Mùa xuân nghe/đọc lại truyện “Rừng khóc giữa mùa xuân” của Phạm Tín An Ninh
RỪNG KHÓC GIỮA MÙA XUÂN
Phạm Tín Anh Ninh
Trình chơi Âm thanh
00:00
00:00
Đối với người lính chiến miền Nam Việt Nam, chỉ cần nhắc tên một ngọn núi, như Núi Tà Dôm hay Chu Pao, một con đường, như Quốc Lộ 14, Tỉnh Lộ 7 B; một đồ vật như đôi giầy “xô”, cái nón sắt… là có thể tâm hồn òa vỡ. Vết thương lính có thể lành nhưng ký ức không bao giờ phai nhạt. Nó bừng lên nếu có ai bật nút. Phạm Tín An Ninh là một trong số người bật nút tài tình vào bậc nhất hiện nay. Năm ngàn (5. 000) cuốn Ở Cuối Hai Con Đường được bán sạch trong vòng một năm chứng tỏ sau 35 năm kết thúc cuộc chiến, truyện lính vẫn hấp dẫn, không riêng đối với lính mà với mọi người ít nhiều có liên hệ tới cuộc chiến. Nếu đặt Ở Cuối Hai Con Đường trong hoàn cảnh thị trường sách và tình hình đọc ở hải ngoại ngày nay, thì tập truyện này là một hiện tượng. Tôi là người ngán đến mang tai truyện chiến tranh (dù hay như Platoon hay buồn nôn như Deer hunter, thấy trên TV là tôi bật đài khác liền, bởi vì trong những phim ấy tôi chỉ thấy Mỹ và Việt Cộng, không có “Ta” trong đó, “Ta” đã bị loại ra khỏi vòng chiến ngay từ đầu; (nếu có “Ta” là đi đôi với những tướng tá lệ thuộc, ươn hèn). Nhưng tôi thích truyện PTAN. Bạn bè tôi cũng thích và chúng tôi hỏi nhau tại sao chán phim chiến tranh mà độc giả – cả lính lẫn dân – lại thích truyện PTAN” Câu trả lời đơn giản là vì PTAN không kể chuyện chiến tranh (thản hoặc chỉ lấy chiến tranh làm bối cảnh). Anh kể chuyện lính, tức là kể về những con người, trong đó “đánh đấm” chỉ là một khía cạnh. Và không phải người lính đơn độc, mà người lính gắn liền với người dân, với một mối tình. Người lính không chỉ có kiêu hùng mà còn lãng mạn, nhân bản, vị tha. Hình ảnh người lính của PTAN không phải đẹp với bộ quân phục mà đẹp trong suy nghĩ, trong tâm hồn.
Độc giả sẽ thấy những nét đặc thù đó nổi bật hơn nữa trong tập truyện Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân.
Hai anh lính trẻ nhận được hai tấm khăn thêu và hai lá thư ‘sao y chánh bản’ tới tận trường tìm cô em gái hậu phương, để sau đó một người thành người tình bạc mệnh, một người thành nhà sư canh mộ cho bạn mình (Gói quà đầu năm). Anh lính Biệt Động Quân gùi đứa con trai bốn tuổi trên lưng, mở đường máu cho đồng đội, để cuối cùng bỏ xác, bỏ con trên rừng thẳm (Rừng khóc giữa mùa xuân). Cô gái cán bộ lâm trường người Hà Giang yêu anh lính tù cải tạo, giúp anh bản đồ, địa bàn và lương khô để vượt ngục; cuộc đào thoát thất bại, cô tưởng anh đã chết, sáu năm mới đi lấy chồng, nhưng anh vẫn còn sống và trở thành một vị thầy tu.. (Nghỉ hè ở Mallorca). Những anh lính trẻ hành quân tại Ngân Sơn không bao lâu, ngày lên đường, trên đoàn xe GMC của tiểu đoàn, thấp thoáng những cô dâu mới trong bộ đồ lính trận (Người lính trinh sát). Sau cuộc chiến, dù là người bại trận, họ vẫn luôn dang hai tay ôm lấy cái tình huynh đệ, cố giữ hào khí, tư cách của ngày xưa ( Những cánh đại bàng sau cơn bão lửa). Nhiều năm khốn khổ trong lao tù, trở về với một gia đình tan nát, người lính vẫn chịu đưng bao dung, bao nhiêu nỗi oan khiên gởi theo hồn tiếng sáo (Tiếng Sáo). Về già, ngồi “điểm danh”, nhớ thương từng đồng đội cũ, tiếc nuối bao kinh nghiệm chiến trường giờ không biết còn truyền lại cho ai ( Lá rụng không về cội)…Đó là những hình ảnh tưởng chỉ có trong phim về chiến tranh Nam-Bắc Mỹ hoặc Chiến tranh và Hòa bình tại Nga. Nhưng đó là những hình ảnh con người trong chiến tranh Việt Nam. PTAN thu được những hình ảnh đó nhờ anh là lính chiến; anh kể lại chi tiết từng địa danh, năm tháng, không hẳn vì nhờ có trí nhớ tuyệt vời, mà chính vì anh không thể nào quên. Nhưng yếu tố quan trọng không kém khiến cho truyện PTAN có giá trị đặc biệt, là anh có một triết lý riêng để lý giải tất cả mọi việc trên đời – thái độ trước định mệnh.
Cuộc đời trong thế giới PTAN đầy oan trái, và đầy tính định mệnh. Nhưng các nhân vật không thúc thủ trước định mệnh. PTAN tin“xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Truyện PTAN thường cực kỳ éo le, chằng chịt khúc mắc, dàn dựng khác với phép dựng kịch (dramaturgy) của truyện ngắn cổ điển (vả lại, có bao nhiêu nhà văn Việt Nam viết truyện ngắn theo sách vở”). PTAN dàn dựng truyện như thế này:
tình cờ – hạnh ngộ – chia ly – đi tìm – thấy – xử trí theo tình nghĩa.
Các truyện trong Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân, vì thế, phần nhiều là bi kịch, nhưng luôn luôn có hậu, khuynh hướng mà đa số độc giả trông đợi. Nhờ thế, đọc truyện Phạm Tín An Ninh, dù chảy nước mắt nhưng ai cũng phải hài lòng
Tâm Thanh
Vietbao
RỪNG KHÓC GIỮA MÙA XUÂN
Phạm Tín An Ninh
(phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)
Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư ở Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng lại rất đẹp vào những ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm cho tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.
Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo tôi sau những buổi tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp từ thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính biệt động quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa mới trải qua khói lửa Mậu Thân.
Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên, Lê Cao Nguyên. Anh về phép thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, và đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.
Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần VC pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau, khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.
Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang theo những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng giã từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chũng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là một số đơn vị Biệt Động Quân được chỉ định đi sau, ngăn chận địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.
Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người còn vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản, mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ một sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi được gặp anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người Thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số ngôi mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây. Và lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm thanh não nùng, xé ruột.
Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương và một đứa em trai của tôi được đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.
Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây đúng vào giữa mùa Xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.
Con đường Tỉnh lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương, còn có cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn được mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi
Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc của người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là một anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi. Khi anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sóng mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc màu nâu sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi kịp nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người Thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai chị:
– Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:
– Thằng Nguyên? Chẳng lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:
– Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu:
– Tao là thằng Ksor Tlang,
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột miệng:
– Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người tai mắt ở đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.
– Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?
– Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.
– Có anh em không?
– Không.
– Anh có nhớ ngày sinh không?
– Không
(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ tìm khai sinh sau)
– Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
– Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
– Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?
(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
– Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:
– Cha mẹ anh đang ở đâu?
– Buôn Ban Ma Dek.
(Gã công an nhìn tôi, bảo Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
– Anh ở chung với cha mẹ anh?
– Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
– Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo là chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.
Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực:
– Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lếch vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.
– Rồi xác người lính ấy ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
– Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.
Chúng tôi theo hai người công an dìu ông già đi về phía khu rừng.
Tôi khóc ngất khi nhìn thấy nấm mồ thấp lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng quỳ xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông già một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng cũng như loài cá không thể sống mà không có nước.
Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi dự định xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất ở quanh đây.Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.
Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều, tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình. Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông Trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày chỉ vừa lên bốn tuổi.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?
Phạm Tín An Ninh
(phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)
Nguồn: https://kontumquetoi.com/2018/03/08/mua-xuan-nghe-doc-lai-truyen-rung-khoc-giua-mua-xuan-cua-pham-tin-an-ninh/
VNCH di tản tháng 4/1975 - những hình ảnh chưa biết
https://youtu.be/GfmfUop-bJo
Thứ Hai, 28 tháng 3, 2011
Đạn nổ trong tù Cải Tạo Long Khánh!!! - Huỳnh Mai
Mai Nguyễn Huỳnh06:06 10 tháng 11, 2013
Tập hồi ký
Đạn Nổ Trong Tù Cải Tạo Long Khánh!!!
{RIVER BRIDGE KWAII OF SOUTH VIETNAM}
Tác giả: Huỳnh Mai St.8872
Bh: Dạ Lệ Huỳnh
Đã nói lên cuộc chiến đấu âm thầm, uy dũng của những người tù chính trị cộng sản Việt Nam, những cựu sĩ quan các cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nơi trại tù Long Khánh. Một thời được gọi với danh xưng "cải tạo".
Cuộc chiến đấu âm thầm, uy dũng này đã làm sáng thêm trang sử vàng son cận đại của dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu đến quý độc giả trong và ngoài nước "Tập hồi ký Đạn nổ trong tù Cải tạo Long Khánh" của tác giả Dạ Lệ Huỳnh.
Dạ Lệ Huỳnh
Cựu Đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Đơn vị sau cùng: Bộ Tổng Tham Mưu/QL.VNCH/TCQH
2 năm rưỡi tù Cộng sản.
Ban biên tập Lịch Sử Quân Sử Việt Nam (http://quansuvn.info)
Đạn Nổ Trong Tù Cải Tạo Long Khánh!!!
{RIVER BRIDGE KWAII OF SOUTH VIETNAM}
Tác giả: Huỳnh Mai St.8872
Bh: Dạ Lệ Huỳnh
Đã nói lên cuộc chiến đấu âm thầm, uy dũng của những người tù chính trị cộng sản Việt Nam, những cựu sĩ quan các cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nơi trại tù Long Khánh. Một thời được gọi với danh xưng "cải tạo".
Cuộc chiến đấu âm thầm, uy dũng này đã làm sáng thêm trang sử vàng son cận đại của dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu đến quý độc giả trong và ngoài nước "Tập hồi ký Đạn nổ trong tù Cải tạo Long Khánh" của tác giả Dạ Lệ Huỳnh.
Dạ Lệ Huỳnh
Cựu Đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Đơn vị sau cùng: Bộ Tổng Tham Mưu/QL.VNCH/TCQH
2 năm rưỡi tù Cộng sản.
Ban biên tập Lịch Sử Quân Sử Việt Nam (http://quansuvn.info)
MAI ĐÂY HÒA BÌNH
Bà Mẹ Say / Chiến Sĩ Say
đăng lúc 07:37:23 AM, Apr 23, 2011 * Số lần xem: 1320
*
Bà Mẹ Say…
Huỳnh-Mai
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
Mẹ tôi không phải mẹ hùng Liệt Cộng,
Say men chiến đấu rước quân giặc về,
Mẹ say vì buồn con bà chiến bại,
Gảy súng tan hàng bỏ dở cuộc chơi,
Cuộc chiến chưa tàn Saigon vội mất,
Miền Nam nầy chưa đánh đã bại thua,
Thắng thua cũng chỉ “Dọn chè cho chó”
Thời nầy chinh chiến vạn khối người say,
Rượu thắng ta, chớ nào ta thắng rượu,
Dân tộc nầy chiến bại…cũng vì say?
Xox
Đông số người say…đền công Liệt Cộng,
Đào hầm giấu giặc…đến lúc thành công,
Mẹ uống thật say…tiễn con cải tạo,
Chốn nhà tù là…khuất bong Tự-Do,
Quê nhà mẹ lấp hầm…moi xác cộng,
Cuốc mã đào mồ…phản quốc Việt Gian
Mẹ say lệ đổ tuôn trào nước mắt…
Cơn say choáng váng như gió trở cờ,
Cờ Sao vải đỏ chúng may mẹ mặc?
Máu-tim se thắt …vận nước hồn đau,
xox
Đa số mẹ say…mừng công chiến thắng,
“Cách mạng” nằm vùng nay đã thành công,
Mẹ say sao mẹ…tuông trào nước mắt?
Mẹ khóc thật rồi…không phải mẹ say,
Cay nồng rượu đắng…cho đời Phật Tử,
Đem Phật xuống đường …cản lối Tự-Do,
Chuông chùa cảnh báo…đào hầm giấu giặc,
Khoát áo Di Đà…ản chiến Tự-Do,
Nhà thờ chuông đổ… Thiên Thần có cánh
Đầu đội nón cối…tay cầm A.K…
Xox
Thiên thần nón cối…bay quanh nhốt chúa,
Đặc công Cộng Sàn …hộ pháp Di Đà,
Bại quốc vong gia …vô thần Xã Nghĩa,
Chảy máu Phật …nhốt Chúa lại lừa dân
Mẹ uống thật say…quên lời Cộng hứa,
Không biết ngày mai…xẩy đến những gì
Cháu bà vượt biển… bị tù không thoát,
Say đi không thấy…xác con trong tù,
Mẹ say… mẹ khóc cho đời hoang phế,
Thiên đàng Cộng hứa…có phải là đây,
Xox
Mẹ say mẹ biết…bà là mẹ “Ngụy”
Nhường cơm xẻ áo…nhường nhà ra đi,
Vỉa hè góc phố…một đời lang-bạt,
Lê la phố chợ…hằng ngày ăn xin,
Có tiền mua rượu thật say… mẹ uống,
La cà kết bạn…phế binh không nhà,
Mẹ say mẹ khóc… kéo xe vé số,
Cất lên tiếng hát tử sĩ cô-nhi,
Nạn nhân chiến cuộc…mà bà phản chiến,
Thiên đàng chỉ thấy…ngục tù trần gian,
Xox
Đời mẹ “Ngụy” khổ đau không chấm dứt,
Tự-Do mất rối…mẹ phải lầm than,
“Cách mạng” thành công…sao bà chiến bại
Tổ quốc gia đinh con cháu bỏ đi,
Đứa vào cải tạo…đứa đi vượt biển,
Của cải gia tải…mũ cối thế chân,
Mẹ chỉ là mẹ say…của lính “Ngụy”,
Công Cách Mạng…Phật Chúa chứng cho bà
Xã nghĩa này của thiêng đàng Cộng Sản,
Không chỗ Chúa Phật…ngự trị Tự-Do,
Xox
Một buổi chiều mùa đông đầy gió lạnh,
Gió bấc lạnh lung…thổi thốc vào Nam,
Men rượu say không ấm lòng mẹ “Ngụy”
Co ro dưới tượng Hưng Đạo Vương Đài,
Bến sông Saigon mẹ nhìn rồi khóc,
Lần theo hướng chỉ Hưng Đạo Thánh Trần,
Ảo ảnh nhớ thương cháu con vượt biển,
Mẹ ôm chai rượu…làm thuyền ra khơi,
Mẹ say chìm xác nhưng hồn bay bổng,
Bỏ lại quê hương…vạn khối say buồn,
Huỳnh-Mai
(Tưởng nhớ BÀ MẸ SAY…)
Thơ;
Chiến Sĩ Say
Huỳnh-Mai.St.8872
Bh.Dạ lệ Huỳnh
Ảo thực đôi bờ ranh giới chiến tranh,
Dân tình nước Việt kiếp sống mong manh,
Chiến sĩ vì đời Tự-Do chiến đấu,
Sống chết tình vờ ảo-ảnh cơn say,
Xox
Chiến sĩ, say mới là chiến đấu thực,
Trọn tình non nước vẹn nghĩa Tự-Do,
Vì say đâu biết đời là phản bội,
Sau lưng chiến sĩ thương đau ngút ngàn,
Xox
Qua cơn say thấy đời là cõi thực,
Có Tự-Do mới thấy được mình say,
Mất Tự-Do rồi vì ai...chiến đấu…!?
Quê hương còn trong giấc ngủ nồng say,
Xox
Rượu nầy ta uống dưới cờ lâm chiến,
Cho thật say; không gớm máu cộng thù,
Máu loang đỏ thấy lòng mình cũng chết,
Tái tê lòng dân Việt tỉnh mà chi,
Xox
Say men chiến đấu xây đời hạnh phúc,
Xác than nầy xây đắp ngày Tự-Do,
Có ai thương tiếc phận đời chiến Sĩ,
Cuộc chiến tàn rồi ảo ảnh cơn say,
Xox
Sau cơn say Tháng –Tư hồn thức tỉnh,
Giữa trời Tự-Do máu đổ đầm đìa,
Ta thấy sợ cho long người phản bội,
Trở ngược cơ cho máu thắmTự-Do,
Xox
Chiến sĩ, say trong tay cây súng gảy…
Bẻ súng cong nòng khóc ngất tỉnh say,
Tỉnh thấy chiến bào tả tơi rào thép,
Say khòi nhìn bội phản cho long đau,
Xox
Cơn say chợt tỉnh trong tù cải tạo,
Men Tự-Do đâu thắm thế gian tình,
Thiên đàng Xã Nghĩa một trời mộng tưởng,
Bỏ mặc tù đày ảo ảnh cơn say,
Xox
Giờ, chiến sĩ say là trong dĩ vãng,
Tìm lại mình nỗi nhớ chiến trương xưa,
Mượn rượu khỏa khuây Đời bất đắc chí,
Kinh kha bại tướng vở mộng không thành,
Xox
Chiều Saigon khói bay mùi thịt nướng,
Phồn vinh giả tạo…lủ trẻ ăn chơi;
Quên đất nước cha ông là chiến sĩ,
Một thời chết dở lủ chó nướng thui,
Xox
Hãy chén nó đi vong nô phản quốc,
Chó săn, chó cộng chủ nó xâm-lăng,
Canh tù phát hiện tù nhân trốn trại,
Rượt đuổi thuyền nhân tớitận biển khơi,
Xox
Rượu cạn mềm môi tinh thần chiến sĩ,
Phơi xác trên lò xác chó cộng nô;
Nghe mùi chó nướng.bomb cày xác giặc,
Cũng vì mồi chó.rượu vào càng say,
Xox
Có say mới biết đời là lẽ thật,
Địa ngục, thiên đàng Phật Chúa chia ngôi,
Tư-Do là của con người định đoạt,
Khôn nhờ dạy chịu ta thời cứ say,
Xox
Giận thời nói vậy long thêm tan nát,
Vở mãnh trăng thề non nước mây che,
Hồn non nước réo gọi người chiến sĩ,
Tỉnh say; đi nào chiến sĩ Tư-Do,
Xox
Ảo ảnh say; xác thù thayxác chó,
Nước mất ‘quê hương ‘ta nhậu thật say,
Ta thấy sợ cho lòng ngươi phản bội,
Trở ngược cờ cho máu thắm Tự-Do,
Huỳnh-Mai
[ba lăm năm sau]
Huỳnh-Mai
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
Mẹ tôi không phải mẹ hùng Liệt Cộng,
Say men chiến đấu rước quân giặc về,
Mẹ say vì buồn con bà chiến bại,
Gảy súng tan hàng bỏ dở cuộc chơi,
Cuộc chiến chưa tàn Saigon vội mất,
Miền Nam nầy chưa đánh đã bại thua,
Thắng thua cũng chỉ “Dọn chè cho chó”
Thời nầy chinh chiến vạn khối người say,
Rượu thắng ta, chớ nào ta thắng rượu,
Dân tộc nầy chiến bại…cũng vì say?
Xox
Đông số người say…đền công Liệt Cộng,
Đào hầm giấu giặc…đến lúc thành công,
Mẹ uống thật say…tiễn con cải tạo,
Chốn nhà tù là…khuất bong Tự-Do,
Quê nhà mẹ lấp hầm…moi xác cộng,
Cuốc mã đào mồ…phản quốc Việt Gian
Mẹ say lệ đổ tuôn trào nước mắt…
Cơn say choáng váng như gió trở cờ,
Cờ Sao vải đỏ chúng may mẹ mặc?
Máu-tim se thắt …vận nước hồn đau,
xox
Đa số mẹ say…mừng công chiến thắng,
“Cách mạng” nằm vùng nay đã thành công,
Mẹ say sao mẹ…tuông trào nước mắt?
Mẹ khóc thật rồi…không phải mẹ say,
Cay nồng rượu đắng…cho đời Phật Tử,
Đem Phật xuống đường …cản lối Tự-Do,
Chuông chùa cảnh báo…đào hầm giấu giặc,
Khoát áo Di Đà…ản chiến Tự-Do,
Nhà thờ chuông đổ… Thiên Thần có cánh
Đầu đội nón cối…tay cầm A.K…
Xox
Thiên thần nón cối…bay quanh nhốt chúa,
Đặc công Cộng Sàn …hộ pháp Di Đà,
Bại quốc vong gia …vô thần Xã Nghĩa,
Chảy máu Phật …nhốt Chúa lại lừa dân
Mẹ uống thật say…quên lời Cộng hứa,
Không biết ngày mai…xẩy đến những gì
Cháu bà vượt biển… bị tù không thoát,
Say đi không thấy…xác con trong tù,
Mẹ say… mẹ khóc cho đời hoang phế,
Thiên đàng Cộng hứa…có phải là đây,
Xox
Mẹ say mẹ biết…bà là mẹ “Ngụy”
Nhường cơm xẻ áo…nhường nhà ra đi,
Vỉa hè góc phố…một đời lang-bạt,
Lê la phố chợ…hằng ngày ăn xin,
Có tiền mua rượu thật say… mẹ uống,
La cà kết bạn…phế binh không nhà,
Mẹ say mẹ khóc… kéo xe vé số,
Cất lên tiếng hát tử sĩ cô-nhi,
Nạn nhân chiến cuộc…mà bà phản chiến,
Thiên đàng chỉ thấy…ngục tù trần gian,
Xox
Đời mẹ “Ngụy” khổ đau không chấm dứt,
Tự-Do mất rối…mẹ phải lầm than,
“Cách mạng” thành công…sao bà chiến bại
Tổ quốc gia đinh con cháu bỏ đi,
Đứa vào cải tạo…đứa đi vượt biển,
Của cải gia tải…mũ cối thế chân,
Mẹ chỉ là mẹ say…của lính “Ngụy”,
Công Cách Mạng…Phật Chúa chứng cho bà
Xã nghĩa này của thiêng đàng Cộng Sản,
Không chỗ Chúa Phật…ngự trị Tự-Do,
Xox
Một buổi chiều mùa đông đầy gió lạnh,
Gió bấc lạnh lung…thổi thốc vào Nam,
Men rượu say không ấm lòng mẹ “Ngụy”
Co ro dưới tượng Hưng Đạo Vương Đài,
Bến sông Saigon mẹ nhìn rồi khóc,
Lần theo hướng chỉ Hưng Đạo Thánh Trần,
Ảo ảnh nhớ thương cháu con vượt biển,
Mẹ ôm chai rượu…làm thuyền ra khơi,
Mẹ say chìm xác nhưng hồn bay bổng,
Bỏ lại quê hương…vạn khối say buồn,
Huỳnh-Mai
(Tưởng nhớ BÀ MẸ SAY…)
Thơ;
Chiến Sĩ Say
Huỳnh-Mai.St.8872
Bh.Dạ lệ Huỳnh
Ảo thực đôi bờ ranh giới chiến tranh,
Dân tình nước Việt kiếp sống mong manh,
Chiến sĩ vì đời Tự-Do chiến đấu,
Sống chết tình vờ ảo-ảnh cơn say,
Xox
Chiến sĩ, say mới là chiến đấu thực,
Trọn tình non nước vẹn nghĩa Tự-Do,
Vì say đâu biết đời là phản bội,
Sau lưng chiến sĩ thương đau ngút ngàn,
Xox
Qua cơn say thấy đời là cõi thực,
Có Tự-Do mới thấy được mình say,
Mất Tự-Do rồi vì ai...chiến đấu…!?
Quê hương còn trong giấc ngủ nồng say,
Xox
Rượu nầy ta uống dưới cờ lâm chiến,
Cho thật say; không gớm máu cộng thù,
Máu loang đỏ thấy lòng mình cũng chết,
Tái tê lòng dân Việt tỉnh mà chi,
Xox
Say men chiến đấu xây đời hạnh phúc,
Xác than nầy xây đắp ngày Tự-Do,
Có ai thương tiếc phận đời chiến Sĩ,
Cuộc chiến tàn rồi ảo ảnh cơn say,
Xox
Sau cơn say Tháng –Tư hồn thức tỉnh,
Giữa trời Tự-Do máu đổ đầm đìa,
Ta thấy sợ cho long người phản bội,
Trở ngược cơ cho máu thắmTự-Do,
Xox
Chiến sĩ, say trong tay cây súng gảy…
Bẻ súng cong nòng khóc ngất tỉnh say,
Tỉnh thấy chiến bào tả tơi rào thép,
Say khòi nhìn bội phản cho long đau,
Xox
Cơn say chợt tỉnh trong tù cải tạo,
Men Tự-Do đâu thắm thế gian tình,
Thiên đàng Xã Nghĩa một trời mộng tưởng,
Bỏ mặc tù đày ảo ảnh cơn say,
Xox
Giờ, chiến sĩ say là trong dĩ vãng,
Tìm lại mình nỗi nhớ chiến trương xưa,
Mượn rượu khỏa khuây Đời bất đắc chí,
Kinh kha bại tướng vở mộng không thành,
Xox
Chiều Saigon khói bay mùi thịt nướng,
Phồn vinh giả tạo…lủ trẻ ăn chơi;
Quên đất nước cha ông là chiến sĩ,
Một thời chết dở lủ chó nướng thui,
Xox
Hãy chén nó đi vong nô phản quốc,
Chó săn, chó cộng chủ nó xâm-lăng,
Canh tù phát hiện tù nhân trốn trại,
Rượt đuổi thuyền nhân tớitận biển khơi,
Xox
Rượu cạn mềm môi tinh thần chiến sĩ,
Phơi xác trên lò xác chó cộng nô;
Nghe mùi chó nướng.bomb cày xác giặc,
Cũng vì mồi chó.rượu vào càng say,
Xox
Có say mới biết đời là lẽ thật,
Địa ngục, thiên đàng Phật Chúa chia ngôi,
Tư-Do là của con người định đoạt,
Khôn nhờ dạy chịu ta thời cứ say,
Xox
Giận thời nói vậy long thêm tan nát,
Vở mãnh trăng thề non nước mây che,
Hồn non nước réo gọi người chiến sĩ,
Tỉnh say; đi nào chiến sĩ Tư-Do,
Xox
Ảo ảnh say; xác thù thayxác chó,
Nước mất ‘quê hương ‘ta nhậu thật say,
Ta thấy sợ cho lòng ngươi phản bội,
Trở ngược cờ cho máu thắm Tự-Do,
Huỳnh-Mai
[ba lăm năm sau]
Nguồn: http://www.saimonthidan.com/index.php?c=article&p=6588
https://en.calameo.com/books/000575588237e16375b65
XIN ĐA TẠ & BIẾT ƠN!
by
Tuấn Nguyễn
Tập hồi ký vượt biên
VƯỢT BIỂN TRÊN ĐỐNG
XƯƠNG TÀN!!!
Huỳnh Mai St.
8872
Bh.
Dạ Lệ Huỳnh
SƠ-LƯỢC YẾU TỐ THÔI THÚC RA ĐI.
Không như số đông bạn bè chiến hữu đồng tù cải tạo
được Cộng sản tha về trước thời hạn 3 năm.
Bị đi tù
trẽn 3 năm mới đủ tiêu chuẩn Hoa Kỳ nhận cho tái
định cư vào đất Mỹ với người theo diện HO.
Có nghĩa
là chưa chết và chưa đủ chuẩn hành hạ nếm mùi đòn
thù cùa Việt Cộng như Mỹ mong muốn khi bỏ rơi
Miền Nam để cho Cộng Sản dạy đời bằng bài học
thương đau và phản tỉnh Tự-Do trong cái Thiên Đàng
Xã Nghỉa Cộng Sản quân dân miền nam/VN.
Người dân Miền Nam/VN bị Việt Cộng phỉnh lừa
lòng yêu nước nên phản bội lại Chiến hữu và chiến sĩ
VNCH.
Họ’Ăn cơm Quốc Gia thờ Ma Cộng Sản”.
Họ
cam tâm chấp nhận số phận”Sáng Khoai,Chiều
Sắn,Tối Bo Bo” vui cùng đời Xã Hội Chủ Nghĩa và
lãng quên “Người Tù Cải tạo” và coi Cải Tạo như
người kém may mắm hơn họ và mang lại cho họ
những điềun xui xẻo khi tiếp xúc và Gúip đõ cho
người tù cải tạo .
Thú thật chúng tôi sống trong cái xa
lạ và bị...Xin cảm ơn sự nhiệt tình quan tâm của quý Độc Giả và các bạn bè chiến hữu QL/VNCH đã một thời cải tạo & Vượt biển, của Quân Dân, Cán-Chánh Miền nam VNCH. Để thấy được chính mình trọn vẹn trong nỗi đau mất mát dân tộc, qua tập hồi ký: ĐẠN NỔ TRONG TÙ CẢI TẠO LONG KHÁNH & VƯỢT BIỂN TRÊN ĐỐNG XƯƠNG TÀN
Và xin đa tạ, biết ơn THƯ VIỆN OLINE CỦA BÁO TỔ QUỐC, CÙNG CÁC NHÀ TÀI TRỢ cho 2 tập hồi ký nói trên; với sự trải lòng mình cho quê hương dân tộc mình còn lắm khổ đau- Mất Tự Do, thành nô lệ và mất nước, là mất tất cả...!, xin các bạn nhớ cho...!!!
Huỳnh Mai St.8872
Xem tiếp: -Read the publication
https://en.calameo.com/read/000575588237e16375b65
Tác phẩm Vượt Biên Trên Đống Xương
Tàn là một hình ảnh khác nói lên cuộc chiến đấu âm thầm, dứt khoát
của người dân Việt Nam không chấp nhận chế độ cộng sản và đã ra đi
vượt biển, vượt biên bằng mọi giá, kể cả mạng sống để tìm TỰ DO.
Tác phẩm còn ghi lại trận hải
chiến dữ dội giữa những cựu quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa với
đoàn tàu công an biên phòng và Hải quân cộng sản Việt Nam. Trận hải
chiến diễn ra trong bối cảnh để bảo vệ cho những đoàn tàu vượt biên khác
ra đi được bình an không bị công an biên phòng và Hải quân cộng sản
phát hiện.
Ngoài ra, tác phẩm còn nêu lên
sự gian trá của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam liên quan đến vấn đề
hài cốt của những người Mỹ thiệt mạng trong chiến tranh. Đồng thời phản
ảnh sự thờ ơ, lãnh đạm của nhà đương cuộc Hoa Kỳ vào thời đó liên quan
đến số phận bi thảm của những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ rơi.
Hãy đọc để thấy sự hào hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam trong gọng kềm cộng sản và tư bản.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu đến quý độc giả trong và ngoài nước "Vượt Biên Trên Đống Xương Tàn" của tác giả Dạ Lệ Huỳnh.
Ban biên tập Trúc Lâm Yên Tử Lịch Sử Việt Nam (http://truclamyentu.info).
Tập hồi ký,
Vượt Biển Trên Đống Xương Tàn
Dạ Lệ Huỳnh
Cựu Đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Đơn vị sau cùng: Bộ Tổng Tham Mưu/QL.VNCH/TCQH
2 năm rưỡi tù Cộng sản.
Cựu Đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Đơn vị sau cùng: Bộ Tổng Tham Mưu/QL.VNCH/TCQH
2 năm rưỡi tù Cộng sản.
Sơ Lược Yếu Tố Thôi Thúc Ra Đi
Không như số đông bạn bè chiến hữu
đồng tù cải tạo được Cộng sản tha về trước thời hạn 3 năm. Bị đi tù
trên 3 năm mới đủ tiêu chuẩn Hoa Kỳ nhận cho tái định cư vào đất Mỹ
với người theo diện HO. Có nghĩa là chưa chết và chưa đủ chuẩn hành hạ
nếm mùi đòn thù cùa Việt Cộng như Mỹ mong muốn khi bỏ rơi Miền Nam để
cho Cộng Sản dạy đời bằng bài học thương đau và phản tỉnh Tự-Do
trong cái Thiên Đàng Xã Nghĩa Cộng Sản quân dân miền nam/VN.
Người dân Miền Nam/VN bị Việt
Cộng phỉnh lừa lòng yêu nước nên phản bội lại Chiến hữu và chiến sĩ
VNCH. Họ’Ăn cơm Quốc Gia thờ Ma Cộng Sản”. Họ cam tâm chấp nhận số
phận”Sáng Khoai, Chiều Sắn, Tối Bo Bo” vui cùng đời Xã Hội Chủ Nghĩa và
lãng quên “Người Tù Cải tạo” và coi Cải Tạo như người kém may mắm
hơn họ và mang lại cho họ những điều xui xẻo khi tiếp xúc và Gúip
đỡ cho người tù cải tạo. Thú thật chúng tôi sống trong cái xa lạ và bị
hắt hủi nây rất buồn lắm!?, nhưng lỡ đã đeo nghiệp chiến chinh
thì”Mấy ai thương mình”trong cái quê hương lưu đày này. Vì vậy tôi
phải quyết định ra đi…và vượt biển.
Không như đồng tù khác, tôi là
“Ngụy Quân” là dân linh Sư Đoàn tác chiến có nhiều nợ máu với Cộng sản
chính qui BắcViệt và Du Kích Quân nằm vùng đã từng bị Cộng Sản lên án
tử hình tại mặt trận chiến trường, Vì không phải là “Ngụy Quyền” là
dân khoa bảng trí thức Miềm Nam đã từng được tu nghiệp học hành tại
Hoa kỳ về nước nắm giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy chính
quyền Miền nam VN trước Tháng Tư/75 và được sự bí mật của Mỹ và Cộng
Sản Bắc Việt hợp bàn, thỏa thuận cho ở lại giúp Việt Nam /CS trong
gia đoạn khó khăn vừa”Giải Phóng” với hình thức học tập cải tạo dưới 3
năm phải ở lại VN. Mỹ đưa ra lý do rất xác đáng rằng:” Cần có Sĩ
Quan Cải tạo ở lại, nếu không có thì Cộng Sản hóa mất Miền Nam /VN”.
Thế là họ “Đêm con bỏ chợ!?”. Và Một lần nữa tôi quyết định ra đi…Vì
Mỹ đã tính sai nước cờ với csvn!???
Tôi có đến Sở Ngoại Vụ TP/HCM làm
đơn xin đi diện HO tái định cư Hoa Kỳ cho Sĩ Quan tù Cải Tạo…Tôi được
lập hồ sơ Thái Lan-Bangkok cấp số IV…4316 và được phía Cộng Sản VN
cấp hộ chiếu HO3 có cả danh sách gia đình vợ con. Tôi mừng quá và nghĩ
vợ con tôi sẽ được an toàn rời VN không nguy hiễm như đồng bào quanh
tôi đi vượt biên mất hết tài sản và tính mạng
Khoảng 3 tháng sau chuẩn bị đến
phỏng vấn với phái đoàn hoa Kỳ cho danh sách HO như đã hứa thì không
có tên tôi và vợ con trong danh sách HO3 vì phía Mỹ từ chối không đủ 3
năm cải tạo, nhưng còn thời gian quản chế của tôi trên 3 năm!? và Mỹ
vẫn chối từ! khốn nạn!? và hồ sơ cuả tôi được sơ Ngoại vụ CSVN đề
nghị với tôi sửa lại trên 3 năm Cải tạo từ bản gốc tại trại tập trung
nhưng phải với giá 6 cây vàng bằng giá vượt biên bán chính thức tại
Chợ Lớn cho Ba Tàu đi do nhà nước tổ chức có ghe, thuyền, bến bãi, an
ninh v.v…Thú thực, tôi là lính nhà ở khu gia binh nên không tiền lo
nỗi và được các cò mồi “Đại gia Chợ lớn” thương lượng mua lại hồ sơ
Cải tạo của tôi giá 20 cây vàng cho gia đình họ được ra đi chính thức
để cho phía Hoa kỳ tiếp nhận không phải qua trại tỵ nạn TháiLan. Và
cũng không loại trừ khả năng Mật vụ phản gián Việt Cộng dùng hồ sơ
này cài người của chúng qua Mỹ theo diện HO???. Và tôi không muốn làm
người phản bội lại quê hương đau khổ này thêm lần nữa!!!
Như vậy phía chính phủ Hoa Kỳ đặt
điều kiện 3 năm cải tạo mới đủ chuẩn cho tái định cư mỹ là cố ý và có
mưu đồ với Cộng Sản BV xô đẩy anh em Cải tạo dưới 3 năm vào tay Cộng
Sản kiểm soát và đồng hóa chúng tôi với kẻ thù Cộng sản.!??? Trong khi
muốn giữ lại một chút gì của Tự-Do dân chù còn xót lại trong lòng
dân Miền nam/VN qua ván bài lật ngữa Tự-Do Việt Nam của Cải Tạo còn ở
lại phải hy sinh!?…Như thế Mỹ đã chơi trò nhảy toàn”Biệt kích”, theo
kế hoạch 34A của cục tình báo CIA ra Hà Nội năm nào! Nay sau chiến
tranh Mỹ cho nhảy toán Cải tạo dưới 3 năm vào lòng địch thủ ở Miền
Nam được sự tính toán cân nhắc của đôi bên Việt MỸ bang Giao năm
1995. Không phải để phá hoại Công Sản mà để giúp cho Cộng sản VN được
tồn tại và đổi đời qua phía Tự Do-Tư Bản theo phía hoa kỳ bỏ cả Cộng
sản lẫn VNCH cũ mà nhờ Cải Tạo giúp cộng sảnVN thành” Đồng Minh Đối
Tác” chống lại Trung Quốc bành trướng sau này.
CHỌN CON ĐƯỜNG RA ĐI!
Thú thật tôi không có một cắc dính
túi, nếu mượn tiền những người cùng khổ cũng không đủ chung giấy ra
trại là con đường ra đi rẻ nhất và an toàn nhất cho tính mang vợ con
nếu được Mỹ rước đi, dù có gian dối phía mỹ cũng không phát hiện Cộng
Sản lừa đảo họ. Nếu đi bán chính thức vượt biển theo Ba Tàu Chợ lớn
thì mỗi đầu người 8 đến10 cây vàng. Gia đình vợ chồng và 2 con, mất
hết trên 30 cây vàng mới được lên tàu ra khơi vaq2 có tàu sắt nước
ngoài rước như tàu của Panama Hòa Lan và tàu của mấy nước trung lập
cộng sản được chính quyền Cộng sản thuê mướn tổ chức cho ra đi bán
chính thức với Người Tàu Chợ Lớn thì được an toàn. Còn các tàu cá bán
chinh thức khác có chung tiền cho chính quyền địa phương tổ chức lấy
tiền, rồi giết người vượt biên khi thuyền ra đến hải phận quốc tế và
cho nổ tung tàu chết hết để không ai làm chứng và tiếp tục giết bằng
chuyến khác của Cộng sản Hà Nội.
Tội ngiệp quá cho dân quân Miền
nam VN vì họ sợ trả thù của cộng sản nên bỏ nước ra đi bằng đường biển
mà sau 30-4-1975 và tiếp theo những tháng sau là mùa biển động đầy
mưa bảo, sóng to gió lớn. Dân chuyên nghiệp đi biển đánh cá phải hải
hùng lo sợ, nói gì đến dân Saigon và người đất liền không biết bơi
lội và kinh nghiệm đi biển thì làm sao chống chọi lại đủ thứ tai nạn
biển khơi sóng nước trùng dương. Vì thế người dân Miền Nam này bỏ
mạng sống trong lòng đại dương rất nhiều.
Trên cả triệu thuyền nhân bất dất
dĩ phải trốn Cộng Sản ra đi đã bỏ mạng sống trong lòng đại dương mất
hơn phân nữa chỉ còn lại số ít mấy trăm ngàn thuyền nhân đến đến dược
bến bờ Tự-Do…Họ chết vì đói khát cạn lương thực thiếu nước giữa biển
nên phải uống nước tiểu và ăn thịt người lẫn nhau mà không ai cưu
sống họ trên đường tìm về với Tự-Do.
Ngoài biển động sóng to, gió bão
đánh tan tành những chiếc thuyền đánh cá mong manh chất chỡ đầy
người, giao mạng sống cho trời nước giữa ngàng khơi. Tệ hại nhất và
thảm thương nhất cho đàn bà, trẻ nhỏ của dân Miền nam…Họ coi thường cái
chết và can đảm không sống chung hòa bình Cộng Sản và nhất quyết ra
đi bất chấp mọi nguy hiễm bị cướp biển trong vùng như Thái
Lan-Malaisia và Somali. Chúng bắt được đàn bà con gái là chúng hãm
hiếp lấy của và bắn bỏ thanh niên đàn ông rồi vứt xác xuống biển. Bi
thương nhất vì không muốn mang-thai khi bị cướp biển hãm hiếp nên đàn
bà con gái vượt biển phải uống thuốc ngừa thai khi vượt biên nếu có
lở bề gì?, khi bị hãm hiếp của cướp biển cũng không mang thai để giữ
hạnh phúc cho chồng và người yêu sắp cưới khi đến bến bờ Tự-Do…
Còn cái ải khó khăn nửa là các
trại tỵ nạn các nước trong vùng như Thái Lan, Indonesia, Mã lai v.v… họ
thẳng tay đuổi thuyền nhân VN không cho ghé vào nước họ để tỵ nạn và
chờ Cao Ủy Tỵ Nạn Quốc tế LHQ đến rước đi định cư nước thứ ba. Những
cử chỉ và hành động từ chối tị nạn nầy là không còn chút nhân đạo
nào của người láng giềng nước Đông Nam Á…Ai chống Cộng và ai be bờ
Cộng sản của người dân Miền nam VNCH không để Cộng sản quốc tế Nga Tàu
tràn xuống biển Đ N Á chiếm đóng các nước trong vùng [có nước cũng
là nạn ngân Cộng sản] để Thái lan, Indonesia, Phi luật Tân, Mã Lai
v.v… được yên ổn không giặc giả đánh nhau để có thì giờ phát triển
làm ăn phát triển kinh tế cho nước họ lúc bấy giờ! họ không biết ơn
dân miền Nam Vn mà lại xua đuổi thuyền nhân trở lại, tiếp tục ra khơi
giữa lúc trời mưa gió bảo bùng. Vì không cho cập bến nên sóng to gió
bảo đánh bễ thuyền từng mãnh cácg bờ chỉ có trăm mét[ neo xin thủ
tục vào bờ] đã giết chết hằng trăm người trên chiếc tàu chìm xuống
biển khơi trong đó có vợ và con của nhà văn nguyễn Ngọc Ngạn và vợ
con chủ tàu vươt biển …Với con tàu Định Mệnh MT065 để lại nỗi buồn
klinh hồn, gây chấn động cả thế giới đánh thức lương tri loài người
với tội ác cộng sản gây ra khi chiếm đóng Miền Nam 30-4-1975.
Dân chúng Miền Nam đa số vượt biên
bằng đường biển vì bờ biển VN dài hàng ngàn km tiếp gáip với đại
dương mênh mông biển cả và củng là ngả đường cùng trốn chạy Cộng sản từ
đất liền bị truy đuổi sau lưng,chỉ còn phía trước là khoảng trống
của biển khơi thôi!?.
Ngược lại với biển là đường bộ sang
đất Campuchia và Lào là biên giới ba nước Đông Dương –Việt Miên-Lào-
thì Cộng sản hai nước Miên Lào bị Cộng Sản nước đó chiếm giữ trước 28
ngày, mới đến lược Cộng sản Bắc Việt chiếm Miền Nam VN. Nếu vượt biên
bằng đường bộ, người dân việt ít dám ra đi. Ba nước Việt Miên lào giờ
đây là bị Cộng Sản chiếm chiếm hết cả.Chỉ có các đơn vị tàn quân
VNCH là có khả năng vượt qua biên giới và đi qua Thái Lan nước Tự-Do
xin lánh nạn mà thôi! Hay những tù nhân trốn trại cải tạo và những tổ
chức kháng chiến của các đơn vị Biệt Kích Fulro còn bám trụ chống
lại cộng sản Bắc việt Cộng Sản 30-4-75, cho đến 10 năm sau mới chịu
tan rã…ở Tây Nguyên Trung phần VN.
Các Vùng Kinh Tế Mới dọc theo
chiến khu D gần biên giới Tây ninh, Lộc Ninh Sông Bé, Bình Long, Phước
Long v.v…thuộc vùng Mỏ vẹt [ Trung ương Cục R Việt Cộng] ngày xưa là
Mật cứ địa nằm vùng MT/GPMN/VN. Nay họ đã chiến thắng Miền Nam, nên
số quân VC này trở trở ra thành phố, tỉnh thành chiếm nhà dân để sống
sung sướng. Và đưa số đồng bào Miền nam các tỉnh thành vào thế chỗ họ
ở trước đó là rừng sâu nước độc rắn rết lềnh khênh, làm mấy mụ đàn
bà con gái của lính tráng ngày xưa, quen sống sung sướng tại sài gòn
phải về vùng sâu, vùng xa này mà sống!.
VC/GPMN bảo họ phải “Cải Tạo lao
Động” thì họ khóc suốt ngày không làm được gì!?…Nên phải ăn khoai sắn
do Cộng Sản cung cấp thay cơm trên cánh đồng khô cỏ cháy này! Chính
Cộng Sản/GPMN này cũng thừa biết dân Sài gòn và các thành thị Miền
Nam, họ chuyên sống bằng nghể kinh doanh, sản xuất, chỉ biết buôn bán
làm ăn là thành phần tư bản dân tộc, hoạt động bằng trí óc đâu quen
hoạt động tay chân và biết cái cuốc, cái cày là gì? Và bây giờ…họ
đâu có kinh nghiệm cày cấy trồng trọt chăn nuôi như nhà nông tay lấm
chân bùn mưa nắng chỉ là đày ải khổ sai cho họ mà thôi! Sao nay phải
bắt họ lao động khổ sai trong môi trường khắc nghiệt hoang vu rừng
núi đầy bom đạn chiến tranh đạn để lại!?...
Cộng sản và Việt Cộng nằm vùng Miền
Nam còn sống không nỗi nơi vùng đất địa danh mật cứ của các ông!? Khi
hòa bình [hết chiến tranh] thì các ông chọn lựa các tỉnh thành, phố
thị sung sướng, ấm cúng và phương tiện đầy đủ để thụ hưởng. Các ông
cướp lấy hạnh phúc ấm no người dân; xua dân đi vào vùng mật cứ kháng
chiến của các ông và thay thế chỗ ở các ông bỏ đi, nơi đó các ông đã
từng sợ hãi chiến tranh, nay bắt người dân phải dẫm đạp lên bom mìn để
chết thay cho các ông thì còn ý nghĩa gì là “Giải Phóng”dân tộc
của chủ nghĩa CS ngoại lai các ông chiếm đóng Miền Nam?
Thực tình mà nói, Cộng Sản Các ông
ác độc và thâm độc lắm! Không một chút thương dân thương nước đưa dân
vào tranh chấp nguy hiễm của phong trào lực lượng nổi dậy của
Fulro-Chiêm Thành- đòi lại đất đai tổ tiên họ và kết hợp với sắc tộc
Khờ Me Rhom đòi lại đất đai từ Kom Tum Pleiku Buôn Mê Thuộc đến Bình
Thuận là vùng Tây Nguyên Nam Phần VN của tổ tiên từ nhiều thế kỷ nay
[18 thế kỷ qua] bị Việt Nam xăm chiếm!...
Tình trạng nổi dậy của Fulro Tây
Nguyên là lực lượng thống nhất của Khờ Me Rhom-Champa-và Khờ Me
Thượng muốn lấy lại đất đai,xứ sở cho họ sau 30-4-1975 Cộng sản “Giải
Phóng” Miền nam thì họ cũng tin tưởng và đặt hết hy vọng vào nơi
Cộng sản VN sẽ “Giải Phóng “dân tộc Cham pa và Chiêm Thành cho họ
theo như lời hứa của Chủ Nghĩa Công Sản Quốc Tế mà Cộng Sản hô hào
giải phóng các sắc tộc bị áp bức trên thế giới…! Nào họ đứng lên đồng
lòng giải phóng dân tộc Champa-Chiêm Thành- như Cộng sản “Giải
Phóng” Miền Nam thế thôi!?...
Dân Miền nam đi Kinh Tế Mới cho Việt
Cộng họ biết hết! và tha mạng sống vì cùng chung “:Mất nước” Chớ Cán
Bộ nằm vùng là họ giết ngay! Sắc tộc Tây Nguyên Fulro muốn lập nên
một “Chính Phủ Đềga” của xứ sở Champa-Chiêm Thành-. Và Cộng sản Vn là
kẻ nói láo không thành thật khi “Giải Phóng” Miền Nam xong họ nuốt
lời hứa và phủi tay với`Fulro Thượng có công giúp đở Cộng Sản Miền
Bắc chiếm đóng miền Nam mà không trả nước Chiêm Thành cho họ.
Cánh Đồng Tha Phương!
Từ cõi chết trở về trong căm lặng!
Người thân không đón xóm giềng ngẩn ngơ,
Một màu đỏ thắm con tim băng giá,
Lạc lỏng quê hương không chút tình người,
Vinh quang kẻ thắng người tù sỉ nhục!?
Nhìn nhau ứa lệ ngập lòng thương đau,
Cải Tạo-Ngụy Dân…chung đường rẻ lối,
Chuồng nhỏ chuồng to cũng chỉ là chuồng!?
Người thân không đón xóm giềng ngẩn ngơ,
Một màu đỏ thắm con tim băng giá,
Lạc lỏng quê hương không chút tình người,
Vinh quang kẻ thắng người tù sỉ nhục!?
Nhìn nhau ứa lệ ngập lòng thương đau,
Cải Tạo-Ngụy Dân…chung đường rẻ lối,
Chuồng nhỏ chuồng to cũng chỉ là chuồng!?
***
Khi xưa tình nghĩa tối đèn tắt lửa!
Ngày nay cháy lửa đèn lòng tối thui,
Gia Binh trại lính…về trong cải tạo!
Cờ đỏ sao vàng che khuất nhà xưa,
Nằm vùng phục kích người đi kinh tế,
Thế chỗ nhà dân Cộng Sản chiếm nhà,
Gồng gánh nhau đi chân rung bụng đói,
Chân trời hoang phế cánh đồng tha phương,
Ngày nay cháy lửa đèn lòng tối thui,
Gia Binh trại lính…về trong cải tạo!
Cờ đỏ sao vàng che khuất nhà xưa,
Nằm vùng phục kích người đi kinh tế,
Thế chỗ nhà dân Cộng Sản chiếm nhà,
Gồng gánh nhau đi chân rung bụng đói,
Chân trời hoang phế cánh đồng tha phương,
***
Trong trại ngoài tù buồn sao lên mắt!
Đưa tiễn người đi theo diện HO,
Bạn tù chiến đấu phục hồi danh dự,
Bỏ lại mình tôi một chút tình khờ!
Trách chi quê hương còn sầu hận quốc,
Cùng nhau ẩm hận suối nguồn núi song
Mai-kia hòa bình quê hương trở lại,
Đồng xanh phủ mộ bạt ngàng lãng quên!
Đưa tiễn người đi theo diện HO,
Bạn tù chiến đấu phục hồi danh dự,
Bỏ lại mình tôi một chút tình khờ!
Trách chi quê hương còn sầu hận quốc,
Cùng nhau ẩm hận suối nguồn núi song
Mai-kia hòa bình quê hương trở lại,
Đồng xanh phủ mộ bạt ngàng lãng quên!
***
Nhìn trăng soi dõi hồn theo lối nhỏ!
Tìm về trận chiến những hố hầm hoang,
Ta biết cỏ cây còn hơn bom dạn,
Dáng đứng ngả nghiêng vết đạn bom cày,
Ta đi tìm lại trăng thề nữa mãnh,
Đường trăng lối nhỏ đủ mãnh trăng soi,
Đồng hoang rực rở trăng vàng lúa chín,
Tha hương rạng rở một ngày về…!
Tìm về trận chiến những hố hầm hoang,
Ta biết cỏ cây còn hơn bom dạn,
Dáng đứng ngả nghiêng vết đạn bom cày,
Ta đi tìm lại trăng thề nữa mãnh,
Đường trăng lối nhỏ đủ mãnh trăng soi,
Đồng hoang rực rở trăng vàng lúa chín,
Tha hương rạng rở một ngày về…!
Huynh Mai
Chính quyền cộng sản Hà nội “Đem con
bỏ chợ”, cấp cho người đi Kinh Tế Mới, tức là người dân “Ngụy” bị
cưỡng bức tái định cư, chỉ là bố thí trợ cấp 9kg gạo cho mỗi đầu
người trong 3 tháng tự túc còn bị trừ mất 1 tháng khoai sắn mì hay
bobo độn cơm! rồi nồi niêu soong chảo ra đi…”Sống chết mặc bây, nếu
còn thây thì về thành phố”. Còn việc đau ốm bệnh tật, sốt rét giửa
rừng bị rắn rết cắn giữa đêm khuya không có y-tế cấp cứu chửa bênh!
Cộng Sản thường đánh nhau trong rừng núi bị ốm đau thương tật, tất
phải biết những điều sơ đẳng tầm thường phải lo sức khỏe dân mình có
đâu dã mam vô nhân tính giết dân mình vô ý thức như thế??? Không thể
sống được với Cộng Sản nên người dân bỏ hết của cải tài sản chạy lấy
người trở lại thành phố nơi họ ra đi! Mặc dù không có nhà để trở về
họ vẫn tìm gốc phố vĩa hè, mái hiên để che lều bạt nylon đở mưa đỡ
nắng mà sống! cho một đời tha phương lưu lạc nơi quê hương xứ sở của
mình khi Miền nam bị mất vào tay Cộng Sản Miền Bắc. Tình trạng không
nhà sống lang thang của người dân”Ngụy” khéo dài hằng chục năm sau
vẫn vô gia cư, vô nghề nghiệp và vô tổ quốc đúng như chủ thuyết cộng
sản”Bần Cùng Hóa Nhân Dân”Miền nam. Dân quân Miền nam sống trong
những căn nhà ổ chuột, những khu lao động tồi tàng của những “Căn nhà
không số, những phố không tên”bên cạnh những căn nhà sang trọng
”Ngói đỏ vôi hồng” của viên chức cán bộ Quân sự Cộng sản chiếm dụng
của các “Chức Sắc” chính quyền sài gòn trốn chạy ra đi! Bỏ lại năm ba
chiếc xe hơi cho cán bộ Cộng sản mới về đưa vợ con họ đi làm đi học
bên cạnh những đứa con dân ngụy bụng ỏng đít teo mũi dải thò lò ốm
đói hằng ngày…cho cuộc sống lầm than đau khổ khi rơi vào tình trạng
phân biệt đối xử tàn tệ của người cộng sản chiến thắng.
Gia đình tôi cũng không ngoại lệ như
đa số dân ngụy lính tráng chính quyền sài Gòn cũ! Tôi dẫn vợ và bồng
bế hai con trở về thành phố thăm lại ông bà nội và tìm phương kế sinh
nhai cho gia đình.Vợ tôi là một nữ sinh tay yếu chân mền không kham
sống nỗi nơi vùng đồng khô cỏ cháy đầy rắn rết muỗi mòng nơi vùng
kinh tế mới. Vì thương chồng là lính đang cải tạo trong tù, nên liều
lỉnh vì bắt buộc phải đi kinh tế mới cho chồng mau sớm trở về theo lời
hứa Cộng Sản. Ngày trở về thành phố vui lẫn buồn, vui gặp lại gia
đình ba mẹ anh em, buồn không biết sống ra sao trong cái xã hội phân
biệt này với ba đời lý lịch cháu con!?
Khi tôi dẫn thằng con trai lớn và
cháu gái còn ẩm trên tay đi ngang qua sạp chợ có gian hàng bày bán
Cơm Tắm Chả bì, có mùi bay thơm phức, tôi chợt nhớ lại từ sáng đến
giờ chưa cho hai con ăn sáng nên ghé vào sạp cơm cho vợ và con ăn cơm
tấm bì chả vì lâu rồi chưa đải tiệc cơm ngon cho vợ con…! Hai con
tôi thấy bà chủ hàng trao cho hai đĩa cơm thấy hai tay của hai đứa con
tôi run lên vi sung sướng do đói khát lâu ngày không cơm ăn chỉ ăn
độn sắn khoai bobo lâu ngày nên thèm cơm lắm!.Liếc nhìn sang cô vợ
tội nghiệp của tôi thấy rất thương đang e-dè nhìn tôi thầm cảm ơn
chồng dĩa cơm ân-tình đói khổ. Còn tôi thấy vui! Vui! Nên cũng no
lòng không muốn ăn! Chỉ để dành cho vợ và con. Nhìn hai con ăn ngấu
nghiến sạch đĩa cơm không rơi một hột hay vung vải như ăn bobo độn
hằng ngày, chúng thấy đã thèm và nhìn mẹ chúng đang khóc thương
con!.Tôi thấy tự hào: mình vừa làm một việc xứng đáng với vợ con.
Hình ành này, chắc khó phai mờ trong tôi “Lạy Trời và Ơn Trên cho
con làm được gì cho gia đình dân tộc con! Hết khổ đau!?Biết đâu đây
là lần cuối quyết định quan trọng đời tôi khi không còn lối thoát cho
cuộc đời người Cải tạo trong ngục tù Xã Hội Cộng Sản.!?
Tôi xin mẹ tôi cái cân bàn cũ-kỷ và
hai vợ chồng chở nhau ra bến xe Xa Cảng Miền Tây Phú Lâm cho mướn cân
và cân giúp hàng hóa chở về miền tây theo các chuyến xe đò ngược
xuôi lục tỉnh để kiếm sống qua ngày. Còn thức ăn hằng ngày thì có
chất đạm và protein hơn xưa. Chiều về đi ngang chợ An Đông lượn rau
cải củ làm canh và về ngang chợ cá Nguyễn Tri Phương lượm đầu cá cho
heo ăn,về tuyển chọn cái ngon, kho nấu cho con ăn, ”Trời sinh thì trời
nuôi”chúng không ốm đau mới là kỳ diệu trong cảnh khốn cùng cực này.
Mỗi khi ăn được lòng gà, lòng vịt mà Cán bộ chúng vứt đi ngoài chợ,
về xào nấu chế biến cho con ăn và được chúng khen ngon quá “Ba Ơi!”,
làm tôi rơi nước mắt, nghẹn lời! với chiến tranh!!!.
Sau khi gia đình tạm ổn và sống lại
trong khu gia binh cạnh bên nhà cũ bị Cán Bộ địa phương chiếm nhà nên
phải che chòi tam ở trong hẻm cụt cuối trại. Thấy vợ quen việc kiếm
sống nuôi con không còn nguy hiễm bị phơi nhiễm chất dộc Da Cam trong
các khu mật cứ VC nay chúng đẩy mình vào thế mạng! những khu gọi là
Kinh Tế Mới này. Người dân sợ quá bỏ về lại thành phố nên kế sách
Kinh Tế Mới bị thất bại và cộng sản đem Thanh Niên Xung Phong là con
cháu Quân-Dân Cán Chính chế độ Miền Mam VNCH vào thay thế để chịu cái
chết phơi nhiễm Da Cam do phía Mỹ để lại trên các mật cứ Việt Cộng
nằm vùng nay chúng muốn trả thù con cháu dân “Ngụy Miền Nam”VNCH!?
CHÚNG TÔI VƯỢT BIỂN!
Gia đình tạm ổn. Giờ đây tôi nghĩ
đến chuyện ra đi và tìm đường sống tương lai cho gia đình vợ con tôi
bằng mọi giá phải vượt biên để có cơ hội bảo lãnh gia đình ra nước
ngoài có cuộc sống Tự Do hơn. Chúng tôi là những chiến binh liều lĩnh
ra đi!...Trong chuyến vượt biển này may ít rủi nhiều!? và không còn
con đường nào lựa chọn khác hơn vì chủ ghe tàu từ chối không cho
chúng tôi lên tàu khi biết được chúng tôi là tàn quân chế độ”Ngụy
Sai gòn”để tránh tàu bị bắn giết khi chở lính Sai gòn vượt biển. Vì
vậy chúng tôi quyết đi một mình không đem vợ con theo! Nếu đem vợ con
ra thử thách vận mạng với trời đất thì tôi không liều lĩnh trả giá
với người thân thương cho thêm vướng bận mà thôi! Đây là chuyến đi
liều lĩnh định mệnh có tính cách quân sự hơn là dân sự bình thường
nhưng cái giá của nó mạng đổi mạng máu thay máu không có chuyện ở tủ
rồi thôi. Khi chấp nhận thì “Nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực” là câu thường
nói của người lính chiến ra trận!.
Tôi còn một ít tiền bỏ túi vợ cho
lần ra bến xe đò mua vé đi Tuy Hòa-Phú Yên- là nơi tôi đóng quân xưa
kia. Nơi đây tôi có một gia đình thân quen của người bạn cùng đơn vị
khi mới ra trường được gia đình này đở đầu nuôi dưởng. Mỗi khi hành
quân về tôi nghỉ ngơi gia đình người bạn và được ông bố người bạn xem
như con nuôi trong nhà. Từng góc phố và khu nhà hình như muốn chạy
ra chào tôi trở lại bao năm xa vắng, tôi tìm lại được mái nhà xưa
không mấy thay đổi nhưng có vẽ vắng vẽ điêu tàn bệ rạc hơn xưa. Bước
chân vào nhà gặp lại ông bác nuôi ngày xưa, nay tóc đã bạc đầu phủ
kín còn bạn tôi không thấy có ở nhà chỉ có mấy đứa em gái nay đã lớn
nên người. Hỏi ra mới biết bạn tôi đang lánh nạn xa nhà vì anh trốn
trình diện tập trung cải tạo của UBND Tuy Hòa. Tôi được ông bác nuôi
hướng dẩn chỉ chỗ ra gặp anh tại thị xã Sông Cầu.
Trên đường đi tìm anh tôi rời phố
Tuy Hòa ngang qua Tháp Nhạn mà xưa kia hay ngồi uống cà phê ngắm ngọn
tháp chìm trong sương sớm ban mai. Rồi ra đến cầu Ông Chừ-Đà Rằng
nơi có quán Tiết Canh nổi tiếng ngất Tuy Hòa thường khi xưa tôi hay
vào ăn tiết canh uống bia lon mỗi khi hành quân về! Điều buồn nhất
hôm nay tôi không muốn vào vì sợ găp lại người quen biết mặt tôi và
tố cáo tôi với chính quyền địa phương là Sĩ Quan Quân Đội VNCH có nợ
máu với quân Giải Phóng. Tuy Hòa trong thời chiến tranh trước năm
1975 trong các vùng xôi đậu nơi Lò Giấy, Củng Sơn, Đập Đồng Cam và
liên tỉnh lộ 7 Phú Túc điều biết tiếng Sĩ Quan Trung Đoàn 47/SĐ22BB
và bị Du Kích Việt Cộng nằm vùng lên án “Treo Đầu” vì cớ đó không để
cho họ gặp mặt chỉ sợ “xa mặt cách lòng”Tôi vội vã rời con phố Tuy
Hòa thân yêu cỏn nhiều vết hằn kỹ niệm một thời chiến tranh nơi đó
tôi còn nhiều bạn bè lính tráng của tôi còn ở lại sau chiến tranh!?
Hai đứa chúng tôi bạn bè gặp lại
nhau vui buồn lẩn lộn tưởng không bao giờ có được! Anh bạn tôi cho
biết từ lúc chia tay nhau, tôi trở về Sai Gòn anh trở lại quê nhà Tuy
Hòa và bị gọi trình diện cải tạo các Sĩ Quan Chủ Lực Quân Trung Đoàn
47/SĐ22BB và bị thủ tiêu trong các trại tù CS. Biết mình có nợ máu
với chúng [Du kích Việt Cộng địa phương] nên sợ chúng trả thù, không
đi trình diện cải tạo tại lánh nạn sang địa phương khát sống ở Sông
Cầu rồi Tuy An dọc theo biển đợi dịp ra đi. Đã mấy lần ra đi đều bị
thất bại. Cứ mỗi lần ra đi đều có nhắn tin tìm tôi tại sai gòn nhưng
không gặp. Chuyến đi vừa qua cả gia đình anh và chị mất hết 25 cây
vàng và bị du kích xã lường gạt giữ an ninh bải đáp. Chúng cho uống
thuốc mê bắt trói và giao bộ đội biên phòng đánh cho một trận phải
lòi vàng ra cống nộp cho chúng chia nhau mới được thả ra về!?Anh cho
biết, nhà anh có 4 ghe tàu đáng cá khi “giải phóng “ phải cống hiến
Cách mang hết 2 tàu vì có con là Sĩ Quan Ngụy và anh phải sống chui
nhủi, len lỏi trong sự bất ổn hổn loạn của người dân Tuy Hòa. Là
thành phố biển, nên chuyện vượt biển của người dân xẩy ra nhộn nhịp
hàng ngày như ra khơi đánh bắt cá không là chuyện lạ, thế mà anh và
gia đình anh ra đi không trót lọt như bao gia đình khác vì cha anh là
Tư sản mại bản nên bị chúng kèm kẹp gắt gao cùa Công sản.Anh đi mãi
sạt nghiệp cũng không thành công!?Anh và gia đình giả dạng thường dân
thuê thuyền khác vượt biển cũng không thoát do du kích quân của tỉnh
phát hiện và lật lộng côn đồ chiếm đoạt một số vàng khá lớn mang
theo chuyến vượt biên để chúng thả về yên thân! Khi Trưởng Công an
tỉnh Tuy Hòa cho bến bải 3 tàu bán chính thức ra đi có du kích quân
giữ an ninh bến bải cho phép ra đi nên ba tàu cá lớn chở đầy người
vượt biên khắp nơi đổ về! từ các tỉnh Tây Nguyên ra cửa biển Tuy Hòa.
Bố Già, ba của người bạn là chủ hai
tàu cá còn lại bị chính quyền cộng sản địa phương chiếm đoạt và tổ
chức bến bải, phương tiện ra đi để thu vàng người dân muốn vượt biển.
Cứ mỗi người 6 cây vàng có biết bao người chung vàng cho công an
chính quyền địa phương để được yên thân cho tàu vượt qua được địa
phận chúng kiểm soát. Chúng chỉ nhường lại cho gia đình chủ tàu mười
chỗ ngồi trên tàu của mình mà thôi!?...Phút cuối cùng tàu ra khơi,
chúng không cho gia đình anh bạn lên tàu ra khơi để chúng thay thế
khách hàng khác lở chung tiền cho chúng rồi, với cao hơn là 10 cây
vàng cho một đầu người. Dù 15 cây vàng hay bao nhiêu, người giàu vẫn
muốn đi cho thoát khỏi tay Cộng sản…!? Ông Bố già bạn tôi được tổ
chức vượt biên Cộng sản trả lại 50 cây vàng cho 10 chổ ngồi không đi
dược mà chúng hẹn chuyến sau và chuyến khác nữa!?
Trên đường trở về từ bải vượt biển
của Ghềnh Đá Dĩa đến phố Tuy Hòa trong đêm tối và trời gần sáng bị
nhóm Du Kích quân và bọn Cờ Đỏ 30 khác chặn bắt lại và kết tội tìm
đương vượt biên trái phép với tội danh “Phản Quốc” để gia đình lòi
tiền chuộc tội phản quốc 40 cây vàng. Chúng không chịu cho chung cứ
nằng nặc đòi cho bằng đủ số 50 cây vàng vùa mới trao cho từ Thủ
Trưởng của họ vừa rồi!?, và cho biết gia đình may mắn không chết vì
tàu bị đặt chất nổ khi ra tời hải phận quốc tế để trừng trị những kẻ
phản bội tổ quốc bỏ nước ra đi…
Anh bạn tôi bị chúng tra khảo đánh
đập tàn nhẩn và trúng vết thương ngày xưa bị đạn VC bắn trong trận
Căn Cứ Hỏa Lực 6 tại Đak-Tô nhưng không khai mình là Sĩ
quan”Ngụy”vượt biên. Trong đám Du kích địa phương và Cờ Đỏ 30 có
thằng em của người lính cũ trong đơn vị tiểu đoàn xưa biết mặt nên bảo
lãnh cho gia đình bạn tôi ra về!
Riêng anh bạn tôi phải sống một đời
chui nhủi trốn tránh vì không chịu trình diện học tập Cải tạo vì sợ
trả thù nợ máu với Việt Cộng trong quá khứ Trung Đoàn 47/SĐ22BB hoạt
động hành quân vùng Xôi Đậu miền núi cao ven quê tỉnh Phú Yên –Tuy
Hòa.
Anh bạn tôi sống không nhất định và
hay dời chỗ nhiều nơi để không ai biết mặt. Anh thường lẫn lộn trong
đám dân Tư sản “Ngụy” bị dánh tư bản của thành Phố Tuy Hòa chạy về
vùng Kinh tế mới theo dân mà sống. Đa số ngươi dân là vợ con
lính-tráng ngày xưa cùng anh em chiến hữu buông súng rả hàng vào lập
nghiệp trong các khu kinh tế mới. Đây là vùng đất rất nhiều kham khổ,
nhọc nhằng đói rét lắm bệnh tật và nguy hiễm vì bom đạn còn sót lại
trong chiến tranh. Thế mà Cộng Sản và chính quyền địa phương tĩnh Tuy
Hòa xử dụng mạng sống người dân như phương tiện rà phá bom mìn trong
chiến tranh xót lại hết sức tàn nhẩn!? Nơi đây là vùng sâu vùng xa
với thành phố biển Tuy Hòa nên tổ chức vượt biên bằng thuyền cá rất
khó khăn. Các ghe thuyền đánh cá đều bị chính quyền Cộng sản Tuy Hòa
trưng dụng, tịch thu và quản lý rất chặt chẻ và cấm ra biển đánh bắt
cá sợ người dân trốn chạy vượt biên. Mục đích chúng muốn kiểm soát
phương tiện bến bải cho tổ chức thu tiền vàng của những ai giàu có, tư
bản ra đi, chớ người dân biển nghèo khổ nơi này đành ở lại chịu đời
…với Cộng sản!?
Đến 10 giờ sáng hôm sau khi gia đình
Bố Già anh bạn được thả, loa phóng thanh phố phường Tháp Nhạn Tuy
hòa loan tin tức cho hay bọn phản động Ngụy Quân tấn công làm chìm nổ
3 tàu đánh bắt cá của ngư dân ta lảm chết nhiều ngư dân vô tội, gây
thiệt hại tài sản nhà nước và sinh mạng nhân dân ta khá lớn. Nghe tin
3 tàu cá bị nổ là biết ngay hành động dã man của bọn Cộng sản giết
dân để phi tang vật số vàng rất lớn chiếm đoạt của dân và tránh bị tố
cáo của dân trước công luận quốc tế khi vượt biên đến đất nước Tự-Do
và phản đối của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Gia đình anh bạn tuy mất 3 tàu cá
và số vàng mang theo, nhưng thoát chết cho cả chục người trong gia
đình nếu được đi trên chuyến tàu định mệnh đó không!?...
Đây là chuyến đi gian nan nguy hiễm xẩy ra cho gia đình người bạn và cũng để cho tôi đo lường dọ dẵm nắm tình hình đối phương và đưa ra đối sách vượt biên an toàn cho chuyến đi đào thoát Cộng sản của chúng tôi tìm đến với Tự-Do.
Đây là chuyến đi gian nan nguy hiễm xẩy ra cho gia đình người bạn và cũng để cho tôi đo lường dọ dẵm nắm tình hình đối phương và đưa ra đối sách vượt biên an toàn cho chuyến đi đào thoát Cộng sản của chúng tôi tìm đến với Tự-Do.
Sau khi bàn tính kỹ càng lên kế
hoạch phương án và quyết định hành động. Anh bạn cho biết, nếu đi lần
nầy phải tính cho thật kỷ và chắc chắn mới dám đi!? Vì dây là lần
cuối cùng hết vốn liếng ra đi nên phải tổ chức thật chu đáo có tính
toán như một kế hoạnh có chiến thuật hành quân thì mới mong thoát
khỏi tụi nầy. Tụi nó là kẻ lường gạt mất tính người là cháu là em của
lính tráng trong đơn vị mình ngày xưa thường đến thăm cha chú nó cho
mang thức ăn theo hành quân xa nhà!. Nay chúng nó đi theo” Cách -Mạng
-Cờ Đỏ” trở lại hại mình có tức không!???
MỘT HÀNH ĐỘNG BIẾT ƠN CHIẾN HỮU ĐÔNG MINH MỸ!!!
Đây là chuyến cuối cùng cũng là
chuyến đi chấm dứt cho định mệnh người lính chúng mình “Nhất xanh cỏ,
nhì đỏ ngực” [theo câu nói liều lĩnh và gan dạ khí phách anh hùng
của người lính trận VNCH] nên tất cả anh em theo mình phải là những
chiến hữu thân tín trong đơn vị ngày xưa tham gia trận đánh Căn cứ
Hỏa Lực Số 6 tại Đak-Tô [Ngả 3 biên giới Hạ Lào] vì những anh em chiến
hửu biết chỗ chôn xác chết người Mỹ trong cuộc tìm kiếm phái đoàn
quan sát báo chí mỹ bị rớt trực thăng tại ngả 3 biên giới Nam Hạ Lào.
Chuyến đi nầy không mang vợ con theo vì nguy hiễm!. Sở dĩ chúng tôi
có quyết định như trên là vì các trại ty nạn Thai Lan sắp đóng cửa
không tiếp nhận người vượt biển đến từ Việt Nam. Nếu có những bộ hài
cốt lính Mỹ trong tay thì bắt buộc trại tỵ nạn phải tiếp nhận chúng
tôi vì không phải di dân kinh tế!...Sau đó sẽ bảo lảnh vợ con. Dù hiểu
theo bất cứ hình thức lợi dụng nào đi nữa!? cũng không làm mất ý
nghĩa tốt đẹp trong tinh thần chiến hữu đồng minh Việt mỹ của chúng
tôi muốn đem hài cốt mỹ trao lại gia đình thân nhân họ tại Hoa Kỳ.
Chúng tôi rất buồn khi Mỹ bỏ rơi chúng tôi nên phải “Gẩy súng tan
hàng” 30-4-1975. Không vì thế mà chúng tôi chiến sĩ VNCH quên ơn các
chiến hữu đồng minh Hoa Kỳ đã chiến đấu hy sinh bỏ xác 58.169 quân Mỹ
tại chiến trường Miền Nam cho Tự-Do Dân Tộc/VN.
Hai đứa chúng tôi chia tay mỗi người
theo kế hoạch hành động. Anh bạn tôi là dân địa phương phố biển tuy
Hòa, gia đình chuyên nghề đánh cá nên rất am tường và hiểu biết về
biển, bến bải và lo phương tiện tàu bè ra khơi,nên đãm nhận lo về
mặt tổ chức:săm máy móc, đóng thuyền và chuẩn bị xăng dầu, lương thực
ra khơi với đội ngũ tài công có kinh nghiệm đi biển đánh cá xa bờ
lấy từ trong đơn vị các chiến hữu mà ra! Phải đóng mới một chiếc và
hai chiếc kia là tàu ghe cũ sửa sang trang bị máy móc thêm. Thời gian
hoàn thành 2 tháng và ra khơi trong mùa giông bảo để tạo yếu tố bất
ngờ cho chuyến vượt biển này…!
Phần tôi lãnh nhiệm vụ khá vất vã
đầy nguy hiễm, lo về mặt an ninh tác chiến và đối ngoại khi tàu đến
bến Tự-Do tiếp xúc Ngoại vụ với nước ngoài. Đầu tiên đi tìm lại các
bạn bè chiến hữu ngày xưa trong nhóm trinh sát Trung Đoàn 47/SĐ22BB
là nhóm lính sắc tộc người Thượng Tây Nguyên đã từng tham gia trận
đánh chiếm lại ngọn đồi VinKy Căn Cứ Hỏa Lực 6 tại Đak Tô-Tân Cảnh,
ngả 3 biên giới Nam Hạ Lào. Trong toán này có những chiến hữu đi tìm
xác lính mỹ trong phái đoàn Truyền Thông rớt Máy bay trực thăng cách
bên kia, biên giới Ngả 3 Nam Hạ Lào trong chuyến đi được lệnh của Sư
Đoàn 22BB tìm xác Mỹ của Đoàn Truyền Thông Quân Sự Hoa Kỳ bị phòng
không Cộng Quân Bắc Việt bắn rơi cách Căn cứ Hỏa Lực 6 chúng tôi
không bao xa.
Các bạn chiến hữu đồng hành chúng
tôi đã giả dạng thường dân vào rừng đốn cũi và theo những chiếc xe
“Ben” Của bọn Lâm Tặc vào rừng sâu đốn gổ quý như Trắc, Cẩm Lai, Căm
Xe v.v…là mặt hàng quý hiếm có nhiều ở miền Tây bắc Kom Tum-Nam Hạ
Lào. Đi ngang qua những vùng đồi núi năm xưa trong những trận đánh ác
liệt quanh Căn cứ Hỏa Lực 6 còn ghi vết tích ngày nào. Cũng dốc mòn
lối nhỏ con suối cạn ven rừng còn in hình vết tích xe tăng T.54 của
Cộng quân miền bắc lần đầu tiên có mặt xâm nhập miền Nam qua ngả Hạ
lào. Tôi đã báo cáo về Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Đoàn, nhưng phía cố
vấn Mỹ cho rằng đơn vị tôi báo trong đêm hôm tối trời có ánh dèn pha
chiếu sáng, bụi khoi bốc mịt trời, tiếng xích xe tăng quật đổ cây
rừng vang dộng núi rừng là sai. Không chinh xác bằng máy bay trinh
sát của Mỹ, vì đêm hôm che khuất tầm nhìn của bộ binh.
Hôm nay, Mười năm sau mất miền Nam
30-4-1975, tôi có dịp trở lại nơi đây nhìn cảnh cũ, chiến trường xưa
trong xúc động bồi hồi đã đưa tôi và các chiến hữu về lại xúc cảm
trận đánh đẫm máu tại đây với bao xác chiến hữu bỏ mạng nơi nầy!?
NGƯỜI MỸ ĐÃ PHẢN BỘI ĐỒNG MINH CHIẾN SĨ VNCH
Trong Quá khứ thương đau trận đánh
chiếm lại ngọn đồi máu này. Đó là căn Cứ Hỏa Lực 6 đang hiện diện
trước mặt tôi đâ gây tho tôi cú sốc [sock] nặng nề.
Đơn vị hành quân Trung Đoàn
47/SD.22BB vừa về căn cứ Hàm Rồng-Pleiku-sau cuộc hành quân vượt
tuyến sang Campuchia qua ngả Đức Cơ chưa kịp dưỡng quân và tái bố trí
khả năng tác chiến. Được lệnh BTL/SĐ22BB tiếp viện cho Căn cứ Hảo
Lực 6 Đắk Tô- Kom Tum-Ngả 3 biên giới Nam Hạ Lào. Căn cứ hảo lực này
nằm trên trên một ngọn núi cao gọi là VinKy cao 1.886m do một tiểu
đoàn Mỹ đóng quân đề bảo vệ sân bay quân sự ”Phượng Hoàng” và kiểm
soát vùng ngả 3 biên giới Việt Miên lào, ngăn chặn xâm nhập Cộng
Quân Bắc Việt từ đường mòn Hồ Chí Minh phía Nam Hạ Lào.
Người Mỹ ở thế bị động chiến trường
trong sự ồ ạt xăm nhập của Cộng Quân Bắc Việt và sự thỏa thuận rút
quân với Quốc tế cộng Sản Nga-Tàu nên Mỹ sách lược”Việt Nam Hóa Hóa
Chiến Tranh”Giao lại cho cho Quân Lực/VNCVH đảm nhận hành quân và
quân sự [Nhưng không lực Hoa Kỳ thì Mỹ không giao]. Với Căn cứ Hỏa
Lực 6 này, Mỹ tự động rút quân không có sự phối hợp bàn giao giữa 2
bên nên phía QL/VNCH không hay biết để tiếp nhận!? Vì thế Cộng quân
Bắc Việt tiến chiếm ngọn núi Căn Cứ Hỏa Lực 6 êm ru không một tiếng
súng nổ. Lý do phía Mỹ dùng trực thăng bốc thẳng lính mỹ đóng quân
rời khỏi căn cứ. Hay người Mỹ bàn giao căn cứ cho Việt Cộng lúc nào
mình cũng không biết không hay!?. Mỹ để lại cho phía cộng quân Bắc
Việt đầy đủ trang thiết bị quân dụng, vũ khí đạn dược và hệ thống
phòng thủ tối tân, vững chắc đầy mìn bẩy lô cốt chống bom đạn rất hiệu
quả vô cùng.
Khi Trung đoàn tôi và cả 2 Trung
đoàn của SĐ23BB cùng 2 tiểu đoàn Biệt Động Quân và tiểu đoàn 81 Biệt
Kích Dù chia ra 3 mặt tấn công tái chiếm lại ngọn đồi máu này! Từ
dưới sườn núi thấp tấn công lên đỉnh cao dầy dốc đá cheo leo là trở
ngại vô cùng, lên đợt nào là gẩy đổ đợt đó! Vì bãi mìn và lựu đạn M26
của Mỹ trên cao ném xuống. Khi xung phong thì bị lô cốt có mấy ổ đại
liên M60 của Mỹ nhả đạn như mưa là thây người ngả đổ máu loang cả hốc
đá và xác chết vướng mắc kẽm gai bờ rào lô cốt. Cuối cùng phe ta
chống không nổi với vũ khí của ta!? Điều đau đớn nhất súng đạn người
Mỹ giết đồng minh phe mình!? Đánh nhau đã 3 ngày nay có pháo binh Sư
Đoàn và tiểu khu Kom Tum yểm trợ bắn phá địch cũng không làm chúng
xây xiểng chút nào cho dù kêu pháo nổ chụp trên đầu chúng ta vì vị
trí quá gần, liều chết chung với địch để dứt điểm tái chiếm ngọn đồi
mà cũng không xong!.Mùi xác chết đã xông lên nghèn nghẹn mũi và làm
ngòn ngọt cổ họng cháy khát vô cùng. Máu loang khắp sườn núi làm tím
tái chiều hôm có hỏa châu soi sáng cho cuộc chiến còn tiếp diễn cho
đến bao giở thôi chết!?
Tất cả đơn vị chúng tôi lẫn các tiểu
đoàn tăng phái được lệnh rút quân xuống núi trong tư thế bao vây
địch và đợi lệnh. Bộ Tư lệnh Hành Quân Sư Đoàn cho phần Không Yểm máy
bay đến dội bom suốt cả ngày với nhiều phi tuần phản lực cơ trên
đỉnh núi. Cột khói bốc cao hào lẩn mây mù sương núi tạo thành những
vết loang lổ do bom cày trên đỉnh núi. Tiếng bom và tiêng pháo rền
vang đột ngột chấm dứt. Các đơn vị được lệnh tấn công lên đinh núi,
càng gần đến rào trại và bải mìn càng lộ rõ những hoang tàn đổ nát
những lô cốt qunh rào căn cứ và những xác chết Cộng Quân còn ngổn
ngang dưới giao thông hào, còn một vài ổ kháng cự trước sức tấn công
yếu ớt cuối cùng của chúng tôi bằng tiếng hô xung phong dứt điểm mục
tiêu của 7 chiến hữu tiểu đoàn tôi lên đợt đầu tiên bắt tù binh giặc
cộng buông súng đầu hàng. Vì quá mệt mêt mỏi đuối sức, tôi ngồi tựa
vào nòng pháo 155ly của Mỹ để lại bây giờ bị chôn vùi trong đống đất
đá đổ nát hoang tàn chỉ còn lòi phầ nòng sung lên cao phản chiếu ánh
trời chiều. Qua khói thuốc lá, còn điếu cuối cùng nhầu nát dính máu
bạn bè làm mặn chát trên môi…!?? Cuối cùng nhìn kỹ lại ngọn đỉnh cao
bị sang bằng bởi bom đạn tụt mất 25-30 thước chiều cao. Ngọn núi
Vinky 1.886m chỉ còn lại 1.836m mà thôi!? Đánh-dấu sự tuột giãm niềm
tin của đồng minh - Chiến sĩ VNCH- và sự phản bội của người Mỹ
Theo báo cáo hành quân của Quân Đoàn
I, ngày 10-feb-1971 phi hành đoàn 213 do Trung Úy Tạ Hòa và Thiếu Úy
Diêu Cơ Phi Ánh và xạ thủ Đệ trong một phi vụ chở phái đoàn tham mưu
Quân đoàn I bay quan sát chiến trường đã bị phòng không từ thiết vận
xa PT76 cộng quân bắn hạ, nơi vị trí giữa căn cứ hỏa lực, đồi 30 của
Dù và hướng đông của BĐQ độ 20km về hướng bắc khe Sanh trên trực
thăng bộ Tổng Tham Mưu Quân đoàn gồm Trưởng Phòng 3 và Trưởng Phòng 4
cùng với 4 phóng viên ngoại quốc là Keisabaro-shimamoto, Henri Huet,
Larry burrows và Kent Pater. [cho đến măm 1998, hài cốt của các phóng
viên này mới được tìm thấy cùng với những thứ phần hư sét của máy
ảnh phim đồng hồ và mảnh vụn của xác chiếc trực thăng]. Thời đó các
quan chức Mỹ cấm các nhân viên dân sự lên máy bay quân sự qua biên
giới Lào như trên đường 9 nam Lào tại biên giới. Có bảng cấm người Mỹ
bước qua biên giới này. Tất cả mọi người được xem như là bị tử nạn.
Vì trong vùng trách nhiệm nên đơn vị
tiểu đoàn tôi được lệnh tìm xác mỹ và chiến hữu VN này. Các toán
chúng tôi được nhẩy trực thăng xuống vùng vừa rơi trực thăng còn bốc
cháy lúc 8 giờ đêm trời tối mịt mù núi rừng, chỉ lờ mờ ánh trăng
thượng tuần chiếu soi không đủ sức quan sát phải nhờ đến chất bột lân
tinh chiếu sang màu hồng nhạt dẩn đường từ trên trực thăng”Cán Gáo”
bay Xè Xè thắp trên đầu ngọn cây rải xuống chất lân tinh chiếu sang
chỉ điểm và hướng dẫn đường. Đơn vị và các toán nhảy xuống đầu địch,
bị Cộng Quân phản xạ bắn rát quá thêm một số tử vong cho quân ta.
Nhưng nhờ hai chiếc Không Tuần Thám C.130 bao vùng đến bắn yểm trợ
giàn súng Mini Gum 6 nòng bắn, tiếng kêu như bò rống, ngăn chận được
những đợt tấn công của Cộng Quân để giành xác nơi chiếc máy bay cháy
xác tan rã. Toán trinh sát chúng tôi không có thời gian thu lượm xác
chết của chiếc máy bay lâm nạn và vì còn cứu những đồng đội bị thương.
Đơn vị tôi có yêu cầu bộ chỉ huy tiền phương xin cho trực thăng đến
tải thương và lấy xác phái đoàn phóng viên Mỹ nhưng máy bay cứu
thương không đáp xuống được vì hàng phòng không của Cộng quân đặt
trên thiết giáp PT 76 và T 54 hoạt động dày dặt và chúng biết di động
làm thay dổi mục tiêu nên không thề nào tiêu diệt được chúng để đáp
xuống cứu thương.
Đơn vị Trung Đoàn 47 và 2 Tiểu Đoàn
BĐQ Biên Phòng Đắk Tô-Đak Shut- Pleime bị 3 Sư Đoàn cộng quân bao
vây sát ngả 3 biên giới Nam Hạ Lào mà Cộng Quân viện binh từ đường mòn
Hồ Chí minh hướng Bắc vào. Chúng tôi được lệnh rút lui và mở đường
máu bằng con đường cày nát của nhũng đợt bom B52 rung chuyển cả một
vùng giao tranh đầy xác cộng.
Trước khi được lệnh, chúng tôi vội
vàng tìm chỗ kín đáo chôn vùi xác bạn và phái đoàn lâm nạn máy bay có
cả xác 4 phóng viên nước ngoài tử nạn. Và có đánh dấu bằng những gọp
đá núi chất cao ghi dấu ám hiệu trong”Nhật ký” hành Quân đơn vị. Rốt
cuộc rồi tôi cũng bị thương không báo cáo nhật ký hành quân lên
Trung Đoàn…nên mọi việc đề chìm vào quên lãng khi tôi chuyển về quân y
viện Nha TrangNỖI NHỤC NHẰN ĐỜI TỴ NẠN CỦA QUÂN DÂN MIỀN NAM
Vì thời điểm sau giải phóng 10 năm
hơn nếp sống xã hội của dân Miền Nam bị Cộng sản hòa và kiểm soát rất
chặt chẻ, nên mọi hoạt động tìm đường vượt biển thật khó khăn. Cán
bộ chính quyền Cộng sản đã cướp giật và chiếm đoạt của cãi tài sản
người dân đã đầy túi tham nên chúng phải lo cũng cố an ninh quốc
phòng để bảo vệ tài sản chúng chiếm lấy của dân miền nam. Chúng vũ
trang quân sự và canh gác niêm mật khó có thê mua chuộc bằng tiền, hơn
nữa người dân bị vô sản hóa nên không còn vàng để chung chi với
chúng!
Phía nước ngoài, Cao Ủy Liên Hiệp
Quốc và các tổ chức nhân đạo, những cơ quan quốc tế từ hiện cứu người
tỵ nân Cộng sản Vượt biên cũng bị quá tải, không còn chỗ chứa người
tại các trại tỵ nạn các nước Đông nam Á trong vùng. Không lo cứu kịp
với hàng triệu người quân dân Miền nam vượt biển tìm Tự-Do, và có hơn
nữa triệu người chôn vùi xác trong lòng đại dương vì đói ăn, khát
nước, gió bảo nhấn chìm tàu. Nạn cướp của, hãm hiếp, giết người của
cướp biển gây chấn động đau thương cho cả thế giới.!...
Tình trạng hổn độn vượt biển của dân
Miền nam Tự-Do muốn trốn chạy cộng Sản Bắc Việt-Theo Nga-Tàu- mất
trật tự hổn độn, thiếu tổ chức nơi các cơ quan thiện nguyện nhân đạo
tỵ nạn CS trong tình trạng hoạt động thiếu tích cực còn kém hiệu quả
trong công tác cứu hộ. Phần lớn cơ quan thiên nguyện nhân đạo có khái
niệm quá đơn giản sơ sài về vấn nạn Cộng Sản bùng phát dữ dội khi
Cộng Sản chiếm đóng Miền Nam VNCH ngày 30-4-1975. Đó là một thất bại
lớn cho tổ chức nhân đạo thế giới LHQ không hoàn thành sứ mệnh nhân
đạo với nhân dân Miền NamVNCH đã được quốc tế LHQ chấp nhận là thành
viên các quốc gia Tự-Do có chủ quyền của VNCH trên thế giới.
Còn về phía Hoa Kỳ là người bạn đồng
minh củaVNCH/Miền Nam đại diện cho khối các nước Tự-Do chống Cộng
Sản, và là tiền đồn an ninh hòa bình cho thế giới tại Đông Nam Châu Á
/TBD. Nhưng phía Hoa Kỳ vì quyển lợi riêng của nước Mỹ, bỏ rơi bạn
đồng minh VNCH, một phần đất của thế giới Tự-Do và cả 3 nước Việt
Miên Lào của Đông Dương giao cho Cộng Sản Quốc Tế Nga Tàu để đổi lấy
an ninh hòa bình thế giới thôi bị cộng sản gây chiến xăm lăng và Hoa
Kỳ mở được cửa thị trường giao thương với Trung Cộng khi Miền Nam
VNCH này là mặt hàng” Thế chấp” mở của thị trường Trung Quốc cho Hoa
Kỳ.
Vì quyền lợi, nên Hoa Kỳ thiếu hiểu
biết về Cộng Sản Trung Quốc là kẻ thù truyền thống trong lịch sử VN
ngàn năm nô lệ giặc Tàu nên vô tình tiếp tay cho Trung Cộng đô hộ VN
trong ý đồ Bành trướng Hán Tộc sang các nước Đ.N.Á. Hoa Kỳ vô trách
nhiệm nên dẫn đến vô nhân đạo trong hành động đáng giận, đáng nguyền
rủa không mở ra được lối thoát và con đường sống nào cho dân chúng
Miền Nam/VN không thích sống với Cộng Sản và họ có quyền bỏ nước ra
đi tìm Tự-Do và an toàn tính mạng cho họ. Trong khi Hoa Kỳ bắt ép
VNCH ký bản H.Đ Paris/73 và trói tay VNCH cho Cộng Sản BV chiếm Miền
Nam 30-4-1975 mà không có một kế hoạch tổ chức Di dân được phối hợp
với tổ chức nhân đạo Cao Ủy LHQ hình thành cứu vớt thuyền nhân vượt
biển, đắm tàu bỏ mạng biển khơi trong cuộc di dân tìm về Tự-Do!???
Nổi khốn cùng của quân dân Miền
nam/Vn trải qua sống chết trên biển khơi bị đói khát, đắm tàu, cướp
biển hoành hành…Và ngay cả khi đến được đến trại tỵ nạn các nước
trong vùng Đ.N.Á như thái Lan, Indonesia, Mã Lai, Philippinv.v…đều bị
xua đuổi trở ra không cho vào các trại tỵ nạn để cứu xét cho định cư
nước thứ ba tại các nước Tự-Do trên thế giới. Ngay tại nước Mỹ, việc
xin tỵ nạn thì họ vẫn bị coi là kẻ di dân kinh tế. Bị các Nghị Sĩ
quốc hội Thượng, Hạ Nghị Viện Hoa kỳ và các phong trào phản chiến
nước Mỹ làm khó khăn và miệt thị dân tỵ nạn không cho vào nhập cư xứ
họ. Như Thượng Nghị Sĩ John Kerry là dân trường đại họcYale [là
trường đại học phản chiến Hoa Kỳ] và Thượng Nghị Sĩ Joe Binden hiện là
Phó Tổng Thống Hoa Kỳ của TT.Obama đã từng tuyên bố đuổi dân Việt
Nam tỵ nạn ra khỏi nước Mỹ…và không dùng tiền viện trợ chiến tranh
cho Miền Nam VNCH để tổ chức kế hoạch ra đi của người ViệtNam và đưa
họ đến đất Nỹ này!???
Những ngày cuối mất miền Nam, bị Mỹ
trói tay chiến đấu và cắt đứt viện trợ quân sự cho Miền Nam VNCH Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu xin vay viện trợ của Hoa Kỳ để tiếp tục chiến
đấu giữ vững Miền Nam Tự-Do. Nhưng bị phía Hoa Kỳ thẳng thừng từ
chối trước lời đề nghị của ông Thiệu hứa sẽ trả bằng số dầu hỏa của
các giếng dầ khai thác được của thềm lục địa Miền Nam. Mỹ vẫn từ
chối. Sau cùng đi đến quyết định bán 16 tấn vàng trong Ngân Khố Việt
nam. Chỉ cần thế chấp vàng để lấy 300 triệu đô la dùng để mua vũ khí
đạn dược chiến đấu thêm 3 tháng nửa để tỉm giải pháp chính trị cho
Việt Nam Trung Lập không Cộng Sản. Nhưng vẫn bị CIA Mỹ cản trở không
cho và muốn làm quà biếu tặng cho các lãnh đạo chóp bu Cọng sản Việt
Nam ngày 30-4-1975 để trả ơn việc trao đổi tù binh phi công mỹ an
toàn trở về Hoa Kỳ! và mở lối thoát danh dự cho phía Mỹ rút quân ra
khỏi VN.
Những ngày sau cùng Tháng Tư mất
Miền nam, có những cuộc di tản nhân đạo của các cơ quan từ thiện cô
nhi tử sĩ các trường Thiếu sinh quân, các cơ quan Chiêu Hồi [VC hồi
chánh] và nhân viên tình báo, trí thức, nhân sĩ gạo cội Miền nam là
đối tượng kẻ thù Cộng Sản phải được ưu tiên di tản trước tiên…bằng số
tiền còn sót lại 230 triệu đô la tiền viện trợ quân sự chiến đấu của
QL/VNCH chưa được Ngân hàng nhà nước Saigon kịp giải ngân, nay phải
lấy ra dùng trong công tác cứu dân, nuôi dân di tản. Cứ 25.000 đồng
Vn cho mỗi đầu người có được đầy đủ 3 buổi ăn và nước uống…như thế
chỉ nuôi được một số người di tản trong vòng 20 ngày để sang các nước
Tự-Do tiếp nhận người Tỵ nạn Cộng sản. Đó cũng là việc làm có ý
nghĩa cuối cùng của chính quyền Tự-Do Miền nam trước khi mất vào tay
Cộng sản Bắt việt. Và là đồng tền xương máu, sống chết của toàn thể
chiến sĩ QL/VNCH đành phải bẻ súng cong nòng vì hết đạn bắn…! để dành
tiền giúp dân di tản sống để tìm Tự-Do!???
VƯỢT BIỂN TRÊN ĐỐNG XƯƠNG TÀN!!!
Nếu muốn Hoa Kỳ chấp nhận vào nước
My thì người vượt biển tạm trú tại các trại Tỵ Nạn Đông nam Á phải
xác nhận có công trạng làm việc và hợp tác với Mỹ. Chẵng hạn du học ở
Mỹ, làm việc tại các cơ quan sở Mỹ, giấy tờ chứng nhận quân đội Miền
Nam Vn có học tập cải tạo tù cộng sản trên 3 năm mới được Mỹ nhận
vào Hoa Kỳ. Số còn lại là những dân tỵ nạn”Kinh tế”thì giao cho các
nước Úc, Tân Tây Lan Anh, Đức, Pháp v.v…nếu họ không nhận thì trả về
Việt Nam vì là di dân kinh tế không phải tỵ nạn Cộng Sản hầu chia bớt
gánh nặng nuôi ăn”Người Việt Cộng Sản lý do kinh tế”
Sau 10 năm Cộng sản nuôi dân bằng
Bobo, khoai sắn tại Miền nam….Cũng như ngay bây giờ nếu chúng tôi có
vượt biển cùng đồng đội chưa chắc gì Hoa Kỳ đã nhận chúng tôi vào đất
Mỹ dù là bạn đồng minh chiến đấu cùng một chiến tuyến chống Cộng
Sản, nhưng chưa đủ thời hạn 3 năm cải tạo hành hạ, nhục hình của Cộng
sản thì chưa được Mỹ thương hại rước đi…Chúng tôi cần sự công bằng
mà không cần sự thương hại của người Mỹ. Và cần Phía Mỹ có trách nhiệm
hơn là sự phản bội đồng minhVNCH.
Do đó chuyến vượt biển lần này của
đồng đội chúng tôi cần có những bộ hài cốt lính Mỹ mang theo chuyến
đi để đối chứng với phía Hoa Kỳ là có liên hệ hợp tác với Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam. Cần có hài cốt lính mỹ để trao đổi phía Hoa Kỳ
lấy người đi từ Việt Nam cho thân nhân vợ con đồng đội còn kẹt tại
VN. Như thông báo của chính phủ Hoa Kỳ qua thông tin đồn đoán của
quần chúng vượt biên:”Cứ một bộ hài cốt lính Mỹ đổi lấy danh sách
nhập cảnh Mỹ của cả chục người Việt Nam muốn tỵ nạn sang Hoa Kỳ và
được chính thức rước đi do VN cho phép…
Với chuyến đi lấy hài cốt này tận
biên giới Tây Nguyên chiến trường xưa Nam Hạ Lào đâu có xác lính mỹ
chết trận vì thời điểm hành quân chiến dịch”Bình Tây II” Lam Sơn 719
Nam Hạ Lào này không có lính Mỹ tham dự,do “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”
của Quốc hội thượng Hạ Viện Hoa Kỳ công bố.Các Nghị Sĩ Thượng ,Hạ
viện trong phong trào phãn chiến đại học Yale yêu cầu cấm quân đội
Hoa Kỳ đánh qua biên giới Việt- Miên- Lào trong trận Lam Sơn 719.Hơn
nữaNixon và Kissinger không muốn chọc giận Mao Trạch Đông-Trung
Cộng- ở thời điểm thương lượng đi đêm với nhau về vấn đề Việt Nam nên
không dám “Đánh Chó- CSBV- phải kiêng chủ nhà Trung Cộng”.Vì thế mặt
trận Hạ Lào,phía Ql/VNCH đãm trách nên không có xác lính mỹ mất tích
chỉ có 4 Phóng Viên Truyền Thông Quốc tế nước ngoài bị bắn rơi trực
thăng quan sát mà toán chúng tôi tìm được và che dấu ngay lúc đó
nhưng không lấy xác được.Đợi đến hôm nay,chúng tôi mới cơ hội tìm lại
xác cho chuyến đi vượt biển này,đem họ về với thân nhân gia đình tại
nước ngoài.Dù là không phải quân nhân mất tích lính Mỹ nhưng họ vẫn
là hài cốt phóng viên quốc tế có lien quan phục vụ chiến tranh Việt
nam.Chính vì vậy nên chuyến vượt biển này cần đến những bộ hài cốt
người nước ngoài mang theo để làm “Lá Bùa hộ Mệnh”cho thế giới chấp
nhận mình là dân tỵ nạn Cộng Sản,không phải là di dân kinh tế tì sống
ở nước thứ ba.họ đem trả lại Vn để cho Cộng sản có trách nhiệm nuôi
những này.Biết rằng,làm cách này là không nhân đạo với người chết…là
hành động tàn nhẫn vô lương tâm!?Nhưng nó vẫn là phương tiện tìm
đường sống cho người tỵ nạn Cộng sản và đánh thức lương tri nhân loại
của thế giới Tự-Do trước hiễm họa Cộng sản.Gúp dânVN không bị xua
đuổi…cả thế giới xua đuổi vì dân VN cần sự cứu giúp nhân đạo của thế
giới.
Tôi nghĩ nếu chuyến đi vượt biển lần
này thành công và cả thế giới biết đến cộng sản bạo tàn độc ác đến cả
đống xương tàn hài cốt của nạn nhân Cộng Sản còn muốn bật dậy đòi đi
vượt biển rời khỏi VnCs huống chi là người chúng tôi làm sao sống
nỗi với”Cộng sản vô nhân tính trả thù Tự-Do”. Hành động không tốt của
chúng tôi trên đống xương tàn hài cốt này trơ thành hành động “Anh
Hùng” nhân đạo cho giải thoát 4 bộ hài cốt này về lại với thế giới Tự
Do nơi quê hương xứ sở Tự-Do dân tộc họ không có chế độ bạo tàn như ở
VN!!!
Toán tìm hài cốt chúng tôi giả dạng
thưòng dân.Với kinh nghiệm đi rừng của lính biệt kích QL/VNCH đã từng
thám sát đột kích mật cứ địch, nên dễ dàng lọt qua vùng ngả 3 biên
giới Việt Miên Lào. Nhờ c ónhững chiền hữu biết tiếng Thượng, pana,
ra đê xưa là lính biệt kích mỹ vùng này…nay theo đám tàn quân của Khờ
Me, Fulro cố bám lại Tây Nguyên để đòi lại đất tổ Champa chiêm Thành
của họ nên chuyện lấy 4 bộ hài cốt này tương đối không gặp trở ngại
lắm, vì chiến trường ngày xưa không mấy thay đổi lắm để xóa nhòa vết
tích xưa. Nơi che dấu xác máy bay với nhiều mãnh vụn ghép lại. Cùng
với những thân cây gẩy đổ và những gọp đá núi trơ trơ đứng nhìn nhân
chứng với thời gian. Chỉ còn thiếu một chút khói tỏa hương thơm làm
ấm lại lòng chiến sĩ, thì cảnh vật âm u của núi rừng sẽ trở nên hùng
vĩ và hào hùng của những anh hùng liệt sĩ của chiến trường năm xưa.
Vế tích còn đây, dấu chân còn đó!
Những vũ khí theo người đã rỉ sét hết rồi! bên cạnh những dóng xương
tàn trong mùn đất với thời gian. Chúng tôi gói ghém lẫn lộn 4 bộ hài
cốt lẫn nhau. Còn số vũ khí thì không xử dụng được nữa, vất lại dưới
mồ chôn tập thể.
Chúng tôi nhờ người dân đốn gổ rừng
lậu [trốn thuế] biên giới Lào Việt chịu dưới quyền kiểm soát của lính
fulro -Thượng chuyển tải giúp số hài cốt này theo các xe”Be” chở gổ
rừng đem về Komtum và chuyển về Pleiku theo quốc lộ 14, con đường di
tản xưa, xuống Cheo Reo-Phú Bổn, rồi theo liên tỉnh lộ 7 xuống Củng
sơn-Đồng hòa là tới cửa biển Tuy Hòa-Phú Yên. Toán chúng tôi cũng
không quên gởi theo xe vận chuyển gổ rừng những bộ phận rời vũ khí`
của 3 cây đại liên M60 và 10 cây hỏa tiển vác vai M72 chống tăng và 12
cây tiểu liên M16 cùng một số lựu đạn M26 cầm tay, cộng thêm một số
đạn dược tìm được tại căn cứ quân sự cũ tại Lò Giấy-Cũng Sơn-Tuy Hòa.
Hoàn thành công tác mỹ mãn theo kế
hoạch dự trù phần lớn nhờ nhóm lính Fulro Thượng là chiến hữu đồng
minh sắc tộc Tây nguyên còn sót lại cho hoạt động quân sự để bảo vệ
vùng Tây Nguyên”Tự trị”của họ chống lại nhà nước Cộng sản VN kéo dài
đến hơn 10 năm sau mới chụi tan rã theo ngày 30-4-1975 của Miền nam
VNCH sụp đổ. Chúng tôi làm việc này, từ chuyển vận vũ khí, lấy được
hài cốt và sửa sang lại máy móc, tu bổ tàu bè trở thành 3 chiếc hải
thuyền biệt kích bằng gổ của chúng tôi đầy đủ vủ trang của tàu”Cướp
biển” hơn tàu vượt biên được ngụy trang làm tàu đánh cá. Nhưng bên
trong thuyền được trang bị vũ khí, đầy dủ sung đạn, hải đồ của một
nhón thổ phĩ cướp biển…
Chúng tôi dàn cảnh đang rượt đuổi
các tàu đánh cá Việt Nam tại của biển Tuy Hòa. Bắn nhửng loạt súng và
xua đuổi những tàu đánh cá của ngư dân ra khơi để tạo cho họ cơ hội
trốn chạy tán loạn tìm đường vượt biên!...Mục đích chúng tôi muốn thu
hút các tàu lực lượng canh phòng của Việt Cộng trên các tàu tuần tra
cửa biển Tuy Hòa để tập trung vào tàu cướp biển mà không bắn vào tàu
cá của ngư dân có cả tàu chở người vượt biển lẫn lộn trong đây đang
bị Việt Cộng kiểm soát bắt giữ.
Biệt đội Hãi Hành chúng tôi có nhiệm
vụ thu hút lực lượng biên phòng Cộng Sản vào sự chú ý truy đuổi
chúng tôi, làm cho họ không kịp bắt lại các tàu có chở người vượt
biễn đang trốn chạy ra hải phận quốc tế trong đó có nhiều thân nhân
của đoàn tàu cướp biển chúng tôi thoát chạy ra khơi…suôi về Indonesia
và Thái lan, kéo theo một đoàn tàu dánh cá khác cùng đi tìm bến bờ
Tự-Do nhờ tàu cướp biển giả dạng của chúng tôi giải thoát tán loạn ra
biển khơi ,bỏ lại chúng tôi trong vòng vây Cộng sản.
Phía chúng tôi phải nổ súng dụ địch
[VC] truy đuổi ngược hướng vào bờ biển Đá Ghềnh để tàu Cộng sản bỏ
mặc tàu cá và tàu vượt biên ra khơi.
Quả đúng như chiến thuật hành quân
dự trù chúng tôi nổ súng đại liên và chạy vào hướng vào bờ có 3 tàu
hải quân Cộng Sản [Bằng sắt], chúng lấy của Hải Quân Sài gòn có trang
bị vũ khí chiến đấu rất mạnh. Chúng, cộng sản biên phòng thấy chúng
tôi chỉ là tàu gổ nên quyết bao vây bắt sống để lập công với chính
quyền cách mạng cộng sản như chúng phát hiện nhóm phản động Mai Quốc
Túy, Nguyễn Văn Hạnh và Trần Văn Bá…trước đây đãxâm nhập vũ khí từ
nước ngoài vào Việt Nam và bị chúng phát hiện bắt được. Toán biệt
kích chúng tôi không dám làm anh hùng vĩ đại yêu nước cứu dân so với
nghĩa sĩ nói trên, nhưng trong bối cảnh bị bao vây nguy hiễm này,
chúng tôi phải chiến đấu tới cùng, với ước mong các tàu cá chạy được
ra xa khơi ngoài biển trong lúc neo chiến câu giờ của thuyền chúng
tôi.
Chúng bắt loa phóng thanh kêu gọi
đầu hàng nhưng chúng tôi vẫn trong tình trạng im lặng sẳn sàng chiến
đấu…Và thời gian quyết định cũng phải dến cho chiến đấu sống còn. Cái
khoảng lặng rợn người đầy chiến thuật tác chiến. Toán chúng tôi ra
ám hiệu cho nhau quyết định đồng loạt xử dụng hỏa tiển vác vai M72
chống tăng bắn vào tàu địch. Tàu tôi có 3 cây M72 bắn tàu số 1, tổ 2
có 3 quả bắn tàu 2 và tổ 3 có 3 quả bắn vào tàu 3. Chúng tô ira lệnh
quay ngang tàu để lộ vị trí 1,2,3 của tàu địch và bắt đầu khai hỏa.
Vừa khởi động quay nửa vòng nhưng chưa lộ hết mục tiêu thì đã bị
những tràng đại liên tàu địch bắn chặn, nên toán 1 và 2 phải vội khai
hỏa...Mục tiêu số một[Tàu địch] lãnh trọn 3 quả M72 bốc cháy nằm
êm, mục tiêu 2 bị che khuất một phần nên bị trúng 2 quả, còn trượt
mất 1 quả nhưng cũng bị cháy và nghiêng hẳn sang một bên, những cây
đại liên trên tàu còn hoạt động gây khó khăn cho ta. Cố bắn thêm một
quả thứ 3 cho mục tiêu 2 làm câm lặng giàn đại liên và đã loại ra
khỏi vòng chiến 2 tàu địch. Còn mục tiêu chiếc thứ 3 lướt qua 2 tàu
lửa nằm bất động và bắn đại liên vào thuyền chúng tôi, nên phải xả
hết tốc lực chạy vòng qua phía sau 2 tàu cháy để được sự che chắn của
2 tàu này làm chướng ngại vật che khuất thị trường tác xạ của tàu sổ 3
địch. Hai xạ thủ đại liên thuyền xung kích chúng tôi bắn tối đa cướp
tinh thần và truy cản tàu địch rượt đuổi. Tôi ra hiệu 2 khẩu đại
liên cầm chừng vì sắp hết đạn, mà tàu địch bằng sắt khó đâm thủng vỏ
tàu. Hơn nửa chúng tôi chỉ giỏi đánh trên bờ, còn dưới biển chòng
chềnh say sóng khó khó xác định mục tiêu! nên 2 khẩu đại liên không
hiệu quả. Tôi làm ám hiệu xử dụng tối đa 4 cây hỏa tiển M72 còn lại
cho mục tiêu sổ 3 quyết định thành bại của chúng tôi. Tôi cho lệnh tài
công đánh cá kinh nghiệm đường biển:”ngoặc ngang rẻ phải “ của chiếc
tàu đang cháy và đột ngột xoay ngang dừng lại chờ tàu mục tiêu 3 của
địch tiến tới. Tàu này còn khỏe chưa bị thương vì nó được che khuất
tầm xa nên nó bị bắn trượt mục tiêu và nó đang tấn công vũ khí hạng
nặng vào tàu ta bằng đại liên 50ly phòng không làm tan vở tàu gổ của
ta chìm nhanh chóng và đang rượt đuổi chiếc thứ 2 của ta chạy vòng
vòng nên để lộ mục tiêu chiếc thứ 3 cho ta nhắm bắn. Lại thêm chiếc
thứ 2 chúng ta bị trúng đạn vở tan tành chìm nghĩm. Đổi lại mục tiêu
thử 3 tàu địch bị trúng 3 trái hảo tiển M72 của ta bốc cháy theo số
phận 2 chiếc trước. Trước khi nó chìm còn bắn lại ta lần cuối cùng
cùng bốc cháy theo chúng. Lửa tên tàu gổ loang nhanh cũng là chiếc thứ 3
của tôi bị địch bắn đang bốc cháy nhanh vì nó bằng gổ tàu đánh cá
không phải tàu sắt của Hải Quân VNCH như những chiếc của chúng đang
chìm nhanh hơn chúng tôi.
Con tàu cá cuối cùng của tôi bị bốc
cháy và nghiêng hẳn sang bên sau khi hứng chịu thêm mấy quả B40 do
địch phóng trúng trước khi nó chìm vào lòng biển, làm cho 2 khẩu đại
liên thuyền xung kích chúng tôi bị trúng B40 Vc lật tung, rớt xuống
biển cùng 2 xạ thủ. Thuyền cháy và nước bắt đầu tràn vào lòng thuyền
và bị lật ngang. Bất thình lình một tiếng nổ to của thùng lựu đạn
mang theo nổ tung và tất cả chìm vào lòng biển cả đầy khói lửa lẫn xác
người cùng bốn bộ hài cốt trong bao tải đựng cốt xương tàn của 4 nhà
báo quốc tế
Trước khi thuyền cá xung kích bị
chìm tôi vẫn còn nghe thấy tiếng nổ to cột lửa lên cao từ phía tàu
địch…Mặt nước biển bị chấn động mạnh hất tung văng thuyền ra khỏi con
tàu, còn lẫn xác của tôi nằm trên đó lềnh bềnh trôi trên biển khơi
và chết lịm dần không biết bạn bè chiến hữu của tôi ở nơi nào, sống
chết ra sao trong vùng biển chết của Tự-Do!...
Vợ con tôi ra trễ chuyến tàu định
mệnh đi tìm Tự-Do mà tôi đã hẹn trước…Giờ chỉ là một cuộc hẹn “Nhận
Xác Chồng” khi hay tin làng chài ven biển vớt được xác tàu chìm,
trong đó có tôi còn sống trong đống xác chết giữa bạn và thù. Sau khi
hồi tỉnh tôi trốn khỏi phòng cấp cứu y tế địa phương khi sống lại từ
cõi chết! và bỏ lại nơi này tất cả đau thương khốn khổ của người bất
đắc chí không đạt thành sở nguyện Tự-Do VNCH
VƯỢT ĐỜI CẢI TẠO
Mười lăm năm sau sống vùi dập chui
nhũi như người tha phương xứ lạ. Tôi sống bằng nghề cơ khí hàn điện
hàn xì trong các công trình nhá nước Cộng Sản. Xây cất các nhà máy
xí nghiệp, cầu đường trong những vùng sâu vùng xa, có khi cận kề với
chiến trường xưa đầy bom đạn thuộc vùng lá chết vì chất độc da cam
thời chiến tranh, nhưng không thể tránh được vì đó là cách hành xử
của kẻ thù đối với người Cải Tạo. Chúng đưa tôi vào công trình sửa
chửa Lò Phản Ứng Hạt Nhân Đà Lạt cùng với số công nhân con nhà ngụy
Quân-ngụy quyền do Sàigon bỏ lại mà không đóng khóa Thanh Nhiên Liệu
Nguyên Tử làm chúng tôi bị nhiểm phóng xạ bỏ ra về…Chúng bắt trở về
xây dựng lại nhà máy Đông Nam-Thắng Lợi tại Gò Vấp do Pháp tài trợ cho
VN nhưng chúng tôi không được quyền tiếp xúc với chuyên gia Pháp vì
biết nói tiếng Pháp và tôi bị nhốt tù mất 6 tháng khi vận chuyển
khung máy dệt bị lật cong hư máy vì tội phá hoại tài sản XHCN.
Khi ra khỏi tù, chuyên gia Pháp mở
tiệc ăn mừng mời tôi đến dự nhưng cơ quan Xí Nghiệp Xây Dựng Sổ3
không cho tôi tham dự chung với đám công nhân. Các chuyên gia Pháp
phản đối dữ dội, cuối cùng gởi về đội công tác cho tôi được 5 lon bia
Tiger. Tôi thèm bia lắm vì lâu rồi không được uống nhưng cố nhịn để
chiều tan sở về mang ra chợ Ông Tạ bán lấy tiền mua quần áo cho 2 con
mặc đi học với chúng bạn nó. Vì sợ “ hớ giá”nên tôi hỏi giá bàn ra,
sau đó thú thiệt có 5 lon bia muốn bán lấy tiền. Lập tức tôi bị chủ
quán mắng mỏ tơi bời;”Nào là thứ quân ở rừng, ở rú mới ra…không biết
làm ăn buôn bán là gì!?. Họ cứ cho tôi là Việt Cộng trong rừng mới ra
vì bộ quần áo công nhân lao động lếch thết tả tơi bụi đất công
trường. Sau cùng chiếc xe đạp bị thủng bánh không tiền vá xe nên phải
đẩy bộ về nhà xa…Chắc vợ con tôi đang đợi ờ nhà và sẽ khóc cho đời
cải tạo vừa bị mắng chửi không thương tiếc của người đời!? Ra tù đi
lảm lao động nô lệ cho chúng tại các nông công trường Đỏ gọi là chính
sách khoan hồng cộng sản. Không được phía Mỹ cho tham gia vào chương
trình tái định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO. Cải Tạo có chết mờ ám
trong thù hằn với Cộng sản cũng không được phía Mỹ quan tâm giúp đỡ,
vì cải tạo dưới 3 năm nên chưa đủ thời gian chịu nhục hình Cộng
sản!?Và cũng chưa đủ kết tội phản bội đồng minh bán đứng VNCH của Hoa
Kỳ vì quyền lợi riêng của nước Mỹ!?
Đến năm 1998 báo chí Cộng sản VN và
truyền thông quốc tế có cả Hoa Kỳ tuyên bố đã tìm được hài cốt mất
tich của 4 phóng viên nhà báo quốc tế mất tích tại VN ở ngả 3 biên
giới trong chiến tranh theo chương trinh Pow+MIA nhân đạo của 2 bên
Viêt-Mỹ. Nhưng thử xét lại trường hợp 4 hài cốt phóng viên này mất
tích ngoài biển khơi, theo với chúng tôi vượt biển tìm đường TỰ-DO
nhưng chẳng may bị đắm chìm trong trận hải chiến chúng tôi, thì thử
hỏi Mỹ và CSVN tìm được gì để thay thế 4 bộ hài cốt phóng viên nơi
rừng núi biên giới Lào! Chẵng qua là hình thức chính trị, ngoại giao
giữa Mỹ và Việt Nam mà thôi!? Chớ có nhân đạo gì với cái chiến tranh
phản bội của người Mỹ và sự dối lừa của CSVN. Nếu tìm dược đầy đủ hài
cốt lính mỹ tại sao phía Hoa Kỳ vài năm sau nầy-2010-lại xin Việt
Nam Cộng Sản cho phép các tàu chiến Mỹ vào tận thềm lục địa ven biển
Việt nam để rà tìm hài cốt lính mỹ mất tích chiến tranh VN theo
chương trình Pow-MIA.Như sư hiểu biết của chúng tôi thì cuộc:
“TRAO TRẢ HÀI CỐT LÍNH MỸ”[ngày 8-4-2011 Đài BBC Việt Namese]”
Theo ông Ron Ward thuộc bộ chỉ huy
phối hợp tìm kiếm người Mỹ mất tích và tù binh chiến tranh [J.Pac]
một số hài cốt tìm thấy trong đợt khai quật tại tỉnh Kom Tum Miền
Trung VN, tại một địa điểm được cho là có liên quan tớii vụ một chiếc
phi cơ chở hàng lớn của Mỹ bị đâm năm 1966. Kể từ khi kết thúc
chiến tranh Vn-1975, phía Vn trao cho Hoa Kỳ 668 hài cốt lính Mỹ mất
tích trong thời gian chiến tranh nhưng vẫn còn 1303 người mất tích
vẫn chưa tìm đưoc trong số 58.169 lính Mỹ chết tại VN. Và phía Vn cho
rằng còn 300.000 bộ đội miền bắc còn mất tích trong chiến tranh”
Sau đây ta hãy nhìn vào con số 1303
lính Mỹ mất tích vẩn còn quá nghi ngại lẫn nhau giữa Mỹ-VNCS qua “Bức
Thư Phúc Đáp Từ Washington State” của Thượng Nghị Sĩ Pam Roach trả
lời ông Đại SứVNCS Nguyễn Tâm Chiền ngày 23-2-2004 theo đường dẩn: thegioinguoiviet.net
còn xin trích đoạn liên hoan đến mất tích 1303 lính Mỹ:
còn xin trích đoạn liên hoan đến mất tích 1303 lính Mỹ:
Hãy nhìn vào sự gắn bó của nước ông
trong hành động buôn bán nô lệ. Nhiều lần trong cuộc Chiến Tranh Đông
Dương lần thứ hai và cả sau đó, nước ông bán người Mỹ, bán đồng minh
và tù binh Việt Nam qua nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang
Xô-Viết. Một bằng chứng, năm 1983, nước ông bán 275 người Mỹ và
27,000 tù binh Việt Nam qua Liên-xô để trừ nợ đã vay trong chiến
tranh. Đây là một vi phạm quá trọng đại đối với nhân quyền và là một
tội ác chống nhân loại. Đã có nhiều lần nước ông bán người Mỹ, đồng
minh và tù binh Việt Nam qua Liên-Xô, nhưng mỗi một lần số lượng không
nhiều lắm.
Nước ông có thể giải quyết nhiều
trường hợp Tù Binh/Người Mất Tích trong khi làm nhiệm vụ một cách dễ
dàng bằng cách mở các hồ sơ quân đội và Công an của nước ông. Nhưng
nước ông đã không làm chỉ vì không có lợi lộc gì trong việc giải
quyết nhân đạo vấn đề tình cảm này. Nước ông tống tiền nước Mỹ cho
lợi nhuận riêng và hưởng thụ. Tại sao? Bởi vì nước ông nhận thấy rằng
Tổng Thống Nixon đã hứa viện trợ tái thiết cho nước ông khoảng 4 tỷ 3
đô-la. Điều này có thể xảy ra, nước ông có thể nhận được số tiền này
một cách dễ dàng, nếu chịu công bố hồ sơ và danh sách tù binh của
nước ông cho các gia đình và cho thế giới. Ít ra việc này cũng có thể
làm giảm nhẹ một phần nào trong số tội ác của nước ông.
Rồi thì ông dám trơ tráo đòi hỏi rằng người Mỹ đừng can thiệp vào công việc nội bộ của ông và đòi vinh danh lá cờ của nước ông. Với hồ sơ của nước ông, lẽ ra ông nên vui mừng là đã không bị đưa ra xét xử bởi một Tòa án Quốc Tế về những tội ác chống nhân loại mà nước ông đã phạm.
Vậy thì, xin đừng can thiệp vào các vấn đề nội bộ của chúng tôi trong việc vinh danh những người đã chết vì Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Xin đừng xen vào để xem làm sao chúng tôi vinh danh những công dân đã đóng góp vào sự an sinh và no ấm của Tiểu bang chúng tôi.
Terrell A. Minarcin
Concerned Citizen for Freedom, Democracy, and Human Rights for Vietnam.
Rồi thì ông dám trơ tráo đòi hỏi rằng người Mỹ đừng can thiệp vào công việc nội bộ của ông và đòi vinh danh lá cờ của nước ông. Với hồ sơ của nước ông, lẽ ra ông nên vui mừng là đã không bị đưa ra xét xử bởi một Tòa án Quốc Tế về những tội ác chống nhân loại mà nước ông đã phạm.
Vậy thì, xin đừng can thiệp vào các vấn đề nội bộ của chúng tôi trong việc vinh danh những người đã chết vì Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Xin đừng xen vào để xem làm sao chúng tôi vinh danh những công dân đã đóng góp vào sự an sinh và no ấm của Tiểu bang chúng tôi.
Terrell A. Minarcin
Concerned Citizen for Freedom, Democracy, and Human Rights for Vietnam.
Với sự đem tàu chiến của Hoa Kỳ vào
bờ biển Việt Nam để rà tìm hài cốt lính Mỹ theo chương trình Pow-MIA
hay là đã có sự đồn đoán của các thuyền nhân Viêt nam tại các trại Tỵ
nạn Đông Nam Á: ”Muốn được Mỹ rước vào Hoa Kỳ định cư phải có hài
cốt lính Mỹ mang theo khi vượt biển để làm giấy thông hành vào đất
Mỹ”.
Quả đúng thật như vậy! và chúng tôi
cũng làm theo lời khuyên của họ đào bới xương tàn lính Mỹ đem
theo;”Vượt Biển Trên Đống Xương Tàn” nhưng chúng tôi người lính VNCH
không thể có hành động vô lương tâm thiếu đạo đức của người Việt Quốc
Gia biết yêu chuộng TỰ-DO DÂN CHỦ HÒA BÌNH không thể phản lại sự hy
sinh xương máu đồng minh đã bỏ mình cho dất nước dân tộc Vm. Chúng
tôi muốn đem hài cốt Mỹ trao lại cho gia đình họ đang mong chờ. Sự
thật muốn trả ơn họ hơn lợi dụng cho quyền lợi sống ích kỷ riêng
mìmh!!! Chúng tôi cũng biết số hài cốt lính Mỹ được thuyền nhân Vn
mamg theo vượt biên rất nhiều chỉ đơn giản muốn trót lọt vào Mỹ định
cư và giúp phía Mỹ mau chóng hoàn thành chương trình Pow-MIA mà không
có mục tiêu chính trị hay trả thù nào theo kiểu CSVN.
Rất tiếc hai bên Mỹ-Việt Cộng mãi quan
tâm về hài cốt hay mất tích của nhau mà quên mất lương tâm nhân đạo
với hài cốt và mất tích của chiến sĩ VNCH miền Nam chết trong tù cải
tạo Cộng Sản 265.000 người còn nằm rải rác khắp núi rừng hoang vu của
Việt Nam và 16.000 bia mộ của binh lính miền nam tại Nghĩa Trang
Quân Đội Biên Hòa bị hoang phế tàn phá không hương khói. Nơi đây xứng
đáng là di tích lịch sử chiến tranhVN cho cả thế giới văn minh biết
tôn trọng người chiến sĩ TỰ DO VNCH có lý tưởng AN NINH và HÒA BINH
Thế Giới. Nhưng Việt Nam Cộng Sản lại khác và bản chất Cộng Sản không
có TỰ-DO là chỗ đó!???
Ba mươi sáu năm qua rồi mà ước vọng Tự-Do vẫn không thành! và Bây giờ trong tôi chỉ còn có mỗi “Quê Hương” cho cuối đời !!!
Chỉ còn là quê hương;...
Quê hương tôi là chuổi ngày chinh chiến,
Tiếng bom rền ru hát suốt canh đêm,
Ru con chiếc bóng chờ bên song cửa,
Đèn tàn hiu hắc mỏim bóng chinh nhân,
khuất nẽo chiều hôm át tiếng bomb rền,
Con thơ mẹ yếu quê nhà xế bóng,
Hỏa châu soi bóng đất mẹ lối về,;
Đường hành quân vạn lối biết về đâu,
Đường về quê cũ hảo châu mờ lệ,
Chỉ là ảo mộng, còn là quê hương,
Tiếng bom rền ru hát suốt canh đêm,
Ru con chiếc bóng chờ bên song cửa,
Đèn tàn hiu hắc mỏim bóng chinh nhân,
khuất nẽo chiều hôm át tiếng bomb rền,
Con thơ mẹ yếu quê nhà xế bóng,
Hỏa châu soi bóng đất mẹ lối về,;
Đường hành quân vạn lối biết về đâu,
Đường về quê cũ hảo châu mờ lệ,
Chỉ là ảo mộng, còn là quê hương,
xox
Chinh chiến tàn rồi gió bụi chiến tranh,
Nắng nhạt hồng phai kiếp sống mong manh,
Lối xưa nhà cũ nay đâu còn nữa,
Mộng hồn non nước thôi phải tan tành,
Quê hương réo gọi vào đời chinh chiến
Cho Tự-Do nhưng ước vọng không thành,
Cong nòng súng gẩy dập vùi chiến đấu,
Tự Do gẩy cánh ta chết không đành,
Nữa hồn chinh chiến đi vào cải tạo,
Nữa mãnh sơn hà tan tác biển khơi;...
Nắng nhạt hồng phai kiếp sống mong manh,
Lối xưa nhà cũ nay đâu còn nữa,
Mộng hồn non nước thôi phải tan tành,
Quê hương réo gọi vào đời chinh chiến
Cho Tự-Do nhưng ước vọng không thành,
Cong nòng súng gẩy dập vùi chiến đấu,
Tự Do gẩy cánh ta chết không đành,
Nữa hồn chinh chiến đi vào cải tạo,
Nữa mãnh sơn hà tan tác biển khơi;...
xox
Bao rừng cay đắng sau hồi chinh chiến,
Bỏ lại quê này mãnh vở quê hương,
"Giải phóng Tụ-do", do tự mình chọn,
Một đời Xã Nghĩa trên cả Tự-Do,
Sáng khoai chiều sắn thỏa đời khát vọng,
Dân chủ bình quyền gái điếm tự do,
Bán thân chuộc đất lấy chồng xứ lạ,
Báo hiếu kiểu nầy nhục quốc vong gia,
"Giải phóng dục tình" nữ lưu Xã Nghĩa,
Còn gì;?...đâu nữa...chỉ là quê hương,
Bỏ lại quê này mãnh vở quê hương,
"Giải phóng Tụ-do", do tự mình chọn,
Một đời Xã Nghĩa trên cả Tự-Do,
Sáng khoai chiều sắn thỏa đời khát vọng,
Dân chủ bình quyền gái điếm tự do,
Bán thân chuộc đất lấy chồng xứ lạ,
Báo hiếu kiểu nầy nhục quốc vong gia,
"Giải phóng dục tình" nữ lưu Xã Nghĩa,
Còn gì;?...đâu nữa...chỉ là quê hương,
xox
Vì đời mà thương;... đem thân chiến đấu;...
Thất bại rồi….sao nỡ lòng nào quên!
Quên chi những đêm nồng an giấc ngủ,
Mặc cho sương gió dạn dày chinh nhân,.
Ơn anh đó tháng ngày trong lao cải,
Mai này rảnh nợ cho em lấy chồng,
"Tiếc hạnh bất phong" lấy chồng Bắc Bộ
Một đời "giải phóng" của tiền tự do,
Nữ lưu bất hạnh một thời mất nước;?...
Còn lại gì một chút cho quê hương!
Thất bại rồi….sao nỡ lòng nào quên!
Quên chi những đêm nồng an giấc ngủ,
Mặc cho sương gió dạn dày chinh nhân,.
Ơn anh đó tháng ngày trong lao cải,
Mai này rảnh nợ cho em lấy chồng,
"Tiếc hạnh bất phong" lấy chồng Bắc Bộ
Một đời "giải phóng" của tiền tự do,
Nữ lưu bất hạnh một thời mất nước;?...
Còn lại gì một chút cho quê hương!
xox
Chuông chùa thúc giục tuần hành phật tử,
Đem Phật xuống đường cản lối Tụ Do,
Kẻng nhà thờ;...Linh Mục đi hốt rác,
Xôn xao báo chí rũ nhau ăn mày,
Sinh viên trí thức những đêm không ngủ,
Mất Tự Do rồi, có mất quê hương;???...
Giật mình chợt tỉnh "Chân Trời Đỏ" máu,
Đêm dài;...cảnh tỉnh điểm tiếng chuông chúa,
Sáng mai héo hắc;... chuông nhà thờ đổ,
Đỏ cả sao trời;...đỏ cả quê hương,
Đem Phật xuống đường cản lối Tụ Do,
Kẻng nhà thờ;...Linh Mục đi hốt rác,
Xôn xao báo chí rũ nhau ăn mày,
Sinh viên trí thức những đêm không ngủ,
Mất Tự Do rồi, có mất quê hương;???...
Giật mình chợt tỉnh "Chân Trời Đỏ" máu,
Đêm dài;...cảnh tỉnh điểm tiếng chuông chúa,
Sáng mai héo hắc;... chuông nhà thờ đổ,
Đỏ cả sao trời;...đỏ cả quê hương,
xox
Trời sao lấp lánh thiên đường Xã Nghĩa,
Dưới trời lệ đổ "ngục đàng' TỰ DO,
Con anh quốc tế làm tròn nghĩa vụ,
Cháu anh trả nợ xung phong núi rừng,
Thế hệ tàn quân cháu con nợ máu,
Lao động công trường Xã Nghĩa cộng nô,
Bán thân nô lệ phận người dân ngụy,
Cho con Cộng Sản một thơi xuất du,
Nhà lầu gái đẹp con tu bản Đỏ,
Tình người hun húc ;...chì còn quê hương,
Dưới trời lệ đổ "ngục đàng' TỰ DO,
Con anh quốc tế làm tròn nghĩa vụ,
Cháu anh trả nợ xung phong núi rừng,
Thế hệ tàn quân cháu con nợ máu,
Lao động công trường Xã Nghĩa cộng nô,
Bán thân nô lệ phận người dân ngụy,
Cho con Cộng Sản một thơi xuất du,
Nhà lầu gái đẹp con tu bản Đỏ,
Tình người hun húc ;...chì còn quê hương,
xox
Rừng xanh biển rộng một màu non nước,
Thác ngàn Bản Giốc nghìn năm mất rồi,
Trấn ải Địa Đầu Nam Quan dời mốc,
Tốp teo biển vịnh "Lai khứ qui Tàu";...
Hoàng, Trường Sa Giọt lệ Việt Nam đổ,
Nước mắt tuôn tràn ngập cả biển Dông,
Trong biển lệ mẹ tìm đường vượt sóng,
Bỏ lại sau lưng mãnh vở tương-tàn,
Biển mặn trề môi nghe hồn chất ngất,
Ta lại nhìn ta;...còn là quê hương;;;...
Thác ngàn Bản Giốc nghìn năm mất rồi,
Trấn ải Địa Đầu Nam Quan dời mốc,
Tốp teo biển vịnh "Lai khứ qui Tàu";...
Hoàng, Trường Sa Giọt lệ Việt Nam đổ,
Nước mắt tuôn tràn ngập cả biển Dông,
Trong biển lệ mẹ tìm đường vượt sóng,
Bỏ lại sau lưng mãnh vở tương-tàn,
Biển mặn trề môi nghe hồn chất ngất,
Ta lại nhìn ta;...còn là quê hương;;;...
xox
Nặng nợ quê hương vượt thuyền không thoát,
Súng đạn nầy;... ta trả lại biển khơi,
Vùi Trong lòng biển ba hài cốt Mỹ;...
Đồng minh chiến hữu trách nhiệm không thành,
Sống lại quê nhà lưu đày kiếp phận,
Đường đời hẹp lối ta lại;... gặp ta;.
Mang thân súng gảy tủi hờn nhục quốc,
Nhìn lại chính mình xác chết Tự Do,
Trần truồng nhân thế;... người đời quên lãng;.
Còn gì;...cho ta,chỉ là quê hươmg,;...
Súng đạn nầy;... ta trả lại biển khơi,
Vùi Trong lòng biển ba hài cốt Mỹ;...
Đồng minh chiến hữu trách nhiệm không thành,
Sống lại quê nhà lưu đày kiếp phận,
Đường đời hẹp lối ta lại;... gặp ta;.
Mang thân súng gảy tủi hờn nhục quốc,
Nhìn lại chính mình xác chết Tự Do,
Trần truồng nhân thế;... người đời quên lãng;.
Còn gì;...cho ta,chỉ là quê hươmg,;...
xox
Bạn bè chiến đấu bỏ đi biền biệt,
Đứa chết trong tù đứa Mỹ rước đi,
Còn tôi ở lại trong cơn chiến bại,
Búa rìu dư luận;...người chối "TỰ-DO",
Nhiều khi bật khóc mà không thành tiếng,;...
Nuốt lệ vào lòng cho cõi chết Tự-Do,
Trời hởi Tụ-Do sao mà đắt thế!???
Pháo hoa chiến thắng chôn vùi mừng vui,
Một đời chinh chiến giọt buồn biết khóc,
Tiếc thương chi;...Chỉ còn;..là quê hương,
Đứa chết trong tù đứa Mỹ rước đi,
Còn tôi ở lại trong cơn chiến bại,
Búa rìu dư luận;...người chối "TỰ-DO",
Nhiều khi bật khóc mà không thành tiếng,;...
Nuốt lệ vào lòng cho cõi chết Tự-Do,
Trời hởi Tụ-Do sao mà đắt thế!???
Pháo hoa chiến thắng chôn vùi mừng vui,
Một đời chinh chiến giọt buồn biết khóc,
Tiếc thương chi;...Chỉ còn;..là quê hương,
xox
Phố cũ lên đèn hoàng hôn tắt nắng,
Buồn trong kỹ niệm đếm lá me bay,
Công viên ghế đá chờ ai muôn thưỡ,
Bạc tình chi lắm hởi;?....thế nhân ơi;?.
Đèn đường hiu-hắc nhòa trong mắt lệ,
Nhớ bóng người xưa nhớ cả chiến trường,
Đường xưa lối cũ Tự- Do khuất tất.
Để lại nơi nầy một bóng hình ai…!
Hình ai khốn khổ lưu đày tổ quốc,
Mang khối tình chung;...chỉ là quê hương.
Buồn trong kỹ niệm đếm lá me bay,
Công viên ghế đá chờ ai muôn thưỡ,
Bạc tình chi lắm hởi;?....thế nhân ơi;?.
Đèn đường hiu-hắc nhòa trong mắt lệ,
Nhớ bóng người xưa nhớ cả chiến trường,
Đường xưa lối cũ Tự- Do khuất tất.
Để lại nơi nầy một bóng hình ai…!
Hình ai khốn khổ lưu đày tổ quốc,
Mang khối tình chung;...chỉ là quê hương.
Huỳnh-Mai
(Quê hương lưu đày)
(Quê hương lưu đày)