HỌC TẬP CẢI TẠO - VIETNAM's GULAG - KINH TẾ MỚI - ĐỔI TIỀN
Sau khi chiếm
được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê
nguyên cái mô hình "hoc tập cải tạo" của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng
vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết
người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là "cải tạo"
những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước
xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch "cải tạo giết người" này, Hồ Chí Minh đã
giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là "trại
học tập cải tạo."
Sau ngày
30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này,
và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những
người quốc gia trong 150 "trại cải tạo" của chúng trên toàn lãnh thổ
Việt Nam.
"Học Tập Cải Tạo" Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam
Để xây dựng xã
hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả
những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn
Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn
áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của
những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính
là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất
đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội
Miền Bắc đã bị "cào bằng," không còn giai cấp (social class). Các giai
cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền
tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi
người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái
quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa
hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh
đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn "ban hành" một nghị quyết về "học
tập cải tạo." Đây là một mẻ lưới "vĩ đại" cuối cùng nhằm vét hết những
thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa
của y. Các trại "cải tạo" của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu
các trại "lao cải" (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo
lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã "ban hành" một Nghị Quyết (Resolution)
về "học tập cải tạo" mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị
quyết này, hội đồng chính phủ đã "đẻ" ra cái Thông Tư (General Circular)
số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những
thành phần sau đây:
1. Tất cả những
gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên
chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.
Bốn thành phần
trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là "những thành phần
ngoan cố, chống phá cách mạng." (obstinate counter-revolutionary
elements). Thời gian "cải tạo" được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà
chưa "tiến bộ" thì "cải tạo" thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng
thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào "học tập tốt, cải tạo tốt" thì về, thực
tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không
ai biết được số nạn nhân bị đưa đi "cải tạo" là bao nhiêu; nhưng có thể
ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các
"trại cải tạo" là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản
(The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi
Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps ...)
"Học Tập Cải Tạo" tại Miền Nam Việt Nam
Cộng sản ước
tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền
Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như
vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ
trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi "cải tạo" và những
thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những "khu kinh tế mới;"
cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh.
Đây là một kế hoạch "tắm máu trắng" đã được nghiên cứu và tính toán rất
kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.
Một tháng sau
khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số
49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng
để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống
cộng đi "học tập cải tạo," thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge).
Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử
dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân
Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu
tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:
Tội ác thứ 1 -
Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm
những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other
severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules
of international law)
Những người bị
cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng
sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể
mang những người này - công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt
gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực
(aggression) một cách phi pháp - ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ
biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến
tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách
mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967
law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử
thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử
hình; nhưng vì chính sách "khoan hồng" và sự "chiếu cố" của đảng nên
những người này được đưa đi "học tập cải tạo" thay vì đưa ra toà án xét
xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng
cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà
chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền
Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công
dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.
Tóm lại, giam
cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without
formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài
Người.
Tội ác thứ 2 - Tội tra tấn, hành hạ (Torture)
Đối với cộng
sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia
chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã
sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ.
Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của
cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu
biểu:
a. Hành hạ bằng
cách bỏ đói - Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của
người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến
chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được
ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ
cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời.
Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực
tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg
gạo mà chúng gọi là "quy ra gạo." Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho
tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục
nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như
thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày,
không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho
nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là
một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên
Sơn có một anh bạn tù vì "lao động" nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm
chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về
cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ
muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì
thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do
chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết.
Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay
khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén
nhỏ với nước muối. Đến mùa "thu hoạch" ngô và khoai mì do tù trồng, anh
em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân
phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được
cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được
cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập
của chúng, ngày sinh nhật "Bác"của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr
thịt heo hay thịt trâu.
Bỏ đói tù là
một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng
sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại
thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do
đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như
lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái
chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và
không được chữa trị…
b. Hành hạ thể
xác - Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu "lao động là vinh quang." Chúng bắt người
tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm
đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn,
kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt
được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:
• Cắt tiêu
chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt.
Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí
lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và
chết vì rét.
• Cắt tiêu
chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết
chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như
vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi
không nổi phải bò.
• Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.
• Chúng trói
người tù theo kiểu cánh bướm "butterfly style or contorted position"
bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau
lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.
Chúng cột người
tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều
tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.
Trên đây chỉ là
vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu
hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những
giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…
c. Tra tấn tinh
thần - Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị
căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh
thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai
phương pháp sau đây:
- Nhồi sọ chính
trị (Political indoctrination) - Để mở đầu kế hoạch "cải tạo," cộng sản
bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ
đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài
học, người tù phải viết một bản gọi là "thâu hoạch" để nộp cho chúng.
Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên
truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai
vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài.
Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của
đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta
nghèo nhưng ta mạnh.
Dưới sự lãnh
đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời
đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân
dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài "lao động là
vinh quang" để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.
Những bài tuyên
truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị
bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có
tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền
Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh
em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát
và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng
mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây
là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu "sát nhất nhân,
vạn nhân cụ."
- Tự phê
(Confession) - Tiếp theo phần "học tập chính trị" là phần "tự phê."
Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù;
phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến
con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết
tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu
với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp
cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân
đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các
bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để
mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ
quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân
và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao
động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng "trong lòng dân tộc."
Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự
phê; phải moi óc tìm và "phịa" ra những "tội ác" để tự gán và kết tội
mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài "tội ác" so với bản viết lần
trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn
lâu dài.
"Tự phê" một
đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh
thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát
điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…
Tội ác thứ 3 - Tội giết người (Murder)
Những anh em
trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của
chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi
vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là
những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập
là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng
đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với
chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên
Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại
toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam.
Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ
rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên "chánh án"
cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép
râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong "bản án giết người" đã
viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố
đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi
tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu
trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam
lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.
Ngoài cách giết
người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách
khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn;
để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm
những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…
Tội ác thứ 4 - Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)
Người tù phải
sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để
tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra
ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn,
người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù
mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội
gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D,
Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn
đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như
người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua
trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là
sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội
Ác chống Loài Người.
Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)
Theo các tài
liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân
chết trong các "trại cải tạo" là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng
sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay,
chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là
đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi
độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho
thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân
các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn
tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu
mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác
chống Nhân Loại.
Mới đây nhất,
trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày
24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao
cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến
VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất
tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia
đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 "trại tù cải tạo" của
chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản
tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với
những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà
hợp hoà giải. "Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì
chúng làm."
Ngoài 5 tội ác
chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia
đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang
bị tù tại Miền Bắc đi "định cư" tại những "khu kinh tế mới" ở Miền Bắc
mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng
nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những "trại cải tạo." Ý đồ của âm mưu
thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần,
giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch
diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn
Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được
âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản
của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những
nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những
người tỵ nạn chính trị (political refugees).
Cái nghị quyết
số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh -
cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực - là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm
nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human
rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ
bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt
Nam đi "học tập cải tạo" mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5
Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên
đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự
Quốc Tế [2] (International Criminal Court).
Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số "Trại Tù Cải Tạo"
Theo sự ước
tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu
đã được phổ biến "…According to the published academic studies in the
United States and Europe…" thì số nạn nhân và số các "trại tù cải tạo"
được ước tính như sau:
• 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).
• 165,000 nạn nhân chết tại các "trại tù cải tạo."
• Có ít nhất 150 "trại tù cải tạo" sau khi Sàigòn sụp đổ.
Thời Gian "Cải tạo"
Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm,
và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. "…according to
the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10
years…"
Nếu lấy con số
trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn
nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của
bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu
và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.
"...Trong những năm tháng tù tội ngoài giờ đốn củi và làm việc cực khổ từ thể xác đến tinh thần.
Ba đêm về không ngủ ngồi tưởng tượng đã vẽ lại chân dung của con..."
Ngày
Ba đi tù con vẫn còn nhỏ lắm. Mười mấy năm con chưa bao giờ được gặp
mặt Ba, tuy Mẹ kể rất nhiều về Ba cho con nghe, nhưng con không thể nào
hình dung ra được khuôn mặt ba ra làm sao để có thể phác họa. Con chỉ
biết ba con là một người lính Cộng Hoà đặt biệt, Ba biết bắn súng, dám
bơi từ bờ sông Hương bên này qua bên nọ mà không biết mệt. Ba bẻ răng
thằng Việt Cộng kia đến quán cafe Duyên quậy
hôi. Ba một mình vác hòm của em con leo lên đỉnh núi chôn cất, khi Mẹ
còn đang trong tình trạng hôn mê. Ba nói: "Chôn em con trên cao phòng
miền Trung lũ lụt không cuốn mất em đi!"
Trong
những năm tháng tù tội ngoài giờ đốn củi và làm việc cực khổ từ thể xác
đến tinh thần. Ba đêm về không ngủ ngồi tưởng tượng đã vẽ lại chân dung
của con. Ba làm lược chải đầu cho Mẹ, Ba vẽ chị Hai, Ba vẽ lại con
đường đi lên núi cho tụi con sau này tìm em... Mình đã gặp lại nhau rồi
Ba chọn về với Chúa!
Ba àh, hôm nay dọn dẹp con lại tìm thấy Ba gần gũi qua những nét bút chì thân thương. Con nhớ Ba lắm, sẽ có ngày cha con mình đoàn tụ một lần nữa nha Ba. Yêu Ba của con!
Dolly Khuu 05/01/14
Ba àh, hôm nay dọn dẹp con lại tìm thấy Ba gần gũi qua những nét bút chì thân thương. Con nhớ Ba lắm, sẽ có ngày cha con mình đoàn tụ một lần nữa nha Ba. Yêu Ba của con!
Dolly Khuu 05/01/14
Tù nhân được trả tự do từ trại cải tạo được thân nhân ra đón tại ga xe lửa Sài Gòn năm 1988.
Detainees
released from re-education camps arrive at Ho Chi Minh City railway
station to be met by family members. The release occured during the year
1988.
Tù nhân được trả tự do từ trại cải tạo được thân nhân ra đón tại ga xe lửa Sài Gòn năm 1988.
Tù nhân được trả tự do từ trại cải tạo được thân nhân ra đón tại ga xe lửa Sài Gòn năm 1988.
Tù nhân được trả tự do từ trại cải tạo được thân nhân ra đón tại ga xe lửa Sài Gòn năm 1988.
Tù nhân được trả tự do từ trại cải tạo được thân nhân ra đón tại ga xe lửa Sài Gòn năm 1988.
Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.
Chính phủ Hoa
Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi
tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người
này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên
theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với
những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. "…The U.S. government
considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the
Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese
government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers
and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to
the United States… that gives priority to those who spent at least three
years in reeducation…"
Hoa Kỳ coi việc
đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả
một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này
đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. "…
Resettling this group will be a step toward closing out this nation's
debt to its Indochina wartime allies. "These people have been detained
because of their closed association with us during the war," said Robert
Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee
affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…"
Phải nói môt
cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn
tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm
trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure
Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation)
tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các
con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng
sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01,
H.02…. H.10, H.11, H.12…
Cộng sản và tay
sai có thể lợi dụng cái danh xưng "HO" không Chính không Thực và Lập Lờ
này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu
láo rằng: "Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh
này, mà còn tổ chức cả một "Chiến Dịch Nhân Đạo/HO" để cho đi định cư
tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh,
biểu tình chống lại đảng…" Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính
chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả
Thành Chân cái nguỵ danh "HO" để xuyên tạc sự thật lịch.
Học tập cải
tạo" là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes
against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7
of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân,
cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp
sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt
gian cộng sản. Cái nguỵ danh "tù cải tạo/HO" phải được Chính Danh là: Tù
Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh
và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ "cải
tạo" của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng
vì các anh có "nợ máu" với nhân dân nên các anh phải đi "cải tạo," và
khi tự gọi mình là "tù cải tạo" tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi
tự gọi mình là một "HO"- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để
chỉ một người "tù cải tạo" - là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính
trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính
trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử
là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.
Đỗ Ngọc Uyển - Sanjose, California
Tài liệu tham khảo:
THE NATION; The Next Wave From Vietnam: A new Disability by Seth Mydans
U.S Department of State – Fact sheet - Bureau of Population, Refugee and Migration – Washington DC – January 16, 2004
Chú thích :[1] 11 tội ác chống nhân loại được dự liệu trong Điều 7 của
Đạo Luật Rome gồm có: 1- Murder; 2- Extermination ; 3- Enslavement; 4-
Deportation or forcible transfer of population; 5- Imprisonment or other
severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental
rules of international law; 6- Torture; 7- Rape, sexual slavery,
enforced prostitution, forced pregnancy, enforced sterilization or other
form of sexual violence of comparable gravity; 8- Persecution against
any identifiable group or collectivity on political, racial, national,
ethnic, cultural, religious, gender as defined in paragraph 3, or other
grounds that are universally recognized as impermissible under
international law in connection with any crime within the jurisdiction
of the court; 9- Enforced disappearance of persons; 10- The crime of
apartheid; 11- Other inhumane acts of a similar character causing great
suffering, or serious injury to body or to mental or physical health;
[2] Toà Án Hình Sự Quốc Tế (International Criminal Court) là toà án độc
lập và thường trực được thành lập theo Đạo Luật Rome (The Rome Statute)
để điều tra và xét xử 4 loại tội ác sau đây: 1- Crimes against humanity
(Tội ác chống nhân loại); 2- The crime of genocide (Tội ác diệt chủng);
3- Crimes of war (Tội ác chiến tranh); 4- Crimes of aggression (tội ác
xâm lược)
Trang audio book "Trại Kiên Giam" dành cho mobile, palm top, hay iPhone, iPod:
NGHE AUDIO THIÊN HỒI KÝ TRẠI KIÊN GIAM CỦA NGUYỄN CHÍ THIỆP
Bộ audio truyện này dài 74 tập, được thực hiện qua sự diễn đọc của ký giả Trần Nam.
Click vào các số đoạn để nghe với player của máy bạn.
Thiên hồi ký
Trại Kiên Giam đưa chúng ta trở về với những trang sử đau thương của dân
tộc; mở đầu bằng ngày 30 tháng Tư năm 1975; ngày mà hàng triệu người
phải rời xa đất Mẹ; ngày mở đầu một địa ngục cho hàng trăm ngàn chiến
sĩ, quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa bất khuất. Thiên hồi ký Trại Kiên
Giam trình bày tất cả những bi thảm của một trong những trại tù kiên cố
cộng sản được gọi là cải tạo và những khổ đau bất hạnh trong một xã hội
có nhiều tầng địa ngục được gọi là thiên đường...
Nguyễn Chí Thiệp sinh năm 1944 tại Quảng Nam, học các trường Phan Chu
Trinh Ðà Nẵng và Chu Văn An Sài Gòn. Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh 1965 - 1969, trường Bộ Binh Thủ Ðức 1966, Chính Trị Kinh Doanh Ðà
Lạt 1970.
Năm 1975 không trình diện học tập, bị bắt tháng 9 năm 1976 trong khi
chuẩn bị vượt biên. Bị giam tại các trại giam Sở Công An Thành Phố, Phan
Ðăng Lưu và Chí Hòa. Cải tạo lao động tại các trại Z-30A Long Khánh,
A-20 Xuân Phước Phú Yên. Ðược thả tháng 2 năm 1988. Vượt biên đến đảo
Pulau Bidong, Mã Lai, tháng 5 năm 1988. Cư trú tại Hoa Kỳ từ tháng 10
năm 1989.
Thiên hồi ký Trại Kiên Giam
Sau khi cuốn hồi ký The GULAG Archipelago (Quần Ðảo Ngục Tù) của nhà văn
Aleksandr Solzhenitsyn (Nga) được nhà xuất bản Harper & Row (Hoa
Kỳ) xuất bản năm 1973, giới văn học cũng như báo chí và truyền thông thế
giới mới được biết một phần nào về chế độ lao tù của Cộng sản, đặc biệt
là tại Sô Viết. Trong cộng đồng Việt Nam, trước Solzhenitsyn, năm 1969
tác giả Trần Văn Thái đã cho ra mắt cuốn hồi ký Trại Ðầm Ðùn (giải
thưởng văn học nghệ thuật 1969 về bộ môn văn), nhưng có rất ít báo chí
và truyền thông Việt Nam Cộng Hòa nhắc đến tác phẩm này.
Tại hải ngoại, sau 30 tháng 4 năm 1975, tập thể người Việt tị nạn (đã di
tản trong những ngày trước 30 tháng 4 1975) mới được hiểu rõ hơn về
chế độ lao tù của Cộng sản Việt Nam qua các cuốn hồi ký như: Cùm Ðỏ của
Phạm Quốc Bảo (1983), Ðại Học Máu của Hà Thúc Sinh (1985), Thép Ðen của
Ðặng Chí Bình (1987), Hà Nội Báo Ðộng Ðỏ của Dương Văn Lợi (1992).
Tôi đã đọc hết các quyển hồi ký này bằng một tấm lòng của một người chưa
hề bị tù tội bao giờ. Nhưng càng đọc, tôi lại càng cảm thấy như chính
mình đang ở trong cái hoàn cảnh nghiệt ngã ấy.
Cùng năm 1992, tác giả Nguyễn Chí Thiệp cho ra mắt cuốn hồi ký Trại Kiên
Giam nhưng tôi chưa có dịp được nhìn thấy tác phẩm, cho mãi tới hôm nay
tôi mới có dịp đọc ấn bản tái bản lần thứ hai (10/2000) do văn hữu Ngô
Sỹ Hân gửi tặng.
Tôi đã lần đọc từng trang sách để cảm nhận và chia xẻ với tác giả cùng
những bạn tù của ông về những nỗi khổ đau của người ngã ngựa, những
tháng năm quằn quại trong lao tù Cộng Sản, những chí hướng quật khởi
kiên cường, những mộng ước mai sau về một xã hội hậu Cộng Sản, v.v.. Ðọc
suốt tác phẩm, tôi lắng nghe con tim mình thổn thức, xao xuyến và bồi
hồi. Cảm nhận nỗi đau đớn của tác giả như chính nỗi đau đớn của mình,
của dân tộc mình. Ðọc tác phẩm Trại Kiên Giam để đi tìm một ánh sáng ở
cuối đường hầm, để bắt gặp những hào kiệt trong một xã hội tan rã, để
gặp lại những đồng chí còn cưu mang hoài bão cho một nước Việt Nam Tự
Do, v.v.
Sau khi gấp sách lại, tâm tình lắng đọng, tôi tạm chia nội dung cuốn hồi
ký Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp thành 6 phần như sau: Bối cảnh
Miền Nam sau 30/4/1975, Người Cộng Sản nói về Cộng Sản, Những bài học
đắng cay của chính tác giả, Những tháng năm trong lao tù Cộng Sản, Những
cái nhìn thiết thực về Cộng sản, và Những mong ước và hoài bão.
I. Bối cảnh Miền Nam sau 30/4/1975
Ở phần này, tác giả ghi lại từng chi tiết một về bối cảnh sinh hoạt của
Miền Nam, nói chung, và Sài-Gòn, nói riêng, sau ngày 30/4/1975, như:
sinh kế thường nhật của người dân, cảm nghĩ về chính quyền mới, sự lo
lắng cho chính bản thân mình và thận phận mình, các tổ chức chống đối
chế độ mới, những cuộc trình diện học tập, v.v.
Nhờ có óc quan sát tinh tường, sự nhận thức sâu sắc và sự nhận định
chính xác, tác giả đã diễn tả sự hiểu biết về Cộng Sản của người dân
Miền Nam một cách tổng quát như sau: "Cái hiểu biết quá đơn sơ về Cộng
Sản nên đa số chỉ nghĩ là phải khổ và chịu khổ được, chịu ăn mặc xấu xí
được là có thể sống yên thân trong chế độ Cộng Sản". (trang 25) Chính sự
hiểu biết quá đơn sơ ấy đã xui người dân Miền Nam phải miễn cưỡng chấp
nhận một cuộc đổi đời bi thảm bằng chính xương máu và nước mắt của mình.
Nói tóm lại, tâm lý chung của người dân Miền Nam lúc bấy giờ là: "Tâm lý
đứng núi nầy trông núi nọ, tình hình chính trị tồi tệ của miền Nam, sự
kém hiểu biết về Cộng sản làm nhiều người không còn sợ Cộng sản". (trang
31) Không còn sợ Cộng sản nữa, nhưng họ cũng không biết phải làm gì để
diệt trừ chúng, mặc dù "Ða số dân Saigon không chịu mang dép râu đội mũ
tai bèo". (trang 26) Bởi vì họ đã nhìn thấy tận mắt hình ảnh của người
lính Bắc Việt: "Người lính giải phóng trông ngờ nghệch, lúng túng trước
cảnh rộn rịp và to lớn của Saigon, phần lớn họ rất trẻ". (trang 26) Thế
mà người dân Miền Nam đã bị Cộng sản đánh lừa một cách đau đớn: "Giờ đây
mấy lon gạo cứu đói là lý do buộc họ phải ra khỏi thành phố về quê sản
xuất theo chính sách. Họ có cảm tưởng bị đánh lừa". (trang 31) Càng bị
đánh lừa thì người dân càng thấm thía nỗi đau: "Người dân nghèo mới vỡ
lẽ, cách mạng đem lại vinh quang và công bình cho người nghèo trong tổ
chức của họ, còn dân nghèo muôn đời vẫn là người chịu đựng trước tiên
những đau khổ, áp bức theo chính sách phải đi ra khỏi thành phố trước cả
mấy ông 'ngụy quân', 'ngụy quyền' ". (trang 32)
II. Người Cộng Sản nói về Cộng Sản
Không ai hiểu rõ Cộng sản bằng chính người Cộng sản. Chính vì thế mà
chính quyền VNCH đã có chính sách chiêu hồi và sử dụng những người chiêu
hồi ấy vào những công tác tình báo và tâm lý chiến, chẳng hạn như
Thượng Tá Tám Hà và nhà văn Xuân Vũ, v.v. Cho tới ngày 30/4/1975 chính
tác giả Nguyễn Chí Thiệp, mặc dù là một công chức trung cấp, cũng chưa
có cái nhìn rõ rệt về Cộng sản cho nên ông đã quyết định ở lại để rồi
sau đó phải nhận lãnh 12 năm tù.
Sau 30/4/1975, một người chú họ của tác giả từ Hà Nội vào thăm thân nhân
ở Ðà Nẵng. Khi thấy Nguyễn Chí Thiệp còn ở lại VN, ông ta ngạc nhiên
hỏi: "Tại sao cháu không đi Mỹ? Về đến Ðà Nẵng, gặp chị (mẹ tôi) nói cả
gia đình ở lại Saigon. Cháu không đi nước ngoài thật vô lý". (trang 36)
Nhờ lần gặp đầu tiên với chú Bình (kỹ sư của Bắc Việt) tác giả mới có
dịp tìm hiểu về bộ mặt thật của Cộng sản và dứt khoát chọn một thái độ.
Chú Bình nói thẳng và nói thật với Nguyễn Chí Thiệp về chính sách trả
thù của Cộng sản như sau: "Cháu đừng nghĩ trả thù chỉ là giết chết, họ
sẽ không giết nhưng họ sẽ đưa đi các trại tập trung cải tạo không có
ngày về". (trang 37)
Về chủ trương của Cộng sản, chú Bình cho biết: "Ðảng chủ trương phá bỏ
luân lý cũ, phá vỡ trật tự xã hội, đưa trẻ con ra ngoài xã hội, nhưng
Ðảng lại quá tham lam, họ muốn sử dụng đứa trẻ mà không cưu mang nó, bắt
gia đình phải nuôi nó, Ðảng chỉ dạy cho nó hận thù và những phương pháp
đấu tranh. Họ phủ nhận tình thương giữa con người với nhau". (trang 38)
Sau khi nhìn thấy tận mắt cái vết tích của sự phồn vinh của Miền Nam
trước 30/4/1975, chú Bình tiết lộ về cách xảo quyệt của hệ thống tuyên
truyền của Miền Bắc như sau: "Ở miền Bắc người ta đều hiểu sai về miền
Nam, hệ thống tuyên truyền của Hà Nội đã mô tả xã hội miền Nam cực kỳ
xấu xa, lạc hậu và nghèo đói". (trang 39)
Ðể trả lời câu hỏi của Nguyễn Chí Thiệp "Tại sao người ta bất mãn mà
không có chống đối tích cực?", chú Bình cho biết: "Không chống đối vì
sức đối kháng đã bị tiêu diệt. Nghệ thuật cai trị của Cộng sản là tiêu
diệt sức đề kháng của nhân dân. Chính sách công an nhân dân và nhân dân
hộ khẩu nhằm thi hành mục tiêu đó". (trang 47)
Chú Bình căn dặn tác giả:" Ðừng mong đợi tụi nó (CS) làm gì cho đất
nước. Chú là đảng viên, chú được đi nhiều nơi, chú có suy nghĩ, các
khuyết điểm của chế độ Cộng sản là bản chất không phải là hiện tượng,
vậy nên nếu có hy sinh cũng vô ích mà thôi". (trang 49)
Nói tóm lại, "Giai cấp lãnh đạo ở miền Bắc là một triều đình tập hợp
chung quanh vị Hoàng đế là lãnh tụ, cấu kết quyền lợi, dua nịnh lãnh tụ
để bảo vệ quyền lợi hiện có và con đường tiến thân". (trang 56)
III. Bài học đắng cay của chính tác giả
Sau khi được chú Bình giải thích cặn kẽ về Cộng sản, tác giả mới thấy
được sự sai lầm trong quyết định ở lại, ông tự thú nhận như sau: "Lúc đó
tôi mới biết hết hậu quả của một quyết định sai của tôi. Ở lại, không
những tôi bị tù đầy, mà gia đình tôi cũng bị trả thù bằng chính sách
phân biệt đối xử. Tôi đã nghĩ một cách sai lầm là nếu tôi có bị hoàn
cảnh lịch sử bỏ rơi, thì con em tôi còn nhỏ có thể được lớn lên như là
một người Việt Nam bình thường. Tôi bắt đầu thấy chính sách trả thù của
Cộng sản còn độc ác hơn là tắm máu". (trang 39)
Tác giả thố lộ tâm sự: "Những suy nghĩ làm tôi càng ân hận vì quyết định
không di tản, cái quyết định ở lại thật ngu xuẩn, chỉ vì nhất thời bức
xúc, tức tối những người lãnh đạo đê hèn, bỏ chạy trước địch quân mà
không chiến đấu". (trang 131-132)
IV. Những tháng năm trong lao tù Cộng sản
Tác giả thuật lại cái đói lần đầu tiên trong đời ở trong trại tù Cộng
sản: "Tôi đã thèm ăn từ lâu, khởi đầu là thèm đường, rồi thèm mỡ, bây
giờ thèm đủ thứ, chén cơm hẩm với nước muối bây giờ quá ngon, không đủ
no, ăn vào lưng lửng nhưng ngày nào cũng mong tới giờ cơm, mỗi bữa ăn
tôi cố ngồi nhai từng muỗng, nhai thật kỹ, miếng cơm thành ngọt hơn,
phải chú ý nhai và kềm để cái lưỡi không cuốn nuốt miếng cơm xuống, lơ
đãng một tí là miếng cơm mới đưa vào mồm đã chạy tuột xuống cuống họng
một cách tự nhiên và nhanh chóng". (trang 141)
Chỉ mới bốn tháng nằm tù mà cơn đói đã hành hạ người tù rất là khổ sở:
"Kể từ thứ năm tuần đó tôi được nhận quà lần đầu tiên. Ngồi ăn vội vàng
những món nhà gửi, chỉ mới bốn tháng ăn cơm với muối mà tôi như con ma
đói, cái gì cũng thèm, cũng ăn qua từ ngọt đến mặn, cắn vào miệng chưa
kịp nhai đã vội nuốt, ăn bụng đã no mà mắt vẫn thèm, miệng vẫn chảy nước
dãi và muốn ăn nữa". (trang 169)
Về sự thâm độc của Cộng sản, tác giả cho biết: "Cộng sản Việt Nam thâm
độc hơn. Chúng giữ kẻ thù của chúng lại để làm nô lệ, làm con vật sản
xuất trong các trại tập trung mà chúng không tốn kém gì vì người tù phải
tự làm lấy ăn và còn phải nuôi bọn cai tù và đóng góp cho ngân sách nhà
nước. (trang 171) Và Cộng sản vắt từ giọt máu của người tù ở trong trại
cải tạo. Người tù đem sức ra làm lao động đến kiệt sức và chết ở đó".
(trang 251)
Tiêu chuẩn khẩu phần cho tù nhân ở trại tù Long Khánh như sau: "Trưa và
tối mỗi bữa một chén cơm độn khoai mì với nước muối, nên mới có hơn hai
năm cải tạo mà những người trình diện trông đã tiều tụy lắm. Lương thực
mỗi ngày cắt dần phần gạo, thời gian đầu ăn toàn cơm nhưng gạo hẩm, sau
nửa cơm nửa ngô, rồi ngô được thay bằng khoai mì khô. Mức độ độn tăng
dần theo thời gian, 50% độn, rồi 75%, 80%, rồi đến cuối năm 1978 mỗi
tuần trại Long Khánh chỉ ăn 2 bữa cơm, 12 bữa ăn còn lại chỉ ăn khoai mì
khô". (trang 249)
Khi tù nhân ra đến trại Xuân Lộc thì khẩu phần lại teo rút đi vì cán bộ
hậu cần thông đồng với cán bộ quản giáo nhà bếp để ăn chận số phần ăn
của tù. Tác giả viết: "Chúng tôi được anh em đội nhà bếp thông báo trong
lần chở bắp đi đổi khoai mì, cán bộ hậu cần và cán bộ quản giáo nhà bếp
thông đồng nhau chở về 10 tấn khoai mì thối của kho thực phẩm huyện
Xuân Lộc. Trại sản xuất chính là ngô trắng, ngô dùng ăn độn là phần tự
túc của trại cùng với phần tiêu chuẩn gạo của Bộ Nội Vụ. Theo công thức
đổi các loại lương thực của nhà nước Việt Cộng đề ra là gạo = 2 ngô = 3
khoai lang = 4 khoai mì tức 1 kg [gạo] đổi 4 kg khoai mì. Như vậy tiêu
chuẩn phần ăn là 15 kg gạo cho mỗi người tù trong một tháng; nếu độn 50%
thì đáng lẽ phải ăn 7.5 kg gạo + 15 kg ngô hoặc 7.5 kg gạo + 22.5 kg
khoai lang hay 30 kg khoai mì (sắn). Nhưng quản lý trại đã ăn gian chỉ
cho ăn 7.5 kg gạo + 7.5 kg ngô, hoặc 7.5 kg khoai các loại tức là giảm
lược tiêu chuẩn tổng cộng chỉ 15 kg dù ăn loại lương thực nào. Ðó là
bước gian lận thứ nhất. Bước thứ hai là chúng đem ngô trắng [do] chúng
tôi sản xuất ra kho huyện đổi thành ngô đỏ. Ðến năm 1978 thì mức độ độn
càng cao, chúng càng ăn gian qua bước thứ ba là đem ngô đổi khoai mì
khô." (trang 266)
Vì thế nên cách ăn ở trong tù các tù nhân cũng phải ăn có phương pháp:
"Hôm nào ăn ngô là tốt nhất, bốc từng hạt ngô vừa nhai vừa đếm, mỗi hạt
ngô nhai thành 50 hay 100 lần thật kỹ, nhai kỹ hơn cả kiểu ăn Osawa gạo
lức muối mè. Nhai nhiều lần không nuốt thì hạt ngô cũng biến vào cổ lúc
nào không hay. Lại tiếp tục nhai đến hạt khác. Thường thường mỗi bữa ăn
từ hơn 250 đến 260 hạt, lần nhiều nhất được 267 hạt và có lần ít chỉ
được 187 hạt". (trang311)
Tới năm thứ ba trong tù (1979), tác giả diễn tả thân thể của mình như
sau: "Nằm nắn bóp thân thể hàng ngày, sờ rõ những khoản lồi lõm trên
đầu, trên mặt, ở cổ tay, cổ chân, khuỷu tay, đầu gối, chỗ nào cũng lòi
ra, hai cái mông đã teo hết thịt, xương mông lồi ra chạm vào bệ nằm đau
điếng khi chuyển trở mình". (trang 312)
Miếng ăn ở trong tù là một nhu cầu tối quan trọng, nhất là những người
bị nhốt trong xà lim lâu ngày như Nguyễn Chí Thiệp. Tác giả thuật lại
như sau: "Nằm mãi xà lim, kiểm lại thân thể và những nhu cầu đòi hỏi,
tôi tưởng mỡ với đường là quan trọng; nhưng khi thèm muối mới thấy muối
còn quan trọng hơn cả đường mỡ. Không có muối con người cứ mỏi mệt dần
dần, mỏi từ thớ thịt đến từng khớp xương. (trang 315) Ông viết tiếp:
Nhắc tới thịt tôi cũng rỏ nước miếng, nuốt liền mấy lần nước miếng vẫn
ứa ra đầy mồm. Tôi đang thèm mọi thứ, đã 38 ngày ăn lạt, không có tí
muối, người đã rã rượi, mỏi nhừ, chỉ cần một muỗng nước muối đã là hạnh
phúc lắm đừng nói đến đường hay một miếng thịt, nhất là miếng mỡ heo".
(trang 322)
Tác giả diễn tả giá trị của miếng thịt và cục đường ở trong xà lim như
sau: "Chết và Sống đối với người tù kỷ luật tính hàng ngày, hàng giờ.
Một món thức ăn vô cùng quan trọng, có thể kéo dài thêm sự sống một thời
gian ngắn, không chừng trong thời gian đó lại được thả ra, lúc đó thì
lại sống trở lại, giá trị miếng thịt, cục đường nó ngang với sự sống
trong hoàn cảnh này". (trang 322)
Ở trại tù Xuân Lộc tương đối ít khắc nghiệt hơn trại tù Xuân Phước (tức
trại Kiên Giam) mà người tù còn bị miếng ăn dằn vật đến như thế, thử
tưởng tượng ở trại tù Kiên Giam người tù nhân bị bao tử hành hạ tới bực
nào!
V. Những cái nhìn thiết thực về Cộng sản
Vì ngây thơ về Cộng sản nên tác giả Nguyễn Chí Thiệp đã đổi lấy một bài
học bằng 12 năm tù, do đó ông mới có cái nhìn thiết thực về Cộng sản:
"Độc lập dân tộc chỉ là một bước chiến lược. Xây dựng chủ nghĩa xã hội
mới là cứu cánh". (trang 45)
Nhận xét về các lãnh tụ Cộng sản, Nguyễn Chí Thiệp tiết lộ như sau: "Họ
làm lãnh tụ cách mạng là biết cách thúc đẩy toàn dân làm cách mạng, còn
họ thì hưởng, gia đình họ hưởng; họ quyết tâm giải phóng miền Nam, nhưng
ra chiến trường là người khác chết, con em người khác chết. Các lãnh tụ
không ai có con phải vào chiến trường B cả, con của họ đi học ngoại
quốc. Họ cấu kết nhau thành một tầng lớp thủ lợi riêng tư sống trên
xương máu của nhân dân, cấu kết với nhau trong nước chưa đủ để củng cố
địa vị, họ còn cấu kết với nước ngoài. Ông Lê Duẩn đem gả con gái cho
cháu trai của Breznev bên Liên Sô không phải để giữ chắc cái ghế Tổng Bí
Thư là gì". (trang 187)
Tại sao Cộng sản chủ trương bạo lực, tập trung Dân Chủ và đấu tranh giai
cấp? Tác giả Nguyễn Chí Thiệp trả lời như sau: "Ðảng Cộng sản và chủ
trương bạo lực là phương tiện để các nhà lãnh đạo củng cố chính quyền
độc tài của mình, biến người dân thành một công cụ sản xuất. Tập trung
Dân Chủ là một thuật ngữ để biện minh cho tính độc tài, đấu tranh giai
cấp là một đường lối để tiêu diệt kẻ đối lập". (trang 260)
Tác giả than: "Chính sách của Cộng sản đã phi nhân, tàn nhẫn mà tổ chức
chính quyền còn làm cho sự tàn nhẫn đó tăng thêm nữa". (trang 265) Ông
viết tiếp: "Xã hội Cộng sản, con người chỉ phát triển tính ác. Tóm lại,
chế độ Cộng sản được xây dựng trên một lý thuyết sai lầm, dùng hận thù
làm một động lực kết hợp và phát triển, khai thác tính ác, tính xấu và
tính đố kỵ bần tiện của con người; tổ chức nặng nề và thư lại nên chế độ
Cộng sản là một chế độ cực kỳ xấu xa, con người Cộng sản hầu hết là
những người độc ác và đê tiện. Dân chúng sống trong chế độ Cộng sản cực
kỳ nghèo đói, khổ sở". (trang 272)
Ðể trả lời câu hỏi "Liệu chế độ Cộng sản có thể tồn tại lâu dài tại Việt
Nam hay không?", tác giả quả quyết: "chế độ Cộng sản không thể tồn tại
lâu dài ở Việt Nam, nó không phải là bất khả thay thế hay bất khả đánh
đổ như những người trí thức ở Hội Trí Thức Yêu Nước lý luận". (trang
197) Vì rằng "Nó chỉ tồn tại ở bên ngoài bởi tổ chức và bạo lực áp bức,
còn bên trong nó bị chính con người đào tạo ra nó từ khước". (trang 197)
Tuy nhiên, tác giả cẩn thận nhắc nhở chúng ta: "Nó sẽ bị đánh đổ, nhưng
muốn đánh đổ một chính quyền có sức mạnh bạo lực và có tổ chức chặt chẽ
là một vấn đề rất khó khăn và đòi hỏi thời gian, không phải một sớm một
chiều mà làm được như nhiều người mong muốn". (trang 197-198)
Về phương thức chống Cộng sản ở trong nhà tù, tác giả tiết lộ như sau:
"Bọn cán bộ Cộng sản được giáo dục hận thù, chúng càng thấy người tù khổ
sở, đau đớn chúng càng thích thú. Chỉ có giữ cho tinh thần vững mạnh là
một phương thức chống Cộng sản căn bản nhất trong nhà tù. Chịu sự hành
hạ mà không tỏ ra khổ sở, vẫn dửng dưng càng làm cho bọn cán bộ Cộng sản
tức tối". (trang 230)
Nhận xét về biện pháp tẩy não của Việt Cộng, tác giả viết: "Không phải
chỉ có những bài học tuyên truyền, bằng luận cứ một chiều, bằng những từ
ngữ khuôn mẫu để tẩy não người tù; mà bằng cách sống hàng ngày, tạo sự
sợ hãi và tuân phục cũng là một biện pháp tẩy não". (trang 254)
VI. Những mong ước và hoài bão
Ngay cả những lúc nằm trong xà lim, Nguyễn Chí Thiệp vẫn luôn mơ ước có
một cuộc chiến đấu mới: "Tôi mơ ước bạn bè của tôi và cả những người có
trách nhiệm làm mất miền Nam sau khi chạy trốn thoát thân, biết kiểm
điểm lại tội lỗi của mình, rút ưu khuyết điểm của cuộc chiến đấu vừa
qua, gạt bỏ đi những tàn tích cũ, những thói hư tật xấu do hậu quả của
lịch sử một trăm năm bị nô lệ Pháp để làm lại một cuốc chiến đấu mới.
Người chiến sĩ không phải một lần thua trận là hết, đã là chiến sĩ phải
đứng lên chiến đấu sau một lần bị ngã. Phải chiến đấu trở lại. Nếu sau
lần ngã rồi nằm im luôn thì không xứng đáng là một chiến sĩ, không xứng
đáng là một quân nhân". (trang 133)
Ông cũng mong cả những nhà lãnh đạo Miền Nam và các Tướng lãnh hãy làm
lại một cuộc chiến đấu mới: "Tôi mong Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó
Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, các Tướng lãnh đã chạy ra ngoại quốc không nằm
hưởng những của cải thu góp sống cuộc sống xa hoa ở ngoại quốc. Tôi
mong họ tiếp tục tập hợp lại những người đã chạy. Nhận rõ những lỗi lầm
của mình với dân với nước, nếu họ không làm được như vậy, họ không xứng
đáng mang danh dự là một chiến sĩ. Tôi tin tưởng vào sức sống của dân
tộc, vào tinh thần chống Cộng của toàn dân đang biểu lộ rất nồng nhiệt
chỉ thời gian ngắn sau khi Cộng sản chiếm hoàn toàn nước Việt Nam, thật
nhạy bén khi họ nhận rõ Xã Hội Chủ Nghĩa không phải là một mô thức cần
thiết để xây dựng đất nước, sự từ khước văn hóa Cộng sản ở mọi người dân
Việt Nam kể cả những người nông dân trước kia đội gạo nuôi kháng chiến
và kể cả tiềm tàng những người đảng viên Cộng sản có tâm huyết với sự
tồn tại và phát triển của dân tộc và đất nước như chú Bình và theo như
lời chú Bình, thành phần này không ít trong hàng ngũ đảng viên Cộng sản,
họ chỉ chờ thời cơ là làm một cuộc chiến đấu mới". (trang133-134)
Bởi vì "Việt cộng chiếm miền Nam không phải đã kết thúc một cuộc chiến
tranh, nó chỉ kết thúc một giai đoạn lịch sử và nó khởi đầu một giai
đoạn lịch sử mới". (trang 124)
Tác giả hy vọng: "Tôi hy vọng rất nhiều vào tương lai, luôn luôn tôi có
niềm tin là đất nước Việt Nam sẽ có ngày hưng thịnh trở lại, và toàn dân
Việt Nam sẽ đứng lên làm một cuộc vận động lịch sử mới cho dân tộc, tất
cả hầu như đã sẵn sàng chỉ còn chờ một hiệu lệnh phát khởi. Tôi tin vào
sự trưởng thành của dân chúng và trong vận hội mới đó sẽ lọc lựa được
những người đủ tài trí, thực tâm đối với con người, xã hội và đất nước
thành người lãnh đạo tương lai và sẽ tự động đào thải những thành phần
cơ hội, hoạt đầu tham vọng cá nhân". (trang 513)
Và tác giả luôn vững tin vào một ngày mai chế độ Cộng sản sẽ bị tiêu
diệt hoàn toàn: "Các nước Cộng sản không thể giam hãm mãi con người và
tư tưởng của dân chúng sau bức màn sắt. Những nhận thức và hiểu biết mới
về con người, làm cho tư duy thuần lý, giáo điều và các cơ cấu chính
trị, kinh tế trên hệ tư tưởng đó trở nên lỗi thời. Ðó là nguyên nhân sự
cáo chung của chủ nghĩa Cộng sản. Cộng sàn chỉ còn lại hình thức tổ
chức, ở nơi nào dân chúng và chính đảng viên Cộng sản đứng lên đấu tranh
xóa bỏ tổ chức thì chế độ Cộng sản sẽ [bị] tiêu diệt hoàn toàn". (trang
526)
Vì: "Trước kia lòng yêu nước và tình thương con người và lý tưởng công
bằng bị Cộng sản tương tranh và họ ở thế hấp dẫn hơn. Ngày nay, chúng ta
hoàn toàn thuận lợi ở những giá trị tinh thần này. Chỉ có những giá trị
tinh thần này mới là động lực của toàn dân. Sức mạnh tinh thần cộng
thêm phương tiện vật chất và kỹ thuật tổ chức là những yếu tố tất thắng
của người quốc gia. Sức mạnh tinh thần đã có; chỉ còn hai yếu tố sau,
như vậy, vấn đề chống Cộng ngày hôm nay sớm muộn tùy thuộc vào khả năng
kết hợp thành tổ chức và sự huy động phương tiện, phương tiện có thể từ
chính của chúng ta có được hay cả sự giúp đỡ của đồng minh". (trang 531)
* * *
Ðể kết thúc "Lời Nói Ðầu của Dịch Giả" cho bản dịch cuốn hồi ký "Lời
Nguyện Cầu" (in năm 1986) của Sergei Kourdakov, nhà văn Nhị Lang đã hạ
bút như sau: "Thương tiếc Sergei Kourdakov, tôi quyết truyền bá những
giòng chữ viết bằng máu và nước mắt của anh, để gọi là góp công cùng anh
trong công cuộc đấu tranh tràng kỳ chống chủ nghĩa mác-xít vô thần và
bảo vệ tín ngưỡng. Tôi cũng hy vọng tấm gương phản tỉnh của anh sẽ làm
sáng mắt những kẻ nào ở đây, ở khắp thế giới, và ở Việt Nam, đã và đang
rắp ranh bán rẻ linh hồn cho bọn quỷ đỏ, để đời đời bị nguyền rủa, bị
chà đạp, bị khinh khi, như những thứ vi trùng ghẻ lở, như những đứa sát
nhân ghê tởm mà xã hội văn minh không bao giờ dung thứ".
Vâng, Cộng sản Việt Nam quả đúng là những thứ vi trùng ghẻ lở, những đứa
sát nhân ghê tởm mà người Việt Nam không bao giờ dung thứ được.
Người viết hy vọng cuốn hồi ký của Nguyễn Chí Thiệp và cả những cuốn hồi
ký khác sẽ là những tiếng chuông cảnh tỉnh cho những người Cộng sản
Việt Nam mau sớm thức tỉnh mà quay đầu tạ tội với Quốc Dân, lập tức từ
bỏ bạo lực, và nhường quyền lãnh đạo đất nước cho những người thực sự
yêu nước và có trình độ hiểu biết cao hầu tái lập lại một xã hội công
bằng, bác ái và lành mạnh để đất nước sớm vươn mình cùng những nước anh
em văn minh tân tiến, hòa bình và thịnh vượng trên thế giới. Tôi cũng hy
vọng tác giả cuốn hồi ký "Trại Kiên Giam" luôn luôn giữ được bầu nhiệt
huyết và ý chí kiên cường của thuở nằm gai nếm mật để cùng các hào kiệt
đứng lên mở một mặt trận mới cho đến ngày thắng lợi của Dân Tộc.
(Ðức Phố, ngày 5 tháng 10 năm 2002)
Nước mắt của các gia đình cựu tù “cải tạo”! / Thơ Giồng Ông Tố
07 Tháng Mười 201412:00 SA(Xem: 4711)
“NHẬTBÁO VĂNHÓA-CALIFORNIA” THỨ NĂM
09 OCT 2014
Sĩ quan VNCH bị bắt đi tù cải tạo
sau ngày 30 tháng 4, 1975. AFP/Getty Images.
Lời người viết: Như mọi người đã biết về những cảnh ngộ của các cựu tù “cải tạo”, qua nhiều ngòi bút, hoặc nghe kể lại. Riêng người viết loạt bài này, vì đã từng là nạn nhân và cũng từng chứng kiến với những cảnh đời dâu bể, đã khiến cho người viết không thể nào quên được !
Chính vì thế, bắt đầu hôm nay, người viết sẽ dùng ngọn bút của mình để tuần tự qua nhiều kỳ, ghi lại tất cả những cảnh ngộ vô cùng bi thương ấy; và dẫu cho có muộn màng; nhưng với lòng chân thiết, người viết xin được cùng xẻ chia cùng các gia đình nạn nhân, là các cựu tù năm cũ. Và dĩ nhiên, người viết chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, mà không nêu tên họ thật.
Kính xin quý vị đã từng “chết đi sống lại” trong những hoàn cảnh này, hãy nhận nơi đây, những dòng nước mắt, khóc cho những cảnh đời tang thương - tân khổ, trong suốt những tháng năm dài sau ngày Quốc Hận: 30/4/1975.
Một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong:
Trước ngày 30/4/1975, Đại úy Thụy, là một vị sĩ quan liêm khiết, cho nên, dù đã phục vụ tại Đặc Khu Quân Trấn tại Thành phố Đà Nẵng; nơi dễ dàng có “tư lợi”, nhưng Đại úy Thụy không có nhà cửa riêng, mà ông và vợ con đã sống ở trong Cư Xá Sĩ Quan, sống đời đạm bạc. Chị Thụy, một phụ nữ hiếm có ở trên đời, chỉ biết sống cho chồng-con, không cần để ý đến những sự cuộc sống đầy đủ của những người vợ của các sĩ quan, là bạn của chồng mình.
Sau ngày 30/4/1975, Đại úy Thụy bị bắt, bị ở tù “cải tạo” tại: “Trại 1 - Trại chính, Trại cải tạo Tiên Lãnh”, tức “Trại T.154”; hậu thân của “trại cải tạo Đá Trắng” đã được thành lập vào cuối năm 1959, tại thôn 3 xã Phước Lãnh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sở dĩ người viết biết về trại “cải tạo” này một cách rất rõ ràng, bởi vì, chính Bác ruột của mình: Ông Trần Thắng, một lương dân vô tội, và các vị đồng hương đã cùng bị du kích của Việt cộng bắt, rồi bị đưa vào nơi này giam cầm, và tất cả các vị, trong đó có Bác ruột của người viết, đều đã bị chết vì đói và lạnh ở trong trại này vào năm 1964.
Trở lại với gia đình của Đại úy Thụy. Sau ngày 29/3/1975, khi chồng bị bắt đi tù. Lúc này, Thủ đô Sài Gòn chưa thất thủ, thì “Lực Lượng Hòa Hợp-Hòa Giải Thị Bộ Đà Nẵng”, trụ sở được đặt tại Chùa Pháp Lâm, ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, tức Chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Quảng Nam, Đà Nẵng; đã xông vào Cư Xá Sĩ Quan để đuổi chị Thụy và con cái ra khỏi nhà. Do vậy, không còn cách nào khác, nên chị Thụy đã phải ôm áo quần và dìu dắt các con ra đi, rồi phải ra nhà Ga Đà Nẵng để sống một cuộc đời gối đất, nằm sương !
Cuộc sống của chị Thụy và các con tại nhà Ga:
Ngày Đại úy Thụy đã phải đến “trình diện” tại “Thị bộ Hòa Hợp-Hòa Giải” tại Chùa Pháp Lâm, số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng. Nên biết lúc này thủ Đô Sài gòn chưa mất, tại Đà Nẵng chưa có “Ủy Ban Quân Quản”. Và, để rồi phải hơn mười năm sau Đại úy Thụy mới được trở về nhà… Ga để gặp lại vợ con !
Xin nhắc lại, Thành phố Đà Nẵng đã bị rơi vào tay của Cộng sản Hà Nội vào ngày 29/3/1975; trong thời gian này, Sài Gòn chưa mất, nên trước khi bị bắt vào tù, người viết đã chứng kiến cảnh sống vô cùng thê thảm của chị Thụy và các con tại nhà Ga Đà Nẵng. Ngày ấy, khi nghe hai bà chị họ của người viết đang buôn bán củi tại nhà Ga Đà Nẵng, số củi này được mua từ Lang Cô, chở bằng tàu lửa về Đà Nẵng để bán sỉ và lẻ, đã kể lại với người viết về hoàn cảnh của chị Thụy và các con tại nhà Ga, và còn cho biết chị Thụy và đứa con trai lớn cũng thường hay vác củi thuê cho hai chị. Và, người viết đã đến tận nhà Ga để gặp chị Thụy, để rồi phải chứng kiến trước mắt một cái “nhà” của chị Thụy:
Bên cạnh một gốc cây, ở một góc đường Nguyễn Hoàng - Hoàng Hoa Thám là một cái “nhà” được che bằng hai tấm tôn, chung quanh được đắp những tấm bạt nhà binh đã rách, và những tấm vải bố được tháo ra từ những chiếc bao cát, loại dùng để làm lô cốt chống đạn của quân đội VNCH. Trong “nhà” là một chiếc chõng tre rộng khoảng hơn một mét, có trải chiếc chiếu cũ, một chiếc chăn cũng cũ. Trên chiếc chõng tre, là hai đứa con nhỏ của chị, khoảng dưới năm tuổi ngồi trên đó, vì phía dưới, trong những ngày mưa, hoặc mùa Đông, thì những giòng nước đen ngòm, hôi hám đã từ phía nhà Ga chảy ra lênh láng ở phía dưới chiếc chõng, nên chị Thụy không cho hai con nhỏ bước xuống đất, mà cứ ngồi, nằm hoặc ngủ, để chờ Mẹ và Anh trai đem gạo về nấu cơm cũng ngay trong cái “nhà” này. Chị Thụy và con trai lớn đã phải vác hàng thuê không kể mưa, nắng, ngày, đêm, chỉ khi nào quá mệt, thì lại về, để rồi phải nằm gác lên nhau trên cái chiếc chõng tre độc nhất ấy. Đó là một “mái nhà” của chị Thụy và các con !
Về cuộc sống, chị Thụy và con trai lớn chắc khoảng trên mười tuổi đã phải ra sức để làm hết mọi việc, từ vác, xách hàng thuê cho những người đi buôn bán, hoặc khách vãng lai. Chị Thụy và cháu trai không ngại khó bất cứ một công việc nặng nhọc nào. Người viết đã chứng kiến cà hai Mẹ-Con chị Thụy còng lưng để vác những bao gạo, những bó củi từ những chuyến tầu lửa từ Huế chạy về Đà Nẵng, vác từ trong nhà Ga ra đến ngoài mặt đường Nguyễn Hoàng, là nơi những chiếc xe “ba gác” đang chờ sẵn để chở những bó củi đến những nơi buôn bán sỉ, hoặc chở những bao gạo đến những người bán gạo lẻ ở các chợ.
Nên biết, là vào thời gian ấy, chị Thụy còn trẻ tuổi, có nhan sắc, nếu muốn, chị cũng có một cuộc sống no ấm, chứ không phải dầm mữa dãi nắng. Nhưng không, chị Thụy đã quyết giữ một lòng chung thủy với chồng: Đại úy Thụy, và đã sống cho chồng con.
Người viết nghĩ rằng, vào lúc ấy, khi quyết định và chấp nhận một con đường chông gai đó, chị Thụy thừa biết về tương lai của ba con thơ của anh-chị sẽ mịt mờ, đen tối, vì chị không có “hộ khẩu”, nên các con không được đến trường để học hành; nhưng không thể để con cái phải chịu dốt không biết chữ, nên mỗi ngày chị đều tự dạy cho các con học, để biết đọc, biết viết. Ngoài những công việc như đã kể, chị Thụy đã chắt chiu từng đồng, để mua những gói quà, để rồi đã vượt hàng trăm cây số đường rừng, để đến “trại cải tạo” để “thăm nuôi” chồng đang trong cảnh đời lao lý.
Gói quà thăm nuôi vô giá!
Những gói quà thăm nuôi, mà chị Thụy đã từng lặn lội đem lên trại “cải tạo” để thăm chống, không như những gánh quà của các bà vợ Sĩ quan khác, mà chỉ vỏn vẹn là một gói nhỏ trên tay thôi !
Người viết vẫn nhớ đến một lần cùng được đi thăm nuôi một lần với Đại úy Thụy. Khi vào “nhà thăm nuôi” thì thân nhân của tù “cải tạo” đều có “giấy thăm nuôi” do phường, xã ở địa phương cấp cho, còn riêng chị Thụy thì không hề có một tờ giấy gì cả, mà chỉ có một gói quà trên tay thôi.
Hoàn cảnh của Đại úy Thụy là độc nhất vô nhị tại trại “cải tạo”, nên “Ban giám thị” của tại đã xét thấy nếu muốn cho Đại úy Thụy được “an tâm học tập cải tốt” thì phải cho anh được gặp mặt vợ; Do đó, những “cán bộ phụ trách thăm nuôi” đã “linh động” cho Đại úy Thụy được gặp mặt vợ mà không có “giấy thăm nuôi”.
Người viết vẫn nhớ như in, lần ấy, khi được phép gặp mặt Đại úy Thụy và sau khi “trật tự” xét quà thăm nuôi, khi gói quà được mở ra, thì chỉ có mấy “bánh” đường đen, một ít “thuốc rê” loại thuốc để người hút tự vấn thành điếu để hút, và một “thẩu” mắm ruốc, ớt mà thôi.
Khi viết lại những điều này, người viết biết rằng sẽ làm cho quý vị cựu tù sẽ xúc động, có thể rưng rưng khi nhớ lại một kỷ niệm, mà đa số vị đã biết; và tôi đã được quý vị tù trong lúc lao động ngoài đồng ruộng lúa, đã kể lại cho tôi biết: chính lần được thăm nuôi đó, khi về phòng tù, Đại úy Thụy chắc nhìn thấy sự tiều tụy của vợ mà đau buồn, nên vẫn để gói quà nằm yên, cho đến tối, thì Đại úy Thụy mới mở ra; và, khi cầm một “bánh” đường đen trên tay, thì, ôi ! nước mắt của Đại úy Thụy bỗng tuôn trào, anh muốn ngất đi, khi nhìn thấy những chiếc dấu răng của trẻ con đã cạp, đã cắn, sứt sứt, mẻ mẻ chung quanh chu vi của mấy “bánh” đường…
Đại úy Thụy đã hiểu mọi sự. Thì ra, các con nhỏ của anh vì thèm đường, nhưng Mẹ, tức vợ của anh không cho ăn, vì “để dành thăm nuôi Ba”, nhưng bởi còn quá nhỏ tuổi, nó thèm quá, nên nó đã lén mẹ để cạp, để cắn bớt chung quanh “bánh” đường cho đỡ thèm !
Và, Đại úy Thụy đã không thể ăn được mấy “bánh” đường đen ngày đó, mà cứ để yên, cho đến khi vì trời nắng nóng, nên nó đã chảy ra thành một đống nhão nhoẹt rồi, thì Đại úy Thụy mới dám ăn !
Gói quà thăm nuôi ấy, mà cho đến hôm nay, khi nhắc lại, thì chắc rằng, chẳng phải riêng người viết, mà chắc các quý vị cựu tù “cải tạo” cũng như quý độc giả cũng công nhận rằng: đó là một gói quà thăm nuôi vô giá.
Ngày trở về:
Trong suốt những năm tháng dài ở trong trại “cải tạo”, Đại úy Thụy không hề biết vợ con của mình đang làm thuê, vác mướn, sống ở nhà ga Đà Nẵng, vì chị Thụy không muốn cho anh biết, mà chỉ nói chị đang buôn bán ở đường Nguyễn Hoàng mà thôi, và các bà vợ Sĩ quan, cũng không ai biết về cuộc sống của chị Thụy, mà nếu có biết họ cũng không nói ra. Chỉ cho đến hơn mười năm sau, khi được ra tù, trở về, cứ như theo lời của vợ, Đại úy Thụy đã đi tìm vợ con dọc theo con đường Nguyễn Hoàng, và khi ngược lên đến nhà Ga Đà Nẵng, thì bất ngờ, một bóng dáng của người phụ nữ đang còng lưng để vác một bó “củi chò” lớn trên vai. Bó củi này, là củi của chính chị của tôi, vì chị tôi rất quý chị Thụy, thường hay nói chuyện với chị Thụy, nên mỗi khi có củi từ Lang Cô chở vào Đà Nẵng là đều nhờ chị Thụy.
Cuộc tương phùng này, hay nói cho đúng nghĩa, là một cuộc Đoàn Viên giữa vợ chồng con cái của Đại úy Thụy, thì người viết không thể dùng bất cứ một từ ngữ nào để có thể diễn đạt một cách cho trọn vẹn; nhưng người viết được biết, sau đó, Đại úy Thụy gặp lại một người lính cũ, và đã được người lính đã một thời thuộc quyền của mình, đang làm nghề “sản xuất bia hơi”, người viết không biết uống bia, rượu, nên không biết đến loại “bia hơi” này nó ra làm sao; song được biết, người lính cũ tốt bụng này, đã giúp đỡ cho cả gia đình của Đại úy Thụy có một nơi ở, lại còn giúp cho Đại úy Thụy mượn một chiếc xe đạp cũ, để hàng ngày Đại úy Thụy chở những thùng bia hơi mà người lính này chỉ tính giá vốn, rồi đem đến giao cho những quán ăn, để lấy tiền lời, cho đến ngày Đại úy Thụy cùng vợ con lên đường sang Mỹ theo diện tù “cải tạo”.
Người ta thường nói, bất cứ cái gì, nó cũng có “cái giá” của nó. Cái giá, này thì tùy theo sự suy nghĩ của mỗi người. Tại Đà Nẵng, đã có nhiều người vợ của các Sĩ quan đã chọn cho mình bằng những cách sống, những con đường khác nhau, và tất nhiên, cho đến bây giờ, họ cũng đã biết được “cái giá” của nó như thế nào rồi. Lại cũng có người nói rằng, chị Thụy làm như thế, chỉ giữ được lòng chung thủy với chồng, nhưng các con của anh chị phải chịu thất học, chỉ biết đọc, biết viết do Mẹ dạy, chứ nếu làm khác hơn, thì chắc con cái sẽ không phải làm thuê, vác mướn, và bị thiệt thòi về vật chất…
Tuy nhiên, theo người viết, ở trên đời này, có một thứ không dễ gì ai cũng có thể tìm thấy được, đó là sự trọn vẹn và cao quý của tình yêu, vì chỉ có tình yêu đích thực mới khiến cho con người vượt lên trên được tất cả, mới đạp bằng hết được những chông gai của cuộc đời. Người viết nghĩ rằng, giờ đây, anh chị Đại úy Thụy đang hạnh phúc trọn vẹn trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
Tưởng cũng nên nhắc lại: Sau ngày 30/4:1975; các vị Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa đã bị vào các nhà tù “cải tạo”. Chính nơi đây, chính những cảnh tù đày, là những cuộc thử nghiệm về chất người. Bởi vì, nếu trước đó, những bà vợ đã lấy chồng là những vị cựu tù “cải tạo” vì tình yêu chân thật, thì tình yêu ấy sẽ khiến cho họ càng thương yêu chồng trong cảnh lao tù, mà không lỗi đạo làm vợ; còn như nếu họ đã lấy chồng vì danh, vì lợi, thì tất nhiên, khi các ông chồng vào tù rồi, thì danh hết, lợi hết, thì tình cũng hết, nên họ đành đoạn bỏ người chồng đang đau khổ trong nhà tù, để ôm cầm sang thuyền khác, điều đó, không có gì là lạ cả.
Nhưng những chuyện đã nói, là chuyện của những người khác; còn riêng chuyện của Đại úy Thụy là một chuyện thật, có bi thương, song cũng có những ngọt ngào. Có những giọt nước mắt, nhưng cũng có những giọt lệ mừng và những nụ cười thật trọn vẹn như hôm nay, khi anh chị Đại úy Thụy và gia đình đã và đang được đoàn viên nơi hải ngoại. Và, riêng tôi, tôi quý, tôi phục chị Thụy: Chị là một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong.
Trời không phụ lòng người là vậy.
Pháp quốc, 6/6/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
(Xin tái ngộ quý độc giả với những chuyện tình của Tù “cải tạo” có thật trong những bài kế tiếp)
----------------------------------------------
* Lưu ý: Tất cả những bài viết của tác giả Hàn Giang Trần Lệ Tuyền, nếu quý vị nào muốn tiếp tay chuyển tiếp lên các Diễn Đàn Điện Tử, các trang Web trên mạng lưới toàn cầu thì không có điều gì trở ngại, chúng tôi chân thành cám ơn.
Tuy nhiên, nếu quý vị nào muốn in vào sách, báo có tính cách thương mại, xin vui lòng liên lạc để có sự đồng ý của tác giả trước, qua địa chỉ email: hangiangletuyen@gmail.com .
Ảnh dưới đây trích từ 01 trang bài của Hàn Giang Trần Lệ Tuyền trên internet.
Tấm hình này đã được chú thích : Nguyễn Đan Quế đang được vợ: ca sĩ Tâm Vấn thăm nuôi.
ĐỌC THÊM:
Học tập cải tạo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Việt Nam
Học tập cải tạo, hay cải tạo qua lao động, là tên gọi hình thức giam giữ mà pháp luật một số nước thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại cho là những người vi phạm pháp luật, hoặc vướng vào tệ nạn xã hội hoặc là các nhân vật bất đồng chính kiến với chính phủ hoặc là tù nhân chiến tranh. Đây là một hình thức xử phạt hay răn đe giáo dục bằng giam giữ và lao động bắt buộc. Đối với thành phần "giai cấp thù địch", mô hình học tập cải tạo này được Liên Xô phổ biến và phát triển quy mô.[1] Mô hình này cũng được một số nước phương Tây áp dụng, như Hoa Kỳ hiện nay[2] hoặc Pháp trong chiến tranh Algerie[3]
Theo nhà bảo vệ nhân quyền nổi tiếng Lev Ponomarev, người sáng lập tổ chức phi chính phủ Bảo vệ quyền của các tù nhân, «các trại cải tạo này chính là nhà tù »[4].
Trước 1975
Chế độ học tập cải tạo rập theo khuôn mẫu của Trung Quốc[5] đã được áp dụng tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ năm 1954 với tội phạm, tù binh và tù nhân bị kết án chống đối chính quyền.[6] Một số nhà văn liên quan đến phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm, như Phùng Quán, phải đi cải tạo lao động vì tư tưởng của họ.
Theo văn bản luật pháp thì quy chế bắt giam vào trại cải tạo chiếu theo nghị quyết 49 (49-NQTVQH) của Hội đồng Bộ trưởng thông qua ngày 20 tháng 6, 1961 và bắt đầu áp dụng kể từ 8 tháng 9. Đối tượng là "thành phần phản cách mạng" và đe dọa an ninh công cộng.[7]
Sau 1975, thời kỳ hậu chiến
Trong bối cảnh hậu chiến (sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975), cụm từ "học tập cải tạo" nói đến chương trình tập trung để cải tạo của chính quyền Việt Nam đối với binh lính chế độ Việt Nam Cộng hòa hay những người tham gia phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước 1975. Một công bố của nhà chức trách nói rõ:
"Việc tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền và các đối tượng phản động ra trình diện học tập cải tạo thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước, có tác dụng phân hóa hàng ngũ bọn phản động, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, đập tan luận điệu tuyên truyền chiến tranh tâm lý của địch, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân." [8]
Hệ thống giam giữ quy mô này lấy mẫu từ trại tù lao động của Liên Xô.[9]
Cách tiến hành tại miền Nam
Công việc triệu tập các đối tượng để đưa đi học tập cải tạo bắt đầu từ Tháng Năm, 1975. Đối với hạ sĩ quan, sau trình diện thì phải theo học một khóa chính trị ngắn rồi được cấp giấy chứng nhận để cho về. Đối với các cấp chỉ huy thì có lệnh trình diện bắt đầu từ ngày 13 đến 16 Tháng Sáu, 1975. Chiếu theo đó thì sĩ quan sẽ đi học tập 15 ngày trong khi các viên chức dân sự cùng những đảng viên các tổ chức chính trị của miền Nam thì thời gian học tập là một tháng. Người trình diện phải mang theo 21 kilôgam gạo làm lương thực trong đó có mọi ngành từ quận trưởng trở lên hoặc đối với các viên chức hành chánh là trưởng phòng trở lên. Các văn nghệ sĩ cũng phải ra trình diện.[10]
Theo Alain Wasmes, tác giả cuốn sách La peau du Pachyderme (Việt Nam tấm da voi), sau Sự kiện 30/4, Mặt trận giải phóng đã nắm trong tay toàn bộ tài liệu ở trung tâm đăng kiểm của Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV), do Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã quá nhanh nên không kịp tiêu hủy tài liệu, mà theo như ông mô tả là "Trên một trong năm máy tính của trung tâm đăng kiểm Mỹ, toàn bộ quân đội Sài Gòn, từ tổng chỉ huy cho đến anh binh nhì, đều được chương trình hóa trong những phích đục lỗ với toàn bộ những chi tiết về lai lịch và chính trị cần thiết của họ. Thậm chí cả với lớp sắp tuyển, cũng có đầy đủ tất cả như thế.[cần dẫn nguồn] Trên thực tế, trong các báo cáo của sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rất nhiều hành động có thể được coi là tội ác chiến tranh đã được ghi lại và báo cáo như là 1 "chiến tích" trong sự nghiệp chống cộng.
Nội dung trong trại
Tổng cộng có đến hơn 80 trại cải tạo phân bố trên toàn đất nước, nhất là những vùng biên thùy. Chương trình bắt đầu với 10 bài giảng với những đề tài:
Vì chính sách dùng lao động để cải tạo tư tưởng nên lao động sản xuất là trọng điểm. Nghị quyết 49 đề ra 8 giờ lao động sản xuất mỗi ngày. Mỗi tuần thì có hai buổi học tập chính trị. Chiều thì có "lớp văn hóa".[7] Những người trong trại học tập cải tạo phải lao động làm việc ở các công trường, trong các trại cải tạo, mà nhiều người mô tả lại là cực nhọc, một phần trong số đó đã bị chết do không chịu được cuộc sống khắc nghiệt trong trại cải tạo, ăn uống thiếu thốn. Công việc thông thường là chặt cây, trồng cây lương thực, đào giếng, và cả gỡ mìn gây ra thương vong.[7]
Lao động cải tạo còn áp dụng cho các công dân vi phạm pháp luật, vướng vào tệ nạn xã hội nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn hơn mười năm sau Chiến tranh Việt Nam trở đi.
Số người đi học tập
Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Theo Phạm Văn Đồng, con số người phải trải qua giam giữ sau này 30/4/1975 là hơn 200.000 trong tổng số 1 triệu người ra trình diện.[13] Tính đến năm 1980 thì chính phủ Việt Nam công nhận còn 26.000 người còn giam trong trại. Tuy nhiên một số quan sát viên ngoại quốc ước tính khoảng 100.000 đến 300.000 vẫn bị giam.[7] Ước tính của Hoa Kỳ cho rằng khoảng 165.000 người đã chết trong khi bị giam.[14]
Theo Aurora Foundation thì việc bị giam giữ dài hạn thường bị chuyển từ trại này sang trại khác có dụng ý ly gián để tù nhân không liên kết với nhau được và đường dây liên lạc với gia đình thêm khó khăn.[7]
Đời sống sau khi được thả
Nhiều người trở về sau thời gian học tập cải tạo được đưa về địa phương để làm việc và sinh sống trong tình trạng quản chế tại gia. Vì xếp là có lý lịch xấu nên sau khi được trả tự do, cuộc sống của nhiều người học tập cải tạo và gia đình họ gặp nhiều khó khăn do tình trạng phân biệt đối xử. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử này đã giảm dần theo thời gian. Trong những người đã bị đưa đi học tập cải tạo, đã có nhiều người được đưa đi định cư ở hải ngoại, theo các chương trình nhân đạo như Chương trình Ra đi có Trật tự, một thỏa thuận giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ký năm 1989. Theo đó thì chính phủ Mỹ dành ưu tiên nhập cảnh cho những cựu quân nhân, viên chức của Việt Nam Cộng hòa giam từ ba năm trở lên.[15]
Theo chiều hướng bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cộng với các tác động tích cực của nhiều tổ chức của người Việt tại Hoa Kỳ về vấn đề tái định cư cho những người bị học tập cải tạo các chương trình sau đã và đang được tiến hành:
-Chương trình Ra đi có Trật tự (Orderly Departure Program - ODP) kết thúc vào tháng 9 năm 1994. Chương trình này bao gồm đoàn tụ gia đình, con lai và bao trùm cả chương trình H.R.
-Chương trình Tái định cư nhân đạo (Humanitarian Resettlement Program - HR)
-Chương trình Tái định cư nhân đạo mới (hay Chương trình H.O. mới) chỉ dành cho những người phải học tập cải tạo sau năm 1975, chưa có cơ hội nộp đơn qua chương trình ODP.
-Chương trình Tái định cư nhân đạo HR, cứu xét đơn năm 2005.
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Thơ Giồng Ông Tố: Ngồi xuống đây! tao đút cho mày
Những dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải tạo”!
Kính mời quý vị đọc: Những dòng nước mắt...- Những dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải tạo”! -Bài 6-
- Những dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải tạo”! -Bài 5-
- Những dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải tạo”! -Bài 4-
- Những dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải tạo”! -Bài 3-
- Những dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải tạo”! -Bài 2-
- Những dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải tạo”! -Bài 1-
Những
dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải
tạo”!
Hàn
Giang Trần Lệ TuyềnLời người viết: Như mọi người đã biết về những cảnh ngộ của các cựu tù “cải tạo”, qua nhiều ngòi bút, hoặc nghe kể lại. Riêng người viết loạt bài này, vì đã từng là nạn nhân và cũng từng chứng kiến với những cảnh đời dâu bể, đã khiến cho người viết không thể nào quên được !
Chính vì thế, bắt đầu hôm nay, người viết sẽ dùng ngọn bút của mình để tuần tự qua nhiều kỳ, ghi lại tất cả những cảnh ngộ vô cùng bi thương ấy; và dẫu cho có muộn màng; nhưng với lòng chân thiết, người viết xin được cùng xẻ chia cùng các gia đình nạn nhân, là các cựu tù năm cũ. Và dĩ nhiên, người viết chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, mà không nêu tên họ thật.
Kính xin quý vị đã từng “chết đi sống lại” trong những hoàn cảnh này, hãy nhận nơi đây, những dòng nước mắt, khóc cho những cảnh đời tang thương - tân khổ, trong suốt những tháng năm dài sau ngày Quốc Hận: 30/4/1975.
Một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong:
Trước ngày 30/4/1975, Đại úy Thụy, là một vị sĩ quan liêm khiết, cho nên, dù đã phục vụ tại Đặc Khu Quân Trấn tại Thành phố Đà Nẵng; nơi dễ dàng có “tư lợi”, nhưng Đại úy Thụy không có nhà cửa riêng, mà ông và vợ con đã sống ở trong Cư Xá Sĩ Quan, sống đời đạm bạc. Chị Thụy, một phụ nữ hiếm có ở trên đời, chỉ biết sống cho chồng-con, không cần để ý đến những sự cuộc sống đầy đủ của những người vợ của các sĩ quan, là bạn của chồng mình.
Sau ngày 30/4/1975, Đại úy Thụy bị bắt, bị ở tù “cải tạo” tại: “Trại 1 - Trại chính, Trại cải tạo Tiên Lãnh”, tức “Trại T.154”; hậu thân của “trại cải tạo Đá Trắng” đã được thành lập vào cuối năm 1959, tại thôn 3 xã Phước Lãnh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sở dĩ người viết biết về trại “cải tạo” này một cách rất rõ ràng, bởi vì, chính Bác ruột của mình: Ông Trần Thắng, một lương dân vô tội, và các vị đồng hương đã cùng bị du kích của Việt cộng bắt, rồi bị đưa vào nơi này giam cầm, và tất cả các vị, trong đó có Bác ruột của người viết, đều đã bị chết vì đói và lạnh ở trong trại này vào năm 1964.
Trở lại với gia đình của Đại úy Thụy. Sau ngày 29/3/1975, khi chồng bị bắt đi tù. Lúc này, Thủ đô Sài Gòn chưa thất thủ, thì “Lực Lượng Hòa Hợp-Hòa Giải Thị Bộ Đà Nẵng”, trụ sở được đặt tại Chùa Pháp Lâm, ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, tức Chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Quảng Nam, Đà Nẵng; đã xông vào Cư Xá Sĩ Quan để đuổi chị Thụy và con cái ra khỏi nhà. Do vậy, không còn cách nào khác, nên chị Thụy đã phải ôm áo quần và dìu dắt các con ra đi, rồi phải ra nhà Ga Đà Nẵng để sống một cuộc đời gối đất, nằm sương !
Cuộc sống của chị Thụy và các con tại nhà Ga:
Ngày Đại úy Thụy đã phải đến “trình diện” tại “Thị bộ Hòa Hợp-Hòa Giải” tại Chùa Pháp Lâm, số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng. Nên biết lúc này thủ Đô Sài gòn chưa mất, tại Đà Nẵng chưa có “Ủy Ban Quân Quản”. Và, để rồi phải hơn mười năm sau Đại úy Thụy mới được trở về nhà… Ga để gặp lại vợ con !
Xin nhắc lại, Thành phố Đà Nẵng đã bị rơi vào tay của Cộng sản Hà Nội vào ngày 29/3/1975; trong thời gian này, Sài Gòn chưa mất, nên trước khi bị bắt vào tù, người viết đã chứng kiến cảnh sống vô cùng thê thảm của chị Thụy và các con tại nhà Ga Đà Nẵng. Ngày ấy, khi nghe hai bà chị họ của người viết đang buôn bán củi tại nhà Ga Đà Nẵng, số củi này được mua từ Lang Cô, chở bằng tàu lửa về Đà Nẵng để bán sỉ và lẻ, đã kể lại với người viết về hoàn cảnh của chị Thụy và các con tại nhà Ga, và còn cho biết chị Thụy và đứa con trai lớn cũng thường hay vác củi thuê cho hai chị. Và, người viết đã đến tận nhà Ga để gặp chị Thụy, để rồi phải chứng kiến trước mắt một cái “nhà” của chị Thụy:
Bên cạnh một gốc cây, ở một góc đường Nguyễn Hoàng - Hoàng Hoa Thám là một cái “nhà” được che bằng hai tấm tôn, chung quanh được đắp những tấm bạt nhà binh đã rách, và những tấm vải bố được tháo ra từ những chiếc bao cát, loại dùng để làm lô cốt chống đạn của quân đội VNCH. Trong “nhà” là một chiếc chõng tre rộng khoảng hơn một mét, có trải chiếc chiếu cũ, một chiếc chăn cũng cũ. Trên chiếc chõng tre, là hai đứa con nhỏ của chị, khoảng dưới năm tuổi ngồi trên đó, vì phía dưới, trong những ngày mưa, hoặc mùa Đông, thì những giòng nước đen ngòm, hôi hám đã từ phía nhà Ga chảy ra lênh láng ở phía dưới chiếc chõng, nên chị Thụy không cho hai con nhỏ bước xuống đất, mà cứ ngồi, nằm hoặc ngủ, để chờ Mẹ và Anh trai đem gạo về nấu cơm cũng ngay trong cái “nhà” này. Chị Thụy và con trai lớn đã phải vác hàng thuê không kể mưa, nắng, ngày, đêm, chỉ khi nào quá mệt, thì lại về, để rồi phải nằm gác lên nhau trên cái chiếc chõng tre độc nhất ấy. Đó là một “mái nhà” của chị Thụy và các con !
Về cuộc sống, chị Thụy và con trai lớn chắc khoảng trên mười tuổi đã phải ra sức để làm hết mọi việc, từ vác, xách hàng thuê cho những người đi buôn bán, hoặc khách vãng lai. Chị Thụy và cháu trai không ngại khó bất cứ một công việc nặng nhọc nào. Người viết đã chứng kiến cà hai Mẹ-Con chị Thụy còng lưng để vác những bao gạo, những bó củi từ những chuyến tầu lửa từ Huế chạy về Đà Nẵng, vác từ trong nhà Ga ra đến ngoài mặt đường Nguyễn Hoàng, là nơi những chiếc xe “ba gác” đang chờ sẵn để chở những bó củi đến những nơi buôn bán sỉ, hoặc chở những bao gạo đến những người bán gạo lẻ ở các chợ.
Nên biết, là vào thời gian ấy, chị Thụy còn trẻ tuổi, có nhan sắc, nếu muốn, chị cũng có một cuộc sống no ấm, chứ không phải dầm mữa dãi nắng. Nhưng không, chị Thụy đã quyết giữ một lòng chung thủy với chồng: Đại úy Thụy, và đã sống cho chồng con.
Người viết nghĩ rằng, vào lúc ấy, khi quyết định và chấp nhận một con đường chông gai đó, chị Thụy thừa biết về tương lai của ba con thơ của anh-chị sẽ mịt mờ, đen tối, vì chị không có “hộ khẩu”, nên các con không được đến trường để học hành; nhưng không thể để con cái phải chịu dốt không biết chữ, nên mỗi ngày chị đều tự dạy cho các con học, để biết đọc, biết viết. Ngoài những công việc như đã kể, chị Thụy đã chắt chiu từng đồng, để mua những gói quà, để rồi đã vượt hàng trăm cây số đường rừng, để đến “trại cải tạo” để “thăm nuôi” chồng đang trong cảnh đời lao lý.
Gói quà thăm nuôi vô giá!
Những gói quà thăm nuôi, mà chị Thụy đã từng lặn lội đem lên trại “cải tạo” để thăm chống, không như những gánh quà của các bà vợ Sĩ quan khác, mà chỉ vỏn vẹn là một gói nhỏ trên tay thôi !
Người viết vẫn nhớ đến một lần cùng được đi thăm nuôi một lần với Đại úy Thụy. Khi vào “nhà thăm nuôi” thì thân nhân của tù “cải tạo” đều có “giấy thăm nuôi” do phường, xã ở địa phương cấp cho, còn riêng chị Thụy thì không hề có một tờ giấy gì cả, mà chỉ có một gói quà trên tay thôi.
Hoàn cảnh của Đại úy Thụy là độc nhất vô nhị tại trại “cải tạo”, nên “Ban giám thị” của tại đã xét thấy nếu muốn cho Đại úy Thụy được “an tâm học tập cải tốt” thì phải cho anh được gặp mặt vợ; Do đó, những “cán bộ phụ trách thăm nuôi” đã “linh động” cho Đại úy Thụy được gặp mặt vợ mà không có “giấy thăm nuôi”.
Người viết vẫn nhớ như in, lần ấy, khi được phép gặp mặt Đại úy Thụy và sau khi “trật tự” xét quà thăm nuôi, khi gói quà được mở ra, thì chỉ có mấy “bánh” đường đen, một ít “thuốc rê” loại thuốc để người hút tự vấn thành điếu để hút, và một “thẩu” mắm ruốc, ớt mà thôi.
Khi viết lại những điều này, người viết biết rằng sẽ làm cho quý vị cựu tù sẽ xúc động, có thể rưng rưng khi nhớ lại một kỷ niệm, mà đa số vị đã biết; và tôi đã được quý vị tù trong lúc lao động ngoài đồng ruộng lúa, đã kể lại cho tôi biết: chính lần được thăm nuôi đó, khi về phòng tù, Đại úy Thụy chắc nhìn thấy sự tiều tụy của vợ mà đau buồn, nên vẫn để gói quà nằm yên, cho đến tối, thì Đại úy Thụy mới mở ra; và, khi cầm một “bánh” đường đen trên tay, thì, ôi ! nước mắt của Đại úy Thụy bỗng tuôn trào, anh muốn ngất đi, khi nhìn thấy những chiếc dấu răng của trẻ con đã cạp, đã cắn, sứt sứt, mẻ mẻ chung quanh chu vi của mấy “bánh” đường…
Đại úy Thụy đã hiểu mọi sự. Thì ra, các con nhỏ của anh vì thèm đường, nhưng Mẹ, tức vợ của anh không cho ăn, vì “để dành thăm nuôi Ba”, nhưng bởi còn quá nhỏ tuổi, nó thèm quá, nên nó đã lén mẹ để cạp, để cắn bớt chung quanh “bánh” đường cho đỡ thèm !
Và, Đại úy Thụy đã không thể ăn được mấy “bánh” đường đen ngày đó, mà cứ để yên, cho đến khi vì trời nắng nóng, nên nó đã chảy ra thành một đống nhão nhoẹt rồi, thì Đại úy Thụy mới dám ăn !
Gói quà thăm nuôi ấy, mà cho đến hôm nay, khi nhắc lại, thì chắc rằng, chẳng phải riêng người viết, mà chắc các quý vị cựu tù “cải tạo” cũng như quý độc giả cũng công nhận rằng: đó là một gói quà thăm nuôi vô giá.
Ngày trở về:
Trong suốt những năm tháng dài ở trong trại “cải tạo”, Đại úy Thụy không hề biết vợ con của mình đang làm thuê, vác mướn, sống ở nhà ga Đà Nẵng, vì chị Thụy không muốn cho anh biết, mà chỉ nói chị đang buôn bán ở đường Nguyễn Hoàng mà thôi, và các bà vợ Sĩ quan, cũng không ai biết về cuộc sống của chị Thụy, mà nếu có biết họ cũng không nói ra. Chỉ cho đến hơn mười năm sau, khi được ra tù, trở về, cứ như theo lời của vợ, Đại úy Thụy đã đi tìm vợ con dọc theo con đường Nguyễn Hoàng, và khi ngược lên đến nhà Ga Đà Nẵng, thì bất ngờ, một bóng dáng của người phụ nữ đang còng lưng để vác một bó “củi chò” lớn trên vai. Bó củi này, là củi của chính chị của tôi, vì chị tôi rất quý chị Thụy, thường hay nói chuyện với chị Thụy, nên mỗi khi có củi từ Lang Cô chở vào Đà Nẵng là đều nhờ chị Thụy.
Cuộc tương phùng này, hay nói cho đúng nghĩa, là một cuộc Đoàn Viên giữa vợ chồng con cái của Đại úy Thụy, thì người viết không thể dùng bất cứ một từ ngữ nào để có thể diễn đạt một cách cho trọn vẹn; nhưng người viết được biết, sau đó, Đại úy Thụy gặp lại một người lính cũ, và đã được người lính đã một thời thuộc quyền của mình, đang làm nghề “sản xuất bia hơi”, người viết không biết uống bia, rượu, nên không biết đến loại “bia hơi” này nó ra làm sao; song được biết, người lính cũ tốt bụng này, đã giúp đỡ cho cả gia đình của Đại úy Thụy có một nơi ở, lại còn giúp cho Đại úy Thụy mượn một chiếc xe đạp cũ, để hàng ngày Đại úy Thụy chở những thùng bia hơi mà người lính này chỉ tính giá vốn, rồi đem đến giao cho những quán ăn, để lấy tiền lời, cho đến ngày Đại úy Thụy cùng vợ con lên đường sang Mỹ theo diện tù “cải tạo”.
Người ta thường nói, bất cứ cái gì, nó cũng có “cái giá” của nó. Cái giá, này thì tùy theo sự suy nghĩ của mỗi người. Tại Đà Nẵng, đã có nhiều người vợ của các Sĩ quan đã chọn cho mình bằng những cách sống, những con đường khác nhau, và tất nhiên, cho đến bây giờ, họ cũng đã biết được “cái giá” của nó như thế nào rồi. Lại cũng có người nói rằng, chị Thụy làm như thế, chỉ giữ được lòng chung thủy với chồng, nhưng các con của anh chị phải chịu thất học, chỉ biết đọc, biết viết do Mẹ dạy, chứ nếu làm khác hơn, thì chắc con cái sẽ không phải làm thuê, vác mướn, và bị thiệt thòi về vật chất…
Tuy nhiên, theo người viết, ở trên đời này, có một thứ không dễ gì ai cũng có thể tìm thấy được, đó là sự trọn vẹn và cao quý của tình yêu, vì chỉ có tình yêu đích thực mới khiến cho con người vượt lên trên được tất cả, mới đạp bằng hết được những chông gai của cuộc đời. Người viết nghĩ rằng, giờ đây, anh chị Đại úy Thụy đang hạnh phúc trọn vẹn trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
Tưởng cũng nên nhắc lại: Sau ngày 30/4:1975; các vị Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa đã bị vào các nhà tù “cải tạo”. Chính nơi đây, chính những cảnh tù đày, là những cuộc thử nghiệm về chất người. Bởi vì, nếu trước đó, những bà vợ đã lấy chồng là những vị cựu tù “cải tạo” vì tình yêu chân thật, thì tình yêu ấy sẽ khiến cho họ càng thương yêu chồng trong cảnh lao tù, mà không lỗi đạo làm vợ; còn như nếu họ đã lấy chồng vì danh, vì lợi, thì tất nhiên, khi các ông chồng vào tù rồi, thì danh hết, lợi hết, thì tình cũng hết, nên họ đành đoạn bỏ người chồng đang đau khổ trong nhà tù, để ôm cầm sang thuyền khác, điều đó, không có gì là lạ cả.
Nhưng những chuyện đã nói, là chuyện của những người khác; còn riêng chuyện của Đại úy Thụy là một chuyện thật, có bi thương, song cũng có những ngọt ngào. Có những giọt nước mắt, nhưng cũng có những giọt lệ mừng và những nụ cười thật trọn vẹn như hôm nay, khi anh chị Đại úy Thụy và gia đình đã và đang được đoàn viên nơi hải ngoại. Và, riêng tôi, tôi quý, tôi phục chị Thụy: Chị là một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong.
Trời không phụ lòng người là vậy.
Pháp quốc, 6/6/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
(Xin tái ngộ quý độc giả với những chuyện tình của Tù “cải tạo” có thật trong những bài kế tiếp)
----------------------------------------------
* Lưu ý: Tất cả những bài viết của tác giả Hàn Giang Trần Lệ Tuyền, nếu quý vị nào muốn tiếp tay chuyển tiếp lên các Diễn Đàn Điện Tử, các trang Web trên mạng lưới toàn cầu thì không có điều gì trở ngại, chúng tôi chân thành cám ơn.
Tuy nhiên, nếu quý vị nào muốn in vào sách, báo có tính cách thương mại, xin vui lòng liên lạc để có sự đồng ý của tác giả trước, qua địa chỉ email: hangiangletuyen@gmail.com .
Ảnh dưới đây trích từ 01 trang bài của Hàn Giang Trần Lệ Tuyền trên internet.
Tấm hình này đã được chú thích : Nguyễn Đan Quế đang được vợ: ca sĩ Tâm Vấn thăm nuôi.
ĐỌC THÊM:
Học tập cải tạo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Việt Nam
Học tập cải tạo, hay cải tạo qua lao động, là tên gọi hình thức giam giữ mà pháp luật một số nước thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại cho là những người vi phạm pháp luật, hoặc vướng vào tệ nạn xã hội hoặc là các nhân vật bất đồng chính kiến với chính phủ hoặc là tù nhân chiến tranh. Đây là một hình thức xử phạt hay răn đe giáo dục bằng giam giữ và lao động bắt buộc. Đối với thành phần "giai cấp thù địch", mô hình học tập cải tạo này được Liên Xô phổ biến và phát triển quy mô.[1] Mô hình này cũng được một số nước phương Tây áp dụng, như Hoa Kỳ hiện nay[2] hoặc Pháp trong chiến tranh Algerie[3]
Theo nhà bảo vệ nhân quyền nổi tiếng Lev Ponomarev, người sáng lập tổ chức phi chính phủ Bảo vệ quyền của các tù nhân, «các trại cải tạo này chính là nhà tù »[4].
Trước 1975
Chế độ học tập cải tạo rập theo khuôn mẫu của Trung Quốc[5] đã được áp dụng tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ năm 1954 với tội phạm, tù binh và tù nhân bị kết án chống đối chính quyền.[6] Một số nhà văn liên quan đến phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm, như Phùng Quán, phải đi cải tạo lao động vì tư tưởng của họ.
Theo văn bản luật pháp thì quy chế bắt giam vào trại cải tạo chiếu theo nghị quyết 49 (49-NQTVQH) của Hội đồng Bộ trưởng thông qua ngày 20 tháng 6, 1961 và bắt đầu áp dụng kể từ 8 tháng 9. Đối tượng là "thành phần phản cách mạng" và đe dọa an ninh công cộng.[7]
Sau 1975, thời kỳ hậu chiến
Trong bối cảnh hậu chiến (sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975), cụm từ "học tập cải tạo" nói đến chương trình tập trung để cải tạo của chính quyền Việt Nam đối với binh lính chế độ Việt Nam Cộng hòa hay những người tham gia phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước 1975. Một công bố của nhà chức trách nói rõ:
"Việc tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền và các đối tượng phản động ra trình diện học tập cải tạo thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước, có tác dụng phân hóa hàng ngũ bọn phản động, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, đập tan luận điệu tuyên truyền chiến tranh tâm lý của địch, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân." [8]
Hệ thống giam giữ quy mô này lấy mẫu từ trại tù lao động của Liên Xô.[9]
Cách tiến hành tại miền Nam
Công việc triệu tập các đối tượng để đưa đi học tập cải tạo bắt đầu từ Tháng Năm, 1975. Đối với hạ sĩ quan, sau trình diện thì phải theo học một khóa chính trị ngắn rồi được cấp giấy chứng nhận để cho về. Đối với các cấp chỉ huy thì có lệnh trình diện bắt đầu từ ngày 13 đến 16 Tháng Sáu, 1975. Chiếu theo đó thì sĩ quan sẽ đi học tập 15 ngày trong khi các viên chức dân sự cùng những đảng viên các tổ chức chính trị của miền Nam thì thời gian học tập là một tháng. Người trình diện phải mang theo 21 kilôgam gạo làm lương thực trong đó có mọi ngành từ quận trưởng trở lên hoặc đối với các viên chức hành chánh là trưởng phòng trở lên. Các văn nghệ sĩ cũng phải ra trình diện.[10]
Theo Alain Wasmes, tác giả cuốn sách La peau du Pachyderme (Việt Nam tấm da voi), sau Sự kiện 30/4, Mặt trận giải phóng đã nắm trong tay toàn bộ tài liệu ở trung tâm đăng kiểm của Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV), do Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã quá nhanh nên không kịp tiêu hủy tài liệu, mà theo như ông mô tả là "Trên một trong năm máy tính của trung tâm đăng kiểm Mỹ, toàn bộ quân đội Sài Gòn, từ tổng chỉ huy cho đến anh binh nhì, đều được chương trình hóa trong những phích đục lỗ với toàn bộ những chi tiết về lai lịch và chính trị cần thiết của họ. Thậm chí cả với lớp sắp tuyển, cũng có đầy đủ tất cả như thế.[cần dẫn nguồn] Trên thực tế, trong các báo cáo của sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rất nhiều hành động có thể được coi là tội ác chiến tranh đã được ghi lại và báo cáo như là 1 "chiến tích" trong sự nghiệp chống cộng.
Nội dung trong trại
Tổng cộng có đến hơn 80 trại cải tạo phân bố trên toàn đất nước, nhất là những vùng biên thùy. Chương trình bắt đầu với 10 bài giảng với những đề tài:
- Tội ác của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa
- Lý thuyết Xã hội chủ nghĩa
- Chính sách khoan hồng của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam [10]
Vì chính sách dùng lao động để cải tạo tư tưởng nên lao động sản xuất là trọng điểm. Nghị quyết 49 đề ra 8 giờ lao động sản xuất mỗi ngày. Mỗi tuần thì có hai buổi học tập chính trị. Chiều thì có "lớp văn hóa".[7] Những người trong trại học tập cải tạo phải lao động làm việc ở các công trường, trong các trại cải tạo, mà nhiều người mô tả lại là cực nhọc, một phần trong số đó đã bị chết do không chịu được cuộc sống khắc nghiệt trong trại cải tạo, ăn uống thiếu thốn. Công việc thông thường là chặt cây, trồng cây lương thực, đào giếng, và cả gỡ mìn gây ra thương vong.[7]
Lao động cải tạo còn áp dụng cho các công dân vi phạm pháp luật, vướng vào tệ nạn xã hội nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn hơn mười năm sau Chiến tranh Việt Nam trở đi.
Số người đi học tập
Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Theo Phạm Văn Đồng, con số người phải trải qua giam giữ sau này 30/4/1975 là hơn 200.000 trong tổng số 1 triệu người ra trình diện.[13] Tính đến năm 1980 thì chính phủ Việt Nam công nhận còn 26.000 người còn giam trong trại. Tuy nhiên một số quan sát viên ngoại quốc ước tính khoảng 100.000 đến 300.000 vẫn bị giam.[7] Ước tính của Hoa Kỳ cho rằng khoảng 165.000 người đã chết trong khi bị giam.[14]
Theo Aurora Foundation thì việc bị giam giữ dài hạn thường bị chuyển từ trại này sang trại khác có dụng ý ly gián để tù nhân không liên kết với nhau được và đường dây liên lạc với gia đình thêm khó khăn.[7]
Đời sống sau khi được thả
Nhiều người trở về sau thời gian học tập cải tạo được đưa về địa phương để làm việc và sinh sống trong tình trạng quản chế tại gia. Vì xếp là có lý lịch xấu nên sau khi được trả tự do, cuộc sống của nhiều người học tập cải tạo và gia đình họ gặp nhiều khó khăn do tình trạng phân biệt đối xử. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử này đã giảm dần theo thời gian. Trong những người đã bị đưa đi học tập cải tạo, đã có nhiều người được đưa đi định cư ở hải ngoại, theo các chương trình nhân đạo như Chương trình Ra đi có Trật tự, một thỏa thuận giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ký năm 1989. Theo đó thì chính phủ Mỹ dành ưu tiên nhập cảnh cho những cựu quân nhân, viên chức của Việt Nam Cộng hòa giam từ ba năm trở lên.[15]
Theo chiều hướng bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cộng với các tác động tích cực của nhiều tổ chức của người Việt tại Hoa Kỳ về vấn đề tái định cư cho những người bị học tập cải tạo các chương trình sau đã và đang được tiến hành:
-Chương trình Ra đi có Trật tự (Orderly Departure Program - ODP) kết thúc vào tháng 9 năm 1994. Chương trình này bao gồm đoàn tụ gia đình, con lai và bao trùm cả chương trình H.R.
-Chương trình Tái định cư nhân đạo (Humanitarian Resettlement Program - HR)
-Chương trình Tái định cư nhân đạo mới (hay Chương trình H.O. mới) chỉ dành cho những người phải học tập cải tạo sau năm 1975, chưa có cơ hội nộp đơn qua chương trình ODP.
-Chương trình Tái định cư nhân đạo HR, cứu xét đơn năm 2005.
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Thơ Giồng Ông Tố: Ngồi xuống đây! tao đút cho mày
thơ Giồng
Ông Tố-GOT2|nhạc|trình bày mũxanhdzuylynh
( cho TPB /QLVNCH… kỷ niệm 60 năm ngày thành lập TQLC.VNCH )
( cho TPB /QLVNCH… kỷ niệm 60 năm ngày thành lập TQLC.VNCH )
Ngồi xuống đây tao đút mầy lần cuối
Để mai này biết có gặp nữa không
nợ trần gian nợ cơm áo chất chồng
Tao bương chải đời long đong vô định
Ngồi xuống đây giữa tâm tình người Lính
Đừng nghĩ gì những toan tính thế gian
Tao với mày từng vượt những gian nan
Đã sống chết – lầm than – và tủi nhục
nợ trần gian nợ cơm áo chất chồng
Tao bương chải đời long đong vô định
Ngồi xuống đây giữa tâm tình người Lính
Đừng nghĩ gì những toan tính thế gian
Tao với mày từng vượt những gian nan
Đã sống chết – lầm than – và tủi nhục
Ngồi xuống đây tao đút mầy thêm chút
Cũng như mầy ngày xưa đút cơm tao
Giữa Cổ Thành tiếng quân dậy lao xao
Tao gục xuống và mầy lao ra cứu
Cũng như mầy ngày xưa đút cơm tao
Giữa Cổ Thành tiếng quân dậy lao xao
Tao gục xuống và mầy lao ra cứu
Tao biết lắm mầy sống đời mãnh thú
Con hùm thiêng trong giây phút sa cơ
Thân phế nhân đành trôi nổi mịt mờ
Muốn sống lại thuở viễn mơ rừng núi
Con hùm thiêng trong giây phút sa cơ
Thân phế nhân đành trôi nổi mịt mờ
Muốn sống lại thuở viễn mơ rừng núi
Thôi mầy ạ! Đời chúng mình gió bụi
Chết ngang tàng trong ngày tháng Tư Đen
Tao với mày chinh chiến đã thành quen
Thì tủi nhục cũng để rèn nhân cách
Chết ngang tàng trong ngày tháng Tư Đen
Tao với mày chinh chiến đã thành quen
Thì tủi nhục cũng để rèn nhân cách
Vậy hãy sống ngẩng cao đầu trong sạch
Biết tử sinh thì nhận lấy cho hùng
Tao với mầy có dòng máu chảy chung
Thà đổ xuống không bao giờ khuất phục
Biết tử sinh thì nhận lấy cho hùng
Tao với mầy có dòng máu chảy chung
Thà đổ xuống không bao giờ khuất phục
San
Jose,California.USA những hạt mưa đầu mùa Sept 25.2014.
Nguồn:http://www.nhatbaovanhoa.com/a1554/nuoc-mat-cua-cac-gia-dinh-cuu-tu-cai-tao-tho-giong-ong-to
KINH TẾ MỚI
NẠN NHÂN CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI
Chính sách này
được thực hiện tại miền Bắc từ năm 1961 và sau đó được áp dụng trên phạm
vi toàn lãnh thổ từ sau ngày 30/4/1975 cho đến năm 1998. Theo thống kê
chính thức, trong suốt 27 năm, Việt Nam đã di chuyển có tổ chức được 1,3
triệu hộ, trong đó di cư trong nội bộ tỉnh là 702.761 hộ với 3,3 triệu
người, từ tỉnh này sang tỉnh khác là 665.930 hộ với 2,8 triệu người.
Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết đại
hội về các nhiệm vụ của kế hoạch kinh tế 5 năm lần thứ nhất, trong đó có
đoạn viết: “Phải phân bố hợp lý sức sản xuất ở đồng bằng, trung du và
miền núi, điều chỉnh sức người giữa các vùng, quy hoạch từng bước các
vùng kinh tế, thực hiện sự phân công phối hợp giữa các vùng kinh tế với
nhau”.
Chủ trương này
của Đảng Lao động Việt Nam được thực hiện bằng việc tổ chức di dân từ
các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng lên sinh sống và sản xuất tại
các vùng núi và trung du phía Bắc. Mục đích chính là để ‘giãn dân’ nhưng
cũng không loại trừ đây là biện pháp nhằm ‘lưu đầy’ những thành phần
tiểu tư sản, kẻ thù của chế độ.
Sau 1975 là các
chương trình di chuyển lao động và di dân từ các tỉnh đồng bằng phía
Bắc tới Tây Nguyên (đặc biệt là Đắc Lắc, Lâm Đồng) và tới miền Đông Nam
Bộ (đặc biệt là Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai) theo các chuyến tầu Bắc-Nam.
Nổi bật hơn cả
là cuộc di dân từ Sài Gòn về các địa phương nông thôn ở miền đông và tây
Nam Bộ theo các chuyến xe đò. Người dân Sài Gòn được cấp tiền vé xe và
trang bị cho mỗi lao động hai công cụ sản xuất thích hợp, thường là cuốc
và xẻng, để tự túc làm kinh tế gia đình. Mỗi hộ được mang theo tối đa
800 kg hành lý. Nếu điểm đến ở xa Sài Gòn thì mỗi ngày phụ cấp thêm 1
đồng tiền ăn dọc đường cho mỗi người.
Cảnh xuống xe đò khi đến vùng kinh tế mới
Trên nguyên
tắc, khi đến vùng kinh tế mới, mỗi hộ gia đình được cấp từ 700 đến 900
đồng để dựng nhà, 100 đồng để đào giếng, 100 đồng mua ghe thuyền (nếu ở
vùng sông rạch). Ngoài ra, còn được trợ cấp 1 đồng mỗi ngày nếu đau ốm,
không thể lao động được; 50 xu mỗi ngày tiền thuốc khi bệnh và 150 đồng
để mai táng nếu chết.
Với chế độ tem
phiếu thời bao cấp, người lao động trong hợp tác xã tại vùng kinh tế mới
được phép mua 18 kg gạo/tháng theo giá chính thức, người lao động phụ
16 kg và người không lao động 9kg.
Theo lệnh ngày
19/5/1976, chính phủ đề ra năm hạng dân thành thị phải chuyển ra vùng
kinh tế mới: (1) Dân thất nghiệp; (2) Dân cư ngụ bất hợp pháp; (3) Dân
cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân chính
quyền cũ; (4) Tiểu thương, tiểu địa chủ, đại thương gia và (5) Người gốc
Hoa và những người theo đạo Công giáo.
Khảo sát những
con số thống kê nêu trên, ta có thể thấy cao điển của chiến dịch di dân
đi vùng kinh tế mới là kế hoạch 5 năm đầu tiên (1976-1980), nhưng việc
thực hiện chỉ đạt 37,5% chỉ tiêu. Toàn bộ kế hoạch 1976-2000 đạt 58% so
với chỉ tiêu đề ra (kế hoạch di dân 8,6 triệu người nhưng chỉ thực hiện
được với 5 triệu người).
Riêng tại Sài
Gòn, chỉ tiêu đặt ra là phải đưa đi vùng kinh tế mới 1,2 triệu dân. Cụ
thể hơn, 5 thành phần nói trên sẽ ‘không vượt quá 10% tổng số nguyên
thủy’, nghĩa là chỉ còn 120.000 người thuộc nhóm này được ở lại Sài Gòn.
Ngoài lý do
kinh tế, việc di dân ra vùng kinh tế mới còn có chủ ý chính trị để giảm
số người thuộc chính quyền Sài Gòn cũ tập trung ở những đô thị, nhất là
vùng Sài Gòn. Rõ ràng đây là một vấn đề thuộc phạm vi ‘an ninh chính
trị’ nhằm loại trừ những phần tử phản động, chống đối.
Phương pháp
cưỡng bức dân thành thị đi kinh tế mới bao gồm việc thu hồi hộ khẩu, rút
sổ mua gạo và các nhu yếu phẩm, cộng thêm việc gây khó khăn trong học
tập của con em họ tại các trường trong thành phố. Với những biện pháp
này, nhiều gia đình vì ‘yếu bóng vía’ đã phải miễn cưỡng di chuyển ra
vùng nông thôn nhưng cũng có những gia đình ‘ở lỳ’ tại Sài Gòn dù họ đã
bị thu hết giấy tờ và sống ‘bên lề’ hệ thống cung cấp lương thực của nhà
nước.
Đối với thành
phần tư sản, việc đi vùng kinh tế mới là kịch bản nối tiếp của chiến
dịch cải tạo công thương nghiệp hay còn gọi là Đánh Tư Sản. Các gia đình
tư sản sau khi bị kiểm kê và tịch thu tài sản thường nhận được lệnh rời
khỏi thành phố để đi xây dựng vùng kinh tế mới. Theo chính quyền, đây
là lối thoát duy nhất để ‘đổi đời’ từ giai cấp tư sản sang giai cấp lao
động.
Có những gia
đình sau khi lên xe đi khỏi Sài Gòn chỉ ít lâu sau lại bỏ về thành phố.
Nhà cửa không còn, họ tá túc tại nhà bà con hoặc thậm chí tại các mái
hiên, gầm cầu trong tình trạng không hộ khẩu, nhà cửa cũng không. Nhiều
người nghĩ rằng thà lang thang trong thành phố để kiếm ăn còn hơn sống
tại những vùng đất hoang vu không một bóng người.
Căn nhà vắng chủ tại vùng kinh tế mới
Gia đình tư sản
thì gom góp của cải còn dấu được sau đợt cải tạo công thương nghiệp để
tìm những ‘đường dây’ vượt biên ra nước ngoài. Họ chấp nhận rủi ro trên
bước đường đào thoát với hy vọng mong manh đến được bến bờ tự do để làm
lại cuộc đời. Chính sách đánh tư sản và đuổi họ ra vùng kinh tế mới đã
dồn người dân đến bước đường cùng là ‘vượt biên’ dù những hiểm nguy đang
chờ đón.
Đối với gia
đình có người đi học tập cải tạo, tình hình còn bi đát hơn. Họ liên tục
‘được’ công an khu vực, tổ dân phố và cơ quan hành chính cấp phường
‘động viên’ đi vùng kinh tế mới. Có những nơi còn quả quyết, nếu gia
đình đi kinh tế mới, chồng, cha, con, em họ đang học tập trong trại cải
tạo sẽ có cơ hội được về xum họp với gia đình sớm.
Thực tế cho
thấy, việc gia đình đi vùng kinh tế mới và việc được ra khỏi trại học
tập cải tạo hoàn toàn không liên quan đến nhau.
Đi kinh tế mới nằm trong kế hoạch quản lý hành chính bằng việc ‘giãn
dân’ trong khi đi học tập nằm trong chủ trương chính trị nhằm cải tạo
những thành phần ‘ngụy quân, ngụy quyền’. Thế nhưng, nhiều gia đình đã
‘ngây thơ’ tin tưởng vào việc đi kinh tế mới để người thân chóng về từ
trại cải tạo.
Bồng bế con đi vùng kinh tế mới
Dưới đây là tâm
sự của một bạn trẻ có cha là người đi học tập cải tạo trở về cùng gia
đình, họ ‘tái định cư’ tại một vùng kinh tế mới:
“Nắng và bụi
trên suốt đoạn đường từ Sài Gòn tới Tây Ninh nhưng tôi thấy trong lòng
lâng lâng hạnh phúc vì sau bao năm ly tán, từ đây tôi được gần ba, gần
má. Ngồi sau lưng ba trên chiếc Honda 67, tôi nhìn quang cảnh hai bên
đường, nhìn màu lá cây vàng quạch vì nắng vì bụi mà trông cho mau tới
nơi và nhẩm tính số kílômét còn lại khi xe lướt qua những cột mốc…
“Càng đi, đường
càng xa hun hút chỉ thấy có rừng. Lâu lâu phải xuống xe dắt bộ trên
những cây cầu bắc cheo leo qua các con suối sâu nước cuồn cuộn chảy (nói
dại chẳng may mà lọt xuống là nước cuốn trôi mất tiêu cái xác). Chạng
vạng tối mới về được tới lô nhà tranh mà người ta cấp cho ba ở trong
thời gian quản chế…
“Để được cấp
một căn nhà như vậy cần phải hội đủ số nhân khẩu cho nên ba được phép về
Sài Gòn đón tôi lên cho đủ tiêu chuẩn nhận nhà. Thời gian qua phải ở
chung với gia đình chú Bảy, ba thấy chật chội và bất tiện.
Nhà tranh vách đất tại vùng kinh tế mới
Và đây là vùng kinh tế mới dưới mắt cô bé ngây thơ:
“Phải mất nhiều
đêm tôi mới quen được với tiếng bom đạn nổ đì đùng lúc xa, lúc gần. Đó
là tiếng nổ phát ra từ những kho vũ khí ngày xưa. Mấy con chồn đi ăn đêm
nhái tiếng gà để bắt mồi, thoắt nghe vách bên này nó lại luồn qua vách
bên kia làm lũ gà con sợ kêu líu ríu. Buổi sáng tinh sương thức dậy thấy
yên lành hơn nhờ có ánh sáng mặt trời dù đâu đâu cũng nhìn thấy cây cối
bị đốn hạ xuống, đốt cháy xém như than, chất đống chờ mấy đội thanh
niên xung phong tới chở đi. Đó đây dấu bánh xe tải cày xới mặt đường mà
mưa xuống tạo thành vô số vũng lầy lớn nhỏ.
“Hằng ngày tôi
phụ với thím Bảy nấu cơm nước cho ba với chú Bảy đi lợp nhà. Thời gian
còn lại tập chẻ lạt, đánh tranh. Tre thì sắc, tranh thì xót, nhưng được
cái ham làm nên quên. Chiều chiều, sau khi đi làm về ba thường hái trái
rừng cho tôi. Có bữa cả ôm nhánh trái ‘sai’ (*) chi chít trái. Thứ sai
rừng chát ngầm (nuốt hoài không xuống cổ) nhưng tôi thích màu vỏ nhung
đen thẫm, bóng mượt và hạnh phúc cảm nhận tình thương mà ba dành cho đứa
con gái còi cọc, tóc quăn khét mùi nắng.
“Lâu lâu hết
mối cho gà ăn tôi theo ba vô rừng tìm ụ mới. Hễ bước tới đâu là phải
phạt cây hai bên cho ngã rạp xuống để còn biết lối ra. Thấy ụ mối nào
non ba lấy rựa chặt một nhánh chảng ba chỏng ngược xuống đóng vô làm móc
để quảy về, tiện thể dọc đường róc thêm vài bó tre về chẻ lạt... Mối
lần vậy là tôi có dịp ăn sấu rừng. Thứ trái hột bự bằng ngón tay cái,
ngọt ngọt chua chua mà ở thị thành không dễ gì có được.
“Có lúc tôi
cũng thay ba đi lãnh gạo. Gạo được lãnh mọt ăn trước người nên hột nào
cũng rỗng ruột, nhẹ hều. Nấu một nồi cơm phải dằn độn thêm hai ba lớp.
Vậy mà ăn bữa cơm nào cũng thấy ngon dù đôi khi chỉ là măng le kho với
mấy cục bột nêm (cũng được lãnh) có mùi ngai ngái mà lần đầu tiên ăn vô
là muốn ói (xin lỗi, có sao nói vậy).
“Ở đây cách thị
trấn mấy chục cây số nên không dễ gì tới chợ. Thỉnh thoảng cũng có
người gánh tiêu, tỏi, đường, bột ngọt, bí, bầu.. vô bán. Khi trở ra là
cái gánh nhẹ tênh. Ba gởi thơ biểu má sắp xếp công chuyện ở Sài Gòn xong
thì lên liền, sẵn tiện chuẩn bị một mớ gia vị gói sẵn từng gói lẻ để
bày một quầy tạp hóa nho nhỏ trước nhà cho tôi bán.
“Tôi đợi hoài
cái hôm má lên. Nhìn từ xa, má mặc áo bà ba xám, đội nón lá, gánh theo
đôi thúng nặng trĩu vai (giống như bất kỳ hình ảnh nào của người phụ nữ
đồng quê Việt Nam, tận tụy, tảo tần và chung thủy). Buông gánh xuống,
giở nón quạt quạt. Má cười đón hai cha con. Sau bao năm gia đình ly tán,
vất vả thăm chồng, nuôi con, trải bao biến cố lớn nhỏ trong đời, nụ
cười đó vẫn tươi tắn, lạc quan cho đến tận bây giờ. Là con gái đầu lòng,
tôi gần gũi, chứng kiến và hiểu má nhiều hơn ai hết.
“Nếu có thể
viết như một người cầm bút thì tôi tin rằng những câu chuyện của má sẽ
là một quyển truyện dài với vô vàn chi tiết sống thật hay mà tác giả
khỏi cần phải nhọc công hư cấu. Ba má tôi là người cùng quê. Tôi thường
tủm tỉm cười khi nghe chuyện tình của Ba Má mình: "Hồi đó má mầy ở quê,
ba đi làm trên Sài Gòn, mỗi lần nghe Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết hát ‘Em
gái vườn quê’ là ba nhớ má mầy quá trời quá đất.
Một căn nhà tương đối tươm tất tại vùng KTM
“Từ ngày có má
lên, ba như được tiếp sức. Má giỏi việc đồng áng, lại quen chịu vất vả.
Sáng sáng má theo ba phụ dựng nhà, lợp mái. Chiều chiều tôi đón ba má về
ăn cơm. Tối tối gia đình tôi ở gian trong, gia đình chú Bảy ở gian
ngoài vọng ra, vọng vô trò chuyện.
Ba bàn với chú
Bảy: ‘Thấy mấy đứa nhỏ ăn uống kham khổ quá, sẵn có bả lên, tui với anh
sắm gàu sòng đi tát hố bom kiếm mớ cá về cho tụi nó ăn. Hổm nay đi làm
ngang qua tui thấy cá nhảy lên nhảy xuống đớp móng dữ lắm’. Chú bảy chưa
kịp ừ hử gì thì đám con của chú đã reo hò dậy giường dậy chiếu.
Trẻ thơ tại vùng kinh tế mới
“Coi vậy mà
công việc chuẩn bị phải mất mấy ngày mới xong. Ba, má với chú Bảy xếp
đặt kế hoạch chu đáo lắm vì nghe nói đâu cái hố bom chu vi rộng cỡ bằng
hai, bằng ba căn nhà gộp lại, dự trù tát ba ngày ba đêm mới cạn. Đâu đó
xong xuôi, sáng sớm ba dẫn đầu hai gia đình với gàu sòng, dây nhợ, cuốc,
xẻng, đèn bão và một cái thùng đựng cá thiệt bự ra ngoài chỗ hố bom.
“Tôi nhìn cái
hồ rộng mênh mông, nghi ngờ và hỏi thầm: ‘Có thiệt hôn đây? Ba má định
tát cho nó cạn thiệt hả?’. Nghĩ vậy thôi chứ tôi biết tánh ba đâu có bao
giờ nói chơi. Có điều, dám tát cạn cái hố bom nầy thì thiệt là quá sức
tưởng tượng.
“Chú Bảy dặn
thím Bảy ở nhà nấu cơm, nấu nước. Tôi với đứa con gái lớn của chú Bảy lo
tiếp tế. Hai đứa con trai của chú thì canh để khai thông đường nước
thoát. Hết ngày tới đêm. Dưới ánh trăng và ngọn đèn bão, ba má với chú
Bảy thay phiên nhau tát. Tiếng nước hắt ra từ gàu sòng trong đêm khuya
vắng nghe ầm ầm như tiếng thác.
“Mới có ba ngày
hai đêm đã bắt đầu thấy ló mặt bùn (người ta nói đâu có sai, đồng vợ
đồng chồng, biển Đông tát còn cạn, huống hồ gì là cái hố bom!). Ba, má
với chú Bảy ngưng tát, bắt đầu nhảy xuống mò cá. Đám con nít cũng nhào
xuống bóp bùn. Lâu lâu mới nghe la lên: ‘Được một con!’. Giở lên thấy
con cá ‘bự’ cỡ hai ngón tay. Xà quần dưới lớp bùn hơn một tiếng đồng hồ
mà cá ở trong thùng chỉ vỏn vẹn cỡ… nửa ký.
“Thấy ba cứ
tiếc nuối không chịu lên, má giục: ‘Thôi mình đi về!’. Rồi hối tụi tôi
trèo lên gom gàu, dây nhợ, cuốc, xẻng kéo nhau về. Vừa mệt, vừa tiếc
công, dọc đường ba rủa... mấy con cá: ‘Mẹ bà nó! Có mấy con mà cứ nhảy
lên nhảy xuống làm tao tưởng nhiều!’.
Cô gái viết
những đoạn văn trên hiện sống cùng gia đình tại Hoa Kỳ. Xin chia vui
cùng cô và gia đình đã chuyển về một vùng kinh tế mới khác với thời thơ
ấu ngày nào...
Sau ngày 30.04.1975, Việt cộng cướp
đoạt tài sản người dân miền Nam qua (3) ba chiến dịch ‘đổi tiền’ . Đây là một vụ
cướp bằng luật do nhà nước ban hành.
Đổi tiền ngày 22.9.1975
Ngày 20.09.1975, bất ngờ có tin từ Ban Điều hành ngân hàng Đại Á cho nhân
viên biết là không được về sớm (lúc đó, tại ngân hàng thương mại, chúng tôi
không còn bao nhiêu việc để làm) hầu chờ lệnh Ngân hàng Quốc gia… Quá 12 giờ,
các nhân viên kế toán được yêu cầu có mặt tại chi nhánh Việt Nam Thương tín Đa Kao
lúc 12 giờ hôm 21.09.1975 để đi nhận việc mới. Nhận việc ngày Chúa nhật là một
điều lạ ? Nhưng chúng tôi tự vấn an nhau ‘Thời cách mạng mà!’.
Đúng giờ định, chúng tôi có mặt đầy đủ nhưng chỉ gặp nhân viên
bảo vệ chi nhánh. Ông cho biết chỉ nhận lịnh đón chúng tôi vào chờ mà thôi… Chờ
mãi đến gần 15 giờ, đề tài để trò chuyện cũng đã cạn, chúng tôi kéo nhau đi ăn
‘bánh cuốn Tây Hồ’… Từ khoảng 17 giờ, có thể người dân ngửi được mùi ‘biến cố
tiền tệ’ sắp bùng nổ : người ta ăn uống tới tấp, nhiều người sẵn sàng trả giá
để mua hàng với giá cao khó tưởng tượng. Tiếp theo, đài phát thanh yêu cầu
người dân phải về nhà trước 23 giờ để đợi thông báo quan trọng. Lúc 2 giờ ngày
22.09.1975, đài loan tin về quy định đổi tiền và kéo dài thời gian giới nghiêm
đến 11 giờ sáng. Thời gian đổi tiền sẽ bắt đầu vào lúc 11 cho đến 23 giờ cùng
ngày, tức chỉ có 12 giờ đồng hồ để hoàn thành việc thu và đổi tiền. Thể thức :
- Hối suất : 500 đồng Việt Nam Cộng hòa = 1 đồng Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam;
- Mỗi gia đình chỉ được đổi 100.000 đồng cũ ra thành 200 đồng
mới để tiêu dùng thường nhật. Phần còn lại, Nhà nước giữ lại…
Lúc 6 giờ ngày Đổi tiền, chiến dịch bắt đầu : một xe nhà binh
GMC đến đón chúng tôi có ‘đồng chí’ Phường ủy Phường Trần Quang Khải, Quận
nhất, đi kèm. Nói chuyện với chúng tôi, ông kể lể công thống nhất đất nước của
Đảng và hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho toàn dân. Thấy tôi mỉm cười, ông đưa
‘thẻ vàng’ cảnh cáo : không tin Đảng.
Sau đó, nhóm ‘ngân hàng’ chúng tôi bị chia mỗi người đến một Bàn
(đơn vị phụ trách Đổi tiền) để nhận nhiệm vụ Kế toán. Bàn, nơi tôi đến đặt tại
một nhà mà chủ đã vượt biên ở đường Nguyễn Văn Thạch. Sau đó, một đồng chí mặc
kaki, mang dép râu với nón cối tới và tự giới thiệu là y sĩ bộ đội, Bàn trưởng.
Tiếp đến, hai công chức Ngân khố để làm Thủ quỹ : một tiền cũ và một tiền mới.
Bàn trưởng, tính tình hiền hậu, mở lời nhờ chúng tôi giúp anh hoàn thành công
tác và, vì anh không rõ qui định về Tờ khai gia đình ở Sài gòn thế nào, nên nhờ
chúng tôi xem dùm. Anh ‘cử’ tôi làm Thư ký giữ và phát đơn.
Cuối cùng, những ấn phẩm và tiền mới có những trị giá khác nhau
cũng được chở tới. Đúng 11 giờ, Bàn Đổi tiền mở cửa tiếp các khách hàng ‘miễn
cưỡng’, tôi cảm thấy bị cưỡng bách phải nhận Tờ khai gia đình, xem, trả lại kèm
hai mẫu đơn và xin nộp lại khi đã khai xong với số tiền mặt cũ.
Trong số những đồng bào đến đây, tôi tiếp Giáo sư H.T.S, Thầy cũ
đã dạy ở Đại học Luật khoa Sàigòn. Ông giải thích nhà ông ở Làng Đại học bị
‘lấy’ và đưa Tờ khai gia đình cho tôi. Không thể để người bị ‘cướp’ bị đến hai
lần, tôi nhận văn kiện và nói : ‘Thầy để tôi lo.’ Bao nhiêu đó đủ để nhận biết
nhau. Tôi trả hồ sơ cho ông và nói đủ lớn để Bàn trưởng nghe : « Tờ khai
gia đình của Thầy có ghi ‘Tạm trú’. Như vậy ‘được rồi và sau khi khai xong,
Thầy sớm nộp lại. Chào Thầy ». Cười và bắt tay nhau. Trong số khách đó, có
những người đến xin đơn về khai và, sau khi, nghe theo bàn tán thế nào, trở lại
xin đơn khác… Thôi thì tiền của người ta (họ không phải là kẻ ‘chấp hữu vô căn’…
mà chỉ là nạn nhân chế độ) nên tôi cứ để cho chủ gia đình tự quyết định theo ý.
Khi đồng bào trở lại nộp đơn, tôi đọc xét và ghi sổ kế toán,
tiền cũ được Thủ quỹ tiền cũ nhận, đếm đúng với số khai, cắt góc tờ giấy bạc và
lưu lại. Sau đó, Thủ quỹ tiền mới giao những tờ giấy bạc mới cho khách và Bàn
trưởng ký chung cuộc và trao một bản đơn cho đương sự. Bản kia trao cho tôi để
lưu. Xong cho một gia đình. Có vài gia đình thắc mắc, vì nghe các du kích dạy
bảo ‘cộng sản sẽ san bằng giàu nghèo’, sao không được lãnh 200 đồng tiền mới
như nhà trước. Tôi chỉ trả lời : không có chỉ thị. Thật nghèo mà tin cộng sản !
Các lãnh đạo cao cấp, tại Hà nội, hình như đã không thể thẩm
lượng số tiền đang lưu hành tại Việt Nam Cộng hòa cũ, nơi nền kinh tế phồn
thịnh hơn Miền Bắc cộng sản nhiều vì, sau ngày 30.04.1975, hàng loạt hàng hóa
và vàng bạc từ Sài gòn đã được chở về Hà Nội, kể cả 16 tấn vàng mà ‘người cộng
sản’ phao tin ông Nguyễn Văn Thiệu đã chở đi khỏi nước. Cuộc đổi tiền đã kéo
dài ba ngày và chỉ mới thanh toán cho mỗi gia đình 200 đồng tiền mới mà thôi.
Xin ghi thêm những điều biết được khi đọc Việt Báo ngày
04.10.2006.
« Ngay sau khi Cộng quân tiến chiếm Sài gòn trưa ngày
30.04.1975, Ban Quân quản các ngân hàng đã tiếp thu Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
và các ngân hàng khác ‘với tiền, vàng còn nguyên vẹn là một chuyện ngoạn mục.
Việc xử lý sau đó còn ngoạn mục hơn Ừ. Đó là lời ông Lữ Minh Châu, Trưởng ban
Quân quản các ngân hàng Sài gòn – Gia định, người tổ chức tiếp quản toàn bộ
tiền, vàng của chế độ cũ. Ngoài ra, ông Châu còn xác nhận : Về … 16 tấn vàng
vẫn còn nguyên vẹn trong kho của ngân hàng Ừ. Về tiền, ông cho biết :
« Toàn bộ tiền và vàng dự trữ trong ngân hàng chúng ta tiếp quản nguyên
vẹn cùng với đầy đủ hồ sơ sổ sách. Theo thống kê thì khối lượng tiền trong lưu thông
thời điểm đó là 615 tỉ, gồm tiền mặt trong lưu thông 440 tỉ, còn lại nằm trong
tài khoản tiền gửi.
Sau khi tiếp quản, tài sản thuộc Ngân hàng Quốc gia được bàn
giao toàn bộ cho Ngân hàng Trung ương Chính phủ Cách mạng lâm thời, mang tên
Ngân hàng quốc gia miền Nam, do ông Trần Dương làm Thống đốc ». Theo
Wikipedia, khi kiểm kê tiếp thu, trong kho hầm sắt Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
có 1.234 thoi vàng và một số tiền cổ bằng vàng, tức hơn 16 tấn. Đó là tài sản
quý kim và tiền tệ của nước Việt Nam Cộng hoà. Sau đó, đến phiên tiền tệ của
người dân được cướp đi bởi các cuộc Đổi tiền.
Tuy nhiên, khi ông cho biết ‘Trong kho dự trữ còn có 125 tỉ tiền
in theo kiểu mới chưa phát hành, riêng số giấy bạc này được lệnh phải thiêu
hủy, vì đó là số giấy bạc mà chính quyền Sài Gòn chuẩn bị để đổi tiền’. Từ ‘đổi
tiền’ mà ông nói ở đây không cùng nghĩa vì đó là những tờ giấy bạc có mệnh giá
lớn được in chờ ngày phát hành. Ngày phát hành được cơ quan thẫm quyền loan báo
trước và, đến ngày đó, Viện phát hành giao lượng giấy bạc này cho các ngân hàng
hay những ngân khố để chi trả cho người thụ hưởng hợp pháp đúng định giá. Đồng
thời, Viện này cũng có thể chỉ định thu hồi các loại tiền khác để tiêu hủy.
Ngày 25.09.1975, nhân viên tất cả các Bàn đổi tiền được tập họp
về vũ trường Maxime cũ để tổng kết. Nhân dịp này, Bí thư Thành ủy khen chiến
dịch ‘Đổi tiền’ đã đạt thành quả tốt đẹp hơn cả chiến dịch Hồ Chí Minh (chiếm
Miền Nam) vì khi thảo luận chiến dịch này, Bộ Chính trị nắm vững quân số và
phương tiện, nhưng khi ‘Đổi Tiền’ thì họ không có đủ số nhân sự động viên cũng
như số lượng tiền cũ và công việc. Sau đó, tôi đã làm công tác thống kê.
Các vị ‘đỉnh cao trí tuệ’ muốn có những số liệu tiền mặt của
những gia đình mà gia trưởng là các sĩ quan hay công chức đang ‘đi cải tạo’, nhưng
khi lập bảng Thống kê, vì các ông đang vắng mặt, các bà đã đứng đơn xin đổi
tiền và chỉ ghi nghề nghiệp mình đang làm hay nội trợ. Nhờ đó, tôi cảm thấy nhẹ
nhàng… Sau đó, theo Wikipedia, từ đầu năm 1976, các gia đình có tiền đổi
được phép rút 30 đồng mới mỗi tháng, nhưng đến tháng 12/1976 thì trương mục
được khóa lại.
Đổi tiền ngày 03/5/1978
Sau khi thống nhất Việt Nam năm 1976, đảng Lao động Việt quyết
định xã hội chủ nghĩa hóa nền kinh tế thị trường, theo nghị quyết khóa III, xóa
bỏ tư sản thương mại và dân tộc, xây dựng hợp tác xã,… Kỳ Đổi tiền 1978 được
quyết định bởi Thủ tướng bởi sắc lệnh số 88 CP ngày 25.04.1978 và khai triển
ngày 03.05.1978. Theo đó tiền tệ hiện lưu hành tại hai miền Nam Bắc hết giá trị
giao hoán và những ai đang sở hữu tiền cũ này phải đem đổi lấy tiền mới.
Dân thị thành được đổi tối đa:
- 100 đồng cho mỗi hộ 1 người;
- 200 đồng cho mỗi hộ 2 người;
- Hộ trên 2 người thì người thứ 3 trở đi được đổi 50 đồng/người;
- Tối đa cho mọi hộ thành phố bất kể số người là 500 đồng.
Dân quê được phép đổi theo ngạch sau:
- 100 đồng cho mỗi hộ 2 người ;
- Hộ trên 2 người thì người thứ 3 trở đi được đổi 30 đồng/người;
- Tối đa cho mọi hộ dưới quê bất kể số người là 300 đồng.
Số tiền đang có trên mức tối đa phải khai nộp và ký thác vào
ngân hàng. Khi cần dùng có lý do chính đáng thì tiền đó có thể rút ra. Một điều
buộc nữa là trương chủ phải chứng minh số tiền này là tiền kiếm được bằng sức
lao động chân chính.
Đang làm việc tại Phòng Tiền tệ Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh,
tôi tham gia Kiểm tra Tồn quỹ các cơ quan nhà nước tại Thành phố, đặt tại lầu
10 Ngân hàng Thành phố. Tổ (đơn vị kiểm tra) gồm một Tổ trưởng (tại Tổ chúng
tôi: một lãnh đạo Ngân hàng Kiến thiết, vui tính và biết điều), một công an cấp
tá giáo điều và chúng tôi hai kế toán.
Cơ quan đầu tiên mà Tổ kiểm tra tiếp là Trường đại học Y khoa.
Sổ sách kế toán và tồn quỹ phù hợp qui định Ngân hàng Thành phố, nhưng hơi cao.
Lý do mà mọi người điều biết : Tiền mặt không được giữ tại cơ quan quá định
mức, nhưng khi cần thì Ngân hàng không có đủ để cung ứng. Sau đó, khi làm việc
với một đơn vị quân báo và tìm thấy những số tiền mặt được dùng để chi trả cho
việc may quân phục đen. Tổ trưởng đặt câu hỏi và được trả lời là để giả lính
Khmer đỏ và xâm nhập và Cam bốt. Lúc đó, Khmer đỏ thỉnh thoảng tấn công Việt
Nam và giết người Việt và Việt Nam chuẩn bị đánh vào Cam bốt năm 1979.
Cơ quan mà việc kiểm tra kéo dài và khó khăn nhứt là Trường
Đảng, đặt tại Trường Bộ binh Thủ đức cũ. Khi tiến hành kiểm tra, vài thành viên
Trường Đảng đã đưa cao tay cho thấy họ có súng…
Sau một ngày làm việc không kết quả, hôm sau, trước khi bắt đầu,
Trưởng đoàn cho biết : tối hôm qua, Đảng ủy Trường đã họp và quyết định nói
thật…
Khi kiểm tra sổ kế toán, tôi thấy ngay có nhiều trang không có
số cộng từ trên xuống không có, nhưng có số mang sang trang sau. Tôi hỏi tại
sao như vậy ? Trong khi một cô kế toán ‘sếp’ đang cố gắng giải thích thì cô kế
toán kia nhỏ nhẹ ‘ba em đi học tập’ khiến tôi nghĩ đến tình chiến hữu (dù là
quân nhân, cảnh sát hay công chức cũng phụng sự Tổ Quốc Việt Nam Cộng
hòa). Do đó, tôi khuyên hai cô phải làm thế nào để đúng, nhưng rồi xếp sổ lại.
Cơ quan ‘Khám Chí hoà’ cũng có những vi phạm, nên giờ cơm trưa, Tổ trưởng và Trung
tá công an được mời về ăn. Buổi chiều, sau khi làm Biên bản kiểm tra tồn quỹ,
trong khi tôi đánh máy năm bản, Trưởng đoàn nhà tù mời các thành viên Tổ uống
bia. Tôi từ chối. Mang bia đến, nhưng không có ly, nên phải đến nhà bếp mượn để
uống khiến thành viên các Tổ khác biết. Rồi vì ghen ghét không được uống bia,
nên họ đã họp toàn thể các Tổ để tố quê nhau…
Đổi tiền ngày 14.9.1985
Ngày 12-9-1985, báo Tuổi Trẻ đăng tại trang nhất: ‘Bẻ gãy thủ
đoạn tung tin đổi tiền của gian thương’và đã viết: ‘Với sự tăng cường hiệu lực
của bộ máy chuyên chính vô sản mọi hậu quả tin đồn phải được thanh toán triệt
để’. Thế rồi, sáng 14.09.1985, hệ thống loa phóng thanh đường phố loan tin Đổi
Tiền. Đó là sự khác biệt giữa biện pháp do cộng sản chủ trương và những sự Đổi
Tiền ở những nước dân chủ mà chúng ta đã xem khi bắt đầu bài này. Trước cướp
đó, Phan Văn Khải, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Phan Văn Khải
viết báo biện luận ‘Đổi tiền là vì lợi ích của nhân dân lao động’.
Vì đang hành nghề cho doanh nghiệp tư nhân, nên tôi không bị
buộc phải tham gia Đổi tiền lần này.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét