đi vào „vùng da beo“ để vận động tuyên truyền cho VNCH, thì luôn bị ngăn chận từ phía „MTGPMNVN“, như vậy là đã vi phạm nội dung của Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê. Quốc Lộ 13 từ Sài Gòn đi Bình Long và Phước Long phải qua vùng „da beo“ Bình Dương . Các chuyến quân xa của QLVNCH tiếp vận cho Bình Long và Phước Long luôn bị tấn công từ phía quân chính quy bắc Việt đội lốt MTGPMNVN. Và khi sư đoàn 5 QLVNCH đưa quân hổ trợ cho tiếp vận từ Sài Gòn dọc theo Quốc Lộ 13 và vài lần đụng độ. Thì các phóng viên Hoa Kỳ tại VNCH đã nhanh chóng thông tin nói là VNCH vi phạm Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê, rồi yêu cầu Quốc hội Hoa Kỳ cắt viện trợ cho VNCH.
Phải nói là trước khi Kissinger đem bản thảo cho Hiệp Định Hòa Bình Ba Lẹ đến Sài Gòn để xin TT Thiệu chuẩn chi, thì Kissinger đã tiến hành hàng loạt phát biểu làm mất uy tín của VNCH trong dư luận tại Hòa Kỳ, để qua đó làm áp lực với TT Thiệu là phải „quì gối“ trước Kissinger. Một „đồng minh“ nên phải tôn trọng lẫn nhau để cùng giúp lẫn nhau. Nixon muốn tái đắc cử, TT Thiệu cũng sẳn sàng giúp đở cho TT Nixon là giúp TT Nixon nhanh chóng triệt thoát quân đội Hoa Kỳ ra khỏi VNCH.
Điều mà TT Thiệu „không ngờ“ là Kissinger chẳng quan tâm đến MIA và KIA tại VNCH-Cam Bốt-Lào, mà Kissinger chỉ tập trung vào „tù binh“ Hoa Kỳ ở (Hilton Hotel) và dùng dùng báo chí để bôi xấu VNCH, khi một Show của Kissinger thất bại như: Show chào đón các Pilots được Hà Nội phóng thích, tự phóng các Pitots đó là anh hùng của Hoa Kỳ (trong khi đó thì quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VNCH thì như là một đám „chó“ chẳng ai chào đón, mà còn phải đón nhận những chửi rủa (tư bản Hoa Kỳ là thế!!!) .
Rất tiếc là VNCH đã tưởng Hoa Kỳ là một „đồng minh“. Hòa Bình và an ninh cho Việt Nam chỉ là do „lòng tin“ dại khờ. Ngay chính Lê đức Thọ cứ tưởng là Hoa Kỳ sẽ nhả ra „hòa bình“ để Hà Nội xây dựng chủ nghĩa xã hội tuyệt vời . Nhưng Hoa Kỳ cũng chẳng có tốt đẹp để cứ „bợ“ mà cứ „tin tưởng“.
16/05/2019 17:25
Phạm Bảo
nơi gửi Sài Gòn
Mong hiệp định Paris sớm tái hợp để nhân dân Việt Nam chọn được chế độ theo ý mình
14/05/2019 09:16
Tommy
nơi gửi USA
Lê Đức Thọ là một tay bù nhìn đưọc CSBV dựng nen , để bán Miền Nam VN cho CSBV.. Còn Kissinger là một kẻ đã bán đứng cái bản chất Thông Minh, Anh Hùng , nhân đạo..của những tổ phụ người Mỹ, cho bọn Tầu Cộng.. phó mặc Hoa Kỳ cho Trung Cộng phá hoại trong gần nửa thế kỷ..để đổi lại..Một đất nước nhưọc tiểu với vài triệu dân ở TRung Đông..lại ngẫu nhiên trở thành hùng mạnh.
13/05/2019 23:06
Thượng Quốc
nơi gửi Canada
Đồng ý rằng việc vận động "Tái Hợp Hiệp Định Paris 1973" là việc "đội đá vá trời", nhưng đây là một trong những giải pháp, nếu thành công, có thể dẫn đến một "pháp định quốc tế" trong việc giành lại chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam như trước tháng 8/1945.
Cám ơn hai vị Luật sư Lê Trọng Quát và Lâm Chấn Thọ, hai vị đã bỏ cả cuộc đời còn lại để làm việc "đội đá vá trời nầy" cho dân tộc và cho các thế hệ sau vì các vị cũng đang gần đất xa trời và khi đất nước Việt Nam giành lại được chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải thì chắc các vị cũng thanh thản về với các vua Hùng
Mỹ, Liên Hiệp Quốc GẤP RÚT tái xét Hiệp Định Pari đưa VNCH trở lại trước khi VN mất tên trên bản đồ
HIỆP ĐỊNH PARIS/73 LÀ MẤU CHỐT GIẢI QUYẾT TRANHN CHẤP BIỂN ĐÔNG.
Hoa Kỳ thành lập khối kinh tế tự do mâu dịch xuyên Thái Bình Dương-TPP có sự tham gia quốc tế khu vực TBD là Mỹ nhầm muốn đưa luật pháp quốc tế LHQ vào Biển Đông với mục đích quốc tế hóa con đường hàng hải vận chuyển hàng hóa giao thương giữa các nước dể phục vụ khôi kinh tế-TPP.Và đưa quyền lực LHQ vào tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc.
Trung Quốc sẽ lấy quyền phủ quyết LHQ của họ không giở bỏ đường Lưỡi Bò chín đoạn của Trung Quốc,bao trùm Việt Nam và chiếm 80% biển Đông Nam Á.là đặc quyền kinh tế Trung Quốc vì Hoàng Sa và Trường Sa và cả VN là lãnh thổ mở rộng của Trung Quốc kéo dài xuống phương Nam Đông Á.Vì thế Biển Đông Á là cũa họ.Mỹ không có ký do gỉ tham gia vào giải quyết tranh chấp Biển Đông,và khu vực ĐNÁl là nôi bộ của châu á TBD,không ảnh hưởng đến châu Mỹ của Hoa Kỳ và quyền lợi của Mỹ.Nó chỉ đúng với khối Asean cũ,nhưng không đúng với Khối Kinh tế TPP mới thành lập của Hoa Kỳ muốn quốc tế hóa Biển Đông vì có nhiều nước quốc tế tham gia.
Như thế quốc tế LHQ muốn can thiệp tranh chấp Biển Đông thì phải giải quyết vấn đề Việt Nam không thể là của Trung Quốc và Hoàng Sa và Trường Sa là của Miền Nam VNCH-dưới vĩ tuyến 17.Muốn có lý do chánh đáng và thuyết phục nhất cho LHQ giải quyết, là phải đưa Việt Nam trở lại thi hành HĐ Paris/73 và Hiệp Ước Geneve 54 mà Trung Cộng và Cộng Sản Bắc Việt Ký kết có giam sát LHQ và các nước liên quan theo dõi thi hành.
LHQ có ly1do thi hành HĐ.Paris/73 vì Trung Cộng và Cộng Sãn Hà Nội vi phạm trắng trợn,thô bạo HĐ.Paris/73 chiếm đóng Miền nam VNCH,kẻ dưới biển là Trung Cộng Chiếm Hoàng Sa VNCH-19-1-1974 và Cộng Sả Hà Nội chiếm Sài Gòn Miền Nam VNCH -30-4-1975.Điều này Mỹ không muốn mất mặt và mất tin tưởng của đồng minh trong khu vực D9NA1vi2 Mỹ đã bán đứng Miền Nam VNCH cho Trung Cộng để đổi lấy thị trường tiêu thụ đông dân-1,3 tỷ dân Trung Quốc- Nay Mỹ muốn giựt dây LHQ nhập cuộc vào tranh chấp Biển Đông Á để lấy lại quyền lợi của Hoa Kỳ khi rút quân và để mất VNCH.
Đưa Việt Nam trở lại bàn HĐ Paris/73 của LHQ ra giải quyết vi phạm HĐ,là lôi cả Mỹ và Trung Cộng cùng LHQ trở về cuộc chiến tranh Việt Nam là Hoa kỳ phải có trách nhiệm giải quyết xung đột,tranh chấp Biển Đông hiện nay, mà Trung Quốc không thể chối từ. Khi Hoàng Sa và Trường Sa trả lại cho VNCH quản lý như trước 1975,thì dường lưỡi bò 9đoạn của Tầu cộng phải tan rả và co rút về đảo Hải Nam TQ để choLHQ trung lập hóa Miềm Nam VNCH và tổng tuyển cử Tự Do hai miền Nam-Bắc có quốc tế LHQ thi hành kiểm soát trả lại quyền tự quyết của nhân Dân Việt Nam thống nhất đất nước.!
MÙA XUÂN ASEAN TRỞ LẠI TRÊN QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM.
Người dân Việt Nam chỉ mong muốn Quốc tế LHQ can thiệp và bảo vệ tự do,dân chủ,dân quyền VN, không bị áp bức tàn bạo của chinh quyền Cộng Sản Việt nam,để cho người dân có quyền tự chủ,tự quyết dân tộc của chính mình cho tương lai đất nước và thể chế Tự-Do của mình tự chọn quyết định có từ lâu rồi!,của 36 năm về trước,khi cộng sản Miền Bắc chiếm đóng Miền Mam mà không thể hiện,cùng lừa phỉnh ước mơ Tự-Do Dân Tộc.Còn Việt thi hành HĐ Paris/73 là thủ tục công pháp quốc tế bảo vệ chủ quyền Hoàng sa,Trường Sa của VN.Chứ còn TỰ Do và Thống nhất là ước nguyện thiêng liêng hằng có từ lâu đời của dân Việt Nam...Và muốn mùa xuân Asean trở lại trên quê hương Việt Nam!!!
Huỳnh Mai St.8872
HOA KỲ TRỞ LẠI VIỆT NAM.- Chiến Lược Tiểu vùng Sông MêKong
P/s- NẾU CHIẾN TRANH VIỆT TRUNG XẨY RA, CHÚNG TÔI ,CỰU CHIẾN BINH QL.VNCH SĂN SÀNG BỦ BOMBS SAN BẰNG 7 ĐẬP THỦY ĐIỆN CỦA TRUNG CỘNG; TRẢ LẠI THÔNG THOÁNG DÒNG CHẢY THƯỢNG NGUỒN SÔNG MELONG. vÀ QL.HOA KỲ CŨNG OK PHI VỤ NÀY DỄ CỨU LƯU VỤC TIỂU VÙNG SÔNG MELONG, LÀ VỰA LÚA CUNG CẤP LƯƠNG THỰC ĐỨNG ĐẦU THẾ GIỚI!
Xin mời vào địa chỉ liên kết,
http://maidayhoabnh.blogspot.com/2012/05/hoa-ky-tro-lai-viet-nam.html
Sự hiện diện của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry, ngày 14-12-2013 tại Sài gòn của Miền Nam VN, là một chỉ dấu nói lên sự tiếp nối chiến lược Hoa Kỳ xoay trục quân sự về Biển Đông Á/TBD. Và để thay thế Bà Ngoại Trưởng Hillary Clinton tiếp tục " Xoay trục CSVN về phía Hoa Kỳ ", trong chiến lược" Tiểu Vùng Sông Me6kong. Dù được bằng lòng hay không bằng lòng của nhà nước CSVN, thí cũng là pháo hiệu- " Hoa Kỳ trở lại Việt Nam"
Nếu Người Mỹ nói, thật lòng trở lại Việt Nam, và tự nhận đem đến tự do,dân chủ, nhân quyền cho Việt nam,thì chớ vội tin là tự do có chính nghĩa Người Việt Quốc Gia,mà là thứ tự do giả hiệu đổi màu Cộng Sản VN do Hoa Kỳ dàn dựng, bắt tay nhau: “Diễn biến hòa bình” cho Việt Nam để đổi lấy các giếng dầu trong khu vực biển Hoàng Sa & Trường Sa VN. Nếu Hoa Kỳ làm chủ được nguồn năng lượng chiến lược này của Việt Nam, sẽ là bá quyền Biển Đông Á/TBD, và có quyền thay đổi nền an ninh,hòa bình thế giới .Nhưng phải trải qua một cuộc chiến tranh với TQCS,mà VNCS là con cờ thí của Mỹ và cũng là vật xúc tác của ngòi nổ chiến Tranh tại Châ Á Thái Bình Dương của Hoa Hỳ, để tìm lại quyền lợi kinh tế Hoa Kỳ bị bỏ rơi nơi chiến trường VN và ĐNÁ/TBD mà thôi!!!
Âm mưu gì khi Mỹ trở lại Việt Nam lần2…!?
Mỹ trở lại Việt Nam lần 2 với mưu lược Dân chủ hóa Cộng Sản VN theo thể chế chính trị độc tài Mafia Putin-Nga Xô- mà VNCS đồng ý với Hoa Kỳ: “Dân Chủ Định Hướng Xã Nghĩa VN”,tức là họ “ Tự diễn biến hòa bình” theo nghị quyết 36/TW-Đảng CSVN cho hòa hợp,hòa giải dân tộc để thay đổi một thể chế mới.Từ độc tài Cộng Sản chuyển sang dân chủ định hướng Xã Nghĩa,tức nữa vời Tự Do và Cộng Sản theo kiểu Mafia Putin nặng phần kinh tế làm giàu hơn phần trình diễn chính trị,để an toàn trên bải đáp,khi cộng sản bị người dân uất lòng đứng lên lật đổ chế độ!.Người Công Sản vẫn còn dủ quyền hành sinh sát trong tay,nhưng núp dưới bong Dân chủ,Tự-Do,Nhân quyền để hành xử dân có hiệu quả hơn danh xưng cộng sản cũ,chỉ làm dân chán ghét hơn.Nên CSVN càng ngày càng than Mỹ hơn và gởi tiền cướp của dân vào ngân hang cho Mỹ cấ giùm.Đưa con cái sang Mỹ làm du sinh chuyển tiền mua cao ốc ,đất đai,trang trại và di tản có chiến thuật cho con cái,gia đình lãnh đạo ra sinh sống nước ngoài.Và dể lại Việt Nam,một đất nước tang thương cho Mỹ lảm pháo đài chống Trung Quốc vì Tự Do,độc lập chủ quyền Việt Nam, hay bán dứng Việt nam lần thứ 2 để trừ nợ thiếu Trung Quốc.Còn lãi ròng bao nhiêu là để phục hồi lại nền kinh tế suy trầm của Mỹ và cùng Trung Quốc sống chung hòa bình trên Biển Đông Á/TBD,khi được LHQ, Quốc Tế hóa tự do mậu dịch hàng hải Biển Đông,và đường lữơi bò chín đoạn vẫn trơ trơ ra đó!?,Vì Trung Quốc đã mua dứt Việt Nam rồi,còn đâu nữ Việt Nam của tôi!!?
Đồng bào dân tộc Việt Nam đứng lên, giành quyền tự quyết dân tộc, lập lại nền Tự Do, dân chủ cho chính mình, không nên dựa hơi và ỷ lại nơi người Mỹ phản bội sẽ đem lại tự dovà hòa binh dân tộc, nếu chúng ta không tự đứng lên từ nơi té ngả của mình,thì sẽ không bao giờ có tự do và hạnh phúc tương lai cho con cháu thế hệ Mai sau!!!.Nên nhớ câu châm ngôn phản bạn Hoa Kỳ:”Không ai cho không Tự Do cho ai bao giờ!”
Người Mỹ thật lòng trở lại Việt Nam, và tự nhận đem đến tự do,dân chủ, nhân quyền cho Việt nam,thì chớ vội tin là tự do có chính nghĩa Người Việt Quốc Gia,mà là thứ tự do giả hiệu đổi màu Cộng SảnVN do Hoa Kỳ dàn dựng,bắt tay nhau: “Diễn biến hòa bình” cho Việt Nam để đổi lấy các giếng dầu trong khu vực Hoàng Trường Sa VN.nếu Hoa Kỳ làm chủ được nguồn năng lượng chiến lược này của Việt Nam, sẽ là bá quyền Biển Đông Á/TBD,và có quyền thay đổi nền an ninh,hòa bình thế giới.Nhưng phải trải qua một cuộc chiến tranh với TQCS,mà VNCS là con cờ thí và cũng là vật xúc tác của ngòi nổ chiến Tranh tại Châ Á Thái Bình Dương!!!?
Xem tiếp:
http://maidayhoabnh.blogspot.co.id/2012/05/hoa-ky-tro-lai-viet-nam.html
Xin mời xem thêm:
Mekong, dòng sông của 60 triệu người
http://mainguyenhuynh.blogspot.co.id/2017/01/mekong-dong-song-cua-60-trieu-nguoi.html
BÍ MẬT – Sáp Nhập Việt Nam vào Trung Quốc
Posted on February 20, 2015 by haiz00
Tướng CSVN xin tỵ nạn chính trị tại HK và tiết lộ âm mưu bán nước cho Tàu Cộng
Tướng Cộng Sản Việt Nam Hà Thanh Châu đã xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ từ ngày 8-4-2013 và tiết lộ âm mưu bán nước cho Trung Cộng
Thỏa Hiệp ngầm 05-07-2020 là ngày thực hiện đợt I sáp nhập nước Việt Nam vào Trung Cộng
TS KERBY ANDERSON NGUYỄN
10 giờ sáng ngày 08-04-2013, Thiếu tướng Hà Thanh Châu, Chính Ủy Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng (Chủ Nhiệm Tổng Cục là Trung Tướng Nguyễn Đức Lâm) được Luật Sư William Lê hướng dẫn đến Sở Di Trú King County, Seattle, tiểu bang Washington State, nạp đơn “xin tỵ nạn chính trị”, sau 2 tuần lễ ông và vợ ông đi thăm 3 người con đang là “du học sinh” ở tiểu bang này.
10 giờ sáng ngày 08-04-2013, Thiếu tướng Hà Thanh Châu, Chính Ủy Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng (Chủ Nhiệm Tổng Cục là Trung Tướng Nguyễn Đức Lâm) được Luật Sư William Lê hướng dẫn đến Sở Di Trú King County, Seattle, tiểu bang Washington State, nạp đơn “xin tỵ nạn chính trị”, sau 2 tuần lễ ông và vợ ông đi thăm 3 người con đang là “du học sinh” ở tiểu bang này.
Bốn ngày sau, qua trung gian của 1 “viên chức” cao cấp Hoa Kỳ, ông trao cho chủ bút Tạp Chí Foreign Policy Magazine một tập tài liệu “tối mật”, có liên quan đến sự sống còn của nước Việt nam, dự trù sẽ đăng tải cuối năm 2013. Tập tài liệu này, do người anh vợ của ông, Thiếu Tướng H.T.T. làm Chính Ủy Tổng Cục 2, dưới thời Tổng Cục Trưởng Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, chép lại nguyên văn từ cuốn băng nhựa AKAI mang bí số ML887, ghi âm những cuộc họp bí mật của các nhà lãnh đạo Việt Nam: Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh và Trung Cộng: Giang Trạch Dân (sinh năm 1926), Lý Bằng, Lương Quang Liệt, Diệp Tuyển Ninh, Dương Đắc Chí, Hứa Thế Hữu… tại Thành Đô, thảo luận các thỏa hiệp sát nhập nước Việt Nam vào lãnh thổ “Trung Quốc”.Chúng tôi (tác giả bài viết này), hiện làm “bỉnh bút” cho tờ Foreign Policy Magazine, nên được phổ biến bằng Việt ngữ, giới hạn, trong vòng thân hữu.
Thật ra, các cam kết “giao nước Việt Nam cho Trung Quốc”, đã được “ký” bằng “lời hứa danh dự ” của ông Hồ Chí Minh với 2 Đại Tướng Tàu Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông vào năm 1926. Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Hồ khẳng định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai: “Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa….”
Ngày 14-09-1958, ông Hồ chỉ thị Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký “công hàm” giao đứt quần đảo Hoàng Sa cho Mao Trạch Đông. Lê Duẩn (tên thật Lê Văn Nhuận: 1907-1986) chết ngày 10-07-1986, ông Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) lên nắm chức Tổng Bí Thư, tức khắc nối lại bang giao với Trung Quốc bằng 1 câu nói để đời trong lịch sử: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng mất nước còn hơn mất Đảng “.
Ngày 10-08-1987, ông Nguyễn Văn Linh (đang mắc bệnh ung thư) bay qua Trùng Khánh gặp Hồ Diệu Bang (1915-1989), Đặng Tiểu Bình (1904-1992= thọ 92 tuổi) bàn luận về các kế hoạch cắt đất, cắt biên giới và phát họa rõ ràng hơn 1 chương trình “sát nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc” qua chiến thuật “Hoà Bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo, không ai có quyền biết đến” với thời gian 60 năm, phân ra làm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 20 năm.
GIAI ĐOẠN I : Ngày 15-07-2020 : QUỐC GIA TỰ TRỊ.
GIAI ĐOẠN II : Ngày 05-07-2040 : QUỐC GIA THUỘC TRỊ.
GIAI ĐOẠN III: Ngày 05-07-2060 : Tỉnh lỵ Âu Lạc.
Tỉnh trưởng vẫn là người Việt, đặt dưới quyền lãnh đạo của Tổng Đốc Quảng Châu.
Thật ra, các cam kết “giao nước Việt Nam cho Trung Quốc”, đã được “ký” bằng “lời hứa danh dự ” của ông Hồ Chí Minh với 2 Đại Tướng Tàu Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông vào năm 1926. Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Hồ khẳng định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai: “Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa….”
Ngày 14-09-1958, ông Hồ chỉ thị Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký “công hàm” giao đứt quần đảo Hoàng Sa cho Mao Trạch Đông. Lê Duẩn (tên thật Lê Văn Nhuận: 1907-1986) chết ngày 10-07-1986, ông Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) lên nắm chức Tổng Bí Thư, tức khắc nối lại bang giao với Trung Quốc bằng 1 câu nói để đời trong lịch sử: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng mất nước còn hơn mất Đảng “.
Ngày 10-08-1987, ông Nguyễn Văn Linh (đang mắc bệnh ung thư) bay qua Trùng Khánh gặp Hồ Diệu Bang (1915-1989), Đặng Tiểu Bình (1904-1992= thọ 92 tuổi) bàn luận về các kế hoạch cắt đất, cắt biên giới và phát họa rõ ràng hơn 1 chương trình “sát nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc” qua chiến thuật “Hoà Bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo, không ai có quyền biết đến” với thời gian 60 năm, phân ra làm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 20 năm.
GIAI ĐOẠN I : Ngày 15-07-2020 : QUỐC GIA TỰ TRỊ.
GIAI ĐOẠN II : Ngày 05-07-2040 : QUỐC GIA THUỘC TRỊ.
GIAI ĐOẠN III: Ngày 05-07-2060 : Tỉnh lỵ Âu Lạc.
Tỉnh trưởng vẫn là người Việt, đặt dưới quyền lãnh đạo của Tổng Đốc Quảng Châu.
Thời gian này, tiếng Việt là ngôn ngữ phụ, tiếng tàu là ngôn ngữ chính. Một chút lịch sử về “Âu Lạc”: “Thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, ông Thục Phán, thủ lãnh của bộ tộc Âu Việt, là một trong những bộ tộc của Bách Việt ở về phía Bắc Văn Lang đã cùng Hùng Vương thứ 18 đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Tần. Sau khi thắng quân Tần, vua Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán, sát nhập lãnh thổ của người Âu Việt và Lạc Việt vào một, lập nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương, Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà thôn tính vào năm 206 trước Tây Lịch”.QUY CHẾ KHU TỰ TRỊ: Sau đây xin mời quý vị nghe lại cuộn băng nhựa của Tổng Cục 2 Việt nam với lời lẽ bề trên, trịch thượng của người Tàu, ban mệnh lệnh, giáo huấn, dạy dỗ, răn đe cấp lãnh đạo Việt Nam phải làm những gì suốt 60 năm dài “tịch thu” nước Việt Nam từng bước một: “Âm thầm, Lặng lẽ, Từ từ như tằm ăn dâu. Khéo như dệt lụa Hàng Châu. Êm như thảm nhung Thẩm Quyến…” theo thể thức “diễn tiến hoà bình”. Làm cách nào để cho người Việt Nam và dư luận quốc tế nhìn nhận rằng, người Tàu không “cướp nước Việt” mà chính người Việt Nam tự mình “dâng nước” và tự ý đồng hóa vào dân tộc Trung Hoa.
Tại Thành Đô, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh xin xỏ Đặng Tiểu Bình: Nhờ Trung Quốc mà Đảng Cộng Sản Việt Nam mới nắm được chính quyền, mới thắng đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động. Công ơn Trung Quốc to lắm, bốn biển gộp lại cũng không bằng. Do thế, nhà nước Việt Nam đề nghị Trung Quốc xóa bỏ các hiểu lầm, các bất đồng đã qua. Phía Việt nam sẽ làm hết sức mình để vun bồi tình hữu nghị lâu đời vốn sẵn có giữa hai đảng do Mao Chủ Tịch và Hồ Chí Minh dày công xây dựng trong qua khứ. Việt Nam sẽ tuân thủ đề nghị của Trung Quốc là cho Việt Nam được hưởng “quy chế khu tự trị trực thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh” như Trung Quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương, Quảng Tây… Để kịp chuẩn bị tâm lý nhân dân và giải quyết các bước cần thiết cho việc gia nhập vào đại gia đình dân tộc Trung Quốc, xin cho thời hạn chuyển tiếp sát nhập là 60 năm: 1990-2020. 2020-2040. 2040-2060. (còn tiếp)
Tại Thành Đô, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh xin xỏ Đặng Tiểu Bình: Nhờ Trung Quốc mà Đảng Cộng Sản Việt Nam mới nắm được chính quyền, mới thắng đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động. Công ơn Trung Quốc to lắm, bốn biển gộp lại cũng không bằng. Do thế, nhà nước Việt Nam đề nghị Trung Quốc xóa bỏ các hiểu lầm, các bất đồng đã qua. Phía Việt nam sẽ làm hết sức mình để vun bồi tình hữu nghị lâu đời vốn sẵn có giữa hai đảng do Mao Chủ Tịch và Hồ Chí Minh dày công xây dựng trong qua khứ. Việt Nam sẽ tuân thủ đề nghị của Trung Quốc là cho Việt Nam được hưởng “quy chế khu tự trị trực thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh” như Trung Quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương, Quảng Tây… Để kịp chuẩn bị tâm lý nhân dân và giải quyết các bước cần thiết cho việc gia nhập vào đại gia đình dân tộc Trung Quốc, xin cho thời hạn chuyển tiếp sát nhập là 60 năm: 1990-2020. 2020-2040. 2040-2060. (còn tiếp)
Đính kèm là tài liệu Việt Nam: Tỉnh hay Khu Tự Trị?
Xem tiếp: https://haiz00.wordpress.com/2015/02/20/bi-mat-sap-nhap-viet-nam-vao-trung-quoc/
Xóa Bỏ Việt Nam Trên Bản Đồ Thế Giới - Trung Quốc Đã Thực Hiện Đến Đâu
https://youtu.be/NqTXPCAfmJc
2. Theo đuổi mạnh mẽ chính sách ngọai giao đa phương để có sự hỗ trợ quốc tế chống bá quyền Trung Quốc, xích lại gần các cường quốc khác như Nga, Nhật, Âu châu, Ấn Độ và nhất là Mỹ.
Ngay từ thời chính phủ Bush, trong chuyến du hành của Thủ Tướng Việt Nam qua Mỹ, Tổng Thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung Mỹ Việt "nhắc lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ" và nói đến nhu cầu "củng cố đối thoại cấp cao" và ủng hộ "thành lập các cuộc họp hoạch định chính sách về chính trị, quốc phòng để có các trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh".
Thế mà Việt Nam vẫn chậm chạp trong việc xích gần Tây Phương. Trong hội thảo về Biển Đông tại Đại Học Yale ngày 18/11/2009 , ông cựu đại sứ Việt nam Nguyễn Trung, từng gần với các nhà ngoại giao Việt Nam rất dè dặt về Trung Quốc như Nguyễn Cơ Thạch và Trần Quang Cơ, và là nguyên cố vấn thủ tướng, có nói là ôn lại lịch sử thương nghị tay đôi với các nước thì tuy Việt Nam thành công với Indônêxia và Mã Lai, ông thấy bi quan cho một giải pháp sau cùng đối với Trung quốc. Nhung chúng tôi có đưa ra câu hỏi là tại sao Việt Nam không đẩy mạnh đa phương hóa ngọại giao để có đối lực với Trung Quốc, thí dụ thực hiện sự cộng tác tập trận hải quân với Mỹ theo đề nghị của chính phủ Bush, thì đuợc biết là Việt Nam vào lúc đó mới chỉ dè dặt chấp nhận tập việc cùng Mỹ cấp cứu ngộ nạn và tìm xác người trên biển.
Phải tới tháng 7 năm 2010 mới có một sự đột biến quan trọng. Hồi hạ tuần tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố tại Hà Nội rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam “không những thật sự là một quốc gia quan trọng mà còn là một bộ phận của chiến lược nhắm tăng cường cam kết của người Mỹ trong khu vực Á châu Thái bình dương, đặc biệt là trong vùng Đông Nam Á.” Khi phát biểu tại hội nghị của Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội, bà Clinton còn nói rằng Hoa Kỳ xem việc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) bằng đường lối đa phương, theo luật quốc tế, mà không đe dọa hay dùng võ lực, là một “quyền lợi quốc gia” của Mỹ. Những phát biểu này đã khiến cho giới lãnh đạo Trung Quốc phật lòng.
Quan hệ giữa Hoa Kỳ và các quốc gia vùng Đông Nam Á có dịp để phát triển thêm nữa khi Tổng thống Barack Obama tổ chức cuộc hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN tại New York vào ngày 24 tháng 9 năm 2010, để bàn chuyện hợp tác kinh tế và an ninh--kể cả trong Biển Đông-- bên lề phiên họp thường niên của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tin của Associated Press (19/9/2010) cho biết Dự thảo Tuyên bố chung Mỹ -ASEAN tái xác nhận nguyên tắc tự do hàng hải và giao thương trong Biển Đông, ổn định khu vực, và tôn trọng luật quốc tế mà chống lại việc sử dụng hay đe dọa võ lực để giành chủ quyền ở Biển Đông, và Phụ tá Bộ Trưởng Ngọai giao Campbell và Giám Đốc Vụ Á Châu Bader trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ cũng báo cho các đại sứ ASEAN trong phiên họp chuẩn bị cho Hội nghị Thượng Đỉnh Mỹ-ASEAN, là Trung Quốc có vẻ ôn hòa hơn trong các buổi gặp gần đây, đồng ý bàn về nguyên tắc các bên phải tuân theo trong Biển Đông sau khi họ cắt nghĩa là giải pháp hoà bình tôn trọng luật quốc tế mà Ngọai Trưởng Clinton nói tới tại Hà Nội tháng 7 không ám chỉ riêng về Trung Quốc mà áp dụng cho mọi quốc gia tranh quyền.
Bà Hillary Clinton cũng đã đến dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, diễn ra vào cuối tháng 10,2010 tại Hà Nội. Sau đó, Tổng Thống Barack Obama sẽ dự cuộc họp thượng đỉnh Đông Á lần tới tại Indonesia năm 2011. Cuộc họp thượng đỉnh Đông Á quy tụ những quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand. Năm nay, các nước ASEAN đã quyết định mời Hoa Kỳ và Nga tham gia Hội nghị thượng đỉnh Đông Á để thảo luận về những hồ sơ như an ninh, thương mại, môi trường. Theo một số nhà ngoại giao, sự tham gia của Mỹ và Nga vào hội nghị sẽ là đối trọng cho vai trò áp đảo của Trung Quốc trong khu vực này.
Bản Tuyên Cáo Chung Mỹ-ASEAN (bản chính thức sau cùng) ngày 24 tháng 9, 2010 tuy có bỏ bớt mấy chữ trong Dự thảo “chống lại sự sử dụng hay đe dọa võ lực để giành chủ quyền ở Biển Nam Trung Hoa” nhưng vẫn duy trì cái ý chính là phải theo đuổi giải pháp hòa bình, tức là có lên án gián tiếp việc dùng hay đe dọa võ lực, đề cao nguyên tắc giải quyết hòa bình-- vì điều 18 có ghi các nguyên tắc " hòa bình và an ninh vùng, an ninh trên biển, giao thương không bị cản trở [ám chỉ việc khai thác dầu khí và thương mại], tự do hàng hải theo luật quốc tế, Luật Biển của Liên Hiệp Quốc và các luật hang hải quốc tế khác, gỉai quyết hoà bình các tranh chấp. Rồi điều 19 lại còn khen ngợi Nga và ASEAN về sự ủng hộ Vùng phi nguyên tử ở Đông Nam Á [đây là 'đá giò lái' nói ám chỉ căn cứ tầu ngầm nguyên tử của Tàu ở Yulin]. Điều 23 lại cũng ám chỉ Mỹ bênh vực các nước ASEAN chống Trung Quốc làm cạn giòng nước sông Cửu Long, khi nói về dự án tiến hành Sáng Kiến Mỹ-ASEAN về Hạ Lưu Mekong. Rồi lại có một loạt các cơ chế giữa Mỹ và ASEAN để thực hiện các mục tiêu trên như (1) Mỹ sẽ họp về quốc phòng với ASEAN trong Buổi Họp Mở Bộ Trưởng Quốc Phòng ASEAN (ASEAN Defense Ministers Meeting Plus, ADMM+ ) vào tháng 10 năm 2010 (các điều 2,22) và tham khảo giữa các bộ trưỏng của Mỹ và ASEAN (điều 9); (2) Sẽ có những khuyến nghị của Nhóm Nhân vật Siêu Đẳng ASEAN và Mỹ, đưa ra cho đến cuối năm 2011 (điều 3); (3) Mỹ tham dự với cấp cao là ngoại trưởng và Tổng Thống, họ sẽ đi họp tháng 10 ở Hà nội và Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á năm 2011 (điều 5,25). Tóm lại, Mỹ và ASEAN muốn xây dựng tiếp trên căn bản đã đạt tại "hội nghị lịch sử ở Singapore năm 2009"và" tiếp tục các chương trình cho tới năm 2015" (điều 6). Tuy Tuyên Bố Chung không nhác đến chữ South China Sea (Biển Nam Trung Hoa), nhưng trong thông cáo báo chí của Tòa Bạch Ốc sau đó, nhân nói về bữa tiệc giữa Tổng Thống Obama và các lãnh tụ ASEAN, thì lại nhắc đến chữ South China Sea: "Tổng Thống và các lãnh đạo cũng đồng ý về tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp theo đường lối hòa bình, tự do hàng hải, ôn định khu vực, và tôn trọng luật quốc tế, kể cả trong Biển Nam Trung Hoa".
ASEAN cũng tuyên bố là đang thương lượng với Trung Quốc để có một tuyên ngôn chi tiết hóa việc thi hành cái bản "Tuyên Bố về Cách Ứng xử (Declaration of Conduct) trên Biển Đông" năm 2002. Ngày 30 tháng 9,2010 Đại sứ Trung Quốc tại Phi luật Tân cho hay là đã bắt đầu thương thuyết với các nước Đông Nam Á nhắm tới việc thỏa thuận về một Qui tắc Ứng sử(Code of Conduct), có hiệu lực bó buộc, để đối phó với các vụ tranh chấp lãnh thổ,lãnh hải trong vùng Biển Đông.
Ngày 24 tháng 9 năm 2010, Giáo sư Thayer của Úc cho biết là Trung Quốc đã phủ nhận không hề chính thức nói Biển Đông là quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc. Cựu Đại sứ Mỹ Stapleton Roy cũng nói trong một cuộc hội thảo ở Center for Strategic and International Studies ở Washington, D.C. là không có một văn kiện chính thức nào nói về quyền lợi cốt lõi này, tuy các tài liệu các học giả hay các bài trên báo chí hay mạng Internet có nói. Việc vẽ đường lưõi bò (chữ U) đòi quyền trên 80% Biển Đông cũng không có trong văn kiện chính thức của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, mà chỉ có trong các bài của các tư nhân (xin xem đọan dưới đây). Và ngay trong Hội Nghị về Biển Đông tại Saigon ngày 11/11/2010, các học giả Trung Quốc bị các học giả quốc tế chất vấn, cũng lúng túng không trả lời thế nào là quyền lợi cốt lõi, hay thế nào là căn bản pháp lý của đường hình chữ U. Có lẽ Trung Quốc áp dụng chính sách thả quả bong bóng thử thách các nước ASEAN , để nếu các nước này e sợ, Trung Quốc sẽ lấn tới, theo chiến lược "mềm nắn, rắn buông". Nếu bị phản đối thì Trung Quốc lại dừng lại
Về lập trường Việt Nam muốn đa phương hoá nền ngọai giao và dựa nhiều hơn vào việc Mỹ quay trở lại Đông Nam Á thì ta thấy trong hội thảo ở trụ sở Quốc hội Mỹ tháng 9,2010, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, ông Lê Công Phụng, cho biết rằng Việt Nam ủng hộ việc Hoa Kỳ quyết định quay lại Đông Nam Á và Đông Á:"Việt Nam mạnh mẽ ủng hộ chính sách ngoại giao của Mỹ là quay lại Đông Nam Á và Đông Á. Như Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã nói, Hoa Kỳ quay lại khu vực này để tiếp tục hiện diện chứ không rút đi. Chúng tôi ủng hộ chính sách đó."
Câu hỏi cần nêu ra là lời ông Đại Sứ Việt Nam có phản ảnh khuynh hướng ở cấp cao nhất tại Việt Nam không? Dự thảo Báo cáo Chính trị cho Đại Hội Đảng 2011 cho ghi rõ mục tiêu tăng cường hợp tác với các nước chung quanh Biển Đông và Thái Bình Dương: "giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, việc xác định ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương."
Theo giáo sư Úc Carl Thayer chuyên nghiên cứu về Việt Nam, thì lãnh đạo Việt Nam có hai khuynh hướng: một muốn mở rộng quan hệ quốc tế, liên hệ với nhiều quốc gia; một muốn nể nang, liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc hơn nước khác (gọi là nhất biên đảo), nhưng cũng theo GS Thayer, trước khuynh hướng chống Trung Quốc của nhân dân, nhóm thân Trung Quốc này hình như cũng phải đồng ý phải tìm con đuờng quốc phòng khác dựa vào quan hệ đa phương, không thể chỉ dựa hay tin vào Trung Quốc.
Vì Trung Quốc tăng ngân sách quốc phòng 500% từ 1997 cho đến nay, phát triển rất mạnh hải quân, củng cố căn cứ hải quân Yulin ở nam Đảo Hải Nam với chỗ đậu cho nhiều chiến hạm lớn và tầu ngầm kể cả tầu ngầm phóng đầu nguyên tử và hàng không mẫu hạm mà họ đang trong giai đoạn xây dựng, cải tiến phi trường tại Hoàng Sa và đài radar tại Fiery Cross Reef ở Trường Sa, cho nên trong liên hệ đa phương với các cường quốc bạn, nhất là Mỹ , là nước đã thấy sự đe dọa của hải quân Trung Quốc đối với sự đi lại của Hạm Đội 7 (thí dụ nhu vụ quấy nhiễu tàu Impeccable của Mỹ), thì Việt Nam phải tìm cách nhờ họ giúp canh tân hải quân (chiến hạm chạy mau và tầu ngầm) và không quân (máy bay oanh tạc và trực thăng võ trang) để có thể tiếp cứu mau chóng các hải đảo. Quân lực mạnh sẽ là biện pháp ngăn ngừa (deterrence) đối với Trung Quốc, như câu châm ngôn "muốn có hòa bình, phải chuẩn bị chiến tranh". Hơn nữa, phải liên minh, hay phối trí--nếu ngại dùng chữ liên minh-- với Mỹ để cùng tuần hành với Hạm Đội 7, bảo vệ người Mỹ và tài sản Mỹ trên các dàn khoan dầu trong các dự án hợp tác khai thác với Việt Nam, và tiến hành các cuộc tham khảo về an ninh và chính trị với Mỹ, theo như Thông Cáo Chung của Tổng Thống Bush với Thủ Tướng Dũng tháng 6 năm 2008. Giáo sư Taylor Travel tại Massachusetts Institute of Technology, nghiên cứu 24 vụ tranh chấp biên giới trong 60 năm của Trung Quốc, thấy là TQ sẽ không sử dụng võ lực nếu đứng trước một cường quốc—trái lại năm 1974 và 1988 đã tiến đánh Việt Nam để chiếm nốt Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa. Tóm lại, phải cứng rắn thì Trung Quốc mới ngừng lại--vì từ trước đến nay họ vẫn theo chính sách "mềm nắn, rắn buông".
Chắc lãnh đạo Việt Nam cũng ý thức rằng phải củng cố khả năng chiến đấu bảo vệ hải đảo là vì một khi đã để mất hải đảo thì hành quân chiếm lại gần như không thể thực hiện được vì cường quốc Trung Quốc sẽ củng cố hải đảo bằng đủ các khí giới tối tân và các biện pháp tàn bạo và Việt Nam dù có dùng chiến thuật biển người cũng không làm được, vì không phải là đất liền. Số tử vong của các chiến sĩ cố chiếm lại đảo sẽ lên quá cao—như có thể thấy qua kinh nghiệm đau đớn của quân đội Mỹ trong Thế chiến II, khi vất vả chiếm lại dần dần các đảo trên Thái Bình Dương từ tay quân đội Nhật (chết nhiều đến nỗi Mỹ sau đó ném bom trải thảm trên đất Nhật để trả thù).
Mặt khác, để theo đuổi mục đích đấu tranh hoà bình, dựa vào dư luận quốc tế, trong Hội Nghị tại Hà Nội ngày 12/10 /2010 của các bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng--tức là có thêm sự tham dự của 8 nước đối tác khác như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Nga, Đại Hàn, Ấn Độ, Úc và Tân Tây Lan, Thủ Tưóng Nguyễn Tấn Dũng, với tư cách nước chủ tịch, có sự hỗ trợ của các nước Đông Nam Á, đã kêu gọi giải quyết trong hòa bình các vấn đề tranh chấp ngoài biển, theo luật quốc tế, nhất là Luật Biển năm 1982, và trong sự tôn trọng độc lập và chủ quyến mỗi nước, dù Biển Đông không có trong chương trình nghị sự -- và chi tiết hoá các quy tắc ứng xử đã tuyên bố trước đây (Declaration of Conduct) thành các nguyên tắc của một bộ luật cưỡng hành (Code of Conduct). Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Gates cũng kêu gọi như vậy, và nhấn mạnh đên giải pháp đa phương. TạiHội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần thứ 5 vừa kết thúc ngày 30/10/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tái xác định lập trường của Hoa Kỳ: “Hoa kỳ xem quyền tự do lưu thông hàng hải và hoạt động thương mại trên biển không hạn chế thuộc phạm vi quyền lợi quốc gia của mình. Khi xảy ra tranh chấp lãnh hải, chúng tôi cam kết giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, trên cơ sở thông lệ quốc tế ». Nếu người Việt nào trong nước hay tại hải ngoại còn nghi ngại không biết sự ủng hộ của Mỹ đối với Việt Nam có trường cửu hay là tuỳ giai đoạn và quyền lợi thay đổi của Mỹ theo thời điểm Đảng Dân Chủ hay Đảng Cộng Hòa cầm quyền, thì thiết tưởng nên nhớ đến lời tuyên bố của Cựu Tổng Thống Dân Chủ Bill Clinton tại Đại Học Ngoại Thương ở Hà Nội trong tháng 11,2010 và của một cựu ngọai trưởng của mấy tổng thống Đảng Cộng Hoà trước đây,và nay vẫn là cố vấn lớn của Đảng này, nói với một đại diện có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng trong tháng 11,2010 (nguồn tin riêng, chúng tôi không tiện nói tên cả hai người), là chính sách ủng hộ Việt Nam là chính sách của Lưỡng Đảng. Ngoại trưởng Indonesia, một nước không có tranh chấp biển đảo ở Biển Đông đã tuyên bố như sau về biển Đông khi hội nghị kết thúc ở Việt Nam : “ Không nên có chỗ cho chính trị vũ lực và chính sách ngoại giao pháo hạm. Tất cả phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình” Nga cũng đã quay trở lại Việt Nam với một hợp đồng xây dựng nhà máy điện hạt nhân, và một thoả thuận dành cho doanh nghiệp Nga khôi phục lại quân cảng Cam Ranh thành một căn cứ hậu cần quốc tế cho cả thương thuyền lẫn pháo hạm
3. Dùng luật pháp quốc tế theo truyền thống và trong các hiệp định và công ước mà Việt Nam và Trung Quốc đã ký, nhấn mạnh mọi chuyện tranh chấp phải giải quyết theo luật pháp, trong hoà bình, không có đe dọa hay sử dụng võ lực
LUẬT PHÁP VỀ THỀM LỤC ĐỊA
Thềm lục điạ đã được định nghĩa rõ rệt theo các tiêu chuẩn địa dư và địa chất rõ rệt trong Công Uớc Liên Hợp Quốc 1982 về Luật Biển, và phạm vi tính từ bờ biển đi ra xa như thế nào đã rõ trong luật, Việt Nam không cần nói cũng có chủ quyền.
Chỉ còn vấn đề thềm lục địa nới rộng thì Việt Nam cũng đã làm thủ tục đăng ký, đặc biệt đã nộp hồ sơ chung với Mã Lai về khu vục thềm lục điạ hai nước trùng nhau.
Uỷ Ban Liên Hợp Quốc lo việc đăng ký thềm lục địa mở rộng cũng không phải là trọng tài giải quyết tranh chấp, vì việc bất đồng ý kiến của các quốc gia cận duyên về biên giới thềm lục địa nới rộng phải do các bên liên hệ thương lượng với nhau để giải quyết. Vì thế, ngoại giao song phương hữu nghị của Việt Nam với Trung Quốc trong vấn đế thềm lục địa trùng nhau tại Vịnh Bắc Bộ và phiá bắc Biển Đông vẫn phải tiến hành.
LUẬT PHÁP VỀ QUYỀN KHAI THÁC NGHỀ CÁ CỦA DÂN CHÀI VIỆT NAM
Việt Nam cần đòi hỏi mạnh mẽ việc thực thi Hiệp định Nghề cá đã ký với Trung Quốc và Hiệp Uớc Quốc Tế. Trung Quốc đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Cộng Tác Nghề Đánh Cá ngày 25/12/2000 ký kết giữa Trung Quốc và Việt Nam và Hiệp Định của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, trong việc kỳ thị đối với dân chài Việt Nam, xua đuổi, đánh đập họ và vi phạm quyền tư hữu của họ, mà cho các dân chài các nước khác được hưởng quyền trú chân trốn bão, vốn có từ lâu trong lịch sử loài người và quy định trong các văn kiện luật quốc tế, nhất là Hiệp Định Liên Hợp Quốc 1982.
Trắng trợn vi phạm điều 12 Hiệp định Nghề cá nói trên, theo đó, hai nước đã lập ra vùng đệm (buffer zone) ở ngoài lãnh hải của mỗi nước (territorial sea), để nếu các thuyền đánh cá nhỏ của một nước đi lạc vì lầm lẫn vô lãnh hải của nước kia, thì nước kia sẽ cảnh cáo và ra lệnh cho các thuyền đó đi ra mà không bắt giữ, mà cũng không dùng võ lực. Nếu có điểm gì tranh chấp, thì điều 12 cũng nói là phải đưa ra Uỷ ban Hỗn hợp Việt Trung về Nghề cá trong Vịnh Bắc Việt nếu có điều gì ngoài chuyện đánh cá (thí dụ như trốn bão chẳng hạn). Uỷ ban này phải quyết định phân xử theo lối đồng thuận giữa hai bên Việt Trung. Vậy Trung Quốc đã vi phạm về mặt thủ tục luật pháp quy định ngay trong Hiệp định Trung Quốc đã ký, coi rẻ người Việt Nam và nhà nước Việt Nam.
Trắng trợn vi phạm về mặt nội dung điều 15 và 16 Hiệp định Nghề cá, theo đó khi dân chài và thuyền đánh cá một nước bị tai biến khẩn cấp (distress or other emergencies) trong khu lãnh hải của nước kia thì nước kia có nhiệm vụ phải cứu giúp và che chở; và khi dân chài và thuyền một nước tìm cách trốn bão, thì có quyền trú ẩn trong lãnh hải nước kia. Ghe thuyền đánh cá một nước có quyền hàng hải, có quyền đi qua vô hại (innocent passage).
Trung Quốc trắng trơn vi phạm Hiệp định Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, điều 292, theo đó một nước duyên hải chỉ có thể bắt giữ ghe thuyền và thuỷ thủ nước khác trong một số trường hợp giới hạn, thí dụ đánh cá bất hợp pháp, sau khi lên tầu và khám xét để thấy có bằng chứng vi phạm, và phải mau chóng thả, sau khi bắt đóng tiền thế chân hay bảo đảm khác (luật quốc tế định như vậy để tránh sự lạm dụng quyền thi hành luật của nước duyên hải). Nếu không thả sớm, hoặc không đưa ra xét xử trong tòa án quốc nội hay cơ quan xét xử nào khác (thí dụ Uỷ ban Hỗn hợp trong Hiệp định Việt-Trung nói trên), thì trong vòng 10 ngày (Hiệp định Liên Hợp Quốc quan niệm đây là thủ tục khẩn cấp --accelerated procedure), quốc gia của người dân chài bị bắt giữ có thể đưa ra, hay uỷ quyền cho chủ ghe thuyền đưa ra, trước Toà án Quốc tế Luật Biển (International Tribunal of the Law of the Sea) về việc bắt giữ qúa lâu này. Tòa án đó phải giải quyết khiếu nại ngay, không được trì hoãn, và định số tiền thế chân để thả người ta ra.
Việc cho trú ngụ khi gặp bão không phải là vấn đề gay go về tranh chấp chủ quyền, thì không có gì phải nể Trung Quốc qúa, sẽ mang tiếng là không thương người dân chài vô sản, vô tội, thua kém cả người nước ngoài như một đại tá hải quân Nga cũng đã lên tiếng, trong dịp Tầu Nga Panteleyev viếng thăm Đà Nẵng tháng 6 năm 2009, chỉ trích Trung Quốc cấm đóan tầu đánh cá Việt Nam và nói Nga sẵn sàng giúp đỡ họ.
Phải đem ra toà án về luật biển của Liên Hợp Quốc. Và người dân chài có thể làm việc này và dĩ nhiên cần nhờ một luật sư chỉ dẫn cho họ. Điều nên nhớ là họ phải được sự uỷ quyền của nhà nước Việt Nam
LUẬT PHÁP VỀ ĐƯỜNG LƯỠI BÒ
Có lẽ chính Trung Quốc đã thấy việc xác nhận chủ quyến trên 80% Biển Đông bằng Đường Lưỡi Bò, mà nguồn gốc chỉ là bản đồ do hai cá nhân vẽ năm 1914 và 1947 (Hu Jinjie và Bai Meichu), là không có căn bản pháp lý nào, nhất là nếu chiếu theo Luật Biển 1982, cho nên bây giờ không thấy Trung Quốc nói tới trong giác thư gần đây nhất của Bộ Ngoại Giao. Trong
hội nghị về tranh chấp biên giới biển (maritime boundary disputes) tại Houston, Texas ngày 21 tháng 4 năm 2010, do các hãng dầu Mỹ bảo trợ, sau khi phái đòan Việt Nam trình bày qua lời Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Biên giới Nguyễn Hồng Thao về quan điểm xác nhận chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông theo đường lối cộng tác hoà bình và nêu cao luật quốc tế, thì phái đòan Trung Quốc nói về lập trường Trung Quốc về các hải đảo, rồi nói về Đường Lưõi Bò, rằng khi hai nhà địa dư Trung quốc vẽ đường đó, không ai phản đối, và còn nói qúa đáng là họ cảnh cáo các hãng dầu khí Mỹ khi tới South China Sea (Biển Đông) thì phải tuân theo "luật Trung Quốc" . Với tư cách người Mỹ gốc Việt ở Mỹ, chúng tôi thấy có nhiệm vụ lên tiếng trước lập trường lấn lướt đó, vì chắc ông chủ tọa và các luật sư và hãng dầu Mỹ "không nỡ" phản bác huỵch toẹt, vì họ đóng vai chủ nhà trong hội nghị và cũng ngại làm mất mặt đại diện Trung Quốc để còn kinh doanh làm ăn bên Trung Quốc. Trước hết, chúng tôi yêu cầu ông chủ tịch phiên họp là luật sư Thomas Johnson của văn phòng Covington & Burling ở Hoa Thịnh Đốn (đã cố vấn cho Việt Nam vào thời gian ông Võ văn Kiệt là thủ tướng) xác nhận là đúng, cái ý kiến khởi đầu chúng tôi nêu ra là mọi tranh chấp trên đại dương là phải theo Luật Biển 1982, trừ khi Luật đó không rõ thì áp dụng các quy tắc luật quốc tế truyền thống mà các quốc gia đã thi hành trong nhiều thế kỷ. Sau đó, chúng tôi đã bác bỏ lập trường Trung Quốc với các bằng chứng lịch sử về chủ quyến của Việt Nam ở các hải đảo. Vì lúc đó chỉ đủ thời gian nói vắn tắt vài điểm, nên chúng tôi sẽ quảng diễn rõ hơn dưới đây. Rồi chúng tôi cũng bác bỏ đường Lưỡi Bò sau khi nêu ra là Luật quốc tế truyền thống cũng như Luật Biển 1982 không có điều khỏan nào công nhận đường Lưỡi Bò để xác nhận chủ quyền trên đại dương; không những thế, điều 89 của Luật Biển 1982 nói tới “việc đòi chủ quyền trên đại dương là vô giá trị” (invalidity of claims of sovereignty over the high seas) . Chúng tôi hỏi thêm: liệu Hạm Đội 7 của Mỹ có phải xin phép Trung Quốc mỗi lần đi qua khu vực Đường Lưỡi Bò hay không? và liệu Tổng Thống Mỹ lại có thể nào không giám làm nhiệm vụ hiến định là phải bênh vực quyền lợi và sinh mạng người Mỹ trên các giàn khoan dầu khí khi hợp tác khai thác chung với các nước Đông Nam Á trong khu vực Đường Lưỡi Bò hay không? Đại diện Trung Quốc không trả lời.
Bắc Kinh rất ít khi hay là không giám đưa ra chi tiết về căn bản pháp lý của Đường Lưỡi Bò, mà chỉ xác nhận hàm hồ, là tất cả phần lớn Biển Đông, khoanh trong Đường Lưỡi Bò, là của Trung Quốc từ “thời tiền sử” và vẽ ra trên bản đồ “một đường chu vi lịch sử về chủ quyền” thâu tóm 80% Biển Đông, thâu tóm cho Trung Quốc hầu như là tất cả mọi thứ trong đó--biển đại dương, các đảo, đáy biển. Đường chu vi này đi xuyên qua các khu vực giếng dầu đang sản xuất ngay gần Sarawak, qua một số giếng dầu Việt Nam đã khám phá, và chiếm một phần lớn các khu Natuna có trữ lượng khí đốt của Indonêxia. Học giả Wain nói rằng “đường chu vi lịch sử về chủ quyền” này bị các chuyên gia độc lập về đại dương cho là quá lố lăng, có lẽ vì thế mà Bắc Kinh không muốn bàn công khai về nó. Ông Valencia thuộc East West Center (Hawaii), nay ở Trung Tâm Woodrow Wilson, nói là đường chu vi ấy chẳng có căn cứ gì trong luật quốc tế thời hiện đại. Nhà học giả Mã Lai về đại dương Hamzah ví cái sự đòi chủ quyền này như cái Mệnh Lệnh Giáo Hoàng lố lăng và nông nổi năm 1493 đem chia các đai dương trên trái đất ra cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tại Hội nghị ở Houston tháng 4,2010 nói trên, cũng có luật gia Mỹ nói đùa là: Nếu Trung Quốc đòi chiếm đại dương ở Biển Đông bằng Đường Lưỡi Bò, thì Mỹ cũng sẽ có thể đòi hết Gulf of Mexico về cho mình, tước bỏ quyền của Mexico và Cuba và các nước ở Trung Mỹ.
LUẬT PHÁP VỀ CÁC QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
Cần dựa vào luật pháp quốc tế để đòi hỏi sự công nhận chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, tuy phạm vi chủ quyền Việt trên bao nhiêu đảo ờ Trường Sa thì chưa ấn định rõ, sẽ cần thuơng thảo sau với các nước Đông Nam Á .
Luật quốc tế truyền thống, đã được công nhận qua nhiều thế kỷ và có trứơc Hiệp Ước Luật Biển 1982, nói về chủ quyền đối với một miền đất như sau: một chính quyền muốn xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục hành sử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp bằng võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền bằng sự hành sử chủ quyền liên tục.
Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam theo luật quốc tế này, thì Việt Nam đã xác nhận và hành sử chủ quyền trên Hoàng sa và Trường Sa (tuy phạm vi hành sử ở Trường sa thì chưa xác định tới bao nhiêu đảo); và khi Trung Quốcchiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974 và Việt Nam Cộng Hòa phản đối, sau đó Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (nay là Cộng Hoà Xã Hội Việt Nam) – kế quyền của Việt Nam Cộng Hòa theo nguyên tắc thừa kế quốc gia (succession of state) – cũng phản đối vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa và rồi phản đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988 (gây thương vong cho nhiều lính hải quân Việt Nam) và các năm sau đó, thì chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa không thể bị coi là đã sói mòn vì thiếu sự tuyên bố và hành sử chủ quyền.
Vì bài này nói về khiá cạnh luật pháp của chủ quyền, và sẽ chỉ nói vắn tắt tới các sự kiện trong lịch sử về việc Việt Nam tuyên nhận và chiếm hữu chủ quyền về các đảo như làbổ xung cho luận cứ pháp lý, cho nên ở đây chỉ xin tóm tắt về các sự kiện đó –mà chúng tôi, khi viết một bài phân tích tổng quát và khuyến nghị chính sách và nghị trình như thế này(general analysis & policy and agenda recommendations),theo kiểu một bài phân tích trong tập san Foreign Affairs, thì không muốn ghi nhiều chú thích tỉ mỉ về mỗi sự kiện đó, làm chia trí độc giả, và do đó chỉ xin lưu ý độc giả là, quí vị, như chúng tôi, có thể tìm ra nhiều bài viết và sử liệu giá trị, cung cấp bởi các nhà nghiên cứu sử , thí dụ như Tập San Sử Địa xuất bản trước 1975,luận án và bài viết của ông Nguyễn Nhã, Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông v.v., nhất là với phương tiện như “Google” trên mạng Internet.
Trong khi vào năm 1898 Tổng Đốc Quảng Châu không nhận trách nhiệm xử lý về một vụ đắm và cướp tầu, viện lý do là quần đảo Tây Sa là những đảo bị bỏ rơi, không sáp nhập vào quận nào của Hải Nam, thì Việt Nam đã có khoảng 30 tư liệu về chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, suốt từ đời các Chuá Nguyễn tới đời Nhà Nguyễn (Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toàn tập An Nam Lộ 1686, Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn 1776; Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú 1821, Hoàng Việt Địa Dư Chí 1833, Đại Nam Thực Lục Chính Biên Tiền Biên, đệ nhất đến đệ tam kỷ, 1848,1864 và 1879; Châu Bản Triều Nguyễn (đặc biệt tập tấu của bộ công ngày 12 tháng 12, năm Minh Mạng 17, tức là năm 1836, có nói đến việc sai đội thuỷ binh Phạm Hữu Nhật ra Hoàng Sa cắm mốc và đặt bia chủ quyền, việc này thành lệ hàng năm, như nói trong Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, 1851) , Đại Nam Nhất Thống chí, 1882, 1910.
Có ý kiến rằng chứng cớ lịch sử về chủ quyền Việt Nam thời vua chúa trước thời Pháp cai trị, đối với HS thì đã quá rõ, nhưng về Trường Sa thì không rõ, thí dụ có ý kiến rằng Phủ Biên Tạp Lục nói Chúa Nguyễn phái Biệt Đội Bắc Hải "đi du lịch" đến Bắc Hải (Trường Sa) và Côn Lôn để thu lượm các hải vật là không rõ ràng xác lập chủ quyền Việt Nam. Nhưng theo thiển ý, khi có một cuộc hải trình của một biệt đội tên là Bắc Hải do nhà nước sai phái (state expedition), và đặt dưới quyền giám sát của một biệt đội nhà nước khác là Biệt đội Hoàng Sa, thì phải giải thích đó là một cuộc hải trình của nhà nước, vì nếu chỉ là tư nhân du lịch thì không có sự đặt tên và sắp xếp hệ thống quân giai như vậy. Đến đời vua Ming Mạng, khoảng sau năm 1838 khi quốc hiệu đổi thành Đại Nam, thì có cuốn Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ nói đến "Vạn Lý Trường Sa" và nó có giá trị bằng chứng lịch sử để xác lập lần nữa chủ quyền Việt Nam (mặc dầu cuốn này không phải do vua ra lệnh làm ra--không phải là "khâm định"-- mà có lẽ do một số đại thần trong Quốc Sử Quán làm) và từ đó, Trường Sa, hay ít ra là đa số các đảo trong quần đảo đó mà Việt Nam đã chiếm (trừ những đảo quá xa Việt Nam và gần Phi, Mã Lai, Indonêxia,Borneo hay Brunei) không còn là đất vô chủ (terra nullius) theo luật quốc tế nữa, mà đã có Việt Nam xác lập chủ quyền.
Trong khi đó tại Trung Quốc, Thích Đại Sán viết Hải Ngoại Ký Sự năm 1696 nói chúa Nguyễn sai thuyền ra khai thác Vạn Lý Trường Sa; và tất cả các bản đồ cổ của Trung Quốc đều xác định đảo Hải Nam là cực nam biên giới phía nam Trung Quốc và không hề vẽ Tây Sa và Nam Sa. Sau này Trung Quốc cứ nói mà không có bằng chứng, hay bịa đặt, là họ đã khám phá các hải đảo, khi thì nói là vào đời Tống, khi thì nói là vào đời Hán. Trong các cuốn chính sử hay địa dư rất dầy và nhiều quyển của Trung Quốc đều không nói gì về việc Trung Quốc khám phá hay quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, thí dụ như không có sự nhắc nhở bàn luận nào về các quần đảo này trong Khâm Định Đại Thanh Nhất Thống Chí (theo sự nghiên cứu của ông Nguyễn Quang Ngọc trình bày ở Học viện Ngọai Giao 2009), hay Thanh Sử Cảo hoặc Đại Thanh Nhất Thống Bản Đồ ( theo sự nghiên cứu của ông Hồ Bạch Thảo đăng trên báo mạng Diễn Đàn 12/2009). Luật quốc tế qui định là khám phá mà không kèm theo việc hành sử chủ quyền quản lý liên tục thì cũng không tạo ra chủ quyền quốc gia. Một thí dụ là khi nhóm người Pilgrims đến Massachusetts trên tầu Mayflower vào năm 1620, thì một người Pháp, ông Champlain, trước đó, từ năm 1604 đến 1606, đã từ khu vực Nova Scotia (Canada) đến khám phá Maine và Massachusetts, vẽ bản đồ cho các khu vực đó và gọi là New France (Nước Pháp Mới), in trong cuốn sách “Voyages” xuất bản năm 1613. Nhưng vua Pháp không hỗ trợ cho công cuộc quản lý chủ quyền mà ông Champlain đã tuyên bố cho nưóc Pháp. Rút cục, các vùng đất này trở thành thưộc địa của Anh Hoàng và hai tiểu bang của Mỹ sau đó.
Tài Liệu của Tây Phương như nhật ký trên tầu Amphitrite, năm 1701. sách của Chaigneau (1769-1825), linh mục Taberd (1833) đều nói vua Gia Long khẳng định chủ quyền trên Hoàng Sa năm 1816.
Nhưng nhà cầm quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương lơ là trong một thời gian việc xác nhận chủ quyền trên HS và TS của nước bị bảo hộ An Nam. Chỉ đến năm 1909 khi có cuộc khảo sát trái phép Hoàng sa của Tổng Đốc Quảng Đông, và báo chí báo động thì nhà cầm quyền Pháp mới hành động thực thi chủ quyền, như việc Viện Hải Dương Học Nha Trang khảo sát Hoàng Sa 1925 và lập đơn vị hành chánh quận Hoàng Sa năm 1932.
Riêng về Trường Sa, thời Pháp thuộc, Pháp cũng chỉ ghi được có 6 đảo, và cũng không biết tòan thể quần đảo có bao nhiêu đảo, nhưng năm 1933 có cử một hạm đội nhỏ ra gắn các chai đụng văn bản xác lập chủ quyền vào cột xi măng xây trên mỗi đảo, kéo cờ Pháp lên. Cao Uỷ Pháp cố vấn cho chính phủ Bảo Đại, cũng như Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại coi Trường Sa là lãnh thổ Pháp, ngay cả vào sau này, trong thời gian chính phủ Ngô Đình Diệm, đã tuyên bố vào năm 1956 là cả Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Pháp, khiến chính phủ Ngô Đình Diệm phẫn nộ. Nhưng thực ra thì Pháp trước đó, qua nghị định số 4762 ngày 21-12-1933 của thống đốc Nam Kỳ Krautheimer, đã sát nhập Trường Sa vào Bà Rịa, Nam Kỳ, là thuộc địa Pháp. Như vậy có thể nói khi Pháp trả thuộc địa Nam Kỳ cho Việt Nam, thì theo nguyên tắt thừa kế quốc gia, Trường Sa đã thuộc chủ quyền Việt Nam. Năm 1938, Pháp lập bia chủ quyền và trạm vô tuyến ở đảo Itu-Aba.
Như vậy cho đến khi kết thúc Thế chiến I I, việc thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh thuộc địa An nam, tuy muộn màng, nhưng không gặp phản đối của nước nào.
Việc tranh chấp chủ quyền sảy ra nhiều hơn từ các năm sau Thế Chiến II, giữa một bên là Pháp (nhân danh Việt Nam), Việt nam và bên kia là Trung Hoa Dân quốc và Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 1946, Quân đội Nhật rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa, Pháp trở lại và Cao Uỷ Đông Dương D'Argenlieu cử chiến hạm l'Escarmouche ra đảo Hoàng Sa (Pattle); nhưng Trung Hoa Dân Quốc cử 4 chiến hạm đến Trường Sa. Pháp phản đối và yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm mà họ không rút. Năm 1949, chính phủ Bảo Đại được lập ra và hoàng thân Bửu Lộc khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hải đảo. Khi lục địa Trung Quốc rơi vào tay Mao, quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Hoàng Sa và ngày 14/10/1950 Pháp chính thức chuyển giao quyền về Hoàng Sa cho chính phủ Bảo Đại, đại diện bởi Thủ Hiến Trung Phần, trong buổi lễ tại Hoàng Sa. Tại Hội Nghị San Francisco 1951 có 51 quốc gia tham dự để ký hoà ước với Nhât, ngoại trưởng Liên sô Gromyko đưa ra bản tu chính để nói Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đối với Hoàng Sa, nhưng Hội nghị bác. Khi Thủ Tướng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam thì không có đại biểu nào trong Hội nghị phản đối. Tuy Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa không tham gia Hội Nghị, ngoại trưởng Chu Ân Lai ra thông báo về dự thảo Hiệp ước là Trung Quốc đã có các quyền lâu đời về các quần đảo. Nhưng thực tế là vào năm 1950 và sau đó, tại Hoàng Sa và Trường Sa chỉ còn quân trú phòng của chính phủ quốc gia Việt Nam,tuy cũng có những sự cố như Đài Loan có gửi tầu chiến đến đảo Itu Aba vào năm 1956.
Hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam quy định là HS và TS ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đạt dưới quyền quản lý hành chính của chính quyền Miền Năm.
Từ 1956 đến 1975, có nhiều cuộc lấn chiếm của các bên. Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu của Việt Nam Cộng Hòa khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa và quân đôi Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng các đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Hoàng Sa (Pattle) và một số đảo chính của quần đảo Trường Sa và Tổng Thống Diệm ký sắc lệnh quy định Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa mà tên mới là Phước Tuy. Nhưng tháng 10, 1956 hải quân Đài Loan chiếm đảo Itu-Aba là đảo lớn nhất ở Trường Sa. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chiếm đảo Phú Lâm (Boisê), đảo lớn nhất của Hoàng Sa. Săc lệnh 1961 của Tổng Thông VNCH sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam. Năm 1973, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) sáp nhập Trường Sa vào xã Phước Hải, tỉnh Phước Tuy--nhưng tháng 1.1974 Trung Quốc tuyên bố việc sáp nhập ấy là lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc, và VNCH bác bỏ lời tuyên bố đó.
Ngày 15/1/1974, Trung Quốc điều động hải quân (mà ngụy trang là tầu đánh cá) có phi cơ yểm trợ. VNCH gửi đến Hoàng Sa các tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, khu trục hạm Trần Khánh Dư, và hộ tống hạm Nhật Tảo, cho tóan biệt hải đổ bộ lên hạ cờ Trung Quốc. Súng nổ trên đảo Duncan và một đảo khác. Ngày 16/1/1974, VNCH bác bỏ luận cứ của Trung Quốc và xác nhận chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo. Cuộc hải chiến sảy ra ngày 19/1/1974. Chiến hạm Nhật Tảo bị bốc cháy rồi chìm, một số chiến hạm bị hư hại và một số binh sĩ Việt Nam bị bắt hay mất tích; nhưng Trung Quốc bị chìm hai chiếc chiến hạm và cháy hai chiếc. Mỹ không can thiệp mặc dầu được yêu cầu.
Sau đó đại biểu VNCH tố cáo Bắc Kinh tại hội nghị luật biển ở Caracas và hội nghị khác. Ngày 14/2/ 1975, Bộ Ngoại Giao VNCH công bố Sách Trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuộc chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ hải quân VNCH trong cuộc hải chiến năm 1974 (mà ngày nay trong nước Việt Nam cũng phải công nhận là những người ái quốc mà không gọi là nguỵ quân) cùng vói các lời phản đối của chính phủ VNCH ngay sau đó và năm sau, là những đóng góp quan trọng cho việc xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, chiếu theo luật quốc tế đã nói, " liên tục hành xử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp bằng võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền".
Sự đóng góp này càng quan trọng để chống lại luận cứ của Trung Quốc khi họ viện dẫn Công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng để nói rằng ông Đồng đã công nhận chủ quyền Trung quốc trên các lãnh hải, kể cả lãnh hải tính từ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc nói ông Đồng ra công hàm ủng hộ Trung Quốc, tiếp theo lời tuyên bố của Chu Ân Lai xác nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc và cách tính chiều rộng lãnh hải từ lục địa và các hải đảo. Nhưng có thể bác luận cứ của Trung Quốc như sau : (a) quan trọng nhất, Hiệp Định Geneva trao quyền quản lý hành chánh Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở phía nam vĩ tuyến 17, cho chính phủ Miền Nam Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến đó, cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa phải thuộc thẩm quyền chính phủ Miền Nam Việt Nam, và chính phủ này cũng như hải quân của họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong và sau biến cố hải chiến 1974, còn ông Đồng, chỉ đại diện miền Bắc Việt Nam lúc đó, không có thẩm quyền tuyên bố gì về Hoàng Sa và Trường Sa vào thời điểm đó; (b) Một bản tuyên bố (declaration) không có hiệu lực pháp lý về mặt quốc tế, không thể cố áp dụng lý thuyết estoppel, tức là lý thuyết trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia có quy định là “Đã nói ra thì không nói ngược lại được”, vì lý thuyết này không áp dụng trong luật quốc tế (Điều 38 Quy chế Toà Án Quốc Tế không công nhận lời tuyên bố trở thành luật quốc tế) và do đó không thể coi lời nói đơn phương có hiệu lực ràng buộc như luật quốc tế. Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Đối với quốc gia của nhà ngoại giao đã ra tuyên bố suông, thì quốc gia ấy có thể coi đó như lời tuyên bố vô tội vạ của một chính khách, nhứt là quốc gia ấy vẫn còn có tư cách để ký hiệp định ràng buộc, với sự phê chuẩn của quốc hội, thì lời tuyên bố là thừa, vì quốc gia đã có thể dùng biện pháp ký hiệp định để nói rõ ý định của mình ; (c) Và dù có ký hiệp định ràng buộc về Hoàng Sa và Trường Sa đi nữa , thì cũng có thể hủy bỏ hiệp định đã ký theo luật quốc tế (theo nguyên tắc rebus sic stantibus, tình trạng thay đổi thì thay đổi luật),và cũng như theo luật hiến pháp của một nước; ở Việt Nam thì theo điều 84 Hiến Pháp, quốc hội có quyến hủy bỏ hiệp định đã ký kết nếu thấy hiệp định không còn thích hợp với quyền lợi quốc gia. (d) Xét về nội dung, công hàm của ông Đồng được giải thích lại bởi nhiều giáo sư luật và ông Lưu Văn Lợi , cố vấn bộ Ngoại Giao Việt Nam, nói rằng Công hàm đó chỉ nói công nhận 12 hải lý lãnh hải mà ông Chu Ân Lai tuyên bố cho Trung Quốc, chứ không nói công nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc. Sau này, Việt Nam sau khi thống nhất cũng xác nhận lại quan điểm là Việt Nam vẫn có chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa trong nhiều văn kiện, dùng lại cả các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam Cộng Hoà tại miền Nam đã đưa ra.
Giữa một bên là Trung Quốc vẫn nói tới tình hữu nghị với Việt Nam và vài quốc gia Đông Nam Á, và một bên là Việt Nam thống nhất sau 1975, vẫn tiếp tục tranh chấp về chủ quyền trên các quần đảo. Trong các năm 1978,1979,1980, 1981, 1982, 1984, 1988,1990, 1991, Việt Nam đã đưa ra các bằng chứng xác lập chủ quyến tại Hoàng Sa và Trường Sa (sách trắng 1979 và 1981 dùng lại nhiều tài liệu của VNCH ), bác bỏ các lập luận của Trung Quốc và Phi luật Tân và Mã Lai, và phản đối, nhất là năm 1988 khi Trung Quốc tiến chiếm mấy đảo đá ngầm và giết hại các lính hải quân Việt Nam (20 bị thương và chết, 74 mất tích) dù họ không mang khí giơí vì chỉ đi tiếp tế cho bạn đồng đội. Cũng trong năm 1988, Trung Quốc chiếm thêm nhiều bãi đá ngầm. Và đến năm 1989 họ đặt bia chủ quyền trên các bãi đá ngầm đó (điều này không được luật quốc tế công nhận).
Cũng trong năm 1988, Việt Nam phản đối Quốc hội Trung Quốc sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam, và lại công bố sách trắng. Năm 1989, Trung quốc chiếm thêm một số đảo nhỏ. Năm 1990, cho nhiều tầu quân sự, tầu kháo sát và tầu đánh cá đến tại Trường Sa và Việt Nam phản đối. Năm 1991, bình thương hoá ngoại giao. Sau năm bình thường hoá ngoại giao với Trung Quốc, mỗi khi Trung Quốc vi phạm thềm lục địa,vùng đặc quyền kinh tế, thì Việt Nam đều phản đối. Đến năm 1994 lại phải phản đồi sự vi phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế bởi Trung quốc nhân vụ Crestone.
Tuy chế độ Việt Nam hiện nay có ra các bản tuyên bố hay bạch thư, phản đối các hành động lấn chiếm của Trung Quốc, để bảo vệ chủ quyền, nhung có vài vụ trong quá khứ đáng bị phê bình là qúa yếu khi đối diện với Trung Quốc: không phản đối gì khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa 1974, hoặc cấm sinh viên , thanh niên biểu tình chống Trung Quốc mấy năm gần đây; hay lời tuyên bố không suy nghĩ chín mà ủng hộ Trung Quốc của Ông Phạm Văn Đồng vào năm 1958.
Riêng về con số đảo tại quần đảo Trường sa (các đảo trải rất rộng và rất xa nhau) mà Việt Nam có thể đòi (con số hiện nay là 29 hay 21, tùy theo đã trừ đi mấy đảo đá ngầm đã bị Trung quốc lấn chiếm xây nhà và căn cứ, tổng cộng Trung Quốc chiếm 16 đảo) – còn lại bao nhiêu đảo khác do các nước khác nữa đã chiếm và thực sự nắm giữ, như Đài Loan (1), Phi (7 ), Mã Lai (1-2), Nam Dương (2), --thì phạm vi của chủ quyền Việt Nam phải bàn lại kỹ hơn trong sự thương lượng với các nước ấy –để có một mặt trận thống nhất của ASEAN đương đầu với Trung Quốc. Để tránh sự phản đối của Trung Quốc, vốn tham lam nhận vơ tất cả Trường Sa, là "sao Việt Nam tự nhận quyền ban phát chủ quyền cho các nước hay sao, mà dám nói đảo này đảo kia thuộc các nước ASEAN ?" và một cách để tạo thành một thế liên minh với các nước ASEAN để đưong đâu với Trung Quốc, thì phải khách quan công nhận cho ASEAN những đảo nào mà họ đã chiếm ngụ lâu đời và Việt Nam chưa hề lui tới, và Việt Nam chỉ nên tuyên bố một cách mập mờ vào lúc này theo kiểu ngoại giao khôn khéo là: chủ quyền Trường Sa thuộc về Việt Nam, mà phạm vi chưa xác định vì chưa nói đến chủ quyền của các nước khác, nhưng quy tắc ứng xử là giữ nguyên trạng mà không lấn chiếm, và luôn luôn tìm giải pháp hoà bình, theo luật quốc tế.
Các đảo Hoàng Sa đã thực tế mất về Trung Quốc, và có thể là Trung Quốc đi tìm dầu khí phiá bắc Biển Đông không thấy có dầu mà chỉ có nhiều các cục kim lọai (nodules) dưới lòng đáy biển (như Hãng thăm dò Geophysical Service, Inc. đã cho văn phòng luật sư của chúng tôi tại Saigon trước 1975 biết), và ngay từ trước 1975, các hãng dầu thăm dò ở Biển Đông mà chúng tôi làm luật sư đại diện, như CalTex, Mobil, Marathon, Shell, Sun Oil, đều hướng về phía nam Biển đông--vùng Trường Sa--để xin thầu các lô khai thác-- cho nên chắc là Trung Quốc hướng lòng tham của họ về tài nguyên (nhất là dầu khí rất cần cho kinh tế của họ) ở vùng Nam Biển Đông, tức là vùng rộng lớn của Trường Sa. Trung Quốc, giữa thập niên 1990, không hề tìm ra một giếng dầu lửa nào trong số 80 đến 100 giếng dầu trong Biển Đông, trong khi đó thì Việt Nam, vào thời ấy, mỗi năm sản xuất 35 triệu thùng dầu thô từ các khu tranh chấp ở phía nam Biển Đông. Hiện nay, nhu cầu dầu lửa của Trung Quốc lại tăng gấp bội vì nền kinh tề phát triển mạnh. Việc bảo vệ qưyền lợi quốc gia của Việt Nam ở phía nam Biển Đông, vùng Trường Sa, trong sự tôn trọng hoà bình và luật quốc tế, thì ngoài sự chuẩn bị thế mạnh nội lực, như nói ở trên, còn phải có sự ủng hộ của nhiều nước Đông Nam Á – cùng với các cường quốc khác, nhất là Mỹ – để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc. Ngoài việc toan sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa vào một huyện tỉnh Hải Nam, năm 2007 và 2008, Trung Quốc cố ép hãng dầu BP của Anh và Exxon-Mobil của Mỹ phải rút lui khỏi việc làm ống dẫn khí trong vùng biển Vũng Tầu và thăm dò lô khai thác mới trong thềm lục địa Việt Nam ở phía nam Biển Đông. Theo tin ngày 23 tháng 7, 2008 của Tờ báo South China Morning Post thì các nhà ngoại giao của Trung Quốc tại Thủ Đô Mỹ Washington D.C. đã liên tục vận động với công ty ExxonMobil của Mỹ, yêu cầu ngưng cộng tác với Việt Nam trong dự án khai thác dầu lửa ở Biển Đông Hải, vì cho rằng hai phía Việt Nam và ExxonMobil đã cộng tác trong nhiều năm trước đây nhằm thăm dò trữ lượng dầu để tiến đến việc khai thác trong tương lai. Việc Trung Quốc vận động này sảy ra cả nhiều tháng trước cuộc gặp gỡ giữa Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Tổng Thống Bush ở Mỹ tháng 6, 2008 trong đó Bush tuyên bố Mỹ bảo đảm an toàn lãnh thổ cho Việt Nam. Nhưng trong tháng 7, 2008 thì những vận động ngầm này mới được công khai hóa bởi nhiều báo Trung Quốc. Theo đài BBC thì tờ Văn Hối ở Hồng Kông, phản ảnh quan điểm của nhà nước Trung Quốc, đã cho đăng một bài báo với những lời lẽ nặng nề, rằng: "Việt Nam đã làm lộ rõ mong muốn thực hiện ước mơ khai thác dầu ở Nam Hải, nhờ sự giúp đỡ của một công ty Mỹ”… " và lợi dụng sự hung hăng của Mỹ trong vụ này" và nhắc lại câu nói của Đặng Tiểu Bình hồi năm 1979 là "dậy cho Việt Nam một bài học" để đưa ra lời đe dọa: "Trung Quốc cần giảng cho Việt Nam một bài học về thế nào là đồng thuận". ExxonMobil phản ứng cứng rắn hơn so với British Petroleum (BP) hồi năm 2007 (BP tạm ngưng), tuyên bố rằng chưa ký hợp đồng khai thác nào với Việt Nam, nhưng khu vực mà ExxonMobil nhắm hợp tác thăm dò và lượng giá đều nằm trong vùng lãnh hải của Việt Nam.
Trong vùng Trường Sa phía nam Biển Đông, Trung quốc đã có một chủ trương "được đằng chân [Hòang Sa] thì lân đằng đầu [Trường Sa]" như ta thấy trong bao nhiêu hành động lấn át trong nhiều năm từ trước cho tới nay, ngay cả với nước Việt Nam cùng theo một chủ thuyết trị nước. Tháng 10/1987 hải quân Trung Quốc tập trận lớn ở vùng Trường Sa. Tháng 03/1988 quân đội Trung Quốc tấn công chiếm giữ 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, làm thương vong nhiều chiến sĩ Việt Nam. Năm 1989 Trung Quốc chiếm thêm một số đảo Trường Sa. Ngày 25/02/1992 Trung Quốc công bố đạo luật về lãnh hải, xác định chủ quyền đối với toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa. Tháng 05/1992 Trung Quốc cho công ty Crestone thăm dò dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam, trong một khu gọi là Wan’ An Bei, cạnh mỏ dầu Đại Hùng. Tháng 07/1992 Trung Quốc chiếm đóng thêm một số hòn đảo Trường Sa để hỗ trợ công ty Crestone. Năm 1993 một cuốn sách xuất bản tại Trung Quốc đã công bố chiến lược “nhanh chóng…đánh đuổi quân chiếm đóng nước ngoài ra khỏi Nam Sa” (tức Trường Sa ). Năm 1994 Trung Quốc tuyên bố giành chủ quyền tại mỏ dầu Thanh Long (Blue Dragon) của Việt nam, nhắc lại là khế ước giữa Việt Nam và Mobil là vi phạm chủ quyền Trung Quốc và còn dùng hải quân chặn không cho tầu Việt Nam tiếp liệu cho một dàn khoan.
.
CẦN CHUẨN BỊ HỒ SƠ PHÁP LÝ ĐỂ ĐƯA RA TÒA ÁN QUỐC TẾ HAGUE, TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN VÀ ĐẠI HÔỊ ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC, VÀ NGAY CẢ HỘI ĐỒNG BẢO AN LIÊN HIỆP QUỐC, NẾU CÓ VI PHẠM ÀO ẠT QUYỀN DÂN CHÀI.
Việc chuẩn bị hồ sơ pháp lý có lợi là, dù có gặp quyền phủ quyết của Trung Quốc tại Hội đồng Bảo an hay việc Trung Quốc không ưng thuận nhận thẩm quyền Toà án quốc tế, thì hồ sơ đầy đủ của Việt nam cũng là một khí giới đánh động dư luận quốc tế ủng hộ Việt Nam , trước các cơ quan chính trị quốc tế hay báo chí, truyền thông và đại chúng, vì Việt Nam, vốn yếu hơn Trung Quốc về quân sự, cần vận dụng pháp luật là khí giới tốt nhất của kẻ yếu nhưng có lẽ phải.
Các cơ quan tài phán
Tòa án Quốc Tế tại Hague, Hà Lan. Tòa này có hai loại thẩm quyền: (a) thẩm quyền nhiệm ý, để đưa ra các bản ý kiến khuyến cáo (advisory opinions) do Liên Hợp Quốc hay các cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc yêu cầu cung cấp; và (b) thẩm quyền bó buộc (compulsory jurisdiction), chiếu theo điều khoản nhiệm ý (optional clause) mà quốc gia liên hệ đã chấp nhận, để yêu cầu Toà đưa ra các phán quyết có hiệu lực bó buộc để giải thích các hiệp định, hay quyết định về một vấn đề quốc tế pháp hay vấn đề có sự việc vi phạm thỏa ưóc quốc tế hay không, và bồi thưòng nếu có vi phạm.
Nếu Trung Quốc ký nhận điều khoản nhiệm ý công nhận thẩm quyền bó buộc của Tòa án Quốc tế, thì Việt Nam có hy vọng thắng và bó buộc Trung Quốc phải thi hành án, với các lập luận và căn bản pháp lý chắc chắn về chủ quyền của Việt Nam trên các hải đảo (theo quốc tế pháp truyền thống về khám phá và quản lý liên tục). Còn nếu cường quốc đó ngang ngạnh không nhận thẩm quyền bó buộc của Toà án, thì chỉ có thể xin một ý kiến khuyến cáo của Tòa án. Việc xin ý kiến khuyến cáo này, Việt Nam có thể nhờ Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc, trực tiếp hay gián tiếp qua Hoa Kỳ và một số quốc gia ven Biển Đông, nhưng nếu Trung Quốc đe dọa dùng quyền phủ quyết ở đó, thì có thể nhờ một cơ quan của Liên Hợp Quốc như Uỷ Ban Pháp Luật hay ngay cả Đại Hội Đồng.
Toà án Quốc tế về Luật Biển (Internatinal Tribunal for the Law of the Sea ITLOS, thành lập 1997) và Uỷ Hội Quốc Tế về Ranh Giới Thềm Lục Địa cũng là những cơ quan có thể xét về mặt pháp luật các tranh chấp về quyền lợi ngoài biển cho Việt Nam.
Các cơ quan chính trị
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc: là cơ quan mà Việt Nam có thể vận dụng dư luận quốc tế để có sự ủng hộ qua các nghị quyết (resolutions) với đa số quốc gia ủng hộ, Trung Quốc không phủ quyết được. Trong lịch sử Liên Hợp Quốc, đã rất nhiều vấn đề gay go được giải quyết bằng nghị quyết có tính khuyến nghị của Đại Hội đồng.
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Việc đưa vấn đề tranh chấp ra Hội đồng Bảo an thì còn gặp khó khăn khác là chỉ có thể đưa ra nếu có đe dọa hoà bình và an ninh thế giới trong vùng Biển Đông, nghĩa là sắp hay đã có nổ súng xung dột. Nhưng một trường hợp khác mà các lực lượng hay tổ chức phi chính phủ, với quốc gia hội viên, có thể vận dụng Hội đồng Bảo an, là khi có sự vi phạm nhân quyền ào ạt (massive violations of human rights); thí dụ như khi quyền sống của đa số dân chài Việt Nam trên Biển Đông (tức là có vi phạm nhân quyền ào ạt và thô bạo) thì đó là cơ hội đưa vấn đề ra Hộì đồng Bảo an.
Các cơ quan vùng như các hội nghị các cấp của ASEAN. Đây các diễn đàn để lôi kéo sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Việc Việt Nam và Hoa Kỳ đã lôi kéo đươc các nước ASEAN trong tháng 7 tại Hà Nội và tháng 9 tại New York là một thí dụ về việc vận dụng chính trị và pháp luật để đối phó với cường lực của bá quyền. Việt Nam có thể đưa ra quan điểm của mình, ra các hội nghị cấp cao ASEAN cộng, trong đó có thể gồm thêm các cường quốc Mỹ, Nga, Trung Quốc và các nước khu vực như Ấn Độ, Nhật, Úc, Tân Tây Lan, Nam Hàn.
Nguồn: Tác giả-Tạ văn Tài
43 năm nhìn lại: THẢM CẢNH CUỐI CÙNG KẾT THÚC MỘT QUÁ TRÌNH, MỘT CUỘC CHIẾN.
Công tội của các tập đoàn lãnh đạo công cụ tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được lịch sử phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc. Vì đây là cơ may mới cho đất nước vươn lên trong thời kỳ các nước giầu tỏ ra thực tâm muốn giúp các nước nghèo đi vào thế ổn định để phát triển, trong nỗ lực thiết lập một nền trật tự thế giới mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới. Đó là chiến lược “Toàn cầu hóa của các cường quốc”: Toàn cầu hóa về chính trị bằng một chế độ dân chủ và toàn cầu hóa về kinh tế với một nền kinh tế thị trường. Trong khung cảnh ấy, các quốc gia lớn nhỏ cạnh tranh, cùng tồn tại hòa bình và các bên đều cùng có lợi (ít hay nhiều).
Thiện Ý
Nguồn:http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/05/tham-canh-cuoi-cung-ket-thuc-mot-qua.html
Thiện Ý
Nguồn:http://mainguyenhuynh.blogspot.com/2018/05/tham-canh-cuoi-cung-ket-thuc-mot-qua.html
Người dân VN vô cảm, hèn nhát, trách nhiệm thuộc về ai nước nếu mất?
Tình hình chung và ý thức của người dân
Trước tình thế dầu sôi lửa bỏng, đất nước sắp mất về tay giặc Tàu phương Bắc, mà đa số người dân VN, từ trí thức đến giới bình dân, từ đạo đến đời, thờ ơ lãnh đạm như không biết gì, hoặc có biết mà vẫn trơ trơ không nhúc nhích! Hoặc vì họ mải mê lo miếng cơm manh áo, hoặc họ không quan tâm, hay có quan tâm nhưng chẳng biết mình phải làm gì, do sợ “đụng chạm” đến nhà cầm quyền, sợ bị bắt bớ hay gây khó khăn cho công việc làm ăn!
Các vị lãnh đạo các tôn giáo thì cũng vin cớ “tu hành không lo việc chính trị” mà bỏ mặc thời cuộc nhiễu nhương cho “người đời”! Chùa nào, nhà thờ, dòng tu nào bị nhà nước lấy thì những vị trụ trì tại đó tự lo! Giới trí thức cũng tìm sự yên ổn cho riêng mình, chỉ còn lại chí ít người có tâm mới còn gắn bó với dân nước đôi phần!
Nhiều người dân thì sớm tối lo làm ăn sinh sống, thậm chí còn tiếp tay với bọn giặc xâm lăng để đầu độc dân tộc Việt bằng cách buôn bán hàng hóa độc hại của Tàu cộng vì lợi nhuận, dù họ biết rất rõ! Còn những người ở miền quê, những người không có cơ hội tiếp cận với những nguồn tin tức “lề dân” thì càng mù tịt về thời sự!
Thật đau lòng! Sự thể như thế này vì đâu? Ai là người có trách nhiệm? Và chúng ta phải làm gì? Đó là những vấn nạn phải giải quyết gấp rút, nếu chúng ta không muốn bị mất nước và làm nô lệ Tàu trong chỉ một năm tới!
Tại sao nhiều người VN bây giờ mê muội và hèn nhát?
Ý thức về lòng yêu nước, trách nhiệm với non sông, với thế hệ tương lai, và bổn phận bảo vệ tổ quốc, đồng bào, tôn giáo…, chỉ có được do một nền giáo dục đúng đắn đem lại. Nhưng đã gần 80 năm ở miền Bắc và 43 năm ở miền Nam, bao thế hệ già trẻ chúng ta bị CS tuyên truyền nhôì nhét cho về chủ thuyết tam vô: vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo, thậm chí còn tiêu diệt lòng yêu nước, để quảng bá chủ nghĩa “quốc tế vô sản”. Tà quyền CSVN hiện đang bán nước cho Tàu cộng, họ đã dùng thủ đoạn tuyên truyền man trá và áp đặt, nào VN với Tàu là “tình đồng chí môi hở răng lạnh”, nào “4 tốt 16 chữ vàng”, nào là “chống Tàu không tốt”…! Nhiều người dân đã phản kháng kịch liệt những luận điệu bán nước thô bỉ này, nhưng kẻ cầm quyền đã dùng bạo lực, nhà tù, giết chóc, khủng bố, đối với những người có tinh thần yêu nước và dấn thân phục vụ! Hiện có hàng trăm hàng ngàn tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị, là những người bất đồng chính kiến với tà quyền, chống Tàu để bảo vệ đất nước, khiến đã làm tan biến hết tình yêu tổ quốc thiêng liêng cao đẹp trong lòng người dân! Nền giáo dục vô đạo của CS đã gieo rắc tính ích kỷ, tham lợi, cùng với việc họ tạo nên cảnh đói nghèo tràn lan, khiến đại đa số người VN bây giờ trở nên hèn nhát và vô cảm, chỉ biết lo cơm áo gạo tiền, lo nhà cửa xe cộ, lo sống hưởng thụ mà không còn biết đến trách nhiệm với quốc gia xã hội! Còn nền giáo dục đầy nhân bản của miền Nam trước 1975 thì đã nhạt nhòa với thời gian, nhiều người cũ đã bỏ nước ra đi, kẻ ở lại thì già yếu, người trẻ sinh ra sau khi mất nước thì bị CS nhồi nhét cho những tư tưởng vô thần duy vật, và ảo tưởng rằng chế độ CS là ưu việt, là “thiên đường trần gian”, nên trở thành u mê chẳng khác dân Bắc Hàn, cứ tưởng mình đang sống hạnh phúc nhất thế giới!
Tóm lại, do sự bị bưng bít và tuyên truyền xảo trá, do nghèo đói ít học, do không được giáo dục những giá trị đạo đức như lòng yêu thương vị tha, tinh thần trách nhiệm, lý tưởng cao đẹp, và do sợ hãi quá mức, mà dân VN ngày nay mới ra đê hèn vô cảm như vậy!
Các “trí thức XHCN” cũng chỉ được học một ít kiến thức què quặt phiến diện, chứ có bao giờ họ được trau dồi về nhân cách, nhân bản, đạo đức, nghĩa khí, sự hướng thượng! Ngay cả giới tu hành trong chế độ CS cũng được đào tạo trong khuôn khổ giáo dục đó! Nếu không có một tâm hồn cao thượng khác thường, thì họ cũng sẽ trở thành những người hèn yếu, thiếu trách nhiệm, thích an thân thủ phận, thậm chí ích kỷ chỉ biết mình, chỉ lo cho giáo xứ, chùa chiền của mình. Nếu có dịp tìm hiểu, chúng ta sẽ giật mình khi thấy động lực tu hành của không ít người, họ chọn đi tu như một nghề để kiếm sống, và để có được một vị thế cao trọng hơn những người khác! Với động lực đó, họ sẽ không dám dấn thân vì sợ vuột mất cái địa vị và quyền lợi đang có! Thật đau lòng khi phải nói lên thực trạng này, vì chúng ta cũng là người có tín ngưỡng, mà phải nhìn thấy sự sa sút đạo đức ở những người dẫn đường cho mình! Bởi thế cũng không lạ khi xã hội xuống dốc, với lối sống vị kỷ hẹp hòi, kém cỏi về tâm hồn, và vô cảm trước cái khổ của bao người cũng như của đất nước! Tại sao thời trước năm 1975 tại miền Nam, dù nhiều người học cũng ít, nhưng họ có lý tưởng lớn, nghĩa khí cao? Đó là nhờ một nền giáo dục đầy nhân bản và tâm linh, từ gia đình đến học đường đều cố gieo rắc tình thương yêu, ý thức trách nhiệm và lòng bao dung. Trong xã hội bây giờ muốn tìm tiến sĩ, giáo sư thì nhiều như rác, nhưng muốn kiếm một người có trách nhiệm cao, có lòng quảng đại bao dung và hiến thân cho đời thì rất hy hữu hiếm hoi, và trước mắt đa số quần chúng, họ bị coi như những kẻ dở hơi, khờ dại, ăn cơm nhà vác ngà voi! Cá nhân chủ nghĩa phổ biến đến độ khó mà có sự đoàn kết nhất tâm lo việc chung, ở cộng đồng người trong nước cũng như ngoài nước! Ai cũng chỉ có cái TÔI là số một, nếu hòa mình với mọi người thì sợ mình mất nổi, mất lợi, mất tiếng! Thời xưa nếu có biến loạn thì toàn dân nổi lên đồng tâm chống giặc để bảo vệ làng xóm, quê hương, còn ngày nay giặc đã vào nhà, đang cỡi cổ đè đầu, đang đem cả nước cả dân đi bán cho Tàu làm nô lệ, thì mọi người cúi đầu cam chịu, hay ngồi yên chờ vào rọ, hoặc thấy chưa ảnh hưởng tới mình thì thây kệ! Ôi! Thật khốn cho đất nước, và thật nhục cho dân tộc VN ta!
Nhận định về những cá nhân, nhóm, tổ chức làm “cách mạng” hiện nay
Trước tình thế sĩ phu què cụt, anh hùng vắng bóng, dân chúng u mê yếu hèn, và các tôn giáo vô trách nhiệm, thì nước mất nhà tan là chuyện phải đến! Cũng còn chút may mắn, là còn có những người không thể ngồi yên trước cảnh xã hội vô pháp, nhiễu nhương, và nô lệ gần kề, nên họ đã lên tiếng. Đó là những cá nhân “tự phát” ở cả trong và ngoài nước, lên tiếng về những bất công, nghịch lý cũng như cảnh giác cho dân việc bán nước của tập đoàn cầm quyền CS, và đưa những tin tức thời sự nóng bỏng để cảnh tỉnh sự u mê của người dân, sự ngủ quên của tôn giáo và trí thức, bằng những livestreams của cá nhân hay của nhóm! Nhiều người đầy thành tâm nhiệt huyết, nhưng cũng lẫn lộn xen vào những kẻ muốn lợi dụng việc nước để tô điểm, giới thiệu, phô trương cá nhân, từ những lối phục sức, những cách nói năng phản cảm!
Nhưng nếu chỉ với tư cách cá nhân thì những người thiện chí này sẽ làm được gì, nếu họ không quy tụ lại, hợp quần để gây sức mạnh, và thành một khối duy nhất, có một người tài ba lãnh đạo, theo một đường lối chung thống nhất? Cá nhân tự phát thì sẽ dễ dẫn đến sai lầm vì trăm người trăm ý, ai thích sao nói vậy, ai muốn gì làm nấy, dù họ có đầy thiện chí, nhưng không được hướng dẫn và phân công phân nhiệm bởi một lãnh đạo có tài, đức. Thậm chí có người dùng lời chửi bới khiếm nhã làm vũ khí chống cộng, hoặc dùng những lời trù ẻo, tụng niệm mà văng tục, hỏi thần thánh nào nghe nổi họ và theo ý của họ mà tiêu diệt cái ác, kẻ bạo tàn? “Khai dân trí” hay “u mê hóa dân trí”, mà kéo lôi dân tin vào những lời trù dập rủa thả để CS sẽ bị triệt tiêu sao?! Có người đưa cái tôi lên làm tâm điểm bất khả xâm phạm, ai mà dám “xúc phạm” thì sẽ… biết tay, sẽ lãnh hậu quả! Họ không nhận ra rằng hình thức đó sẽ rất phản cảm, chỉ làm thiệt hại cho các phong trào tranh đấu, và làm giảm giá trị của cá nhân họ! Nếu có lôi cuốn được người nghe, thì chỉ là một số người bình dân đang quá khổ đau bức xúc, cho họ cơ hội xả stress, chứ không thể làm một cuộc đổi thay đất nước! Không ai đi làm cách mạng bằng cách xưng cái tôi độc tôn của mình ra mà lôi kéo thuyết phục được người cùng chí hướng! Không một cuộc cách mạng nào phải dùng đến những câu nói thô tục bẩn thỉu mới đạt được mục tiêu! Cũng không có “nhà cách mạng” nào phải ăn mặc hở hang khoe thân mình khi nói chuyện với công chúng, để kêu gọi lòng yêu nước thương nòi! Làm như thế vô tình hạ thấp giá trị công việc ta làm, biến việc quốc gia đại sự thành chuyện tư riêng, và không khỏi khiếm lễ với người nghe mình! Những người muốn làm chính trị vì ái quốc, hãy nhìn xem gương của những người đi trước, gần nhất với chúng ta như Cô Giang, Cô Bắc là những thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, những vị nữ anh hùng này đã vì nước quên thân mình, lau phấn son đi tô điểm sơn hà, sánh vai cùng nam nhi bôn ba mà cứu quốc!
Nói thế không có nghĩa là chúng ta không trân trọng những cá nhân tham gia việc nước theo lòng tự nguyện, nhưng chỉ xin các vị hãy điều chỉnh một chút phong cách nói nang cử chỉ và trang phục của mình khi làm livestream, nếu quý vị muốn được kính trọng. Trong công cuộc chung, cũng rất cần có sự góp mặt của những nhà ái quốc tự phát này, để “trăm hoa đua nở”, trăm bàn tay cùng khuấy động một sự yên tĩnh đáng sợ, như trong đêm trường tịch mịch, của tình thế nguy nan hiện nay!
Ngoài ra, cũng không thể quên nhắc đến những tinh hoa, những con yêu của đất nước, là những người trẻ có nghĩa khí, đầy lòng ái quốc và can đảm dấn thân, nhưng họ chưa hội đủ điều kiện về tuổi tác, về kinh nghiệm đấu tranh, về khả năng lãnh đạo và tổ chức, nếu họ chỉ một thân một mình, hay chỉ là một nhóm nhỏ nhoi! Ai ai cũng phải xót xa rơi lệ khi nhìn thấy em Nguyễn Viết Dũng một mình giơ cao ngọn cờ vàng, chụp lấy hình Dinh Độc Lập, hay dừng bên đường bờ kênh Hoàng Sa để hô lên những ước nguyện tâm huyết của mình, rồi chụp hình tung lên mạng! Ai mà không động lòng và hận tủi, khi thấy Hoàng Đức Bình với thân hình gầy yếu mỏng manh, bị bọn CA CS lôi ra khỏi xe và bắt đi hành hạ, chỉ vì em lên tiếng cùng với giáo dân Hà Tĩnh để phản đối Formosa xả độc! Ai có thể cầm lòng được khi nhìn Mẹ Nấm và hai con nhỏ đơn độc trên bãi biển, mẹ con đều dương biểu ngữ “HS-TS-VN!”, “Formosa cút khỏi VN”, hay Trần Thị Nga tay ôm ba đứa con nhỏ mà đi tranh đấu cho công lý tự do thay cho toàn dân, thay cho cả những nhà trí thức, và cả những vị lãnh đạo các tôn giáo mang danh là cứu đời! Họ là những người sẵn sàng hy sinh thân mình để mong tìm tự do, công lý cho tổ quốc, cho dân tộc, nhưng họ không thể làm nổi một mùa xuân, với những cánh én đơn độc như vậy! Thử hỏi họ có quy tụ được sức mạnh của toàn dân để lật đổ bạo quyền, đánh tan quân xâm lăng và bảo vệ được đất nước không? Nếu như lòng dân muốn theo thì theo ai? Ai lãnh đạo? Vũ khí đâu? Dân phải làm gì? Khi nào làm? Làm thế nào? Và ai sẽ bảo vệ cho dân nếu bị bọn cầm quyền đàn áp tấn công?
Các tôn giáo, trí thức phải dấn thân, các tổ chức chính trị cần hợp lực để cứu quốc!
Phân tích như thế để thấy sự thiếu vắng trầm trọng người lãnh đạo dân trong cuộc cách mạng cứu quốc này! Toàn dân đang mỏi mòn mong đợi ngày đêm, đến phải đổ lệ xót đau vì bặt hơi tăm cá những người tài đức và nhiệt thành dấn thân! Hỡi các vị anh hùng cứu quốc, các vị ở đâu, sao không ra mặt, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt không có! Suy đi nghĩ lại, kẻ làm việc đó không ai ngoài các vị lãnh đạo các tôn giáo và giới trí thức. Thiên thời, địa lợi đã sẵn, hỡi những người dân cần, dân chờ, hãy can đảm mà xuất đầu lộ diện, kẻo khi dân đã mỏi mòn kiệt sức, thì các vị có vực dậy cũng không được! Chỉ sợ khi các vị xuất đầu lộ diện, thì không còn niềm tin trong dân chúng, và đất nước đã tan đi trong tay quân thù!
Các trí thức và các lãnh đạo tôn giáo cần phải được trang bị thêm một trái tim yêu thương, một lòng yêu nước, và một tinh thần quả cảm, một ý chí vững mạnh để dấn thân hành động. Và trước hết, các vị cần phải mở miệng, bất cứ ở nơi nào có thể, dù số người nghe ít hay nhiều, để nói cho dân về lịch sử haò hùng của dân tộc Việt, giảng dạy về lòng yêu nước và trách nhiệm của mọi công dân đối với tổ quốc, với giáo hội, xã hội, với tha nhân, cùng tình trạng nguy nan hiện tại. Chính các vị phải can đảm cất cao lời công chính, rao truyền sự thật, lẽ phải, nếu không thì VN bị mất nước, người dân bị nô lệ là không thể tránh khỏi!
Chúng ta hãy “ôn cố tri tân”, hãy nhìn về quá khứ để biết việc phải làm trong hiện tại. Thời Pháp thuộc, các phong trào tranh đấu dành độc lập đã rất rầm rộ khắp mọi miền đất nước, và họ biết phân chia trách nhiệm cho từng nhóm, như cụ Phan Chu Trinh đã lập phong trào Duy Tân để khai dân trí, nâng cao ý thức cho người dân hầu hỗ trợ cho những lực lượng phục quốc bằng vũ lực. Cụ Phan Bội Châu đã thành lập phong trào Đông Du để đưa nghĩa quân ra nước ngoài học hỏi và vận động cho những phong trào hành động bằng quân sự, chính trị ở trong nước. Ngoài ra còn có phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục chuyên khơi dậy lòng yêu nước trong dân; nhóm Tự Lực Văn Đoàn thì dùng văn chương, tiểu thuyết, để nâng cao dân sinh dân trí… Tất cả những trí tuệ và sức lực của các nhà trí thức đều phối hợp quy tụ lại để chuẩn bị và hậu thuẫn cho những nhóm dùng quân sự như Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học, phong trào kháng chiến của Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) và nhiều nhóm nghĩa quân khác. Than ôi! Khi trước đất nước lâm nguy thì có hàng triệu trí thức ra tay, sĩ phu cả nước cùng vùng dậy xua đuổi giặc mà bảo vệ non sông, còn giờ này nước mất nhà tan cận kề rồi, mà trí thức VN lại ngủ mê và vô trách nhiệm, để gánh nặng non sông cho tuổi trẻ như Phương Uyên, Nguyễn Viết Dũng, Hoàng Bình, hay cho những thiếu phụ trẻ bên mình còn hai ba đứa con nhỏ mà đi đấu tranh như chị Quỳnh, chị Nga, trong khi các đấng nam nhi “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” lại rúc trong xó nhà, hay la cà các quán xá, các trà đình tửu điếm mà say sưa, hỏi có thể như vậy được không? Các “đấng mày râu” là cha, là chồng, là chú, là cậu, là bạn trai, anh trai hoặc em trai…, có dám để cho kẻ “nữ nhi thường tình” thay mình gánh vác giang san, như Hoàng Thanh Trúc đang lưu vong tại Mỹ, đã được đức lang quân cho phép và ủng hộ cho cô chuẩn bị làm một cuộc “cách mạng khỏa thân” của phụ nữ, để kêu gọi mọi người cũng như quốc tế lưu tâm giúp VN thoát khỏi Tàu cộng! Người chồng đáng quý của cô là một người Mỹ, đã đọc một đoạn tâm thư tự xưng là “rể nước Việt”, trước cảnh đất nước bị lâm nguy, anh đã đồng lòng với vợ để cứu nguy đất nước bằng tất cả những gì họ có thể, kể cả phải đem tấm thân mà dâng hiến cho tổ quốc VN! Nếu việc này xảy ra, những đấng “rường cột quốc gia” là con ruột của Mẹ VN sẽ có dịp so sánh tinh thần trách nhiệm với con rể xứ lạ, và còn “đổi ngôi” với phụ nữ, thay vì “cát đằng núp bóng tùng quân”, thì bây giờ “tùng bách” núp bóng cát đằng!
Tại sao một nông dân chân lấm tay bùn như Cấn thị Thêu, lại dám một mình hiên ngang quát mắng bọn chó săn cướp đất của dân? Tại sao chỉ là một người phụ nữa ít học với hai đứa con còn tuổi ăn chơi, mà họ quy tụ được đông đảo đồng bào đến đầy nhà để cùng lên kế hoạch đấu tranh, trong khi các quý ông với đầy bằng cấp tiến sĩ, giáo sư thì miệng mở không ra, tay chân bất động, dùng “trí cao hiểu rộng” được bao thế hệ bồi đắp cho, chỉ để đi kiếm sống, mưu danh lợi nhỏ nhoi ích kỷ? Hỡi ôi VN tôi thời thế kỷ 21 văn minh tiến bộ là như vậy sao?! Xin hãy cho chúng tôi trở về với thời sơ khai lập quốc, để chúng tôi có những anh hùng, liệt nữ, để chúng tôi đi theo và tôn thờ, còn hơn phải sống với các đại gia, đại phu vô hồn vong bản hôm nay! Thế hệ này của chúng ta thật đúng là một thế hệ ăn tàn phá hại, và ăn cướp tương lai của các thế hệ mai sau, khi để lại cho con cháu một đất nước tan hoang với một đống nợ chất chồng, nhất là để cho nước VN phải xóa tên trên bản đồ thế giới!
Thiết nghĩ những livestreams của các cá nhân lấy tên là “khai dân trí”, thực ra chỉ là những thông tin về một vài sự việc xảy ra, kèm với lời bình phẩm của cá nhân, không thể đủ để khai mở trí tuệ cho dân, mà việc lớn lao này phải do giới trí thức, giới lãnh đạo tôn giáo! Muốn làm việc “khai dân trí” phải có mục tiêu, có bài bản, có trình tự, từ giáo dục nhân bản cho đến gáo dục tình tự dân tộc, lòng yêu nước, trách nhiệm với tha nhân, xã hội, với non sông nòi giống, và từ đó kích lên tinh thần quả cảm, dấn thân, hành động… Phải có cả một chương trình, có nhân sự đủ trình độ để thực hiện chương trình đó, và có phương tiện phổ biến các tin tức nóng sốt đến người dân.
Xin góp ý với các phong trào, tổ chức tranh đấu ở quốc nội cũng như quốc ngoại: thật thất vọng cho người dân chúng tôi, khi thấy các tổ chức chính trị lớn bé trong cũng như ngoài nước, ở hải ngoại còn có cả chính phủ lưu vong nọ hay lâm thời kia, mà người phát ngôn thì nói năng chưa chuyên nghiệp, chưa rõ ràng lưu loát, ai có khả năng gì thì dùng nấy, muốn nói gì tùy ý, người nghe không muốn nghe, thì làm sao quý vị thuyết phục được lòng dân? Lập được một chính phủ mà không có một tờ báo, một chương trình thông tin cho đại chúng, thì dân làm sao biết được các vị đang làm gì, định làm gì mà ủng hộ các vị? Khả năng ngôn ngữ, phương tiện thông tin thời nay là những mũi nhọn, là điều kiện tối thiết cho sự thành công, mà các vị còn không biết tận dụng thì đạt kết quả e khó khăn lắm, dù việc làm của các vị có tốt! Tại sao các vị không lấy kinh nghiệm từ CS, họ chỉ có lừa dối, không cần sự thật, không có lẽ phải, nhưng biết lạm dụng thông tin, ngôn ngữ mà họ lừa bịp, ru ngủ được hàng triệu người dân? Chúng ta có lẽ phải, sự thật, tại sao chúng ta lại thua CS? Chung quy là các vị thiếu những quân sư có tài!
Các phong trào yêu nước, tổ chức cách mạng… ở ngoại quốc xin hãy đoàn kết và thống nhất lại, cùng tìm một hướng đi, cùng có một con đường hành động, chứ không thể xẻ nhỏ thành năm bè bảy phái mà thành công được! Có quá nhiều nhóm, nhiều tổ chức thì người dân biết theo ai, bỏ ai? Xin quý vị hãy vì nước vì dân thật lòng, bằng cách kết hợp thành một khối, có một bộ đầu não tài giỏi làm tham mưu, cùng tìm ra một con đường, có chung một tiếng nói, và kết hợp với người trong nước. Các vị thì giữ nhiệm vụ vận động quốc tế, thông tin và hỗ trợ cho trong nước, thêm kiến thức về luật pháp, khoa học, sáng kiến cho người trong nước, phân công phân nhiệm với trong nước để hành động, thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công trong việc xóa bỏ CS và giải phóng đất nước, chống quân xâm lăng Tàu cộng. Nên bớt đi những buổi hội họp, phô diễn hình thức, nhất là những tỵ hiềm, đánh phá và phê phán nặng nề lẫn nhau, chỉ làm lợi cho kẻ thù, và kéo dài sự khổ đau của người dân trong nước. Các vị đang sống ở nơi bình yên, nhưng cũng đừng vì thế mà mê mải an vui tự tại, không để tâm đến tình trạng dầu sôi lửa bỏng trong nước. Một năm, mười năm với quý vị không là gì, nhưng với người đang bị gông cùm xiềng xích CS thì một ngày dài bằng cả trăm năm, “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, xin các vị hiểu cho!
Xin cúi đầu tạ tội với Mẹ VN, vì chúng con đã không làm tròn được bổn phận của người con, trước tình thế nguy nan của Mẹ!
Cơ hội tái hợp Hiệp Định Paris, nhân dân miền Nam được quyền tự quyết thông qua Tổng Tuyển cử
CỘNG PHỈ CÓ GÌ?
Hôm nay thông xe cầu Vàm Cống, chấm dứt 100 năm hoạt động của phà Vàm Cống. Cụm phà này, là của người Pháp để lại, và bây giờ thay thế bằng cây cầu của người Hàn, với vốn tài trợ gần 300 triệu đô la.
Thông xe cầu Vàm Cống, người dân miền Tây bao đời lam lũ sẽ có thêm một cây cầu để đi mà không phải tốn tiền. Trước đó là cầu Cần Thơ, do người Nhật tài trợ, miễn phí cho dân. Rồi cầu Mỹ Thuận, do Úc tài trợ, miễn phí cho dân. Rồi cầu Cao Lãnh, do Úc tài trợ, cũng miễn phí cho dân. Dự án nào cũng nhiều ngàn tỷ đồng, được xây nên bởi mồ hôi, nước mắt của bọn đế quốc sài lang, của bọn tư bản giãy chết (mà ta được học).
Thông xe cầu Vàm Cống, người dân An Giang và dân vùng khác đi ngang đây sẽ không tốn xu nào để hưởng lợi, vì họ xứng đáng được nhân dân quốc tế yêu thương, hỗ trợ.
Nhưng thưa các bạn, trạm BOT T2 đã dựng sẵn bên dưới cầu, bạn vừa qua cầu sẽ phải đóng phí cho T2 - dù nó không liên quan gì đến dự án.
Công ty cổ phần Đầu tư Quốc lộ 91 Cần Thơ - An Giang là nhà đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp đoạn Quốc lộ 91 từ km 00 - km 50 (từ TP. Cần Thơ về tỉnh An Giang trên 50 km) theo hình thức BOT, hoạt động vào đầu tháng 1/2017.
Theo đó, Trạm thu phí số 2 trên Quốc lộ 91 (Ngã ba Lộ Tẻ về hướng phà Vàm Cống) thu phí các phương tiện xe qua trạm này, mỗi lượt cụ thể như sau: xe khách trên 45 chỗ 75.000 đồng, xe trên 31 chỗ 50.000 đồng và xe ô tô nhỏ nhất là 35.000 đồng/chiếc. Riêng xe tải từ 2-4 tấn 50.000 đồng, từ 4 -10 tấn 75.000đ, 14- 18 tấn là trên 75.000 đồng...
Và cái trạm đặt ở đây, không liên quan gì đến chúng ta, chúng ta không sử dụng, vẫn phải trả tiền.
Nhìn lại những cây cầu vĩ đại - thực sự vĩ đại, chúng ta đã làm gì?
Trạm thu phí cầu Mỹ Thuận đưa vào hoạt động cùng thời điểm khánh thành cầu (ngày 21/5/2000). Trong năm đầu tiên, mỗi ngày có hơn 6.000 lượt xe 4 bánh qua lại. Đến năm 2010 tăng lên gần 16.000 lượt. Sau 10 năm, trạm thu được gần 545 tỷ đồng. Phía Úc đã phản đối việc thu phí do cây cầu này được xây từ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của họ, và họ buộc phải miễn phí vì nhân dân.
Rồi cầu Cần Thơ, do Nhật tài trợ, đã phải ngừng thu phí vì nước Nhật phản đối.
Hay Trạm thu phí hầm Thủ Thiêm vốn ODA Nhật Bản được ta lắp 12 cabin hoành tráng để thu phí vào tháng 9/2012. Thu được vào ngày, phía Nhật phát hiện gởi công hàm phản đối kịch liệt. Kết quả: ngày 22/11/2012, UBND TP HCM quyết định chưa thu phí hầm Thủ Thiêm "để chia sẻ khó khăn với người dân".
...
Chúng ta làm được gì, ngoài việc ngồi chờ nước ngoài làm và ta lập trạm thu?
Rút kinh nghiệm những trạm thu khác bị nước ngoài phản đối, cái trạm T2 này phía Hàn không thể phản đối được, vì nó nằm... kế bên.
Chúng ta khôn như thế này, bảo sao tất cả các đế quốc sang đây đều phải chào thua!
Chúng mày khôn lắm, nhưng nhân dân biết hết chúng mày ạ.
Hôm nay thông xe cầu Vàm Cống, xin chúc mừng nhân dân được đi qua miễn phí.
Và xin chia buồn ngay lập tức vì T2 đang giăng barie chờ sẵn dưới dốc cầu!
Địt mẹ BOT T2 bốn lần!!!!
Thông xe cầu Vàm Cống, người dân miền Tây bao đời lam lũ sẽ có thêm một cây cầu để đi mà không phải tốn tiền. Trước đó là cầu Cần Thơ, do người Nhật tài trợ, miễn phí cho dân. Rồi cầu Mỹ Thuận, do Úc tài trợ, miễn phí cho dân. Rồi cầu Cao Lãnh, do Úc tài trợ, cũng miễn phí cho dân. Dự án nào cũng nhiều ngàn tỷ đồng, được xây nên bởi mồ hôi, nước mắt của bọn đế quốc sài lang, của bọn tư bản giãy chết (mà ta được học).
Thông xe cầu Vàm Cống, người dân An Giang và dân vùng khác đi ngang đây sẽ không tốn xu nào để hưởng lợi, vì họ xứng đáng được nhân dân quốc tế yêu thương, hỗ trợ.
Nhưng thưa các bạn, trạm BOT T2 đã dựng sẵn bên dưới cầu, bạn vừa qua cầu sẽ phải đóng phí cho T2 - dù nó không liên quan gì đến dự án.
Công ty cổ phần Đầu tư Quốc lộ 91 Cần Thơ - An Giang là nhà đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp đoạn Quốc lộ 91 từ km 00 - km 50 (từ TP. Cần Thơ về tỉnh An Giang trên 50 km) theo hình thức BOT, hoạt động vào đầu tháng 1/2017.
Theo đó, Trạm thu phí số 2 trên Quốc lộ 91 (Ngã ba Lộ Tẻ về hướng phà Vàm Cống) thu phí các phương tiện xe qua trạm này, mỗi lượt cụ thể như sau: xe khách trên 45 chỗ 75.000 đồng, xe trên 31 chỗ 50.000 đồng và xe ô tô nhỏ nhất là 35.000 đồng/chiếc. Riêng xe tải từ 2-4 tấn 50.000 đồng, từ 4 -10 tấn 75.000đ, 14- 18 tấn là trên 75.000 đồng...
Và cái trạm đặt ở đây, không liên quan gì đến chúng ta, chúng ta không sử dụng, vẫn phải trả tiền.
Nhìn lại những cây cầu vĩ đại - thực sự vĩ đại, chúng ta đã làm gì?
Trạm thu phí cầu Mỹ Thuận đưa vào hoạt động cùng thời điểm khánh thành cầu (ngày 21/5/2000). Trong năm đầu tiên, mỗi ngày có hơn 6.000 lượt xe 4 bánh qua lại. Đến năm 2010 tăng lên gần 16.000 lượt. Sau 10 năm, trạm thu được gần 545 tỷ đồng. Phía Úc đã phản đối việc thu phí do cây cầu này được xây từ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của họ, và họ buộc phải miễn phí vì nhân dân.
Rồi cầu Cần Thơ, do Nhật tài trợ, đã phải ngừng thu phí vì nước Nhật phản đối.
Hay Trạm thu phí hầm Thủ Thiêm vốn ODA Nhật Bản được ta lắp 12 cabin hoành tráng để thu phí vào tháng 9/2012. Thu được vào ngày, phía Nhật phát hiện gởi công hàm phản đối kịch liệt. Kết quả: ngày 22/11/2012, UBND TP HCM quyết định chưa thu phí hầm Thủ Thiêm "để chia sẻ khó khăn với người dân".
...
Chúng ta làm được gì, ngoài việc ngồi chờ nước ngoài làm và ta lập trạm thu?
Rút kinh nghiệm những trạm thu khác bị nước ngoài phản đối, cái trạm T2 này phía Hàn không thể phản đối được, vì nó nằm... kế bên.
Chúng ta khôn như thế này, bảo sao tất cả các đế quốc sang đây đều phải chào thua!
Chúng mày khôn lắm, nhưng nhân dân biết hết chúng mày ạ.
Hôm nay thông xe cầu Vàm Cống, xin chúc mừng nhân dân được đi qua miễn phí.
Và xin chia buồn ngay lập tức vì T2 đang giăng barie chờ sẵn dưới dốc cầu!
Địt mẹ BOT T2 bốn lần!!!!
FB Nhà báo Hữu Danh
TIN VUI : CÔNG NHẬN CHÍNH PHỦ VNCH, TT DONALD TRUMP GẤP RÚT TÁI HIỆP ĐỊNH PARIS 1973 ĐƯA VNCH TRỞ LẠI
https://youtu.be/cK8VV5Cno3M
HỌP BÁO QUỐC TẾ KÊU GỌI YỂM TRỢ CHO VIỆT NAM CỘNG HÒA TRỞ LẠI
QÙA LỚN CỦA TT DONALD TRUMP DÀNH CHO DÂN TỘC LÀ HAI CHỮ T..Ự D..O
TT ĐÀO MINH QUÂN SẼ THAY ĐỔI LỊCH SỬ VIỆT NAM MÀ CSVN ĐANG GI.Ữ
LOA LOA \ NGUYEN THI NGOC 20/05/2019 | TRƯNG CẦU | DÂN Ý | Cứu | Tổ Quốc | VN |
TIN VUI: TT Donald Trump ký 3 sắc lệnh đưa VNCH trở lại vì Nhân Quyền do ĐCS cai trị QUÁ TỆ
ĐT livestream 051719 Hậu duệ VNCH hãy cùng nhau ủng hộTổng thống CPQGVNLT kêu gọi Trưng
cầu dân ý
Nỏ Thần TV : Khối ASEAN chọn Mỹ bỏ Tàu . Còn CSVN thì sao ?
Người lính già nghĩ gì về các tướng tá Mỹ gốc Việt?
Hòa giải sau chiến tranh: Từ nội chiến Mỹ đến chiến tranh Việt Nam
Đại Lễ Quân Lực VNCH 19 Tháng 6 Năm 2019 Tại San Jose
Đào Minh Quân : Tổng Thống đệ tam Việt Nam Cọng Hòa phát biểu ...
Được đăng bởi MAI ĐÂY HÒA BÌNH- Mai Nguyễn Huỳnh vào lúc 02:00
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét