Thứ Ba, 18 tháng 6, 2019

AN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN

Những kẻ ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản ngày ấy,
bây giờ ra sao?


Trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa, cái nhức nhối nhất là chỗ nào cũng có bọn VC nằm vùng, chúng tràn lan trong các tổ chức chính quyền, các cơ quan truyền thông, văn nghệ, tôn giáo, sinh viên học sinh... Trong các tổ chức chính quyền, từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Tổng Nha Cảnh Sát, Quốc Hội, và ngay cả trong Dinh Độc Lập cũng có VC nằm vùng. Bọn này ẩn nấp dưới hàng trăm hàng ngàn bộ mặt, muôn hình vạn trạng, đánh phá miền Nam, từ công khai hợp pháp, đến bí mật dưới muôn ngàn hình thức. Độc hại nhất là bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.

Ngày nay, trong cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ của các cộng đồng tỵ nạn cộng sản hải ngoại, cũng không tránh khỏi bọn này. Ở thế kỷ 21, kỹ thuật đánh phá tinh vi hơn, nhất là lợi dụng các thứ tự do, công khai và hợp pháp để đánh phá.

Phạm vi hoạt động của Việt Cộng

Thời nào cũng vậy, bài bản của phạm vi hoạt động cũng giống nhau. Đó ví như một vòng tròn có ba phần:

Phần trung tâm, là do cán bộ đảng viên thực hiện.

Phần thứ hai của vòng tròn, nối tiếp bên ngoài trung tâm, là những tổ chức được thành lập, do liên minh, liên kết, trong đó cán bộ đảng viên nắm phần lãnh đạo, chỉ huy, và đa số các thành phần quần chúng tham gia là không cộng sản. Đó là những “Mặt Trận”, như Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Mặt Trận Tổ Quốc...

Phần ngoài cùng của vòng tròn, là những tổ chức quần chúng không cộng sản, nhưng thân cộng, bị VC len lỏi bên trong, giật dây, tác động. Đó là những “Phong Trào”, như:

Phong trào hòa bình (chống chiến tranh, phản chiến), Phong trào chống tham nhũng, Phong trào Nhân dân cứu đói, Phong trào bảo vệ phụ nữ, Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc, Phong trào đòi thi hành Hiệp định Paris, Lực lượng quốc gia tiến bộ, Thành phần thứ ba...

2. Những tên Việt Cộng nằm vùng
2.1. Nhà văn nhà báo Việt Cộng nằm vùng


Cuối năm 1957, dưới thời tỉnh trưởng Nguyễn Trân, một mẻ lưới của cảnh sát Định Tường tung ra, bắt giữ những ký giả đem về giam tại Mỹ Tho, gồm có những người nằm vùng trong những tờ báo như sau:

Triệu Công Minh (báo Tiếng Dội), Lương Ngọc (Trời Nam), Nam Thanh (Lẽ Sống), Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba (Buổi Sáng), Nguyễn Bảo Hoá (Ánh Sáng), vợ Nguyễn Bảo Hoá là dược sĩ Mã Thị Chu (Tiếng Chuông), LS Nguyễn Văn Diệp, đạo diễn Lê Dân, Mai Thế Đông (giám đốc cải lương).

Nguyễn Trân tổ chức tranh luận công khai tại rạp hát Viễn Trường, Mỹ Tho, nếu nhận CNCS là sai và ăn năn hối cải thì được thả ra. Sau khi được thả, toàn bộ dông tuốt vô bưng, xem như Nguyễn Trân thả cọp về rừng.

2.2. Truy lùng Việt Cộng

Sau cuộc truy lùng trong các báo nêu trên, chính quyền bắt giam hàng loạt cán bộ nằm vùng cấp thành ủy, như GS Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chí, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cữu, Cổ Tấn Lương, Bùi Đức Thịnh, bà Bình Minh, đa số là giáo sư tư thục.

2.3. Việt Cộng nằm vùng, nhà văn Vũ Hạnh

Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Cán bộ văn hóa khu ủy Sài Gòn-Gia Định, hoạt động công khai đơn tuyến ở nội thành Sài Gòn.

Nhà văn Vũ Hạnh tại hội trường A trường Đại học An Giang đêm 17/03/2006.

Trước 1975, Vũ Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng có người bảo lãnh cho ra. Người bảo lãnh Vũ Hạnh sau cùng, là LM Thanh Lãng, Chủ tịch Hội Văn Bút.

Sau ngày 30-4-1975, Vũ Hạnh giữ chức Chủ tịch Hội Nhà Văn TP/SG. Vũ Hạnh mang súng kè kè bên hông, thì bị thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nửa đùa nửa thật bảo: “Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen cầm bút chứ có biết chơi súng đâu”.

Nhưng mấy tháng sau, ông lắc đầu nói nhỏ “Totalement décu” (hoàn toàn bị lừa). Với chức vụ Chủ tịch Hội Nhà Văn, chẳng có quyền hành và quyền lợi gì, coi bộ đời sống thời bao cấp gặp nhiều khó khăn. Ít lâu sau, nghe nói có một nhà giàu cộng tác để Vũ Hạnh mở ra một gánh hát cải lương, nhưng sau đó dẹp tiệm. Vũ Hạnh lại tìm người có vốn mở xưởng làm xà-bông, nhưng cũng không khá vì thiếu nguyên liệu.

Ít lâu sau nữa, một trong những người bạn cho biết, Vũ Hạnh đang tìm đường dây cho con vượt biên, nhưng bạn bè chả ai dám giúp đỡ vì sợ cái bản chất phản bội của tên nằm vùng.

2.4. Những tờ báo của Việt Cộng và có Việt Cộng nằm vùng

2.4.1. Tờ Tin Văn


Báo nhà nước đưa tin như sau: “Đầu năm 1966, đảng ủy giao cho cán bộ Vũ Hạnh đang hoạt động trong ‘vùng bị tạm chiếm’, ngụy trang dưới chiêu bài ‘bảo vệ văn hóa’, xin phép cho ra tờ Tin Văn, chủ trương chống văn hóa đồi trụy, chống văn hóa ngoại lai đầu độc thanh niên.

Tờ báo được các cán bộ ta chỉ đạo, đứng đầu là đồng chí Trần Bạch Đằng, Ủy viên thường trực Thành Ủy SG-GĐ 
[Sài Gòn-Gia Định], lãnh đạo tuyên huấn, mặt trận, trí vận, Hoa vận, và thanh niên (bao gồm sinh viên và học sinh).

Chủ nhiệm tờ Tin Văn là Nguyễn Mạnh Lương. Một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương, Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Tòa soạn đặt trong một ngôi chùa”.

Sau 1975, Vũ Hạnh viết như sau: “Tuần báo Tin Văn, với những bài phê bình vạch mặt những tên xung kích chống cách mạng, qua các tác phẩm đồi trụy, phản động, đã tạo ra một phong trào quần chúng sôi nổi. Ngụy quyền hoang mang nên tìm cách phản kích. Chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của Sở Công An và Phủ Đặc Ủy TW Tình Báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là ‘VC nằm vùng’, và liên tiếp trong nhiều số báo như vậy, y đã ‘vu khống tôi’ cốt làm cho những người tham gia phong trào sợ hãi. Lúc đó, đảng ủy văn hóa và thường vụ khu ủy, động viên, chăm sóc và giúp đỡ tôi về vật chất lẫn tinh thần, thông qua vợ tôi. Mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng.” (Trích từ Vũ Hạnh: Trui rèn trong lửa đỏ, trang 179).

Tên VC láu cá này là “VC chính cống”, thật sự nằm vùng, mà nhảy lên như đỉa phải vôi, khi bị Chu Tử vạch mặt là “VC nằm vùng”, rồi lại nói là “bị vu khống”. Bọn nằm vùng luôn luôn có phản ứng như thế!

2.4.2. Hai tờ báo có Việt Cộng nằm vùng

1. Tờ Đại Dân Tộc

Chủ nhiệm: Võ Long Triều
Tổng thư ký: Hồ Ngọc Nhuận
VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)

2. Tờ Điện Tín

Chủ bút Hồ Ngọc Nhuận 
Chủ nhiệm: cựu đại tá, cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông
Chủ bút: Hồ Ngọc Nhuận
2 VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)

2.4.3. Nói về tờ Tin Sáng

Báo Tin Sáng có 3 thời kỳ:

1. Tin Sáng cũ trước năm 1973
2. Tin Sáng lậu từ 1973 đến 1975
3. Tin Sáng bộ mới từ ngày 10-8-1975 đến 1-7-1981

Tin Sáng cũ trước 1973. Tòa soạn ở số 124 đường Lê Lai, Q1
 [quận 1], do nhóm dân biểu đối lập, thân cộng và VC nằm vùng như: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, có cán bộ VC nằm vùng nhưng giữ chức vụ khiêm tốn.

Trên tờ báo có 50 bài viết của LM Nguyễn Ngọc Lan, chửi Mỹ, chửi VNCH và chống chiến tranh. Tin Sáng là nơi kích động các cuộc biểu tình của nhóm SV/VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm. Tòa soạn bị đốt và có truyền đơn “Đồng bào quyết đập chết những tên VC nằm vùng Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận. Quần chúng rất phẫn nộ trước hành động đâm sau lưng chiến 
[sĩ] của dân biểu tay sai VC Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận”.

Tin Sáng sau 1975.

Trần Văn Giàu nhận xét: “Các anh làm báo CS hơn CS”. Alain Ruscio ghi lại trong cuốn Vivre au Vietnam như sau: “Không ai nói ngọt hơn Lý Chánh Trung được. Mặc dù trong thâm tâm họ biết là họ đang nói dối, đang đóng kịch. Nhưng điều quan trọng là lời nói đã phát ra thì không thu lại được”. Đó là những tiếng chửi rất nặng nề của trí thức đối với trí thức. Không biết bọn nằm vùng này có hiểu và cảm thấy nhục nhã hay không?

Ngô Công Đức cũng đã sáng mắt ra, trước khi chết cũng để lại chúc thư bộc bạch phân trần đôi điều, nhưng quá muộn. Nói chung, những tên VC nằm vùng đã mở mắt ra, và té ngửa hết, nhưng đã muộn cho một cuộc đời.

Tại sao Tin Sáng sống được 5 năm dưới chế độ cộng sản?

Thứ nhất, báo Tin Sáng nịnh bợ VC hơn báo VC.

Thứ hai, Võ Văn Kiệt nhận thấy người dân miền Nam còn căm thù VC. Từ đổi tiền, đuổi đi kinh tế mới, cải tạo thương nghiệp, xếp hàng mua gạo, ăn độn, chồng, con, cha mẹ của đa số bị tù cải tạo. Người dân chưa thấy cái “ưu việt” của XHCN như tuyên truyền. Trong khi đó, báo Sài Gòn GP thì còn non trẻ, chờ cho đến khi thành lập tờ Thanh Niên, nói theo giọng điệu o bế người dân, trình diễn màn lừa bịp, là “nói thẳng, nói thật”... vì thế Võ Văn Kiệt chưa khai tử báo Tin Sáng, để cho sống 5 năm trong tình trạng trái ngược, là mỗi khi số lượng phát hành gia tăng lên cao, thì ban biên tập lại hồi hộp chờ ngày giờ kết liễu cuộc đời nịnh bợ.

2.5. Trí thức thân cộng và bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”

Ở miền Trung thì nổi bật những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Trần Quang Vọng, Trần Hữu Lực, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trần Vàng Sao, Võ Quê...

Hoàng Phủ Ngọc Tường phải sống những ngày khổ nhục, oán hận, khi thấy người đồng chí trẻ của y là Bửu Chỉ đang ngủ với vợ của y là nữ đồng chí, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

Ở miền Nam, thì có Tôn Nữ Thị Ninh, LS Trần Ngọc Liễng, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành. Những LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, các thượng tọa Thích Trí Quang, Nhất Hạnh.

2.6. Thành phần thứ ba và Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói

Theo chỉ đạo của ta, một lực lượng chính trị mới ra đời, đó là ‘Thành phần thứ ba’ gồm trí thức, nhân sĩ, binh sĩ, dân biểu, báo chí, tu sĩ, công thương gia, cựu tướng lãnh, có khuynh hướng chống Thiệu, đòi hòa bình, nổi bật nhất là các nhân vật như LS Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành, KS Dương Văn Đại, DB Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Lý Chánh Trung, LM Phan Khắc Từ, Thích Pháp Lan, ni sư Huỳnh Liên và nhà báo Nam Đình”. Tướng Dương Văn Minh đại diện cho thành phần này ra đảm nhiệm chức Tổng thống.

Ni sư Huỳnh Liên, tịnh xá Ngọc Phương biểu tình chống chính quyền Sài Gòn năm 1973

Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói

Ra đời tháng 9 năm 1974 do Đại đức Thích Hiển Pháp làm Chủ tịch. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm làm Tổng Thư ký. Các nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Nga tích cực tham dự. Ni sư Huỳnh Liên, LM Phan Khắc Từ, các DB Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành...

Ta đưa một số cán bộ đứng tên vào mặt trận: Ngọc Trảng, Ba Thép, Xuân Thượng, với khẩu hiệu ‘Lá lành đùm lá rách’ ẩn chứa nội dung tố cáo chế độ. Hình thức biểu tình rất sáng tạo, biểu tình có ca hát ‘Dậy mà đi’. Biểu tình ‘xa luân chiến’, không lớn mà liên miên từ ngày này qua đêm khác, đêm này qua đêm nọ như bánh xe quay, làm cho cảnh sát ngụy mất ăn mất ngủ”. Phong trào thì công khai, nhưng ra báo thì bí mật. Công khai thì có Kiều Mộng Thu trong báo Đại Dân Tộc, ở tờ Điện tín thì có Lý Chánh Trung. Về phía bí mật, Cứu Đói in 10,000 bản phổ biến trong quần chúng.

Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói lập khối Dân Tộc Xã Hội ở Hạ Viện để đấu tranh nghị trường.

Tổ chức “báo nói”, “văn nghệ chạy”, “biểu tình ngồi”, “phát chẩn”.

Ni sư Huỳnh Liên sinh tại Mỹ Tho năm 1923, mất ngày 16-4-1987, tên thật là Nguyễn Thị Trừ, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng. Đại biểu QH Khóa VI. Phó Chủ tịch UB/MTTQ Sài Gòn, Ủy viên TW MTTQ/VN.

Bọn cứu đói cứng họng, cảm thấy ô nhục khi nhân dân kêu đói, khi đồng bào ăn bo bo, ăn độn mà chúng lặn mất, im thin thít của thái độ hèn nhát, lưu manh.

3. Dân biểu Việt Cộng nằm vùng và dân biểu thân cộng

Trên tờ Tuổi Trẻ trong nước, bài viết đề ngày 31-7-2012 với tựa đề “Dân tin người thật tâm, thật tài”, nói đến 2 dân biểu VNCH là những “chứng nhân lịch sử” của 37 năm về trước. Đó là dân biểu Nguyễn Văn Hàm từng giữ cương vị Phó Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn, sau ngày 30-4-1975, và dân biểu Đinh Văn Đệ, từng làm Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.

DB Nguyễn Văn Hàm

3.1. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm

Nguyễn Văn Hàm khoe thành tích như sau: “Ở Sài Gòn có những cuộc biểu tình mà tôi và những người khác đã tổ chức rất công phu như ‘phong trào cứu đói’, ‘ký giả đi ăn mày’. Cũng có những cuộc biểu tình tự phát, không cần ai tổ chức cả. Quần chúng qui tụ quanh chúng tôi, gọi là ‘lực lượng thứ ba’.”

Quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, Nguyễn Văn Hàm làm thơ, viết báo, giảng dạy triết học, văn chương. Tham gia Quốc Hội Hạ Viện khóa 2 (1971), là một dân biểu đối lập, thủ lĩnh phong trào quần chúng Phật giáo.”

Sau 1975, đương sự làm Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân, bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân. Hội đồng chả có quyền hạn gì cả, rồi hắn bị đá ra. Vợ và con vượt biên qua Úc. Có đứa con gái đang sống ở Minnesota, nhưng không nhìn cha.

3.2. Dân biểu Đinh Văn Đệ

Sau năm 1975, nhiều người “bức xúc” khi thấy cựu dân biểu Đinh Văn Đệ ra vào làm việc trong Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Sài Gòn. Võ văn Kiệt cho biết: “Hắn là người cộng sản mà không có đảng” (Il est Communist sans party)

Đinh Văn Đệ

3.2.1. Đinh Văn Đệ là lính VNCVH


Tờ báo viết: “Ông Đinh Văn Đệ bị động viên đi lính rồi trở thành trung tá Chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1954-1961). Làm Tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt (1963). Tỉnh trưởng Bình Thuận (1964-1967).

Năm 1967, ra ứng cử dân biểu Quốc hội. Giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện. Tổng thống Thiệu cử ông làm “trưởng phái đoàn” sang Mỹ xin viện trợ khẩn cấp. Kết quả chuyến đi, “ông Đệ được Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam tặng thưởng Huân Chương Chiến Công hạng nhất.”

Đinh Văn Đệ phát biểu: “Tôi được giáo dục từ nhỏ, mang sẵn trong lòng tình yêu nước thực sự, yêu con người thực sự, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chính thể. Bị động viên, tôi đành phải đi lính, và luôn luôn giữ cái tâm lành, trung thực, ngay thẳng. Bao nhiêu năm đeo lon, đeo súng, tôi không một lần sát sanh. Bây giờ xuất gia, theo đạo Cao Đài”.

Đinh Văn Đệ sinh năm 1924, mồ côi cha lúc 15 tuổi. Nhà nghèo, học hết Trung học đệ nhất cấp rồi ra đi dạy học, theo đạo Cao Đài.

3.2.2. Người có công xây dựng gián điệp U4

Năm 1969, danh sách điệp viên của tình báo chiến lược Việt Cộng có thêm một tên mới, Đinh Văn Đệ, bí số U4.

Người có công đầu, móc nối, tác động, xây dựng U4, là Đinh Văn Út, chú của Đinh Văn Đệ. Út có bí danh là Chín Mẫn, sinh năm 1919 tại Châu Đốc. Chín Mẫn thuộc phòng tình báo T4 của Thành Ủy Sài Gòn Gia Định, thuộc Trung Ương Cục miền Nam, còn gọi là Cục R, B2 và “Ông Cụ”. T4 do Mười Hương phụ trách.

Năm 1969, Đinh Văn Đệ cung cấp tài liệu kinh tế hậu chiến của VNCH, chính Đệ lấy xe riêng đưa người và tài liệu đến nơi an toàn. Cũng năm này, Đệ thỏa thuận và tiếp nhận toàn bộ qui ước liên lạc, mực mật, giấy viết mực mật, thuốc hiện mực mật, vật ngụy trang, mật khẩu giao liên... nói chung, Đinh Văn Đệ, Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện Quốc Hội VNCH, đã chính thức trở thành một gián điệp của Việt Cộng, mang bí số U4 trực thuộc phòng Tình báo mật danh J.22 của Cục R (còn gọi là B2). Em của Đinh Văn Đệ là Đinh Văn Huệ, trước làm chính trị viên tiểu đoàn giao thông vũ trang thuộc J.22

Đinh Văn Đệ

Đinh Văn Đệ kể những chiến công như sau:

1. Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh

Sau khi ta (VC) giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975, đồng chí Phạm Hùng muốn biết địch (VNCH) có ý định tái chiếm Phước Long hay không? Tôi được giao phó nhiệm vụ trả lời câu hỏi này.

Trước hết, tôi điện qua Phủ Thủ Tướng, mời Tổng trưởng Quốc Phòng ra điều trần trước Hạ Viện, tại sao thất thủ Phước Long? Trách nhiệm của ai?

Tại buổi điều trần, Tổng trưởng QP đổ mồ hôi hột, bối rối vì bị chất vấn sôi nổi, tới tấp. Tôi binh vực và đề nghị, mỗi lần điều trần như thế này vất vả lắm, vậy Bộ QP cấp cho tôi cái giấy được tự do ra vào các nơi liên hệ, để hỏi trực tiếp các cấp chỉ huy phần hành. Thế rồi, với tờ giấy trong tay, tôi đến Phòng Hành Quân, thì gặp ngay người quen biết cũ, là một chuẩn tướng, ông ta nói: 'Đại ca đừng lo. Ai lại dại gì kéo quân đi lấy lại nơi mà mình phòng thủ đã bị thất bại. Tôi sẽ trả thù bằng cách dội bom cho nát Lộc Ninh'.

Tôi báo cáo tin đó. Vài hôm sau, địch (VNCH) đã ném bom Lộc Ninh, nhưng quân ta tránh được thiệt hại
.”

2. Trung Ương Cục ở đâu?

Trung Ương Cục Miền Nam (TWCMN) hay Cục R, B2, “Ông Cụ”, là cơ quan đại diện cho Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, để chỉ đạo chiến trường miền Nam. Ban Anh ninh TWCMN do thiếu tướng Cao Đăng Chiếm phụ trách từ năm 74 đến 75.

Ban An Ninh T4 thuộc về Thành Ủy Sài Gòn Gia Định do Mười Hương phụ trách.

TWCMN hỏi tôi là địch (VNCH) có biết Cục R ở đâu không?

Tôi gọi điện qua Bộ QP/VNCH xin 3 chiếc trực thăng, cho tôi là Chủ tịch Ủy Ban QP/HV, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, nghị sĩ, Chủ tịch UB/QP Thượng Viện và cho Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng, mỗi người một chiếc trực thăng, thành lập một phái đoàn đi ủy lạo binh sĩ đang cố thủ tại Pleiku, Đà Nẵng và Bến Cát (SĐ5BB đóng ở Bình Dương). Đi đến đâu tôi cũng hỏi các cấp chỉ huy “Địch nó biết rõ vị trí của ta, vậy ta có biết Cục R ở đâu không? Tôi đúc kết các câu trả lời và báo cáo về Cục R.

3. Xin viện trợ để cắt viện trợ

Tôi tham gia phái đoàn sang Mỹ để xin viện trợ khẩn cấp, vì Thiệu ngoan cố, cố chống giữ. Phái đoàn chia nhau đi ‘vận động hành lang’ với các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ, làm thế nào để vận động xin viện trợ mà kết quả là bị cắt viện trợ. Khi sang Mỹ, mỗi dân biểu, nghị sĩ đều có nhân viên của tòa đại sứ đi kèm, nếu sơ hở là bị lộ ngay.

Với cái chiêu ‘nói vậy mà không phải vậy’, làm cho các đại biểu trong đoàn thấy tôi là người tận tâm, tha thiết nhất trong việc xin viện trợ để cứu chế độ Sài Gòn.

Với mục đích làm cho Mỹ nản chí và bỏ cuộc, tôi đưa ra hình ảnh của người lính VNCH không còn muốn chiến đấu, đã bỏ chạy bằng cách níu càng trực thăng, trốn ra khỏi chiến trường, thì người Mỹ hiểu ngay là họ phải làm gì.

Khi tiếp phái đoàn, Tổng thống G. Ford cho biết: ‘Thôi các bạn cứ yên tâm ra về, tôi sẽ cử một viên tướng qua thị sát tình hình rồi sẽ có quyết định sau’. Nghe vậy, tôi hiểu là Mỹ đã bỏ cuộc
”.

Theo chỉ thị của trên, Đinh Văn Đệ đã đưa một gián điệp mang bí danh “Số 6” vừa tốt nghiệp cao học nước ngoài vào làm việc trong Ủy Ban QP của Hạ Viện QH/VNCH.

Đinh Văn Đệ qua cái nhìn họa sĩ Ớt vào thời điểm trước năm 1975

Năm 1972, tình báo Hà Nội đã nhận đầy đủ chi tiết về hệ thống tổ chức, về quân số ở các quân khu, về ngân khoản QP/VNCH, thậm chí còn nhận những khoản viện trợ không công khai cho VNCH, ẩn dưới chương trình PL (Program Law), thương mại hóa, tức không viện trợ bằng tiền, mà bằng hàng hóa, để VNCH bán lấy tiền dùng cho quân sự.

Sau khi 2 giao liên Ngô Viết Triều và Nguyễn Thị Thành bị bắt, cuối năm 1971, Đinh Văn Đệ được chuyển sang hoạt động đơn tuyến, nhận lịnh trực tiếp của Cục R thông qua một nữ tình báo giao liên.

Đinh Văn Đệ hiện sống ở Sài Gòn vẫn khỏe mạnh và nổi tiếng là một Thiên Vương Tinh đức cao trọng vọng của đạo Cao Đài.

Có một điều Đinh Văn Đệ dấu đầu lòi đuôi là “tôi luôn luôn có cái tâm lành, trung thực và ngay thẳng”. Một tên gián điệp phản quốc, sống dối trá, hành động phản bội mà còn cái gì gọi là tâm lành, trung thực, ngay thẳng cho được?

4. Sinh viên nằm vùng

4.1. Danh sách 16 sinh viên bị chính quyền VNCH bắt giữ
:

Huỳnh Tấn Mẫm,
Dương Văn Đầy,
Lê Thành Yến,
Phùng Hữu Trân,
Trần Khiêm,
Đỗ Hữu Ứng,
Lê Anh,
Võ Ba,
Đỗ Hữu Bút,
Hồ Nghĩa,
Cao Thị Quế Hương,
Trương Hồng Liên,
Trương Thị Kim Liên,
Võ Thị Tố Nga.

4.2. Danh sách sinh viên thoát ly ra căn cứ Bắc Lộ 7, Campuchia:

Phan Công Trình,
Nguyễn Đình Mai,
Tôn Thất Lập,
Trần Long Ân,
Nguyễn Văn Sanh,
Lê Thành Yến,
Trương Quốc Khánh,
Huỳnh Ngọc Hải,
Huỳnh Quang Thư,
Dương Văn Đầy,
Trần Ngọc Hảo,
Hai Nam,
Năm Sao,
Trần Thị Ngọc Dung,
Hà Văn Hùng,
Trương Quốc Khoách.

4.3. Sinh viên Việt Cộng nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm

4.3.1. Huỳnh Tấn Mẫm


Huỳnh Tấn Mẫm tên thật là Trần Văn Thật, sinh năm 1943 tại Sài Gòn. Trước 1975 là một đảng viên cộng sản nằm vùng, hoạt động công khai ở Sài Gòn. Sau 1975, học tiếp y khoa, ra bác sĩ. Sang học Liên Xô về Triết học Mác Lênin. Trở về VN được cử làm Tổng Biên Tập báo Thanh Niên. Là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc và hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên.

Với những chức vụ như thế, Huỳnh Tấn Mẫm (HTM) trở thành một cán bộ thuộc hàng cao cấp, có tiếng tăm của Sài Gòn.

Huỳnh Tấn Mẫm

4.3.2. Huỳnh Tấn Mẫm mở mắt nhưng quá trễ

Con đường hoạn lộ của HTM bị nhiều trắc trở, vì thực tế sau 1975 cho thấy, cái quan điểm tự do dân chủ kiểu “tư sản” của miền Nam không còn được áp dụng trong chế độ chuyên chế XHCN. Ngoài HTM ra, các sinh viên VC khác cũng đều vỡ mộng, cho nên đã thể hiện những hành động bị cho là “chệch hướng”, không được lòng đảng vì khác đường lối, nên bị hạ tầng công tác, loại trừ.

Đã vậy, vợ của cán bộ cao cấp lại làm chủ hụi và giựt hụi. Vợ ra tòa lãnh án đã đành, Huỳnh Tấn Mẫm còn bị kêu ra tòa làm chứng chống lại vợ, nên mất uy tín.

Thế là một cuộc đảo chánh trong nội bộ, đã khai trừ HTM ra khỏi tờ báo Thanh Niên năm 1990. Được chuyển về Hội Hồng Thập Tự, làm bác sĩ phụ trách phòng mạch miễn phí, thế là hết cơ hội chấm mút, thu hoạch như các đồng chí khác trên đường hữu sản hóa cán bộ trong thời đổi mới, mở cửa.

Mở phòng mạch ngoài giờ, chuyên chăm sóc da mặt, nặn mụn cho phụ nữ, nhưng chẳng có ai chiếu cố tới, vì bác sĩ cách mạng, có một thời không được bịnh nhân tin tưởng bằng “bác sĩ ngụy”. Riêng cá nhân HTM, trước kia chỉ lo biểu tình, đấu tranh, chạy trốn và ở tù, thì còn ngày giờ đâu mà học với hành. Hơn nữa, đảng cần “hồng” hơn “chuyên”, chỉ cần có quan điểm lập trường 101% cộng sản là một bác sĩ tốt rồi. Phòng mạch ế. Bị gán là bác sĩ chính trị, mà thứ chính trị của CNCS đã bị ném vào sọt rác từ lâu rồi. Người ta nhận xét: “bác sĩ nửa vời, chính trị nửa vời, cuộc đời cũng nửa vời, gia đình tan nát, sự nghiệp tiêu tan. Hình ảnh ‘anh hùng’ vang bóng một thời, làm rung chuyển chế độ miền Nam đã chấm dứt trong cay đắng, chán chường, tiêu cực, mệt mỏi”.

Kể ra ông trời cũng có con mắt.

5. Thành Đoàn cộng sản Sài Gòn Gia Định lộng hành

Thành Đoàn là tên gọi tắt của Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh đang hoạt động trong nội thành Sài Gòn.

5.1. Thành Đoàn cộng sản giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật

Ngày 28-6-1971, Biệt Động Thành bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại hành lang trường Luật Sài Gòn.

Ban ám sát Thành Đoàn cử 2 tên tới Đại Học Luật Khoa, số 4 đường Duy Tân, nhận là người nhà muốn gặp Lê Khắc Sinh Nhật có việc cần. Lúc đó, sắp tới mùa thi cuối năm, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thức thi cử tại một giảng đường. Nhật vừa ra tới hành lang, thì một tên móc súng bắn liền 3 phát vào ngực. Hắn phóng lên một chiếc Honda nổ máy chờ sẵn. Hắn ném lại một quả lựu đạn nhưng may mắn, lựu đạn không nổ. Cảnh sát gác bên ngoài bắn 3 phát chỉ thiên. Nhạc sĩ Vũ Thành An sáng tác một bài hát tưởng niệm Lê Khắc Sinh Nhật.

Lý do giết SV Lê Khắc Sinh Nhật

Thành Đoàn CS giết SV Lê Khắc Sinh Nhật (LKSN) vì 2 lý do:

Một là răn đe các sinh viên thuần túy, có tinh thần quốc gia

Hai là để trả mối hận bị đánh bại trong 2 cuộc bầu cử, mà Liên danh của LKSN đã thắng Liên danh SV Việt Cộng Trịnh Đình Ban, trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện SV trường Luật niên khóa 1970-1971. Và đã thắng Liên danh SV/VC trong tay Thành Đoàn trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, tại Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 20-6-1971. Trong cuộc bầu cử này, khi thấy kết quả nghiêng về phía Liên danh LKSN do SV Lý Bửu Lâm đứng đầu, thì bọn SV/VC giở ngay bản chất côn đồ, nhảy lên bục “đá thùng phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử và ấu đả, hỗn chiến xảy ra” (Trích trong “Trui rèn trong lửa đỏ” trang 21 của thiếu tướng Trần Bạch Đằng)

Bị thất bại trong cuộc bầu cử, Thành Đoàn CS cay cú, đưa ra 2 quyết định:

Một là, sát hại SV Lê Khắc Sinh Nhật

Hai là, chỉ thị cho SV Huỳnh Tấn Mẫm, tập họp một số SV tại Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử, số 294 Công Lý, vào ngày 28-7-1971 để bầu ra một tổ chức ma, chưa bao giờ có, đó là “Tổng Hội Sinh Viên VN” do Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch. Tổ chức này không đại diện cho ai cả, ngoài đám SV/VC và một số ít bị lừa.

Quyết định hạ sát SV Lê Khắc Sinh Nhật là một hành động tội ác của Thành Đoàn CS/SG.

5.2. Thành đoàn CS/SG giết GS Nguyễn Văn Bông

Ngày 10-11-1971, SV/VC Vũ Quang Hùng (bí danh Ba Diệp, năm thứ 3 Khoa học) và tên Lê Văn Châu, dùng chất nổ ám sát GS Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Quốc Gia Hành Chánh, tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản. Hai tên Hùng và Châu thuộc Trinh sát võ trang bí số S1, hoạt động nội thành SG-GĐ, thuộc Ban An ninh T4 của Thành Ủy SG-GĐ (trong mật khu). Cả hai bị bắt, đày đi Côn Đảo.

Sau ngày 30-4-1975, Vũ Quang Hùng viết: “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng” và rất hãnh diện về thành tích đó. Tên Hùng giải thích lý do giết GS Nguyễn Văn Bông như sau: “Tin tình báo cho biết, GS Nguyễn Văn Bông sẽ làm thủ tướng vì chính quyền ngụy muốn chuyển từ quân sự sang dân sự. GS Bông là một trí thức rất có uy tín mà lên làm Thủ tướng, thì cách mạng sẽ khó khăn hơn. Để giữ bí mật, tôi đặt tên mục tiêu phải giết với bí số G.33”.

Đến tháng 4 năm 2000, trong lễ kỷ niện 25 năm ngày “chiến thắng 30 tháng 4”, nhà báo chuyên về tình báo Nam Thi của báo Thanh Niên, cũng kể lại “thành tích” này, trong đó có sự trợ giúp đắc lực của SV kiến trúc Nguyễn Hữu Thái, người đã theo tướng Dương Văn Minh đến đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng trong ngày 30-4-1975. Chính SV Nguyễn Hữu Thái làm “xướng ngôn viên bất đắt dĩ”, đã giới thiệu tướng DVM đọc tuyên bố. Sau đó, Nguyễn Hữu Thái xuất cảnh sang Canada theo diện đoàn tụ gia đình.

Phu nhân của GS Bông có lẽ đã biết tên tòng phạm này.

Trong phỏng vấn của đài RFA, ký giả Mạc Lâm ghi lại như sau: “Đã hơn 40 năm, những nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie Bông, phu nhân của cố giáo sư lừng danh Nguyễn Văn Bông, bị tên SV Vũ Quang Hùng ám sát, tuy không bao giờ quên nổi biến cố bi thương, bỗng ập xuống cuộc đời bà và các con nhỏ dại của bà năm xưa. Nhưng bà đã lấy tâm Phật mà ‘cầu nguyện cho ông ấy’ (tức tên Vũ Quang Hùng, kẻ đã giết chồng bà) và mong nhà cầm quyền Hà Nội ‘mở mắt ra’, ‘mở tấm lòng ra’”. (RFA ngày 5-5-2011)

Ngoài việc ám sát GS Nguyễn Văn Bông, Thành Đoàn còn ném lựu đạn M-26 vào xe của BS Lê Minh Trí, Tổng trưởng GD&TN ngày 6-1-1969. Hai tháng sau, đến lượt BS Trần Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, bị bắn chết trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại học xá Minh Mạng, ngang nhà thờ Ngã Sáu, Chợ Lớn. BS Trần Anh đang đi bộ từ Bộ Y Tế trên đường về nhà ở bên cạnh Đại học xá Minh Mạng.

6. Phan Nhật Nam tố cáo Việt Cộng nằm Vùng

6.1. Thiếu tá “VC Killer” Thái Quang Chức

Trong bài viết tựa đề “Những tên Việt Cộng nằm vùng”, một thiếu tá Hải quân có danh hiệu là “VC Killer” mang tên Thái Quang Chức, em của tướng Thái Quang Hoàng.

Năm 1957, thanh niên Thái Quang Chức lội qua sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, về làm việc tại Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng 4, Sông Ngòi, Mỹ Tho.

Năm 1970, mang lon thiếu tá, nổi tiếng là “VC Killer”, vì sau cuộc hành quân, xác VC được kéo chạy trên sông để biểu dương ý chí chống Cộng.

Trong những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, tướng Thái Quang Hoàng cho người em xuống Mỹ Tho gọi Chức về để cùng gia đình di tản, đương sự quyết định ở lại để góp phần xây dựng quê hương.

Trình diện học tập cải tạo, Chức được đưa đến trại Hoàng Liên Sơn. Hai năm sau, năm 1977, một người mặc thường phục đến bộ chỉ huy đoàn 776, đưa thiếu tá “VC Killer” ra khỏi trại, về làm nhiệm vụ mới.

6.2. Trung úy Trần Trung Phương, tiểu đoàn 3 Nhảy dù, VC nằm vùng

Do được giới thiệu, tác giả đến một đường dây chạy giấy xuất cảnh. Đến một cơ sở không có bảng hiệu, nhân viên thường phục tiếp đón với thái độ “chúng tôi đã biết rõ tất cả”, “chào anh Nam, anh có mạnh không?”. Anh ta nói: “Tôi biết anh nhiều lắm”, rồi mở tủ hồ sơ lấy ra cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn Dù cấp, có ký tên đóng dấu của trung tá Trần Văn Vinh.

Anh ta tự giới thiệu: “Trung úy Trần Trung Phương, gốc Đại Đội 33, tiểu đoàn 3 Dù, đơn vị cuối cùng là Biệt Đội Quân Báo Điện Tử Sư đoàn. Là nhân viên Đặc vụ Sở Phản Gián Bộ Nội Vụ (cộng sản).

Điều kiện đưa ra, tôi có thể làm hồ sơ cho anh ra khỏi VN tối đa là 8 tháng. Gia đình anh tại Mỹ phải trả cho người của chúng bên đó 2,000 đô-la, và kèm theo một số điều kiện...

Lẽ tất nhiên, tôi không chấp nhận điều kiện của Phương, từ 2,000 đô-la đến ‘những điều kiện khác...’”.

Sau đó, năm 1993, để giúp một người quen cần phải xuất cảnh để giải quyết những khó khăn, tôi tìm đến Trần Trung Phương ở một địa chỉ mới, là một văn phòng ở khách sạn đường Nguyễn Văn Trỗi, nhân viên văn phòng cho biết, ông Phương đang ở Hoa Kỳ, vùng Westminster, Cali.

Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Hạ Lào, những bãi đáp đổ quân, những vị trí tấn công, tọa độ dội bom B-52 của SĐ Dù, đã bị quân báo VC giải mã từ cơ quan đầu mối, tối cao, là Biệt Đội Điện Tử và Phòng Hành Quân SĐ.

Ngày 30-4-1975, viên hạ sĩ quan ở đơn vị đó mà tôi biết, đã dẫn trung tá Nguyễn Văn Tư, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh SĐ Dù, qua Camp Davis để giao nộp hồ sơ trận địa của đơn vị mà hạ sĩ quan này đã lưu giữ từ hơn 10 năm trước đó. Phan Nhật Nam: “Tôi có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại, điển hình như Trần Trung Phương, Thái Quang Chức, những hạ sĩ quan và những công an VC, đã đi theo diện ghép với những gia đình HO và ODP hiện tràn lan khắp các cộng đồng người Việt hải ngoại”.

Ngoài những tên VC nằm vùng mà ông Phan Nhật Nam nêu trên, còn có 1 tên vô cùng lợi hại, đó là một thượng sĩ.

Giữa tháng 4, 1975, Bộ Chính Trị nêu vấn đề, nếu chúng ta đánh lớn, liệu Mỹ có nhảy vào cứu nguy hay không?

Giải đáp câu hỏi này là công lao của đồng chí Nguyễn Văn Minh, là thượng sĩ giữ hồ sơ tuyệt mật của Cao Văn Viên. Lúc đó, thư của TT/HK gởi cho Thiệu: ‘Cuộc chiến tranh VN coi như đã chấm dứt đối với Mỹ, chi viện 700 triệu đô-la, còn mọi việc khác thì tùy theo quý ngài định liệu’. Bản sao bức thư được gởi cho Cao Văn Viên. Đồng chí Minh lập tức chép lại, gởi ra bộ chỉ huy miền. Nhờ tài liệu này mà BCT nắm được điểm yếu của địch, nên nêu phương châm tấn công ‘Thần tốc - Táo bạo - Chắc thắng
’.”

7. “Những bí ẩn của báo Người Việt

Đó là cái tựa của bài viết trên tờ SGN ngày 28-7-2012.

Căn cứ vào 2 trang web Tân Đại Dương và trang tài liệu 401k-plans, để xác định “Nguoi Viet Daily News không phải là một công ty, ‘Corporation Nguoi Viet Inc.’ như đã công bố trên báo chí. Tác giả bài viết đặt câu hỏi: ‘Ai là chủ thực sự của báo Người Việt?’”

Đây là một câu hỏi cần được phải trả lời để đánh tan những nghi ngờ gần như xác định về báo Người Việt, đang sôi nổi trong những ngày gần đây. Đương nhiên là báo NV có quyền không trả lời, tuy nhiên, nếu không trả lời rõ ràng và hợp lý thì dễ biến sự nghi ngờ trở thành xác định.

Hôm nọ, xem ông Ngô Kỷ liệt kê “thành tích” của báo Người Việt trên You Tube, thì quả thật, báo Người Việt rất đúng, chẳng sai tí nào đối với những tố cáo của các đoàn thể vừa qua. Hết phương chối cãi. Những lời lẽ binh vực xem như ngụy biện, không thuyết phục.

8. Kết

Đem tình trạng “Việt Cộng nằm vùng ở miền Nam trước năm 1975”, đặt vào tình trạng của phong trào đấu tranh cho một nước VN tự do, dân chủ, nhân quyền hiện tại, thì mới thấy rõ bài bản, âm mưu và kỹ thuật đánh phá của VC trong nước. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng có bọn lưu manh nằm vùng cả. Bản chất của bọn nằm vùng là gian manh, xảo trá và phản bội, tội ác của bọn chúng là đã góp phần đưa dân tộc VN vào chế độ độc tài cộng sản hiện nay. 

Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ, đừng có tưởng chết là hết.
Trúc Giang

TÊN DIỆP VIÊN CS TẠI BỘ TTM VNCH.

Tên điệp viên CS tại bộ Tổng Tham Mưu VNCH vừa đi theo Bác về bên kia thế giới




03.10.2009 19:29
- Sau một thời gian lâm trọng bệnh, "Người giữ khóa bí mật ở Bộ tổng tham mưu VNCH" đã ra đi tho Bác vĩnh vịễn vào cuối tháng 9/2009. Những người biết đến hắn đều không khỏi sừng sờ khi nghe tin dữ...Kẻ đã đóng góp làm sập đổ VNCH năm 75. Sau đây là tài liệu tình báo trích từ báo CSVN:

.Tại Đại sứ quán Mỹ…


9 giờ sáng, khi tiếng xích xe tăng của quân CSBV kéo sầm sầm trên đường phố Sài Gòn thì cũng là lúc chiếc máy bay di tản cuối cùng ngừng gầm rú ngay trên nóc toà đại sứ quán.



Cuộc tháo chạy tán loạn bằng trực thăng khi quân giải phóng đang tiến vào Sài Gòn ngày 30/4/1975.
Trước làn sóng quân CSBV đang tràn ngập đô thành, những người Mỹ còn lại trên mảnh đất này cũng rơi vào tình trạng hoảng loạn. Kenneth Moorefield – nguyên sĩ quan bộ binh - đã đẩy Graham Martin, vị đại sứ Mỹ vẫn còn đang trong cơn chấn động bàng hoàng, ra khỏi một trong những chiếc trực thăng cuối cùng để tự mình leo lên đó.
Cái nhìn của Moorefield về Sài Gòn giờ phút cuối thật kinh hoàng: “Hàng trăm người Việt Nam đổ ào lên những bức tường, cướp bóc kho hàng, phòng ốc, quầy bar. Một số người khác thì lái xe của sứ quán chạy lòng vòng như những kẻ điên khùng. Ở bên kia bức tường, cả đám đông người hát vang lời ca chống Mỹ, chào mừng chiến thắng đang tới gần của những người cộng sản...

Từ trên cao, tôi có thể nhìn thấy văn phòng của tuỳ viên quân sự Mỹ - DAO - ở Tân Sơn Nhứt - bốc cháy. Cả thành phố im lìm một cách đáng sợ. Chỉ toàn một màu đen đặc. Không động tĩnh, không đèn điện, không một cảm giác nào về những gì đang đến”.

Trong giờ phút nguy cấp ấy, có bao nhiêu người rời khỏi Việt Nam mà không một lần giật mình hỏi: “Điều tồi tệ có thể đến là gì? Liệu Mỹ sẽ trở lại không, trên xứ sở nắng ấm tươi đẹp này?”

Tại Bộ Tổng tham mưu của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà (BTTM)…

41 binh sĩ đặc công biệt động Z28 (đoàn 316 đặc công) chia làm 2 mũi tiếp cận với cổng số 1 và cổng số 3. Mũi chủ công do Bảy Vĩnh (tên thật là Lê Văn Vĩnh - sẽ đề cập trong phần sau), mũi bảo đảm do Ba Đen phụ trách. Nhiệm vụ: Đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu - đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà – và chờ đại quân tiến vào.



Hình ảnh xe tăng quân CS húc đổ cổng dinh Độc Lập,
6 giờ sáng, mũi do Ba Đen chỉ huy giả lính Cộng hoà, thâm nhập cổng số 1, đánh cầm chân lực lượng dù và thiết đoàn xe tăng VNCH, ngăn chặn việc chi viện cho BTTM. 2 lính BV hy sinh tại chỗ.
7 giờ sáng. Mũi do Bảy Vĩnh chỉ huy lợi dụng lực lượng bảo vệ cổng số 3 sơ hở, sử dụng 3 xe bọc thép M113 lấy được của VNCH áp sát, khống chế rồi vượt qua cổng gác, chạy thẳng vào trung tâm BTTM. Toàn bộ lực lượng VNCH giơ tay xin hàng.

9 giờ 40’, cờ VC treo cao trên cột cờ BTTM VNCH. Việc đánh chiếm BTTM từ cổng số 3 không tốn một viên đạn.

11 giờ 45’, từ một góc quan sát trong căn phòng bé tí chứa hồ sơ tại BTTM, một người đàn ông ngoài 40 tuổi cao lênh khênh, gầy mảnh khảnh vẫn lặng yên chờ. Hắn không chạy di tản như những chiến hữu khác, song cũng chẳng bỏ văn phòng thư ký của mình để tìm chỗ an thân.

Trước đó, lúc 6 giờ sáng cùng ngày, chính mắt hắn chứng kiến hình ảnh một đại tá Pháp tới báo tin cho 1 trung tá làm việc tại văn phòng Cao Văn Viên. Chỉ sau vài phút ngắn ngủi, viên trung tá cởi phăng quân phục ra, lấy súng ống quẳng vào cốp xe và chạy đi.

Một tiếng sau, Nguyễn Cao Kỳ bay trực thăng tới, vội vã đi bộ vào toà nhà chính chừng 5 - 10 phút, sau đó ra đứng chờ. Chờ một lúc thì chiếc trực thăng thứ 2 đến. Nguyễn Cao Kỳ khiêng 1 va li con cho lên máy bay. Hắn còn nhớ trước khi leo lên trực thăng bỏ chạy, Nguyễn Cao Kỳ còn không quên ngoái lại trụ sở BTTM với ánh nhìn đầy tiếc nuối.

“Anh lính quèn” và mệnh lệnh cuối cùng của thời chiến

… Sau giờ khắc mà hai miền nối lại, ngay tại chính trụ sở của Bộ Tổng tham mưu, có hai nhà tình báo của cộng sản... chạm trán nhau. Một người là sĩ quan chỉ huy cánh quân biệt động - đại tá anh hùng Bảy Vĩnh, còn người kia là anh thượng sĩ nhứt “quèn” mang bí số H3.



Người bí mật ở Bộ Tổng tham mưu VNCH đã cung cấp hàng loạt tin tình báo chiến lược, mà đến năm 2006, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Hắn là ai?
Lúc đụng nhau, lính cộng sản vẫn không quên dặn lại "tên địch" mà sau này họ mới hay là đồng chí của mình, rằng: “Ông ở đây coi khu vực này nghen”.
Lời dặn chỉ bấy nhiêu, nhưng người đàn ông đó đã ở lại cho tới 3 giờ chiều, khi mọi việc bàn giao xong xuôi. Hệ thống máy tính lưu trữ hồ sơ của hơn 1 triệu quân VNCH cùng toàn bộ giấy tờ tại văn phòng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên được niêm phong không mất một tờ nào.

Người đàn ông cao hơn 1m70 mà nặng chỉ ngoài 40 kg đó thậm chí còn tự đi kiếm giùm mấy tên CSBV lá cờ khác để thay, rồi lại trực tiếp trao chìa khoá, dẫn quân CS tiếp quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà.

32 năm sau, trong 1 gian nhà nhỏ giữa Sài Gòn cũng vào cuối tháng 4, đại tá VC Bảy Vĩnh nhớ lại khoảnh khắc đó: "Khi tôi và anh em xông vào thì thấy 2 nhân viên văn phòng ngồi chờ. Các ngăn tủ đã được khoá kín. Tôi hỏi đường lên nóc BTTM thì một người đàn ông cao, gầy chỉ đường...".

Mãi về sau, người hỏi lối kẻ chỉ đường mới có dịp gặp nhau trong một tình huống hoàn toàn ngược lại: Cuộc gặp mặt những anh em đồng đội của Phòng tình báo chiến lược (J22) - Bộ tham mưu quân giải phóng miền Nam. Chính Bảy Vĩnh - sĩ quan chỉ huy quân biệt động khi ấy, Cụm trưởng Cụm tình báo H67 (đơn vị anh hùng) – đã nhận ra ngay người đàn ông “phe địch” mà mình gặp khi đánh chiếm BTTM.

Cả 2 người, giờ đã vào tuổi "thất thập cổ lai hy", đều cùng nghỉ ngơi với quân hàm Đại tá, "Anh hùng lực lượng vũ trang ngành tình báo quân đội Nhân dân Việt Nam", cùng sinh sống ngay tại chính thành phố mà họ đã chiến đấu.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm, (bí danh Sáu Trí, nguyên Trưởng phòng J22) sau này còn xác nhận thêm một chi tiết thú vị nữa: "Khi tiến vào trung tâm, đồng chí Bảy Vĩnh đã gặp nội tuyến của ta, chuẩn uý văn phòng BTTM. Nội tuyến này còn động viên sỹ quan binh lính địch ra hàng".

Nhân vật nội tuyến, người đàn ông cao gầy, thượng sỹ nhất ở văn phòng BTTM... cứ được nhắc hoài đó chính là H3, người mà rất nhiều năm sau này, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Hắn là ai?


Kỳ 3: Tìm đôi mắt cộng sản cho anh lính cộng hoà

Cập nhật lúc 08:55, Thứ Tư, 02/05/2007 (GMT+7)
,
(VietNamNet) - Có lẽ đến giờ, những người cùng làm việc với H3 tại văn phòng Tổng tham mưu trưởng, BTTM của Quân đội Việt Nam Cộng hoà, dù giàu sức tưởng tượng bao nhiêu cũng khó có thể tin rằng viên hạ sỹ cao lòng khòng, "ốm đói như sót lại từ năm 1945" (lời chính H3 miêu tả về mình lúc bấy giờ), chuyên nghiên cứu số đề, đánh bạc như con nghiện thực thụ, lại có thể là "con cá bự" của tình báo Việt Cộng.

Kẻ chơi đề, gây lộn trong cuộc chiến im chìm

Ẩn trong vóc dáng gầy ốm với đôi tai to như thể mọi sự ồn ã bên ngoài đều lọt thấu, Nguyễn Văn Minh (Ba Minh) lẳng lặng đến công sở hằng ngày, ít nói và vô cùng thận trọng, bởi với ông, “lúc nào mình chẳng như cá nằm trên thớt”.



Cờ giải phóng tung bay tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, ngày 30/4/1975. H.3 lặng lẽ rời BTTM lúc 3h chiều cùng ngày, sau khi hoàn thành nốt công việc cuối cùng: Bảo quản và bàn giao lại toàn bộ hồ sơ, giấy tờ đã được niêm phong cho quân giải phóng. Ảnh: chụp lại tư liệu tại Dinh Thống Nhất.

Hơn 10 năm làm thư ký đánh máy tại BTTM là hơn 10 năm Ba Minh sống trong hang hùm. Người bao bọc và giúp đỡ cho ông không ai khác chính là gia đình và những người đồng chí. Tuy nhiên, trước khi được dốc trọn sức mình cống hiến trong sự che chở vẹn toàn, Ba Minh đã phải trải qua những cuộc chiến im lìm đến khốc liệt.

10 đứa con nheo nhóc, 10 năm làm việc không màng gì thăng tiến, viên thượng sĩ nhứt hay đau yếu liên miên ấy, lạ thay, lại có cách làm việc rất chuyên nghiệp. “Chẳng xía vô chuyện của ai bao giờ”, Ba Minh trở thành một trong những viên thư ký được các đời Tổng tham mưu trưởng (trải từ thời tướng Nguyễn Hữu Có cho tới tướng Cao Văn Viên) đặc biệt tin cậy.

Ông biết cách sắp xếp tài liệu rất gọn gàng, có khi chỉ 2 phút sau khi tướng Viên yêu cầu là đã tìm xong. Ông còn là người được Cao Văn Viên tin tưởng, nhờ tìm mua những cuốn kinh Phật trong giai đoạn cuối của cuộc chiến ở Việt Nam. Ông là thượng sĩ duy nhất được vào phòng Tổng tham mưu trưởng mà không cần xin phép trước. Thậm chí, có những tài liệu mật mà chỉ 5 người được phép biết, trong đó, 4 người kia đều phải hàng chóp bu. Có mỗi ông thì lúc nào cũng lờ đờ là một anh thượng sĩ.

Nhưng làm lính tráng quèn của BTTM mà chỉn chu, nghiêm túc quá thì cũng kỳ. Như ai, Ba Minh cũng đôi lần quậy dữ. Nguyên tắc chỉ cực kỳ kỷ luật khi làm việc, còn ngoài ra, ông “hay mang cuốn nghiên cứu số đề trong người để nguỵ trang. Nguỵ thế thôi, chứ chơi đề là thật”. Ông cười sảng khoái khi ngẫm lại thời “chúa đề” của mình và lý giải.

“Tôi sống tự nhiên để có thể đóng góp những cái quý nhất cho cách mạng. Khi liên lạc bị đứt, tôi cũng sống làm việc bình thường thôi. Trong cơ quan, có người cũng chơi thân nhưng tôi không hỏi han gì để gây nghi vấn cả. Nghĩa là tôi vẫn giữ được bình phong tối đa của một người rất bình thường. Thậm chí tôi cũng gây lộn, đánh bạc... như tất cả người khác trong BTTM. Có dạo đánh bạc cũng dữ. Binh xập xám, tổ tôm... oánh tất. Một ông thiếu tá tuỳ viên, cận vệ của ông tướng phó trưởng liên quân, tương đương tổng tham mưu phó, cũng hay qua phòng tôi chơi bài”.

Sau này, chính bí quyết nguỵ trang số đề ấy đã giúp cho H3 giữ được an toàn tuyệt đối trong giai đoạn phải truyền tin tức dồn dập ra ngoài hồi cuối năm 1974. Thậm chí, cái vỏ "đề đóm" còn khiến ông “đến khi giải phóng lại thu được tiền lời bằng 8 tháng tiền lương”.

Đi tìm người trừng mắt

Sinh năm 1933, Ba Minh nói rằng, cuộc đời ông sống vội lên trong nghèo khó. Cha là người Hưng Yên, má là người Nhị Khê, ông rất tự hào: “Tôi cùng quê với Nguyễn Trãi đó!”. Thuở dắt dìu nhau vào Nam, ba má ông sinh được 6 người con: 5 trai 1 gái. Anh cả sinh năm 1929, ông là con thứ hai, đặt tên là Nguyễn Văn Minh, thường gọi Ba Minh theo cách của người Nam bộ.

Ba Minh kể rằng, ông lớn lên ít học (chỉ hết tiểu học, sau này mới học thêm), vì gia đình quá khổ. Đã có thời tính vô căn cứ, nhưng gia cảnh ngặt nghèo, 18 tuổi đã phải thay cha nuôi em, sức khoẻ lại yếu, nên ông nghĩ có vô rừng cũng bị đuổi về trông em mà thôi.

Tuy nhiên, dòng máu cách mạng thì đã ngấm vào máu ông từ nhỏ. “Ba của tôi cũng không được học hành gì, viết chữ sai chính tả tùm lum, nhưng rất khoái nói chuyện chính trị. Ông là người Bắc, cứ uống 1-2 chén rượu vô thì ngồi nói chuyện cách mạng suốt ngày. Ông nói về Phan Chu Trinh, về Phan Bội Châu, về lòng yêu nước, tôi nghe riết rồi nhập tâm".

Bên cạnh đó, Ba Minh còn có một người chú ruột - người khiến Ba Minh nhớ ơn rất nhiều, bởi đó không chỉ là người thầy dạy nghề đầu tiên mà còn là người hướng dẫn cách mạng cho ông nữa.

Cha, chú, anh trai, rồi sau này là em trai, em gái của Ba Minh đều đồng lòng đi theo cách mạng, dẫu cho bức tường mà họ tựa vào có thể rất khác nhau.

18 tuổi, Ba Minh kiếm sống, nuôi em bằng nghề thợ giày và tham gia vào nghiệp đoàn thợ giày. 20 tuổi, chàng thanh niên ưa hoạt động phong trào này được đưa ra Đồng Tháp Mười, giữa chốn đồng không mông quạnh, để học chính trị, học về nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Khi trở về khu phố, những chàng trai trẻ như Ba Minh cứ đều đặn sinh hoạt tổ mỗi tuần 1 lần, tổ chức đi căng biểu ngữ đấu tranh chống Diệm phá hoại Hiệp định Geneve, bày mưu giả đụng xe để cản đường, thu hút người xem và tuyên truyền cách mạng.

Thời kỳ 1954-1955, Ba Minh tham gia biểu tình công khai trên đường phố Sài Gòn. Hàng ngàn người đổ ra kín đường phố chính, mặc cho cảnh sát dùng xe jeep dàn hàng ngang càn tới, đánh lựu đạn hơi cay, cán cho đồng bào bể xương cũng mặc.

Năm 1955, Diệm bắt đầu tăng cường khủng bố. Ba Minh không bị bắt, nhưng tổ chức của Ba Minh và Trần Minh Đạm ở huyện uỷ Thủ Đức (lúc bấy giờ gọi là phân khu Thủ Đức - Dĩ An) bị vỡ. Cả 2 giao ước với nhau: Ai bắt được liên lạc với tổ chức thì kéo người khác đi theo. Thời điểm đó, Ba Minh thất nghiệp, 1 vợ 1 con nheo nhóc. Ông bèn đăng ký đi học thư ký đánh máy, rồi bán nhà, đút tiền xin làm ở Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống.

Thời điểm đó, Ba Minh đang hoạt động dưới sự chỉ đạo của vợ chồng ông Chín Đức (Trần Quốc Hựu – nguyên Bí thư huyện uỷ Thủ Đức – Dĩ An), đầu mối liên lạc là cô em gái tên Nguyệt.

Đến năm 1960, thành tích đáng kể đầu tiên của Ba Minh là vẽ lại sơ đồ phòng thủ thành Cộng Hoà để chuyển cho ông Chín Đức. Với vai trò thư ký đánh máy về quân số (vào sổ lính gác, tên, số quân, lý lịch cá nhân, gia đình...), hàng ngày Ba Minh có cơ hội tiếp xúc, bắt quen rồi xin xỏ, bí quá thì... ăn cắp vũ khí (đạn, lựu đạn), đem về bảo em chuyển ra cho tổ chức.

Năm 1962, lính dù tiến hành đảo chính Diệm - Nhu, cuộc đảo chính được xem là "lời cảnh cáo cuối cùng" đối với chế độ Diệm. Sang năm 1963, ngay trong ngày anh em Diệm - Nhu bị ám sát tại cuộc đảo chính 1/11/1963, sau 3 giờ nằm dưới tầm pháo kích tấn công thành Cộng Hoà, khi thoát ra ngoài được, Ba Minh đã kết luận rằng: "Hoá ra, mình không biết sợ là gì".

Sau khi đã vào được Văn phòng BTTM, Ba Minh thường theo TTMT Nguyễn Hữu Có về Cần Thơ (ở Quân đoàn 2, vùng 4 chiến thuật) công tác. Nhưng khoảng thời gian yên ả đó không lâu. Sài Gòn lại tiếp tục biến loạn. Tướng Có lên chức, thuyên chuyển đến Pleiku. Thi thoảng nhớ tổ chức quá, khi tìm về mạn Cái Răng (Cần Thơ), Ba Minh trong bộ đồ hạ sỹ nhất cứ lang thang vào xóm chỉ để tìm xem "có ai trừng mắt nhìn mình không" mà bắt liên lạc. Vậy mà vẫn không thành.

Ngồi trên “vàng” mà ấm ức

Suốt một thời gian dài, Ba Minh cứ đi tìm tổ chức, tìm đồng đội như thế.



Thượng sỹ nhất Nguyễn Văn Minh đã mải miết đi tìm đôi mắt, cái đầu của tổ chức tình báo đủ tầm đánh giá được giá trị chiến lược của những tài liệu mà anh đang giữ, suốt mấy chục năm trời, đến cuối năm 1973 mới toại nguyện: Gặp được Hai Kim. Ảnh: Hà Trường.

Đến tận cuối năm 1965, sau cuộc chỉnh lý của nhóm tướng lĩnh trẻ lật Nguyễn Khánh, tướng Nguyễn Hữu Có quay về Sài Gòn, trở thành "nhân vật số 3" trong Chính phủ VNCH, chỉ sau Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân đội Sài Gòn. Nguyễn Văn Minh cũng có mặt trong nhóm hầu cận của tướng Có, lọt vào Bộ Tổng tham mưu, làm thư ký văn phòng lưu trữ hồ sơ.

Ngày 14/10/1965, khi tướng Cao Văn Viên được cử chức Tổng Tham mưu trưởng thay tướng Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Minh vẫn được giữ lại trong tổ thư ký, chính thức "nằm trên đống vàng" tài liệu - cách mà ông thường nói thế - suốt 10 năm liền sau đó.

Tuy công việc đã êm êm, song Ba Minh vẫn trăn trở và ấm ức mãi vì không tìm được người để móc nối và sử dụng nguồn tin. Dẫu tự nhận là “không học hành nhiều”, nhưng Ba Minh hiểu: không lấy được tin này ra là thiệt thòi cho cách mạng.

Lúc bấy giờ, quan niệm của Ba Minh về tình báo quân sự cũng chỉ đơn giản như chính cách ông được học về tình báo: ngày xưa, coi phim thấy tình báo Anh lấy được bản vẽ tí ti mà sau này nhờ nó, họ đã đánh sập tuần dương hạm lớn nhất của Đức. Rồi cả chuyện ba ông hay kể về người lính Cộng sản được bố trí đi theo Quốc dân đảng. Anh lính này được ông Mao Trạch Đông giao mỗi một việc, khi nào Tưởng Giới Thạch trở mặt thì cấp báo. Vậy là hoàn thành nhiệm vụ.

"Tôi sức yếu, chỉ nghĩ rằng mình đóng góp được gì cho cách mạng thì đóng góp. Những người trong phim hay trong truyện tôi đã xem, đã nghe, cả đời họ chỉ làm đúng một việc, nhưng miễn là thành công thì cũng đã là đóng góp rồi" - ông nghĩ vậy, và lý giải đơn giản vậy.

Và rồi cuối cùng, cả đời ông đã diễn ra đúng như cách ông đã chọn.

Gian nan tìm đồng đội

Năm 1967, việc liên lạc với huyện uỷ Thủ Đức được nối lại thông qua người em gái. Nhưng mối quan tâm của người phụ trách huyện uỷ chỉ dừng lại quanh những tin lặt vặt liên quan đến cấp huyện - điều mà "bói suốt ngày" mới thi thoảng kiếm được ở văn phòng cỡ BTTM. Nhưng chưa kịp chuyển tin gì thì Ba Minh phải vào viện vì bệnh - việc như cơm bữa hàng ngày.



Ba Minh nói rằng: Tình yêu nước, mong muốn cống hiến cho cách mạng lớn lên, được nuôi dưỡng trong ông bắt đầu từ những câu chuyện kể về Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Vì vậy mà suốt mấy chục năm trời nằm trong lòng địch, ông mong mỏi có 1 cơ hội để có thể cống hiến chút công "lấy sức ít mà đánh được địch nhiều". Ảnh: Hà Trường.

"Trong nhà tôi giờ vẫn còn giữ cái giấy tôi nằm viện 4 tháng. Còn ở ngoài Hà Nội vẫn còn cái giấy tôi nằm viện tới 5 tháng trời. Bệnh nặng, năm nào cũng vào viện mấy đợt, đóng góp của tôi với cách mạng cũng kém đi vì vậy", Ba Minh cười khi nhắc tới bệnh tật.

Nhưng đấy đúng là chuyện "tái ông thất mã". Vì sức khoẻ ốm mà ông vì giữ kín được mình, để đến phút cuối cùng mới tung tổng lực ra cho cách mạng nhiều hơn. "Nếu làm từ hồi đó, chắc tôi bị bể sớm rồi. Mà bể thì làm gì có cơ hội phục vụ được như sau này", ông lại cười sảng khoái.

Đến 1967, Ba Minh vào hẳn trong trại gia binh BTTM, có nhiều thời gian hơn với việc tiếp xúc tài liệu. Một năm sau, cán bộ phụ trách và huyện uỷ Thủ Đức vỡ, Ba Minh tạm thời mất liên lạc.

Không chịu ngồi yên, cùng lúc, thông qua người em gái cũng hoạt động mật, Ba Minh cứ đều đặn gửi thông tin ra ngoài cho nhiều lưới khác nhau. Chiến công đầu tiên mà Ba Minh thấy rõ ràng nhất là lần ông báo tin về một toán biệt kích mới được huấn luyện tại nước ngoài sắp được tung ra phá hoại hậu phương miền Bắc.

Về sau, bà chị dâu Sáu Chi (người luôn chủ động móc nối liên lạc cho chú em Ba Minh) thông báo lại: "Ngoài đó người ta biểu dương chị em mình quá trời luôn". Vì tin báo kịp thời này đã giúp miền Bắc đón lõng, bắt gọn toàn bộ nhóm biệt kích kia.

Tuy nhiên, đã làm tình báo thì lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn tinh thần chịu nguy nan. Một lần, trên đường chuyển tài liệu ra cứ, người giao liên của Ba Minh bị địch phục bắn chết, tài liệu bay tung toé ra đường.

Nhưng may mắn thay, dù tài liệu mà địch thu được còn nguyên chữ viết của ông, song do thông tin mà cấp huyện yêu cầu chỉ là tin tức phòng vệ thông thường, lấy đâu cũng được nên không bị mật vụ truy xét kỹ về nguồn.

Bình luận về sự việc này, Đại tá T.T nói: “Đó là một mất mát về con người, nhưng cũng là một điều may cho Ba Minh. Nếu tin tức đó quan trọng, địch tập trung truy xét là "lòi" ra ngay. Thông tin, tài liệu chính là điệp viên. Nếu mất Ba Minh lúc đó, về sau, cách mạng sẽ mất đi một nguồn tin có tính chiến lược đặc biệt quan trọng”. Sự việc đó xảy ra vào năm 1972.

Vốn là người thận trọng và kỹ tính, sau sự cố ấy, Ba Minh ráo riết tìm người liên lạc cấp cao hơn, bởi ông biết mình đang nằm ở chỗ nào. “Hồi đảo chính Diệm, tôi nằm 3 giờ dưới đạn pháo, khi chui lên mới biết là mình đâu có sợ gì. Tôi chỉ sợ là tài liệu quan trọng không được dùng đúng chỗ thôi”.

Và cuối cùng, đến cuối năm 1973, cái tên Hai Kim xuất hiện trong cuộc đời Ba Minh, đưa Ba Minh vào đúng vị trí lịch sử mà ông theo đuổi từ những ngày còn "học" làm tình báo: Chỉ cần có cơ hội, chỉ cần cung cấp được một thông tin có giá trị đã là mãn nguyện rồi.

Nhưng Ba Minh không chỉ cung cấp một thông tin. Ông đã báo về một "núi" thông tin, toàn loại tuyệt mật, chỉ trong vòng chưa đầy năm rưỡi.

Bắt đầu từ giờ phút gặp Hai Kim, các bí số H3, H4, T2... cũng lần lượt ra đời. Nhà tình báo không chịu ngồi yên ấy đã tìm được đôi mắt đủ sức đánh giá những tài liệu ông đang giữ sau gần 10 năm trời lặn lội.

Kỳ 4: Cuộc thử lửa cho tấm lưới vàng

Cập nhật lúc 10:15, Thứ Năm, 03/05/2007 (GMT+7)
,
(VietNamNet) - Tháng 4/2007. Người mang bí số H3 bí ẩn nay đôi mắt đã mờ đục. Một mắt loà, một mắt chỉ còn 30% thị lực. Ông nói, đó là kết quả những ngày đêm ông ngồi viết tài liệu đêm ngày để chuyển kịp về cho cách mạng.

"Tôi từng làm việc với rất nhiều lưới khác nhau. Nhưng quãng thời gian tôi làm việc cật lực nhất là với chị Hai Kim, từ đầu năm 1974 cho đến ngày giải phóng", đôi mắt Ba Minh dần tìm về thời kỳ hoàng kim với những người đồng đội...

Niềm tin cách mạng giữa giai đoạn thăng trầm

...Năm 1969, Trưởng trạm B.52, đồng chí Ba Phấn (tên thật là Nguyễn Văn Phấn) dẫn đoàn cán bộ xuống khu 9 (Đồng bằng sông Cửu Long), vượt qua 1 chặng đường dài gian khổ để đứng chân ở vùng giải phóng, xây dựng cụm tình báo ở vùng đất giàu truyền thống cách mạng này.

Thử thách rơi vào trạm B.52 đúng vào thời kỳ khốc liệt nhất: Mỹ - VNCH đang tiến hành bình định cấp tốc vùng căn cứ, địch tăng cường càn quét kết hợp đánh B.52. Vùng giải phóng thu hẹp, không còn dân. Việc đi lại giữa căn cứ với vùng tạm chiếm rất khó khăn vì phải qua vùng trắng.



Đại tá Nguyễn Văn Minh (Ba Minh), điệp viên mang bí số H3, người mà Frank Snepp, cựu chuyên gia phân tích chiến lược của CIA, từ năm 1977 đã tò mò đặt dấu hỏi về "con người vô danh" mà ông gọi là “điệp viên trong hàng ngũ thân cận của Tổng thống Thiệu”, trong cuốn Decent Interval (Cuộc tháo chạy tán loạn). Ảnh: Hà Trường.

Sau 2 năm đứng chân, trạm trưởng Ba Phấn về báo cáo lại với Trưởng phòng J22: "Tình hình chính trị quân sự khu 9 đang hé mở có triển vọng, nhưng khả năng tình báo còn mờ mịt. Tuy ác liệt nhưng tôi không sợ, không đáng kể đâu. Bất quá chết thì thôi. Nhưng đáng buồn là mình cứ chạy càn, đến gặp quân khu 9 làm phiền cấp trên đang trăm công ngàn việc mà không phục vụ gì được". Thiếu tướng Sáu Trí nhớ lại những day dứt của người trạm trưởng dưới quyền, nhưng cũng là đồng đội một thời vào sinh ra tử.

Sự day dứt của người lính tình báo khi đã bằng mọi cách vẫn không thể hoàn thành nhiệm vụ chính là điều mà người trong nghề dễ gặp và dễ chia sẻ với nhau nhất. Tình báo là bám vào dân, nguồn tin là ở dân, tài liệu cũng từ dân, điệp viên cũng từ dân mà ra. Nay, cơ sở quần chúng thì ở vùng tạm chiếm, còn trạm thì đóng ở chiến khu. Trong khi đó, đoàn của đồng chí Ba Phấn lúc bấy giờ chưa có được cơ sở hợp pháp. Vậy thì chỉ còn là 1 đơn vị vũ trang đúng nghĩa!!!

Trong khó khăn, mới thấy niềm tin cách mạng và nghĩa tình đồng đội. Vào thời gian đầu, cùng với việc xây dựng mạng lưới, trạm B.52 tạm thời dùng thông tin từ phòng tình báo J22 chuyển xuống để báo cáo với Tư lệnh khu 9, người mà về sau cái tên đã trở thành quen thuộc với nhân dân Việt Nam: Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bí danh Sáu Nam. Đồng thời, J22 tăng cường cho B.52 một cán bộ nữ hợp pháp, có tên Hai Kim.

Khi trạm B.52 đang thiếu cơ sở nằm sâu trong lòng địch, thì cơ hội đến. Bà Sáu Chi, một người trong mạng lưới lên Sài Gòn bắt liên lạc với 1 người cháu là đại uý không quân nhưng người này đã thiệt mạng. Bà Sáu Chi buồn lắm, nhất định không chịu về tay không. Nhân lúc qua thăm gia đình em chồng, biết được vị trí và nguyện vọng của Ba Minh, bà Sáu Chi giới thiệu ngay chú em mình với Cụm trưởng Ba Phấn.

Với bản năng của một người chỉ huy tình báo lâu năm đã kinh qua chiến trường, Cụm trưởng Ba Phấn (lúc đó đã là Cụm A33, đóng tại Cần Thơ) biết ngay rằng đây đã là 1 nguồn tài liệu quan trọng. Hai Kim được cắt cử lên đường vào Sài Gòn tiếp cận với Ba Minh. Lúc đó khoảng mùa mưa, chừng tháng 8-9/1973.

Thử thách đầu tiên

"Bả đến nhà đứa em gái tôi hôm 28 Tết âm lịch. Hôm đó đang có giỗ bên nhà chồng nó", Ba Minh và cô Nguyệt (em gái) nhớ lại. Khi tới, cô Hai Kim cầm theo 1 tấm ảnh của cháu Hoàng (con đầu lòng của Ba Minh) để làm tin.

"Khi chị Sáu Chi trở về, chị có dẫn thằng con lớn của Ba Minh là thằng Hoàng ra chiến khu, gửi cho A33 để được bảo đảm an toàn. Vì khi đó nó đang học lớp 12, có thể bị bắt lính. Lúc đến, trong vai là người đi mua vải, tôi đưa thẻ của thằng Hoàng ra. Cô Nguyệt tin ngay. Song cô chưa bắt chuyện ngay mà lấy nước, lấy báo cho tôi coi, với lý do nhà đông khách. Tôi biết lúc đó gia đình cổ vẫn quan sát tôi, tôi ngồi chờ cho đến phút cuối rồi hẹn mấy ngày sau sẽ gặp lại. Ngay hôm sau, cô Nguyệt báo lại với anh trai. Lúc đầu ảnh cho rằng, hoặc là thằng Hoàng đã bị bắt, hoặc hoặc vì lý do nào đó, nó đánh rơi thẻ mà thôi", cô Hai Kim nhớ lại.



Quân giải phóng chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân đội Sài Gòn. Nơi đây, H3 đã "ẩn" mình suốt 10 năm trời chờ đợi để góp sức mình cho cách mạng. Ảnh: Chụp lại tư liệu tại Dinh Thống Nhất.

Sự thận trọng đó vốn là bản tính của Ba Minh, cộng thêm được rèn giũa kỹ càng vì đang sống giữa trung tâm Bộ Chỉ huy Sài Gòn. Vì thế, mặc dù nghe Hai Kim kể rất rành rọt về chị dâu Sáu Chi, nhưng Ba Minh vẫn chỉ mới tạm nhận lời và tìm cách... thử thách “thủ trưởng”.

“Lần gặp đầu tiên, Ba Minh cứ ngồi nói, nói... liên tục, từ kiến thức quân sự, kiến thức về tổ chức bộ máy quân đội Sài Gòn, cho tới những con số chi tiết trong các bản báo cáo mà Ba Minh còn nhớ vanh vách. Sau đó, anh hỏi lại một câu thế này: “Không biết nãy giờ tôi nói, chị có lãnh hội được không?” Tôi biết ảnh nói câu đó là để thử thôi. Tôi liền bảo là để tôi báo cáo lại những gì anh nói nãy giờ. Thế rồi tôi tóm lại những ý chính, đồng thời nêu luôn tất cả các con số mà anh nêu, dù tôi đâu có ghi chép" - bà Hai Kim cười vui, kể lại.

Đến khi đó, Ba Minh mới yên tâm vào người cộng sản có đôi mắt mà mình đang cần. Khi đã đặt trọn vẹn niềm tin rồi thì mức độ "nhồi" tài liệu của Ba Minh tới giao thông viên đặc biệt Hai Kim thật... kinh hoàng. Từ lịch hẹn gặp 2 tháng/lần, Ba Minh chủ động rút xuống còn 1 tháng..., rồi cuối cùng là 5 ngày/lần gặp, mỗi lần là hàng chục trang tài liệu gốc. Đó là khoảng thời gian làm việc khủng khiếp nhất trong cuộc đời làm tình báo của Ba Minh.

Bắt đầu nhập lưới

Đại tá Ba Minh dù đến nay đã qua tuổi 70, trí nhớ kém nhiều, nhưng vẫn còn nhớ ngày đầu tiên đó: "Lúc đầu tôi cũng đâu có chép nguyên gốc nguyên bản cho bà Hai Kim. Tôi chỉ nói thôi, tôi cũng có viết nhưng mang tính tóm lược chứ không viết rõ ràng hết.

Văn hoá tôi kém nhưng lúc đầu tôi đọc báo thiếu nhi có sách hồng của ông Tố Hữu, mặt sau có mục ai? ở đâu? tại sao? thế nào? lúc nào? (5 yếu tố W khởi nguồn của truyền đạt tin tức - NV). Vì thế, một nguồn tin tôi đưa cũng có tổ chức, đơn vị nào, làm gì, ngày giờ, thực hiện ở đâu, tại sao lại cần thiết như vậy. Phải mất một vài tháng tôi mới bắt đầu chép thử chuyển cho bà Hai Kim".

Rồi từ tháng 2/1974, bí số H3 ra đời. Đó là Thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh, thư ký đánh máy tại văn phòng Bộ Tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng VNCH. Hai Kim mang bí số T2. Người em gái Ba Minh là Nguyễn Thị Nguyệt mang bí số H4. Một người em trai nữa của Ba Minh tên Nguyễn Văn Chí (sinh năm 1941) cũng tham gia nhưng không đặt bí số. Lưới điệp báo xoay quanh H3, theo tài liệu lưu trữ, được đặt là A3.

Người chỉ huy T2 nhớ lại, để chuyển tin cho một mình H3, có tới gần chục người sẵn sàng làm nhiệm vụ. Trước khi bắt đầu, họ có một lời tự thề với mình rằng: sẽ sẵn sàng im lặng tuyệt đối nếu lỡ bị bắt, bị tra tấn hay thậm chí bị giết, chỉ bởi vì một điều đơn giản, họ có nhiệm vụ đảm bảo an toàn tuyệt đối cho H3.

Và cả một lưới gồm rất nhiều người đang nằm ở chiến tuyến khác nhau, thậm chí chưa hề biết đến nhau, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyệt mật, đến giờ phút quân giải phóng cắm cờ lên Dinh Độc Lập và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn.
  1. Nguồn: http://tongthammuu.blogspot.com/2013/08/ten-iep-vien-cs-tai-bo-tong-tham-muu.html
  2. Mang theo hạt nhân đến Biển Đông,Cánh tay mặt của Trump tuyên bố SAN BẰNG Bắc Kinh

  3. https://youtu.be/OB5C2NiGmjw
    1. Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19/6/1971-19/6/1973 FULL

    2. https://youtu.be/qhjTbzUbq6M

    Phỏng vấn cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu full

    Cố TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu với câu nói hay đúng hơn là câu danh ngôn: "Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỷ những gì CS làm" thường được người dân nhắc lại & có lẽ sẽ được nhắc nhở mãi để mãi mãi không quên những sự gian xão, dối trá mà VC thường nói một đàng làm một nẻo..! Dù vì thế kẹt nên ông phải từ chức để mong một Miền Nam VN không bị sụp đổ & để tránh cho quân & dân MN khỏi phải đổ máu... Sau khi miền Nam VN bị VC cưỡng chiếm Ít, nhiều ông bị chống đối, nguyền rủa, bị căm phẩn... Nhưng nghe xong đoạn Video Clip chúng ta có thể hiễu được cố TT/VNCH Nguyễn Văn Thiệu để cảm thông, nghe & xem xong đoạn video... chúng ta mới thấy được tinh thần dân chủ đích thực của VNCH & của Cộng Đồng Người Việt đang đấu tranh ở hải ngoại... dù tất cả đã trở thành muộn màng (nhưng không phải là không có thể thay đổi nếu toàn dân Việt dẹp bỏ được nỗi sợ hải, không còn nghe, tin CS & cùng đứng lên...) bởi đất nước VN đã & đang nằm trong tay bọn bán nước (CSVN)...

    https://youtu.be/c_36BXxpEjw

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét