Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2019

CHIẾN TRANH Ý THỨC HỆ- CỘNG SẢN & TƯ BẢN "


NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN VIỆT NAM

23/04/201912:26:00(Xem: 1181)
NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
    Cuộc chiến Việt Nam đã xem như chấm dứt được bốn mươi năm nhưng vẫn còn để lại những “Hội Chứng Việt Nam” trong lòng tất cả con dân nước Việt. Cho đến ngày nay, kể cả những người từng tham dự cuộc chiến, cầm súng chiến đấu vẫn không nhận chân được vấn đề là bản chất của cuộc chiến Việt Nam? Chiến tranh Việt Nam có phải là cuộc chiến để giành độc lập dân tộc như Cộng Sản Việt Nam vẫn rêu rao tuyên truyền? Thật vậy, đồng bào miền Bắc nhất là các đảng viên đoàn viên bị nhồi nhét tuyên truyền “Bác Hồ” là người yêu nước và đảng Cộng sản Việt Nam có công giành lại độc lập từ tay thực dân Pháp. Trong khi đó, Đồng bào trong Nam thì chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh ý thức hệ để ngăn chặn làn sóng đỏ, bảo vệ miền Nam tự do. Đối với đa số quần chúng nhân dân thì hiểu đơn giản là cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn. Thật vậy, đối với quần chúng và nhất là giới nghệ sĩ thì đó là một cuộc nội chiến tương tàn “Ba mươi năm nội chiến từng ngày ...” nồi da xáo thịt “Người chết hai lần ... thịt da nát tan!” khiến hơn 4 triệu đồng bào Việt Nam ở miền Bắc đã hi sinh cho một cuộc chiến vô nghĩa. Sở dĩ tập đoàn Việt gian Cộng sản còn tồn tại tới giờ này vì đa số đảng viên CS tuy thất vọng về tập đoàn lãnh đạo Việt gian CS nhưng vẫn còn biện minh, bám víu vào luận điểm cho rằng Hồ Chí Minh và đảng CSVN có công giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Một khi biết rõ sự thật lịch sử thì họ sẽ cùng với toàn dân đứng lên chuyển đổi lịch sử trong nay mai.
    Trong chuyến thăm Hoa Kỳ của TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã cùng với TT Hoa Kỳ ký kết “Tầm Nhìn Chung Việt-Mỹ”. TBT Đảng CSVN đã tuyên bố “Cuộc chiến Việt Nam được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Đối với nhân dân Việt Nam, đó là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Thế nhưng cuộc chiến đó không nhằm chống lại đất nước Hoa Kỳ và càng không phải chống lại nhân dân Hoa Kỳ”. Đây là một sự kiện chuyển biến lịch sử nên lần đầu tiên, Quốc Hội Hoa Kỳ đã chính thức tổ chức lễ Tưởng Niệm 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh vì lý tưởng Tự do trong cuộc chiến Việt Nam.

   Cuộc chiến Việt Nam, chấm dứt ngày 30 tháng Tư năm 1975 sau khi quân đội Mỹ hoàn toàn rút về nước theo chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, là cuộc chiến tốn nhiều giấy mực và không biết bao nhiêu tranh cãi cũng như bất đồng về sự tham chiến của người Mỹ 50 năm trước. Đã có 58.000 binh sĩ Hoa Kỳ bỏ mình trên chiến trường Việt Nam, hàng trăm ngàn người trở về với thương tích trên thân thể và nỗi đau trong tâm hồn của người lính bị cho là tham dự không chính đáng vào một cuộc chiến ở một đất nước khác ngoài Mỹ quốc. Thế nhưng, lời tuyên bố của TBT Đảng CSVN mới đây đã phủ nhận toàn bộ cái gọi là “Cuộc Chiến Chống Mỹ Cứu Nước” mà họ tuyên truyền mấy chục năm nay. Lời tuyên bố trên cũng thừa nhận sự sai lầm của đảng CSVN đã hy sinh hơn 5 triệu đồng bào cho một cuộc chiến phi nghĩa, mặt khác nó thừa nhận một sự thật bi thảm phũ phàng mà cố TBT đảng CSVN Lê Duẫn đã thú nhận tập đoàn Việt gian CS là công cụ tay sai khi tuyên bố “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc”.

    Năm mươi năm sau, ngày 8 tháng Bảy 2015, bốn hôm sau Lễ Độc Lập July 4th, quốc hội Hoa Kỳ lần đầu tiên tổ chức buổi lễ kỷ niệm chính thức, mời những cựu chiến binh Hoa Kỳ thuộc các binh chủng từng chiến đấu ở Việt Nam từ đầu thập niên 1960, để nói lên lời cảm ơn đồng thời ghi nhận sự hy sinh cao cả của những lính chiến đó. Mở đầu buổi lễ, chủ tịch hạ viện John Boehner mời tất cả những cựu chiến binh hiện diện trong khán phòng đứng dậy. Trong tiếng vỗ tay vang dội của gần một ngàn người tham dự, ông John Boehner ngỏ lời tri ân những chiến sĩ mà nay tuổi đã xế chiều. Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến phức tạp, kéo dài và gây nhiều tranh luận nhất, ông nói, những chiến sĩ hải lục không quân cũng như bộ binh Mỹ khi còn là những thanh niên trai tráng đã can đảm nghe theo mệnh lệnh quân ngũ dấn thân vào một cuộc chiến đắt giá trên nhiều nghĩa. Theo ông, đất nước và nhân dân Mỹ phải nhớ ơn một thế hệ trẻ đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho lý tưởng tự do mà giá trị của nó luôn được ghi nhận. Chính vì vậy, chúng ta phải tìm hiểu bản chất của cuộc chiến hay nói cách khác, hiểu rõ ý đồ của các thế lực quốc tế toan tính những gì trên xương máu mồ hôi và nước mắt của toàn dân Việt Nam, từ đó chúng ta mới thấy rõ toàn bộ vấn đề.

    Để hiểu rỏ bản chất cuộc chiến Việt Nam, với tư cách một người nghiên cứu lịch sử trên quan điểm dân tộc, chúng tôi chỉ đưa ra những nhận định trung thực không nhằm mục đích tuyên truyền cho một chế độ nào, một đảng phái chính trị nào. Chúng ta cùng lược duyệt các sự kiện lịch sử trọng yếu, các hiệp ước quốc tế liên quan đến Việt Nam đối chiếu với thực tế chính trị sau đây:

- Hiệp Ước Patenôtre 1884 ký kết ngày 6-6-1884 giữa triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp qui định Nam Kỳ Tự trị và Pháp chính thức áp đặt chế độ bảo hộ Bắc và Trung Việt Nam.

- Ngày 9-3-1945, Quân Phiệt Nhật lật đổ Thực dân Pháp. Ngày 11-3-1945, Cơ Mật Viện triều Nguyễn họp khẩn cấp và ra tuyên bố “Huỷ bỏ Hiệp ước 1884 và Khôi phục chủ quyền cuả  Việt Nam”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập. Ngày 8-5-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố chương trình Hưng Quốc, lá cờ “Quẻ Ly” được chọn làm quốc kỳ và bài “Đăng Đàn” của triều đình nhà Nguyễn được chọn làm quốc ca.

- Ngày 17-8-1945, Tổng hội giáo giới tổ chức cho công chức Hà Nội biểu tình để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc biểu tình diễn hành qua các đường phố thì cán bộ CS trương cờ đỏ sao vàng biến cuộc biểu tình của công chức thành biểu tình ủng hộ mặt trận Việt Minh. Ngày 19-8-1945, biểu tình lớn tại nhà hát lớn Hà Nội, mặt trận Việt Minh xuất hiện cùng với cờ đỏ sao vàng xuất hiện nhiều nơi. Việt Minh “Cướp Chính quyền”, chiếm các công sở trong thành phố. Ngày 22-8-1945, Mặt Trận Việt Minh chính thức xuất hiện tại Hà Nội và Sài Gòn, Hoàng Đế Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị.

- Ngày 2-9-1945, Hồ Chí  Minh độc “Tuyên ngôn Độc lập” và trình diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hà Nội. Ngày 11-11-1945, Đảng CS Đông Dương tuyên bố tự giải tán để trở thành “Nhóm Nghiên cứu Mác Xít”.

- Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký kết hiệp ước sơ bộ với Pháp cho phép quân Pháp đổ bộ vào Bắc bộ thay thế quân đội Trung Hoa hậu thuẫn cho Việt Nam Quốc Dân Đảng để rảnh tay tiêu diệt đối thủ là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ngày 19-12-1946, Chiến tranh Việt Minh và Pháp bùng nổ bắt đầu từ Hà Nội.

- Ngày 5-6-1948 công bố bản Tuyên ngôn Vìệt Pháp trên chiến hạm Duguay-Trouin tại vịnh Hạ Long giữa Cao Ủy Pháp Émile Bollaert và Thủ tướng Lâm thời Nguyễn văn Xuân. Tuyên ngôn vịnh Hạ Long minh định Pháp quốc thừa nhận Việt Nam là một quốc gia Độc lập và thống nhất trong Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết.

- Ngày 18-1-1950, nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc chính thức thừa nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ngày 31-1-1950, Liên bang Sô Viết thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã chính thức đứng vào hàng ngũ các nước cộng sản nên Trung Quốc bắt đầu công khai viện trợ vũ khí tối tân cho VNDCCH.

- Ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh quốc thừa nhận quốc gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa CS xuống Đông Nam Á. Kể từ thời điểm này, cuộc chiến Việt Nam không còn là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mà đã trở thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa 2 hệ thống tư tưởng: Chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Tư Bản của thế giới tự do.

- Ngày 20-7-1954, Ký kết thỏa ước ngưng bắn giữa Giữa Pháp và Việt Minh. Tuyên bố chung kết Hội nghị Genève qui định các điều khoản chính trị về việc tạm thời chia đôi đất nước và tổ chức Tổng tuyển cử được Anh, Pháp, Ai Lao, Trung Quốc, Liên Sô, Cambodia và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận. Tuyên Bố Chung kết không được thi hành vì Hoa Kỳ không thỏa thuận và không hỗ trợ Tuyên Bố Chung này. Ngay khi các bên vừa đặt bút ký kết hiệp định, Ngoại trưởng Trần văn Đỗ khóc và tuyên bố “Chính phủ Quốc Gia Việt Nam phản đối việc ký kết hiệp định đình chiến trái với nguyện vọng độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam cũng như sự lạm quyền của Tổng tư lệnh Pháp tự ý ấn định ngày tổng tuyển cử… Tuy nhiên, Việt Nam cũng cố gắng hoan nghênh mọi nỗ lực để tái lập hòa bình và không dùng võ lực để cản trở việc thi hành hiệp định”.

- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Trung Cộng tuyên bố quyền làm chủ biển Đông. Ngày 14-9-1958, Thủ tướng VNDCCH gửi thư cho Thủ tướng quốc vụ viện Chu Ân Lai “Ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”.

- Mao Trạch Đông tuyên bố trắng trợn ý đồ xâm chiếm Miền Nam Việt Nam như sau: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore. Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …”. Cộng sản Việt Nam nhận chỉ thị phát động cuộc chiến tranh “Giải phóng” miền Nam VN. Tháng 4 năm 1959, Ủy ban Trung ương đảng họp lần thứ 15 quyết định dùng vũ lực xâm chiếm miền Nam Ngày 20-12-1960: Hà Nội công bố Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam do LS Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch.

- Ngày 27-1-1973 Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã ký HIỆP ĐỊNH CHẤM DỨT CHIẾN TRANH VÀ TÁI LẬP HÒA BÌNH TẠI VIỆT NAM Hiệp Định Hòa Bình Paris nhằm "kết thúc chiến tranh và tái lập hòa bình tại Việt Nam". Vào lúc ký hiệp định, VNCH kiểm soát 75% lãnh thổ và 85% dân số. Trong đó, điều 15 qui định "Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Nam và Miền Bắc, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào, thời gian thống nhất sẽ do Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam đồng thỏa thuận".

TỔNG KẾT CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM

   Việt Nam với bờ biển dài như hình chữ S nhìn ra biển Đông Thái Bình Dương, khống chế toàn bộ hải trình từ Đông sang Tây và ngược lại nên được xem như “ngã tư giao thương quốc tế”. Ngoài vị trí “địa lý chiến lược” hết sức quan trọng, Việt Nam còn có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và một hải phận rộng 1 triệu km2 với trữ lượng dầu hỏa tiềm tàng đã khiến các cường quốc luôn tìm mọi cách xâm chiếm, can thiệp vào Việt Nam. Lịch sử cận đại chứng minh khu vực Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng là một khu vực địa lý-chính trị và quân sự nên cuộc chiến tranh ở Việt Nam kéo theo cả Đông Dương (Việt, Miên, Lào) và cả khối Đông Nam Á trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo ở vùng này.

   Ngày 3-2-1930 Hồ Chí Minh thành lập đảng CSVN đến tháng 10-1930 theo chỉ thị của Cộng sản quốc tế đổi tên là đảng Cộng Sản Đông Dương. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh thực dân Pháp. Ngày 11-3-1945, Cơ Mật Viện triều Nguyễn họp khẩn cấp và ra tuyên bố “Huỷ bỏ Hiệp ước 1884 và Khôi phục chủ quyền cuả  Việt Nam”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập. Như vậy, Việt Nam trên nguyên tắc đã chính thức độc lập kể từ ngày 11-3-1945 với chính phủ Trần Trọng Kim đầu tiên trong lịch sử. Cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp mà Cộng Sản phát động dưới danh nghĩa giải phóng các dân tộc Việt Miên Lào trong thực chất là để bành trướng chủ nghĩa  Cộng Sản, nhuộm đỏ cả Đông Dương để mở đường cho Trung Cộng tiến xuống Đông Nam Á. Ngày 14-1-1950, Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 31-1-1950 Liên Sô công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa là nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á nên ngày 7-2-1950, Anh, Hoa Kỳ và các nước tự do công nhận chính phủ quốc gia Bảo Đại. Hồ Chí Minh lãnh đạo chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chính thức đứng vào hàng ngũ Cộng Sản nên cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc đã trở thành chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng Sản và tư bản, đưa dân tộc Việt Nam vào thế khốn cùng. Để lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân, ngày 11-11-1945, đảng Cộng Sản Đông Dương giải tán rồi thành lập đảng Lao Động (16-3-1951) trá hình của đảng  Cộng Sản để lãnh đạo phong trào Việt Minh.

   Ngày 2-6-1948, thành lập chính phủ Trung Ương Lâm thời do Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng, ban hành Hiến chương Lâm thời của nước Việt Nam, chọn quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ và bài “Thanh niên Hành khúc” sau khi đã đổi lời của Lưu Hữu Phưóc làm quốc ca. Ngày 5-6-1948 công bố bản Tuyên ngôn Vìệt Pháp gọi là Tuyên ngôn vịnh Hạ Long minh định Pháp quốc thừa nhận Việt Nam là một quốc gia Độc lập và thống nhất trong Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết.

   Từ tháng 8-1945 đến 1-1946, Hồ Chí Minh đã gửi 8 bức thư cho TT Harry S Truman và bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kêu gọi Hoa Kỳ xin được công nhận và giúp ngăn quân đội Pháp trở lại Đông Dương. Thế nhưng, toán OSS cơ quan tình báo chiến lược của Hoa Kỳ ở Đông Dương do Thiếu tá Thomas More và Đại úy Patty sống cùng với Hồ Chí Minh trong hang Pắc Pó đã báo cáo Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Ái Quốc, nhận chỉ thị của Đệ tam quốc tế CS nên vẫn sinh hoạt đảng, hát quốc tế ca, học tập chủ nghĩa Mác Lê. Chính vì vậy, Hoa Kỳ đã không công nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Nếu là bất cứ người Việt Nam nào thì vận mệnh đất nước Việt Nam đã thay đổi ngay từ lúc đó, nếu không độc lập ngay thì cũng hưởng qui chế chế độ Ủy trị của Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt là sau thế chiến lần thứ hai, với sự ra đời của Liên Hiệp Quốc và nhất là chủ trương giải thực của Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt đã mở đầu cho phong trào dân tộc tự quyết của các quốc gia Đông Nam Á. Indonesia tuyên bố độc lập ngày 17 tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Philippines năm 1946, Burma giành lại độc lập từ tay người Anh năm 1948 và Pháp chính thức rút khỏi Đông Dương sau hiệp định Genève 20-7-1954. Người Anh đã trao lại độc lập cho Malaya năm 1957 và sau đó là Singapore, Sabah và Sarawak năm 1963 trong khuôn khổ Liên bang Malaysia

   Từ thực tế lịch sử trên, nếu Hồ Chí Minh không đem chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam thì đất nước chúng ta đã độc lập mà không phải hy sinh oan uổng hàng triệu người Việt Nam vô tội cho tham vọng xâm lược bành trướng của Cộng sản. Chính Cộng Sản Việt Nam đã phản bội kháng chiến để thỏa hiệp với thực dân Pháp, ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia đôi đất nước trong lúc cao trào kháng chiến của toàn dân đang trên đà thắng lợi.

    Chính phủ quốc gia Việt Nam không đặt bút ký kết hiệp định Genève để phản đối sự cấu kết giữa Cộng sản và thực dân Pháp chia đôi đất nước. Nguồn sử liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này cho biết Trung ương đảng đã nhận chỉ thị của đảng Cộng Sản Trung Quốc phải ký kết chia đôi đất nước. Ngay khi vừa ký hiệp định, Cộng Sản Việt Nam đã chỉ thị cho 85 ngàn đảng viên chưa bị lộ rút vào hoạt động bí mật, chôn giấu hơn 1 vạn súng và nhiều điện đài. Đến năm 1955, bộ máy chỉ đạo của đảng từ xứ ủy, tỉnh ủy đến huyện ủy đã được sắp xếp xong và chuyển hướng hoạt động bí mật chờ thời cơ.

   Ngày 8-9-1954, Liên minh Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization gọi tắt là SEATO) được thành lập bao gồm 8 nước là Australia, Pháp, Anh, New Zealand, Pakistan, Philippine, Thái Lan và Hoa Kỳ để ngăn chặn sự xâm lược của chủ nghĩa Cộng Sản xuống Đông Nam Á. Ngày 20-11-1954, Thủ tướng Pháp Mendès France viếng thăm Hoa Kỳ xác nhận: “Chấm dứt sự kiểm soát của Pháp về kinh tế, thương mại và tài chánh tại Việt Nam: Chuyển giao quân đội Quốc gia cho Việt Nam, chuyển giao trách nhiệm huấn luyện quân đội quốc gia cho Hoa Kỳ và rút hết quân đội Viễn chinh Pháp ra khỏi Việt Nam”. Ngày 9-8-1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố chính phủ của ông không ký hiệp định nên không bị ràng buộc bởi hiệp định Genève và việc bầu cử không thể  thực hiện được “Chừng nào mà chế độ Cộng Sản chưa cho phép người dân Việt nam được hưởng những quyền tự do dân chủ và những quyền căn bản của con người.”.  

   Ngay sau khi vừa đặt bút ký hiệp định Genève, Ban chấp hành trung ương đảng Lao Động trá  hình của đảng Cộng Sản Việt Nam đã họp để chuẩn bị sách lược đấu tranh thống nhất đất nước. Các cơ sở đảng để lại sau hiệp định có nhiệm vụ phát động nhân dân đấu tranh chính trị đòi hiệp thương giữa 2 miền Nam Bắc, thực hiện tổng tuyển cử, phong trào hòa bình Sài Gòn Chợ Lớn đòi các quyền tự do dân chủ… Để đối phó với các hoạt động nằm vùng này, giữa năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm cho phát động chiến dịch “Tố Cộng” trên toàn quốc. Trước những thiệt hại nặng nề này, Cộng Sản Việt Nam quyết định tiến hành khủng bố và ám sát những viên chức địa phương, những giáo viên có lập trường quốc gia. Theo báo cáo của tòa Đại sứ HK thì cuối năm 1960 đã có 700 viên chức Việt Nam Cộng Hòa bị sát hại. Tháng giêng năm 1959, đảng Lao Động (CSVN) ra nghị quyết kết hợp đấu tranh chính trị với lực lượng vũ trang, chuyển người và vũ khí vào miền Nam. Tháng 3 năm 1959, chính phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt Việt Nam Cộng Hòa trong tình trạng chiến tranh.

   Sau khi Trung Cộng đánh chiếm Tây Tạng năm 1959, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore.Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …” nên tháng 4 năm 1959, Ủy ban Trung ương đảng họp lần thứ 15 quyết định dùng vũ lực xâm chiếm miền Nam. Ngày 20-12-1960, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam do LS Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch được thành lập với chiêu bài “Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập, tiến tới thống nhất tổ quốc”. Đầu năm 1961, quân đội giải phóng Miền Nam Việt nam hoạt động mạnh với 3 thành phần gồm đội quân chủ lực là binh sĩ miền Bắc và cán bộ tập kết trở về, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ hoạt động hiệu qủa ở miền Nam. Chính phủ Hoa Kỳ đưa ra sách lược chống du kích do sir Robert Thompson người Anh cố vấn cho chính phủ Ngô Đình Diệm, đồng thời gia tăng quân số, vũ khí với sự giúp đỡ của cố vấn Hoa Kỳ. Giữa năm 1961, kinh tế gia Eugene Staley được phái sang cố vấn chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Ấp Chiến lược để tách rời dân chúng ra khỏi sự kiểm soát khống chế của quân Cộng sản. Ngày 11-10-1961, Thống tướng Maxwell Taylor được TT Kennedy cử sang nghiên cứu tình hình nghiêm trọng của VN về phúc trình lên TT là để ngăn chặn quân xâm nhập từ miền Bắc qua biên giới Lào cần ít nhất là 3 sư đoàn quân chiến đấu Mỹ. Bản phúc trình của bộ trưởng quốc phòng Mac namara và bộ trưởng Ngoại giao Dean Rush đều nhấn mạnh trách nhiệm của Hoa Kỳ là phải bảo vệ Việt Nam khỏi rơi vào tay Cộng sản. Bản phúc trình viết “… Chúng ta phải chuẩn bị để đưa lực lượng chiến đấu Hoa Kỳ vào Việt Nam nếu điều đó cần thiết để thành công. Tùy theo hoàn cảnh, có thể quân đội Hoa Kỳ cũng phải đánh vào nguồn xâm lược ở Bắc Việt”.

    Trước tình hình này, TT Ngô Đình Diệm ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc ngày 15-10-1961. Ngày 3-2-1962, thành lập ủy ban trung ương đặc trách ấp chiến lược do cố vấn Ngô Đình Nhu chỉ huy. Theo báo cáo kết qủa 1 năm thực hiện đã lập xong 5.917 ấp chiến lược qui tụ 8 triệu dân. Bộ chỉ huy yểm trợ Quân sự Hoa Kỳ (MACV) được thành lập, số cố vấn quân sự tăng từ 700 lên 12.000 người vào giữa năm 1962.

   Ngày 23-7-1962, Hiệp định Trung lập Lào được ký kết, phe tả đã đưa Pathet Lào vào chính phủ liên hiệp để không cho Hoa Kỳ can thiệp vào tình hình Lào. Đồng thời, quân Cộng sản vẫn sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh ở phiá Đông do phe Pathet Lào kiểm soát để chuyển vận ồ ạt vũ khí đạn dược vào chiến trường miền Nam. Từ năm 1962, đường mòn được mở rộng để cho những đoàn xe tải dài từ 50 đến 75 dặm (miles) di chuyển vào ban đêm dưới sự bảo vệ của trên 70 ngàn quân chính qui Cộng sản. Mỗi tháng có thể chuyển được 8 ngàn quân và 10 ngàn tấn vũ khí đạn dược cung ứng cho nhu cầu chiến trường ngày càng ác liệt.

   Trong khi quân Cộng sản quấy rối khắp nơi thì tình hình chính trị miền Nam có nhiều rối loạn kể từ cuối năm 1960 với cuộc đảo chánh của tư lệnh lực lượng nhảy dù. Cuộc đảo chánh do các đảng phái quốc gia tổ chức tuy thất bại nhưng chứng tỏ Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không được sự ủng hộ của toàn dân. Ngay từ khi về nhận chức Thủ Tướng, ông Ngô Đình Diệm đã được sự ủng hộ nồng nhiệt của quân đội quốc gia và 1 triệu đồng bào di cư. Chính sự ủng hộ này khiến TT Ngô Đình Diệm và nhất là cố vấn Ngô Đình Nhu có những tính toán chủ quan sai lầm dẫn đến sự sụp đổ của nền đệ nhất Cộng Hòa. Việc dẹp Bình Xuyên là cần thiết nhưng dẹp luôn các giáo phái khác và các đảng phái quốc gia nhất là áp dụng triệt để dụ số 10 ngăn cấm hoạt động của một số hội đoàn, các tôn giáo đã gây nên sự chia rẽ trong hàng ngũ quốc gia. Ngày 7-7-1963, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã tự vẫn trong tù để lại di chúc “Lịch sử” đắng cay cho những người quốc gia: “Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do”.

   Đầu tháng giêng năm 1963, Cộng quân tấn công ấp Bắc gây tiếng vang bất lợi cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa tại quốc hội Hoa Kỳ. Theo phúc trình của phái bộ  quân sự Mỹ Macv thì Cộng quân kiểm soát được gần một nửa dân số và lãnh thổ về ban đêm. Ngày 15-12-1964, bộ trưởng quốc phòng Mac Namara phải sang Việt Nam thị sát tình hình. Một kế hoạch có tên là Oplan 34A áp dụng biện pháp mạnh để thuyết phục Hà Nội vì lợi ích của chính họ mà từ bỏ ý định xâm lược miền Nam. Kế  hoạch chưa thi hành thì vụ Maddox xảy ra. Hạm trưởng chiến hạm Maddox loan báo chiến hạm bị các tiểu đĩnh của Cộng Sản dự định tấn công ngoài hải phận quốc tế từ ngày 2 đến 4 tháng 8-1964. Ngày 5-8-1964, sau cuộc họp với lãnh tụ lưỡng đảng quốc hội, TT Hoa Kỳ Johnson ra lệnh oanh tạc Bắc Việt. Nghị quyết “Vịnh Bắc Việt” được quốc hội thông qua ngày 7-8 với đa số phiếu tuyệt đối ở hạ viện và 88/2 ở thượng viện cho phép quân đội HK được tham chiến mở đầu cho thời kỳ chiến tranh khốc liệt nhất tại Việt Nam từ 1965 đến 1973.

   Trước khi có những biện pháp quyết liệt, ngày 13-8 TT Johnson đã nhờ trung gian Seaborn trong phái đoàn Canada gặp Phạm văn Đồng một lần nữa để nhắc lại đề nghị của Mỹ hồi tháng 6 về việc “nhận viện trợ hay bị tàn phá?” thì Phạm văn Đồng nhẹ nhàng nhắc Seaborn rằng lần sau trở lại với những đề nghị mới của Mỹ nên dựa trên căn bản hiệp định Genève. Ngày 6-2-1965, Thủ Tướng Liên Sô Kossygin đến Hà Nội và lớn tiếng cảnh báo Hoa Kỳ chớ động đến Bắc Việt Nam. Không quân Liên Sô chuyên chở Hỏa tiễn Sam cùng các loại vũ khí tối tân, cố vấn và bộ đội chiến đấu phòng không đến Việt Nam dưới danh nghĩa chuyên viên. Ngày 7-2-1965, quân Cộng sản tấn công phi trường Pleiku, máy bay Mỹ từ đệ thất hạm đội tấn công cơ sở quân sự ở Đồng Hới. Chiến dịch “Sấm Rền” với hàng trăm phi cơ tấn công các kho đạn, các cầu đường ở miền Bắc.

    Sau khi đưa ra các đề nghị không được Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, ngày 8-3-1965 hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến đổ bộ Đà Nẵng để giữ an ninh cho phi trường. Cộng Sản Việt Nam tuy tuyên bố mạnh nhưng cũng hiểu rõ quyết tâm của Hoa Kỳ nên Phạm văn Đồng mới bắn tiếng đề nghi Hoa Kỳ thương thuyết trên căn bản hiệp định Genève. Khi Hoa Kỳ leo thang oanh tạc miền Bắc thì quốc tế Cộng Sản phải vận động tuyên truyền cho phong trào phản chiến trên toàn thế giới chống chiến tranh. Ngày 16-10-1965, những cuộc biểu tình chống chính sách Mỹ tại VN được tổ chức đồng loạt tại London, Copenhagen, Stockholm, Brussels, Rome và 40 thành phố ở Hoa Kỳ.

   Tính đến cuối năm 1965 thì số quân Mỹ tham chiến là 175 ngàn. Chi phí chiến tranh cũng tăng lên đến 2,9% của ngân sách quốc gia. Ngày 29-9-1967, Tổng Thống Johnson đọc diễn văn ở San Antonio hứa ngưng oanh tạc nếu Cộng Sản Việt Nam không lợi dụng việc ngưng oanh tạc để đưa thêm người và vũ khí vào miền Nam. Hà Nội bác bỏ đề nghị có điều kiện này để chờ tình hình bầu cử TT Hoa Kỳ năm 1968 sẽ thuận lợi hơn. Tình hình chiến sự năm 1967 cho thấy quân Cộng Sản đã không đương đầu được với lực lượng cơ động “Tìm và diệt” của quân đồng minh. Tuy đạt được vài thắng lợi nhưng sau đó bị tiêu diệt nên lực lượng bị tiêu hao dần. Chính vì vậy, Cộng Sản Việt Nam quyết định đốt giai đoạn phát động “Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa” để giành thắng lợi quyết định trước khi ngồi vào bàn hội nghị. Lợi dụng dịp tết Mậu Thân, Hà Nội kêu gọi hưu chiến 48 giờ. Chính phủ VNCH tuân thủ lệnh hưu chiến cho quân đội công chức về quê ăn tết. Ngày 30-1-1968, Hà Nội ra lệnh tổng tiến công Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 11-2-1968, Việt Nam Cộng Hòa ra lệnh Tổng Động viên. Ngày 24-2-1968, quân lực Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm thành phố Huế. Theo thống kê thì 4.954 binh sĩ VNCH tử trận, 3.895 binh sĩ Hoa Kỳ và các nước đồng minh và 14.300 thường dân bị chết oan. Về phiá Cộng Sản đã thú nhận thất bại nặng nề vì “đánh giá cao lực lượng mình, đánh giá thấp lực lượng địch và do tư tưởng nóng vội muốn giành thắng lợi lớn, kết thúc chiến tranh nhanh nên nhiều vùng nông thôn giải phóng của ta trước đây bị địch chiếm. Mục tiêu của cuộc tổng tiến công và tổng nổi dậy không đạt được đầy đủ. Lực lượng của ta bị tổn thất nhiều với 111.306 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và chính trị ở miền Nam đã hy sinh và bị thương…”. Sau cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân, về phương diện quân sự thì hầu như toàn bộ lực lượng quân giải phóng bị tiêu diệt. Về phương diện chính trị cũng hoàn toàn thất bại vì nhân dân miền Nam không những không ủng hộ mà còn chán ghét ghê tởm hành động dã man của cộng quân. Nếu đồng minh Hoa Kỳ và VNCH biết khai thác thời cơ, huy động các sư đoàn chủ lực thiện chiến như lực lượng nhảy dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt Động quân tung ra những trận đánh thẳng vào miền Bắc thì tình hình có thể đã thay đổi.
   Sự kiện tòa đại sứ Mỹ bị tấn công và hơn 3 ngàn quân nhân Mỹ tử thương đối với nhân dân và quốc hội Mỹ là một tổn thất hết sức nặng nề về mặt tâm lý. Người dân bất bình với chính quyền Johnson vì danh dự bị tổn thương, đời sống khó khăn hơn vì phải đóng thuế thêm 10% cho ngân sách quốc phòng. Ngay trong đảng dân chủ, TT Johnson bị nhóm chủ hòa phê phán chỉ trích. Ngày 31-10-1968, TT Johnson tuyên bố ngưng các cuộc tấn công trên lãnh thổ Bắc Việt trừ khu vực dưới vĩ tuyến 20 và đề nghị mở hòa đàm với Bắc Việt. Đồng thời TT Johnson tuyên bố sẽ không ứng cử và cũng không chấp nhận đảng dân chủ đề cử để hậu thuẫn cho Phó TT Humphrey tranh cử Tổng Thống. Ứng cử viên Mac Govern của đảng dân chủ với lập trường chủ hòa, sẵn sàng lập chính phủ liên hiệp với Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam nên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không chịu tham gia hòa đàm. Trong khi ứng cử viên Nixon của đảng Cộng Hòa với lập trường cứng rắn tuyên bố úp mở rằng đã có kế hoạch bí mật để chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã thắng cử với đa số phiếu cử tri đoàn (302/191) và 43,3%/ 42,7% số phiếu cử tri.  Sau khi TT Nixon nhậm chức ngày 20-1-1969, thì phiên họp chính thức đầu tiên giữa “Hai phe, bốn bên” bắt đầu ngày 25-1-1969 với sự tham dự của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa. Trong bài diễn văn ngày 14-5-1969, TT Nixon xác định quân đội Hoa Kỳ và quân đội Cộng Sản Bắc Việt đồng thời rút khỏi miền Nam Việt Nam và Hà Nội phải ngưng mọi cuộc tiếp viện về người và vũ khí cho Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Cộng Sản Việt Nam chủ trương vừa đánh vừa đàm để khai thác thời cơ bầu cử TT Hoa Kỳ sẽ tạo lợi thế cho họ. Về phía Hoa Kỳ, Nixon tiếp tục chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh. Ngày 8-6-1969, TT Hoa Kỳ Nixon họp với TT Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu tại Midway loan báo sẽ rút 25 ngàn quân nhân Mỹ khỏi VN trước tháng 8. Để mở đầu cho kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh, bộ trưởng quốc phòng HK yêu cầu quốc hội chuẩn chi 156 triệu mỹ kim để tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội Việt nam Cộng Hòa. Hoa Kỳ chuyển giao phi cơ, chiến hạm, máy bay trực thăng, xe quân sự đủ loại, hơn 1 triệu khẩu súng M 16 cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng tăng quân số từ 850 ngàn lên khoảng 1 triệu binh sĩ. Ngày 15-11-1969, hơn 250 ngàn người biểu tình tuần hành tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn cùng với các cuộc biểu tình khác ở Pháp, Tây Đức và Anh. Đây là cuộc biểu tình phản chiến lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.

   Ngày 9-1-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh đã thảo luận với Chu Ân Lai về vấn đề Việt Nam: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi xin thông báo với Thủ tướng một cách trịnh trọng nhất rằng trước hết, chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi.  Thứ đến, chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một mình người Việt… Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút quân và diễn biến chính trị.  Không phải là để chúng tôi có thể trở lại Việt Nam mà chúng tôi để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ... Hôm qua, tôi đã thưa với Thủ tướng, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn,  mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.”. Trong một thông điệp gửi đến người dân Mỹ liên quan tới chiến tranh Việt Nam, ngày 7 tháng 4 năm 1971, Tổng thống Nixon đã nói: “Vấn đề rất đơn giản đó là như thế này: chúng ta sẽ rời khỏi Việt Nam theo cách mà - bởi những hành động của chính chúng ta - cố ý chuyển giao đất nước cho những người Cộng sản? Hay là chúng ta sẽ rời khỏi theo cách, cho người miền Nam Việt Nam một cơ hội hợp lý để tồn tại như là những người tự do? Kế hoạch của tôi sẽ chấm dứt sự tham gia của người Mỹ theo cách sẽ cung cấp cho miền Nam cơ hội đó. Và một kế hoạch khác sẽ kết thúc nó một cách vội vàng và trao chiến thắng cho những người Cộng sản”.

    Ngày 21-2-1972, TT Nixon viếng thăm Trung Quốc. Trong cuộc họp đầu tiên với Chu Ân Lai ngày hôm sau 22-2-1972, tổng thống Nixon đề cập ngay đến vấn đề Việt Nam: “Nếu tôi ngồi vào bàn với bất cứ nhà lãnh đạo nào của Bắc Việt Nam, và cùng nhau bàn bạc về việc đình chiến và nhận lại tù binh của chúng tôi, tất cả người Hoa Kỳ sẽ được rút ra khỏi Việt Nam trong sáu tháng kể từ ngày đó...  Chúng tôi đã đề nghị rút hết người Hoa Kỳ, mà không để cái “đuôi” đàng sau - như cách nói của Thủ tướng - và ngưng bắn trên toàn Đông Dương, miễn là chúng tôi lấy lại được tù binh.  Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự quyết định.”. Kết qủa chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Nixon năm 1972, đã giúp Hoa Kỳ chấm dứt sự tham gia trong chiến tranh Việt Nam không phải là cách mà Tổng thống Nixon, Hoa Kỳ và nhiều người Việt mong đợi. Thế nhưng chuyến đi này của Tổng thống Nixon đã đã làm thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu cũng như lập ra một trật tự thế giới mới.

Description: Description: Description: Image


Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Photo hôm 25-2-1972courtesy National Archives & Records Administration.
    Một bản “Thông Cáo Chung” được ký kết tại Thượng Hải ngày 28 tháng 2, trong đó hai nước cam kết đi đến bình thường hóa, cùng nhau hợp tác trao đổi trên nhiều lĩnh vực. Hoa Kỳ công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc và hai bên cam kết giải quyết vấn đề Đông Dương trong đó có chiến tranh Việt Nam.

   Chuyến công du của TT Nixon đã tạo ra những chuyển biến lịch sử, Hoa Kỳ đã thành công trong việc phân hóa hàng ngũ Cộng Sản để Trung Quốc trở thành đồng minh với Hoa Kỳ. Để thực hiện điều này, Hoa Kỳ đã bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc  nên không phủ quyết cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25-10-1971 theo đó, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay Trung Hoa Dân Quốc.  Chính vì quyền lợi của Hoa Kỳ và quyền lợi cá nhân của Nixon, ông ta đã hy sinh quyền lợi của đồng minh nên muốn TT Nguyễn văn Thiệu ký vào bản hiệp định trước ngày bầu cử TT Hoa Kỳ.

    Để thuyết phục Việt Nam Cộng Hòa, TT Nixon đã viết thư cho TT Thiệu ngày 16-10-1972 cam kết “Trong thời kỳ tiếp theo cuộc đình chiến, Ngài có thể hoàn toàn an tâm là chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp cho chính phủ của Ngài sự yểm trợ đầy đủ nhất, kể cả viện trợ kinh tế và bất cứ viện trợ quân sự nào phù hợp với những điều khoản của hiệp định… Tôi cam kết với ngài rằng bất cứ sự bội tín nào về phiá họ cũng sẽ bị chúng tôi lên án khắt khe nhất và nó sẽ có hậu qủa trầm trọng nhất… Tôi tin chắc rằng đó là giải pháp tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được và cũng là giải pháp đáp ứng được điều kiện tuyệt đối của tôi là Việt Nam Cộng Hòa phải được tồn tại là một quốc gia tự do…”.Ngày 26-10-1972, sau khi đến Sài Gòn thuyết phục chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ký vào hiệp định bị TT Nguyễn văn Thiệu cương quyết từ chối nhưng khi trở về Hoa Thịnh Đốn, ngoại trưởng Henry Kissinger tuyên bố “Hòa bình đang ở trong tầm tay”. Người dân Mỹ tin rằng đã có một giải pháp để chấm dứt chiến tranh nên đại đa số người dân Hoa Kỳ đã bầu cho Nixon với tỷ lệ 60,7% so với 37,5% cho Mac Govern. Trong khi đó, đảng dân chủ thắng lớn với 76 dân biểu và 8 Thượng nghị sĩ phản chiến vào quốc hội.

   Sau khi thắng cử thì Nixon cương quyết hơn nên ra lệnh tiến hành chiến dịch oanh tạc Linebacker II lớn nhất trong chiến tranh VN ngày 27-12-1972, tập trung vào khu vực Hà Nội, Hải Phòng để buộc Hà Nội phải đi đến thỏa hiệp. Hà Nội đã bắn 1.200 hỏa tiễn Địa không do chuyên viên Liên Sô điều khiển, hạ 15 B52 và 15 phi cơ khác, 93 phi công chết hay mất tích. Sau đó, ngày 17-1-1973, TT Nixon gửi thêm lá thư cam kết cụ thể với TT Thiệu như sau “Tự do độc lập của nước VNCH vẫn luôn luôn là mục tiêu trọng đại trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Tôi đã theo đuổi mục tiêu này trong suốt cuộc đời chính trị của tôi… Tôi xin nhắc lại những cam kết đó như sau: Thứ nhất, Hoa Kỳ công nhận chính phủ của Ngài là chính phủ duy nhất hợp pháp ở miền Nam Việt Nam. Thứ hai, Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân đội ngoại quốc trên lãnh thổ miền Nam và thứ ba, Hoa Kỳ sẽ phản ứng mãnh liệt nếu nếu bản hiệp định bị vi phạm”.

    Sau khi Việt Nam Cộng Hòa đồng ý ký, TT Nixon đã gửi ngay 1 lá thư ca tụng TT Nguyễn văn Thiệu như sau “Thưa TT, Với lòng can đảm và kiên trì, Ngài đã bảo vệ được quyền lợi của dân tộc Việt Nam trong công cuộc theo đuổi mục tiêu duy trì tự do và độc lập”. Cuối cùng, Hiệp định chấm dứt chiến tranh và Tái lập Hòa bình tại Việt Nam được ký kết tại Paris giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Vào thời điểm ký kết hiệp định 27-1-1973, VNCH kiểm soát 75% lãnh thổ và 85% dân số. Ngày 29-3-1973, các đơn vị cuối cùng của Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam.
   Một biến cố khác xảy ra đã tác động trực tiếp vào sự suy vong của miền Nam Việt Nam. Ngày 6-10-1973, Khối Ả Rập bất ngờ tấn công Do Thái đang cử hành “Lễ Đền tội Yum Kippur”. Quân Do Thái bị thảm bại nên TT Nixon cho thiết lập cầu không vận tiếp liệu cho Do Thái. Do Thái phản công, sau hơn 3 tuần, khối Ả rập phải ký hiệp định đình chiến. Sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho Do Thái khiến khối Ả Rập tức giận, OPEC quyết định giảm mức sản xuất khiến giá dần thô tăng gấp 4 lần đồng thời các nước Abu Dhabi, Libyia, Saudi Arabia, Algeria và Kuwait cấm vận, cắt đứt dầu hỏa xuất cảng sang Hoa Kỳ. Chính phủ Nixon phải áp dụng chính sách khắc khổ nên nên người dân bất mãn và Việt Nam Cộng Hòa chịu hậu quả trầm trọng của cuộc chiến này.

    Quân viện của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa tài khóa 1972-1973 là 2,1 tỷ dollars, sau khi Hoa Kỳ bị cấm vận dầu lửa, quân viện giảm xuống còn 1 tỷ 2 và tài khóa 1974-1975 là 1 tỷ. Tháng 8 năm 1974, mức chuẩn chi 1 tỷ cho Việt Nam Cộng Hòa bị cắt xuống còn 700 triệu dollars. Khi TT Nixon xin quốc hội viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa thì quốc hội chỉ chuẩn chi 313 triệu Mỹ kim. Như vậy, quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa từ 2,1 tỷ bị cắt 1,4 tỷ được chuyển sang cho Do Thái nên quân viện Do Thái tăng lên 1,5 tỷ nên chỉ còn 700 triệu cho năm 1974 này.

   Chính sách của Hoa Kỳ trong thực tế được quyết định bởi một “Thế Lực Ngầm”, đó là một tập hợp của các tài phiệt như Rockfeller, Ford foundation … mà hầu hết do vốn của các doanh nhân Do Thái. Tình hình thế giới đã thay đổi khi các chiến lược gia Hoa Kỳ quyết định phá vỡ thế cân bằng chiến lược cũ để tạo một chiến lược mới có lợi cho Hoa Kỳ nhiều hơn. Về mặt chính trị, Hoa Kỳ hy sinh Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Việt Nam Cộng Hòa, chuyển giao một phần công nghệ chế tạo vũ khí tối tân để Trung Quốc trở thành đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ khiến Liên Sô suy yếu và đi tới sụp đổ. Trên phương diện kinh tế, thị trường trên 1 tỷ người dân Trung Quốc là món hàng béo bở hấp dẫn và nguồn nhân công rẻ mạt cho các nhà tài phiệt đầu tư Hoa Kỳ. Chính quyền lợi của tập đoàn tài phiệt này nên Hoa Kỳ đã phản bội lời cam kết với các đồng minh Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Việt Nam Cộng Hòa.

    Thêm vào đó, quyền lợi của đảng Dân Chủ nói chung và của Thượng Nghị Sĩ chủ hòa Mac Govern đã chủ trương rút khỏi Việt Nam bằng mọi giá, tích cực hỗ trợ cho phong trào chống chiến tranh đang được Cộng Sản quốc tế yểm trợ tối đa nên ngày càng lên cao đến mức không thể kiểm soát nổi khiến chính giới Hoa Kỳ bao gồm cả hành pháp và cả những nhà lập pháp chân chính cũng đành bó tay chấp nhận không thể làm gì khác hơn được. Theo Thượng Nghị Sĩ Jim Web thì chính thành phần này đã cộng tác với cái gọi là Liên Hiệp Hòa Bình Đông Dương, một tổ chức ngoại vi của Cộng Sản đã được Edward Kennedy, Mac Govern là những “phần tử của một nhóm quyền lực ngầm gọi là Liên lạc Ngoại giao (SFR) được tài trợ bởi hệ thống tài phiệt quốc tế như Rockfeller, Ford Foundation… có ảnh hưởng vô cùng lớn trong chính trường đã phát động phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974 đã vận dụng nữ tài tử Jane Fonda và Tom Hayden đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại Việt Nam Cộng Hòa”.

    Phong trào chống chiến tranh Việt Nam được sự chi viện tối đa của Cộng sản quốc tế về nhân lực và tài chánh nên tác động đồng loạt trên toàn thế giới. Tài liệu của đảng Cộng Sản Liên Sô cho biết đã cung cấp 2 tỷ dollars mỗi năm và huy động 500 ngàn đảng viên xâm nhập phong trào phản chiến biểu tình trên khắp thế giới. Tại quốc hội Hoa Kỳ, một “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chánh”trong đó có Harold Ickes và Bill Clinton nỗ lực vận động những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống Cộng Sản, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị bộ đội chánh quy Bắc Việt được khối Sô Viết và Trung Cộng yểm trợ. Ngày 15-8-1973, Tu chính án Case-Church được thông qua quy định cấm bất kỳ sự liên quan về quân sự của Hoa Kỳ tại khu vực Đông Nam Á và tháng 11-1973, Quốc hội Mỹ ban hành nghị quyết về quyền chiến tranh trong đó quy định Tổng thống phải có được sự ủng hộ của Quốc hội trong vòng 90 ngày mới được quyền đưa quân đội Mỹ tham chiến ở nước ngoài!
Năm 1974, Thượng viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu thuận với tỷ lệ 43-38 để kèm vào việc chuẩn chi ngân sách quốc phòng một điều kiện gọi là “Tu chính Kennedy”. Ngày 11-7-1974, Ted Kennedy đề nghị cắt 50% viện trợ kinh tế cho Việt Nam Cộng Hòa và ngày 8-8-1974, TT Nixon phải từ chức vì hậu qủa của vụ Watergate khiến tình hình Việt Nam trở nên bi đát hơn. Khi Nixon từ chức, ông bắt buộc phải ký thành luật một mức tối đa ngân sách quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa là 1 tỷ. Ngay khi nhận chức, Tổng Thống H. Ford đã tái cam kết thực hiện “Những gì nước tôi đã cam kết với quý quốc…” nhưng chỉ vài ngày sau, ủy ban chuẩn chi của thượng viện đã cắt từ “Mức chấp thuận” là 1 tỷ xuống còn 700 triệu.  

    Trong khi đó, tình hình chiến sự ngày một gia tăng với sự xâm nhập ồ ạt binh sĩ và vũ khí của quân Cộng Sản mà theo phúc trình của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thì số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng 6 năm 1975 nên chỉ còn đủ cung ứng được từ 30-45 ngày. Thế lực ngầm qua quốc hội một lần nữa tìm đủ mọi cách để tiêu diệt Việt Nam Cộng Hòa qua những quyết nghị cấm không được dùng quỹ Đối giá của viện trợ nhập cảng để trả lương cho cảnh sát, bộ quốc phòng cấm luôn cơ quan quốc phòng DAO tài trợ… GS Warren Nutter, cựu phụ tá Tổng trưởng quốc phòng Hoa Kỳ đặc trách phần tài chính của chương trình Việt Nam hóa chiến tranh đã nói thẳng với TT Thiệu: “Quốc hội HK đôi khi hành động vô trách nhiệm như vậy. Cái trung tâm Tài nguyên Đông Dương đang hết sức tìm cách tiêu diệt VNCH…”. Ông khuyến cáo chính phủ Hoa Kỳ rằng: “Bỏ miền Nam là rơi vào đổ vỡ và thảm sát chỉ vì hơn kém nửa tỷ dollars sẽ có hậu qủa còn sâu sa hơn đó là xé nát lương tâm nước Mỹ. Nó sẽ là ngọn gió thổi bay ảnh hưởng của HK tuy còn mạnh mà đang yếu dần trên chính trường quốc tế…”.

    Ngày 26 tháng 2 năm 1975, TT Ford gửi thư cho TT Thiệu gợi ý về việc điều đình để có 1 giải pháp chính trị “…Chúng tôi tiếp tục tin tưởng rằng việc thực thi hiệp định Paris, cùng các cuộc điều đình trực tiếp giữa các phe phái Việt Nam, là con đường nhanh nhất, hữu hiệu nhất để chấm dứt cuộc đổ máu tại Việt Nam…”. Cuối cùng, ngày 13-3-1975, đảng Dân chủ chiếm đa số tại thượng viện và Hạ viện bỏ phiếu cho một nghị quyết chống bất cứ viện trợ nào thêm cho Việt Nam. Trước thực trạng đó, TT Thiệu đã phải quyết định “Tái phối trí” lực lượng vì không còn đủ khả năng phòng thủ diện địa nữa. Ngày 15-3-1975, cuộc di tản chiến thuật từ Pleiku tạo nên một bầu không khí hoảng loạn của quân dân cán chánh VNCH. Do áp lực của quốc hội, TT Nguyễn văn Thiệu bàn giao chính quyền cho Phó TT Trần văn Hương rồi TT Hương bàn giao cho Đại Tướng Dương văn Minh mở đầu cho sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa ngày 30-4-1975.

    Sau hơn ba thập niên, sự thật lịch sử của cuộc chiến Việt Nam đã cho chúng ta những nhận định sau:

1. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM LÀ CÔNG CỤ CỦA ĐẢNG CSVN.

    Trong chiến tranh, Cộng Sản rêu rao tuyên truyền Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do những người miền Nam đứng lên “Chống Mỹ Cứu Nước” nên được giới trí thức tả khuynh trong phong trào phản chiến ủng hộ. Sau khi đem quân xâm chiếm Tây Tạng năm 1959, Mao Trạch Đông đã chỉ thị phải chiếm miền Nam VN bằng mọi giá để mở đường xuống Đông Nam Á nên ngày 20-12-1960, đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Sau khi xâm chiếm miền Nam Việt Nam, ngày 2-7-1976, Quốc hội Cộng sản tuyên bố thống nhất Việt Nam, đặt tên nước là Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cờ và hiến pháp là cờ và hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Phạm văn Đồng tiếp tục làm Thủ tướng. Cái gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng” và “chính quyền Lâm thời Việt Nam” bị giải tán. Ngày 14 đến 20-12-1976, Đại hội Đảng Lao Động họp lần đầu quyết định lấy lại tên là đảng Cộng sản Việt Nam, Lê Duẫn được bầu là Tổng Bí Thư. Bộ mặt thật của đảng Cộng sản Việt Nam đã phơi bầy trước lịch sử. Sự kiện này chứng tỏ việc loan báo đảng CS Đông Dương tự giải tán ngày 11-11-1945 rồi thành lập đảng lao Động 16-3-1951 chỉ để che giấu bản chất CS, lừa dối nhân dân dưới danh nghĩa đảng Lao Động. Núp dưới danh nghĩa Việt Minh, dùng chiêu bài kháng chiến giành độc lập dân tộc nhưng thực chất là lợi dụng xương máu của đồng bào để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ Việt Nam và các nước Lào, Camphuchia mà thôi.

2.  CHIẾN TRANH VIỆT NAM KHÔNG PHẢI LÀ CUỘC CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC.

   Cộng sản Việt Nam vẫn tuyên truyền rêu rao là đã hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi sự thống trị của 2 đế quốc Pháp và Hoa Kỳ. Thế nhưng, sự thật là sau khi quân Nhật lật đổ chế độ thực dân Pháp, ngày 11-3-1945, Cơ Mật Viện triều Nguyễn đã tuyên bố “Hủy bỏ Hiệp ước 1884 qui định Pháp bảo hộ Việt Nam và Khôi phục chủ quyền cuả một nước Việt Nam độc lập”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập. Nhận chỉ thị của Cộng Sản quốc tế đấu tranh vũ trang lật đổ chế độ quốc gia Việt Nam, ngày 19 tháng 8 năm 1945, đảng Cộng Sản Việt Nam núp dưới danh nghĩa Việt Minh cướp chính quyền. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập và thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký thỏa hiệp sơ bộ với thực dân Pháp đồng ý để quân Pháp ra Bắc thay thế quân đội Trung Hoa giải giới quân Nhật để lợi dụng cơ hội này tìm cách tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Sau khi cấu kết với thực dân Pháp bất thành, ngày 19-12-1946, Hồ Chí Minh kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”, cuộc chiến tranh Việt Minh và Pháp bắt đầu. Tháng 12,1947, Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long được ký kết giữa Cao Ủy Pháp Bollaert với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết. Ngày 8-3-1949, TổngThống Cộng Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.

    Lịch sử đã chứng minh rằng, Cộng sản Việt Nam đã núp dưới danh nghĩa kháng chiến, lợi dụng lòng yêu nước của người dân Việt Nam để nhuộm đỏ cả Đông Dương, bành trướng chủ nghĩa CS mở đường xuống Đông Nam Á. Chính Hồ Chí Minh đã không giấu giếm sự thật khi gặp Salisbury tai Hà Nội năm 1965: “Những ngày tuyệt diệu rồi đây sẽ đến khi tất cả các đồng chí đã đến bên nhau. Tất cả mọi người đang nỗ lực tranh đấu để đem đến sự thành công của Miền Bắc Việt Nam, đó chính là sự thành công của những người Nga, những người Tàu, và những chế độ tại Đông Âu. Tất cả đều muốn làm cho Miền Bắc Việt Nam trở thành một mẫu mực, một nơi triển lãm thu hút muôn người, và một mẫu mực lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản có thể đưa đến cho các dân tộc tại Á Châu và đặc biệt nhất là vùng Đông Nam Á.”. Đây là bằng chứng quá rõ ràng cho mọi người thấy Hồ Chí Minh đã không bao giờ thực tâm tranh đấu vì Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc cho dân tộc Việt Nam mà sử dụng cả dân tộc Việt Nam như một công cụ để phục vụ tham vọng bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản Nga Sô.

3. CUỘC CHIẾN VIỆT NAM LÀ CUỘC CHIẾN TRANH Ý THỨC HỆ.

   Tháng 1 năm 1945, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc xin đứng vào hàng ngũ quốc tế CS nên ngày 14-1-1950 Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng) công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Ngày 31-1-1950, Liên Sô công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thành trì công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Sự kiện lịch sử này đánh dấu một bước ngoặt lịch sử là VNDCCH chính thức đứng vào hàng ngũ cộng sản nên ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh và các nước thế giới tự do công nhận chính phủ quốc gia Bảo Đại để ngăn chặn làn sóng đỏ tràn xuống Đông Nam Á. Cuộc chiến Việt Nam chính thức trở thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng sản và thế giới tự do. Sau khi Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore.Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …”.

    Tháng 4 năm 1959, Ủy ban Trung ương đảng họp lần thứ 15 quyết định thành lập Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ngày 20-12-1960, với chiêu bài “Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập, tiến tới thống nhất tổ quốc”. Sau khi chiếm được cả miền Nam, chính Lê Duẫn, tổng bí thư của đảng CSVN đã xác nhận một lần nữa: “Chúng ta đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc và ngày nay, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”. Bộ mặt thật của CS đã phơi bầy trước lịch sử. Cuộc kháng chiến của dân tộc đã bị lợi dụng, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã hy sinh hàng triệu người VN vô tội để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả Đông Dương.

4. CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM ĐỐI ĐẦU GIỮA CS VÀ TƯ BẢN KHIẾN SINH LỰC CỦA DÂN TỘC BỊ TIÊU HAO TRẦM TRỌNG.

   Trước đây, chúng ta bị bộ máy tuyên truyền của Cộng sản lừa dối rằng lực lượng đồng minh Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Thái Lan và Đại Hàn đến Việt Nam để chống lại một nước nhỏ bé là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nhân dân miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sau hơn 30 năm, chúng ta mới biết cả Liên Sô, Trung Cộng lẫn Bắc Triều Tiên đều tham chiến ở Việt Nam. Việt Nam trở thành chiến trường giữa 2 khối Cộng Sản và thế giới tự do. Sự thật lịch sử này được một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc phát biểu như sau: “Trong giai đoạn giúp Việt Nam chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải ... 16 sư đoàn, hơn 300.000 lính Hồng quân Trung Quốc ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh. Tác chiến đối không 2153 lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ, bắt sống 42 phi công Mỹ, viện trợ Việt Nam xây dựng Hải Phòng, Hòn Gai, các thành phố duyên hải và xây dựng hệ thống phòng ngự ở tam giác châu thổ sông Hồng, tu sửa và xây dựng các tuyến đường huyết mạch, sân bay, tuyến đường sắt đông tây, mở đường trên biển chuyên chở vũ khí vào miền Nam và chi viện cho đường mòn Hồ Chí Minh. Từ năm 1950 đến năm 1978, TQ đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, trong đó 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đã hy sinh, 4200 người trọng thương... những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính được bằng tiền".

    Gần đây, chúng ta mới biết được là các đơn vị phòng không Liên Sô và phi công Bắc Hàn cũng tham dự cuộc chiến tranh VN. Cựu Trung Tướng Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Sô tại Việt Nam tiết lộ rằng Liên Bang Sô Viết đã gởi một trung đoàn phòng không với đầy đủ vũ khí và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính phòng không Liên Xô đã chết trên chiến trường miền Bắc. Trung đoàn phòng không Liên Sô  đã bắn rơi những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trên bầu trời Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ A-4 Skyhawk của Thượng Nghị Sĩ John McCain. Theo tiết lộ của cựuTrung Tướng Yevgeni Antonov, chỉ huy lực lượng phòng không Liên Xô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970 thì Việt Nam là một phòng thí nghiệm cho vũ khí Liên Sô để chuẩn bị cho việc máy bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Sô trong trường hợp có chiến tranh giữa hai khối sau này.

    Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng chính Hồ Chí Minh, cán bộ của CS quốc tế đã đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh ý hệ, hy sinh xương máu của hàng triệu người dân lành vô tội để bành trướng chủ nghĩa CS xuống toàn cõi Đông Dương. Sinh lực của dân tộc bị tiêu hao trầm trọng, hàng triệu người dân vô tội hy sinh, đất nước nghèo nàn tan hoang đổ nát, lòng người ly tán. Cái gọi là thống nhất đất nước chỉ là sự xâm lăng của bạo lực và hận thù khiến dân tộc Việt Nam ly tán, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do. Cộng sản Việt Nam đã phơi bầy bản chất độc tài dã man trả thù, hành hạ đày đọa quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tù gọi là “Cải tạo” cùng với biện pháp đổi tiền, đánh tư bản mại sản, bắt đi kinh tế mới để tước đoạt tài sản của nhân dân… Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng đã “Thống nhất được đất nước” nhưng thực tế đã chứng minh rằng cái gọi là giải phóng miền Nam đã để lại trong lòng dân tộc một sự phân ly ngăn cách không gì có thể hàn gắn được.

5. CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ HY SINH HÀNG TRIỆU NGƯỜI VN VÔ TỘI ĐỂ TIÊU HAO SINH LỰC HOA KỲ CHO LIÊN SÔ.

    Khi bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản xuống Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, cả Liên Sô lẫn Trung Quốc đều chủ trương đánh Mỹ, tiêu hao sinh lực Hoa Kỳ cho đến người Việt Nam cuối cùng để bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản. Mỗi năm Hoa Kỳ đã chi tiêu 20 tỷ dollars cho chiến tranh trong khi Liên Sô chỉ chi viện 1 tỷ dollars khiến ngân sách Hoa Kỳ kiệt quệ. Đảng CS Liên Sô đã chi viện 2 tỷ mỹ kim mỗi năm để phát động phong trào phản chiến trên toàn thế giới để phân hóa hàng ngũ lãnh đạo Hoa Kỳ khiến nội tình nước Mỹ bị chia rẽ trầm trọng. Cái gọi là “Hội chứng Việt Nam” đã làm mất niềm tin nơi người dân Hoa Kỳ và của cả đồng minh của Hoa Kỳ trên thế giới nữa.

6. CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ HY SINH HÀNG TRIỆU NGƯỜI VIỆT NAM VÔ TỘI ĐỂ MỞ ĐƯỜNG CHO ĐẾ QUỐC MỚI TRUNG CỘNG TIẾN XUỐNG ĐÔNG NAM Á.

   Đối với đế quốc mới Trung Cộng đây là một thắng lợi vì chiếm được miền Nam làm bàn đạp mở đường tiến xuống Đông Nam Á, mặt khác cuộc chiến Việt Nam đã hủy hoại tiềm lực của Việt Nam để Trung Quốc dễ bề thống trị. Chính vì món nợ trong chiến tranh nên Cộng Sản Việt Nam phải dâng đất nhường biển cho Trung Quốc. Khi Liên Sô còn tồn tại, Lê Duẫn đã theo Liên Sô và ký hiệp ước Hợp Tác Hữu nghị với Liên Sô ngày 17-11-1978 rồi đem quân sang Kampuchea đánh Polpot thân Trung Quốc. Khi Liên Sô sụp đổ, tập đoàn Việt gian CS phải kéo nhau sang Trung Quốc quỳ gối thần phục xin làm chư hầu. Mật Ước Thành Đô được ký kết năm 1990 giữa TBT Nguyễn Văn Linh, Phạm văn Đồng và Đỗ Mười và TBT Giang Trạch Dân, TT Lý Bằng của Trung Quốc trong đó CSVN xin được hưởng qui chế như một bang tự trị, 1 dân tộc trong các dân tộc ở Trung Quốc. Nguyên bộ trưởng bộ ngại giao Nguyễn Cơ Thạch đã tuyên bố “Đây là thời kỳ mới chịu sự đô hộ của Trung Quốc”.

    Ngày 25 tháng 12 năm 1999, Lê Khả Phiêu TBT đảng CSVN và Trần Đức Lương, chủ tịch nước CHXHCNVN đi Bắc Kinh ký kết Hiệp ước phân định biên giới. Hiệp ước này chính thức nhượng một phần lãnh thổ thuộc Ải Nam Quan, một nửa thác Bản Giốc và nhiều dãy núi thuộc Hà Giang, Lạng Sơn. Ngày 30 tháng 12 năm 2000, nhà nước CSVN ký kết với Trung Quốc 2 hiệp ước phân định vùng vịnh Bắc Việt và Hợp tác nghề đánh bắt cá. Với 2 hiệp ước này, Trung Quốc chính thức khai thác tài nguyên hơn 11 ngàn cây số vuông trong vùng vịnh Bắc Việt. Tháng 6 năm 2007, Trung Cộng phổ biến một bản đồ vẽ biển Đông của Việt Nam bao gồm cả Hoàng Sa Trường Sa là lãnh hải mới của Trung Cộng.

    Nhận chỉ thị của Bắc Kinh, tập đoàn Việt gian CS đã chọn ngày 1-10-2010 là ngày quốc khánh của Trung Quốc làm ngày kỷ niệm ngàn năm Thăng Long và cờ Trung Quốc trước có 4 ngôi sao tượng trưng cho các dân tộc Mông, Mãn, Tạng và Hồi nay được thêm 1 ngôi sao nữa là 5 ngôi sao Mông, Mãn, Tạng, Hồi và Việt là dân tộc chư hầu của Trung Quốc được trình chiếu trên màn hình đài truyền hình VN VTV4 khi đón Tập Cẩm Bình sang thăm chư hầu Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN… Cuối cùng, người thắng trong 2 cuộc chiến tranh này chính là Trung Cộng và kẻ thua chính là Cộng Sản Việt Nam vì bộ mặt thật hại dân bán nước đã phơi bày trước nhân dân và họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.

7. HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN CHÍNH LÀ TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.

    Điều 1 của Hiến chương Hội Quốc Liên và Liên Hiệp Quốc đều nhấn mạnh đến quyền dân tộc tự quyết. Phong trào giải thể chế độ thực dân là xu thế của thời đại được ghi rõ trong Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Các đế quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho các thuộc địa Á Châu như Phi Luật Tân, Syrie và Liban năm 1946, Ấn Độ và Pakistan độc lập năm 1947, Miến Điện-Tích Lan và Palestine năm 1948, Việt Nam-Ai Lao, Cao Miên và Nam Dương năm 1949.

    Chính vì Hồ Chí Minh và nhà nước VN Dân chủ Cộng Hòa đứng vào hàng ngũ CS, chủ trương đấu tranh võ trang cướp chính quyền để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản nên dân tộc Việt mới hứng chịu thảm họa khốc liệt của chiến tranh.  Hàng triệu người Việt Nam vô tội phải hy sinh, gia đình Việt Nam nào cũng chịu cảnh thương đau mất mát, thống khổ triền miên. Chính Cộng Sản Việt Nam đã đưa dân tộc Việt Nam vào thế trên đe dưới búa của cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng Sản và thế giới tự do. Chính Cộng Sản Việt Nam đã rước voi Mác Lê về giầy mả tổ Hùng Vương, cõng rắn độc Trung Cộng về cắn gà nhà dân tộc khiến gần 4 triệu người dân Việt đã hy sinh cho cuộc chiến tranh phi nghĩa này để rồi đất nước Việt Nam sau hơn 30 năm vẫn là một nước nghèo nàn chậm tiến nhất thế giới. Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN chính là tội đồ của dân tộc Việt Nam.

8. HỘI CHỨNG VIỆT NAM CHO HOA KỲ

    Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã để lại cho họ một hội chứng “sự chia rẽ trầm trọng trong nội bộ nước Mỹ”, đồng thời uy tín của Hoa Kỳ sút giảm trên chính trường quốc tế. Về phương diện chính trị, Hoa Kỳ đã bị đánh bại bởi chính quốc hội Hoa Kỳ với đa số đảng viên đảng dân chủ đã đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi quốc gia để bị Cộng sản lừa dối và tùng phục quyền lực ngầm chi phối chính sách của Hoa Kỳ.
   Trong lịch sử Hoa Kỳ, nền dân chủ chính trị đã xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh là biểu tượng của dân chủ tự do cho toàn thế giới, thế nhưng chính nền dân chủ đó đã bị giới tài phiệt lũng đoạn qua việc gây quỹ ứng cử nên các dân biểu nghị sĩ dễ bị lèo lái vì quyền lợi của nhóm tài phiệt. Việc hoạch định chính sách thay vì toàn thể hội đồng an ninh quốc gia quyết định thì hầu như giao phó cho viên cố vấn an ninh toàn quyền quyết định nên đã bị nhóm quyền lực ngầm thao túng vì quyền lợi riêng tư phe nhóm mà quên đi quyền lợi và cả danh dự của nước Mỹ. Chính trường Hoa Kỳ trong thời chiến tranh Việt Nam bị nhóm quyền lực ngầm mua chuộc tác động cả quốc hội Hoa Kỳ đã đưa nước Mỹ vào một sự kiện từng có trong lịch sử gọi là “Hội chứng Việt Nam” nên Tổng thống Johnson đã phải cay đắng thốt lên sự thật đau lòng:“Chính chúng ta đã đánh bại chúng ta!!!”.

    Vào thập niên năm mươi-sáu mươi, Hoa Kỳ tham dự chiến tranh Việt Nam để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản. Bước sang thập niên bảy mươi, lợi dụng sự mâu thuẫn giữa Liên Sô và Trung Quốc sau cuộc chiến tranh biên giới  giữa hai nước hồi tháng 8 năm 1969, dẫn đến việc Liên Xô đưa ra các kế hoạch chi tiết cho một cuộc tấn công hạt nhân vào Trung Quốc. Mao Trạch Đông lo ngại và muốn tìm một sự hòa giải với Hoa Kỳ để Trung Quốc rảnh tay mà đối phó với Liên Sô nên Hoa Kỳ lại dùng chiến tranh Việt Nam để phân hoá hàng ngũ quốc tế Cộng sản. Để hoá giải ý đồ của Liên Sô muốn Hoa Kỳ sa lầy trong cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ đã “Việt Nam hóa” chiến tranh và tìm giải pháp rút quân trong danh dự. Hoa Kỳ đưa Trung Quốc vào thay Trung Hoa Dân Quốc trong hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và bỏ ngỏ vùng biển Đông Nam Á để Trung Quốc tách hẳn khỏi Liên Sô và trở thành đồng minh của Hoa Kỳ. Sau khi rút chân ra khỏi Việt Nam, chi phí dành cho chiến tranh được dồn sang chế tạo vũ khí cạnh tranh quốc phòng với Liên Sô nên năm 1981, chỉ với 11 tỷ dollars Hoa Kỳ đã chế tạo được phi thuyền con Thoi vượt xa Liên Sô trong lãnh vực không gian.

    Cuối năm 1988, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa cộng sản ở các nước Đông Âu đã dẫn tới những biến đổi lịch sử: Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc quay trở lại theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Cộng Hòa Dân chủ Đức sát nhập vào Cộng Hòa Liên bang Đức. Ngày 21-8 đảng Cộng sản Liên Sô bị đình chỉ hoạt động trong toàn liên bang, chính phủ Sô viết bị giải thể. Mười một nước cộng hòa tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Sô Viết. Một làn sóng chống đảng Cộng sản và chống Xã hội chủ nghĩa dâng cao khắp mọi nơi. Ngày 21-12-1991 chính thức thành lập các quốc gia độc lập SNG buộc Tổng thống Liên Sô M Gorbachev phải từ chức và cùng ngày đó, ngày 25-12-1991 lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Cẩm Linh (Kremlin) sau 74 năm bị hạ xuống. Đây là một thất bại nặng nề của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của chủ nghĩa Cộng sản trên thực tế không còn tồn tại nữa. Chính Hoa Kỳ đã góp phần giật sập Liên Sô, thành trì của chủ nghĩa Cộng Sản nên xét cho cùng, Hoa Kỳ thắng lợi nhất trong cuộc chiến này.

    Lời thú nhận “Tất cả chúng ta đều đã bị lừa” của Jane Fonda, người đã ủng hộ tích cực nhất cho phong trào phản chiến bị giựt dây bởi Cộng sản đã phải xin lỗi quân đội và nhân dân Hoa Kỳ đã nói lên tất cả sự thật. Không chỉ một Jane Fonda mà cả nước Mỹ và cả cán bộ đảng viên và nhân dân miền Bắc cũng bị lừa dối bởi bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chủ nghĩa Cộng Sản đã và đang bị nhân loại vất vào giỏ rác của lịch sử. Hơn ba mươi năm sau, kẻ gọi là chiến thắng lại phải trải thảm đỏ mời người gọi là chiến bại để mong được là đối tác hàng đầu cả về kinh tế lẫn quân sự đã trả lời cho câu hỏi ai thắng ai trong cuộc chiến Việt Nam. Cuối cùng, bốn mươi năm sau, chính Tổng Bí Thư đảng CSVN phải sang Hoa Kỳ ký kết “Tầm Nhìn Chung Việt Mỹ” và tuyên bố kết thúc cuộc chiến Việt Nam, một cuộc chiến không nhằm chống đất nước Hoa Kỳ và cũng không nhằm chống lại nhân dân Hoa Kỳ đã chứng tỏ “Ai Thắng Ai” trong cuộc chiến bi thảm vừa qua.

9. DÂN TỘC VIỆT NAM THẮNG

    Trong suốt thời gian chiến tranh, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã chiến thắng cả 5 trận đánh lịch sử. Cộng Sản Việt Nam đã thất bại nặng nề trong tổng công kích tết Mậu Thân 1968, trên phương diện chính trị Cộng Sản Việt Nam lại thất bại hơn vì không có một người dân nào ở miền Nam tự do “Tổng Nổi Dậy” theo lời kêu gọi của cái gọi là mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Thế nhưng, sự kiện tết Mậu Thân được phe phản chiến trong đảng Dân chủ và thế lực ngầm tài phiệt Do Thái trong quốc hội Hoa Kỳ khai thác triệt để khiến hành pháp Hoa Kỳ phải bó tay không được hành động đã tạo ra bất lợi vô cùng cho Việt Nam Cộng Hòa.

    Thống Tướng Westmoreland, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đã chua chát nhận định: “Chúng ta đã tham dự một cuộc chiến mà bị trói một tay, một cuộc chiến tranh không được thắng. Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết với quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn…”. Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã tuyên bố trong buổi lễ Ngày Cựu Chiến binh năm 1982 như sau: “Chúng ta hãy tôn vinh những chiến sĩ Hoa Kỳ đã chiến đấu tại Việt Nam. Họ là những chiến sĩ anh hùng vì họ đã chiến đấu trong hoàn cảnh không có quyền thắng trận”. Hơn ba mươi năm sau khi kết thúc cuộc chiến, Henry Kissinger, trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đã tự nhận lỗi lầm: “Sự thảm bại tại VN vào ngày 30-4-1975 là do Hoa Kỳ gây nên, chứ không phải VNCH”.

    Sau ngày Cộng sản xâm chiếm miền Nam, hàng triệu người phải bỏ quê hương ra đi tìm tự do nhưng sau 40 năm, ngọn cờ vàng vẫn tung bay trên khắp thế giới như biểu tượng cho dân chủ tự do. Cuộc chiến ngày nay không còn là cuộc chiến của miền Nam tự do nữa mà đã trở thành cuộc chiến của toàn dân tộc chống tập đoàn Việt gian Cộng Sản độc tài, bất nhân hại dân bán nước. Một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ sẽ chuyển đổi lịch sử trong nay mai và mà thắng lợi cuối cùng chính là của dân tộc Việt Nam.

PHẠM TRẦN ANH
(Trích trong bộ  LƯỢC SỬ VIỆT NAM)

Xin mời xem thêm: 
https://vietbao.com/a292030/cac-cuong-quoc-trong-chien-tranh-viet-nam

CÁC CƯỜNG QUỐC TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM

19/03/201910:39:00(Xem: 2118)
CÁC CƯỜNG QUỐC TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Trong chiến tranh 1954-1975, Liên Xô và Trung Cộng là hai nước viện trợ chính cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở Bắc Việt Nam (BVN), và Hoa Kỳ là nước viện trợ chính cho Quốc Gia Việt Nam (QGVN), đổi thành Viêt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1955 ở Nam Việt Nam (NVN).  Các cường quốc đến giúp Bắc và Nam Việt Nam đều có những tính toán riêng của mỗi nước. 

LIÊN XÔ VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Sau khi cướp chính quyền năm 1917, đảng Cộng Sản (CS) Nga do Vladimir Lenin lãnh đạo, thành lập Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS) (The Third International) tại Moscow năm 1919, gọi là Communist International hay COMINTERN. 

Trong đại hội kỳ 2 ĐTQTCS từ 24-7 đến 7-8-1920, Vladimir Lenin công bố bản “Sơ thảo lần thứ nhứt luận cương về vấn đề Dân tộc và Thuộc địa” (Draft Thesis on the National and Colonial Questions), thường được gọi là bản luận cương của Lenin, theo đó Lenin nêu cao quyền dân tộc tự quyết, kêu gọi các nước bị đô hộ (các thuộc địa) đứng lên chống lại các đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc bằng cách dựa vào sự ủng hộ của đảng CS các nước, rồi gia nhập khối Liên Xô. 

Để thực hiện chủ trương nầy, ĐTQTCS tổ chức tại Liên Xô những cơ sở đào tạo cán bộ tuyên truyền, sách động và tổ chức quần chúng, rồi tung những cán bộ nầy về nước hoạt động.  Hai trường nổi tiếng là trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông (Communist University of the Toilers of the East), thành lập năm 1921.  Năm 1926, Liên Xô lập thêm trường Quốc tế Lenin (International Lenin School).

Nước Nga, đổi thành Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết tức Liên Xô ngày 30-12-1922, tuyên truyền chủ nghĩa CS và phát triển ĐTQTCS nhằm xuất cảng cách mạng, bành trướng thế lực ra nước ngoài, tiến đến thành lập một khối các quốc gia theo chủ nghĩa CS do Liên Xô lãnh đạo, cạnh tranh với các đế quốc Tây Âu.  Đảng CSLX khuyến khích các nước bị đô hộ, tức thuộc địa của các nước Tây phương, nổi lên chống các đế quốc, giải phóng dân tộc, giành độc lập, rồi gia nhập khối Liên Xô.  Nói cách khác, ĐTQTCS là công cụ bành trướng đế quốc CS của Liên Xô.

Người Việt Nam đầu tiên xuất thân từ Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông ở Moscow, được ĐTQTCS gởi qua Trung Hoa hoạt động gián điệp năm 1924 là Nguyễn Ái Quốc (NAQ, đã được nhiều người viết.)  Trên đường hoạt động, NAQ thay đổi tên họ nhiều lần.  Năm 1942, NAQ chiếm dụng tên Hồ Chí Minh (HCM) của Hồ Học Lãm năm 1942.  Dầu đã được ĐTQTCS đào tạo, nhưng khi HCM cùng đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cướp chính quyền ở Hà Nội năm 1945, Liên Xô vẫn không giúp đỡ, vì hai lẽ: 1) Joseph Stalin, nhà độc tài Liên Xô, vốn đa nghi, không tin tưởng những nước CS không do Liên Xô thành lập.  Hơn nữa HCM lại đã từng cộng tác với cơ quan tình báo OSS (Office of Strategic Services) của Hoa Kỳ. 2) Việt Nam nằm quá xa Liên Xô và Liên Xô không có quyền lợi ở Đông Nam Á.

Năm 1950, khi HCM qua Liên Xô cầu viện, Stalin ủy nhiệm cho Trung Cộng (TC) giúp HCM chống Pháp và sau đó Liên Xô viện trợ võ khí hạng nặng cho VNDCCH qua đường TC, vì lúc đó CSVN chưa có lãnh thổ nhất định. 

Hiệp định Genève (1954) chia hai nước Việt:  VNDCCH ở BVN; QGVN đổi thành VNCH năm 1955 ở NVN.  Liên Xô chỉ chú trọng đến BVN khi xảy ra cuộc tranh chấp Nga-Hoa do viêc Nikita Khrushchev đưa ra chủ trương “sống chung hòa bình” (peaceful coexistence) giữa các nước không cùng chế độ chính trị năm 1956.  Liên Xô viện trợ cho BVN nhằm lôi kéo BVN về phía Liên Xô, nhiều  nhất là viện trợ võ khí hạng nặng.  Sau hiệp định Paris (27-1-1973), Hoa Kỳ không oanh tạc BVN nên Liên Xô dễ dàng viện trợ trực tiếp cho BVN, và tăng gấp 4 lần số viện trợ để BVN tấn công NVN.  

TRUNG CỘNG VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Năm 1949, đảng CS thành công ở Trung Hoa.  Ngày 1-10-1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), thường được gọi là Trung Cộng (TC).  Đầu năm 1950, HCM, chủ tịch VNDCCH, vội vàng qua Bắc Kinh cầu viện.  Lúc đó, Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai không có mặt ở Bắc Kinh và đang viếng thăm Liên Xô.  Tài liệu của một tác giả trong nước cho biết khi HCM đến Bắc Kinh, thì HCM làm kiểm thảo trước Lưu Thiếu Kỳ về tất cả những chủ trương của CSVN từ năm 1946. (Trần Đĩnh, Đèn cù, California: Người Việt Books, 2014, tr. 49.) 

Sau Bắc Kinh, HCM đến Moscow tối 6-2-1950.  Có thể trước đó Stalin và Mao Trạch Đông đã thỏa thuận chia vùng ảnh hưởng, nên khi tiếp HCM, Stalin nói: “Đảng Cộng Sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô hoàn toàn nên viện trợ cho cuộc đấu tranh chống Pháp của các đồng chí.  Song, chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung Quốc, công việc viện trợ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách thích hợp hơn...”   (Một nhóm tác giả, Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, bài của Trương Quảng Hoa, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính.  Montreal: Tạp chí Truyền Thông số 32 và 33, Hạ-Thu 2009, tr. 45.)

Ngày 17-2-1950, Mao Trạch Đông cùng Châu Ân Lai rời Moscow, trở về Bắc Kinh bằng tàu hỏa.  Hồ Chí Minh tháp tùng theo đoàn tàu nầy.  Một hôm HCM tìm đến toa tàu của Mao Trạch Đông và dùng tiếng Tàu xin Mao Trạch Đông viện trợ.  Mao Trạch Đông đồng ý nhưng còn đợi ý kiến trung ương đảng CSTH. (Trương Quảng Hoa, bđd., sđd. tr. 47.)

Tại Bắc Kinh, một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa VNDCCH và CHNDTH được ký kết, theo đó hai bên hợp tác để tiễu trừ thổ phỉ.  (Bernard Fall, Le Viet-Minh, Paris: Max Leclerc et Compagnie, 1960, tr. 119.)  Thổ phỉ ở đây ám chỉ biệt kích Pháp và tàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa, đã trốn tránh ở biên giới Việt Hoa sau khi Tưỏng Giới Thạch thất bại.  Từ đó, TC viện trợ tối đa cho CSVN, không phải chỉ vì tình nghĩa xã hội chủ nghĩa, mà còn vì TC nhờ CSVN bảo vệ an ninh biên giới phía nam của TC.

Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17.  Trước khi ký hiệp định Genève, Châu Ân Lai triệu HCM hội họp tại Liễu Châu (Liuzhou), tỉnh Quảng Tây (Kwangsi) ở TC, từ 3 đến 5-7-1954, để bàn về việc ký kết hiệp định.  Bên cạnh đó, Châu Ân Lai đưa ra cho HCM hai kế hoạch: 1) Trước khi rút quân từ NVN ra BVN, CS chôn giấu võ khí, cài người ở lại NVN để chuẩn bị tái chiến. 2) Sử dụng chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” tức chống Hoa Kỳ để kích động quân đội và lôi kéo quần chúng.

Chống Hoa Kỳ là chủ trương của TC từ sau thế chiến thứ hai vì TC đụng độ với Hoa Kỳ nhiều lần ở nhiều nơi.  Trong cuộc chiến Quốc-Cộng ở Trung Hoa, Hoa Kỳ viện trợ cho Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đao.  Khi THDQ thất bại, di tản ra Đài Loan (Taiwan) năm 1949, Hoa Kỳ giúp THDQ duy trì ghế đại diện Trung Hoa ở Liên Hiệp Quốc, dầu Đài Loan rất nhỏ, ít dân so với TC.  Trung Cộng còn đụng độ trực tiếp với Hoa Kỳ trong chiến tranh Triều Tiên từ 1950 đến 1953.  Tại hội nghị Liễu Châu, chắc chắn Châu Ân Lai đã rỉ tai cho HCM biết về những biến cố nầy.

Từ năm 1956, mối bang giao Trung Cộng - Liên Xô rạn nứt vì TC chống lại chủ trương "sống chung hòa bình" do Khrushchev đưa ra.  Liên Xô bao vây TC ở phía bắc và phía tây.  Phía tây nam, Ấn Độ chận TC.  Phía đông là Thái Bình Dương với ba nước đồng minh của Hoa Kỳ là Nam Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc.  Bị bao vây gần như ba mặt, TC rất lo ngại bị cô lập và nhất là lo ngại bị Hoa Kỳ chận luôn ở phía nam, nên TC tận lực giúp BVN.

Ngày 4-9-1958, Quốc vụ viện TC (chính phủ) ra tuyên cáo về ranh giới biển của TC là 12 hải lý kể từ bờ biển, áp dụng cho toàn thể lãnh thổ TC, bao gồm cả các hải đảo mà TC cho là của TC, trong đó TC kể luôn cả Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông.  Bản tuyên cáo nầy không gởi riêng cho nước nào và không cần trả lời, nhưng để lấy lòng TC nhằm mưu cầu viện trợ từ TC, Phạm Văn Đồng, thủ tướng BVN, với sự đồng ý của HCM và bộ Chính trị đảng Lao Động, ký quốc thư ngày 14-9-1958, tán thành tuyên cáo của TC ngày 4-9-1958, nghĩa là mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TC. 

Một năm sau, Phạm Văn Đồng qua Bắc Kinh tháng 10-1959 để cầu viện.  Đáp lại, tháng 11-1959, TC đưa một phái đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu của BVN.  Tháng 5-1960, các nhà lãnh đạo BVN và TC hội họp liên tiếp ở Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận chiến lược tấn công NVN. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tt. 82-83.)

Được TC hứa hẹn viện trợ, ngay trong năm 1960, tại Hà Nội, đại hội III đảng Lao Động từ 5-9 đến 10-9-1960, đưa ra hai mục tiêu lớn là xây dựng xã hội chủ nghĩa ở BVN và giải phóng NVN bằng võ lực, nghĩa là động binh tấn công NVN, tức BVN công khai vi phạm (xé bỏ) hiệp định Genève năm 1954.

Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng liên tục qua TC hội họp và thương lượng với các lãnh tụ TC.  Ngoài quân viện, từ  tháng 6-1965 đến tháng 3-1968, TC gởi sang BVN 320,000 quân, trú đóng ở các tỉnh và thành phố phía bắc Hà Nội, điều khiển các súng phòng không, sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, bảo vệ các tỉnh phía bắc, nhằm giúp BVN kéo hết lực lượng xuống tấn công NVN.  (Qiang Zhai, sđd., tr. 135.  Tuy nhiên, theo Henry Kissinger, On China, Toronto: Penguin Group (Canada), 2011, tr. 342, thì Trung Cộng chỉ gởi 100,000 quân.)

HOA KỲ VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Về phía Hoa Kỳ, sách vở tài liệu Hoa Kỳ đều cho rằng Hoa Kỳ giúp VNCH hay NVN nhằm chống lại sự xâm lăng của BVN, nhứt là sự bành trướng của TC.  Tuy nhiên, kết cuộc bi thảm của VNCH năm 1975 đặt ra một câu hỏi:  Liệu Hoa Kỳ có thật tâm giúp VNCH tự bảo vệ và chống cộng sản không?

Khi Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên (NTT) năm 1950 thì Hoa Kỳ hưởng ứng lời kêu gọi của Liên Hiệp Quốc, đưa quân qua giúp NTT chống BTT.  Tại đây, Hoa Kỳ đụng độ với Trung Cộng, và cuối cùng hai bên NTT và BTT ký hiệp ước đình chiến Bàn Môn Điếm (Panmunjom) ngày 27-7-1953.  Để bảo vệ NTT, Hoa Kỳ ký với NTT ngày 1-10-1953 Hiệp định Phòng thủ Hỗ tương giữa Hoa Kỳ và Cộng Hòa Triều Tiên (Mutual Defense Treaty Between the United States and the Republic of Korea). 

Tháng 9-1954, TC đe dọa Trung Hoa Dân Quốc (THDQ tức Đài Loan), pháo kích hai quần đảo Kim Môn - Mã Tổ (Kinmen-Mazu).  Hai quần đảo nầy nằm cách hải cảng Hạ Môn (Xiamen), tỉnh Phúc Kiến (Fujian) của TC khoảng 15 Km, và nằm cách bờ biển Đài Loan khoảng 270 Km, nhưng thuộc chủ quyền của Đài Loan.  Hoa Kỳ liền ký với THDQ ngày 2-12-1954 Hiệp định Phòng thủ Hỗ tương Hoa-Mỹ  (Sino-American Mutual Defense Treaty) còn gọi là Hiệp định Phòng thủ chung giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Mutual Defense Treaty between the United States of America and the Republic of China).  Năm 1972, Hoa Kỳ ký thông cáo chung Thượng Hải với TC, công nhận CHNDTH hay TC là nhà nước hợp pháp duy nhất của Trung Hoa, nhưng Hoa Kỳ vẫn bảo vệ nền độc lập và tự trị của THDQ (Đài Loan) bằng “Đạo luật quan hệ Đài Loan” (Taiwan Relations Act, 10-4-1979).

Với Nhật Bản, sau các hiệp ước 1951 và 1954, Hoa Kỳ ký thêm ngày 19-1-1960 Hiệp định Hợp tác và An ninh Hỗ tương giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản (Treaty of Mutual Cooperation and Security between the United States and Japan).

Trong khi đó, lúc đầu giữa Hoa Kỳ và VNCH không ký kết một hiệp ước quân sự vì điều 19 chương III hiệp định Genève (20-7-1954) ghi rằng: “Hai bên cam đoan rằng vùng thuộc về họ không gia nhập một liên minh quân sự nào và không bị sử dụng để gây lại chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược”.  Tuy nhiên sau khi đảng Lao Động công khai vi phạm (xé bỏ) hiệp định Genève tại đại hội III ở Hà Nội vào tháng 9-1960, thì tổng thống Ngô Đình Diệm hai lần đề nghị Hoa Kỳ ký với VNCH một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa hai nước, nhưng phía Hoa Kỳ cũng từ chối.  Tổng thống Diệm đề nghị lần thứ nhứt ngày 29-9-1961 với đô đốc Harry D. Felt, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. (Stanley Karnow, Vietnam, a History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 251.)  Tổng thống Diệm đề nghị lần thứ hai với đại tướng Maxwell Taylor, tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, đến Sài Gòn từ 18 đến 24-10-1961. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 22.) 

Thêm nữa, khi đem bộ binh vào Nam Việt Nam (NVN) năm 1965, thì đại sứ Hoa Kỳ tại VNCH Maxwell Taylor vận động với thủ tướng Phan Huy Quát và các tướng lãnh, và hai bên Việt Mỹ “thỏa thuận miệng” (không ký văn bản) để cho Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 8-3-1965.  Sau đó, khi muốn rút quân, thì Hoa Kỳ tự động rút quân, và chỉ thông báo cho tổng thống VNCH biết.

Như thế Hoa Kỳ không ký một hiệp ước nào với VNCH.  Phải chăng đây là dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ không cương quyết giúp đỡ VNCH chống CS như Hoa Kỳ đã giúp đỡ NTT, Nhật, Đài Loan, dầu lúc đó VNCH được mệnh danh là “tiền đồn chống cộng”?  Phải chăng Hoa Kỳ chỉ muốn kết hợp với VNCH thành một liên minh không văn bản, khỏi bị ràng buột chặt chẽ với VNCH, để Hoa Kỳ rộng đường hành động và xoay xở khi đối đầu với TC trong lúc tình hình thế giới đang thay đổi.

Quả thật tình hình quốc tế đang biến chuyển mạnh vì Trung Cộng chống đối chủ trương “sống chung hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị do bí thư thứ nhất đảng CSLX Nikita Khrushchev đưa ra năm 1956.  Càng ngày TC càng cứng rắn, nhứt là từ khi TC thử nghiệm thành công bom nguyên ngày 16-10-1964. (Google: “China Nuclear Forces”.)   Ngày 2-3-1969 bùng nổ chiến tranh biên giới Nga-Hoa tại sông Ussuri (Ô Tô Lý Giang), phía bắc TC. 

Khi TC lên hàng cường quốc nguyên tử, Hoa Kỳ bắt đầu quan ngại.  Richard Nixon, cựu phó tổng thống thời tổng thống Dwight D. Eisenhower, trên báo Foreign Affairs số tháng 10-1967, viết rằng không nên để cho TC sống biệt lập ngoài đại gia đình thế giới.  (Henry Kissinger, On China, Toronto: Penguin Group (Canada), 2011, tr. 202.)  Vì vậy Hoa Kỳ bắt đầu muốn nói chuyện với TC, vừa vì thế lực nguyên tử mới xuất hiện, vừa vì muốn gây chia rẽ trong khối CS sau vụ TC và Liên Xô đánh nhau. 

Về phía TC, khi cuộc tranh chấp Nga-Hoa đưa đến chiến tranh, thì TC phát sinh nhu cầu làm bạn với một cường quốc nguyên tử để tạo thế cân bằng với Liên Xô.  Lúc đó cường quốc mà TC nhắm đến không nước nào khác hơn là Hoa Kỳ, vì Hoa Kỳ có võ khí nguyên tử và Hoa Kỳ cũng chống Liên Xô.  Về địa chính trị, Hoa Kỳ ở xa TC, trong khi Liên Xô nằm sát biên giới TC.  Do đó, TC cũng có nhu cầu muốn nói chuyện với Hoa Kỳ.  Sau một thời gian dọ dẫm, hai bên bắt đầu xích lại gần nhau.

Tại Hoa Kỳ, sau khi thắng cử và lên làm tổng thống ngày 20-1-1969, Richard Nixon đưa ra kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” (Vietnamization), chuyển gánh nặng quân sự qua cho quân lực VNCH, rút quân đội Hoa Kỳ về nước.  Tháng 2-1972, Richard Nixon thăm TC, mở đầu một thời kỳ mới trong bang giao Hoa Kỳ-TC.  Bắt tay được với TC, quân cờ VNCH không còn cần thiết, nên Hoa Kỳ bỏ rơi VNCH.

Chính sách của Hoa Kỳ trong thời gian tham chiến ở NVN là chiến tranh giới hạn, không tấn công BVN để tránh sự can thiệp của TC như ở Nam Triều Tiên.  Trước khi đưa bộ binh vào NVN, ngày 30-4-1964 ngoại trưởng Hoa Kỳ là Dean Rusk nhờ J. Blair Seaborn, trưởng đoàn Canada trong Ủy ban Kiểm soát Quốc tế (International Control Commission), báo cho Hà Nội biết chủ trương nầy của Hoa Kỳ và đề nghị Hà Nội ngưng ủng hộ CS miền Nam để đổi lấy viện trợ.  Seaborn trình bày lại với Phạm Văn Đồng ngày 18-6-1964 nhưng BVN không chấp thuận.  (John S. Bowman, sđd. tr. 37.) 
Ngoải chính sách chiến tranh giới hạn, Hoa Kỳ còn áp đặt trong quân đội Hoa Kỳ những quy tắc tham chiến (rules of engagement) mà một tác giả Hoa Kỳ đã nhận xét rằng: “Những quy tắc nầy bảo đảm rằng quân đội chúng ta [Hoa Kỳ] không thể thắng mà cộng sản không thể thua.” (Steve Farrell, Why We Lost in Vietnam - The Untold Story, University of Toronto, School of Continuimg Studies, The Moral Liberal.)  Thượng nghị sĩ Barry Goldwater, đảng Cộng Hòa bang Arizona, gọi đây là “no win policy” (chính sách không thắng). (The Bryan Times, Thursday April 17, 1975, tr. 6. http://news.google.com/newspapers.)

Đánh trận mà không thắng không thua để làm gì thì chưa biết, nhưng chắc chắn chiến tranh sẽ kéo dài và Hoa Kỳ có thời gian tiêu thụ cho hết số võ khí tồn kho của Hoa Kỳ từ thời thế chiến thứ hai còn lại.  Các cựu quân nhân VNCH đều cho biết cho đến năm 1968, quân đội VNCH vẫn sử dụng các loại súng cũ như Carbine M1 hay Garand M1, máy bay AD5, AD6 … thời thế chiến thứ hai.  

Trên chiến trường Việt Nam, Hoa Kỳ còn thử nghiệm một số võ khí mới, mà dễ thấy nhứt là súng AR15 (tức M16) xuất hiện khoảng năm 1965, và quân nhân Việt Nam sử dụng từ năm 1968; thiết giáp xa Patton 48; phản lực cơ F4-Phantom; oanh tạc cơ B52 lần đầu tiên trên thế giới xuất chiến ở Bình Dương ngày 17-6-1965 trong chiến dịch Arc Light; bột khai quang màu da cam; loại bom bi khi phát nổ phóng ra những chùm bi nhỏ sát thương. (Về việc B52 xuất chiến lần đầu ở Bình Dương, theo John S. Bowman, sđd. tr. 72. Tài liệu về các loại võ khí mới của Hoa Kỳ sử dụng ở Việt Nam, theo các website: HISTORY: Weapons of the Vietnam War:  https://www.history.com/topics/vietnam-war/weapons-of-the-vietnam-war và Vietnam Equipment: https://www.pritzkermilitary.org/explore/vietnam-war/vietnam-equipment/.  )

Cũng trên chiến trường Việt Nam, Hoa Kỳ lại có cơ hội theo dõi, nghiên cứu những loại võ khí mới của Liên Xô viện trợ cho quân đội CS sử dụng ở Việt Nam.  Ngoài các loại súng của CS như AK-47, Hoa Kỳ còn nghiên cứu các loại xe thiết giáp của Liên Xô và các loại hỏa tiển phòng không của Liên Xô. 

Điểm quan trọng là khi đến Việt Nam, Hoa Kỳ chỉ hành động theo chủ trương chính sách của Hoa Kỳ, quan điểm của Hoa Kỳ, cho lợi ích của Hoa Kỳ.  Hoa Kỳ ít quan tân đến đề nghị, nguyện vọng và quyền lợi của phía VNCH.  Ví dụ cố vấn Hoa Kỳ huấn luyện quân sự theo lý thuyết chiến tranh của Hoa Kỳ, dựa trên hỏa lực tối tân và dồi dào mà không dựa trên điều kiện Việt Nam, hoặc Hoa Kỳ không tìm ra đối sách chống lại du kích, mà Hoa Kỳ bác bỏ các đề nghị bắc tiến của các tướng lãnh VNCH để chận đứng du kích CS ở NVN; và Hoa Kỳ cản trở kế hoạch của VNCH sản xuất đạn dược để VNCH tự cung ứng nhu cầu chiến tranh… 

Người Hoa Kỳ tính toán tinh vi đến nỗi vào nắm 1972, BVN tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH.  Viện dẫn lý do nầy, Quân đoàn I đưa ra đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải, nhằm đe dọa hậu cứ địch, nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý.  Lo ngại Quân đoàn I có thể tự ý tiến quân ra BVN, các cố vấn Mỹ giới hạn việc cấp bổng tiếp vận cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn pháo binh chỉ được bắn 5 quả mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn.  (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.) 

Khi quyết định rút lui khỏi NVN, Hoa Kỳ vận động ký hiệp định Paris ngày 27-1-1973 gọi là 4 bên, nhưng thật sự chỉ giữa Hoa Kỳ và BVN trong khi NVN bị ép phải ký.  Trong hiệp định nầy, chương II về “Chấm dưt chiến sự - Rút quân”, điều 2, quy định rằng Hoa Kỳ sẽ rút hết quân về nước, nhưng qua điều 3 khoản b, thì bộ đội BVN vẫn đóng lại ở NVN.  Phía BVN hớn hở xem đây là một thắng lợi của CS vì Hoa Kỳ dứt khoát bỏ rơi NVN, và CS tin rằng sẽ dễ dàng tiếp tục tấn công NVN. 

Sau đó  điều 21 (chương VIII) viết như sau:  “Theo chính sách truyền thống của mình, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và toàn Đông Dương.”  Hai bên thương lượng và thỏa thuận Hoa Kỳ sẽ giúp BVN 3,25 tỷ Mỹ kim để tái thiết.  Richard Nixon gởi thư cho Phạm Văn Đồng ngày 1-2-1973 xác nhận điều nầy.  Trong thư, phần phụ lục ghi thêm rằng việc giúp đỡ “sẽ được thực hiện bởi mỗi bên theo các điều khoản hiến pháp của mỗi nước.”  (Lê Quỳnh, “Lá thư mật Nixon và quan hệ Việt-Mỹ”, BBC Việt ngữ 11-5-2008.)  

Khi BVN cưỡng chiếm được Sài Gòn, vi phạm hiệp định Paris, thì không có lý do gì Hoa Kỳ phải tôn trọng những cam kết giúp đỡ nhân đạo cho BVN.  Thế là sau khi rút về nước tất cả tù binh Hoa Kỳ bị CS bắt giam, Hoa Kỳ xù luôn một cách hợp lý chuyện 3,25 tỷ Mỹ kim, khỏi cần bồi thường gì cả. 

Về phía VNCH, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, quân đội VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu, nên ngoại trưởng Hoa Kỳ là Henry Kissinger đã trù ẻo: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi?  Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai dẳng hoài.” (Lời của Henry Kissinger nói với Ron Nessen. Ron Nessen thuật lại trong sách It Sure Looks Different from the Inside, Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 98.  Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter trích dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., 1987, tr. 512.)  Đến giúp nhau mà sao trù ẻo nhau như thế?

Tuy nhiên điều tệ hại nhất cho VNCH là vào tháng 2-1975, các loại đạn dược tồn kho chỉ đủ dùng trong khoảng 30 ngày. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, Virginia: Vietnam Bibliography, 2003, tr. 92.)  Hết đạn thì làm sao mà chiến đấu, nên cuối cùng quân đội VNCH phải hạ khí giới.  Xin chú ý là cho đến năm 1973, khi quân đội VNCH còn được trang bị đầy đủ, thì bộ đội CS không thắng được trận nào, kể cả vụ CS bất ngờ đánh lén nhân Tết Mậu Thân (1968).

Chẳng những trù ẻo, truyền thông Hoa Kỳ, giới phản chiến Hoa Kỳ lớn tiếng cố tình đổ lỗi, gán ghép sự thất bại của VNCH năm 1975 hoàn toàn do lỗi VNCH, do hành chánh VNCH “tham nhũng”, do quân đội VNCH “bất tài”, nhằm khỏa lấp chính sách “bất phân thắng bại" (no win policy) và chủ trương “chiến tranh giới hạn” (limited war), rồi bỏ rơi VNCH để bắt tay với TC. 

Khi cần thì tung hô VNCH là “tiền đồn chống cộng”, tổng thống Ngô Đình Diệm là “Winston Churchill of Asia” (lời của phó tổng thống Lyndon Johnson tại Sài Gòn ngày 12-5-1961).  Khi không cần thì thảm sát ngày 2-11-1963, rồi sau đó thì “Việt Nam hóa chiến tranh” để mưu cầu một nền “hòa bình trong danh dự” riêng cho Hoa Kỳ, bỏ xó “tiền đồn chống cộng” “sống chết mặc bay”, cúp viện trợ, cúp võ khí, rồi còn trù độc “chết lẹ đi cho rồi.” 

Trong khi đó, vào cuối tháng 4-1975, Graham Martin, đại sứ Hoa Kỳ cuối cùng tại VNCH, đến mời tổng thống Trần Văn Hương di tản qua Hoa Kỳ, thì tổng thống Hương từ chối và nhã nhặn đáp rằng: “Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó.”  (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa 10 ngày cuối cùng, California: Nxb. Nam Việt, 2006, tr. 353.) 

KẾT LUẬN

Tóm lại, trong cuộc chiến 1954-1975, Liên Xô (LX) và Trung Cộng (TC) viện trợ cho BVN tấn công NVN.  Còn Hoa Kỳ viện trợ cho NVN chống lại BVN. 

Từ năm 1920, Nga rồi Liên Xô sử dụng ĐTQTCS làm công cụ để xuất khẩu cách mạng nhằm thành lập một đế quốc kiểu mới gồm các nước CS thuộc quyền Liên Xô.  Đệ tam QTCS đã đào tạo HCM thành một gián điệp phục vụ cho mưu đồ nầy của Liên Xô.  Liên Xô ở xa Việt Nam, ít có quyền lợi ở Đông Á, giúp BVN vì: 1) HCM được LX đào tạo để làm gián điệp cho LX, du nhập chủ nghĩa CS vào Việt Nam, thi hành chủ trương bành trướng của ĐTQTCS.  2) Tranh chấp với TC nên LX viện trợ cho BVN, lôi kéo BVN về phía LX.  3) Giúp BVN chống Hoa Kỳ, kẻ thù của LX từ sau 1945. 

Bành trướng là bản chất cố hữu của những nhà lãnh đạo Trung Hoa.  Thời hiện đại cộng thêm tính hiếu chiến và bạo động của chủ nghĩa CS.  chiến và bạo động của chủ nghĩa CS.  Trung Cộng đã góp phần rất lớn giúp CSVN thành công trong cả hai cuộc chiến 1946-1954 và 1954-1975.  Trung Cộng giúp BVN vì: 1) Bảo vệ an ninh biên giới phía nam TC.  2) Bành trướng và tìm đường tiến xuống ĐNA.  3) Ngăn chận ảnh hưởng của Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ trở thành cường quốc nguyên tử từ năm 1945, đứng đầu khối tư bản sau thế chiến thứ hai, đến giúp NVN vì: 1) Muốn xây dựng NVN thành tiền đồn chống cộng, bảo vệ Hoa Kỳ từ xa.  2)  Chống Liên Xô và sự bành trướng của chủ nghĩa CS.  3) Bao vây TC, ngăn chận TC xuống ĐNA.  Tuy nhiên, do tính thực dụng, cấp tiến, sẵn sàng thay đổi để tiến bộ và phát triển, nên sau khi liên lạc và thỏa hiệp với TC, thì Hoa Kỳ bỏ rơi NVN và rút ra quân về nước.

Trong khi đó, BVN nhờ viện trợ Liên Xô và TC, xâm lăng NVN nhằm bành trướng quyền lực và phủ sóng CS lên toàn cõi Việt Nam.  Nam Việt Nam yếu thế, không lẽ ngồi chờ chết, đành phải nhờ Hoa Kỳ giúp đỡ để tự vệ.  Hai bên có hai cách viện trợ khác nhau: Đảng CS Liên Xô và TC độc tài đảng trị, bí mật viện trợ không cần thông qua quốc hội, và viện trợ cho BVN từ đầu đến cuối cuộc chiến (1975).  Hoa Kỳ là nước dân chủ, viện trợ cho NVN phải công khai thông qua quốc hội; và đến năm 1972 thì quốc hội Hoa Kỳ ra lệnh giảm thiểu và chấm dứt viện trợ.  

Hai bên Bắc và Nam Việt Nam đánh nhau bằng võ khí của ngoại bang.  Dân chúng cả hai bên đều chết vì võ khí của ngoại bang.  Hàng trăm ngàn thanh niên cả hai bên đã nằm xuống, nhưng ý nghĩa khác nhau:

-   Thanh niên Trung Cộng chết vì âm mưu của tập đoàn CS Bắc Kinh, số lượng không đáng kể. 

-   Trên 58,000 thanh niên Hoa Kỳ tử trận ở Việt Nam là ân nhân của NVN vì bảo vệ nền tự do của NVN, đồng thời vừa vì sứ mệnh ngăn chận CS từ xa của Hoa Kỳ. 

-  Hàng trăm ngàn thanh niên Bắc Việt Nam thiêu thân trong cuộc xâm lăng NVN vì tham vọng bành trướng chủ nghĩa CS và giấc mộng quyền lực của giới lãnh đạo BVN.  Nữ văn sĩ Dương Thu Hương, vào đến Sài Gòn năm 1975, đã ngồi khóc bên vệ đường vì bà nghĩ rằng tuổi thanh xuân của bà “bị hy sinh một cách uổng phí” (nguyên văn lời của Dương Thu Hương). 

-   Hàng trăm ngàn thanh niên Nam Việt Nam hy sinh vì lý tưởng tự do dân chủ, bảo vệ nền độc lập và sự sống còn của miền NVN, và bảo vệ nền văn hóa dân tộc cổ truyền còn được bảo lưu ở NVN.   

Cuối cùng người Việt Nam ở cả hai bên lãnh đủ bom đạn ngoại bang.  Nước Việt Nam bị tàn phá trầm trọng.  Cả hai bên, Nam và Bắc Việt Nam, đều bị các thế lực ngoại bang dùng viện trợ chi phối theo quyền lợi của ngoại bang.  Đây là kinh nghiệm xương máu đau thương nhớ đời cho người Việt Nam ở cả hai bên, không thể tin tưởng bất cứ ngoại bang nào, dù cộng sản hay tư bản.

TRẦN GIA PHỤNG
(Houston, 17-3-2019)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét