" Vùng Kinh Tê Mới "- Lao cải cộng nô !
Việt Nam vận dụng sáng tạo Chính sách kinh tế mới của Lênin để đổi mới
23 Tháng Tư 2014 - 15:23:33
- Làm rõ một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới
- Hội thảo khoa học về xây dựng Đảng qua 30 năm đổi mới
- Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng qua 30 năm đổi mới
(VOV5)-
Tại Việt Nam đang khởi động nhiều hoạt động nhằm tổng kết 30 năm tiến
hành công cuộc Đổi mới. Nhìn lại chặng đường lịch sử với nhiều thành
tựu quan trọng, các nhà lý luận ở Việt Nam cho rằng Việt Nam không thể
Đổi mới thành công nếu không vận dụng sáng tạo Chính sách kinh tế mới
của của Vladimir Ilyich Lenin, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Vladimir Ilyich Lenin
Vladimir Ilyich Lenin
Nhìn
lại tiến trình Đổi mới, hẳn nhiều người Việt Nam không thể quên cả một
thời kỳ dài với tên gọi “Bao cấp”. Suốt những năm 1970 cho đến năm 1986,
sở hữu tư nhân bị triệt tiêu, nhường chỗ cho sở hữu nhà nước và sở hữu
tập thể. Hệ quả tất yếu là sản xuất nông nghiệp trì trệ, tình trạng
thiếu lương thực diễn ra triền miên. Phần lớn nhà máy, xí nghiệp rơi vào
tình trạng “ lời giả, lỗ thật”. Lưu thông phân phối ách tắc, thị trường
rối loạn. Lạm phát đạt tốc độ “ phi mã” kéo dài với chỉ số tăng giá bán
lẻ cả năm 1986 là 774,7%. Đời sống của các tầng lớp nhân dân sa sút
nghiêm trọng. Thời kỳ giáp hạt ở nông thôn, có tới hàng triệu gia đình
thiếu ăn. Tiêu cực xã hội lan rộng, lòng dân không yên…
Nhận thức về Chính sách kinh tế mới của Lenin
Với
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng
sản Việt Nam tháng 12 năm 1986 đã có quyết định đúng đắn về thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội. Đảng đã nhận thức về việc vận dụng và phát
triển sáng tạo những tư tưởng lý luận của Lenin về Chính sách kinh tế
mới (NEP), trước hết là thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần. Năm 1979, Việt Nam đã mời các giáo sư, viện
sĩ , tiến sĩ kinh tế hàng đầu của Liên Xô ( Liên bang Nga ngày nay) sang
truyền đạt cho các cán bộ trung, cao cấp về Chính sách kinh tế mới
(NEP). Đến cuối tháng 12 năm 1982, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội
Trường Chinh, nhóm nghiên cứu về NEP của Việt Nam ra đời. Chuyên gia
kinh tế Võ Đại Lược, một trong những thành viên nhóm nghiên cứu về NEP
thời kỳ đó, nhớ lại: Thời kỳ đầu đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa sang quan hệ hàng hóa- tiền tệ thì Chính sách kinh tế mới NEP
rất quan trọng với hai tư tưởng chính. Một là phát triển quan hệ hàng
hóa, tiền tệ. Hai là sử dụng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước để phát triển
kinh tế. Vào thời điểm lịch sử đấy, nếu ta dùng 2 quan điểm kinh tế hàng
hóa để bác nền kinh tế kế hoạch, nếu không phải là của Lenin thì quan
điểm đó chắc chắn sẽ không được chấp thuận.
Giáo
sư, Tiến sỹ Trần Ngọc Hiên, nguyên Phó giám đốc Học viện Chính trị-
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, người đã dành nhiều thời gian và tâm
huyết để nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lê nin, thì cho rằng: Từ
mộ t nước lạc hậu mà đi lên như vậy thì Chính sách kinh tế mới là
đường đi, không có con đường nào khác. Đó là việc chuyển sang kinh tế
thị trường nhưng cái khó khăn nhất là phải đuổi kịp và ngang mức tiên
tiến trên thế giới. Sau những khó khăn ban đầu thì cũng có một số quốc
gia như Trung Quốc, Việt Nam và các nước Đông Âu chuyển sang kinh tế
thị trường. Vấn đề là vận dụng thế nào con đường tắt này mới là thử
thách nhất đối với các Đảng cầm quyền.
Việt Nam đã thực hiện thành công mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế
Việt Nam đã thực hiện thành công mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế
Vận dụng sáng tạo để phát triển
Tập
trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; thừa nhận sự tồn tại khách quan
các thành phần kinh tế với sự đan xen các loại hình sở hữu, quan tâm
đến lợi ích thiết thân của người lao động…Đó là sự vận dụng của Đảng
cộng sản Việt Nam trên cơ sở Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lenin.
Không những thế, tư tưởng của NEP còn được Đảng cộng sản Việt Nam phát
triển, mở rộng ở một tầm cao mới. Chuyên gia kinh tế Võ Đại Lược nhận
định: Bây giờ chúng ta đã vượt xa tất cả các nội dung của Chính sách
kinh tế mới. Đến năm 1989-1990, chúng ta đã chấp nhận không phải kinh
tế hàng hóa mà là kinh tế thị trường, nâng một tầm cao hơn. Thứ hai,
chúng ta đã mở cửa, hội nhập quốc tế. Còn quan điểm của Lenin mới chỉ
dừng lại ở việc sử dụng chủ nghĩa tư bản trong tô nhượng…Tuy nhiên, NEP
chính là cái gậy để xóa bỏ cơ chế mệnh lệnh, quan liêu, bao cấp, mở
đường cho những quan điểm mới. Nó là cái mũ mà những người cộng sản có
thể chấp nhận được ở thời kỳ khởi đầu cho công cuộc đổi mới.
Công
cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đi được một chặng đường dài, gần cán đến mốc
30 năm. Có được những thành quả to lớn như ngày hôm nay, các nhà lý
luận ở Việt Nam đều thống nhất cho rằng Chính sách kinh tế mới của Lênin
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi
mới, chuyển từ cái cũ sang cái mới với rất nhiều khó khăn, trăn trở./.
Nguồn:http://vovworld.vn/vi-VN/Binh-luan/Viet-Nam-van-dung-sang-tao-Chinh-sach-kinh-te-moi-cua-Lenin-de-doi-moi/232579.vov
THÂN PHẬN VỢ CUẢ MỘT “TÙ CẢI TẠO”
Thanh Minh.
1. DUYÊN PHẬN:
Tôi sanh năm 1929 tại huyện
Bãi Xàu, tỉnh Sóc Trăng, Miền Nam Việt Nam.
Ba tôi làm công chức tại Ty
Bưu Điện của huyện lÿ Bãi Xàu. Thuở đó, dân ta quen gọi chức vụ của ba tôi là
“thầy thông Nhà dây thép”. Ba má tôi sanh được sáu đứa con. Tôi là gái thứ hai,
nhưng dân Miền nam quen gọi là “thứ ba”. Tôi theo học Trường Sơ học Bãi Xàu.
Thời kì đó, nước Việt Nam còn là thuộc địa của Pháp và hầu hết các môn học đều
giảng dạy bằng tiếng Pháp.
Năm 1941, sau khi đậu bằng
Sơ học (Certificat d’études primaires), tôi đi Sài Gòn dự thi vào “Collège des
jeunes filles indigènes”. Về sau trường nầy được đổi tên là Trường Trung Học Gia
Long. Thời may, tôi thi đậu. Thêm một điều may nữa là sau đó ba tôi được điều
động lên làm việc tại Sở Bưu điện Sài Gòn. Thế là, cả gia đình chúng tôi dọn lên
cư trú tại thành phố Sài Gòn.
Lúc tôi 16 tuổi, một bước
ngoặt đau buồn ập đến cuộc đời của tôi. Ba tôi qua đời vì bịnh lao phổi. Trước
khi nhắm mắt, ba tôi xin người chị ruột của ba tôi, mà tôi gọi là cô Sáu, đem
tôi về nuôi, để có thể tiếp tục việc học hành, lý do là gia đình chúng tôi rất
nghèo. Số là, cô tôi có một người con trai duy nhứt, lúc đó là chủ một hãng kem
đánh răng lớn ở Sài Gòn. Đó là Hãng kem Perlon, đối diện chợ An Đông, đường An
Dương Vương, quận 5, Sài Gòn. Ông Huỳnh Văn Xin, Tổng Giám đốc hãng, chính là
anh họ của tôi. Người Miền Nam gọi là “anh cô cậu”, tức là tôi gọi má của anh
Xin là “cô”, và anh Xin gọi ba tôi là “cậu”.
Tôi xin nghỉ học và vô làm
việc trong văn phòng hãng Perlon. Tôi vừa là nhân viên của hãng, vừa là thân
quyến của chủ hãng, cho nên được mọi công nhân trong hãng nể vì. Tôi phụ trách
giữ sổ sách xuất nhập kho nguyên liệu và sản phẩm hoàn thành.
Một thời gian sau, hãng
tuyển một nhân viên mới với nhiệm vụ là kế toán trưởng (chef comptable). Anh nầy
tên là Thạch, 21 tuổi, lớn hơn tôi 5 tuổi, có dáng dấp như một thư sinh, tánh
tình hiền lành, khép kín. Chúng tôi làm chung gần ba năm. Sau đó, chúng tôi đã
kết hôn, với sự đồng ý của hai bên gia đình đàng trai và đàng gái.
Theo quan niệm duy tâm, qua
câu nói: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, có phải chăng, anh Thạch và tôi đã
có duyên nợ từ kiếp trước? Tôi chỉ biết là, trước kia tôi vốn là một cô gái đồng
quê, ở một tỉnh lẻ hẻo lánh, khỉ ho cò gáy. Nếu tôi không có “số” di cư lên Sài
Gòn hoa lệ, thì làm sao mà tôi gặp được anh Thạch, một cư dân của Sài Gòn, chưa
hề bước chân đến tỉnh lẻ, quê hương của tôi?
Sau ngày kết hôn, tôi về
làm dâu nhà anh Thạch, ở Tân Định, quận 1, Sài Gòn. Một thời gian sau, chúng tôi
ra riêng, thuê lại một tiệm tạp hóa có hiệu là “Vũ Lai”, đường Paul Blanchy (nay
là đường Hai Bà Trưng) đối diện chợ Tân Định, thành phố Sài Gòn. Nhờ thuận vợ
thuận chồng và chí thú làm ăn, đầu năm 1952, chúng tôi tậu được một căn phố tại
đường Lê Quang Định, gần chợ Bà Chiểu, Gia Định. Nhờ có điều kiện thuận lợi, tôi
đem hai đứa em của tôi, một gái và một trai, về ở chung, nuôi chúng nó ăn học.
Lúc đó, ba chị em chúng tôi đều mồ côi, cả cha lẫn mẹ.
Lúc đầu chúng tôi buôn bán
nhỏ, chỉ mong kiếm sống, độ nhựt qua ngày. Về sau nhờ tích lũy vốn liếng và phát
triển cơ sở, chúng tôi nhập cảng dây đàn Argentine từ nước Pháp, phân phối độc
quyền trên lãnh thổ Đông Pháp (Indochine Francaise), gồm cả ba nước Việt Nam,
Cao Miên và Lào.
Đang làm ăn trôi chảy,
tháng 12 năm 1952, chồng tôi được lịnh động viên vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức, khóa 2. Chúng tôi đành phải chấm dứt việc kinh doanh, đóng cửa tiệm tạp hóa
và ngưng nhập cảng dây đàn. Sau 22 năm phục vụ trong quân đội, năm 1974 đến tuổi
hưu, chồng tôi được giải ngũ, với cấp bực “Trung Tá Trừ Bị”. Theo qui chế của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó, nếu là trung tá, tuổi trên 49, mà chưa thăng
cấp đại tá, đương nhiên phải giải ngũ. Tiện dịp, hãng kem Perlon của anh tôi
đang cần nhân viên, chồng tôi trở lại làm việc tại hãng này. Làm được khoảng một
năm thì xảy ra biến cố 30-4-1975.
2. LÀM ĐƠN XIN ở TÙ:
Lúc ấy, tuy chồng tôi là
thường dân 100%, nhưng gốc là nhà binh chánh hiệu. Cho nên chồng tôi rất lo âu.
Cuối tháng 5 năm 1975, Việt Cộng ra thông cáo kêu gọi “sĩ quan ngụy” phải đi
“trình diện đăng ký”. Ngày 11-6-1975, báo “Sài Gòn Giải Phóng” số 31 đăng thông
cáo, qui định tất cả “sĩ quan ngụy” phải trình diện đi “học tập cải tạo”. Bảng
“Hướng dẫn cho sĩ quan đi học tập trung” đăng trên báo, nguyên văn như sau:
“Mỗi người đến địa điểm học
tập cải tạo phải mang theo:
- 1 tháng ăn bằng tiền, mỗi
ngày: 300đ x 30ngày = 9.000 đồng.
- 1 ngày 0,7kg gạo, mỗi kí
lô bằng: 220đ x 21 kí = 4.600 đồng.
Tổng cộng bằng = 13,610
đồng.
- Ngày tập trung đầu tiên,
từng người phải mang theo thực phẩm khô để ăn ngày hôm đó, ngày thứ hai nhà thầu
phục vụ cơm nước.”
Hầu hết mọi người đều tin
là chỉ phải đi “học” 30 ngày mà thôi và đinh ninh, khi “mãn khóa” sẽ được trở về
làm ăn với tư cách là một “công dân chân chính”, theo lời hứa của tập đoàn Việt
Cộng gian xảo và tráo trở.
Chồng tôi đưa đơn lên Ban
giám đốc Hãng kem Perlon, xin tạm nghỉ việc một tháng, để đi “học tập cải tạo”
theo lịnh của Cộng Sản Việt Nam.
Kết quả thảm thương là phần
đông sĩ quan quân đội Miền Nam đều bị sập vào cái bẩy do bọn mafia Việt Cộng đã
dụng ý ngụy trang với lời lẽ đường mật, gọi là “chính sách khoan hồng”, để tóm
gọn những người mà trong thâm tâm họ xem như là kẻ thù không đội trời chung của
chúng.
3. GIảI NGŨ RỒI VẪN BỊ ĐI
TÙ
Sau ngày chồng tôi đi trình
diện “đi học” tại trường Trung Học Don Bosco, quận Gò Vấp, Gia Định được khoảng
hai tuần thì nhựt báo “Sài Gòn Giải Phóng” đăng thông cáo bổ túc, cho biết những
sĩ quan chế độ cũ, nếu đã giải ngũ trước ngày 30-4-1975 thì được miễn trình diện
đi “học tập cải tạo” mà chỉ đi “học tập tại chỗ” trong vòng một tuần (?) mà thôi.
Tôi mừng quá, đến trường
Don Bosco, Gò Vấp, xin gặp chồng tôi, nói anh ấy cầm tờ báo, đến văn phòng thủ
trưởng, xin được trở về nhà, để theo khóa học tại địa phương. Tôi có đem theo tờ
“chứng chỉ giải ngũ” của chồng tôi để làm bằng chứng là chồng tôi đã giải ngũ
ngày 31-3-1974, tức là trước ngày 30-4-1975 trên 1 năm.
Tên cán bộ cầm tờ báo vào
trình thủ trưởng của y. Một chập sau, anh ta trở ra, phán một câu “xanh dờn”:
“Lãnh đạo nói, trình diện học tập là tốt, lỡ đi rồi thì nên đi luôn, cho thông
suốt chính sách nhà nước. Trước sau gì cũng sẽ được ra trại mà.” Tôi nghe nói,
bủn rủn tay chân. Hy vọng chồng được tha cho về nhà bổng chốc tan tành như mây
khói”.
4. KHÔNG MẤT NHÀ NHỜ TẤM
LÒNG NHÂN ÁI
Trong thời gian chồng tôi ở
tù, ở nhà hai mẹ con tôi sống thui thủi. Con của chúng tôi lúc đó được 11 tuổi.
Nhà ba từng lầu, rộng thênh thang khiến tôi cảm thấy cô đơn và lo sợ đủ chuyện.
Đứa em trai kế của tôi, tên
Huỳnh Tương Đương, đại úy binh chủng Thiết Giáp cũng đã đi tù “cải tạo” như
chồng tôi. Gia đình cậu em nầy gồm hai vợ chồng và tám đứa con, trong suốt thời
gian tại ngũ, vì chưa có tiền tậu nhà riêng, nên phải cư trú tại các trại gia
binh. Sau ngày 30-4-1975, họa vô đơn chí, vợ của Đương bị bạo bịnh và qua đời.
Vì không có nhà cửa cố định, nên tám đứa con sống lây lất tại một gian nhà cất
dựng tạm bợ trên lề đường tại Đồng Ông cộ, quận Bình Thạnh, Gia Định.
Nghĩ tình ruột thịt, tôi
đem tám đứa cháu, gọi tôi bằng cô, mồ côi mẹ trong lúc cha thì đi tù, về cho tá
túc tại nhà tôi. Tôi nào có biết trước được là, về sau tôi gặp một điều may hiếm
có trên đời. Điều may đó là: Trong chiến dịch Việt Cộng “cướp” nhà của những nhà
tư sản Miền Nam, tôi đã thoát nạn trong đường tơ kẻ tóc. Bọn cán bộ địa phương
đến đo diện tích tất cả nhà tư nhân “ngụy” trong phường khóm. Luật lệ của chúng
là: Nếu diện tích lớn hơn tiêu chuẩn ấn định so với số người trong “hộ khẩu” (tờ
khai gia đình) thì Việt Cộng sẽ áp dụng hai biện pháp như sau: Một là Việt Cộng
sẽ ghép cho cán bộ Cộng Sản vào ở chung nhà với mình. Hai là, chúng sẽ tịch thu
nhà của mình và cấp cho một căn nhà khác nhỏ hơn. Hú hồn! Nhờ số người trong nhà
tôi tăng từ hai lên mười người, cho nên nhà tôi không bị Việt Cộng tịch thu.
5. KHÔNG MẤT NHÀ NHỜ KHÔNG
PHảI LÀ TƯ SảN
Nhà tôi ở mặt tiền đường Lê
Quang Định, Gia Định. Vào thời điểm 30-4-1975, chúng tôi đang khai thác một tiệm
tạp hóa ngay tại nhà. Sau ngày Miền Nam lọt vào tay Cộng Sản, thị trường thương
mãi tại Sài Gòn bị tê liệt. Sài Gòn có một bộ mặt tiêu điều, quang cảnh gây cảm
giác hoang tàn, trông giống như một thành phố “chết”. Các cơ sở thương mãi của
tư doanh (nhà xuất nhập cảng, ngân hàng, nhà hàng, khách sạn, rạp hát, tiệm buôn...)
đóng cửa im lìm. Vì ảnh hưởng dây chuyền, các tiểu thương như chúng tôi cũng bị
vạ lây. Hàng mua vô không có, lấy gì để bán? Mỗi ngày mở cửa hàng suốt ngày ngồi
“ngáp ruồi” sao?
Tôi đến phường xin trả môn
bài, để đóng cửa tiệm một cách chánh thức, hợp lệ và hợp pháp. Phường không chấp
thuận nhưng không nêu lý do và bảo phải tiếp tục mở cửa tiệm buôn bán bình
thường. Sao kỳ vậy? Quyết định vô lý nầy khiến tôi thắc mắc, không hiểu nổi thâm
ý của Cộng Sản. Tôi nghĩ, thông thường, việc xin môn bài buôn bán là chuyện khó,
vì phải có một số điều kiện. Trái lại, việc nghỉ bán, đóng cửa tiệm là quyền của
thương gia.
Tuy cán bộ phường không
chấp nhận trả môn bài, tôi nhứt quyết dẹp tiệm. Qua ngày hôm sau, tôi đóng cửa
tiệm. Về hàng hóa còn tồn động, tôi dự trử để xài lần hồi. Cả tủ kệ dùng để
chưng hàng hóa, một phần đem cho bà con lối xóm, một phần đem vô nhà kho cho
khuất mắt bọn cán bộ phường. Phía trước thì trang trí lại, có xa lông tiếp khách,
có bàn ăn. Độ một tháng sau, Cộng sản phát động chiến dịch “đánh tư sản”. Các
tiệm buôn lớn nhỏ đều bị liệt kê vào danh sách “tư sản mại bản”. Chủ nhân và cả
gia đình được lịnh phải ra đi và nạp nhà lại cho phường “quản lý”. Ai không chấp
hành lịnh sẽ bị bắt giam như kẻ tù tội. Trong lúc đó, nhà của chúng tôi được xem
như nhà ở, không thuộc diện tự sản, nên không hề hấn gì.
Cũng cần nói thêm, dưới chế
độ cộng sản, tất cả các hình thức hoạt động kinh tế và thương mãi đều do Nhà
nước điều khiển và quản trị. Đó là chánh sách “kinh tế chỉ huy” của cộng sản.
Nói cách khác, các nhà tư sản hoạt động trong nền “kinh tế thị trường” (tức là
thị trường tự do của các nước tư bản) là kẻ thù mà cộng sản phải tiêu diệt.
Tại khu phố chúng tôi gần
chợ Bà Chiểu, vài đại thương gia có tiếng tăm là nạn nhân của chiến dịch “đánh
tư sản”. Toàn bộ gia đình của những nhà tư sản đều bị trục xuất ra khỏi nhà:
1/ Ông Tám Yến, chủ nhân
một tiệm cầm đồ (vàng, nữ trang).
2/ Ông Lê Văn năm, chủ tiệm
Mỹ Hương, bán loại thực phẩm cao cấp.
3/ Ông bà chủ tiệm MIMI,
hành nghề uốn tóc.
Tại thành phố Sài Gòn, hầu
hết các nhà tỉ phú đều bị “cướp” tài sản và họ phải bỏ chạy ra hải ngoại. Xin kể
vài vị tiểu biểu:
1/ Ông Huỳnh Văn Xin, giám
đốc hãng kem Perlon.
2/ Ông Nguyễn Tấn Đời, giám
đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng.
3/ Ông Nguyễn Hùng Trương,
chủ nhà sách và nhà xuất bản Khai Trí.
Lúc đó, tôi mới vỡ lẽ, hiểu
rõ lý do mà trước kia đơn xin trả môn bài của tôi không được cộng sản chấp thuận.
6. BÁN ĐỒ GIA DỤNG ĐỂ SANH
TỒN
Lúc còn trẻ, tôi thường
nghe ông bà khuyên bảo: “ở không hoài, ăn mãi thì núi cũng lỡ”. Từ ngày Việt
Cộng cướp Miền Nam, tôi thấp thỏm lo âu. Chồng tôi đã đi tù còn tôi thì không có
nghề ngỗng gì hết. Buôn bán thì bị cấm đoán, bây giờ phải làm gì để sống đây?
Cũng như hầu hết bà con lối xóm, tôi đành bóp bụng, đem đồ đạc trong nhà, thứ gì
bán được, lần hồi bán đi, để kiếm chén cơm. Chén bát, son chảo, lò ga, tủ lạnh,
đồng hồ đeo tay, đồ nữ trang... từ từ đội nón ra đi. Vừa bán vừa cảm thấy xót xa,
đau đớn, thương tiếc mấy thứ tư trang mà trước kia mình đã nưng niu, giữ gìn với
một tình cảm yêu quí.
7. LUẬT RỪNG
Năm 1955, lúc làm ăn buôn
bán, chúng tôi có sắm một chiếc xe hơi cũ, kiểu du lịch (từ ngữ Miền Bắc gọi là
xe con) hiệu volkswagen, để làm phương tiện đi chuyển và chở hàng hóa. Nhờ nhà
rộng rãi, gồm ba căn phố, chúng tôi dành riêng phần diện tích phía trước của một
căn, làm ga-ra, cất chiếc xe vào nhà.
Thời kì đó, nước ta còn
nghèo, rất ít người sắm xe hơi, cho nên những ông chủ địa ốc, xây cất nhà cho
thuê, không hề dự trù diện tích riêng cho xe hơi (parking).
Sau ngày 30-4-1975, công an
khu vực của phường đi kiểm tra từng nhà để làm hộ khẩu (sổ gia đình), thấy vài
ba người ở xóm tôi có để xe hơi trong nhà. Bọn chúng phán ngay một chỉ thị trong
“bộ luật rừng” của chúng: “Nhân dân hiện nay, nhiều người không có nhà ở, thế mà
“chị” lại để xe trong nhà. Tất cả xe ô-tô của tư nhân phải đem lên phường giao
lại cho nhà nước quản lý. Kỳ hạn vài hôm, cá nhân nào không thi hành, phường sẽ
cho người đến tịch thu”.
Bà con lối xóm có xe hơi
phản ứng mỗi người một cách để đối phó với “luật rừng” của cộng sản. Có hai vị
chủ xe tình nguyện xin vào làm việc tại phường với nhiệm vụ là tài xế cho hợp
tác xã và cho phường mượn luôn chiếc xe của mình. Phường thấy có lợi nên ưng
thuận. Một vị khác đem xe gời thân quyến đã đi theo “cách mạng” (tức cộng sản)
giữ giùm. Một vị có sáng kiến rất độc đáo. Ông ấy đội xe lên, tháo gỡ bốn bánh
xe và luôn cả bình điện, đem đi gởi nhà bà con ở nơi khác. Cán Bộ đến khám nhà,
thấy xe không sử dụng được, đành phải bỏ đi. Riêng tôi, phận đàn bà thua kém,
không biết ứng phó cách nào cho thích đáng, đành phải nhờ người giới thiệu, đem
bán rẻ cho một anh cán bộ. Thà không có xe đi mà có một ít tiền xài, chớ dại gì
đem giao cho phường quản lý, kể như mất toi luôn.
8. ĐAN MÂY TRE TẠI NHÀ
Trong chánh sách cai trị
của Việt Cộng, họ luôn luôn chủ trương thể thức sản xuất tập thể. Tất cả người
dân làm bất cứ ngành nghề lớn nhỏ gì cũng phải vào nghiệp đoàn. Mục tiêu của họ
là kiểm soát lợi tức (từ cộng sản gọi là thu nhập) của từng người dân. ở nông
thôn, làm vườn, làm ruộng phải vào tập thể. ở thành thị, làm nghề hớt tóc, chạy
xe ôm cũng phải vào nghiệp đoàn. Cộng sản muốn nắm hầu bao của mọi người. Nói
nôm na là, cộng sản không muốn cho người dân giàu lên để trở thành nhà tư bản.
Đây là chánh sách bần cùng hóa nhân dân của cộng sản Việt Nam. Dân càng nghèo
thì cộng sản càng dễ dàng xỏ mũi và sai khiến.
Với chủ trương sản xuất tập
thể nói trên, phường tại địa phương tôi thành lập một “tổ hợp sản xuất mây tre”
và bắt buộc tất cả vợ của sĩ quan bị bắt đi tù phải gia nhập vào tổ hợp nầy.
Trong xóm, tôi là người tương đối khá giả, có nhà rộng rãi mà ít người ở, cho
nên phường cho cán bộ đến gặp tôi, nói là “tạm mượn mặt bằng” để cho chị em
người dân thấp cổ bé miệng, khó mà từ chối. Với lại, mình giúp cho phường mượn
địa điểm, biết đâu chừng sau nầy, mình có cần việc gì, họ có thể dễ dãi với mình
chăng. Do đó, bất đắc dĩ, tôi phải ưng thuận.
Sau đó, phường lo tất cả
mọi việc, cho người đi mua mây tre tại các vùng quê như là Bà Điểm, Hóc Môn, đem
về dự trử tại nhà tôi, cho cán bộ chuyên nghiệp đến huấn luyện chị em trong tổ
hợp cách thức đan giỏ. Phường cũng tự lo đem đi bán hàng hóa sản xuất được. Cuối
cùng, họ đem tiền phân phát trả công cho chị em, tùy theo số lượng sản xuất của
từng người. Họ ban phát bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, chứ không ai dám hỏi tình
hình chi thu ra sao. Tôi nghĩ, đây là một sự bốc lột sức lao động tinh vi của
chế độ cộng sản.
9. ÁP LỰC ĐI VÙNG KINH TẾ
MỚI
Một thời gian sau, có lịnh
bắt buộc “dân ngụy” đi các “vùng kinh tế mới”. Tức là đi khai phá các vùng đất
hoang vu trở thành đất đai sử dụng được vào sản xuất để phát triển đất nước. Đây
là một mánh khóe của Việt Cộng để diệt tư sản. Một mũi tên nhắm vào hai mục tiêu.
Một là đuổi “ngụy” ra khỏi thành phố để tịch thu nhà cửa, hai là để đày đọa và
bần cùng hóa dân Miền Nam, mà Việt Cộng cho là kẻ thù truyền kiếp của bọn chúng.
Công an khu vực đến từng
nhà khuyến dụ: “Vợ sĩ quan nào có chồng đã đi “cải tạo” nay nếu tự nguyện đi
“kinh tế mới” thì “cách mạng” sẽ thả chồng về. Tôi liều mạng trả lời: “Thả chồng
tôi về thì tôi sẽ đi liền. Tôi ốm yếu như vầy, đang ở với thằng con 11 tuổi, nay
đi “kinh tế mới” làm được việc gì để sống đây?” Kết quả là số đông trong phường
không hưởng ứng lời kêu gọi của cán bộ. Thấy sự việc rỉ tai khó thuyết phục,
phường ra thông báo, bắt buộc tất cả vợ sĩ quan “ngụy” phải lên phường họp để
“đăng ký” đi vùng kinh tế mới. Vợ sĩ quan, ai cũng ngán và sợ cộng sản, nên tất
cả đều đi họp rồi tùy cơ ứng biến, chớ không ai dám ở nhà.
Tại phòng họp, tên đại úy
công an chủ tọa trình bài mục đích “tốt đẹp” của vùng kinh tế mới và yêu cầu,
gần như bắt buộc, mọi người phải lên bàn chủ tọa, ký tên vào mẫu giấy để sẵn
trên bàn là đồng ý đi “kinh tế mới” thì nhà nước sẽ cứu xét thả chồng về ngay.
Tên công an nhấn mạnh thêm: “Nhà nước nói gì, nhân dân phải thi hành, không được
trả giá”. Ý muốn nói là nhân dân không được đặt điều kiện. Một số vợ sĩ quan
nghe nói ngọt, cả tin vào lời đường mật của Việt Cộng, lần lượt đi lên bàn của
tên chủ tọa, ký tên đồng ý đi.
Riêng tôi, không hiểu sao
tôi dám liều lĩnh, rủ vài chị bạn cùng xóm, chẳng những không lên ký tên mà còn
lặng lẽ bỏ ra về. Mấy tên công an, gác cửa phòng họp, chận lại và hỏi: “Mấy chị
ký tên chưa mà ra về vậy?
“ Tôi dứt khoát trả lời:
“Thả chồng tôi về tới nhà thì tôi sẽ đi ngay”. Tôi vừa nói vừa kéo tay mấy chị
bạn rảo bước đi nhanh. Bọn công an giữ trật tự nhìn chúng tôi, không phản ứng.
Tôi nghĩ bụng, nếu mình cứng cỏi thì họ để yên, bằng không nếu mình yếu thế thì
họ sẽ lấn tới.
Kết cuộc, một số đông gia
đình đi kinh tế mới, sống lầm than nhiều năm tháng mà người chồng gia trưởng vẫn
biệt tăm biệt tích. Trong lúc đó, nhà của mình bị Việt Cộng tịch thu và cấp cho
cán bộ đến cư trú. Đây là một cú lừa ngoạn mục mà Việt Cộng đã thành công “vượt
chỉ tiêu”, sau khi đã tóm gọn hầu hết sĩ quan “ngụy” vào cái rọ cải tạo.
10. EM TÔI ở PHÁP
Khi mới đi tù, chồng tôi bị
giam tại trại Long Giao, tỉnh Long Khánh. Nửa năm sau, được chuyển về trại Tân
Hiệp (cũng gọi là Suối Máu), tỉnh Biên Hòa. Sau đó, được chuyển ra Bắc Việt, lần
lượt giam tại hai trại Hoàng Liên Sơn và Vĩnh Phú.
Ngày vô tù thì có, trái lại
ngày mãn tù thì mù tịt. Trong những tháng năm chồng tôi ở tù, tinh thần tôi suy
sụp trầm trọng, ngày đêm chỉ biết vái van, cầu Trời, khẩn Phật cho chồng tôi sớm
được ra tù.
Trong lúc tinh thần sa sút,
tôi được thơ của cậu em trai, Huỳnh Sĩ Nguyên, định cư tại Pháp từ năm 1976,
đang giữ chức vụ Chánh văn phòng của Tổng trưởng Thông tin trong chánh phủ Pháp.
Em tôi khuyên tôi nên gởi giấy tờ hộ tịch của tôi và đứa con, để làm thủ tục bảo
lãnh qua Pháp. Cậu em lý luận: “Anh Ba (tức chồng tôi) ở tù cộng sản, mình đâu
có biết ngày nào được thả, với lại chị làm sao sống nổi với tụi cộng sản được!
Tụi nó toàn xài luật rừng” Tôi viết thơ hồi âm, từ chối ngay, không chút lưỡng
lự. Tôi nghĩ, chồng mình đang bị hoạn nạn, mình nỡ lòng nào mưu tìm sự sung
sướng cho riêng mình.
11. MỘT MỐI TÌNH ĐƠN PHƯƠNG
Năm 1979, lúc chồng tôi ở
tù được bốn năm, một hôm, anh Thành, một người bạn học ngày xưa cùng trường tiểu
học ở Sóc Trăng, đến nhà tôi cho biết một tin, làm tôi hết sức sững sờ. Số là,
hồi tôi còn ở tuổi học trò ở quê nhà, có anh bạn học cùng lớp, tên Nhẫn, đã thầm
yêu tôi nhưng chỉ giữ kín trong lòng. Sau biến cố năm 1945, Nhẫn đi theo kháng
chiến chống Pháp, nay mang quân hàm Thiếu tá Việt Cộng và đang phục vụ tại Sóc
Trăng. Nay, sau trên 30 năm mất liên lạc, Nhẫn đã nhờ Thành, đang cư trú tại Sài
Gòn, thăm dò xem tình trạng gia cảnh của tôi để thực hiện mối tình đơn phương
năm xưa mà Nhẫn vẫn còn ôm ấp trong lòng.
Hôm đó, sau khi nghe Thành
trình bày mục đích của cuộc gặp gỡ, không chút lưỡng lự, tôi trả lời ngay:
“Thành về nói lại với Nhẫn là anh ấy nên kiếm vợ, làm ăn với người ta. Còn tôi
thì nay đã có chồng con. Chồng tôi đang ngồi tù tận ngoài Bắc và tôi đang chuẩn
bị đi thăm nuôi đây. Tối với Nhẫn chẳng có duyên nợ gì hết, xin đừng trông mong
hảo huyền nữa”.
Trong thâm tâm, tôi đã có
một ý nghĩ dứt khoát. Vợ chồng tôi đã ăn ở với nhau ba chục năm nay, tình nghĩa
thắm thiết. Vừa rồi, em ruột tôi tự nguyện bảo lãnh tôi đi Pháp, tôi đã từ chối.
Nay, làm sao tôi có thể chia tay với một người chồng đã từng sóng chung rất đầm
ấm để đi lấy chồng khác. Theo truyền thống gia giáo từ ngàn xưa, con gái Việt
phải chính chuyên, một lòng chung thủy, một chồng một vợ mà thôi.
12. SUÝT BỊ LƯỜNG GẠT
Sau khi chồng tôi được
chuyển ra các trại giam ở Bắc Việt khoảng bốn năm, một hôm có một phụ nữ Miền
Bắc đến nhà tôi, tự giới thiệu y là một cán bộ đang phục vụ tại trại cải tạo
Vĩnh Phú, nơi chồng tôi đang “học tập”. Y nói tiếp là, chồng tôi nhờ y thị, nếu
có đi công tác vào thành phố Hồ Chí Minh thì giúp giùm đến nhà tôi, bảo tôi gởi
ra anh ấy một cái đồng hồ đeo tay, một vài bộ quần áo ấm, và chút ít tiền, tùy
theo khả năng. Y nói thêm, nếu có sẵn thì tốt, bằng không thì cho biết hôm nào
có, cô ta sẽ trở lại nhận để đem ra Bắc giao lại cho chồng tôi.
Tôi nghĩ, đúng cô ta là cán
bộ phục vụ tại trại mà chồng tôi đang bị giam cho nên mới biết rõ tên họ và địa
chỉ của chồng tôi ở Sài Gòn. Tuy nhiên, tôi vẫn bán tín bán nghi. Có thật chồng
tôi có nhờ vả cô ta điều mà cô trình bày không? Điểm nầy đáng nghi ngờ. Rất may,
tôi chợt nhớ lại, xưa kia, trong thời gian chồng tôi vào quân đội, phục vụ ở xa
nhà, chồng tôi thường dặn dò: “Nếu anh có cần gì thì anh viết thơ đàng hoàng. Em
phải cẩn thận, xem tuồng chữ và chữ ký. Để đề phòng những người lạm dụng lòng
tin, làm những việc không tốt”. Nhờ vậy, tôi từ chối khéo: “Chồng tôi có viết
cho tôi một lá thơ nào không?” Cô cán bộ sừng sộ, nói như gây gổ: “Chị không tin
tôi là cán bộ tại trại mà anh ấy đang học tập sao?” Tôi điềm đạm đáp: “Tôi tin
cô, nhưng tôi cần có vài giòng chữ của chồng tôi để làm bằng cớ”.
Cô cán bộ phân bua om sòm,
lối xóm ra xem rất đông. Tôi vẫn giữ lập trường, im lặng, không trả lời. Một
chập sau, cô ta bẻn lẻn bỏ đi.
Về sau, được biết lối xóm ở
phường tôi, có vài người, có con đi “cải tạo” ở Bắc, đã bị cán bộ đến nhà lừa
đảo, tương tợ như cô cán bộ đến gặp tôi.
13. ĐI THĂM NUÔI
Cuối năm 1979, trong lúc
chồng tôi đang bị giam tại trại Vĩnh Phú, Bắc Việt, tôi “được phép làm đơn” xin
thăm nuôi. Làm đơn xin thăm nuôi, phải chờ có thông báo, không phải lúc nào muốn
nộp đơn là được chấp nhận. Ngày nhận được giấy phép cho đi thăm nuôi, tôi quá
đổi vui mừng. Nhưng vừa mừng lại vừa lo. Lúc đó, trong nhà đâu còn tiền. Mấy năm
vừa qua, tôi đã bán sạch bách tất cả của nổi, tức là đồ đạc và tư trang trong
nhà để sống tới nay. May quá, chúng tôi một ít của chìm. tức là chúng tôi đang
là sở hữu chủ ba căn phố. Tôi đành bấm vụng, bán bớt một căn cho người hàng xóm,
để có tiền đi thăm nuôi.
Tôi đi với đứa con trai và
rủ hai chị bạn lối xóm cùng đi. Hai chị nầy có chồng ở tù cùng một trại với
chồng tôi. Đi xe lửa xuyên Việt từ Sài Gòn ra Hà Nội mất hết ba ngày hai đêm. Xe
lửa chật như nêm, tôi phải ngủ ngồi trên chiếc băng gổ, còn thằng con thì trải
bạ, nằm ngủ trên sàn xe. Con tôi, năm đó 15 tuổi, mua vé loại giảm giá cho trẻ
em. Khi lên xe, tên công an giữ an ninh, thấy vóc dáng con tôi cao lớn, hỏi con
tôi mấy tuổi. Tôi nói, nó 15 tuổi. Tên nầy nghĩ rằng, tôi khai gian tuổi để mua
vé giá rẻ dành cho trẻ em. Anh ta sừng sộ, bảo trình “chứng minh nhân dân” để
kiểm chứng.
Đến Hà Nội lúc chiều tối,
chúng tôi thuê phòng trọ, ngủ một đêm. Sáng hôm sau, tôi đi chợ mua bánh chưng
và trái cây tươi, để phụ thêm thực phẩm đem từ Sài Gòn như sữa hộp, cá chà bông,
mấm ruốc xào, muối đậu phộng...
Lạ nước lạ cái, không biết
chợ búa ở đâu, chúng tôi gọi xe xích lô chở đi. Chú xa phu chở tôi và đứa con,
nói một hơi, làm cho tôi ngạc nhiên. Anh ấy nói: “Tôi thấy mấy bà, biết ngay là
người Sài Gòn ra đây để thăm mấy ông đi “cải tạo”. ở trong đó, sao mấy ông dở
quá? Tụi nầy ở Bắc trông mong mấy ông ấy ra giải phóng Bắc Việt. Thế mà nay có
chuyện ngược đời. Thương hại cho mấy ông ấy!” Tôi làm thinh, không biết trả lời
thế nào đây.
Chồng tôi bị giam ở trại
Vĩnh Phú/K5, ở mạn Bắc Hà Nội. Nghe nói, đi bộ từ Hà Nội đến trại phải mất một
ngày trời. Năm đó, tôi 50 tuổi, già yếu nhưng luôn tâm niệm là phải cố gắng. Tôi
thuê xe ba gác, chở cái rương sắt đựng thức ăn, quần áo, thuốc men. Anh phu xe
đi trước, tôi và thằng con lẻo đẻo theo sau. Đến trại thì trời đã xế chiều.
Chúng tôi được phép ngủ đêm lại tại một gian nhà tranh dành riêng cho khách thăm
nuôi.
Sáng hôm sau, chúng tôi
được hướng dẫn đến phòng thăm nuôi. Tôi trình giấy phép. Cán bộ cầm giấy tờ lên
văn phòng. Một chập sau trở lại, cho biết là, chồng tôi đã chuyển đi K1 gần một
tháng rồi. Lúc tôi làm đơn xin đi thăm thì chồng tôi còn ở K5. Tôi bàng hoàng,
choáng váng, đứng không vững, như muốn té quÿ xuống đất. Cán bộ cho biết, trại
K1, nơi chồng tôi đang bị giam, ở cách trại K5 khoảng 10 cây số.
Tôi lại phải thuê xe ba gác,
cùng với thàng con lội bộ thêm nửa ngày, đến xế chiều mới tới K1. Lại ngủ thêm
một đêm thứ hai tại nhà khách lạnh lẽo. Sáng hôm sau, chúng tôi được hướng dẫn
đến phòng thăm nuôi. Tại đây đã có mặt vài anh cán bộ. Nhờ chiều hôm trước, khi
vừa đến trại, tôi đã có trình giấy phép thăm nuôi, nên sáng hôm đó, chồng tôi
được miễn xuất trại đi lao động và được hướng dẫn đến phòng thăm nuôi để gặp
chúng tôi.
Trong phòng, có một bàn gỗ
dài cỡ ba thước và 2 cái băng dài. Anh cán bộ ra dấu, bảo tôi và đứa con ngồi
một bên và chồng tôi ngồi đối diện. Có nghĩa là hai vợ chồng không được ngồi
cạnh nhau. Còn anh cán bộ thì ngồi bên phía chồng tôi để theo dõi cuộc nói
chuyện.
Chúng tôi biết ý, chỉ hỏi
thăm về sức khỏe, chỉ nói chuyện liên quan đến gia đình mà thôi. Đâu dám nói
chuyện gì khác, rủi bị cán bộ đuổi về sớm thì mang họa. Tôi giao cho chồng tôi
cái rương sắt nhỏ, đựng đủ thứ thức ăn và đồ dùng. Tôi dặn chồng tôi, có cần gì
thì viết thơ cho biết.
Sau gần năm năm đi tù,
chồng tôi thay đổi quá nhiều. Thân hình ốm nhom, nước da đen đúa, mặt mày bơ thờ.
Trông tội nghiệp quá. Tự nhiên nước mắt tôi trào ra, tôi vội lấy khăn lau. Tôi
cố cắn răng, cầm cho khỏi hóc nấc lên. Trời ơi! Sao tôi bị đày đọa, bị bắt phải
chịu cảnh sống khốn khổ quá vậy?
Nói chuyện sơ sơ, khoảng
nửa giờ thì tên cán bộ nói đã hết giờ qui định rồi. Tôi nói lới chia tay mà nước
mắt ràn rụa. Tôi cảm thấy đau nhói trong tim, muốn la lên kêu Trời cho đỡ đau
khổ.
Trên đường về Hà Nội, chúng
tôi sử dụng nhiều phương tiện di chuyển: đi bộ, đi thuyền và đi xe lửa. Đến Hà
Nội, chúng tôi thuê phòng trọ ngủ đêm. Sáng hôm sau, đi xe lửa xuyên Việt về Sài
Gòn.
14. SUÝT BỊ LƯỜNG GẠT LẦN
THỨ HAI
Thăm chồng về được vài
tháng, một hôm có một thanh niên đến nhà tôi, cũng tự xưng là cán bộ tại trại
Vĩnh Phú. Cũng giống như cô cán bộ đến nhà tôi lần trước, anh ta nói, chồng tôi
nhờ anh ấy, trong dịp đi công tác vào Nam, đến nhắn bảo tôi tiếp tế thực phẩm,
quần áo và tiền bạc.
Tôi biết ngay là anh cán bộ
này nói dối. Là vì, trong chuyến thăm chồng tôi vừa rồi, tôi đã tiếp tế đầy đủ
những thứ mà anh ta vừa mới nói. Tuy nhiên, với bản chất ôn hòa, tôi không muốn
tranh cãi với người dưng nước lã làm chi. Có thể, cả đời mình, chỉ gặp họ một
lần mà thôi. Tôi từ chối khéo: “Cám ơn anh rất nhiều, đã chịu khó đến nhà tôi.
Nhưng tôi sắp sửa đi thăm nuôi chồng tôi cho nên không dám làm phiền anh”. Thế
là tôi đã thoát nạn lần thứ nhì. Nếu dễ tin thì đã bị lường gạt.
15. NGÀY TRở VỀ
Buổi tối, ngày 30-4-1980,
tôi và đứa con đang ngồi ăn cơm, thì chồng tôi bước vô nhà. Trông chồng tôi gầy
ốm, đen đúa, quần áo lếch thếch, lưng đeo ba lô. Đâu còn phong độ của thời huy
hoàng ngày xưa. Tôi sững sờ, đánh rơi đủa chén, líu lưỡi, không nói nên lời.
Chồng tôi cho biết, anh ấy
đã được trả tự do vài ngày trước đây. Ra trại Vĩnh Phú, anh ấy về Hà Nội, ngủ
ngoài trời một đêm tại sân ga xe lửa. Ngay khi tới Hà Nội, anh ấy đã đến bưu
điện, gởi điện tín báo tin mừng, một ngày trước lên xe lửa về Na. Xe chạy từ Hà
Nội vô Sài Gòn mất thêm hai ngày nữa. Thế mà, điện tín lại đi chậm hơn xe lửa.
Do đó, sự xuất hiện của chồng tôi đã đem lại cho tôi một sự mừng rỡ, một hạnh
phúc bất ngờ, tưởng chỉ có trong giấc mơ mà thôi.
Tôi đề nghị hai đứa ra phố
ăn cơm tiệm để mừng ngày thoát cảnh tù đày. Chồng tôi nói: “Thôi! Ăn cơm tù
nhiều năm quen rồi, bây giờ có ăn cơm nguội cũng sướng như tiên rồi”. Đúng là bị
méo mó nghề nghiệp ở tù.
Lúc ấy, tiếng nhạc cát-xết
nhà bên cạnh vọng sang văng vẳng:
Em vẫn chờ khi nào anh về,
Dù cho bao năm bao tháng lê
thê.
Xuân tới, hè sang rồi thu
lạnh lùng
Vẫn bền lòng một nỗi nhớ
nhung.
Thanh Minh.
Nguồn: http://phaobinhvnch.com/thanphanvotucaitao.htm
Vào một đêm không trăng, không sao, chính quyền mới – Cộng Sản, tự phong mình là đỉnh cao trí tuệ, họ đã nghĩ ra một quái chiêu – cướp nhà.
Họ đã xuất chiêu. Gia đình tôi đã lãnh đủ, chúng tôi không được chọn lựa ở trong nhà của mình, trong lúc ba tôi đi học cải tạo. Chị em tôi phải xếp bút nghiên theo diện cha con. Gia tài của chúng tôi – nồi niêu xoong chảo và mấy bộ quần áo còn sót lại, sau khi gia đình tôi bị bắt vì vượt biên vào mùa hè năm 1977.
Long Tân là vùng kinh tế cách Sài Gòn khoảng 60 cây số. Khu kinh tế này gồm 5 xã. Mỗi xã có chữ Long, Long Nguyên, Long Chiểu, Long Bình, Long Hòa, Long Tân nằm trong vùng sâu cách đường chính khoảng 5 cây số. Đây là vùng kinh tế gia đình tôi được chọn.
Long đâu chưa thấy, nhưng thấy dòng họ bò – rắn rít, bồ cạp. Lần đầu tiên chị em chúng tôi được sống trong mái nhà tranh, không phải hai quả tim vàng mà đến tám quả tim đỏ. Chúng tôi đã trồng cây trái chung quanh nhà, ngõ hầu cải thiện cuộc sống, nhưng ít được thưởng thức cây nhà lá vườn, vì có nhiều toán đạo tặc tuần hành, ngày cũng như đêm. Điện không có đã đành, nhưng nước cũng không, mỗi ngày có tiếng kẻng là biết giờ đi lấy nước, hoặc giờ đi lao động. Gia đình tôi đến sau vài tháng nên rất bỡ ngỡ. Cũng may hàng xóm rất tử tế.
Xã Long Tân chia làm bốn đội, bên phải gồm có: Đội Một và Đội Ba, bên trái có Đội Hai và Đội Bốn. Gia đình tôi ở bên phải, gồm đầy đủ thành phần trong xã hội, lúc đầu có nhiều giai nhân và tài tử, họ biết ngâm thơ, và đàn hát rất hay, do đó nỗi buồn cũng vơi đi ít nhiều sau những ngày lao động. Nhưng nào ai có giữ những niềm vui hiếm hoi trong những ngày sống kiếp người ở thiên đường xã hội. Chúng tôi phải tìm đường thoát thân hơn là cứu nước.
Không biết chuyện hư thật như thế nào, nhà nhà trồng sả, nếu rắn bị đi lạc, có bụi sả làm bùa hộ mạng, nhiều người giải thích rắn không ưa mùi vị của sả, hơn nữa lá sả bén hơn con dao. Và nhà nào cũng có một chai rượu ngâm với bò cạp cộng thêm rắn rít để làm thuốc khi trái nắng trở trời. Cái thời kỳ chỉ có Xuyên Tâm Liên là thần dược. Bò cạp, giống như người bạn của mình, đôi khi cùng ăn, cùng ngủ, nửa đêm phản bội chích cho một phát để trả thù vì cái tội xâm lấn đất đai của tổ tiên. Hầu như ai cũng bị một lần, hoặc nhiều lần để biết thú thương đau. Tôi bị sốt cả tuần bị nó chơi đểu, gặp trúng bồ cạp lửa.
Có lần em tôi bị rắn cắn nơi cánh tay. Tôi vội cấp cứu sơ đẳng, và dùng rượu của hàng xóm cho để uống, nhưng tay nó to như bắp vế, vì thế tôi phải thuê xe đạp thồ chở nó ra huyện Bến Cát, khoảng cách hơn 10 cây số nhưng phải mất hơn 2 giờ vì đường xá toàn ổ voi. Vào thời đó, xe đò chạy bằng than, đến Sài Gòn ai cũng thành mọi đen. Tôi nói về trường hợp của con em, người nhà vội vàng lấy ống kim hút chất độc nơi bị rắn cắn và cho uống trụ sinh, không biết em tôi may mắn vì uống trụ sinh hay vì rắn không độc, hoặc là rượu rắn?
Khi có dịp về Sài Gòn là vui rồi, vì tôi đã thấy đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ, nhìn ánh đèn điện vào ban đêm, không phải là ngọn đèn dầu le lói chỉ được thấp lên khi ăn cơm trên vùng kinh tế mới, được đi nhà thờ vào ngày Chúa nhật, được nghe đài địch (BBC và VOA) được ăn cơm trắng, có thêm cá và thịt. Tôi biết người quen phải ăn ít hơn, để chúng tôi có hương vị này. Và xin có lời tri ân gia đình ân nhân đã cho chị em tôi những phút giây hạnh phúc, ngọt ngào và ấm áp tình người trong những ngày ba tôi đi cải tạo.
Ở Long Tân có nhiều chuyện lạ, đến bây giờ gần 40 năm, khi nhớ lại như chuyện của hôm qua và hôm nay. Ông bí thư xã tên Nguyễn Bá Ngộ, mà ông này ngộ thiệt, bỏ bà vợ người Bắc lúc đi tập kết, lấy vợ của ông sĩ quan, dù nàng đã có hai con và một ông chồng đang đi cải tạo, sau này họ có thêm một đứa con trai đặt tên của cái xã này. Không biết ông bí thư này, vì lòng thương hại gia đình tôi – một bầy con gái 5 đứa, ốm như như cây tăm, hai thằng em, tuổi vừa lên 10 và 12, hay vì một lý do gì khác…? Vì thế nên tôi ít phải vác cuốc đi lao động tập thể, lại được dạy bình dân cho các ông cán bộ và các em nhỏ vào buổi tối, sau đó được đi học kế hoạch, kế toán, và giáo viên, nhưng chưa bao giờ được làm nhân viên, có lẽ vì cái lý lịch của gia đình. Sau cùng ông bí thư bỏ chức vụ, để tổ chức đi vượt biên, hết ở Sài Gòn, lại đến Bạc Liêu, lần nào có chuyến là tôi được cho đi ké, nhưng chưa bao giờ đặt chân xuống tàu, cũng may là chưa bị bắt.
Ở xã có hai ông Thành rất đặc biệt, ông bị lé – làm chủ tịch, nhưng phải đi học bình dân, còn ông kia bị mù, nhưng lại thông thái theo người ta nói. Bởi vì ông ta cố vấn từ chuyện dựng vợ gã chồng đến việc buôn bán và vượt biên. Đây là thời vàng son của cái nghề bói toán. Ông ta hay dùng đồng xu để bói cho những quẻ cấp bách. Đến bây giờ ngồi gõ những dòng chữ này, tôi không biết bao nhiêu người được đến miền đất tự do? Tôi thường đem những chuyện đất nước ra hỏi, vì ông là thầy bói, ngu gì không hỏi, nếu như mình có dịp. Ví dụ tại sao “Miền Nam có chính nghĩa, nhưng lại mất về tay Cộng Sản”. Ông ta giải thích vì tổ tiên của chúng ta đã cướp đất của người Chiêm Thành nên phải nhận quả báo. Ông thường giải thích về luật nhân quả và cung phúc đức trong khoa tử vi khi bị bí. Nhà ông lúc nào cũng đông khách. Vì cái thới kỳ “cái trụ đèn biết đi cũng đi”.
Cái đói và bịnh hoạn là nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người ở vùng kinh tế, người dân trốn về Sài Gòn nếu như họ còn gia đình. Chỉ có những gia đình không còn nơi để về, phải chọn nơi này làm quê hương, nhưng họ phải cố gắng làm việc hơn súc vật, để không ăn bo bo hàng ngày. Tôi nhớ nhất có lần ăn khoai mì với muối ớt, chỉ ước mong một chút mỡ hành để thêm mùi vị, ông hàng xóm phán một câu: “Mỡ hành ăn với mạt cưa cũng ngon, đừng nói ăn với khoai mì.”
Để xã Long Tân khỏi bị xóa tên trên bản đồ hình chữ S, chính quyền không có cách nào khác – làm ngơ cho người dân muốn làm gì thì làm, miễn đừng phá chính quyền là họ mừng rồi, vì thế rừng là nạn nhân đầu tiên, từ cây cao đến cây thấp, bị đốn để làm than củi. Cũng nhờ than củi ở các vùng kinh tế mà dân Sài Gòn không phải lao đao về nhiên liệu.
Có những cái chết ám ảnh tôi suốt đời, bé An Bình, con của ông giáo sư Trọng. Đi làm lao động tập thể, thấy con cóc, ông vội vã chụp nó, mang về nấu cháo cho con gái vừa lên ba tuổi đang bịnh. Vì sơ ý, không biết chức năng của cái mật này. Nên cô bé chết tức thì, vừa ăn xong tô cháo. Cũng may thằng anh có sức, ăn ít hơn nó được cứu kịp thời bởi y tá kiêm bà mụ thời xưa. Ôi! Cái thời kỳ con gì cũng ăn, trừ con bulon.
Cái chết thứ hai – giáo viên tên Dung, vì nghi ngờ ăn cắp tiền, cô giáo bị đem ra đấu tố không thương biết bởi các đồng nghiệp của mình, người yêu cũng không dám biện hộ, cuối cùng phải dùng mạng sống để minh oan. Nói chung có nhiều cái chết thật là oan uổng trên vùng kinh tế mới. Nhưng đây là cái chết của một cô giáo con của Việt Cộng, phải trả giá cho cái cơ chế chỉ có bầy đàn.
Ở vùng kinh tế có những cái chết rất thương tâm, nhưng khi tôi trốn về Nha Trang tìm đường đi vượt biên, có nhiều cái chết cũng đáng ưu tư hơn ở trên rừng rú. Cái chết đầu tiên tôi chứng kiến, một chàng trai không được thi vào đại học, nhảy từ trên lầu hai xuống, bể sọ, tại đường Hoàng văn Thụ, bởi lý lịch con ngụy nguyền. Cái chết thứ hai của ông sư tự thiêu tại chùa Nghĩa Phương, đường Phan Chu Trinh, cách nhà tôi ở khoảng hơn 10 mét. Vào lúc lúc 5 giờ sáng chưa kịp đi tắm biển, tôi đã thấy khói đen từ ngôi chùa tỏa ra, có tiếng xầm xì và công an đã đến kịp thời phong tỏa khu phố, thế là tôi được dịp nghe các bà chợ trời kể chuyện, dĩ nhiên một trời câu chuyện. Tại sao ông thầy sư phải tự thiêu tại Nha Trang? Trong khi ông ở Sài Gòn v.v..v…
Nhớ nhất chị Lạc chợ trời, cái nghề này rất thịnh vào những ngày không còn tiếng súng trên quê hương. Hầu như nhà nào cũng mang những vật dụng rất cần thiết, nhưng phải bán đi để nuôi cái bao tử. Khu phố nhà tôi đang ở là đất lành cho các bà, nếu thấy công an thì chạy vô chùa để trốn hay để đi tu năm phút, hoặc chạy vô đường hẻm Hoàng văn Thụ, Phan Chu Trinh là an toàn, đôi khi bí quá cũng núp trong hiên nhà tôi. Nhưng một ngày tháng năm xui, chị Lạc bị tóm bởi công an, vì nghi ngờ tiêu thụ hàng gian, chị được nhốt trong Cát sô.Vừa bước vào chị đã ngửi mùi tử khí, và la làng, la xóm, nhưng xóm làng ở xa, công an ở gần nhưng tai bị điếc. Đến khi công an mở cửa dẫn đi cung, chị đã bất tỉnh, đồng thời mới phát hiện xác chết. Chị được tại ngoại vô điều kiện.
Trong thời gian ở Nha Trang chờ đi vượt biên, tôi luôn thủ sẳn một lon guygo đường cát trộn với chanh tươi, cộng thêm một ký khoai lang dẻo làm hành trang, nếu có người réo một tiếng là lên đường. Người tổ chức vượt biên thường chọn vào những ngày cận Tết, dễ dàng cho việc đi đứng, nếu lỡ có bị công an hỏi thì nói: “dịp Tết tôi về quê thăm bà con họ hàng, mồ mả ông bà cha mẹ…”, nhất là phải chuẩn bị những cái tên ở nơi mà mình sẽ đến.
Không biết có ai giống tôi không? Lúc ngủ phải mang sợi xích nhẹ nhàng, không giống như dây xích của người tù Papillon. Nửa đêm công an có xét hộ khẩu, người nhà ở dưới kéo sợi dây báo hiệu, tôi phải tỉnh ngủ, chạy xuống lầu nhẹ nhàng như con mèo và vội vã trèo lên balcon để trốn. Có lần công an nghi ngờ ra phía sau bếp để kiểm tra, nhưng tôi đang đứng trên đầu họ. Có lẽ Chúa mẹ che chở, mắt họ bị mù tạm thời nên không thấy tôi.
Mình tính không bằng trời tính. Vì thế tôi đã bị bắt ở Ninh Hòa trên núi Hòn Hèo vào năm con chuột: “Tôi đi vào tù đầu năm Giáp Tý một chín tám tư, khi đi vào tù, tay sách giỏ lát tay ôm mùng mền.Vào trại giam tôi thấy bâng khâng ngỡ ngàng, nước mắt rưng rưng hai hàng…” Nhại bài hát Nỗi Lòng Người Đi của nhạc sĩ Anh Bằng.
Qua những sự kiện xảy ra ở Việt Nam, năm ngoái giàn khoan HD 918 và hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam ra đời, cũng như nhiều hội thành lập mà không cần xin phép chính quyền, năm nay công an đã đập phá và đánh giáo dân ở nhà Đồng Yên, Hà Tỉnh. Tôi tin rằng sẽ có sự chuyển biến về cái cơ chế này trong tương lai gần đây. Nhà triết học người Pháp, Jean-Jacques Rousseau sinh vào thế kỷ 18 có viết trong cuồn Khế Ước Xã Hội: “Le corps politique, aussi bien que le corps de l’homme, commence à mourir dès sa naissance et port en lui-même les causes de sa destruction. Ainsi le tyran peut n’être pas despose, mais le despote est toujour tyran”.Tạm dịch là “Cơ chế chính trị cũng giống như cơ thể con người, nghĩa là có sinh và có tử. Trước khi chết thường có những triệu chứng để báo hiệu ngày tàn sắp đến. Chế độc tài có thể độc quyền, nhưng chế độ độc quyền luôn luôn là kẻ độc tài.”
Nguồn:http://namviet.net/blog-thoisu/vung-kinh-te-moi/#.V4In3hJPSaQ
Sau biến cố lịch sử 30-4-1975 nhà nước CHXHCNVN khuyến khích và cổ động người dân thành phố đi xây dựng vùng kinh tế mới để cai tạo lương thực cho người dân khi quê hương vừa mới “ Giai phóng...”Cũng như hầu hết các Sĩ Quan,quân,dân,cán,chánh chế độ Sàigon dược lệnh tập trung cải tạo của Quân Quản Sàigon trong thời gian ngắn 10 ngày cho đến 01 tháng,tùy theo cấp bậc trong quân đội mà họ đã tham gia chính quyền Sàigon,hầu có điều kiện và tư tưởng tư duy nhận thức và bắt kịp nhip sống đổi mới,gia nhập Xã Hội Chủ Nghĩa-XHCNVN- sau khi gia nhập quyền công dân xã hội mới này...
Bác Thọ là người Sĩ Quan đồng ngũ Cải Tạo rất tốt và lao động cũng tốt, nên được chính phủ Cách mạng “Khoan hồng”cho trở về xum hợp gia đình sớm các bạn cùng trại.Vì cải tạo dưới 3 năm, chỉ mới được 2 năm 11 tháng 24 ngày nếu tính tới Nóel và tết tây mới đủ 3 năm để đủ tiêu chuẩn tù cải tạo của Cộng Sản thì Mỹ mới chịu chấp nhận rước đi theo diện tị nạn H.O{Humainright-Object]...
Như vậy bác Thọ cùng số anh em cải tạo khác ra trại sớm đều bị Mỹ đồng minh bỏ rơi thêm một lần nữa!?.Nhưng bác vẫn không lấy làm buồn và sẵn sàng nhận lấy hậu quả trách nhiệm mà mình đã gây ra với dân với nước mà phía Cách Mạng gọi là kẻ thù tay sai “Mỹ- Ngụy” hay Ngụy Quân ,Ngụy quyền .Sự nhục nhã nầy có ai biết và ai hay!?...
Vì bổn phận và trách nhiệm của một người công dân Xã Hội mới với sự khuyến khích của chính quyền địa phương thành phố phường khóm...nên bác theo vợ con khăn gói gia đình và giao nhà ở trong trại khu gia binh lại cho chính quyền địa phương cùng vợ con và nồi niêu xoong chảo ra đi xây dựng vùng kinh tế mới để xây dựng lại đời mới theo tiếng gọi quê hương XHCN.
Sau được chính quyền phường-khóm địa phương giải phóng Quận 10 Tp/HCM kêu lên hợp liên tổ trong khu vực thành một hội đồng nhân dân, như một tòa án để cứu xét phục hồi quyền công dân cho đám “Ngụy Quân,Ngụy quyền”học tập cải tạo mới về.Nơi đây khác với cuộc đấu tố thời cải cách ruộng đất nắm 1954 ngoài Bắc.Họ là cán bộ Cộng sản nằm vùng chính quyền địa phương chủ trì phiên xử trong hôi đồng tòa án nhân dân này bắt an hem cải tạo chúng tôi phải tự thú kê khai những hành động làm tay sai cho đế quốc Mỹ;giết hại đồng bào,o ép biểu tình và chống lại nhân dân chống Mỹ giải phóng dân tộc v.v.Họ là kẻ chiến thắng nhờ sự ủng hộ đồng tình của nhân dân Sài gòn/Miền Nam nằm vùng và nuôi dưỡng bao che cho Việt Cộng theo lời xúi giục của chúng,nên có ngày nhục nhả hôm nay của anh em cải tại chiến sĩ VNCH một đời chiến đấu vì dân ,vì nước,nay bị Việt Cộng sĩ nhục là kẻ phản Quốc trước bà con khu phố mình ở! Thì nổi nhục này nào ai biết chăng trước sự im lặng của đồng bào khu phố mình đang sống.Vì vậy nên phải khăn gói ra đi vùng kinh tế mới để tránh nhục này.Thà chết sướng hơn!Để tỏ lòng căm phẩm và khí tiết của một người quân nhân chiến sĩ VNCH trong buổi hợp khu phố này có anh sĩ quan cải tạo nhà ở sát vách nơi hội trường xét xử cải tạo phục hồi quyền công dân,anh ta ném đá trên mái tole hội trường ầm ầm…làm cắt đứt những lời tự thú không có thật do ép buộc của Việt Công nằm vùng khu phố để được người dân biểu quyết cho phục hồi quyền công dân thì mới đựợc cán bộ VC địa phương cấp quyền công dân.Tiêng ném đá ầm…ầm! át cả tiếng sĩ nhục.đê hèn này,cam tâm làm nô lệ cộng sản chung cùng người dân bị Cộng Sản đánh lừa vào thiên dàng Xã Nghĩa Cộng sản.Riêng số phận của chiến hữu cải tạo chúng tôi bị các Cờ Đỏ/30 dân phòng lùng xục ví bắt và trở về báo cáo thủ trưởng hội đồng nhân dân là bọn phản động sơ xét xử của nhân dân nên nhảy từ trên cao mái nhà xuống đất Tự Tử chết rồi!...Anh em Cải Tạo chúng tôi có mặt trong hôi trường xét xử chỉ biết xót xa,ngâm ngùi cho một khí tiết anh hùng của người lính VNCH và cảm thấy xấu hổ khi cầm lấy tờ giấy sĩ nhục quyền công dân của kẻ thù cộng Sản cấp cho.Tại sao nhục nhả đến vậy!?Phải chăng vì gia đình vợ con phải nhục nhả.Hay kỳ vọng vào sự phục hồi Tự Do dân tộc mà tổ quốc thiêng liêng vinh dự giao phó trách nhiệm cho chiến sĩ VNCH!.
Suốt mấy năm trời cật lực lao động cả vợ chồng con cái nơi vùng kinh tế mới, cũng không đem lại cho mãnh đất mầu mỡ xinh tươi hơn lên...Thảo nào người dân vùng nầy bỏ đất ra đi cũng vì nơi nầy đồng khô cỏ cháy,đất mặn phèn chua,đất cày lên sỏi đá,cỏ cây còi cọc không mọc nổi.Rắn rít,bò cạp,muỗi rừng,đỉa -vắt lềnh khênh làm vợ con tôi khóc rắm ra rắm rức than khổ đời!cho vợ con “Lính Ngụy”.nơi.mãnh đất không nuôi nổi cuộc sống con người!?...làm bác Thọ buồn mà không nói ra thân phận người lính chiến bại không bảo vệ được cuộc sống vợ con trong cái xã hội lấy sức người “Cày lên sòi đá thành cơm”…Nơi đây là mãnh đất vun thân-Vùng Kinh Tế Mới- cho những mãnh đời cô thân thất thế từ thành phố ra đi cải tạo lao động theo chính sách của người Cộng Sản”Giải phóng Miền Nam”để tránh ngồi mát ăn bát vàng,hay sự trả thù theo lý tưởng Cộng Sản với Dân-Quân Cán Chính Miền Nam!?
Thấy không lợi ích gì cho chính sách cải tạo lương thực do chinh phủ Miền Bắc CS đề ra để cải thiện khẩu phần ăn của người dân ngoài hai món thực phẩm sắn,khoai,cơm độn khi linh tế nhà nước còn khó khăn.Thất bại đó vì hai nguyên do.Một đất xấu không thích hợp cay trồng và con giống...Hai người lao động không chuyên nghiệp không kỹ thuật cánh tác hiệu quả,họ làm với tính cách đối phó để trả nợ "Quỉ thần",vì họ là dân thành phố không quen lao động "ngồi mát ăn bát vàng"chuyên lo buôn bán làm ăn ,thuộc thành phần tiễu thương tư sản mại bàn,đem họ đi lao động sản xuất thay thế nông dân thì sai chức năng tính toán bằng cái đầu óc mưu sinh đem lại phúc lợi cho xã hội mà họ có vai trò trách nhiệm của họ.Thành phần tiểu tư sàn tư nhân,họ lao động bằng trí óc và không ăn bám Xã hội như mọi người Cộng Sản thường quan niệm không đúng,nên dùng chính sách "Vùng kinh tế mới" để "cải tạo lao động"cho tư bàn chủ nghĩa Miền Nam,làm sai biệt ý nghĩa tốt đẹp của nhà nước XHCN biết lo cho cái đói, cai no cho dân Miền Nam vừa được giai phóng!???
Vì không phải chức năng nghề nghiệp nhà nông sản xuất nông sản theo chỉ tiêu nhà nước Cộng sản đề ra trên mỗi đầu người bằng cách tính công chấm điểm nên thất bại hoàn toàn mô hình “ Kinh Tế Mới” của chính quyền giải phóng miền nam.Nên ai muốn ờ lại nông trường kinh tế thì ở .Ai muốn trở về thành phố thì về…sau khi giao lại đất khu kinh tế mới vừa được thành khoảnh, được dọn dẹp sạch sẻ bomb mìn chiến tranh trở thành khu vườn cây trái và ruộng lúa xum xê chín vàng nhờ công sức khai hoang khẩn đất của người dân thành phố đi cải tạo lao động miệt mài sau bao năn giải nắng dầm mưa…Đất này giờ trở thành khu nông trường kinh tế của nhà nước đê cấp đất cho đồng bào Miền Bắc vào Nam theo chính sách phân phối đất đai và cải cách ruộng đất đồng đều cho dân miền Bắc thiếu đất trồng trọt và cải thiện lương thực{sắn khoai} cho Miền Nam tiêu dung vì thiếu lương thực…Nếu người dân nào muốn bám đất giữ làng-vì tiếc công khai phá đất hoang thì phải di chuyển vào sâu trong hẻm núi ,lại phải cất nhà,xây lại trường học và lập khu y-tế, mở đường vận chuyển sản phẩm lương thực thêm một lần nữa mà không ai,người dân kinh tế mới mong muốn khi bị nhà nước giải phóng bắt buộc đuổi dân vào vùng sâu và xa hơn.Đây là hình thức cướp đất và tài sản của cãi lương thực của dân Miền Nam một cách thâm độc, tinh vi của bản chất Công Sản khi giải phóng được miền nam.
Nhà nước Cộng Sản VC/GPMN không cấm đoán người dân kinh tế khi có chính sách đổi mới và mở rộng thị trường làm ăn với nước ngoài được phía Mỹ bải bỏ lệnh cấm vận và bang giao với Việt Nam 1995 làm cuộc sông người dân sung túc và tinh thần thoải mái hơn hết thời ăn khoai sắn độn cơm !...nên người dân liều bỏ khu kinh tế mới trở về thành phố làm ăn buôn bán sinh nhai bằng sức lao động sản xuất, kinh doanh thích hợp với nghề của chàng hơ cày cấy nơi đồng khô cỏ cháy.Vì vậy họ-Người đi kinh tế- quyết định trở về thành phố sinh sống hơn là phải vào sâu thêm ở vùng xa kinh tế,khi bị nhà nước lấy đất đuổi dân.Và đem dân dân Miền Bắc vào lấn chiếm tạo thành vùng đất hứa theo sách lược bành trướng Cộng sản quốc tế HCM...
Dân kinh tế mới trở về thành phố,giờ đây là là của HCM và mang tên bác.Họ về với hai bàn tay trắng,quần áo tả tơi với bầy trẻ thơ bụng ỏng,lưng eo ố gầy đầy tật bệnh rừng thiêng nước độc:sốt rét rừng và chất độc da cam.Họ về đây để sống trên các vỉa hè,phố chợ bến xe…để tránh gió mưa,mà không còn nơi cư ngụ vì nhà của họ bị cơ quan chính quyền cách mạng chiếm dụng,đuổi đi kinh tế mới dể phân phát lại nhà cửa cho cán bộ miền Bắc vào Nam co6ng tác mang cả vợ con theo có nhà ở để phục vụ nhân dân giải phóng miền Nam.Tất cả nhà của,đất đai của của tiểu tư sản miền nam đều bị chinh quyền cách mạng giải phóng hết về Bắc chỉ còn khoai sắn độn cơm hằng ngày là không thèm giải phóng và nó vẫn cò tự-do dân chủ công khai,bình đẵng hiện diện trong xã hội miền nam và trân trọng trong các bữa ăn hằng ngày đói nghèo của dân miền nam.
Họ là người kinh tế mới về không có gì để sống!,nên họ chấp nhận kiếp lang thang không nhà, không nghề nghiệp và cũng không được thừa nhận quyền sống của một công dân của một xã hội chủ nghĩa cộng sản đổi đời họ.Dù cho họ có thật sự là chuyên chính vô sản dúng theo đường lối chính sách của Đãng và nhà nước cộng sản đề ra chủ nghĩa tam vô quốc tế vô sản:Vô gia cư, vô nghề nghiệp và vô quyền sống vì phân biệt đối xử chế độ.Nay đám người khốn khổ này phải tự tìm kế sinh nhai bằng nhửng nghề mạc kiếp tư bản mà cộng sản tự cho là vô sản cũng không làm,vì họ-cộng sản là chủ nhân ông của miền đất hứa cai trị miền nam,và vì vậy nghề bán vé số,chạy xe ôm kéo xe thồ,làm phu bốc vác bén xe bến tàu là nghề của chàng!-Của người dân miền nam độc chiếm thị trường lao động khổ sai của dân miền cai trị.Người miền nam dù mất quyền tự do sống và chọn nghề nghiệp để sống,nhưng họ không mất tình người trong cuộc sống họ biết nhường cơm xẻ áo cho nhau trng những ngày tang thương đất nước,như nghề xin ăn vỉa hè phố chỉ dành cho các cô nhi tử sĩ,góa phụ chết chồng cuộc chiến miền nam.Hay những người ăn xin đầu đường xó chợ cho các thương phế binh VNCH dã hy sinh một phần thân thê thân thể cho bảo vệ tự-do miền nam chăng may đui mù cụt tay,cụt chân đang lê lết hè phố trên chiếc xe lăn ọt ẹp kêu gọi tình thương của đồng loại bất cứ phe nào cả cuộc chiến vùa qua với tiếng hát câu ca,lời mời mua vé số thảm thương.Dù cho là Cộng Sản HCM có là thiên đường trần gian ngay tại miền nam này cũng không xóa nhòa hình ảnh đau thương dân tộc mình trong cơn oằn-oại rên xiết trong cái áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai trên cái Tụ-Do Dân Chủ Miền Nam nói riêng và cho cả dân tộc Bắc Nam nói chung.
Anh thương phế binh vé số ngồi trên chiếc xe tăng tự chế cho cuộc đời mình sau ngày tàn chinh chiến!
Hậu thân người lính già trên xe xích- lô
Bà Mẹ Tử Sĩ gánh gồng bán rau…nuôi sống một mình côi cút không nhà,
Riêng gia đình bác Thọ,người lính cũ Sàigon tiến thoái lưỡng nan không dám quyết định đừng nào,nên ở hay nên về thành phố...Nếu ở lại nông trường kinh tế thì chôn vùi tương lai hai đứa con không học hành và trở nên thất học.Người ở núi rừng còn muốn ra thành phố sống,tại sao phải chôn chặt cuộc đời hai con mình trên mãnh đất khô cằn khó sống này.Nếu cùng nhau bồng bế trở lại chốn cũ,thì nhà đâu để về,nhà cửa đã giao lại cho nhà nước quản lý hết rồi,và đã được chính quyền địa phương bố trí cấp nhà cho cán bộ hết rồi!...
...Rồi một ngày sau 3 năm gian khổ đói khát,thiếu cái ăn cái mặc nơi khỉ ho cò gáy vắng bóng người vì nơi đây là vùng oanh kích tư -do của máy bay ném bom Mỹ và là nơi giải chất độc Da Cam dioxin khai hoang diệt cỏ triệt phá cơ sở mật khu nằm của cách mạng,nay thì hoang tàn toàn là vùng lá chết héo vàng màu da cam.Người dân kinh tế mới chúng tôi cày lên toàn là mãnh bom đạn trong xình lầy mà cây cối không bao giờ muốn mộc huống chi sự sống con người.?Nhiều lúc người dân kinh tế mới tự hỏi có phải nhà nước thương dân Không?...mà cứ tiếp tục đưa dân miền Bắc vào đây cùng chúng tôi tiếp tục khai hoang lập ấp làm gì cho bị phơi nhiễm chất độc Da Cam,khổ đời con cháu...
Bác thọ đã có dịp và có lý do chánh đáng!..để trở lại Sàigon bỏ hẳn vùng kinh tế chết người để thoát nạn Da Cam {Dioxin}.và sau này bác biết minh cũng không thoát được phơi nhiễm Da Cam....Bác về Sàigon,mang cả gia đình đi theo để làm hồ sơ và nộp đơn xuất cảnh tái định cư tại Mỹ theo diện H.O{Humainright Obiject} chương trình tỵ nạn của phía Hoa Kỳ có thỏa thuận với Việt Nam,chỉ giành cho các Sĩ Quan Cai Tạo trên 3 năm hay 10 năm cao hơn...mới đạt chuẩn của phía Mỹ lấy người ra đi tái định cư...Còn bác và một số bạn bè cai tạo dưới 3 năm dù có thiếu một ngày dưới 3 năm vẩn bị từ chối thẳng thừng! không cho tham gia chương trình phong vấn H.O được Mỹ rước đi.Mỹ cho rằng chúng tôi "Ở tù non" còn thiếu tháng,thiếu ngày trong sự dạy dổ,trừng phạt lẫn sự trả thù của người cộng sản vì anh còn thiếu tinh thần chiến cho Tự-Do của Miền Nam nước anh !?...Cứ"Bóng đổ thầy, thầy đổ bống" chính giữa Sĩ Quan Cải Tạo bị ở lại lãnh đủ trách nhiệm đổ lên đầu "làm mất Tư-Do"và bị người anh em Cộn Sản chiến thắng của mình nguyền rủa là tay sai Mỹ Ngụy đau đớn,thê thảm vô cùng!?,chết không thể nhắm mắt được!?...Nhưng dù sao cũng còn một số người biết thông cảm đời lính của nhau và biết cái lẽ thắng thua trong luật nhà binh của mấy anh công an sở Ngoại Vụ xuất cảnh CS Việt Nam thương tình thông cảm cho tình thế kẹt cứng của bác Thọ, nên chỉ bảo và mách nhỏ với bác tìm lối thoát tình thế bỏ rơi của Mỹ giúp bác được ra đi...bằng cách chỉnh lại hô sơ và sửa lại bản gốc giấy ra trại từ 2 năm rưởi thành 6 năm rưởi cho quá tiêu chuẩn đề ra để qua mặt phía Mỹ.Để Mỹ khỏi nghi ngờ gian lận hồ sơ thì phải đem về bản gốc tại trại cai tạo nơi đả cấp cho mình mãnh bằng "Đại học máu Cải Tạo" phải mất 7 cây vàng thì chuyện này mới xong!? làm bác chới với chết điếng người,lấy đâu ra tiền để mà chạy với chọt..!???
Nếu có đủ số tiền nầy thì bác Thọ vượt biên từ lâu rồi,theo những chuyến tàu bán chính thức của các chú Ba Tàu Chợ Lớn bỏ tiền ra dút lót công an địa phương thuê mua bến bãi,đi tàu lớn an toàn có công an hộ tống ra khỏi vùng biển quốc tế...có đã ngồi đây năn nỉ kẻ phản bội đồng minh chiến hữu và kẻ thù làn tiền trắng trợn cho cuộc ra đi này không có danh dự của người lính!.
Quá thất vọng bác bỏ ra về trong sự nuối tiếc và thương cảm của Công an sở ngoại vụ TP/HCM cho một công dân"mới" vì chuyên chính vô sản không có tiền như bác.Trên đường về trở lại khu phố gia binh không còn nhà,bác đi ngang qua con đường me xưa {Tôn Đức Thắng bây giờ bên cạnh Sở Ngoại vụ và Dinh Độc Lập ngó ra },bác dừng lại và nhặt những quả me già chín rụng mà bác thường hay đùa nghịch,chơi giỡn ngày nào dưới gốc me già lúc thiếu thời còn đi học...nay bác mới biết giá trị và ý nghĩa của trái me già chín rụng giúp cho bác giải khát và đỡ đói lòng như lúc nầy không tiền dính túi mua cơm và khát nước.Chất chua lè của trái me làm bác nhăn mặt như thắm thía cái chua chát cuộc đời bác dang hứng chịu...Cố nuốt vào lòng nhưng sợ chột dạ,bụng đau vì chưa có hạt cơm nào dằn bụng từ lúc sáng đến giờ trước sự chứng kiến lạnh lùng của hàng me già đang thay lá non để loại bỏ những trái me già chín rụng...giữa bầu trời Sàigon đầy mây lảng đãng vô tình trôi qua!?.
Con đường me Sài gòn thay lá!.Me già chín rụng ngập đường đi!
...Bác Thọ cố quên đi những gì thân thương của kỹ niệm,nay chính nó cũng muốn lãng quên mình như chính những gốc me già kia...Bác mau chân trở về khu xóm xưa như người chạy trốn một thực tại phủ phàng...Bác nhớ buổi ban sáng,trên chuyến xe đò khuya trở về thành phố,hai đứa con của bác đói bụng lắm nên khi xuống xe tại bến,hai đứa con bác mừng rở vô cùng xen lẩn ngơ ngác và bở ngỡ đáng thương như chú "Máng lên thành" thấy cảnh người tấp nập,buôn bán rộn ràng nơi phố chợ đông người như trong giấc mơ chúng ước được.Đi qua một hàng bán cơm tấm bì chả trứng chiên,hai đứa dừng lại, thòm thèm muốn ăn mà chả dám xin,sợ ba má la rầy làm xấu hổ trước đám đông .Biết hai con thèm ăn cũng như người vợ yêu quý của bác cũng chả dám kêu chồng cho ăn!...Biết được tâm trạng đói lòng của ba mẹ con nên bác đành bấm bụng rút ruột cái hầu bao,là của tiền chất mót,dành-dụm lâu nay bán bán mấy rẩy bắp ngô, những giồng khoai sắn để lo đi làm hồ sơ xuất cảnh chương trình H.O3.Mong sao được phía mỹ kêu lên phỏng vấn và khám sức khỏe cho ra đi.và thoát được lầm tham khốn khổ của vợ con.
Kêu chủ quán bốn dỉa cơm tấm chả bì trứng cho cả nhà cùng ăn.Khi bà chủ mang ra,thấy hai đứa con bác đở hai dĩa cơm trong cánh tay bé nhỏ gầy guột run run lên vì đói khát thèm cơm lâu ngày không có ăn...toàn là rau củ luột cùng sắn khoai thế cơm hằng ngày, nên khi gặp cơm tấm chả bì là món khoái khẩu nhất nên chúng rưng rưng nước mắt vì sung sướng....Bác ngồi đó nhìn hai con ăn ngấu nghiến vét sạch đỉa cơm không cần dạy bảo như hằng ngày.Thấy chúng còn thèm ăn,nên bác san-sớt dĩa cơm của bác phân đôi cho hai đứa ăn tiếp,còn vợ bác nhìn bác bẽn lẻn xấu hổ thấy mà thương!.
Về lại xóm cũ của khu gia binh ngày xưa không còn nhà để ở vì người ta đã chiếm mất rồi...Thấy vậy người hàng xóm cũ, vốn bạn bè tốt bụng kêu cả nhà bác về tá túc vỉa hè còn trống lối đi.Nhờ thế nên bác che được mái bạt bằng nilon ở tạm không muốn trơ lại chốn rừng xưa khu kinh tế mới...Bạn bè lính tráng ngày xưa trong trại gia binh cố sống nếu kéo lại không đi vùng kinh tế thì khỏi mất nhà!?.Nay thấy bác trở về tất cả đều mừng,mõi người giúp một tay dựng lại cái chòi ỉĩa hè góp tiền mua cho bác một chiếc xích lô cà tàng làm phương kế sinh sống.Còn vợ bác được các bà hàng xóm rủ nhau ra bến xe miền tây xa cảng cho thuê cân hàng hóa chở về miền lục tỉnh bán buôn,nên cuộc ống dần dần ổn định và còn nuôi thêm một bà mẹ vợ say-xỉn tối ngày,bà say vì nỗi buồn quá bất đắc chí:gia đình bà bị đánh tư sản sập tiệm mấy cửa hàng ngoài chợ, nên chạy về sống tá túc với con gái và ông rễ đạp xích lô như bác Thọ....
Nhờ chính sách kinh tế nhà nước XHCNVN càng lúc càng cởi mở hơn với nghị định 34 CP thời Vỏ Văn Kiệt nới lỏng quyền làm ăn cá thể,biết chấp nhận quyền tư hữu tư nhân cho làm ăn và kinh doanh cá thể không vào tập đoàn hợp tác xã,quốc doanh và theo mô hình kinh tế thị trường,nên người dân làm ăn khấm khá hơn lên và chình quyền nhà nước XHCN cũng cởi mở ,tư tưởng thông thoáng hơn.nên bác Thọ với chiếc xe xích lô cà tàng kiếm sống qua ngày và có dịp đi đó đây tiếp xúc với bạn bè cùng mọi thành phần cuộc sống xã hội có liên quan đến anh em cải tạo và các gia đình cô nhi tử sĩ,các góa phụ và thương thương phế binh VNCH vẫn còn khó khăn trong cuộc sống không bắt kịp nhịp sống xã hội đang tiến lên XHCN mà họ bị đẩy lùi lại đằng sau của sự lạc hậu nghèo nàn trong kinh tế thị trường mở cửa của Việt Nam.Tôi thấy họ vẫn dậm chân tại chỗ,nghèo vẫn hoàn nghèo dù nhà nước Vn nói họ không còn phân biệt đối xử như xưa,có phải chăng chúng ta mất khả năng phục hồi cái tính năng động thị trường kinh doanh làm ăn vốn có sẳn của Miến Nam mà nhà nước XHCN đa chấp nhận kinh tế thị trường tự-do là đúng với sở trường của chúng ta.Là vì những người cải tao và quân dân cán chính VNCH vẫn là kẻ thù truyền kiếp Cộng Sản nên lý lịch đen tối suốt 3 đời con cháu “Ngụy” không chen chân được vào thị trường quốc doanh nhà nước tổ chức,chỉ dàng cho con em liệt sĩ,cán bộ nằm vùng hay có công với cách mạng.. Không trách được xã hội đổi đời Cộng Sản mà sao vẫn còn những người ăn mày bu quanh nhửng đại gia tư bản đỏ để xin xõ việc làm và vòi vỉnh xin tiền thù lao chùi rừa chiếc xe bống lộn đắt tiền của đại gia.Họ là những tiến sĩ học bằng cấp đầy người,họ là giam đốc,tổng giám đốc,viên chức chính quyền có đủ mọi bằng cấp học vị đầy đường như kẹt xe vào giờ cao điểm...
Ở Sàigon này người ta dể nhận ra người quen lắm!...cứ ra đường thấy ai đạp xích lô bán vé số ăn mày, ăn xin hỏi thăm đường đi là khỏi bị lạc đường vì họ là người cũ Sàigon ,chớ nên hỏi nhầm các đại gia,tiến sĩ,thạc sỉ hay những trí thức xách cặp chỉm chệ,toàn là cán bộ đổi đời xã nghĩa, tuy học vị họ cao nhưng hiểu biết kinh nghiệm sống thua kẽ ăn mày...vì ở nhà cao chì thấy bầu trời là của riêng họ,nên dể đạp nhầm kẽ ăn mày đang quì lạy,xin xỏ dưới chân mình.
Nhờ có chiếc xe xích lô hướng dẫn đường theo khách gọi mời chuyến đi,nên hang cùng xó xỉn nào bác củng biết tin tức cuộc sống dân tình khu phố bác đi qua!Nhưng khi nhin lại chính bàn thân mình, bác không biết là mình bị nhiễm chất độc Da Cam- dioxin- từ lâu rồi khi uống nước suối rừng trong vùng hành quân có nhiều lá chết Da Cam trôi theo dòng suối ,dù có đun sôi,nấu chín hay khử chất cloruaquin cũng vẫn bị phơi nhiễm Dioxin như thường!?vã lại sau giải phóng phải bị đi công trường lao động xây dựng nhà máy Nguyên Tử tại Đà Lạt do Mỹ bỏ lại phía Bắc Vn vào tiếp thu lò phản ứng hạt nhân và vì không có chuyên gia kỷ thuật nguyên tử về rò rỉ hạt nhân ,nên cứ đưa bừa cao công nhân vào xây dựng,thiết kế lại nhà máy nguyên tử Đà Lạt.Và không rành kỹ thuật phản ứng hạt nhân và không có chuyên viên giám giám sát nên bị rò rỉ nguyên từ làm cho một số công nhân nhiễm phóng xạ phải bỏ việc trở về nhà vì ói mửa nhức đầu...Từ đó sức khỏe cua bác yếu dần mà không ai có trách nhiệm xét nghiệm để định bệnh Da Cam hay nhiễm phóng xạ nguyên tử Đà Lạt .dù có khác lạ sức khõe trong người nhưng không phương tiện không tiền nên đành phó mặc cho số phận đẩy đưa đến cái chết!...Nay thì nó phát tác bệnh mỗi lúc một trâm trọng hơn,bác biết,bác buồn lắm mà không dám cho vợ con,bạn bè hay!chỉ làm lo lắng thêm mà thôi !?
Mấy lúc gần đây sức khõe bác yếu dần không cho phép bác đạp xich lô nửa,bác thường hay ghế xe nằm ngủ trưa dưới bóng mát của con đường me sau một cuốc đi xa của khách trong một thân thể uể oải mệt nhoài chán nản bị cơn bệnh hành hạ. những lúc bác không đạp nỗi chiếc xích lô vì nó lớn và năng hơn bác lúc về già đau yếu bệnh hoạn trổi dậy trong thân xác gầy còm ho hen của bác.Có một lần ông chở khách du lịch người Mỹ đi ngang tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ bác cùng hơi kiệt sức không đến dược điểm hẹn đúng giờ của khách Mỹ,bác được người Mỹ to con nặng ký nầy đuổi bác xuông xe và bắt bác leo ngồi tren xe dể cho người mỹ này chở dến diểm hẹn kịp giờ.Bác ngồi trên xe tuy mệt nhưng vẫn thoải mái trong lòng khi thấy người Mỹ giờ đây biết phục vụ lại Việt Nam trong cái lổi lầm phản bội miềm Nam VN để có cái hậu quả đau đớn cho gả phu xe người Việt Nam và thay thế vai trò đạp xích lô đưa người Việt Nam này đến điểm hẹn tương lai mà khách Mỹ muốn đến!? tại Việt Nam.
Bác Thọ xích lô thấy đây là sự kiện hiếm có xẩy ra cách cư xử rất tình người của người Mỹ phương tây của các nước Tự-Do dân chủ không có phân biệt và có tinh thần bình đăng trong thành phần lao động xã hội .Không như Việt Nam Công sản phân biệt đối xử thành phần xích lô ,vé số, xe ôm, ăn mày là tang dư xã hội Mỹ Ngụy để lại và không còn chút tình người để lại trong lương tâm của kẻ chiến thắng. Bác Thọ vừa vui lại vừa buồn tủi của hai thái cực cư xử của hai trạng thái kẻ chiến thắng và người phản bội bạn bè…làm cho bác không biết phải giải thích ra sao!? Khi kẻ thù dân tộc chinh là anh em máu ruột có cùng một quê hương tổ quốc và kẻ mình mang ơn trên cùng một chiến tuyến chống cộng lại là kẻ bán đứng Miền Nam của người Mỹ.Trong giây phút suy tư,tinh thần bất định của một thể xác suy kiệt mỗi mòn của bênh tật,bác đạp xe chạy vội đến khu chợ bán rượu cho giới bình dân xích lô, xe ôm hay tụ tập giải buồn băng ly rượu,mua về bằng một chai ba xi đế hỏa hạng bằng tất cả số tiền vừa kiếm được của người Mỹ tốt bụng vừa đạp xe chở người vừa trả tiền cho người được chở là bác Thọ.Bác muốn uống rượu một mình nơi con đừng me xưa ấy cho một thời kỹ niệm sài gòn trước chiến tranh.Bác uống rượu một mình với những trái me già chín rụng theo từng cơn gió thoảng qua của buổi chiều mưa sắp đến dưới cội me già đang thay lá.
Thơ, Huỳnh-Mai St.8872
Quê Hương Tàn Chinh Chiến… {Một người lính già đã ra đi } HuỳnhMai.St.8872 Bh.Dạ Lệ Huỳnh
Ngồi ngắm mây qua khung trời Cải-Tạo,
Lắng tiếng bomb rền…vọng tiếng rừng sâu,
Mắt lệ hỏa châu hết buồn chinh chiến,
Pháo hoa chiến thắng nhỏ lệ trong tù,
Một đời chinh chiến trọn giành tổ quốc,
Một thưở hòa bình cho đất nước tôi,
Mà sao cay đắng dành riêng Cải Tạo,
Góc tối tù đày phần thưởng chiến tranh,
Thương đau chấp nhận vì anh chiến sĩ,
Ngục tù cải tạo…quê hương hòa bình,
-0-
Quê hương một dảy nước non dân tộc,
Một thoáng hòa bình…phải giá đắng cay,
Đời là hạnh phúc “Thiên-đàng Cộng-Sản”
Sống đời nô cộng chịu kiếp sắn khoai,
Bắp ngô độn bửa người thành trâu ngựa,
Hòa bình êm-ả trên đồng cỏ xanh,
Đó là hạnh phúc cho người phản chiến,
Con vật tế thần chủ nghĩa cộng nô,
Đành lở rồi quê hương tàn chinh chiến,
Hòa bình không thấy…thấy toàn thương đau!?
-0-
Hởi người chiến sĩ đừng buồn cải tạo,
Quê hương mình vận nước…hãy chưa thôi,
“Hòa bình phản chiến”ý người dân muốn,
Anh phải ngồi tù…phản chiến theo dân,
“Hòa bình gảy súng” thôi đành chấp nhận,
Danh dự trách nhiệm…đâu bằng hiếu dân,
Chiến đấu hy sinh cũng vì tổ quốc,
Cải tạo tù đày chết cũng vì dân,
Dù chiến bại chí hùng anh bất khuất,
Không hổ thẹn lòng chết cũng vì dân,
-0-
Lâu lắm rồi vận nước chưa đổi thay,
Ba lăm năm chiến thắng giấc ngủ dài,
Thở ngắn than dài mình ta thức trọn,
Canh xác Tự-Do cạnh xác người say,
Người dân chưa tỉnh…Tự-Do còn chết
Đấu tranh đơn độc…hiểm nguy riêng mình,
Chiến hữu Tự-Do tìm đường xứ ngoại,
Bỏ lại mình ta chôn xác Tự-Do,
Không kèn không trống… không ai đưa tiễn,
Tù trong, tù ngoài mộ chí Tự-Do,
-0-
Ta biết tủi hờn…hồn thiêng sông nùi,
Sống chặt đời thà nát với cỏ cây,
Thấy được mình.làm phân cho hoa lá,
Tô điểm thêm đời…thiếu vắng Tự-Do,
Mất Tự-Do rồi…đời đâu nghĩa sống,
Mồ hoang chiến sĩ…sung gảy vẫn còn,
Lưu dấu một thời hòa bình chiến đấu,
Để lại lòng người….một chút nhớ thương,
Sống chi một kiếp…đời người nô cộng!?
Quê hương tàn chinh chiến…mất Tự-Do,
Huỳnh-Mai
{Tàn chinh chiến}
Vùng kinh tế mới
Vào một đêm không trăng, không sao, chính quyền mới – Cộng Sản, tự phong mình là đỉnh cao trí tuệ, họ đã nghĩ ra một quái chiêu – cướp nhà.
Họ đã xuất chiêu. Gia đình tôi đã lãnh đủ, chúng tôi không được chọn lựa ở trong nhà của mình, trong lúc ba tôi đi học cải tạo. Chị em tôi phải xếp bút nghiên theo diện cha con. Gia tài của chúng tôi – nồi niêu xoong chảo và mấy bộ quần áo còn sót lại, sau khi gia đình tôi bị bắt vì vượt biên vào mùa hè năm 1977.
Long Tân là vùng kinh tế cách Sài Gòn khoảng 60 cây số. Khu kinh tế này gồm 5 xã. Mỗi xã có chữ Long, Long Nguyên, Long Chiểu, Long Bình, Long Hòa, Long Tân nằm trong vùng sâu cách đường chính khoảng 5 cây số. Đây là vùng kinh tế gia đình tôi được chọn.
Long đâu chưa thấy, nhưng thấy dòng họ bò – rắn rít, bồ cạp. Lần đầu tiên chị em chúng tôi được sống trong mái nhà tranh, không phải hai quả tim vàng mà đến tám quả tim đỏ. Chúng tôi đã trồng cây trái chung quanh nhà, ngõ hầu cải thiện cuộc sống, nhưng ít được thưởng thức cây nhà lá vườn, vì có nhiều toán đạo tặc tuần hành, ngày cũng như đêm. Điện không có đã đành, nhưng nước cũng không, mỗi ngày có tiếng kẻng là biết giờ đi lấy nước, hoặc giờ đi lao động. Gia đình tôi đến sau vài tháng nên rất bỡ ngỡ. Cũng may hàng xóm rất tử tế.
Xã Long Tân chia làm bốn đội, bên phải gồm có: Đội Một và Đội Ba, bên trái có Đội Hai và Đội Bốn. Gia đình tôi ở bên phải, gồm đầy đủ thành phần trong xã hội, lúc đầu có nhiều giai nhân và tài tử, họ biết ngâm thơ, và đàn hát rất hay, do đó nỗi buồn cũng vơi đi ít nhiều sau những ngày lao động. Nhưng nào ai có giữ những niềm vui hiếm hoi trong những ngày sống kiếp người ở thiên đường xã hội. Chúng tôi phải tìm đường thoát thân hơn là cứu nước.
Không biết chuyện hư thật như thế nào, nhà nhà trồng sả, nếu rắn bị đi lạc, có bụi sả làm bùa hộ mạng, nhiều người giải thích rắn không ưa mùi vị của sả, hơn nữa lá sả bén hơn con dao. Và nhà nào cũng có một chai rượu ngâm với bò cạp cộng thêm rắn rít để làm thuốc khi trái nắng trở trời. Cái thời kỳ chỉ có Xuyên Tâm Liên là thần dược. Bò cạp, giống như người bạn của mình, đôi khi cùng ăn, cùng ngủ, nửa đêm phản bội chích cho một phát để trả thù vì cái tội xâm lấn đất đai của tổ tiên. Hầu như ai cũng bị một lần, hoặc nhiều lần để biết thú thương đau. Tôi bị sốt cả tuần bị nó chơi đểu, gặp trúng bồ cạp lửa.
Có lần em tôi bị rắn cắn nơi cánh tay. Tôi vội cấp cứu sơ đẳng, và dùng rượu của hàng xóm cho để uống, nhưng tay nó to như bắp vế, vì thế tôi phải thuê xe đạp thồ chở nó ra huyện Bến Cát, khoảng cách hơn 10 cây số nhưng phải mất hơn 2 giờ vì đường xá toàn ổ voi. Vào thời đó, xe đò chạy bằng than, đến Sài Gòn ai cũng thành mọi đen. Tôi nói về trường hợp của con em, người nhà vội vàng lấy ống kim hút chất độc nơi bị rắn cắn và cho uống trụ sinh, không biết em tôi may mắn vì uống trụ sinh hay vì rắn không độc, hoặc là rượu rắn?
Khi có dịp về Sài Gòn là vui rồi, vì tôi đã thấy đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ, nhìn ánh đèn điện vào ban đêm, không phải là ngọn đèn dầu le lói chỉ được thấp lên khi ăn cơm trên vùng kinh tế mới, được đi nhà thờ vào ngày Chúa nhật, được nghe đài địch (BBC và VOA) được ăn cơm trắng, có thêm cá và thịt. Tôi biết người quen phải ăn ít hơn, để chúng tôi có hương vị này. Và xin có lời tri ân gia đình ân nhân đã cho chị em tôi những phút giây hạnh phúc, ngọt ngào và ấm áp tình người trong những ngày ba tôi đi cải tạo.
Ở Long Tân có nhiều chuyện lạ, đến bây giờ gần 40 năm, khi nhớ lại như chuyện của hôm qua và hôm nay. Ông bí thư xã tên Nguyễn Bá Ngộ, mà ông này ngộ thiệt, bỏ bà vợ người Bắc lúc đi tập kết, lấy vợ của ông sĩ quan, dù nàng đã có hai con và một ông chồng đang đi cải tạo, sau này họ có thêm một đứa con trai đặt tên của cái xã này. Không biết ông bí thư này, vì lòng thương hại gia đình tôi – một bầy con gái 5 đứa, ốm như như cây tăm, hai thằng em, tuổi vừa lên 10 và 12, hay vì một lý do gì khác…? Vì thế nên tôi ít phải vác cuốc đi lao động tập thể, lại được dạy bình dân cho các ông cán bộ và các em nhỏ vào buổi tối, sau đó được đi học kế hoạch, kế toán, và giáo viên, nhưng chưa bao giờ được làm nhân viên, có lẽ vì cái lý lịch của gia đình. Sau cùng ông bí thư bỏ chức vụ, để tổ chức đi vượt biên, hết ở Sài Gòn, lại đến Bạc Liêu, lần nào có chuyến là tôi được cho đi ké, nhưng chưa bao giờ đặt chân xuống tàu, cũng may là chưa bị bắt.
Ở xã có hai ông Thành rất đặc biệt, ông bị lé – làm chủ tịch, nhưng phải đi học bình dân, còn ông kia bị mù, nhưng lại thông thái theo người ta nói. Bởi vì ông ta cố vấn từ chuyện dựng vợ gã chồng đến việc buôn bán và vượt biên. Đây là thời vàng son của cái nghề bói toán. Ông ta hay dùng đồng xu để bói cho những quẻ cấp bách. Đến bây giờ ngồi gõ những dòng chữ này, tôi không biết bao nhiêu người được đến miền đất tự do? Tôi thường đem những chuyện đất nước ra hỏi, vì ông là thầy bói, ngu gì không hỏi, nếu như mình có dịp. Ví dụ tại sao “Miền Nam có chính nghĩa, nhưng lại mất về tay Cộng Sản”. Ông ta giải thích vì tổ tiên của chúng ta đã cướp đất của người Chiêm Thành nên phải nhận quả báo. Ông thường giải thích về luật nhân quả và cung phúc đức trong khoa tử vi khi bị bí. Nhà ông lúc nào cũng đông khách. Vì cái thới kỳ “cái trụ đèn biết đi cũng đi”.
Cái đói và bịnh hoạn là nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người ở vùng kinh tế, người dân trốn về Sài Gòn nếu như họ còn gia đình. Chỉ có những gia đình không còn nơi để về, phải chọn nơi này làm quê hương, nhưng họ phải cố gắng làm việc hơn súc vật, để không ăn bo bo hàng ngày. Tôi nhớ nhất có lần ăn khoai mì với muối ớt, chỉ ước mong một chút mỡ hành để thêm mùi vị, ông hàng xóm phán một câu: “Mỡ hành ăn với mạt cưa cũng ngon, đừng nói ăn với khoai mì.”
Để xã Long Tân khỏi bị xóa tên trên bản đồ hình chữ S, chính quyền không có cách nào khác – làm ngơ cho người dân muốn làm gì thì làm, miễn đừng phá chính quyền là họ mừng rồi, vì thế rừng là nạn nhân đầu tiên, từ cây cao đến cây thấp, bị đốn để làm than củi. Cũng nhờ than củi ở các vùng kinh tế mà dân Sài Gòn không phải lao đao về nhiên liệu.
Có những cái chết ám ảnh tôi suốt đời, bé An Bình, con của ông giáo sư Trọng. Đi làm lao động tập thể, thấy con cóc, ông vội vã chụp nó, mang về nấu cháo cho con gái vừa lên ba tuổi đang bịnh. Vì sơ ý, không biết chức năng của cái mật này. Nên cô bé chết tức thì, vừa ăn xong tô cháo. Cũng may thằng anh có sức, ăn ít hơn nó được cứu kịp thời bởi y tá kiêm bà mụ thời xưa. Ôi! Cái thời kỳ con gì cũng ăn, trừ con bulon.
Cái chết thứ hai – giáo viên tên Dung, vì nghi ngờ ăn cắp tiền, cô giáo bị đem ra đấu tố không thương biết bởi các đồng nghiệp của mình, người yêu cũng không dám biện hộ, cuối cùng phải dùng mạng sống để minh oan. Nói chung có nhiều cái chết thật là oan uổng trên vùng kinh tế mới. Nhưng đây là cái chết của một cô giáo con của Việt Cộng, phải trả giá cho cái cơ chế chỉ có bầy đàn.
Ở vùng kinh tế có những cái chết rất thương tâm, nhưng khi tôi trốn về Nha Trang tìm đường đi vượt biên, có nhiều cái chết cũng đáng ưu tư hơn ở trên rừng rú. Cái chết đầu tiên tôi chứng kiến, một chàng trai không được thi vào đại học, nhảy từ trên lầu hai xuống, bể sọ, tại đường Hoàng văn Thụ, bởi lý lịch con ngụy nguyền. Cái chết thứ hai của ông sư tự thiêu tại chùa Nghĩa Phương, đường Phan Chu Trinh, cách nhà tôi ở khoảng hơn 10 mét. Vào lúc lúc 5 giờ sáng chưa kịp đi tắm biển, tôi đã thấy khói đen từ ngôi chùa tỏa ra, có tiếng xầm xì và công an đã đến kịp thời phong tỏa khu phố, thế là tôi được dịp nghe các bà chợ trời kể chuyện, dĩ nhiên một trời câu chuyện. Tại sao ông thầy sư phải tự thiêu tại Nha Trang? Trong khi ông ở Sài Gòn v.v..v…
Nhớ nhất chị Lạc chợ trời, cái nghề này rất thịnh vào những ngày không còn tiếng súng trên quê hương. Hầu như nhà nào cũng mang những vật dụng rất cần thiết, nhưng phải bán đi để nuôi cái bao tử. Khu phố nhà tôi đang ở là đất lành cho các bà, nếu thấy công an thì chạy vô chùa để trốn hay để đi tu năm phút, hoặc chạy vô đường hẻm Hoàng văn Thụ, Phan Chu Trinh là an toàn, đôi khi bí quá cũng núp trong hiên nhà tôi. Nhưng một ngày tháng năm xui, chị Lạc bị tóm bởi công an, vì nghi ngờ tiêu thụ hàng gian, chị được nhốt trong Cát sô.Vừa bước vào chị đã ngửi mùi tử khí, và la làng, la xóm, nhưng xóm làng ở xa, công an ở gần nhưng tai bị điếc. Đến khi công an mở cửa dẫn đi cung, chị đã bất tỉnh, đồng thời mới phát hiện xác chết. Chị được tại ngoại vô điều kiện.
Trong thời gian ở Nha Trang chờ đi vượt biên, tôi luôn thủ sẳn một lon guygo đường cát trộn với chanh tươi, cộng thêm một ký khoai lang dẻo làm hành trang, nếu có người réo một tiếng là lên đường. Người tổ chức vượt biên thường chọn vào những ngày cận Tết, dễ dàng cho việc đi đứng, nếu lỡ có bị công an hỏi thì nói: “dịp Tết tôi về quê thăm bà con họ hàng, mồ mả ông bà cha mẹ…”, nhất là phải chuẩn bị những cái tên ở nơi mà mình sẽ đến.
Không biết có ai giống tôi không? Lúc ngủ phải mang sợi xích nhẹ nhàng, không giống như dây xích của người tù Papillon. Nửa đêm công an có xét hộ khẩu, người nhà ở dưới kéo sợi dây báo hiệu, tôi phải tỉnh ngủ, chạy xuống lầu nhẹ nhàng như con mèo và vội vã trèo lên balcon để trốn. Có lần công an nghi ngờ ra phía sau bếp để kiểm tra, nhưng tôi đang đứng trên đầu họ. Có lẽ Chúa mẹ che chở, mắt họ bị mù tạm thời nên không thấy tôi.
Mình tính không bằng trời tính. Vì thế tôi đã bị bắt ở Ninh Hòa trên núi Hòn Hèo vào năm con chuột: “Tôi đi vào tù đầu năm Giáp Tý một chín tám tư, khi đi vào tù, tay sách giỏ lát tay ôm mùng mền.Vào trại giam tôi thấy bâng khâng ngỡ ngàng, nước mắt rưng rưng hai hàng…” Nhại bài hát Nỗi Lòng Người Đi của nhạc sĩ Anh Bằng.
Qua những sự kiện xảy ra ở Việt Nam, năm ngoái giàn khoan HD 918 và hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam ra đời, cũng như nhiều hội thành lập mà không cần xin phép chính quyền, năm nay công an đã đập phá và đánh giáo dân ở nhà Đồng Yên, Hà Tỉnh. Tôi tin rằng sẽ có sự chuyển biến về cái cơ chế này trong tương lai gần đây. Nhà triết học người Pháp, Jean-Jacques Rousseau sinh vào thế kỷ 18 có viết trong cuồn Khế Ước Xã Hội: “Le corps politique, aussi bien que le corps de l’homme, commence à mourir dès sa naissance et port en lui-même les causes de sa destruction. Ainsi le tyran peut n’être pas despose, mais le despote est toujour tyran”.Tạm dịch là “Cơ chế chính trị cũng giống như cơ thể con người, nghĩa là có sinh và có tử. Trước khi chết thường có những triệu chứng để báo hiệu ngày tàn sắp đến. Chế độc tài có thể độc quyền, nhưng chế độ độc quyền luôn luôn là kẻ độc tài.”
Nguồn:http://namviet.net/blog-thoisu/vung-kinh-te-moi/#.V4In3hJPSaQ
Truyện,NGƯỜI LÍNH GIÀ TRÊN XE XÍCH LÔ
Tập Truyện:
Huỳnh Mai St.8872
Bh Dạ Lệ Huỳnh NGƯỜI LÍNH GIÀ TRÊN XE XÍCH LÔ
August 23,2011 -&-
3:13 PM
Không
biết bắt đầu từ đâu để kể lại chuyện đời của một người lính già trên
chiếc xe xích lô trong bối cảnh quê hương tàn rồi chinh chiến..!Sau biến cố lịch sử 30-4-1975 nhà nước CHXHCNVN khuyến khích và cổ động người dân thành phố đi xây dựng vùng kinh tế mới để cai tạo lương thực cho người dân khi quê hương vừa mới “ Giai phóng...”Cũng như hầu hết các Sĩ Quan,quân,dân,cán,chánh chế độ Sàigon dược lệnh tập trung cải tạo của Quân Quản Sàigon trong thời gian ngắn 10 ngày cho đến 01 tháng,tùy theo cấp bậc trong quân đội mà họ đã tham gia chính quyền Sàigon,hầu có điều kiện và tư tưởng tư duy nhận thức và bắt kịp nhip sống đổi mới,gia nhập Xã Hội Chủ Nghĩa-XHCNVN- sau khi gia nhập quyền công dân xã hội mới này...
Bác Thọ là người Sĩ Quan đồng ngũ Cải Tạo rất tốt và lao động cũng tốt, nên được chính phủ Cách mạng “Khoan hồng”cho trở về xum hợp gia đình sớm các bạn cùng trại.Vì cải tạo dưới 3 năm, chỉ mới được 2 năm 11 tháng 24 ngày nếu tính tới Nóel và tết tây mới đủ 3 năm để đủ tiêu chuẩn tù cải tạo của Cộng Sản thì Mỹ mới chịu chấp nhận rước đi theo diện tị nạn H.O{Humainright-Object]...
Như vậy bác Thọ cùng số anh em cải tạo khác ra trại sớm đều bị Mỹ đồng minh bỏ rơi thêm một lần nữa!?.Nhưng bác vẫn không lấy làm buồn và sẵn sàng nhận lấy hậu quả trách nhiệm mà mình đã gây ra với dân với nước mà phía Cách Mạng gọi là kẻ thù tay sai “Mỹ- Ngụy” hay Ngụy Quân ,Ngụy quyền .Sự nhục nhã nầy có ai biết và ai hay!?...
Vì bổn phận và trách nhiệm của một người công dân Xã Hội mới với sự khuyến khích của chính quyền địa phương thành phố phường khóm...nên bác theo vợ con khăn gói gia đình và giao nhà ở trong trại khu gia binh lại cho chính quyền địa phương cùng vợ con và nồi niêu xoong chảo ra đi xây dựng vùng kinh tế mới để xây dựng lại đời mới theo tiếng gọi quê hương XHCN.
Sau được chính quyền phường-khóm địa phương giải phóng Quận 10 Tp/HCM kêu lên hợp liên tổ trong khu vực thành một hội đồng nhân dân, như một tòa án để cứu xét phục hồi quyền công dân cho đám “Ngụy Quân,Ngụy quyền”học tập cải tạo mới về.Nơi đây khác với cuộc đấu tố thời cải cách ruộng đất nắm 1954 ngoài Bắc.Họ là cán bộ Cộng sản nằm vùng chính quyền địa phương chủ trì phiên xử trong hôi đồng tòa án nhân dân này bắt an hem cải tạo chúng tôi phải tự thú kê khai những hành động làm tay sai cho đế quốc Mỹ;giết hại đồng bào,o ép biểu tình và chống lại nhân dân chống Mỹ giải phóng dân tộc v.v.Họ là kẻ chiến thắng nhờ sự ủng hộ đồng tình của nhân dân Sài gòn/Miền Nam nằm vùng và nuôi dưỡng bao che cho Việt Cộng theo lời xúi giục của chúng,nên có ngày nhục nhả hôm nay của anh em cải tại chiến sĩ VNCH một đời chiến đấu vì dân ,vì nước,nay bị Việt Cộng sĩ nhục là kẻ phản Quốc trước bà con khu phố mình ở! Thì nổi nhục này nào ai biết chăng trước sự im lặng của đồng bào khu phố mình đang sống.Vì vậy nên phải khăn gói ra đi vùng kinh tế mới để tránh nhục này.Thà chết sướng hơn!Để tỏ lòng căm phẩm và khí tiết của một người quân nhân chiến sĩ VNCH trong buổi hợp khu phố này có anh sĩ quan cải tạo nhà ở sát vách nơi hội trường xét xử cải tạo phục hồi quyền công dân,anh ta ném đá trên mái tole hội trường ầm ầm…làm cắt đứt những lời tự thú không có thật do ép buộc của Việt Công nằm vùng khu phố để được người dân biểu quyết cho phục hồi quyền công dân thì mới đựợc cán bộ VC địa phương cấp quyền công dân.Tiêng ném đá ầm…ầm! át cả tiếng sĩ nhục.đê hèn này,cam tâm làm nô lệ cộng sản chung cùng người dân bị Cộng Sản đánh lừa vào thiên dàng Xã Nghĩa Cộng sản.Riêng số phận của chiến hữu cải tạo chúng tôi bị các Cờ Đỏ/30 dân phòng lùng xục ví bắt và trở về báo cáo thủ trưởng hội đồng nhân dân là bọn phản động sơ xét xử của nhân dân nên nhảy từ trên cao mái nhà xuống đất Tự Tử chết rồi!...Anh em Cải Tạo chúng tôi có mặt trong hôi trường xét xử chỉ biết xót xa,ngâm ngùi cho một khí tiết anh hùng của người lính VNCH và cảm thấy xấu hổ khi cầm lấy tờ giấy sĩ nhục quyền công dân của kẻ thù cộng Sản cấp cho.Tại sao nhục nhả đến vậy!?Phải chăng vì gia đình vợ con phải nhục nhả.Hay kỳ vọng vào sự phục hồi Tự Do dân tộc mà tổ quốc thiêng liêng vinh dự giao phó trách nhiệm cho chiến sĩ VNCH!.
Suốt mấy năm trời cật lực lao động cả vợ chồng con cái nơi vùng kinh tế mới, cũng không đem lại cho mãnh đất mầu mỡ xinh tươi hơn lên...Thảo nào người dân vùng nầy bỏ đất ra đi cũng vì nơi nầy đồng khô cỏ cháy,đất mặn phèn chua,đất cày lên sỏi đá,cỏ cây còi cọc không mọc nổi.Rắn rít,bò cạp,muỗi rừng,đỉa -vắt lềnh khênh làm vợ con tôi khóc rắm ra rắm rức than khổ đời!cho vợ con “Lính Ngụy”.nơi.mãnh đất không nuôi nổi cuộc sống con người!?...làm bác Thọ buồn mà không nói ra thân phận người lính chiến bại không bảo vệ được cuộc sống vợ con trong cái xã hội lấy sức người “Cày lên sòi đá thành cơm”…Nơi đây là mãnh đất vun thân-Vùng Kinh Tế Mới- cho những mãnh đời cô thân thất thế từ thành phố ra đi cải tạo lao động theo chính sách của người Cộng Sản”Giải phóng Miền Nam”để tránh ngồi mát ăn bát vàng,hay sự trả thù theo lý tưởng Cộng Sản với Dân-Quân Cán Chính Miền Nam!?
Thơ,
Cánh Đồng Tha Phương!
Huỳnh Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Huynh
Từ cõi chết trở về trong căm lặng!
Người thân không đón xóm giềng ngẩn ngơ,
Một màu đỏ thắm con tim băng giá,
Lạc lỏng quê hương không chút tình người,
Vinh quang kẻ thắng người tù sỉ nhục!?
Nhìn nhau ứa lệ ngập lòng thương đau,
Cải Tạo-Ngụy Dân…chung đường rẻ lối,
Chuồng nhỏ chuồng to cũng chỉ là chuồng!?
***
Khi xưa tình nghĩa tối đèn tắt lửa!
Ngày nay cháy lửa đèn lòng tối thui,
Gia Binh trại lính…về trong cải tạo!
Cờ đỏ sao vàng che khuất nhà xưa,
Nằm vùng phục kích người đi kinh tế,
Thế chỗ nhà dân Cộng Sản chiếm nhà,
Gồng gánh nhau đi chân rung bụng đói,
Chân trời hoang phế cánh đồng tha phương,
***
Trong trại ngoài tù buồn sao lên mắt!
Đưa tiễn người đi theo diện HO
Bạn tù chiến đấu phục hồi danh dự,
Bỏ lại mình tôi một chút tình khờ!
Trách chi quê hương còn sầu hận quốc,
Cùng nhau ẩm hận suối nguồn núi song
Mai-kia hòa bình quê hương trở lại,
Đồng xanh phủ mộ bạt ngàng lãng quên!
***
Nhìn trăng soi dõi hồn theo lối nhỏ!
Tìm về trận chiến những hố hầm hoang,
Ta biết cỏ cây còn hơn bom dạn,
Dáng đứng ngả nghiêng vết đạn bom cày,
Ta đi tìm lại trăng thề nữa mãnh,
Đường trăng lối nhỏ đủ mãnh trăng soi,
Đồng hoang rực rở trăng vàng lúa chin,
Tha hương rạng rở hẹn một ngày về…!
Huynh Mai
Cánh Đồng Tha Phương!
Huỳnh Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Huynh
Từ cõi chết trở về trong căm lặng!
Người thân không đón xóm giềng ngẩn ngơ,
Một màu đỏ thắm con tim băng giá,
Lạc lỏng quê hương không chút tình người,
Vinh quang kẻ thắng người tù sỉ nhục!?
Nhìn nhau ứa lệ ngập lòng thương đau,
Cải Tạo-Ngụy Dân…chung đường rẻ lối,
Chuồng nhỏ chuồng to cũng chỉ là chuồng!?
***
Khi xưa tình nghĩa tối đèn tắt lửa!
Ngày nay cháy lửa đèn lòng tối thui,
Gia Binh trại lính…về trong cải tạo!
Cờ đỏ sao vàng che khuất nhà xưa,
Nằm vùng phục kích người đi kinh tế,
Thế chỗ nhà dân Cộng Sản chiếm nhà,
Gồng gánh nhau đi chân rung bụng đói,
Chân trời hoang phế cánh đồng tha phương,
***
Trong trại ngoài tù buồn sao lên mắt!
Đưa tiễn người đi theo diện HO
Bạn tù chiến đấu phục hồi danh dự,
Bỏ lại mình tôi một chút tình khờ!
Trách chi quê hương còn sầu hận quốc,
Cùng nhau ẩm hận suối nguồn núi song
Mai-kia hòa bình quê hương trở lại,
Đồng xanh phủ mộ bạt ngàng lãng quên!
***
Nhìn trăng soi dõi hồn theo lối nhỏ!
Tìm về trận chiến những hố hầm hoang,
Ta biết cỏ cây còn hơn bom dạn,
Dáng đứng ngả nghiêng vết đạn bom cày,
Ta đi tìm lại trăng thề nữa mãnh,
Đường trăng lối nhỏ đủ mãnh trăng soi,
Đồng hoang rực rở trăng vàng lúa chin,
Tha hương rạng rở hẹn một ngày về…!
Huynh Mai
{Mùa trăng Kinh tế Mới}
Còn bác Thọ thì trải thân gánh vác mọi việc thay thế vợ con vì chúng
còn nhỏ thiếu học hành nơi rừng sâu nước độc đầy rẩy bom mìn và chất độc
da cam do Mỹ khai hoang nơi căn cứ mật khu Việt Cộng nằm vùng.Nay chiến
thắng chúng bỏ vùng đất chết này để về thành phô chiếm nhà dân dể ở và
đày ải dân thành phố thay thế mạng chúng nơi đồng hoang cỏ cháy
này!?...Bà vợ là con nhà giàu tư bản Sàigon,nữ sinh Gia Long trường Áo
Tím {có tiếng ngày xưa}nên chân yếu tay mềm không kham nổi công việc
đồng áng xó rừng quanh năm vắng bóng người...Còn bác là một quân nhân
lính chiến có tinh thần vượt khó và có trách nhiệm tiêu chuẩn sản xuất
lương thực có thừa nhưng khổ nổi bác không quen việc hay chuyên môn đồng
áng ở nông trường trồng cây lương thực, bác chỉ quen tay cầm súng.Nay
súng thay cày thay cuốc thì bác thiếu kinh nghiệm lẩn kỷ thuật trồng
trọt làm mất năng xuất lao động sản xuất lương thực theo tiêu chuẩn đề
ra của hợp tác xã nông trường.cho xã viên phải đạt yêu cầu.Thấy không lợi ích gì cho chính sách cải tạo lương thực do chinh phủ Miền Bắc CS đề ra để cải thiện khẩu phần ăn của người dân ngoài hai món thực phẩm sắn,khoai,cơm độn khi linh tế nhà nước còn khó khăn.Thất bại đó vì hai nguyên do.Một đất xấu không thích hợp cay trồng và con giống...Hai người lao động không chuyên nghiệp không kỹ thuật cánh tác hiệu quả,họ làm với tính cách đối phó để trả nợ "Quỉ thần",vì họ là dân thành phố không quen lao động "ngồi mát ăn bát vàng"chuyên lo buôn bán làm ăn ,thuộc thành phần tiễu thương tư sản mại bàn,đem họ đi lao động sản xuất thay thế nông dân thì sai chức năng tính toán bằng cái đầu óc mưu sinh đem lại phúc lợi cho xã hội mà họ có vai trò trách nhiệm của họ.Thành phần tiểu tư sàn tư nhân,họ lao động bằng trí óc và không ăn bám Xã hội như mọi người Cộng Sản thường quan niệm không đúng,nên dùng chính sách "Vùng kinh tế mới" để "cải tạo lao động"cho tư bàn chủ nghĩa Miền Nam,làm sai biệt ý nghĩa tốt đẹp của nhà nước XHCN biết lo cho cái đói, cai no cho dân Miền Nam vừa được giai phóng!???
Vì không phải chức năng nghề nghiệp nhà nông sản xuất nông sản theo chỉ tiêu nhà nước Cộng sản đề ra trên mỗi đầu người bằng cách tính công chấm điểm nên thất bại hoàn toàn mô hình “ Kinh Tế Mới” của chính quyền giải phóng miền nam.Nên ai muốn ờ lại nông trường kinh tế thì ở .Ai muốn trở về thành phố thì về…sau khi giao lại đất khu kinh tế mới vừa được thành khoảnh, được dọn dẹp sạch sẻ bomb mìn chiến tranh trở thành khu vườn cây trái và ruộng lúa xum xê chín vàng nhờ công sức khai hoang khẩn đất của người dân thành phố đi cải tạo lao động miệt mài sau bao năn giải nắng dầm mưa…Đất này giờ trở thành khu nông trường kinh tế của nhà nước đê cấp đất cho đồng bào Miền Bắc vào Nam theo chính sách phân phối đất đai và cải cách ruộng đất đồng đều cho dân miền Bắc thiếu đất trồng trọt và cải thiện lương thực{sắn khoai} cho Miền Nam tiêu dung vì thiếu lương thực…Nếu người dân nào muốn bám đất giữ làng-vì tiếc công khai phá đất hoang thì phải di chuyển vào sâu trong hẻm núi ,lại phải cất nhà,xây lại trường học và lập khu y-tế, mở đường vận chuyển sản phẩm lương thực thêm một lần nữa mà không ai,người dân kinh tế mới mong muốn khi bị nhà nước giải phóng bắt buộc đuổi dân vào vùng sâu và xa hơn.Đây là hình thức cướp đất và tài sản của cãi lương thực của dân Miền Nam một cách thâm độc, tinh vi của bản chất Công Sản khi giải phóng được miền nam.
Nhà nước Cộng Sản VC/GPMN không cấm đoán người dân kinh tế khi có chính sách đổi mới và mở rộng thị trường làm ăn với nước ngoài được phía Mỹ bải bỏ lệnh cấm vận và bang giao với Việt Nam 1995 làm cuộc sông người dân sung túc và tinh thần thoải mái hơn hết thời ăn khoai sắn độn cơm !...nên người dân liều bỏ khu kinh tế mới trở về thành phố làm ăn buôn bán sinh nhai bằng sức lao động sản xuất, kinh doanh thích hợp với nghề của chàng hơ cày cấy nơi đồng khô cỏ cháy.Vì vậy họ-Người đi kinh tế- quyết định trở về thành phố sinh sống hơn là phải vào sâu thêm ở vùng xa kinh tế,khi bị nhà nước lấy đất đuổi dân.Và đem dân dân Miền Bắc vào lấn chiếm tạo thành vùng đất hứa theo sách lược bành trướng Cộng sản quốc tế HCM...
Dân kinh tế mới trở về thành phố,giờ đây là là của HCM và mang tên bác.Họ về với hai bàn tay trắng,quần áo tả tơi với bầy trẻ thơ bụng ỏng,lưng eo ố gầy đầy tật bệnh rừng thiêng nước độc:sốt rét rừng và chất độc da cam.Họ về đây để sống trên các vỉa hè,phố chợ bến xe…để tránh gió mưa,mà không còn nơi cư ngụ vì nhà của họ bị cơ quan chính quyền cách mạng chiếm dụng,đuổi đi kinh tế mới dể phân phát lại nhà cửa cho cán bộ miền Bắc vào Nam co6ng tác mang cả vợ con theo có nhà ở để phục vụ nhân dân giải phóng miền Nam.Tất cả nhà của,đất đai của của tiểu tư sản miền nam đều bị chinh quyền cách mạng giải phóng hết về Bắc chỉ còn khoai sắn độn cơm hằng ngày là không thèm giải phóng và nó vẫn cò tự-do dân chủ công khai,bình đẵng hiện diện trong xã hội miền nam và trân trọng trong các bữa ăn hằng ngày đói nghèo của dân miền nam.
Họ là người kinh tế mới về không có gì để sống!,nên họ chấp nhận kiếp lang thang không nhà, không nghề nghiệp và cũng không được thừa nhận quyền sống của một công dân của một xã hội chủ nghĩa cộng sản đổi đời họ.Dù cho họ có thật sự là chuyên chính vô sản dúng theo đường lối chính sách của Đãng và nhà nước cộng sản đề ra chủ nghĩa tam vô quốc tế vô sản:Vô gia cư, vô nghề nghiệp và vô quyền sống vì phân biệt đối xử chế độ.Nay đám người khốn khổ này phải tự tìm kế sinh nhai bằng nhửng nghề mạc kiếp tư bản mà cộng sản tự cho là vô sản cũng không làm,vì họ-cộng sản là chủ nhân ông của miền đất hứa cai trị miền nam,và vì vậy nghề bán vé số,chạy xe ôm kéo xe thồ,làm phu bốc vác bén xe bến tàu là nghề của chàng!-Của người dân miền nam độc chiếm thị trường lao động khổ sai của dân miền cai trị.Người miền nam dù mất quyền tự do sống và chọn nghề nghiệp để sống,nhưng họ không mất tình người trong cuộc sống họ biết nhường cơm xẻ áo cho nhau trng những ngày tang thương đất nước,như nghề xin ăn vỉa hè phố chỉ dành cho các cô nhi tử sĩ,góa phụ chết chồng cuộc chiến miền nam.Hay những người ăn xin đầu đường xó chợ cho các thương phế binh VNCH dã hy sinh một phần thân thê thân thể cho bảo vệ tự-do miền nam chăng may đui mù cụt tay,cụt chân đang lê lết hè phố trên chiếc xe lăn ọt ẹp kêu gọi tình thương của đồng loại bất cứ phe nào cả cuộc chiến vùa qua với tiếng hát câu ca,lời mời mua vé số thảm thương.Dù cho là Cộng Sản HCM có là thiên đường trần gian ngay tại miền nam này cũng không xóa nhòa hình ảnh đau thương dân tộc mình trong cơn oằn-oại rên xiết trong cái áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai trên cái Tụ-Do Dân Chủ Miền Nam nói riêng và cho cả dân tộc Bắc Nam nói chung.
Anh thương phế binh vé số ngồi trên chiếc xe tăng tự chế cho cuộc đời mình sau ngày tàn chinh chiến!
Hậu thân người lính già trên xe xích- lô
Bà Mẹ Tử Sĩ gánh gồng bán rau…nuôi sống một mình côi cút không nhà,
Riêng gia đình bác Thọ,người lính cũ Sàigon tiến thoái lưỡng nan không dám quyết định đừng nào,nên ở hay nên về thành phố...Nếu ở lại nông trường kinh tế thì chôn vùi tương lai hai đứa con không học hành và trở nên thất học.Người ở núi rừng còn muốn ra thành phố sống,tại sao phải chôn chặt cuộc đời hai con mình trên mãnh đất khô cằn khó sống này.Nếu cùng nhau bồng bế trở lại chốn cũ,thì nhà đâu để về,nhà cửa đã giao lại cho nhà nước quản lý hết rồi,và đã được chính quyền địa phương bố trí cấp nhà cho cán bộ hết rồi!...
...Rồi một ngày sau 3 năm gian khổ đói khát,thiếu cái ăn cái mặc nơi khỉ ho cò gáy vắng bóng người vì nơi đây là vùng oanh kích tư -do của máy bay ném bom Mỹ và là nơi giải chất độc Da Cam dioxin khai hoang diệt cỏ triệt phá cơ sở mật khu nằm của cách mạng,nay thì hoang tàn toàn là vùng lá chết héo vàng màu da cam.Người dân kinh tế mới chúng tôi cày lên toàn là mãnh bom đạn trong xình lầy mà cây cối không bao giờ muốn mộc huống chi sự sống con người.?Nhiều lúc người dân kinh tế mới tự hỏi có phải nhà nước thương dân Không?...mà cứ tiếp tục đưa dân miền Bắc vào đây cùng chúng tôi tiếp tục khai hoang lập ấp làm gì cho bị phơi nhiễm chất độc Da Cam,khổ đời con cháu...
Bác thọ đã có dịp và có lý do chánh đáng!..để trở lại Sàigon bỏ hẳn vùng kinh tế chết người để thoát nạn Da Cam {Dioxin}.và sau này bác biết minh cũng không thoát được phơi nhiễm Da Cam....Bác về Sàigon,mang cả gia đình đi theo để làm hồ sơ và nộp đơn xuất cảnh tái định cư tại Mỹ theo diện H.O{Humainright Obiject} chương trình tỵ nạn của phía Hoa Kỳ có thỏa thuận với Việt Nam,chỉ giành cho các Sĩ Quan Cai Tạo trên 3 năm hay 10 năm cao hơn...mới đạt chuẩn của phía Mỹ lấy người ra đi tái định cư...Còn bác và một số bạn bè cai tạo dưới 3 năm dù có thiếu một ngày dưới 3 năm vẩn bị từ chối thẳng thừng! không cho tham gia chương trình phong vấn H.O được Mỹ rước đi.Mỹ cho rằng chúng tôi "Ở tù non" còn thiếu tháng,thiếu ngày trong sự dạy dổ,trừng phạt lẫn sự trả thù của người cộng sản vì anh còn thiếu tinh thần chiến cho Tự-Do của Miền Nam nước anh !?...Cứ"Bóng đổ thầy, thầy đổ bống" chính giữa Sĩ Quan Cải Tạo bị ở lại lãnh đủ trách nhiệm đổ lên đầu "làm mất Tư-Do"và bị người anh em Cộn Sản chiến thắng của mình nguyền rủa là tay sai Mỹ Ngụy đau đớn,thê thảm vô cùng!?,chết không thể nhắm mắt được!?...Nhưng dù sao cũng còn một số người biết thông cảm đời lính của nhau và biết cái lẽ thắng thua trong luật nhà binh của mấy anh công an sở Ngoại Vụ xuất cảnh CS Việt Nam thương tình thông cảm cho tình thế kẹt cứng của bác Thọ, nên chỉ bảo và mách nhỏ với bác tìm lối thoát tình thế bỏ rơi của Mỹ giúp bác được ra đi...bằng cách chỉnh lại hô sơ và sửa lại bản gốc giấy ra trại từ 2 năm rưởi thành 6 năm rưởi cho quá tiêu chuẩn đề ra để qua mặt phía Mỹ.Để Mỹ khỏi nghi ngờ gian lận hồ sơ thì phải đem về bản gốc tại trại cai tạo nơi đả cấp cho mình mãnh bằng "Đại học máu Cải Tạo" phải mất 7 cây vàng thì chuyện này mới xong!? làm bác chới với chết điếng người,lấy đâu ra tiền để mà chạy với chọt..!???
Nếu có đủ số tiền nầy thì bác Thọ vượt biên từ lâu rồi,theo những chuyến tàu bán chính thức của các chú Ba Tàu Chợ Lớn bỏ tiền ra dút lót công an địa phương thuê mua bến bãi,đi tàu lớn an toàn có công an hộ tống ra khỏi vùng biển quốc tế...có đã ngồi đây năn nỉ kẻ phản bội đồng minh chiến hữu và kẻ thù làn tiền trắng trợn cho cuộc ra đi này không có danh dự của người lính!.
Quá thất vọng bác bỏ ra về trong sự nuối tiếc và thương cảm của Công an sở ngoại vụ TP/HCM cho một công dân"mới" vì chuyên chính vô sản không có tiền như bác.Trên đường về trở lại khu phố gia binh không còn nhà,bác đi ngang qua con đường me xưa {Tôn Đức Thắng bây giờ bên cạnh Sở Ngoại vụ và Dinh Độc Lập ngó ra },bác dừng lại và nhặt những quả me già chín rụng mà bác thường hay đùa nghịch,chơi giỡn ngày nào dưới gốc me già lúc thiếu thời còn đi học...nay bác mới biết giá trị và ý nghĩa của trái me già chín rụng giúp cho bác giải khát và đỡ đói lòng như lúc nầy không tiền dính túi mua cơm và khát nước.Chất chua lè của trái me làm bác nhăn mặt như thắm thía cái chua chát cuộc đời bác dang hứng chịu...Cố nuốt vào lòng nhưng sợ chột dạ,bụng đau vì chưa có hạt cơm nào dằn bụng từ lúc sáng đến giờ trước sự chứng kiến lạnh lùng của hàng me già đang thay lá non để loại bỏ những trái me già chín rụng...giữa bầu trời Sàigon đầy mây lảng đãng vô tình trôi qua!?.
Con đường me Sài gòn thay lá!.Me già chín rụng ngập đường đi!
...Bác Thọ cố quên đi những gì thân thương của kỹ niệm,nay chính nó cũng muốn lãng quên mình như chính những gốc me già kia...Bác mau chân trở về khu xóm xưa như người chạy trốn một thực tại phủ phàng...Bác nhớ buổi ban sáng,trên chuyến xe đò khuya trở về thành phố,hai đứa con của bác đói bụng lắm nên khi xuống xe tại bến,hai đứa con bác mừng rở vô cùng xen lẩn ngơ ngác và bở ngỡ đáng thương như chú "Máng lên thành" thấy cảnh người tấp nập,buôn bán rộn ràng nơi phố chợ đông người như trong giấc mơ chúng ước được.Đi qua một hàng bán cơm tấm bì chả trứng chiên,hai đứa dừng lại, thòm thèm muốn ăn mà chả dám xin,sợ ba má la rầy làm xấu hổ trước đám đông .Biết hai con thèm ăn cũng như người vợ yêu quý của bác cũng chả dám kêu chồng cho ăn!...Biết được tâm trạng đói lòng của ba mẹ con nên bác đành bấm bụng rút ruột cái hầu bao,là của tiền chất mót,dành-dụm lâu nay bán bán mấy rẩy bắp ngô, những giồng khoai sắn để lo đi làm hồ sơ xuất cảnh chương trình H.O3.Mong sao được phía mỹ kêu lên phỏng vấn và khám sức khỏe cho ra đi.và thoát được lầm tham khốn khổ của vợ con.
Kêu chủ quán bốn dỉa cơm tấm chả bì trứng cho cả nhà cùng ăn.Khi bà chủ mang ra,thấy hai đứa con bác đở hai dĩa cơm trong cánh tay bé nhỏ gầy guột run run lên vì đói khát thèm cơm lâu ngày không có ăn...toàn là rau củ luột cùng sắn khoai thế cơm hằng ngày, nên khi gặp cơm tấm chả bì là món khoái khẩu nhất nên chúng rưng rưng nước mắt vì sung sướng....Bác ngồi đó nhìn hai con ăn ngấu nghiến vét sạch đỉa cơm không cần dạy bảo như hằng ngày.Thấy chúng còn thèm ăn,nên bác san-sớt dĩa cơm của bác phân đôi cho hai đứa ăn tiếp,còn vợ bác nhìn bác bẽn lẻn xấu hổ thấy mà thương!.
Về lại xóm cũ của khu gia binh ngày xưa không còn nhà để ở vì người ta đã chiếm mất rồi...Thấy vậy người hàng xóm cũ, vốn bạn bè tốt bụng kêu cả nhà bác về tá túc vỉa hè còn trống lối đi.Nhờ thế nên bác che được mái bạt bằng nilon ở tạm không muốn trơ lại chốn rừng xưa khu kinh tế mới...Bạn bè lính tráng ngày xưa trong trại gia binh cố sống nếu kéo lại không đi vùng kinh tế thì khỏi mất nhà!?.Nay thấy bác trở về tất cả đều mừng,mõi người giúp một tay dựng lại cái chòi ỉĩa hè góp tiền mua cho bác một chiếc xích lô cà tàng làm phương kế sinh sống.Còn vợ bác được các bà hàng xóm rủ nhau ra bến xe miền tây xa cảng cho thuê cân hàng hóa chở về miền lục tỉnh bán buôn,nên cuộc ống dần dần ổn định và còn nuôi thêm một bà mẹ vợ say-xỉn tối ngày,bà say vì nỗi buồn quá bất đắc chí:gia đình bà bị đánh tư sản sập tiệm mấy cửa hàng ngoài chợ, nên chạy về sống tá túc với con gái và ông rễ đạp xích lô như bác Thọ....
Nhờ chính sách kinh tế nhà nước XHCNVN càng lúc càng cởi mở hơn với nghị định 34 CP thời Vỏ Văn Kiệt nới lỏng quyền làm ăn cá thể,biết chấp nhận quyền tư hữu tư nhân cho làm ăn và kinh doanh cá thể không vào tập đoàn hợp tác xã,quốc doanh và theo mô hình kinh tế thị trường,nên người dân làm ăn khấm khá hơn lên và chình quyền nhà nước XHCN cũng cởi mở ,tư tưởng thông thoáng hơn.nên bác Thọ với chiếc xe xích lô cà tàng kiếm sống qua ngày và có dịp đi đó đây tiếp xúc với bạn bè cùng mọi thành phần cuộc sống xã hội có liên quan đến anh em cải tạo và các gia đình cô nhi tử sĩ,các góa phụ và thương thương phế binh VNCH vẫn còn khó khăn trong cuộc sống không bắt kịp nhịp sống xã hội đang tiến lên XHCN mà họ bị đẩy lùi lại đằng sau của sự lạc hậu nghèo nàn trong kinh tế thị trường mở cửa của Việt Nam.Tôi thấy họ vẫn dậm chân tại chỗ,nghèo vẫn hoàn nghèo dù nhà nước Vn nói họ không còn phân biệt đối xử như xưa,có phải chăng chúng ta mất khả năng phục hồi cái tính năng động thị trường kinh doanh làm ăn vốn có sẳn của Miến Nam mà nhà nước XHCN đa chấp nhận kinh tế thị trường tự-do là đúng với sở trường của chúng ta.Là vì những người cải tao và quân dân cán chính VNCH vẫn là kẻ thù truyền kiếp Cộng Sản nên lý lịch đen tối suốt 3 đời con cháu “Ngụy” không chen chân được vào thị trường quốc doanh nhà nước tổ chức,chỉ dàng cho con em liệt sĩ,cán bộ nằm vùng hay có công với cách mạng.. Không trách được xã hội đổi đời Cộng Sản mà sao vẫn còn những người ăn mày bu quanh nhửng đại gia tư bản đỏ để xin xõ việc làm và vòi vỉnh xin tiền thù lao chùi rừa chiếc xe bống lộn đắt tiền của đại gia.Họ là những tiến sĩ học bằng cấp đầy người,họ là giam đốc,tổng giám đốc,viên chức chính quyền có đủ mọi bằng cấp học vị đầy đường như kẹt xe vào giờ cao điểm...
Ở Sàigon này người ta dể nhận ra người quen lắm!...cứ ra đường thấy ai đạp xích lô bán vé số ăn mày, ăn xin hỏi thăm đường đi là khỏi bị lạc đường vì họ là người cũ Sàigon ,chớ nên hỏi nhầm các đại gia,tiến sĩ,thạc sỉ hay những trí thức xách cặp chỉm chệ,toàn là cán bộ đổi đời xã nghĩa, tuy học vị họ cao nhưng hiểu biết kinh nghiệm sống thua kẽ ăn mày...vì ở nhà cao chì thấy bầu trời là của riêng họ,nên dể đạp nhầm kẽ ăn mày đang quì lạy,xin xỏ dưới chân mình.
Nhờ có chiếc xe xích lô hướng dẫn đường theo khách gọi mời chuyến đi,nên hang cùng xó xỉn nào bác củng biết tin tức cuộc sống dân tình khu phố bác đi qua!Nhưng khi nhin lại chính bàn thân mình, bác không biết là mình bị nhiễm chất độc Da Cam- dioxin- từ lâu rồi khi uống nước suối rừng trong vùng hành quân có nhiều lá chết Da Cam trôi theo dòng suối ,dù có đun sôi,nấu chín hay khử chất cloruaquin cũng vẫn bị phơi nhiễm Dioxin như thường!?vã lại sau giải phóng phải bị đi công trường lao động xây dựng nhà máy Nguyên Tử tại Đà Lạt do Mỹ bỏ lại phía Bắc Vn vào tiếp thu lò phản ứng hạt nhân và vì không có chuyên gia kỷ thuật nguyên tử về rò rỉ hạt nhân ,nên cứ đưa bừa cao công nhân vào xây dựng,thiết kế lại nhà máy nguyên tử Đà Lạt.Và không rành kỹ thuật phản ứng hạt nhân và không có chuyên viên giám giám sát nên bị rò rỉ nguyên từ làm cho một số công nhân nhiễm phóng xạ phải bỏ việc trở về nhà vì ói mửa nhức đầu...Từ đó sức khỏe cua bác yếu dần mà không ai có trách nhiệm xét nghiệm để định bệnh Da Cam hay nhiễm phóng xạ nguyên tử Đà Lạt .dù có khác lạ sức khõe trong người nhưng không phương tiện không tiền nên đành phó mặc cho số phận đẩy đưa đến cái chết!...Nay thì nó phát tác bệnh mỗi lúc một trâm trọng hơn,bác biết,bác buồn lắm mà không dám cho vợ con,bạn bè hay!chỉ làm lo lắng thêm mà thôi !?
Mấy lúc gần đây sức khõe bác yếu dần không cho phép bác đạp xich lô nửa,bác thường hay ghế xe nằm ngủ trưa dưới bóng mát của con đường me sau một cuốc đi xa của khách trong một thân thể uể oải mệt nhoài chán nản bị cơn bệnh hành hạ. những lúc bác không đạp nỗi chiếc xích lô vì nó lớn và năng hơn bác lúc về già đau yếu bệnh hoạn trổi dậy trong thân xác gầy còm ho hen của bác.Có một lần ông chở khách du lịch người Mỹ đi ngang tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ bác cùng hơi kiệt sức không đến dược điểm hẹn đúng giờ của khách Mỹ,bác được người Mỹ to con nặng ký nầy đuổi bác xuông xe và bắt bác leo ngồi tren xe dể cho người mỹ này chở dến diểm hẹn kịp giờ.Bác ngồi trên xe tuy mệt nhưng vẫn thoải mái trong lòng khi thấy người Mỹ giờ đây biết phục vụ lại Việt Nam trong cái lổi lầm phản bội miềm Nam VN để có cái hậu quả đau đớn cho gả phu xe người Việt Nam và thay thế vai trò đạp xích lô đưa người Việt Nam này đến điểm hẹn tương lai mà khách Mỹ muốn đến!? tại Việt Nam.
Bác Thọ xích lô thấy đây là sự kiện hiếm có xẩy ra cách cư xử rất tình người của người Mỹ phương tây của các nước Tự-Do dân chủ không có phân biệt và có tinh thần bình đăng trong thành phần lao động xã hội .Không như Việt Nam Công sản phân biệt đối xử thành phần xích lô ,vé số, xe ôm, ăn mày là tang dư xã hội Mỹ Ngụy để lại và không còn chút tình người để lại trong lương tâm của kẻ chiến thắng. Bác Thọ vừa vui lại vừa buồn tủi của hai thái cực cư xử của hai trạng thái kẻ chiến thắng và người phản bội bạn bè…làm cho bác không biết phải giải thích ra sao!? Khi kẻ thù dân tộc chinh là anh em máu ruột có cùng một quê hương tổ quốc và kẻ mình mang ơn trên cùng một chiến tuyến chống cộng lại là kẻ bán đứng Miền Nam của người Mỹ.Trong giây phút suy tư,tinh thần bất định của một thể xác suy kiệt mỗi mòn của bênh tật,bác đạp xe chạy vội đến khu chợ bán rượu cho giới bình dân xích lô, xe ôm hay tụ tập giải buồn băng ly rượu,mua về bằng một chai ba xi đế hỏa hạng bằng tất cả số tiền vừa kiếm được của người Mỹ tốt bụng vừa đạp xe chở người vừa trả tiền cho người được chở là bác Thọ.Bác muốn uống rượu một mình nơi con đừng me xưa ấy cho một thời kỹ niệm sài gòn trước chiến tranh.Bác uống rượu một mình với những trái me già chín rụng theo từng cơn gió thoảng qua của buổi chiều mưa sắp đến dưới cội me già đang thay lá.
Thơ,
CHIẾN SĨ SAY!
Huỳnh-Mai.St.8872
Bh.Dạ lệ Huỳnh
Ảo thực đôi bờ ranh giới chiến tranh,
Dân tình nước Việt kiếp sống mong manh,
Chiến sĩ vì đời Tự-Do chiến đấu,
Sống chết tình vờ ảo-ảnh cơn say,
xox
Chiến sĩ, say mới là chiến đấu thực
Trọn tình non nước vẹn nghĩa Tự-Do
Vì say đâu biết đời là phản bội
Sau lưng chiến sĩ thương đau ngút ngàn
xox
Qua cơn say thấy đời là cõi thực
Có Tự-Do mới thấy được mình say
Mất Tự-Do rồi vì ai...chiến đấu…!?
Quê hương còn trong giấc ngủ nồng say
xox
Rượu nầy ta uống dưới cờ lâm chiến
Cho thật say; không gớm máu cộng thù
Máu loang đỏ thấy lòng mình cũng chết
Tái tê lòng dân Việt tỉnh mà chi
xox
Say men chiến đấu xây đời hạnh phúc
Xác thân nầy xây đắp ngày Tự-Do
Có ai thương tiếc phận đời chiến Sĩ
Cuộc chiến tàn rồi ảo ảnh cơn say
xox
Sau cơn say Tháng –Tư hồn thức tỉnh
Giữa trời Tự-Do máu đổ đầm đìa
Ta thấy sợ cho lòng người phản bội
Trở ngược cờ cho máu thắm Tự-Do
xox
Chiến sĩ, say trong tay cây súng gảy…
Bẻ súng cong nồng khóc ngất tỉnh say,
Tỉnh thấy chiến bào tả tơi rào thép
Say khói nhìn bội phản cho lòng đau
xox
Cơn say chợt tỉnh trong tù cải tạo
Men Tự-Do đâu thắm thế gian tình
Thiên đàng Xã Nghĩa một trời mộng tưởng
Bỏ mặc tù đày ảo ảnh cơn say,
xox
Giờ, chiến sĩ say là trong dĩ vãng!
Tìm lại mình nỗi nhớ chiến trương xưa,
Mượn rượu khỏa khuây Đời bất đắc chí,
Kinh kha bại tướng vở mộng không thành,
Xox
Chiều Saigon khói bay mùi thịt nướng,
Phồn vinh giả tạo…lủ trẻ ăn-chơi,
Quên đất nước cha ông là chiến sĩ,
Một thời chết dở lủ chó nướng thui…
Xox
Hãy chén nó đi vong nô phản quốc,
Chó săn, chó cộng chủ nó xâm-lăng,
Canh tù phát hiện tù nhân trốn trại
Rượt đuổi thuyền nhân tớitận biển khơi,
Xox
Rượu cạn mềm môi tinh thần chiến sĩ,
Phơi xác trên lò xác chó cộng nô,
Nghe mùi chó nướng.bomb cày xác giặc,
Cũng vì mồi chó.rượu vào càng say;
Xox
Có say mới biết đời là lẽ thật,
Địa ngục, thiên đàng Phật Chúa chia ngôi
Tư-Do là của con người định đoạt,
Khôn nhờ dạy chịu ta thời cứ say,
Xox
Giận thời nói vậy lòng thêm tan nát,
Vở mãnh trăng thề non nước mây che,
Hồn non nước réo gọi người chiến sĩ
Tỉnh say; đi nào chiến sĩ Tư-Do,
Xox
Ảo ảnh say; xác thù thay xác chó,
Nước mất ‘quê hương ‘ta nhậu thật say,
Ta thấy sợ cho lòng ngươi phản bội,
Trở ngược cờ cho máu thắm Tự-Do,
Huỳnh-Mai
[Ba lăm năm sau]
Bác
chợt giật mình tỉnh thức vì một trái me rơi chín rụng trúng cái nón che
khuất mặt trời ngủ trưa của bác chung quanh bác là dám nhò học trò lấy
đá ném me chúng la hét ồn ào thấy vui ghê! chúng ném đá hoài mà me không
rụng thấy vậy nóng lòng bác gượng ngồi dậy bước xuống xe theo lũ nhò
thi trổ trồ tài ném me bác là tay bác thiện xạ bắn mẹ của thưởbé học trò
trốn học hái me leo nhà Tây hái trộm mận xoài bị chó Tây rượt chạy về
nhà, bị mẹ đánh đòn bắt ăn phải hết một thúng me chua mua ở chợ cho bỏ
tội trốn học đi bắn me!.Bi đau bụng ỉa chảy hai ba ngày nên thấy me là
phát sợ!?.sao bây giờ bác lại hái me cùng lủ trẻ học trò trong một thân
thể già yếu bệnh hoạn suy tàn kiệt lực.Phải chăng là triệu chứng hiện
ảnh ra đi của một người sắp chết mà nguyện ước chưa hoàn thành khi danh
dự trách nhiệm tổ quốc bị tước đoạt trắng trợn không thương tiếc.Sự hồi
sinh sống lại vui chơi với lủ trẻ học trò chỉ là ào ảnh hiện về!? của
thời niên thiếu là phần thưởng cuối cùng của Thượng Đế ban cho loài
người và cho bác Thọ không thỏa nguyện ước mơ cho dân,cho nước.Sau phúc
vui chơi với trẻ nhỏ để sống lại thời dĩ vãng xa xưa cho thỏa lòng,bác
cảm thấy hơi mệt mỏi buồn ngủ nên bác leo lên chiếc xe xích lô thân yêu
kiếm sống hằng ngày của bác và ngủ một giấc dài vô tận đến nghìn
thu...mặc cho mây trời vẫn bay và lá me vàng lã tả rơi trên thân xác bác
như những giọt nước mắt tiễn đưa sau chiếc xe tang xích lô chở xác bác
mà không có người đưa tiễn khóc cho thân phận chiến tranh của
bác!!!-Một người lính già trên chiếc xe xích lô là cổ quan tài còn xót
lại của quê hương đổ vở Việt Nam!!!Thơ, Huỳnh-Mai St.8872
Quê Hương Tàn Chinh Chiến… {Một người lính già đã ra đi } HuỳnhMai.St.8872 Bh.Dạ Lệ Huỳnh
Ngồi ngắm mây qua khung trời Cải-Tạo,
Lắng tiếng bomb rền…vọng tiếng rừng sâu,
Mắt lệ hỏa châu hết buồn chinh chiến,
Pháo hoa chiến thắng nhỏ lệ trong tù,
Một đời chinh chiến trọn giành tổ quốc,
Một thưở hòa bình cho đất nước tôi,
Mà sao cay đắng dành riêng Cải Tạo,
Góc tối tù đày phần thưởng chiến tranh,
Thương đau chấp nhận vì anh chiến sĩ,
Ngục tù cải tạo…quê hương hòa bình,
-0-
Quê hương một dảy nước non dân tộc,
Một thoáng hòa bình…phải giá đắng cay,
Đời là hạnh phúc “Thiên-đàng Cộng-Sản”
Sống đời nô cộng chịu kiếp sắn khoai,
Bắp ngô độn bửa người thành trâu ngựa,
Hòa bình êm-ả trên đồng cỏ xanh,
Đó là hạnh phúc cho người phản chiến,
Con vật tế thần chủ nghĩa cộng nô,
Đành lở rồi quê hương tàn chinh chiến,
Hòa bình không thấy…thấy toàn thương đau!?
-0-
Hởi người chiến sĩ đừng buồn cải tạo,
Quê hương mình vận nước…hãy chưa thôi,
“Hòa bình phản chiến”ý người dân muốn,
Anh phải ngồi tù…phản chiến theo dân,
“Hòa bình gảy súng” thôi đành chấp nhận,
Danh dự trách nhiệm…đâu bằng hiếu dân,
Chiến đấu hy sinh cũng vì tổ quốc,
Cải tạo tù đày chết cũng vì dân,
Dù chiến bại chí hùng anh bất khuất,
Không hổ thẹn lòng chết cũng vì dân,
-0-
Lâu lắm rồi vận nước chưa đổi thay,
Ba lăm năm chiến thắng giấc ngủ dài,
Thở ngắn than dài mình ta thức trọn,
Canh xác Tự-Do cạnh xác người say,
Người dân chưa tỉnh…Tự-Do còn chết
Đấu tranh đơn độc…hiểm nguy riêng mình,
Chiến hữu Tự-Do tìm đường xứ ngoại,
Bỏ lại mình ta chôn xác Tự-Do,
Không kèn không trống… không ai đưa tiễn,
Tù trong, tù ngoài mộ chí Tự-Do,
-0-
Ta biết tủi hờn…hồn thiêng sông nùi,
Sống chặt đời thà nát với cỏ cây,
Thấy được mình.làm phân cho hoa lá,
Tô điểm thêm đời…thiếu vắng Tự-Do,
Mất Tự-Do rồi…đời đâu nghĩa sống,
Mồ hoang chiến sĩ…sung gảy vẫn còn,
Lưu dấu một thời hòa bình chiến đấu,
Để lại lòng người….một chút nhớ thương,
Sống chi một kiếp…đời người nô cộng!?
Quê hương tàn chinh chiến…mất Tự-Do,
Huỳnh-Mai
{Tàn chinh chiến}
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét